Trên mảnh đất người đời
Tác giả: Anatôli Ivanôp
Dịch giả: Thái Hà
Nhà xuất bản Văn Học - Năm 1985
1
Buổi ngày, khi mặt trời lạnh vừa sà xuống thấp thì sương mù
bắt đầu lan trên bãi cỏ bên kia sông trên những cánh đồng đã gặt ở phía xa,
dâng lên trên những khu đất trũng ngập nước. Đến chiều, những cụm sương thấm
lạnh, trở nên dầy đặc và mỗi lúc một nở to hơn. Cuối cùng, chúng lặng lẽ kết
lại với nhau. Màn hơi nước mờ đục ngày càng nặng hơn, trườn dần về phía đông,
thoạt tiên nó phủ kín bờ bên kia, sau đó che khuất nửa dòng sông Ôbi rộng lớn
nhưng đã yếu hẳn đi sau một mùa hè oi ả, rồi cứ thế lan dần sang ngôi làng bên
này, đe doạ phủ kín và đè lên ngôi làng bằng cái sức nặng không trọng lượng của
nó.
- Cậu nói phét, Samian ạ, - Paven Đêmiđôp thốt lên. Cũng như
mọi hôm, ông đang ngồi bên vách túp lều đất của mình, nhìn sang phía những cánh
đồng sẫm tối bên kia sông.
- Bố vừa nói gì đấy? - cậu bé Grinka, lên tám, con nuôi của
Đêmiđôp, bước vào sân hỏi. Hai bàn tay dính đầy mực của cậu ôm chiếc cặp học
trò đã sờn da. - Bố bảo ai nói phét cơ?
- À, bố nói gã sương mù! - Đêmiđôp hất hàm về phía sông Ôbi. - Hắn đúng là thằng bịp.
Grinka khịt một cái, đưa ngón tay lên quệt mũi ngẫm nghĩ.
- Nó bịp thế nào ạ?
- Thì nó đang dọa chúng ta đấy, con không thấy sao?
Cả hai lại im lặng một lúc. Grinka - nhỏ bé, đội mũ lưỡi
trai rộng thùng thình của bố, mặc chiếc áo vét dạ vừa mua ở cửa hàng bách hóa xã trước hôm khai trường. Đêmiđôp - người khô gầy, thô kệch, hai đầu gối khẳng
khiu nhô hẳn ra phía trước, dưới tấm áo bông dầy cũng thấy rõ đôi vai nhọn. Tuy
đã ngoài sáu mươi tuổi, đã về hưu nhưng vẫn không thể gọi ông là ông già được.
Mặt ông vẫn cạo, tuy rất họa hoằn, hôm nay ông cũng vừa cạo xong, và đôi má vẫn
còn đầy đặn, chưa hề bị nhăn nheo của ông bóng lên dưới ánh nắng nhạt lúc trời
chiều.
- Có, con có thấy, - Grinka nói, - Buổi chiều sương càng dầy
bao nhiêu, thì sáng hôm sau trời càng trong bấy nhiêu. Bố vẫn bảo thế.
- Đúng. Nhưng con còn thấy gì nữa không?
- Không, không thấy gì nữa.
- Lắng tai nghe thật kỹ xem. Thế nào, có thấy gì không?
Grinka nhíu hẳn trán lại, đứng im không nhúc nhích.
- Không thấy gì cả. Chỉ thấy tiếng chó đực sủa thôi.
- Đồ ngốc, đấy là tiếng chó cái. Của anh đội trưởng
Mitrôfan. Còn gì nữa không?
- Hình như có tiếng xe tải ở sân sau. Cả tiếng gì như tiếng
con gái la hét.
- Đấy là tiếng cô con gái bác Artamôn chăn ngựa cho nông
trang, tiếng cô Klapka.
- Cả tiếng những cô khác, vì có nhiều tiếng cười khúc khích. - Grinka cãi lại.
- Nhưng có cả tiếng cô Klapka. Trong số đó có cả tiếng cô
Klapka. Giờ là tiếng đàn phong cầm của anh lái máy kéo Lenka. Cái anh chàng
Lenka khốn khổ. Có cái đàn đắt tiền, bóng như gương, thế mà không biết chơi.
Nghe cứ như tiếng cưa gỗ ấy… Nhưng anh chàng cũng là tay khá, có mớ tóc trông
cũng bảnh.
Quả nhiên, chỉ một lát sau bắt đầu vẳng đến những âm thanh
rời rạc, sai điệu, nghe rất nhỏ vì khoảng cách quá xa, của chiếc phong cầm.
- Đấy, thấy chưa? Thế mà hắn ta lại đe doạ, - Đêmiđôp lại
hất đầu về phía bên kia sông, nơi sương mù đang lan đến.
- Hắn dọa cái gì ạ? - Grinka vẫn chưa hiểu. - Hắn dọa ai? Mà
làm sao hắn dọa được hả bố?
- Đồ ngốc! - Mắt Đêmiđôp ánh lên giận dữ. - Thôi đi vào nhà.
Có khoai tây luộc để phần con đấy. Cả hũ sữa trên bậu cửa sổ nữa… Bố còn ngồi
đây lúc nữa đã…
- Bố ơi, nhưng bố đừng đến cửa hàng cô Marka nhé, - Grinka
van nài bố giống như Nađegiơđa, người chị nuôi đã hai năm nay vào làm ở trại
quy hoạch rừng của cậu, vẫn thường van nài. Rồi cũng bắt chước chị, cậu nói
thêm: - Bố đừng uống cái thứ vốtka chết tiệt ấy nữa, bố nhé!
- Thôi, bước đi cho khuất mắt! - Đêmiđôp quát lên. - Đã bảo
là bố sẽ ngồi đây, không đi đâu cả.
Grinka bỏ vào trong nhà, và trong lúc ngồi ăn một mình, cậu
thầm nghĩ, như đã thành lệ, hễ khi nào cái “mắt sói” sáng lên (“mắt sói” là tên
lúc đầu bố cậu đặt ra, sau cả làng bắt chước dùng theo để gọi cái cửa sổ thấp
của nhà Maria Maksêeva, cứ tối tối lại sáng ánh đèn và mụ chủ nhà dùng ô cửa ấy
làm chỗ bán rượu vốtka “chẵn tiền” cho khách, nghĩa là bốn rúp một chai!), là
thế nào bố cậu cũng mò đến đó; những lúc say, bố cậu thường tỏ ra hiền lành, có
khi hiền hơn cả lúc tỉnh, ông thường mang về cho cậu có lúc thì những cái kẹo
hay bánh đa rẻ tiền, lúc thì một chai nước chanh cũng mua ở ô cửa đó. Và trong
lúc chất men chưa giã hẳn, bố cậu cứ đi vòng quanh căn buồng hẹp bảo rằng ông
uống thế là đủ rồi, và hứa với cậu, với Grinka, rằng ông sẽ thôi không uống
nữa, ông hay xoa đầu cậu, và có lần hình như còn khóc. Nhưng sợ Grinka nhìn
thấy nước mắt, nên ông cứ phải lắc đầu thật mạnh, rồi vừa lảo đảo đi hết góc
này sang góc kia, vừa lầu bầu trong cổ họng một câu hát kỳ lạ, khó hiểu:
Ta là ai? Ta chẳng là ai, ta chỉ là kẻ ấy…
Kẻ lạ lùng, kỳ quặc chính là ta.
Ông lầu bầu một lúc mấy câu như thế rồi thôi, lăn ra ngủ.
Nhưng dù sao Grinka cũng không muốn tối nào bố cậu cũng say.
Cậu vẫn thích bố cậu tỉnh táo hơn là say.
Vừa dọn bàn, Grinka vừa nghĩ: cậu có ông bố quả là kỳ lạ. Và
mấy câu hát kia đúng là ông tự hát về ông. Cách đây ba năm ông nhận cậu từ nhà
trẻ mồ côi ở Marsanikha về nuôi với một điều kiện kỳ quặc:
- Tên con là Vôpka à? Từ nay ta sẽ gọi con là Grinka!
- Cháu không muốn thế! - Grinka, mà lúc đó hãy còn là Vôpka
nói.
- Phải thế thôi. Nếu không thì không xong đâu, ta sẽ nhận
đứa khác, mặc dù con có vẻ là đứa bé kháu khỉnh và cũng ngang ngạnh ra trò đấy.
Rồi ông im lặng rít hết một điếu thuốc lá cuốn rõ dài, sau
đó dụi mẩu thuốc lá xuống đất, họ nói chuyện với nhau trong vườn của nhà trẻ,
rồi bắt đầu nói một tràng dài mà có đến một nửa những điều ông nói cậu chẳng
hiểu gì cả.
- Ta là người coi rừng, con ạ, nghĩa là ta canh giữ cây cối
ấy mà, ta trông không cho bất cứ loại thú nào được phá rừng. Cái chòi canh của
ta ở ngay trong rừng. Cây cối lúc nào cũng rì rào, rì rào… Con tưởng chúng rì
rào vì gió phải không? Ồ không đâu, con ạ. Đó là chúng chuyện trò với ta đấy.
Chúng kể cho ta nghe chúng có chuyện gì vui, hay chuyện gì buồn… Hoặc giả chúng
báo cho ta biết có kẻ nào vừa đi qua, kẻ đó là người tốt hay xấu. Dĩ nhiên, nếu
đó là người tốt thì xin mời, cứ việc đi tự nhiên. Nhưng nếu là người xấu thì,
anh bạn ạ, đừng có đùa, phải coi chừng! Rừng báo cáo lại với ta tất cả. Cây cối
ấy mà. Con biết không, chúng không chỉ là cây cối đâu, mà là người sống thật sự
đấy. Chỉ khi nào bị đẵn đi rồi, chúng mới là cây, là khúc gỗ chết, tóm lại
là… Ta sống trong túp lều ấy cùng với con gái ta tên là Nađegiơđa. Nó cũng là
con nuôi ta. Vì suốt đời ta sống một mình, chưa bao giờ có vợ cả. Tại sao ấy à?
Câu hỏi ấy có khi gần hết đời mới giải đáp được con ạ. Có thể là vì ngu ngốc…
Ừ, thế cũng được. Ta cứ suy nghĩ mãi, rồi cuối cùng cũng nghĩ ra chuyện đến
trại trẻ mồ côi nhận đứa con gái về nuôi. Sau chiến tranh có nhiều trẻ mồ côi
lắm… Nhiều hơn bây giờ. Thế là ta đến xem. Ta thích một cô bé, một cô bé thò lò
mũi. Mặt cũng đầy tàn nhang như con ấy. Không hiểu sao ta thích những đứa bé
mặt tàn nhang. Mỗi tội tên cô bé đó là Anna. Anka - Anka, ăn nhanh cho lớn mà
đi lấy chồng. Khi nói chuyện với cô bé lúc ấy như ta đang nói với con bây giờ
đây này, không hiểu sao ta bỗng nhớ đến những câu hát ngu ngốc ấy. Ta nghĩ,
mình nuôi cho nó lớn rồi nó đi lấy chồng, thế là mình lại ở một mình… Ta bảo cô
bé: bây giờ con sẽ là Nađegiơđa. Đối với con đó chỉ là cái tên, nhưng đối với
ta nó là cả ý nghĩa cuộc đời. Ta bảo với cô bé như thế. Cứ làm như khi mang cái
tên mới thì cô bé sẽ không lo đi kiếm chồng nữa không bằng mà sẽ ở lại mãi mãi
với ta. Hồi đó ta ngốc quá, phải không? Con nghĩ thế nào?
- Sao lại ngốc ạ? Không, bác nghĩ thế đúng lắm. Vì một khi
bác đã lấy cô ấy về làm con, thì cô ấy phải là con của bác!
- Đấy, ta biết ngay con là cậu bé ghê gớm lắm mà! Nhưng có
điều, người anh em ạ, trách nhiệm thì đã đành là trách nhiệm, nhưng là con
người thì vẫn phải sống theo tình người, cho ra con người. Mùa xuân thì nở hoa
sung sướng, cả mùa hè thì sinh sôi, rồi sau đó lại đến mùa đông gặt hái. Nghĩa
là sau đó phải để lại hạt giống của mình. Chỉ có ta là một mình cô độc - một
con người kỳ lạ. Phải, cô bé của ta là đứa con gái tốt, Nađegiơđa lớn lên là
một đứa con nết na hiền thảo. Có điều bây giờ nó hay bỏ đi Marsanikha quá - lúc
thì đến đó xem phim, lúc thì đi nhảy. Ở đó có một anh chàng, con trai của một
người kỹ sư trồng rừng, tên là Valentin. Chàng trai ấy, con biết không, cũng là
một tay tài ba, nhưng thế mới phải coi chừng… Tóm lại là con biết chuyện đó sẽ
đi đến kết thúc thế nào rồi chứ?
- Con gái họ bao giờ chả thế! - Grinka, lúc ấy hãy còn là
Vôpka, lại thốt ra một câu. - Nhưng cháu thì không bao giờ cháu bỏ bác đâu.
- A ha, vậy là con bằng lòng rồi phải không?
- Thì ở nhà trẻ mồ côi này có gì thích đâu. Nhưng cháu là
Vôpka, thì bác cứ để cháu mang tên ấy.
- Ồ không, không được. Dứt khoát là không thể như thế được,
con ạ.
- Sao lại không được ạ?
Người bố tương lai của cậu lúc đó lại im lặng và rít thêm
một điếu thuốc lá cuốn nữa.
- Con Nađegiơđa của ta sẽ đi lấy chồng, đó là dĩ nhiên rồi.
Nó sẽ lấy Valentin, hay một chàng nào đó… Ta đã nói với con là con bé lớn lên
trông khá lắm - xinh xẻo, khoẻ mạnh, đùi phốp pháp. Còn mắt của nó, con biết
không, Grinka - ôi cái tên Grinka mới hay làm sao - mắt của nó cứ sáng rực lên,
trông thấy phải nheo mắt lại, không thì chói. Nhưng biết làm sao - ông thở dài - ta đã làm tròn bổn phận, ta đã nuôi cho nó khôn lớn. bây giờ hãy để cho nó
làm bổn phận của nó. Phải làm sao trên trái đất này có nhiều người có đôi mắt
trong sáng như của nó. Nó ra đi, và ta sẽ lại có một mình. Một mình ư? Không
được. Nửa đêm tỉnh giấc ta bỗng nghe thấy tiếng gì kêu grin-grin-grin… Tiếng
gì vậy? Tiếng cửa kính bị gió đập chăng? Không, đó là tên của con trai ta. Ta
đi trong rừng và xung quay chỗ nào cũng nghe thấy grin-grin-grin. Ai thế nhỉ?
Hay là tiếng chim hót? Có lẽ đúng là chim hót thật. Nhưng chúng hót về ai?
Chúng hót về con trai ta…Vì thế, không thể nào giữ cái tên Vôpka được, con ạ.
…Grinka dọn bàn xong, lấy cái đĩa con úp lên miệng vò sữa mà
cậu vừa rót ra uống. Ngoài cửa sổ màn tối đã dầy đặc từ lâu, tựa như có người nào
lấy giấy đen bịt cửa kính lại. Bố cậu vẫn chưa thấy về.
Thở dài một tiếng, Grinka thu dọn chỗ ngủ, ra tắt đèn rồi
chui vào trong chăn, tiếp tục nhớ lại cái quá khứ chưa xa của cậu. khi ấy, mặc
dù rất tiếc rẻ phải bỏ cái tên của mình, nhưng không hiểu sao cậu thấy mến
người đàn ông đứng tuổi này, và mấy lần nghe ông ta nói hai tiếng “con ơi” dịu
dàng, cậu thấy ngỡ ngàng và cảm động ứa nước mắt.
- Thế những con thỏ con… bác có che chở chúng không? - Lúc
ấy, cậu cúi mái đầu cắt ngắn xuống để giấu ánh mắt và hỏi.
- Thỏ con ấy à? Tất nhiên ta phải che chở chứ. Vì chúng là
những con vật hiền lành và yếu đuối nhất mà. Chúng chơi đùa nhảy nhót xung
quanh lều của ta, như bầy chim sẻ nhảy nhót xung quanh đồng cỏ xuân ấy.
- Vậy thì được, cháu đồng ý.
Mặc dù cậu bé đã đồng ý. Nhưng sau đó còn đẻ ra nhiều chuyện
phiền phức, người ta chùng chình mãi không giao cậu cho người này nuôi.
- Nhưng tuổi đồng chí hơi quá nhiều, đồng chí Đêmiđôp ạ. - ông giám đốc trại nói.
- Tuổi tôi thì sao? Tôi còn khỏe lắm, tôi còn chạy trong
rừng nhanh như thỏ hai chục năm nữa ấy chứ? - Người bố nuôi của cậu lúc ấy
chứng minh với ông ta như thế - Mà giả dụ có chuyện gì, thì đứa con gái
Nađegiơđa của tôi sẽ nuôi dạy thằng bé. Tôi sẽ dẫn nó đến đây để ông xem nó là
đứa con gái như thế nào?
Rồi ông dẫn con gái đến. Đó là cô gái cao lớn, khỏe mạnh,
cương quyết và quả thực có đôi mắt hiền hậu và trong sáng một cách kỳ lạ, cô ta
cũng chứng minh điều gì đó với ông giám đốc, sau đó cô còn phải nhiều lần chạy
đến mấy cơ quan trong tỉnh để xin quyết định. Và cuối cùng xin được.
Grinka sống trong túp lều coi rừng với bố và chị Nađegiơđa
được vẻn vẹn có hai năm. Sống ở đó thì tuyệt nhất rồi, chả phải bàn. Có điều
những con thỏ không còn đùa nghịch xung quanh lều, và nói chung chúng không dám
đến gần ngôi nhà của cậu - có lẽ chúng sợ bầy chó, nhưng được cái ngay cạnh nhà
có dòng suối nhỏ nước rất trong, nơi cậu cùng người chị thường câu được những
con cá bống rất to, còn hai bên bờ sông thì tha hồ hái quả mâm xôi và phúc bồn
tử.
Nađegiơđa là cô gái hoạt bát nhanh nhẹn, lúc nào cũng cười,
cả túp nhà nhỏ và cánh rừng lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười ròn tan trong
trẻo của cô. Lúc nào cô cười mắt cô lại càng rực rỡ hơn. Nhưng thường cứ tối
đến thì ánh mắt cô lại thôi cười. Lúc đầu Grinka không hiểu vì sao, nhưng sau
cậu đoán ra - Nađegiơđa lo lắng cho bố.
Và cũng phải vì, cứ tối đến là bố cậu lại đi rất lâu không
thấy về, mà lúc về thường là say. Nhưng không bao giờ ông quát tháo hay chửi
rủa om sòm, còn hôm nào say quá thì ông đi nằm ngay. Cũng có hôm ông cứ đi đi
lại lại trong gian nhà bếp rộng rãi và i ỉ hát trong họng cái bài quen thuộc
cho đến tận sáng.
Một hôm Grinka nghe thấy Nađegiơđa vừa mếu máo vừa nói với
bố:
- Bố đừng uống cái rượu vốtka chết tiệt ấy nữa. Bố thôi uống
đi. Con trai của bố bây giờ hãy còn nhỏ, bố còn phải gây dựng cho nó khôn lớn
thành người.
- Chúng ta sẽ nuôi nó khôn lớn, Nađegiơđa, nhất định rồi… Bố
uống, nhưng bố không để mất trí khôn đâu.
- Bố nói thế. Mùa đông năm ngoái bố chả suýt chết cóng là
gì. Giá con không tìm thấy bố ở đống tuyết thì bố đã chết cóng rồi.
- Ừ, quả có thế, con gái của bố ạ. Bố dại dột quá. Hôm ấy
thằng Maksêep làm bố điên tiết, thằng chồng của Maria ấy, cầu trời cho nó chết
quách đi cho rồi. Nhưng chỉ có mỗi lần ấy thôi. Còn bố bao giờ cũng uống có
chừng mực.
- Nhưng sao bố cứ phải uống cái thứ nước chết tiệt ấy.
- Tại bố quen mất rồi… Đời bố khổ quá, đáng ra không nên
sống nữa, nhưng bố vẫn phải sống.
- Bố nói đến tay Maksêep ấy không biết đến lần thứ mấy rồi.
Giữa bố với tay ấy có chuyện gì vậy? Sao bố không giải quyết cho xong đi?
Và lập tức Grinka cảm thấy bố cậu bỗng nhiên hầm hầm nổi
giận, điều chưa bao giờ thấy ở ông cả.
- Thôi câm ngay! Sao mi dám tra khảo ta? Trí óc non choẹt
biết gì mà nói vào…
Nađegiơđa oà lên khóc nức nở làm bố cậu phải dịu ngay và bắt
đầu xin lỗi:
- Con gái của bố… Bố biết là bố dại dột… Bố sẽ ghìm mình, sẽ
bỏ rượu. Hơn nữa bố cũng sắp về hưu, thằng Grinka cũng sắp đến tuổi đi học rồi.
Phải, chúng ta sẽ chuyển về ở Đubrôvinô, sẽ mua một túp nhà ở đó. Và bố sẽ thôi
không uống nữa. Đúng là uống rượu có gì vui thú đâu!
Và thế là họ đã chuyển về làng sống được hơn một năm.
Nađegiơđa đã đi lấy chồng, lấy anh chàng Valentin của mình, bố bây giờ thôi
không làm việc nữa mà sống bằng tiền hưu. Nhưng rượu rút cuộc ông vẫn không bỏ.
Mắt Grinka díp lại, giấc ngủ bắt đầu làm nhoà ý nghĩ của
cậu. Trong lúc mơ màng cậu lại nghĩ rằng bố cậu là con người kỳ quặc khó hiểu.
Sương mù thì ông gọi là Samian, mưa thì gọi là Mumianchê, bão tuyết là Akulia,
còn ngày ảm đạm thì gọi là MitroFan. “Sương mù - Saminan thì dễ hiểu thôi, vì
nghe cũng hơi giống nhau. Mưa - Mumianchê, cũng bắt đầu cùng một chữ cái. Nhưng
tại sao bão tuyết lại là Akulina? Hay trời giá buốt là Filaret? A ha, hình như
ông đang về…”
Grinka không sao tỉnh dậy được. Dường như từ nơi nào trong
thế giới xa xôi và huyền bí, vẳng đến tai Grinka câu hát quen thuộc mà riêng
cậu mới phân biệt được:
Ta là ai? Ta chẳng là ai. Ta chỉ là… kẻ ấy.
2
Suốt mấy ngày nay hết mưa lại đến tuyết, đất nhão ra, đi
đường phải khó khăn lắm mới nhấc được chân khỏi lớp bùn dính nhem nhép. Bầu
trời xám xịt, thấp và ẩm xì, không gian như hẹp lại, những túp nhà sũng nước có
vẻ như díu lại với nhau và mỗi lúc một sụt xuống lớp đất đã trở nên nhão nhợt.
Lại còn có cảm giác: bầu trời phía trên ngôi làng không bao giờ còn sáng ra
được, tựa hồ như mặt trời sẽ không bao giờ mọc trên đó nữa.
Cái ngày ngắn ngủi và ảm đạm ấy trông chẳng khác gì một buổi
chiều u ám kéo dài.
Paven Đêmiđôp, tay cầm chiếc gậy lớn, bước ra ngoài hàng rào
khi ngoài đường trời đã tối đen như mực. Đây đó thấp thoáng vài ô cửa sổ sáng
mờ, hắt ra con đường trơn ướt lầy lội những chấm sáng màu vàng, khiến lớp bùn
trông bóng nhẫy. Trước mặt ngôi nhà đối diện có nhiều cây to rậm rạp, ánh sáng
từ những ô cửa của ngôi nhà này dường như bị vướng những cành cây trụi lá,
không hắt ra được tới ngoài đường.
Như mọi lần, ô cửa “mắt sói” vẫn le lói sáng ở cuối con
đường. Đêmiđôp bước chậm lại, thở dài một tiếng, rồi tiến về phía ánh sáng đỏ
nhờ của nó.
Chiếc cửa sổ, mà qua một ô kính nhỏ xíu vừa đủ để Maria
Maksêeva thò tay nhận tiền của khách đêm và đưa ra cho họ những chai rượu, được
che kín bởi một chiếc rèm. Đêmiđôp lấy gậy gõ gõ vào cửa kính. Sau tấm rèm che
màu hồng có một bóng đen lay động sau đó tấm rèm được kéo sang một bên, và
Đêmiđôp nhìn thấy sau ô cửa không phải Maria, mà là bộ mặt lông lá, bóng nhẫy
những mỡ trông rất đáng ghét của tên Maksêep, chồng mụ.
- Bao nhiêu? - Maksêep mở cánh cửa con ra, thờ ơ hỏi, hắn
chưa nhận ra ngay Đêmiđôp.
- Một chai cũng đủ rồi… Vì do bàn tay của mày đưa.
Cặp lông mày hung hung của Maksêep hơi cau lại, hắn tì hẳn
trán vào cửa kính, như muốn kiểm tra tra xem có phải hắn nghe nhầm hay không,
xem ở ngoài cửa sổ có đúng là con người có giọng nói ấy hay không.
- Đưa tiền đây!
Khi hắn nói, hai chiếc răng giả bằng thép của hắn hơi ánh lên
dưới ánh đèn.
Sau khi thò tay đưa trả lại đầy đủ tiền thừa của tờ năm rúp,
- Đêmiđôp có lẽ là người duy nhất được vợ chồng Maksêep bán rượu vốtka theo
đúng giá của nó, - Maksêep định đóng cửa lại, nhưng Đêmiđôp đã thọc cái đầu gậy
dính đầy bùn vào ô cửa.
- Mày còn muốn gì nữa?
- Rượu không có thuốc độc đấy chứ? Vì có lần mày đã dọa tao.
- Cứ yên tâm mà nốc, không ngoẻo đâu mà sợ.
- Thế Maria đi đâu?
- Thôi xéo đi! Kẻo dân say rượu kéo đến bây giờ đấy! Tao đã
bảo mày rút gậy ra đi!
- Tao hỏi vợ mày đâu?
- Nó chạy đi gặp mày đấy. Thế mà mày còn đứng đây…- Trong
giọng nói của Maksêep có pha chất xỏ xiên đểu cáng. - Hay mày muốn tao đi gọi
công an?
- Việc đó thì con vợ mày sẽ tự làm, Maksêep ạ, rồi có ngày
tao sẽ lấy giầy dẫm nát mày ở chỗ nào đó, như giẫm nát con gián vậy.
Chòm ria mép của Maksêev run lên vì tức giận. Nhưng nỗi tức
giận của hắn chỉ là nỗi tức giận bất lực, chính hắn cũng cảm thấy như vậy. Và
hắn im bặt không nói gì, mặt mỗi lúc một đỏ dừ.
- Tao sẽ giẫm nát và nghiền vụn mày ra, cho xác mày không
còn một tí gì trên mảnh đất này nữa.
Maksêep vẫn đứng im không nhúc nhích, hai tay buông thõng
như hai sợi dây. Mặt hắn lúc này đã chuyển sang tái nhợt, tựa như có cái bơm
nào đang bắt đầu hút máu ở mặt hắn ra. Còn Đêmiđôp thì hiểu rõ tâm trạng lo sợ của
Maksêep, nên tiếp tục nói một cách tàn nhẫn:
- Công an đối với tao là cái gì? Tao đã sống gần hết đời
chuẩn bị xuống lỗ rồi. Nhưng trước khi chết tao phải tiễn mày sang thế giới bên
kia đã. Tao chắc mày cũng phải cảm thấy cái đầu mày càng ngày càng kề gần máy
chém chứ, đúng thế không?
Maksêep chỉ nhếch mép cười nhạt.
- Nói láo, mày phải cảm thấy. Tất cả mọi sinh vật đều cảm
thấy điều đó. Cả đến con gà mái, khi bị người ta thò tay vào chuồng bắt để làm
thịt, cũng cảm thấy điều đó.
- Đừng có doạ. Tao sợ mày rồi mà!
- Sợ là phải. Mày cứ sợ đi. - tựa như không nghe thấy lời
của Maksêep, Đêmiđôp vẫn tiếp tục nói, vừa nói vừa mở cánh cửa nhỏ cho rộng
thêm chút nữa. - Lẽ ra tao đã làm chuyện ấy lâu rồi, nhưng tao muốn chờ khi nào
con cái mày lớn lên. Tao không đang tâm bắt chúng phải mồ côi từ bé. Nhưng bây
giờ thì sao - cả hai đứa con của mày đều đã lớn và lấy vợ lấy chồng ở thành
phố, nghe nói chúng đã sống tự lập được rồi… Bây giờ cho hàng trăm công an đên
tìm tao tao cũng cóc sợ. Nhà tù đối với tao bây giờ cũng đếch cần, vì tao già
rồi. Cho nên họ sẽ không thể tìm thấy tao còn sống được. Thằng Grinka nhà tao
thì đã có con Nađegiơđa đem về nuôi.
Nói đoạn Đêmiđôp rút gậy ra khỏi ô cửa sổ, rồi ghé sát mặt
vào đó nói với Maksêep như người ta nói những điều tốt đẹp với người bạn thân:
- Tất nhiên, mày sử dụng cái đời mày không lấy gì làm thành
công lắm đâu, Maksêep ạ.
Maksêep đóng sập cửa, kéo soạt tấm rèm lại. Nhưng cứ nhìn
cái bóng đen, Đêmiđôp thấy hắn vẫn đứng im không nhúc nhích cạnh cửa sổ. Nhếch
mép cười khẩy, Đêmiđôp lăn lăn chai rượu nặng lạnh buốt trong lòng tay, rồi
thốt nhiên giơ lên ném bốp vào bức tường gỗ của ngôi nhà. Chai rượu đập vào
tường vỡ tan, nhưng không hiểu sao những mảnh vụn văng xuống đất không một
tiếng động. Cái bóng đen sau bức màn cửa giật mình, tựa như chai rượu không
phải rơi vào tường, mà rơi vào chính Maksêep, và ánh đèn sau ô cửa vụt tắt.
Ban nãy, lúc Đêmiđôp trên đường đến nhà Maksêep, trời lắc
rắc mấy hạt mưa ảm đạm, tựa như bầu trời đã cạn, giỏ xuống những giọt nước cuối
cùng của nó. Và quả thực lúc này mưa thôi không rơi xuống nữa, chỉ còn những
cơn gió nặng và ẩm thổi, không đủ sức làm khô các mái nhà, những thân cây trần
trụi ướt sũng, cùng tấm áo vét dạ của Đêmiđôp.
Đêmiđôp không về nhà, mà cứ theo cái ngõ hẹp đi về hướng khác,
chẳng rõ để làm gì. Cách đây nửa tiếng đồng hồ đúng là ông thèm uống kinh
khủng, nhưng bây giờ tự nhiên cảm giác thèm rượu biến đi đâu mất. Bao nhiêu năm
sống trong rừng đã luyện cho tai ông thêm thính, mắt ông có thể nhìn rất tinh
trong bóng tối. Và lúc này ông nghe thấy có tiếng chân người đang giẫm lép nhép
trong bùn đi ngược về phía ông. Ông ngẩng đầu lên và nhận ra ngay đó là Maria
Maksêeva.
Maria thì có thể không nhận ra ông, mà cũng có thể không
muốn nhận ra - cứ cắm đầu đi thẳng. Ông cất tiếng gọi mụ ta bằng cái tên mà hồi
trẻ ông thường gọi và bây giờ thỉnh thoảng ông vẫn còn gọi:
- Marka!
Mụ ta ngoái đầu lại, rồi lại tiếp tục đi nhanh hơn, nhưng đi
được vài bước thì dừng lại:
- Sao, anh muốn gì?
- Tôi muốn… - Đêmiđôp vừa nói vừa tiến lại gần mụ - Tôi có
làm gì cô đâu?
- Anh có vẻ hãy còn tỉnh lắm nhỉ. - Đôi mắt Maria hơi ánh
lên trong bóng tối, Đêmiđôp biết rằng, cũng như mọi khi, mụ ta nhìn ông với vẻ
lạnh lùng và căm thù. - Không biết bao giờ rượu vôtka mới thiêu cháy anh đi?
- Chờ khi nào tôi giẫm nát thằng Maksêep chồng cô đã.
- Đồ ác thú, anh đúng là ác thú! Anh ấy đã làm gì cản đường
anh? Sao lúc nào anh cũng theo đuổi anh ấy thế?… Anh ấy có lỗi gì với anh? Cứ
cho là tôi có lỗi cũng được, vì tôi đã chọn anh ấy chứ không chọn anh. Nhưng
cũng may là tôi không lấy anh. Vì anh như con ma rừng, lúc nào cũng say khướt.
Anh hành hạ tôi như thế là đủ lắm rồi!… - Nói đoạn, Maria oà lên khóc.
- Cô nói dối. - Đêmiđôp khẽ thở dài. - Tất cả những gì cô
nói đều là dối trá hết!
- Tôi đã van xin anh hết cách rồi, là anh để chúng tôi được
sống yên ổn. Tôi có gia đình, con cái… Hồi đó tôi biết làm thế nào khác được…
một khi tôi yêu anh ấy, chứ không yêu anh.
- Nói dối. - Đêmiđôp nhắc lại. - Nếu trước chiến tranh tôi
không bị ngồi tù thì cô đã lấy tôi rồi.
- Không đời nào! - mụ đàn bà kêu lên.
- Cô đúng là kẻ ngoắt ngoéo, - Đêmiđôp nói giọng có vẻ hơi
buồn. - Ừ, có thể là cô không lấy tôi thật. Nhưng đối với tên Maksêep, thì nếu
muốn, ngay bây giờ cô cũng có thể bỏ hắn ta được cơ mà! Nhưng không. Hắn đã lôi
cô vào những việc bán hàng bẩn thỉu. Cô như con ruồi sa mạng nhện rồi… Bây giờ
cô sợ bị tù tội. Cái khăn quàng trên đầu cô kia cũng là đồ ăn cắp.
- Đừng có đụng vào tôi! - Maria bước lùi lại hất cánh tay
Đêmiđôp đang chỉ vào mặt mụ ra, như thể sợ ông giật mất cái khăn trên đầu mụ.
- Hắn bắt cô đêm đêm phải đứng bán rượu. Chỉ có tôi là các
người phải bán đúng giá thôi. Thế bao nhiêu tiền hắn giấu vào đâu?
- Sao tôi căm thù anh thế, đồ đỉa đói! - Maria vừa rít lên
vừa bước lùi lại, như chực nhảy tránh sang một bên.
- Cả điều đó cô cũng nói dối, - ông nói hơi có vẻ trách móc.
Maria úp mặt vào hai đầu khăn khóc nức lên. Ông kiên nhẫn
chờ mụ ta khóc hết.
- Không, đó là sự thật. - Mụ ta vừa chùi nước mắt vừa nói, -
Quả thực tôi bắt đầu căm thù anh từ cái hôm ở trong rừng… anh lấy dây súng quất
tôi thâm tím mình mẩy… Cho đến chết tôi sẽ thù anh về chuyện đó.
- Cô đừng nhầm, cô là người đàn bà ngu ngốc - Đêmiđôp nói.
- Hừ, còn anh thì tốt đẹp, xem cái mặt kìa. Sau khi anh nói
ra những lời đó tôi càng thấy tởm anh thêm!
Nói rồi mụ ta thoăn thoắt bước đi, đôi ủng cao su làm bùn
bắn tung toé. Đêmiđôp chống gậy đứng nhìn theo, như chờ mụ ta quay lại.
Và mụ ta quay lại thật. Lúc đầu mụ ta đứng lại, sau đó quay
ngoắt người, chạy vội đến chỗ Đêmiđôp.
- Anh bảo tôi là con đàn bà ngu ngốc phải không?
- Phải.
- Nhưng tại sao?
- Vì bây giờ cô không phải là đàn bà, mà cũng chẳng phải con
người. Mà lẽ ra cô có thể là con người.
Ô cửa sổ trong ngôi nhà gần đó bỗng bật sáng, ánh sáng từ
trong nhà hắt ra chiếu thẳng vào mặt Đêmiđôp, còn Maria thì vẫn bị khuất trong
bóng tối. Nhưng Đêmiđôp vẫn nhìn thấy khuôn mặt của mụ ta quay về phía ông,
khuôn mặt đúng là lạnh lùng và căm thù.
Nhưng dù sao khuôn mặt của Maria vẫn xinh đẹp. Mụ trẻ hơn
Đêmiđôp mười bốn tuổi, năm nay mụ gần năm mươi, nhưng thời gian hầu như không
có ảnh hưởng đến nhan sắc của mụ. Vẫn đôi má mịn màng lúc nào cũng ửng hồng
(Và đó không phải vì gió quất - Paven nhận xét), vẫn đôi môi tươi tắn mà xưa
kia mụ đã từng hôn ông một cách nồng nàn, điên dại, vẫn mái tóc dầy đen nhánh,
chưa hề có sợi bạc. Chỉ có hai bên khoé mắt bắt đầu xuất hiện đôi ba nếp nhăn,
nhưng cũng chỉ hơi mờ mờ.
- Anh hãy để tôi và Maksêep được yên, Paven! - bỗng nhiên mụ
chuyển sang giọng van xin, - Chúng ta đã già cả rồi không thể bắt đầu cuộc sống
lại từ đầu được nữa… Anh hãy đi nơi khác, hoặc tôi và Maksêep sẽ đi, nhưng xin
anh đừng đi theo chúng tôi, anh hãy cho chúng tôi được sống yên ổn nốt chút
tuổi già, anh đừng theo đuổi nữa. Anh đã đốt kho thóc của nông trang, bị ngồi
tù, anh đã tự làm đời anh tan nát. Chứ Maksêep có lỗi gì trong chuyện đó?
- Mi? - ông kêu lên một tiếng rồi thở hổn hển. - Nghĩa là mi
bảo Maksêep không có lỗi gì trong chuyện ấy? Hắn không có lỗi gì? Thế nào, có
đúng thế không, mi trả lời đi?
Ông bóp chặt vai mụ lắc mạnh
- Trời ơi, anh làm gì thế?! Tôi kêu lên bây giờ đây này,
Paven!
Ông run lên, hất văng mụ ra, suýt làm mụ ngã bắn xuống bùn,
rồi hấp tấp bỏ đi, gần như chạy…
3
Những con sóng đen vỗ mạnh vào mạn thuyền. Đêmiđôp cứ nghiến
răng chèo, bất chấp tiếng mái chèo kêu răng rắc như sắp gẫy. Trong bóng tối đen
như mực, không nhìn rõ hòn đảo nhỏ trên sông, nhưng Đêmiđôp linh cảm thấy ông
đang bơi đúng hướng và mũi thuyền sắp sửa chạm vào chỗ đá sỏi.
Sau đó, ông ngồi lặng trong hốc đất khuất vắng, rít hết điếu
thuốc rẻ tiền này đến điếu khác, nghe tiếng hút buồn thảm trong những bụi cây
trụi lá trên bờ đảo, tiếng nước sông Ôbi mùa xuân đánh vào chân.
Đối diện với hòn đảo, nằm dọc theo bờ sông là làng
Đubrôvinô, lúc này có thể nhận ra qua những ánh đèn thưa thớt. Đêmiđôp đưa mắt
tìm trong số những ánh đèn đó cái ô cửa “mắt sói”, giờ đây lại bắt đầu cháy
sáng.
“Anh đốt kho thóc của nông trang chứ Maksêep có lỗi gì?”.
Những lời đó văng vẳng bên tai Đêmiđôp từ lúc ông chèo thuyền tiến gần đến hòn
đảo, đến lúc này vẫn chưa thôi.
“Tội gì à? - Đêmiđôp nhếch môi cười nhạt. - Chuyện đó có lẽ
phải cắt nghĩa cho mi lần nữa. Nhưng cắt nghĩa cái gì, chẳng cần cắt nghĩa thì
mi cũng đã hiểu rõ cả rồi…”
Sau đó Đêmiđôp lại nghĩ đến chuyện nhiều người gọi ông,
Đêmiđôp, là con người kỳ quặc. Kể ra thì cả cuộc đời này nghĩ cũng kỳ quặc
thật. Trái đất rộng là thế, trên đó có biết bao nhiêu chỗ. Vậy mà có khi chỉ
hai người sống với nhau vẫn thấy chật. Nhưng lại không có cách nào rời nhau ra
được. Con người ta đúng là kỳ quặc… Trái đất này có biết bao sinh vật, nhưng
không có sinh vật nào như con người, vì chỉ có con người là có lý trí, có ý
thức. Nhưng nếu vậy, thì cứ việc sống, đừng cản trở người khác, trên trái đất
này thiếu gì chỗ tốt, cứ việc tìm lấy chỗ của mình, việc gì phải đi tranh giành
của người khác. Nhưng sự đời lại không thể… và lại nảy ra vấn đề là nếu xét về
mặt khác… Thôi thì cứ cho rằng có kẻ nào đó có làm điều ác đối với anh. Tất
nhiên là vì hắn ít trí khôn. Vậy thì dù cho điều ác đó có lớn như thế nào chăng
nữa, anh cũng hãy rộng lượng mà tha thứ cho hắn. Vì dù sao anh vẫn là con
người. Thế nhưng ông, Paven Đêmiđôp lại không thể nào tha thứ được. Kể ra giá
mọi người hiểu cho rằng ông không có lỗi gì đối với bản thân, đối với cuộc
sống, đối với mọi người, thì có thể ông sẽ tha thứ, sẽ bỏ được rượu, sẽ sẵn
sàng làm tất cả. Nhưng mọi người lại không hiểu, không tin… Nhưng đó lại vẫn
chỉ là mới xét có một mặt. Còn mặt khác, - lại chẳng có ai để hiểu, để tha thứ.
Ở đây, ở Đubrôvinô này, chẳng ai hay biết gì về số phận ông, trừ có Maksêep và
vợ hắn. Người ta chỉ biết ông là người coi rừng và một kẻ say rượu, và cùng lắm
chỉ đoán là giữa ông và vợ chồng Maksêep có điều gì bất hòa. Nghĩa là, bây giờ
ông đã về hưu, ở đó, ở Ênitxây, vùng Kraxnôirkơ, người ta biết ông. Nhưng ở đó,
ở làng Kômmôgôrôvô cũ, con người cũng đã thay đổi - người thì bỏ đi nơi khác,
người thì từ nơi khác đến, nhiều người thậm chí đã chết vì kể từ cái ngày mà…
đến nay cũng đã hơn ba chục năm. Ở đó còn ai nhớ đến ông, đến Paven Đêmiđôp
nữa? Ông muốn kêu to với mọi người: mọi người ơi, tôi không có lỗi! Nhưng kêu
với ai và để làm gì? Cứ cho rằng ông có thể kêu lên như thế cho cả thế giới này
biết. Thì sẽ ra sao? Thì có khi mọi người sẽ tròn mắt nhìn ông kinh ngạc, - hắn
ta điên hay sao mà gào lên như vậy? Mà đúng thế thật… Tóm lại là nếu cứ suy
ngẫm như thế thì có thể tha thứ cho hắn ta, tha thứ cho tên Maksêev được chăng?
Nhưng mình lại không tha thứ được, mình mang nỗi hận trong người, như con gà
mang trứng mà không sao đẻ được. Mình đang tự đầu độc cả cuộc đời mình lẫn cuộc
đời hắn.
Paven Đêmiđôp cứ nghĩ ngợi như vậy mà cảm thấy hình như ông
không còn là ông mới vừa hôm qua nữa, tựa như trong con người ông xảy ra điều
gì khó hiểu, có một lòng tốt nào đó, không cần thiết cho ông, và nói chung là
cái lòng tốt phản bội, đang len lỏi vào tim ông. Thằng Grinka lớn lên chắc sẽ
không tán thành cái kiểu tốt ấy của ông.
Những ánh đèn trên bờ sông càng ngày càng thưa dần, rồi lần
lượt tắt đi. Riêng cái “mắt sói” là vẫn cứ sáng, chọc thủng màn đen bằng thứ
ánh sáng đỏ nhờ khó chịu. Đêmiđôp nhìn ánh đèn ấy, và trong lồng ngực ông,
trong đầu ông - chỗ nào trong cơ thể ông máu cũng như sôi lên: “Ta sẽ không tha
thứ, không… Không thể tha thứ được!”
Ông nhắm mắt lại, ngả người ra phía sau, đập gáy vào cái bờ
đất. Ông nhắm thật chặt, chặt đến đau buốt cả con ngươi, nhưng vẫn nhìn thấy rõ
cái “mắt sói”: nó vẫn sáng và sáng mãi…
4
Đoạn đầu cuộc đời của Đêmiđôp trôi qua không sướng cũng không khổ. Anh sinh ra và lớn lên trên bờ sông Ênitxây, con sông tuy ít cá, nhưng được cái đẹp không thể nào tả xiết. Bố anh hi sinh khi đang là du kích - ông ở trong đội du kích của Kalanđarasvin thần thoại. Mẹ anh là người phụ nữ nhỏ nhắn rụt rè, ít nói - không hiểu sao lúc nào bà cũng giấu đôi tay sần sùi thô kệch sau cái vạt áo trước, như xấu hổ không dám giơ chúng cho mọi người thấy, - và như tất cả những người phụ nữ khác, bà cũng gia nhập nông trang Kônmôgôrôvô. Và Đêmiđôp lúc đầu cũng làm việc cho nông trang này, sau đó phục vụ trong quân đội thường trực, và đến đầu năm ba mươi thì phục viên về làng.
- Bây giờ thì con hãy lo cưới vợ đi, Pasenka, - mẹ anh mấy
lần thúc giục anh, - Mẹ yếu lắm rồi.
Nhưng rồi chuyện cưới xin của anh không hiểu sao không
thành. Sau đó anh bắt đầu chờ đến khi Maria khôn lớn.
Maria lớn lên là một cô gái hay cười - và đó chính là điểm
khiến anh chú ý ngay từ đầu. Năm mười bốn tuổi cô đã là một cô gái có thân hình
cân đối, khỏe mạnh, có bộ ngực rất nở. Đến năm mười sáu tuổi cô đã biết hôn
thành thạo và anh, Paven, đã dạy cô ta chuyện đó. Tuy hôn cô, nhưng ngay trong
ý nghĩ cũng không bao giờ anh có ý định đụng đến thân thể cô, anh hiểu rằng -
trong khi chưa cưới làm như vậy là quá sớm và chẳng để làm gì?
- Thế bao giờ chúng ta mới cưới? - cô thường hỏi anh như
vậy.
- Sắp rồi, em cứ lớn thêm chút nữa đi. Để cho giống của
chúng ta càng khỏe hơn.
Đến năm Maria mười bảy thì trong ủy ban xã xuất hiện một cán
bộ mới - Đênix Maksêep. Hắn ta cũng trạc tuổi Đêmiđôp, cũng mãn hạn quân thường
trực từ lâu, nhưng về làng thì đi đâu cũng vẫn mặc chiếc áo khoác cổ đứng của
quân đội, chiếc quần màu xanh sẫm, cho vào trong đôi ủng da mềm. Không những
thế người hắn lúc nào cũng sực mùi nước hoa. Bấy giờ ở nông thôn hãy còn cho
chuyện đó là chuyện quái gở. Con gái mà bôi thứ nước gì thơm thì bị mọi người
nhiếc móc, còn con trai mà làm chuyện đó thì thật là nhục nhã.
Đênix Maksêep là người ở đâu - không ai biết. Cánh đàn bà
con gái trong làng xì xào với nhau rằng hình như anh chàng người ở thành phố
Kraxnôiarxkơ, nơi trước kia bố anh ta có cửa hàng bán bột mì hay bánh mì gì
đó. Nhưng đàn bà vẫn là đàn bà, chẳng ai hơi đâu tin vào những lời ngồi lê đôi
mách của họ. Vả lại cũng chẳng thấy ai cần bận tâm để ý chuyện gốc gác của con
người mới đến làm gì. Người nào cử anh ta giữ chức vụ ký vào các loại giấy
chứng nhận của ủy ban, chắc họ phải biết họ cử ai, nghĩa là họ phải biết rõ hơn
về anh ta.
Một hôm Đêmiđôp bắt gặp Maria đi chơi với Maksêep trên bờ
sông Ênitxây. Maksêep đang say sưa kể chuyện gì cho Maria nghe, một chân bó
chặt trong ống quần màu xanh của hắn đặt lên một hòn đá lớn. Maria thì ngồi
trên mũi thuyền cứ cười như nắc nẻ.
- Anh ấy nói chuyện dí dỏm lắm. - Maria nói với Đêmiđôp khi
anh dẫn cô từ bờ sông về.
Chuyện đó xảy ra đâu vào tháng năm năm ba mươi tám. Đêmiđôp
định hết mùa xuân năm đó sẽ làm lễ cưới, và mẹ anh đã lặng lẽ chuẩn bị tất cả
những thứ cần thiết cho ngày cưới.
- Con nhỏ trông kháu đáo để, chỉ tội hiểu biết nông cạn lắm.
- Một hôm gặp Đêmiđôp ở giữa làng, Maksêep nói với anh như vậy.
- Nghĩa là thế nào? - Đêmiđôp thấy chột dạ.
- Cô ta cần có người chồng hiểu biết. Mà chú mày hiểu biết
quái gì? Chú mày ngửi hoa mà không biết mùi thơm.
Đêmiđôp không bao giờ đề cao mình, nhưng cũng không cho phép
ai hạ thấp anh. Hơn nữa, anh cũng không phải là một đứa trẻ nhút nhát sợ sệt,
nên lập tức anh túm ngay lấy cổ áo Maksêep:
- Mày! Tao mà nhấc bổng mày lên ném xuống thì mày chỉ có tan
xương.
- Bỏ cái bàn tay bẩn thỉu ra! - Maksêep đỏ bừng mặt, nắm cổ
tay Đêmiđôp giật ra khỏi cổ áo. Hắn cũng là tay có sức khỏe. - Tao sẽ bẻ gãy
xương mày rồi quăng xuống sông Ênitxây. Tao đã nói là làm đấy, chú mày ạ. Tao
đã ở trong đội kỵ binh, đã từng giơ kiếm chém đứt cả thân cây đấy.
Sau đó hai người chia tay nhau, mặt đỏ tía tai, quần áo xộc
xệch, cả hai đều cảm thấy trước sau sẽ còn chạm trán nhau.
- Việc gì cô đi kể với nó chuyện cưới xin? - Ngay tối hôm đó
Đêmiđôp trách Maria.
- Anh ấy nói chuyện dí dỏm lắm - cô trả lời giống lần trước
- Mà anh ấy có làm gì chúng ta đâu, anh đừng nghĩ oan…
Nhưng Đêmiđôp vẫn phải suy nghĩ, vì chỉ sau đó ít lâu anh
lại bắt gặp Maria đi cặp kè với Đênix Maksêep. Cô ta lại cười giòn khanh khách
thề rằng cô ta gặp hắn chỉ do tình cờ và vừa mới đây thôi.
Một hôm cô ta còn bênh vực cho Maksêep:
- Em biết là anh không ưa anh ấy. Nhưng hiểu biết của anh ấy
còn nhiều hơn tất cả đám con trai trong làng.
- Thế hả? Nếu vậy cô đi mà lấy hắn!
Lập tức Maria gục đầu vào ngực anh thổn thức:
- Pasenka! Em yêu anh, yêu anh. Nhưng lúc ở bên anh ấy, hình
như em… em lại yêu anh ấy, chứ không phải anh… Anh hãy giữ em khỏi rơi vào tay
anh ấy. Em không biết làm thế nào, anh hãy giữ lấy em. Nếu không em có tội mất…
- Được rồi, - Đêmiđôp thốt lên bằng giọng đe dọa rồi đi
thẳng đến ủy ban xã.
Tại ủy ban xã hai người nói chuyện với nhau một cách rất
bình tĩnh, nhẹ nhàng như hai người bạn thân. Sau đó cả hai bước ra khỏi ủy ban,
sóng bước đi ra phía sau làng. Maksêep vừa đi vừa cắn hạt hướng dương và phun
vỏ một cách rất thản nhiên.
Đi hết làng Kônmôgôrôvô là bắt đầu đến rừng taiga, họ tìm
một chỗ quang đãng vắng vẻ. Maksêep cởi áo khoác bộ đội còn Đêmiđôp thì cởi áo
vét và áo sơ mi ngoài ra. Cả hai xếp thật cẩn thận quần áo của mình lại rồi đặt
lên cỏ.
Họ lặng lẽ quần nhau một trận rất lâu, không ai nói với ai
câu nào, đấm đá nhau đến chảy máu, mỗi lúc một ác liệt hơn, xé rách nát những
tấm áo lót của nhau. Họ đã thỏa thuận sẽ đánh nhau đến khi nào một người bị ngã
bất tỉnh. Theo luật chung, khi một kẻ đã ngã thì kẻ kia sẽ không đánh nữa,
nhưng người nào không ngã sẽ được Maria.
Rốt cuộc cả hai đều đứng vững, nhưng người nào cũng kiệt
sức. Thậm chí máu Đêmiđôp còn chảy ra cả đằng tai, Maksêep thì nhổ ra hai chiếc
răng cửa.
- Rồi mày sẽ còn biết tay, - Maksêep vừa lấy đống quần áo
lau máu trên mặt, vừa nói không thành tiếng.
- Mày đã nhận là mày thua chưa? - Đêmiđôp nói giọng cũng lạc
hẳn đi.
- Không đời nào.
- Thế thì khoan hãy mặc quần áo, thằng lái buôn! Tiếp tục
cho đến khi nào phân thắng bại, như đã thỏa thuận.
Đêmiđôp định xông vào Maksêep, nhưng hắn đã vội vã nhặt ngay
cành thông ở dưới đất lên:
- Mày làm gì thế? Đã thỏa thuận chỉ đánh nhau tay không thôi
cơ mà!
Đề phòng xa Đêmiđôp cũng đưa tay sờ dưới gốc cây và tìm được
một chiếc gậy to.
- Tao nói cho mày biết, đồ con lợn kia, - Maksêep vừa thở
hổn hển vừa nói. - Dù tao có là lái buôn hay gì đi nữa thì mày cũng không hòng
được trông thấy Maria đâu. Tốt nhất là mày hãy tình nguyện bỏ cô ấy đi. Nếu
không sẽ hối không kịp đấy. Tao sẽ có cách bắt mày phải từ bỏ. Tao nói là làm
đấy, chú mày ạ.
- Thì mày cứ việc chờ. Cứ ngồi ngó ra đường mà chờ thằng
Paven này cầm tay Marka dắt đến cho mày và bảo: đây, mời ông hãy lấy đi!
- Thôi, tao đã nói, và mày đã nghe thấy rồi đấy. Nghĩa là
mày hãy tự chọn lấy số kiếp của mày…
Bấy giờ Đêmiđôp chưa rõ Maksêep là người như thế nào nên
cũng không hình dung được hắn định âm mưu dành cho anh một số phận ra sao.
Mùa hè đã thôi nóng, bầu trời cũng nhạt đi, và chẳng bao lâu
sau lá cây đã rụng đầy. Một hôm Đêmiđôp ngồi ở nhà bố mẹ Maria cho đến tận
khuya để bàn về số khách mà một tuần sau sẽ được mời đến dự cưới. Cuối cùng mọi
người nếm thử món rượu do bà mẹ Maria tự tay cất lấy để dùng cho ngày cưới.
Bình rượu do chính tay Maria bưng ra, trông cô ta xanh xao nhợt nhạt, mặt cúi
gầm xuống đất. Khi rót rượu ra mấy cái cốc, mấy ngón tay cô ta cứ run run.
Mãi khi tiễn Đêmiđôp ra về, cô ta mới ngước đôi lông mi rậm
của mình lên. Hai đồng tử trong con mắt cô ta giãn ra, và trong đôi mắt bây giờ
đã mở tròn đọng lại một nỗi hoảng hốt tựa như một tiếng kêu không thành tiếng.
- Em làm sao thế, Marka? - Đêmiđôp hỏi.
- Paven… Không hiểu sao em thấy như có cái gì đè nặng trong
lòng. - Cô ôm chầm lấy anh. Paven nghe thấy tim cô đập thình thịch.
- Chắc tại em mệt quá đấy. Thôi, em đi nghỉ đi.
- Vâng, em đi đây, em đi đây… Anh uống thêm một chén nữa
nhé?
- Được thôi, em rót đi.
Khi rót ra chén rượu cuối cùng ấy, không phải chỉ có tay mà
cả tấm lưng Maria run lên.
- Xin mời anh.
Giọng nói của cô lúc này nghe rất xa lạ, và trong ánh mắt
không còn thấy cả nỗi hoảng hốt lẫn tiếng kêu thầm lặng nữa. Đôi mắt cô ta
trông trống rỗng, nguội lạnh như đã cháy thành tro. Dù Paven có say đến mấy anh
vẫn nhận ra tất cả những dấu hiệu đó, anh hỏi lại:
- Nhưng em làm sao thế?
- Ôi, Paven! Người ta bảo… trái tim đàn bà rất nhậy cảm… -
cô thở dài, tựa hẳn người vào tường. - Em có linh cảm đây là lần cuối cùng
chúng mình trông thấy nhau.
Tuy không phải lần cuối cùng, nhưng quả thực sau đó rất lâu,
đúng hơn chục năm sau, họ mới lại gặp nhau.
Chén rượu đó hoá ra là chén rượu mạnh, đầu Paven rức như búa
bổ, những ngôi sao tháng tám trên đầu anh như quay cuồng. Khi anh đi ngang qua
kho thóc của nông trang thì từ sau một đụn rơm lớn Maksêep bước ra.
- Đây rồi… Tao chờ mãi dịp này.
- Tránh ra, tao đang say đây - Đêmiđôp bảo hắn.
- Thì chính tao đang cần mày như thế, chú em ạ, - Maksêep
vừa nói vừa phang một vật gì rất cứng vào đầu Đêmiđôp. Đêmiđôp lảo đảo, ngã gục
xuống đất.
Sau đó Maksêep cứ lấy mũi ủng đá vào đầu, vào ngực, vào mặt
anh. Đêmiđôp chỉ còn biết nằm rên không thành tiếng cho đến khi ngất đi. Anh bị
ngất chắc không lâu lắm, vì khi mở được mắt ra thì Maksêep vẫn còn ở cạnh đó.
Hắn đang ngồi xổm cạnh đụn rơm như người đi ngoài. Bỗng nhiên Đêmiđôp nhìn thấy
từ dưới tay Maksêep một con rắn lửa bò ra, bắt đầu liếm sang đụn rơm và lan dần
sang kho thóc giống. Mặc dù trời tối cũng nhìn thấy rõ một cột khói đen nặng
bốc lên.
- Mày, mày làm gì thế? - Đêmiđôp cố nhỏm người dậy hét lên
như bị sặc khói - Mày làm gì thế?
- Không phải tao… Đó là mày làm đấy, chú mày ạ. - Maksêep
đáp rồi nheo nheo mắt một cách nham hiểm từ chỗ kho thóc bốc cháy hắn tiến lại
gần chỗ anh. - Ngay từ bây giờ mọi người sẽ biết chuyện này.
Đầu Paven ngoẹo hẳn sang một bên; như muốn rời ra. Sau đó,
bằng ý thức mơ hồ, anh nhận ra Maksêep lại lấy ủng đá túi bụi vào người anh,
nhưng anh không còn cảm thấy đau nữa. có một khối mầu đỏ da cam khổng lồ bùng
lên trước mắt anh, loang rộng ra, rồi tắt đi một cách lặng lẽ…
Vì tội đốt kho thóc (mấy kho lúa mạch, một máy đập và hai
máy quạt thóc bị cháy ra tro), Đêmiđôp bị kết án mười năm tù. Dù anh cố thanh
minh đến mấy, mọi người thấy những lời lẽ của anh thật đáng thương và không có
sức thuyết phục - vì tất cả cái trò đó là do Maksêep sắp đặt hết, và theo những
tin đồn lẻ tẻ đến tai Paven, thì bây giờ hắn được mọi người suy tôn như vị anh
hùng, vì đã bắt quả tang tên đốt kho thóc nông trang.
Từ đó cuộc sống của Paven như có bánh xe cứ lăn xuống vực
mỗi lúc một sâu hơn.
Đêmiđôp bị giam trong một trại giam ở gần làng, nghe đâu như
phải đi xây một cái mỏ gì đó trên khu đất đóng băng rất cứng. Vào mùa thu năm
bốn mươi hai, đột nhiên anh bị người ta tống lên một toa tầu có cửa sổ bịt chấn
song cùng với nhiều người khác, và chuyến đi không rõ nơi nào. Họ bị chở đi
ròng rã gần một tháng, cuối cùng mới nhận ra là bị đưa ra mặt trận xung vào tiểu
đoàn phạm binh.
Tuy là tiểu đoàn phạm binh nhưng vẫn dễ chịu hơn vì dù sao
tầm mắt cũng được mở rộng hơn, đó là thế giới của những con người bình thường
vẫn sống trên trái đất. Đêmiđôp tự đặt cho mình nhiệm vụ: dù anh có bị oan ức
như thế, anh vẫn phải cố chứng minh rằng anh vẫn là con người, và mãi mãi vẫn
là con người.
Nhưng, có lẽ người ta nói đúng: số phận thì hẩm hiu còn cuộc
đời thì đen bạc. Có cảm tưởng như anh đã uống cạn chén rượu cay đắng của số phận,
vậy mà dưới đáy vẫn còn lại cái cay đắng nhất. Và lại phải uống nốt cả chỗ cay
đắng ấy.
Ngay trong trận đánh đầu tiên anh bị bắt làm tù binh.
Chuyện đó xảy ra vào tháng mười một, ở gần ga Katsalinxkaia.
Bấy giờ đang có tin đồn hồng quân đang chuẩn bị mở những cuộc tấn công lớn để
hất bọn phát xít ra khỏi Xtalingrat. Và căn cứ vào tất cả mọi dấu hiệu thì
những cuộc tấn công đó đã bắt đầu.
Đại đội phạm binh của anh được giao nhiệm vụ bằng bất cứ giá
nào cũng phải vượt qua sông Đông hãy còn đóng băng một nửa, sang được bờ bên
kia thì đóng chốt ở đấy và bất luận thế nào cũng phải bám chốt.
- Người ta sẽ vượt sông ở đoạn khác, còn chúng ta thì bị đưa
đi làm vật hi sinh, để đánh lạc hướng bọn Đức, - có một phạm binh mắc tội hình
sự nói với Paven như vậy trước khi bắt đầu chiến dịch.
- Thì có sao, vì đằng nào phạm binh vẫn là phạm binh.
- Đã đành như thế… nhưng dù sao đưa đi làm vật thí mạng thì
thật là… Nghe nói ở giữa sông băng mỏng lắm. Mà chúng ta phải đi qua chỗ đó.
- Thôi câm đi! - Paven cáu tiết quát lên.
- Này, cậu… Những lúc tập bắn, tớ để ý thấy cậu bắn súng
trường cừ lắm, - gã tóc hung vẫn không chịu thôi. - Mà việc của chúng ta là -
chỉ cần làm sao bị thương…
- Sao? - Paven thấy ngờ vực.
- Trong bao đạn của tớ còn hai viên đây. Và cả một túi vàng
nữa.
- Cái gì? Cái gì?…
- Tớ nói là tớ có hai nghìn rúp. Cả đồng hồ nữa. Đây cậu cầm
lấy. Và một viên đạn… Sắp sửa tấn công rồi và trước khi tấn công thế nào cũng
có đợt bắn pháo. Chúng ta ra cái hốc kia đi? Cậu sẽ bắn một phát vào tay trái
mình… Thế này này… Chỉ một tiếng vang nhỏ thôi - không ai nghe thấy đâu. Còn
viên thứ hai mình sẽ bắn cho cậu… Nếu còn lành lặn, sau sẽ có ích đấy…
- Đưa đây! - Paven cau mặt nói - Đưa tất cả đây! Cả nghìn
rúp kia nữa.
Những ngày đầu mới vào trại giam, Đêmiđôp rất sợ những tên
lưu manh trộm cắp, nhưng sau đó anh rút ra bài học: loại người đê tiện này chỉ
kính nể có sức mạnh, chúng phục tùng nó vô điều kiện, và một cái nữa, đó là sự
đểu cáng, trắng trợn. Và anh đã học được cách sống với tụi này. Vì thế bây giờ,
sau khi đã cầm lấy hai nghìn và chiếc đồng hồ, anh thong thả nhét nó vào túi.
Sau đó quay lại, hít một hơi thật dài, giơ nắm đấm cứng như sắt thoi thẳng vào
bộ mặt to bè của tên ăn cắp. Tên này ngã bay vào tuyết, ngồi phắt ngay dậy, lấy
tay lau máu ở cằm.
- Đồ chó đẻ, - Paven bình thản nói. - Nếu khi xảy ra chiến
sự mà mày định nấp sau lưng người khác thì tao sẽ nhằm không phải vào tay, mà
vào đầu mày đấy. Và đừng có hi vọng tao bắn trượt. Mày sẽ phải đi trước tao, và
coi chừng tao đấy!
Qua ánh mắt ngơ ngác hoảng hốt của tên lưu manh, Paven nhận
thấy anh đã làm hắn khiếp sợ, đã bắt nó phải hoàn toàn phục tùng, mặc dù anh
hiểu rằng, khi gặp cơ hội thuận tiện, tất nhiên tên tóc hung này sẽ không hề do
dự bắn chết anh ngay. Nhưng cơ hội ấy còn chưa đến. Paven hiểu rõ điều đó như
ai…
Câu chuyện đó không hiểu sao gieo vào lòng Paven niềm tin là
anh sẽ sống.
Quả nhiên anh đã sống sót, nhưng giá anh đừng sống có khi
lại hay hơn.
Ý đồ vượt sông ngày hôm đó thế là không thực hiện được. Hầu
như cả đại đội phạm binh đã ngã xuống mặt băng một cách vô ích. Cả tên ăn cắp
tóc hung, lúc nào cũng ngoan ngoãn chạy trước Paven, cũng bị ngã vì đạn của bọn
phát xít, nằm phơi bụng trên băng. Chính Paven cũng ngã va đầu rất mạnh vào
băng, đầu anh choáng váng như lần nào anh bị tên Maksêev lấy ủng đá túi bụi.
Mấy đốt xương cổ của anh đau ê ẩm.
Đó là chi tiết cuối cùng mà Paven còn cảm thấy, hay nhớ ra
được bằng một chút ý thức. Khi anh tỉnh lại thì thấy mình đã nằm trong một túp
lều bẩn thỉu, chật chội, nghe thấy những tiếng nói xa lạ bằng tiếng Đức, và
ngay lập tức, không ngạc nhiên và không hiểu sao thậm chí không hối tiếc, khi
hiểu ra mình rơi vào đâu. “Chà, Maksêev, mày cứ chờ đấy!” - Anh chỉ nghĩ như
vậy, như anh vẫn hằng nghĩ bao nhiêu ngày và bao nhiêu đêm trước đây, nhưng lần
này không hiểu sao anh nghĩ với vẻ dửng dưng, không hề tức tối với hắn. Tựa như
trong con người Paven lúc này không còn cái gì sống nữa, tất cả đã câm lặng.
Và với cảm giác câm lặng, hờ hững, thờ ơ với tất cả những gì
xảy ra với anh như thế, anh đã sống thêm nhiều năm sau này nữa. Có lẽ chính cái
đó đã giúp anh sống nổi.
Bọn Đức biết anh ở đại đội phạm binh, và cho anh là tên tù
phạm hình sự, nên đã tuyển anh vào quân đội, thậm chí còn dỗ dành anh. Paven
không hiểu đó là đội quân gì, nhưng anh từ chối. Và cuộc thuyết phục đã chuyển
thành cuộc tra tấn dã man.
Sau đó không hiểu sao tự dưng chúng không động đến anh nữa,
mà chuyển anh đến trại tập trung trên lãnh thổ Ba Lan. Ở đó sáng nào anh cũng
phải đi thu nhặt xác chết trong toàn trại, chất lên lưng con ngựa khoang và chở
về nhà thiêu xác.
Anh cứ đi thu nhặt xác chết như thế cho đến mãi tháng giêng
năm bốn nhăm. Đám tù nhân và ngay cả bọn Đức cũng đã quen với cảnh đó. Không
bao giờ anh cạo râu, tóc cũng ít khi cắt. Râu tóc anh rậm rạp, lởm chởm trông
như lão già, đến nỗi từ bọn Đức cho đến đám tù nhân hình như không ai xem anh
là tù nhân nữa, mà coi là người đi nhặt xác thuê, không những thế lại là con
người dở hơi.
Hồng quân đánh chiếm được trại tù binh một cách chớp nhoáng
và bất ngờ. Thậm chí lúc đầu không ai nghe thấy tiếng súng bắn nhau, mãi về sau
người ta mới thấy những chiếc máy bay hồng quân bay rất cao trên nóc trại, và
sáng ra trước lúc rạng đông, trong các khu trại bỗng nghe thấy tiếng sắt kêu
loảng xoảng. Người ta xua hết cả tù binh ra sân. Paven cũng nhảy bổ ra - sau
hàng rào dây thép gai bao quanh khu trại, những chiếc xe tăng cứ lao đi rất
nhanh, tiếng xích sắt kêu ầm ầm. “Không hiểu chúng đi đâu vội thế?” - Paven
nghĩ thầm vì vẫn đinh ninh đó là xe tăng Đức.
Bỗng nhiên một chiếc quay ngoắt lại, đâm thẳng vào hàng rào
dây thép gai, chọc thủng nó như chọc thủng cái mạng nhện, rồi dừng lại, quay
nòng súng dài từ bên này sang bên kia, như lựa chọn xem nên nhả đạn vào đâu. Và
Paven, nhìn thấy trên thành xe tăng hình ngôi sao năm cánh.
… Buổi sáng, khi mặt trời vừa mọc, Paven, tay bóp nát chiếc
mũ trại, đứng trong đám tù binh đang la hét và khóc lên rưng rức vì sung sướng,
xếp hàng chờ đến lượt trình diện người đại diện của Hồng quân đang kê khai danh
sách tù binh.
- Khoan đã, người ngợm gì thế này? - Có tiếng người hỏi khi
Paven vừa bước qua ngưỡng cửa. - Ở đâu ra mà gớm ghiếc thế này?
- Tôi là người Nga. Tên tôi là Đêmiđôp.
- Nhưng trông anh chẳng còn gì hình dạng người cả.
- Ai giữ anh ta ở đây vậy?
- Bị bắt làm tù binh ở đâu?
- Ở một nơi trên sông Đông. Tôi ở đại đội phạm binh.
- Vì sao anh bị vào đại đội phạm binh?
- Tôi là tù phạm cũ. Tôi bị tù hình như vì tội đốt kho thóc
nông trang.
- Sao? Sao lại hình như?
- Vì tôi không đốt. Kẻ đốt là Đênix Maksêev. Mà tôi thì muốn
cưới cô Maria. Tất cả nguyên do là ở đấy.
- Khoan đã, khoan đã, lão già… Lão ta hình như bị điên.
- Không, tôi rất tỉnh. Và cũng chưa phải ông già. Tôi chưa
đến bốn mươi tuổi. Các ông hãy nghe tôi hẵng.
Người ta nhẫn nại nghe câu chuyện của Paven. Trong khi kể
lại tất cả những gì xảy ra với mình, Paven nhận thấy người ta không tin anh.
- Chà, chuyện rắc rối đấy, - viên sĩ quan có hai vạch trên
cầu vai nói. - Và không phải việc chúng tôi.
- Dù là việc của ai đi nữa thì cũng không ai hiểu được đâu. - Paven khoát tay một cách tuyệt vọng. - Tốt nhất là cứ cho tôi ngồi nốt hạn tù
của tôi.
… Và thế là Paven lại phiêu bạt nhiều nơi, nếm mùi nhiều
trại giam thêm ba năm nữa, và vẫn dửng dưng với tất cả những gì xảy ra xung
quanh.
Anh chỉ cảm thấy: những người chịu trách nhiệm về số phận
của anh không biết làm gì với anh bây giờ nữa.
Cuối cùng, năm bốn tám, người ta thả anh ra và ra lệnh quản
thúc anh thêm ba năm nữa tại một làng cũng vẫn ở miền Bắc, nơi có trại giam ấy.
Nhưng tất cả rồi cũng trôi qua - cả ba năm quản thúc rồi
cũng trôi qua. Bây giờ Paven có thể muốn sống ở đâu thì sống. Nhưng đi đâu?
Sống nốt cuộc sống ở đâu bây giờ? Mẹ anh đã chết từ khi chưa có chiến tranh,
một lần anh nhận được tin báo như thế. Còn Maria, Maksêev, ngôi làng Kômôgôrôvô
thân thuộc, tất cả những cái đó dường như ở một thế giới nào khác, ở sau chân
trời xa xăm mờ ảo nào đó, mà đến đó bây giờ đối với anh đã thành vô nghĩa, mà
anh cũng chẳng còn thiết.
Có thể Paven đã sống nốt những ngày cuối cùng của mình trên
mảnh đất phương Bắc xa lạ, mà trong những năm tương đối tự do sau này anh đã
hơi quen với nó, và có thể nó đã trở thành khá thân thuộc với anh, bởi cái số
phận lạnh lùng và cuộc sống vất vả của mình, nếu như không có lời khuyên của
người phụ trách thuế quan một vùng nọ, Paven cảm thấy những lời khuyên của ông
ta là cái cay đắng nhất trong tất cả những gì mà anh từng nếm trải.
- Anh muốn ở lại vùng chúng tôi ư? - người đó nói với anh
như thế. - Nhưng loại người như anh chúng tôi cần gì?
- Loại người như tôi là thế nào?
- Là thế nào ấy à?… à, nghĩa là anh không phải là người, mà
chỉ là… một tên gọi.
- Nghĩa là tôi chỉ là cái tên?
- Đúng thế. Đất nước chúng tôi cần gì loại người như anh?
Người dân chúng tôi cần gì loại người như anh?
- Nhưng tôi có làm gì tồi tệ cho đất nước và cho mọi người
đâu? Có thể tôi cũng chưa làm điều tốt. Nhưng ông hãy tạo cho tôi một khả năng.
- Khả năng à? Trước kia cũng như bây giờ anh chỉ có một khả
năng thôi - là tự sát. Tôi vẫn không hiểu sao đến bây giờ anh vẫn chưa sử dụng
khả năng ấy?
Mọi vật trở nên xám đen trước mắt Paven, những tấm kính cửa
trong phòng làm việc của con người đó phút chốc như tối sầm cả lại, trong giây
lát một màn tối đen như mực bao trùm cả ngôi làng phương bắc.
Đã lâu lắm, hồi mới bị kết án, Paven đã tự thề sẽ không bao
giờ uống rượu nữa. Sau khi được tự do anh đã giữ đúng lời thề, không bao giờ
uống một giọt rượu nào. Nhưng hôm ấy ở nhà viên phụ trách ra, anh đi thẳng đến
cửa hàng, mua một chai rượu, rót ra cốc lớn và chỉ uống ba bốn ngụm là hết. Anh
uống rượu mà cảm thấy như uống nước lã, không biết gì là đắng nữa. Anh ngạc
nhiên nhận thấy tim như giãn ra, bao cơ bắp trong cơ thể như chùng cả lại.
Rồi Paven nức nở khóc. Anh đã chịu đựng tất cả những gì xảy
ra với anh một cách câm lặng, vậy mà lần này anh không kìm được tiếng khóc.
- Ta sẽ không tha thứ, không… Không thể! - Và đêm hôm đó,
khi nghĩ đến Maksêev, anh đã nguyền như vậy.
5
Đầu mùa xuân, khi những con sếu bắt đầu kêu nháo nhác trên
dòng sông Enitxây, Đêmiđôp trở lại quê nhà.
Nhưng bắt tay vào cuộc sống từ phía nào đây? Ông không còn
hi vọng gì vào điều tốt nào nữa, ông đã quên mất khái niệm lòng tốt. Và trong
thâm tâm cảm thấy đây là lần cuối cùng thử định mệnh, ở tàu xuống, ông đi thẳng
ngay đến trụ sở Ủy ban Xô viết tỉnh.
- Ông chủ tịch, xin ông cắt nghĩa cho tôi biết, tôi là hạng
người như thế nào? Nghĩa là ông bảo tôi có nên sống nữa hay không, hay đúng là
tôi không có quyền nhìn thấy mặt trời nữa? - Ông bước thẳng vào phòng làm việc
của ông chủ tịch tỉnh, không thèm xin phép cô thư ký mũi nhỏ, rồi cất tiếng
hỏi.
Tên ông chủ tịch là Agafônôp. Đó là một người to béo dáng thô
kệch, với cái cổ ngấn lên toàn mỡ bệnh, ông ta nhíu lông mày, tò mò ngắm nghía
người khách lạ.
- Chủ tịch như tôi, chắc anh thấy đấy… người cứ phì ra.
Nhưng dù sao tôi cũng không phải là ông, mà là đồng chí… Anh mới bị tù ra phải
không?
- Đối với tôi thì cả trái đất này là nhà tù không có chấn
song.
- Ề, cái anh này, - ông chủ tịch béo phị cười khẩy - Ăn nói
gì độc ác thế! Có lần tôi đọc được câu thơ: “Mặt trời chiếu cho cả người sáng
lẫn người mù. Và đó chính là điều kỳ diệu của nó”. Như thế nghĩa là thế nào?
- Thơ thì mỗi người có thể sáng tác một cách khác nhau.
- Phải. - Agafônôp vẫn chăm chú quan sát Đêmiđôp - Thôi được,
vậy anh hãy kể cho tôi nghe chuyện của anh đi…
Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm nay, Đêmiđôp mới cảm thấy
trái đất không phải chỉ toàn những người đểu giả, vì nó quá lớn.
Thế là ông đã kể cho vị chủ tịch to béo về toàn bộ cuộc đời
ông, không giấu giếm cả những chi tiết nhỏ nhất.
Ông này cứ ngồi nghe từ đầu đến cuối không ngắt lời, chỉ cau
mặt và đưa nắm tay hộ pháp lên xoa cái cằm mỡ.
- Hừm… - khi Đêmiđôp nói xong, ông ta lại lên tiếng - Tôi
biết nói gì với đồng chí bây giờ, đồng chí Paven! Cái ác thì tự nó phơi bầy ra,
nhưng cái tốt thì phải biết nhìn mới thấy.
- Nghĩa là thế nào, tôi chưa hiểu?
- Nghĩa là thế này… Tôi nghĩ thế này: cái tốt nhất đối với
đồng chí bây giờ là sống ở một nơi nào xa mọi người, sống một mình với thiên
nhiên. Tôi có thể bố trí cho đồng chí làm người coi phao tiêu ở sông Enitxây.
Hay tốt hơn nữa là làm người coi rừng.
- Nghĩa là bây giờ tôi không còn chỗ ở bên cạnh mọi người? - Bao nhiêu cay đắng chất chứa trong lòng phút chốc lại trào lên cổ họng Đêmiđôp.
- Đồng chí hãy tin tôi, đồng chí Paven. Bà nội trợ khi rút
miếng bánh nóng trong lò ra lúc đầu bao giờ cũng phải đặt nó vào chỗ lạnh, lấy
khăn sạch đậy lên cho nó bớt nóng đi đã. Chiếc bánh sẽ mềm ra, sẽ có hơi thở
của đất. Còn con người ấy à? Trong rừng cũng có nhiều người lắm chứ.
- Chắc ông cũng xuất thân là nông dân? - Nỗi cay đắng trong
cổ họng tự nhiên biến mất, có điều không hiểu sao khi nhìn Agafônôp, tự dưng
Đêmiđôp cảm thấy lúng túng, như thể ông có lỗi với con người này.
- Không, trước kia tôi đã là thợ rừng, và một thời gian dài
tôi cũng làm nghề coi rừng. Bây giờ khi nhớ đến những ngày ấy tim tôi bỗng thấy
nhức nhối vì nhớ tiếc. Rừng, hay nói chung thiên nhiên, là lý trí cao siêu nhất
trong số tất cả những gì có ở dưới mặt trời. Đồng chí hãy gắng học cách cảm
nhận và hiểu biết nó, thì đồng chí sẽ phát hiện ra con người trong mình. Và
điều đó đối với đồng chí còn là nhiệm vụ nữa - đồng chí hãy tin lời tôi.
Paven vừa hiểu mà vừa không hiểu ông Agafônôp định nói gì.
Nhưng ông cảm thấy là nên tin ông ta. Và thốt nhiên, ông nói cho riêng mình:
- Phải, chắc hẳn ông phải là người tốt…
- Cái đó cũng còn tuỳ cách nghĩ của mỗi người - ông AgaFônôp
cười nhạt. - Vậy để tôi gọi điện đến ban lâm nghiệp về việc bố trí cho đồng chí
làm người coi rừng nhé? Đồng chí không lừa tôi đấy chứ?
- Ông đã nghe hết chuyện đời tôi. Có biết bao người đã lừa
tôi, nhưng tôi thì hình như chưa lừa ai bao giờ.
- Nhưng xin đồng chí bớt cái giọng ác độc ấy đi một chút - Agafônôp bỗng giận đỏ mặt - “Bao nhiêu người lừa dối”. Thế cụ thể là bao nhiêu?
Đồng chí làm như mọi người chỉ chuyên sống bằng chuyện đó thôi vậy. Mà thực ra
chỉ có một lần, và chỉ có một tên đểu cáng đó thôi… Đồng chí cần phải hiểu dứt
khoát điều đó!
- Một lần nhưng cũng đủ cho cả đời rồi. Cái thằng chó đẻ ấy
nói với tôi: “Rồi mày sẽ ân hận suốt đời”, và đúng là tôi khổ suốt đời thật!
Cho nên cũng cần để cho người ta hiểu tôi.
- Nghĩa là đồng chí sẽ không tha thứ cho nó? Đồng chí định
trả thù? - Agafônôp đã chực giơ tay với ống điện thoại bỗng nhiên lại bỏ xuống.
- Thế thằng Maksêep ấy còn sống à? - Đêmiđôp nói rất nhanh. - Ông biết hắn ta à?
- Giá tôi không biết hắn ta, có thể tôi đã nghĩ tất cả những
chuyện đồng chí vừa kể là bịa đặt.
- Thế hiện hắn ta sống ở đâu?
- Vẫn ở làng Kônmôgôrôvô ấy. Và đã cưới Maria của đồng chí.
Đêmiđôp ngồi chống khuỷu tay lên đầu gối, úp mặt vào lòng
bàn tay, thở một cách nặng nhọc. Agafônôp lúc này không nói một lời nào nữa.
Paven hiểu là ông đang chờ đợi câu trả lời cho câu hỏi cuối cùng của ông ta.
- Thế nếu chuyện đó xảy ra với ông, ông có tha thứ không?
Ông sẽ không trả thù chứ?
- Tôi ấy à? Tha thứ - tôi không biết nữa, có lẽ tôi sẽ không
tha thứ. Còn trả thù hắn, chịu bẩn tay vì hắn thì có lẽ tôi cũng chẳng thèm.
Tôi quý bản thân mình hơn.
- Nhưng bây giờ tôi thấy đời tôi chẳng còn ý nghĩa gì nữa. - Paven thốt ra một câu hằn học.
Rồi họ im lặng, tựa như mỗi người đang thầm nghĩ xem họ phải
làm gì bây giờ, chia tay nhau như thế nào. Mãi sau Đêmiđôp mới nói một cách khó
nhọc, mắt không nhìn Agafônôp:
- Thế họ… có con không?
- Hình như có hai đứa, một trai, một gái.
Đêmiđôp lại ngồi im một lúc nữa, rồi nặng nề đứng dậy, xô
ghế ầm ầm.
- Thôi được… Giá tôi không được gặp một người như ông có lẽ
tôi sẽ bắt nó trả nợ máu. Nhưng bây giờ thì tôi sẽ không đụng đến nó. Tôi sẽ
không có hành động gì chạm đến nó. Nhưng tha thứ thì… như chính ông vừa nói,
tôi không thể tha thứ được.
- Đồng chí nói “không có hành động gì chạm đến nó” là như
thế nào?
- Chả lẽ ông không hiểu sao?
- Thế thì đồng chí sẽ chạm đến nó bằng cách gì?
- Không biết. Tôi không biết gì cả. Ông gọi điện đến ban lâm
nghiệp đi.
Sau khi chào tạm biệt, ông bước ra cửa, nhưng đi nửa chừng,
ông dừng lại, nói:
- Còn về mấy câu thơ ông đọc thì đúng là hay thật. Mặt trời
chiếu cho tất cả - cả người sáng lẫn người mù. Đơn giản quá, nhưng rất đúng.
- Chính thế đấy, Paven ạ! - Paven cảm thấy khi nói ra câu
đó, Agafônôp có vẻ sung sướng như vừa trút được gánh nặng.
- Còn điều nữa ông nói có lẽ cũng đúng: nhiệm vụ của tôi bây
giờ là phát hiện ra con người trong mình. Ông đã nói trúng cái cội nguồn sâu xa
của vấn đề.
- Chưa phải cả nhiệm vụ mà mới chỉ nửa nhiệm vụ thôi. - AgaFônôp mỉm cười.
- Không, ông nói dối, - Đêmiđôp bướng bỉnh nhắc lại. - Cái
gì đầu óc đã nghĩ ra rồi, còn phải cho thấm vào trái tim nữa. Mà cái đó đúng là
nhiệm vụ.
6
Thế là Đêmiđôp bắt đầu làm người coi rừng ở gần Kônmôgôrôva.
Hóa ra cái ông AgaFônôp to béo ấy nói đúng. Tiếng xào xạc
bất tận của cây cối, tiếng chim hót líu lo, tiếng suối róc rách chảy đã có tác
dụng, tâm hồn Paven dần dần lắng dịu. Điều nữa ông ta nói cũng đúng: quả là
trong rừng cũng có nhiều người: những người đi săn, đánh cá, hái quả rừng, hái
nấm… Không có ngày nào Paven không gặp người trong rừng, thậm chí ông còn làm
quen được với nhiều người. Ông chỉ cho họ những vùng có nhiều quả rừng, những
nơi có nhiều cá và nấm nhất.
Ông ngạc nhiên nhận ra rằng mọi người chóng trở nên thân
thiết với ông, nhiều thanh niên gọi ông là bác Pasa, còn những người đứng tuổi
thì kêu ông là Paven Grigôrievits. Ông còn nhận ra điều nữa - không hiểu sao
những phụ nữ đi hái quả rừng bao giờ cũng tỏ ra tin cậy ông, họ đi theo ông vào
mãi sâu trong rừng mà không hề e ngại. Bất cứ ông dẫn họ đi đâu họ cũng tin
tưởng đi theo. Chắc hẳn có nhiều lời đồn đại tốt về ông. Và những lời đồn đại
quả không sai - chưa bao giờ ông có một lời xúc phạm đến một người phụ nữ nào.
Chỉ có mỗi một bận ông không kìm được, đó là khi một người
đàn bà lạ ở làng Kônmôgôrôva, trông có vẻ người nơi khác đến, tên là Naxtaxia,
với ánh mắt cầu khẩn lộ liễu bắt ông ngồi xuống đám cỏ mịn với chị ta. Chị ta
khoảng bốn mươi tuổi, dáng người khỏe mạnh, gọn gàng, sau này chị ta thường hay
đến chơi nhà ông trong rừng, lần nào đến mặt cũng đỏ ửng và bẽn lẽn, đôi khi
còn ngủ lại nhà ông. Chị ta góa chồng từ năm bốn mươi tư, đã sưởi ấm ông bằng
cái hơi ấm đàn bà tràn đầy của mình, gợi lên trong ông một cảm giác buồn bã khó
chịu.
- Giá em lấy anh, Paven ạ, - một hôm chị ta nói với ông. - Thì có lẽ không người đàn bà nào hạnh phúc hơn em… Nhưng em không thể, những
đứa con em nhớ bố chúng lắm, sẽ không bao giờ chúng nhận anh đâu. Tâm hồn chúng
sẽ tan nát mất.
- Naxtaxia ạ, cô là người phụ nữ tốt, cô có tấm lòng vàng. - Đêmiđôp trả lời chị ta. - Nhưng cô đừng nghĩ ngợi nhiều. Tôi cũng không lấy cô
đâu. Tôi sẽ không bao giờ lấy ai cả. Sẽ sống một mình thôi.
- Tại sao vậy, anh Paven? - chị ta nhìn Đêmiđôp với vẻ lo
lắng của người mẹ và hỏi. - Từ lâu em để ý thấy hình như tâm hồn anh đã nguội
lạnh, bị khép kín rồi thì phải. Trong đời anh có chuyện gì thế? Anh là con
người hiền lành, nhân hậu, vậy sao anh lại sống độc thân? Và hầu như ngày nào
cũng uống say bét… Vì sao thế?
- Cô đừng hỏi chuyện ấy. Mọi người chẳng cần biết đến chuyện
đó làm gì… Gia đình Maksêep ở làng cô sống thế nào?
- Cái lão Maksêep có cô vợ bán hàng là Maria ấy à? Ai mà
hiểu được họ… Cái gã Maksêep ấy chắc phải là thằng cha sâu bọ nhất trong số
những loài sâu bọ. Nhưng sao tự nhiên anh lại hỏi đến họ? - chị ta hỏi, đôi
lông mày dướn lên có vẻ ghen tuông.
- À… vì hồi trẻ tôi có biết họ. Sau đó… sau đó tôi phải bỏ
nơi ấy ra đi rất lâu. Nhưng… cô bảo sâu bọ là thế nào cơ?
- Hắn hút máu hút mủ người đàn bà. Hắn cũng đi mặt trận, khi
về có chống nạng, mang về hai xe ngựa đầy các thứ đồ - em không biết ai cho
hắn. Hắn nói đó là quà người ta thưởng cho người anh hùng mặt trận. Rồi hắn
dựng ngay một căn nhà to lắm. Mà chả cần những thứ quà ấy thì gia đình họ sống
cũng đã sung túc lắm. Cái cô Maria bán hàng thì chuyên cân đo đong đếm thiếu
của khách. Ngoài ra họ còn ăn cắp không biết ngượng.
- Sao cô biết? - Đêmiđôp hỏi, giọng còn vẻ tức giận.
- Em có mù đâu? Mà mọi người cũng bảo thế. Trước khi ra mặt
trận, hắn đã thu xếp cho vợ đứng bán hàng. Người ta bảo trước chiến tranh hắn
còn làm chủ tịch ủyban xã. Nghe đâu hắn phát hiện được một kẻ định đốt kho
thóc nông trang, và vì chuyện đó người ta cử hắn làm chủ tịch.
- Hừm, ra thế. - Đêmiđôp lẩm bẩm. - Như người anh hùng.
- Anh hùng gì cái đồ hắn. Khỏe như vâm ấy nhưng không chịu
làm gì cả. Là thương binh, hắn bảo thế. Nhưng hắn bỏ nạng từ lâu rồi. Còn cô vợ
thì hắn bắt kẽo kẹt bán hàng mãi. Nghe đâu như hắn hắn còn đánh đập cô này nếu
hàng tháng không đem đủ tiền về cho hắn.
- Hắn còn đánh kia à? Nghĩa là hắn còn bầy mưu cho cô ta ăn
cắp? - Đêmiđôp lại nói với vẻ tức giận không giấu được.- Ai là người chứng kiến
điều đó?
- Có gì che được mắt thiên hạ!
- Nhưng đồn đại thì cũng nhiều chuyện lắm…
- Paven! Anh hỏi thì biết thế nào em nói thế. Vậy mà hình
như anh lại giận em. Thế họ là gì với anh, Paven?
- Chẳng là gì cả.
Cuối cùng ông vẫn không kể gì cho chị ta nghe, cứ để cho chị
ta thắc mắc.
Tất cả những điều Naxtaxia kể, Đêmiđôp còn được biết bằng
cách kín đáo dò hỏi những người khác. Tất cả mọi người đều nói gần đúng như
vậy. Và lòng căm thù con người đó cứ chồng chất hết lớp này đến lớp khác, như
tuyết dần dần đọng thành tảng lớn, lăn xuống chân núi.
Song, mặc dù nhiều lúc ở ngay sát cạnh Maksêep, Đêmiđôp vẫn
chưa lần nào giáp mặt hắn. Những lúc Maksêep vào rừng kiếm củi hay đi câu cá - hắn là tay rất mê câu cá, nhưng công bằng mà nói, bao giờ cũng câu bằng cần câu
chứ không đánh cá trộm, - thì Paven, biết cách đi trong rừng rất êm, đã có lần
đi theo hắn hằng mấy cây số, ngồi rình trong bụi cây hàng giờ để theo dõi xem
tên Maksêep câu cá hồi hay cá thy man… như thế nào. Trong lúc câu cá, Maksêep
gần như điếc với mọi vật xung quanh, nét mặt hắn trông có vẻ hả hê, mãn nguyện
rất đáng ghét. Cứ mỗi lần gỡ xong con cá to ở lưỡi câu, bao giờ hắn cũng cầm
trong tay con cá ngắm nghía hồi lâu rồi mới cho vào xô. Và Đêmiđôp, khi nhìn
Maksêep, thì đoán ra và hiểu rằng hắn thích xem con cá đáng thương cố uốn mình
thoát ra khỏi tay hắn, nhưng không thoát nổi.
Những phút đó trong người Đêmiđôp máu bốc lên giần giật, mắt
nhoè đi vì một ý nghĩ thoáng qua: giơ súng nhằm vào cái bộ mặt đẫm mồ hôi vì
niềm sung sướng thú vật kia, và… Nhưng lần nào trong ông cũng vẳng lên lời của
Agafônôp: “Nhưng tôi ghê tởm không muốn bẩn tay vì hắn”…
Với Maria, Đêmiđôp cũng chưa có dịp gặp lại, vì rượu vôtka,
mà ông đã thực sự mắc nghiện, mặc dù chưa hiểu rõ toàn bộ cái độc hại của nó,
hồi này ông mua ở các làng bên cạnh. Nhưng một hôm, sau khi ngồi rình xem tên
Maksêep câu cá như thế, ông ngang nhiên bước ra khỏi bụi cây, hất súng ra sau
lưng và đi về làng Kônmôgôrôva. Maksêep nhìn thấy người đàn ông râu ria xồm
xoàm từ bụi cây bước ra thì giật mình đứng phắt dậy. Đêmiđôp không hiểu hắn có
nhận ra ông hay không, chỉ thấy mặt hắn lộ vẻ khiếp đảm, thậm chí quai hàm hắn
trễ xuống một cách thảm hại.
“Hắn không nhận ra, mà sao nhận ra được…” - trên đường đi về
làng Đêmiđôp nghĩ thầm trong bụng - “Rồi mày cũng đến ngày con ạ. Rõ ràng bây
giờ mày không còn như ngày đó nữa. Được, cứ đợi đấy… Thực sự tao không cần dính
tay vào mày…”
Đêmiđôp định đi thẳng đến cửa hàng, nhưng nhìn thấy chiếc
khóa treo ở cửa ông bèn hỏi thăm một người gần đó xem vợ chồng Maksêep sống ở
đâu.
Ông bước vào nhà vợ chồng hắn, bụng đã suy tính trước sẽ trả
thù con người đã làm hại cả đời mình ra sao. Ông bước vào và nói với vợ Maksêep
lúc ấy đang là quần áo bằng cái bàn là điện:
- Chào Marka. Tôi đến đây… Tôi đến trả nợ cho chồng cô đây.
- Nợ nào? - mụ ta quay khuôn mặt xinh đẹp về phía Đêmiđôp. - Ông là ai? Ông nợ Maksêep cái gì?
- Tôi chẳng nợ gì hết. Mà hắn vay của tôi. Hắn vay tôi cả
cuộc đời…
- Ông nói lảm nhảm gì thế? Cuộc đời nào
- Cuộc đời bình thường mà mỗi người đều có chứ cuộc đời nào!
Hắn đã lấy cắp cuộc đời tôi, và lấy đầu gối bẻ gãy như thanh củi khô!
Nhưng ông chưa nói hết câu, mụ đã nhận ra con người đang
đứng trước mặt mình là ai, mụ đặt phịch cái bàn là đang nóng xuống tấm áo sơmi
đắt tiền của chồng. Trong giây lát máu đã biến mất trên khuôn mặt mụ, mắt mụ mở
tròn, mụ kêu lên nhưng vì quá sợ hãi nên không thành tiếng. Rồi bằng giọng tắc
nghẹn ấy, mụ ta thốt lên:
- Paven!…
Vừa lúc đó cửa mở toang và Đênix Maksêep bước vào - có lẽ
hắn đã đi theo Đêmiđôp về nhà lòng vô cùng kinh hãi. Vừa chạy vào nhà, hắn đứng
ngay ở cửa nhìn Đêmiđôp, cằm hắn vẫn chảy thượt và lúc này đang run run. Trong
cái miệng tối ánh lên những chiếc răng thép. Maria vội chạy đến bên chồng và cả
hai sợ hãi đứng nép vào tường.
- Hắn, hắn đấy… Paven Đêmiđôp! - Maria kêu kên. - Ông ở đâu
đến thế?
- Tôi biết, tôi nhìn thấy… - Maksêep nói ấp úng như đứa trẻ.
Đôi mắt hắn đảo đi đảo lại một cách sợ sệt.
- Từ thế giới bên kia. - Đêmiđôp cười nhạt.
- Em đã nói là thế nào hắn cũng mò đến mà.
Có mùi vải cháy. Đêmiđôp, súng vẫn đeo sau lưng, đi đến gần
bàn, nhấc chiếc bàn là lên.
- Cô làm hỏng cái áo đẹp quá, - ông nói giọng bình thản,
không hề tiếc rẻ. Sau đó ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn, tháo súng đặt giữa
hai chân.
- Nghe đây, Maria, nghe xem hắn đã vay của tôi cái gì, và
tôi phải đòi hắn món nợ gì. Tôi sẽ kể hết, còn cô hãy nhớ lấy, Maria ạ.
Rồi chậm rãi, không vội vã, ông kể lại đầu đuôi cho chúng
nghe, như đã kể cho ông Agafônôp cách đây không lâu, giọng ông không hề có vẻ
độc ác. Ông kể như kể với người khác, còn chúng thì đứng nép sát vào nhau không
dám nhúc nhích, không dám ngắt lời ông. Mặt Maksêep mỗi lúc một ướt đẫm, mồ hôi
bắt đầu chảy thành giọt.
- Bây giờ quãng đời còn lại của tao chẳng có tích sự gì, tao
cũng chẳng thiết tha gì nó, - Đêmiđôp bắt đầu kết thúc. - Nhưng tao sẽ sang thế
giới bên kia chậm hơn mày một chút, Maksêep ạ. Nghĩa là trước hết tao phải
thanh toán với mày sòng phẳng đã. Tao đã có hàng trăm dịp để thanh toán với
mày. Từ lâu rồi - Biết bao lần mày đi bộ hay đi xe vào rừng, tao đều bí mật đi
theo mày, rình mày như rình một con vật. Như hôm nay chẳng hạn, từ sáng sớm tao
đã ngồi xem mày câu cá. Hay như lúc này có gì có thể ngăn tao tính nợ với mày?
Viên đạn cho mày tao đã chuẩn bị từ lâu rồi. - Đêmiđôp vỗ vỗ vào khẩu súng. - Nhưng chú mày ạ, tao muốn xem chú mày sẽ chuẩn bị đón cái chết như thế nào. Vậy
thì hãy chuẩn bị đi. Tao sẽ không đập mày như mày đã làm với tao đâu. Tao sẽ
chờ cơ hội gặp mày ở chỗ thuận tiện, trong rừng, hay trên cánh đồng, là tao cho
mày phát đạn, thế thôi.
Nói đoạn, ông đứng dậy đàng hoàng bước ra cửa.
- Nói láo… Mày không dám! - Maksêep không nén nổi uất ức
thốt lên, đưa tay vuốt mồ hôi mặt.
- Tao đã nói, và mày đã nghe thấy rồi đấy. - Đêmiđôp vẫn
thản nhiên nói vì biết rằng Maksêep sẽ nhớ lời ông. - Chính mày đã chọn cho mày
số kiếp như thế.
Rồi không nhìn chúng nữa, ông bước thẳng ra ngoài.
7
Từ hôm ấy, ông bắt đầu chơi trò mèo vờn chuột với Maksêep.
Maksêep không chút nghi ngờ về từng lời của Đêmiđôp, nên hắn sợ hãi đến tột độ,
thôi không dám đi câu cá nữa, hay ít ra cũng không bao giờ dám đi câu một mình,
mà luôn phải chọn chỗ đông người. Đêmiđôp thì cứ một tuần một lần rẽ vào cửa
hàng của Maria mua rượu, mua các thứ đồ nhắm, và nếu trong cửa hàng không có
khách, ông lại hỏi:
- Thế nào, gã Maksêep của cô thế nào? Hồn vía hãy còn đấy
chứ?
Lúc đầu Maria lẳng lặng đưa hàng cho ông, khinh khỉnh quẳng
chai rượu lên mặt quầy, vẫn cố giữ vẻ kiêu ngạo trên khuôn mặt xinh đẹp. Nhưng
sau ả bắt đầu sụt sịt, rồi khóc không thành tiếng. Còn một hôm thì oà lên khóc
nức nở.
- Anh là đồ độc ác, đê tiện. Anh đã che hết ánh sáng của
chúng tôi.
- Tại sao lại chúng tôi? Chỉ hắn thôi. Còn cô và những đứa
con cô tôi sẽ không động đến. Cứ cho chúng lớn lên đã.
- Nếu tôi báo cho chính quyền biết anh đe dọa anh ấy thì
sao?
- Sao cô không báo? Tôi có cấm cô đâu? Cho hắn muốn đi đâu
thì đi, muốn kêu ai thì kêu, rằng tôi định làm gì hắn, và tại sao… Mà có lẽ hắn
cũng chẳng cần đi đâu, vì tôi biết hắn có quen thân với một anh công an xã, tôi
thấy hai người thường đi câu cá với nhau. Thì cứ cho hắn kể với anh ta tất cả,
cho hắn thú nhận xem ai là người đốt kho thóc nông trang hồi đó.,
- Sao tôi căm thù anh đến thế! Anh đã chen ngang vào đời
tôi, tâm hồn anh độc ác ghê tởm.
- Ra thế, thế mà tôi cứ thương hại cô.
- Cái gì? - ả chớp chớp đôi lông mi ướt.
- Có điều là không anh công an nào có thể bảo vệ tính mạng
hắn được đâu, cô cứ nói với tên Maksêep của cô như thế, - Đêmiđôp nổi cáu.
Ít lâu sau vợ chồng Maksêep hấp tấp bán nhà cửa và bí mật bỏ
đi nơi khác không cho ai biết. Đêmiđôp cười khảy, đi đến gặp người bán vé xe
lửa, cũng là một tay mê câu cá mà ông quen trong rừng. Người này vô tư thông
báo cho ông biết rằng vợ chồng Maksêep mua vé hành khách và gửi hành lý đến một
ga nhỏ bên bờ hồ Baikan. Đêmiđôp xin thôi việc, chia tay với chị Naxtaxia khóc
sướt mướt, rồi lên đường đi đến đó. Ở đó ông lại xin được chân coi rừng, và lại
đứng ngoài bí mật quan sát vợ chồng Maksêep thu xếp chỗ ở mới. Chúng mua căn
nhà rất đẹp. Maria, như trước đây, lại xin làm chân bán hàng.
Một sáng sớm kia sau khi đợi cho Maksêep ngồi bên bờ hồ mắc
mồi và thả câu xong đâu đấy, Đêmiđôp mới tiến lại gần hắn, súng vẫn đeo trên
vai.
- Thế nào, câu cá ăn mừng nhà mới đấy à? Chắc sẽ mời tao đến
dự chứ?
Maksêep nhảy dựng lên như bị điện giật, bước lùi lại trên
tảng đá suýt thì ngã bổ ngửa xuống mặt nước giá buốt. Mặt hắn xanh rờn như màu
nước hồ.
- Đừng sợ, lúc này tao không làm gì đâu, vì chỗ này đông
người. Có nhiều thuyền đánh cá đang đi câu kia kìa.
Rồi ông quay lưng bỏ vào cánh rừng nằm sát ngay bờ sông, để
lại Maksêep đứng chết lặng bên bờ hồ, quên cả cần câu trên tảng đá.
Sau đó vợ chồng Maksêep thay đổi chỗ ở hai ba lần nữa, hy
vọng trốn thoát được Đêmiđôp. Nhưng bây giờ Đêmiđôp đã cẩn thận hơn, theo dõi
từng hành vi của chúng, biết trước chặng đường cuối cùng của chúng. Và lần nào
cũng vậy, khi chúng chưa kịp ổn định hẳn chỗ ở mới, ông đã lại có mặt ở đó.
Tuyệt vọng, một hôm Maksêep uống rượu cho thật say và hét
vào mặt Đêmiđôp:
- Tao sẽ đầu độc mày, đồ săn đuổi khốn nạn! Tao sẽ bắt Maria
rắc thuốc chuột vào rượu hay thức ăn cho mày! Mày sẽ chết còng queo như con
chuột cống…
Nghe thế Đêmiđôp cười ha hả, nói thẳng vào mặt Maksêep :
- Tốt lắm! Thế thì tao cũng khỏi phải bẩn tay, mà mày và con
Maria vợ mày sẽ rũ xương trong tù cho đến lúc chết. Làm đi… Tao chả thiết gì
đời tao nữa rồi, nhưng mày sẽ được biết mùi nhà tù. Mày sẽ hiểu tao đã phải
chịu đựng thế nào, mày sẽ suy nghĩ về cái tâm hồn thối tha của mày. Sẽ có đủ
thời gian cho mày làm chuyện đó.
Đôi lúc Đêmiđôp nghĩ: không lẽ Maksêep không đoán ra rằng
ông sẽ không làm gì hắn cả, thậm chí không thèm động ngón tay đến hắn, rằng mọi
lời đe doạ của ông - chỉ là những lời dọa suông? Và ông tự trả lời: có lẽ hắn
dốt không đoán ra nổi. Kệ thây…
Cũng có lúc ông lại nghĩ: như thế ông trừng phạt tên Maksêep
có dã man quá không? Ừ, hắn đã làm một việc đê tiện không còn chút tính người.
Thôi, như người ta nói, hãy để chúa tha thứ cho hắn. Dù sao bây giờ Đêmiđôp
cũng có cuộc sống của mình rồi, xấu tốt thế nào thì cũng vẫn là cuộc sống. Ông
đã nuôi một đứa con gái giờ nó đã khôn lớn, tuy nó làm ông phải vất vả nhiều,
nhưng những niềm vui nó mang lại cho ông còn nhiều hơn. Bây giờ có lẽ ông cũng
nên cưới vợ, nhưng tìm đâu được một người như Naxtaxia? Rượu có lẽ cũng nên bỏ,
nhưng làm sao bỏ được?
Nghĩ thế, Đêmiđôp lại thấy trong lòng bùng lên một nỗi uất
hận, mỗi uất hận đó còn làm Đêmiđôp say hơn cả rượu vôtka: không, đã đến nước
này thì ông mặc hết, ông cứ uống cạn chén rượu đắng của đời.
Nhưng thực ra mà nói, từ lâu có lẽ Đêmiđôp đã thôi không theo
đuổi Maksêep nữa - là một người Nga bản chất độ lượng, có lỗi nào mà ông không
thể tha thứ! - nếu như thỉnh thoảng ông không được người ta cho biết tâm hồn
của tên Maksêep kia càng ngày càng đê tiện hơn. Không, Đêmiđôp đâu có sợ gì lời
đe dọa dùng thuốc diệt chuột của y, vì ông thừa biết Maksêep không bao giờ dám
làm chuyện đó, cái đê hèn của hắn là kiểu đê hèn đặc biệt…
Một hôm khi đưa cho Đêmiđôp hai chai rượu thuốc Maria bỗng
nói với ông:
- Paven, mời anh lại nhà chúng tôi chơi… Maksêep bảo tôi mời
anh. Anh ấy muốn nói chuyện đứng đắn với anh.
- Sao, sao?
- Nói chuyện công việc, anh ấy bảo thế.
- Ái chà, hay nhỉ!
Lúc đón tiếp ông, Maksêep ngồi ở bàn, mặc áo sơmi cổ ngắn. Tay y đặt trên bàn, mấy ngón tay cứ hết đan vào nhau lại
gỡ ra, mắt thì đảo sang hai bên.
- Tôi nói rằng tôi cũng thấy hay đấy. Nào, nói đi!
- Ra ngoài đi, Maria. Khép cửa lại. - Maksêep ra lệnh cho
vợ. - Thế này, Đêmiđôp này, chúng ta hãy nói chuyện với nhau như những người
đàn ông. Tôi không còn đủ kiên nhẫn với anh nữa, vậy nên tôi quyết đinh…
- Quyết định sao?
- Anh đừng ngắt lời. - Hắn lại bắt đầu lấm lét nhìn quanh,
nhưng không dám nhìn thẳng vào Đêmiđôp. - Anh cũng biết đấy, tôi có thể đi báo
là anh hăm dọa tôi… Rằng anh dùng mọi cách đe dọa tôi chỉ vì hồi đó tôi phát
giác anh là kẻ đốt nông trang. Người ta sẽ tin tôi chứ không tin anh.
- Nhưng tôi cần gì người ta tin tôi hay không - Đêmiđôp cười
nhạt. - Tôi đã hết hạn tù, và trong khi tôi chưa làm gì thì không ai có quyền
bắt tôi cả, dù anh có tố cáo hay không tố cáo…
- Khoan đã…
- Làm thế anh chỉ tổ vạch áo cho người xem lưng… Những ai
chưa biết rõ chuyện bẩn thỉu của anh, người ta sẽ biết.
- Khoan, để tôi nói đã… - giọng của y có vẻ ấp úng vội vã. - Thôi bây giờ chúng ta sẽ tìm cách để cả hai đều có lợi.
Đêmiđôp nheo mắt nhìn chăm chăm vào mắt Maksêep một lúc rồi
hỏi:
- Nghĩa là thế nào?
- Chuyện cũ giữa chúng ta anh hãy bỏ qua đi… Tôi cũng hối
hận không biết bao lần rồi. Nhưng biết làm sao, hối hận cũng không thể lấy lại
được. Bây giờ anh đã nhận một đứa con gái về nuôi, anh đang phải nuôi nó…
- Nói thẳng ra đi, đồ chó đẻ. Đừng loanh quanh nữa.
Maksêep tựa như không nghe thấy lời xúc phạm ấy
- Tôi sẽ đưa anh tiền, Paven ạ. Tôi sẽ đưa nhiều… - Maksêep
thở gấp và mạnh - Đấy, nếu anh muốn nói thẳng… chỉ xin anh hãy để tôi và Maria
được yên.
- À, ra thế… Thế bao nhiêu?
- Tôi sẽ đưa anh chẵn một ngàn. Nếu anh còn phải nuôi con
gái, tôi sẽ đưa nhiều hơn.
- Tiền ăn cắp hả? Tiền do Maria ăn cắp hả?
- Cái gì? - Maksêep đứng phắt dậy, suýt làm đổ cả bàn. Tim
hắn đập thình thịch. - Anh cần gì biết chúng là tiền gì?
Đêmiđôp tiến lại gần Maksêep nhưng hắn tránh sang một bên.
- Mày trả giá cho một mạng người rẻ quá, - Đêmiđôp nói dằn
từng chữ, rồi vung tay đấm mạnh vào cửa, chạy ra ngoài, tựa như ở trong buồng
ông bị ngạt thở.
Ra đến hiên, ông nghe thấy tiếng nức nở của Maria và bước
chậm lại. “Làm sao cô có thể sống với con người như thế nhỉ?”, ông định nói như
vậy, nhưng lại thôi. Ông bước chậm hơn, nhưng không đứng lại.
Một lần khác còn có chuyện ghê tởm hơn. Chuyện đó xảy ra ở
trong rừng, vào cuối tháng năm hay đầu tháng sáu gì đó. Lúc đó chim sẻ đã thôi
hót, nhưng chim cúc cu hình như vẫn còn tiếp tục kêu một cách buồn bã và tuyệt
vọng.
Khoảng gần trưa, khi những tia nắng xuyên khắp rừng và trong
rừng tràn ngập mùi cỏ nóng ngây ngất thì Maria bỗng xuất hiện bên cửa túp lều
của Đêmiđôp, tay xách cái giỏ lưới.
- Cô đấy à? - Đêmiđôp ngạc nhiên hỏi.
- Em đi… hái nấm.
- Mùa này thì hái nấm gì?
- Người ta bảo đã có nấm thông. Nhưng khu rừng này em chưa
quen, anh có thể dẫn em đi được không?
Maria vừa nói vừa đưa mắt liếc nhìn cô con nuôi Nađegiơđa
của Đêmiđôp đang chơi với con chó con, vẻ mặt ả lúc thì đỏ lựng, lúc thì tái,
và nổi những nốt màu xám.
Ả ăn mặc phong phanh, diêm dúa, không ra kiểu người đi hái
nấm, cái áo lụa mới, màu xanh với cổ áo viền đăng ten đắt tiền, và chiếc váy
loe rộng chưa nhầu nát. Cổ áo khoét sâu để hé bộ ngực trắng hồng đầy đặn, khéo
che đậy dưới hai đầu chiếc khăn mỏng vắt trên vai.
- Trông cô như cô dâu ấy, - Đêmiđôp cố nén giận, cười gằn
bảo.
- Thôi nào… em đã đến… - ả nói nhưng không dám nhìn Đêmiđôp. - Anh dẫn em… ra chỗ hái nấm đi.
- Đi thì đi… - Đêmiđôp cũng bắt chước giọng ả đáp lại… - Để
tôi lấy súng đã.
Khi nhác trông thấy ả tiến về phía lều của mình, Đêmiđôp đã
thoáng có ý nghi ngờ về mục đích của ả đến nhà ông. Ý nghĩ thoáng qua ấy cứ day
dứt mãi tâm can ông: “Không lẽ Maria… hai vợ chồng hắn… có thể đang tâm làm
chuyện đó?”. Lúc này sau những lời ả nói ra ông không còn nghi ngờ gì nữa.
Vợ chồng Maksêep dọn đến vùng này cách đây năm rưỡi. Và như
mọi khi, Đêmiđôp cũng theo chân chúng chuyển về đây.
- Tao đã đưa cho mày nhiều tiền, đúng không? - không chịu
nổi cuộc theo đuổi dai dẳng của Đêmiđôp, Maksêep tuyệt vọng kêu lên khi gặp
Đêmiđôp ở trong làng.
- Ừ, có đưa, - Đêmiđôp tán thành.
- Thế thì mày còn muốn gì? Nói đi, đồ con lợn kia, mày muốn
gì nữa? Tao còn phải cho mi bao nhiêu để mi khỏi hành hạ tao nữa? Ngôi nhà bọn
tao mua hình chữ thập, rất rộng - tao sẽ cho mi với tất cả đồ đạc trong đó. Tao
sẽ cho mi kèm cả số tiền đã hứa, mi hãy lấy đi.
Đêmiđôp lúc ấy đã uống đủ lượng rượu mà từ lâu ông quen
uống, nên thái độ tỏ ra hào hiệp, tính tình phấn chấn. Nỗi giận dữ tuyệt vọng
của Maksêep lại càng làm ông vui hơn.
- Để tính thử xem đã. Nghĩa là khoản tiền cùng ngôi nhà - ông làm ra vẻ suy tính.
- Phải, mày nhận chứ?
- Khô… ông, ít quá. Vẫn còn món nợ với Maria.
- Nợ nào? - Maksêep hỏi giọng lạc hẳn đi.
- Thôi, đừng vờ vẫn. Thế mi đã cướp cô ta từ giường của ai
vậy?
- Sao?
- Phải để cả cô ấy trả nợ tao nữa, - Đêmiđôp xẵng giọng nói
rồi bỏ đi, để Maksêep đứng sững giữa đường phố vắng tanh.
Đêmiđôp nói rồi quên, ông nói chỉ cốt để trêu tức thêm kẻ
thù. Đối với ông, tiền bạc, nhà cửa hay mọi thú vui khác trên đời này đâu còn
nghĩa lý gì. Ông cũng muốn tha thứ cho kẻ thù mà không đòi hỏi tất cả những thứ
đó. Nhưng ông không làm được.
Nhưng Maksêep thì chắc hẳn lại tưởng những lời ông nói là
thực, và thế là chúng quyết định - và Maria đã đến nhà Đêmiđôp mà không ngờ,
không đoán được rằng khi ở rừng về ả sẽ không lấy được sự tha thứ cho Maksêep,
mà chỉ mang thêm lòng căm thù sâu sắc với Đêmiđôp. Lúc này Maria đang đi trước
Đêmiđôp một chút, nói chung thân hình ả vẫn còn nở nang cân đối, đôi chân khoẻ
mạnh thoáng lộ trong đôi tất mỏng đắt tiền, ả đi mà không ngờ rằng lòng Đêmiđôp
mỗi lúc một câm lặng, tựa như có một nỗi căm hờn chất chứa bên trong, khiến ông
chỉ muốn vớ lấy cái gậy hay cành cây khô nào đó mà quất vào cái thân hình trơ
trẽn, béo tốt kia.
Thì mọi việc cũng sẽ diễn ra đại khái như vậy thôi, Đêmiđôp
nghĩ thầm. Nhưng trước hết ông muốn hỏi Maria vài điều, ông muốn biết sự đê
tiện của con người có thể đạt tới mức độ nào.
- Chưa có nấm đâu, Maria ạ, - Ông dừng lại giữa một khoảng
rừng thưa vắng vẻ đầy hoa rừng sặc sỡ và bảo. - Năm nay nấm sẽ có muộn và ít.
Vào ngày đầu lễ mùa đông không có tuyết, mà không có tuyết có nghĩa là mùa hè
này cũng không có nhiều nấm đâu.
Ông ngồi bệt xuống cỏ, dựa súng vào gốc cây. Maria cũng ngồi
xổm xuống, rút trong túi ra chai rượu, đặt xuống cỏ.
- Cô cởi quần áo ra! - Ông ra lệnh nhát gừng.
Ả run bắn người, từ từ, khó nhọc, đứng dậy, hai tay buông
thõng ra hai bên.
- Paven… - Mặt ả lại nổi lên những nốt như vết muỗi đốt… -
Hay là… Ta uống đã nhé?
- Sao, tỉnh táo thì xấu hổ à? Cởi ra, tôi bảo cô, cởi hết
ra.
Ả lại rùng mình, tháo chiếc khăn trên đầu.
Đêmiđôp ngồi cúi mặt, ông không nhìn, nhưng cảm thấy ả run
run cởi cúc áo ngoài rồi ném chiếc váy xuống, trên người chỉ còn chiếc váy lót.
- Cởi cả váy lót ra. Ở đây không có ai đâu.
Bấy giờ ả mới quỳ thụp xuống chân Đêmiđôp khóc lóc:
- Em không thể cởi hết được… Hãy thương em, Paven! Hãy
thương em!
Thực ra Đêmiđôp cũng thấy thương xót ả. Nhưng không biết tự
nơi nào trong thâm tâm ông bỗng thấy căm ghét chính bản thân mình vì chuyện đã
bắt ả cởi quần áo.
- Hãy nói đi, Maria… Hãy giải thích đi. Cô và gã chồng cô
bàn bạc với nhau ra sao? Chắc cô và hắn phải bàn bạc với nhau chuyện này chứ?
Bàn vào ban đêm hay ban ngày? Tại sao cô… có thể chấp nhận làm chuyện đó?
- Tại sao ư? - Tấm thân đẫy đà của ả run lên, tóc xổ tung,
má, môi nhoè nhoẹt nước mắt - Anh ấy luôn mồm chửi bới tôi: nếu không bị thiệt
thòi về cô thì có lẽ hắn đã để chúng ta yên.
- Thế còn cô?
- Tôi làm sao?
- Cô thực sự không thấy ghê tởm sao?
Ả im lặng lau nước mắt.
- Không biết… Ngày xưa tôi có yêu anh. Có lúc tôi nghĩ giá
không có anh ấy thì có lẽ tôi đã sống hạnh phúc với anh.
- Thế sao cô không bỏ hắn?
- Bỏ ư?… Nhưng bỏ đi đâu? Bỏ đi với ai? Bây giờ lẽ nào anh
nhận lấy tôi?
Trong giọng nói của ả có cái gì thực thà, buồn bã. Ông lại
càng thương xót Maria hơn.
- Thế giả dụ tôi chấp nhận. Cô biết đấy - tôi chưa có vợ. Và
vì sao cô biết không?
- Paven? - cặp mắt ướt của ả mở to, sáng lên vì ngạc nhiên. - Chả lẽ anh vẫn còn… chút tình cảm gì với tôi ư?
- Không, không còn gì hết, - ông đáp, - Nhà tù đã xóa sạch
hết rồi, sau đó là những năm bị làm tù binh.
- Nhưng Maksêep có lỗi gì trong chuyện anh bị bắt làm tù
binh? Không có chuyện đó người ta cũng bắt anh đi lính, và ở đó anh vẫn có thể
bị bắt làm tù binh cơ mà…
- Hừ, đến nước này mà cô vẫn bênh cho hắn à? Cô vẫn dám nói
thế à?
Maria hoảng sợ trước những lời nói đầy vẻ dữ tợn và căm thù,
ả đưa hai bàn tay nóng bỏng nắm lấy tay ông, nhưng lại buông ra ngay, hơi lùi
lại nói:
- Tôi không bênh, tôi không bênh…
- Rồi tôi lại đi theo các người, lẽo đẽo như cái đuôi.
- Tôi hiểu anh làm thế để làm gì và tại sao.
- Hiểu? - Anh bĩu môi, - Cô không hiểu gì hết.
Một con ong ở đâu bay đến và cứ vo ve xung quanh tấm thân hở
hang của Maria, nhưng ả cũng không để ý. Ả vẫn trố mắt kinh ngạc nhìn Đêmiđôp,
vầng trán rộng của ả thỉnh thoảng hiện lên những nếp nhăn.
- Không, tôi không thể sống với anh được.
- Tại sao? Tôi đáng sợ à? Nhưng có lẽ tôi không đáng sợ bằng
thằng Maksêep của cô đâu.
- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Không phải ở bề ngoài.
- Thế thì vì cái gì?
- Tôi chắc anh sẽ cấm không cho tôi buôn bán.
- Cấm làm gì!- ông cười nhạt - công việc cần thiết cho mọi
người mà!
- Không… anh sẽ không cho phép… làm chuyện đó.
- Ăn cắp à? - Đêmiđôp nhắc.
- Hừ, sao anh lại dùng chữ ấy?
- Chữ ấy thông thường thôi, vì cô là đồ ăn cắp mà.
- Sao? - Ả thở mạnh và giận dữ. - Anh hiểu cuộc sống một
cách, còn tôi hiểu cách khác. Sống phải biết cách…
Ả nghẹn lại không nói hết câu và Đêmiđôp lại nhắc:
- Cách như Maksêep dạy cô phải không?
- Phải, đã dạy. - Ả cáu tiết hét lên. - Anh ấy không sống
trên mây, mà sống trên mảnh đất của người đời. Anh ấy là người kiên quyết,
không bỏ qua cái gì đến miệng. Anh ấy là người như thế, tôi hiểu được anh ấy
ngay từ khi chúng tôi đính hôn với nhau. Anh ấy là con người cứng rắn nhưng…
Mặc dù bàn tay anh ấy có lúc thô bạo, nhưng anh ấy là đàn ông. Anh ấy dám làm
tất cả để giành lấy chỗ tốt hơn. Còn anh thì sao? Cả đời sống chui rúc trong
rừng rậm. Anh bảo là giá anh lấy tôi ư? Lấy anh thì sẽ sinh sống bằng gì? Bằng
lương coi rừng của anh chắc? Trò cười chứ không phải tiền lương. Đi ăn xin
thiên hạ một ngày còn kiếm nhiều hơn thế.
Ả còn nói rất lâu, còn ông thì cứ ngồi nghe, thỉnh thoảng
gật gù như thể tán thành. Sau đó ông cầm lấy súng, rồi không hiểu sao bỗng dưng
tháo chiếc quai đã sờn bẩn vì mồ hôi ở súng ra.
- Anh làm gì thế? - Ả hấp tấp hỏi rồi im bặt. Đôi lông mày
rướn lên như sắp sửa rách đôi.
- Nghĩa là hắn đê tiện đến mức sẵn sàng làm cả chuyện đó,
cốt sao được yên thân?
- Vâng, cả chuyện đó. - Ả đó thốt lên, giọng như còn có vẻ
kiêu hãnh. - Vả lại, nghĩ cho cùng anh ấy còn biết làm gì hơn để thoát khỏi
anh? Quả thực anh ấy không thể dùng bả chuột giết anh được. Để rồi rũ xương
trong tù vì anh sao? Anh là đồ súc vật bẩn thỉu. Anh muốn tôi cởi cả áo lót
nữa, hả?
Đôi mắt ả bỗng long lên một cách dữ tợn, điên khùng.
- Thôi, không cần phải cởi áo lót nữa! - ông nói, đoạn cứ
ngồi nguyên dưới đất, cầm quai súng vụt vào vai ả.
- Pav… Paven!- Ả nhỏm dậy hét lên.
- Không cần cởi áo lót, - ông cũng đứng dậy, xông vào ả. Ả
vừa lùi vừa giơ hai cánh tay để trần lên che mặt. - Không cần cởi áo lót… Không
cần…
Mỗi câu nói như làm tăng thêm nỗi giận của ông, cứ sau mỗi
câu ông lại vụt mạnh hơn, tàn nhẫn hơn - vụt vào hai cánh tay để trần, vào vai,
và tuy sợ quật phải mắt, ông vẫn cố nhằm vào mặt ả mà vụt.
- Không cần… Không cần… Che mắt đi, đồ ngu!
Mãi sau, không hiểu vì đoán ra hay vì bị vấp, ả ngã úp mặt
xuống cỏ, giơ hai tay che cái đầu xõa xợi. Đêmiđôp vẫn nghiến răng quật tới
tấp, không nói không rằng. Chiếc váy mỏng trên người ả đã rách nát từ lâu trên
tấm thân béo trắng đã hằn lên nhiều vệt tím…
Khi thấy người ả thôi không run lên dưới ngọn roi nữa, ông
mới ngừng tay.
Ông quẳng dây da xuống cỏ, cặp súng vào nách.
- Không phải tao, mà chính mày mới là đồ súc vật! Còn thằng
Maksêep của mày thì còn tồi hơn cả súc vật! Chúng mày hãy cút khỏi nơi này cho
khuất mắt tao, còn tao sẽ ở lại đây, tao muốn phát hiện ra con người trong tao,
như có lần một người thông minh đã khuyên tao như vậy.
Rồi không cần biết là ả có thể không hiểu, mà cũng có thể
không nghe thấy những lời ông nói, Đêmiđôp lẳng lặng bỏ đi…
Đến gần mùa xuân, vợ chồng Maksêep thu xếp chuyển về vùng
Ôbi, sống ở làng Đubrôvinô. Đêmiđôp sống thêm ba năm nữa ở vùng rừng Tsulumxki,
tin rằng ông đã tìm ra con người trong mình, có nghĩa là bây giờ có thể mãi mãi
quên đi vợ chồng Maksêep. Nhưng ông không sao chấp nhận với ý nghĩ ấy được, và
vào một ngày mùa xuân, ông lại chuyển đến vùng rừng Đubrôvinô nằm trên bờ sông
Ôbi hùng vĩ và yên tĩnh.
8
Những trận mưa dai dẳng và lầy lội đã chấm dứt từ lâu, tuyết
xốp bắt đầu phủ lên làng Đubrôvinô, rừng taiga và những con đường xuyên rừng.
Cậu bé Grinka suốt ngày trượt tuyết trên sườn đồi gần Ôbi, lúc về nhà mặt bao
giờ cũng đỏ ửng vì tuyết, còn dòng sông thì cứ lùa những con sóng đen nặng chạy
qua trước mặt túp lều của Đêmiđôp, và chảy vòng quanh hòn đảo bị phủ tuyết ở
giữa sông. Phía sau hòn đảo có một chỗ nước sâu, là nơi trú rét của cá, nơi mà
khi băng mới bắt đầu đóng người ta có thể câu được những con cá rô nặng hàng
kilô, hay những con cá hồi to bự. Đôi khi người ta còn bắt được cả nemma là thứ
cá bây giờ hiếm có ở vùng Ôbi.
Cuối cùng dòng sông dũng mãnh cũng phải đuối sức hẳn, sóng
bắt đầu thấp hơn và đều hơn, những vụn băng mỏng ngày càng nhiều và đặc hơn,
tạo thành cả một lớp băng. Chỉ có ở giữa sông, nơi mắt không nhìn thấy dòng
chảy, nhưng Đêmiđôp biết là nó chảy xiết và dữ, là vẫn còn một dải nước dài và
trong. Ở đoạn sông chảy qua làng Đubrôvinô, dải nước ấy ở cách bờ khá xa, và
khi gặp hòn đảo thì nó chảy vòng ra phía sau.
Dải nước trong ấy mỗi ngày một hẹp hợn. Cứ sáng sáng, và đôi
khi cả buổi tối nữa, dòng nước không đóng băng này nhả khói dầy đặc - băng giá
vắt đi của dòng nước những hơi ấm cuối cùng mà nó tích tụ trong cả mùa hè.
- Chà, băng giá tốt quá… Còn trẻ mà đã chịu khó ghê… - Một
hôm Đêmiđôp ngồi nhìn ra sông nói.
Grinka đã quen với những ý nghĩ bất ngờ của bố về những sự
vật xung quanh và các hiện tượng thiên nhiên, có điều không phải bao giờ cậu
cũng hiểu được những ý nghĩ ấy.
- Băng giá thì có gì tốt hả bố? - cậu phản đối - Vì nó lạnh
lắm. Giá lúc nào cũng là mùa hè thì thích hơn.
- Hừ! Thế con thích trượt tuyết mà lại không thích có băng
tuyết thì trượt thế nào hả?
- Trượt tuyết tất nhiên là thích. Nhưng không cần phải băng
giá đến thế.
- Nhưng cũng phải cho mặt đất nó ngủ chứ! Mà đất nó cũng khó
tính lắm, không dễ gì ru nó ngủ như bố vẫn ru con đâu. Nó cũng hay quát tháo
như bố. Nhưng bố quát tháo con đâu phải vì bố ác, phải không? Thành thử đất
cũng chỉ cầu nhầu theo kiểu người bố thôi. Thế không phải nó cũng tốt sao?
- Nhưng đất ngủ để làm gì ạ? - Grinka nhìn chằm chằm vào mặt
bố hỏi.
- Sao lại để làm gì? - Đêmiđôp cau mày, tựa như tức giận vì
sự ngu dốt của Grinka. - Thử hỏi nếu con không ngủ một đêm, không được nghỉ thì
sẽ ra sao hả? Thì hôm sau người con sẽ thế nào? Con sẽ yếu ngay… Vì thế đất
cũng phải nghỉ. Người nghỉ ban đêm, còn đất thì nghỉ về mùa đông con ạ.
- Nhưng làm sao nó nghỉ được ạ? - Grinka vẫn cãi bướng - Nó
chỉ toàn đất là đất, nó có sống đâu, có mệt đâu mà nghỉ?
- Sao lại không mệt? Không, đất nó cũng sống, Grinka ạ. Con
cứ nghĩ xem… Buổi sáng con người tỉnh dậy hồng hào khoẻ mạnh, vui vẻ. Thì đất
về mùa xuân cũng thế. Con người thì bắt đầu công việc vào buổi sáng - người đi
làm, người đi học… Còn đất thì bắt đầu làm việc từ mùa xuân - cỏ cây bắt đầu
mọc trên nó, hạt bắt đầu nảy mầm, cây cối bắt đầu xanh tươi. Tất cả đều sinh
sôi nảy nở, và đất nuôi dưỡng chúng bằng chất sữa mà nó tích luỹ trong mùa
đông, mà muốn cho mỗi hạt thóc, mỗi quả cây, mỗi cành lá đâm chồi nảy lộc thì
phải cần biết bao sức lực hả?
Grinka ngẫm nghĩ, và chắc hẳn đã hình dung ra điều gì nên
trả lời đã có vẻ hiểu biết:
- Vâng… Nhiều lắm.
- Đấy, vấn đề là ở chỗ đó. Ngoài ra đất còn làm biết bao
nhiêu việc. Ví như sông cả mùa hè chở bao nhiêu thuyền trên người nó, gió mang
đến cho đồng ruộng và rừng bao nhiêu hạt giống, trên những cánh đồng và thửa
rừng ấy có bao nhiêu súc vật lớn lên… Rồi còn nhiều việc khác nữa. Mà tất cả là
cho ai?
- Bố bảo cái gì cho ai cơ?
- Tất cả những việc làm của đất ấy?
- Thì từ trước đến nay nó vẫn như thế rồi.
- Nó làm tất cả những việc ấy là cho con người, Grinka ạ -
Đêmiđôp hơi nhíu lông mày nói. Ông nói với giọng như thể muốn làm không chỉ cho
con trai mà cả bản thân mình tin vào chuyện đó. - Con phải nhớ đến hai quy
luật, có lẽ là quan trọng nhất trên đời này. Một là đất yêu mến con người, hai
là con người cũng phải yêu mến đất đai. Con nhớ chứ?
- A ha.
- Khi đó con sẽ sống dễ chịu hơn. Khi đó tâm hồn con sẽ
không bao giờ bị khô cằn cả… dù cho bọn người đểu có làm chuyện gì đểu giả với
con chăng nữa.
Có lẽ, Đêmiđôp nghĩ, chưa nên nói với con trai những lời
cuối cùng, vì ngay lập tức Grinka hỏi ông hết câu này đến câu khác:
- Thế trên mặt đất này có nhiều người đểu không, bố?
- Cũng đôi khi có.
- Thế đất cũng yêu chúng ạ?
- Không… Đất không yêu chúng.
- Thế tại sao những người ấy lại đểu?
- Không biết, chỉ biết lớn lên chúng đã thành như thế rồi.
- Thế bố gặp chúng bao giờ chưa?
- Cũng có gặp, con ạ.
- Thế bố làm gì với chúng?
Phải, ông đã làm gì với chúng? Không, lẽ ra không nên nói
với con trai những chuyện như thế. Bây giờ biết trả lời câu hỏi hết sức đơn
giản và ngây thơ của con trai như thế nào đây?
- Thôi, đi ngủ đi con. Chết thật, khuya quá rồi, - ông nói
vội. Và khi đã bước vào buồng ngủ, lên giường nằm, và cảm thấy con trai vẫn chờ
câu trả lời, ông nói:
- Con hỏi bố làm gì với chúng ấy à? Ôi, Grinka, Grinka!… Khi
nào lớn lên có lẽ con sẽ hiểu rõ hơn bố phải làm gì!
- Nghĩa là bố không hiểu ạ?
- Phải, bố không hiểu lắm, con ạ!
- Nhưng con hiểu, - cậu bé im lặng một lúc rồi lên tiếng.
- Sao? - Đêmiđôp đang nằm phải nhổm người dậy nhìn sang chỗ
cậu con trai đang nằm, làm như thể Grinka có thể nói cho ông biết điều khám phá
gì to lớn, phi thường mà suốt đời ông đi tìm, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra.
- Bọn chúng ấy mà, bố biết không, phải cho chúng sống một
mình với đất, và không bao giờ - không bao giờ được cứu chúng cả.
- Cái gì, cái gì? - Đêmiđôp ngồi hẳn dậy
Trong bóng tối ông không nhìn thấy con trai, chỉ nghe thấy
Grinka cũng đã ngồi nhỏm dậy.
- Bố ạ, con cũng cho rằng có lẽ đất nó cũng sống, nó tốt với
những ai yêu nó, hiểu nó và biết cách chăm sóc nó, - Grinka nói rồi không hiểu
sao thở dài - Nó sẽ cho người ấy ăn quả rừng, cho uống nước suối…
- Sao?…
- Thế bố còn nhớ hồi bố con mình còn ở trong lều cạnh rừng
ấy, có một tên đi bắn trộm nai không?
- Sao không nhớ!… Hôm ấy bố đuổi cái thằng ăn cắp ấy ở trong
rừng mãi cho đến tận bờ sông Ôbi.
- Đúng rồi, nó còn bắn lại bố nữa.
- Đúng, nó bắn. Nhưng vội quá nên không trúng.
- Con biết, bố đã kể cho con nghe rồi. Sau đó bố còn kể là
hắn nhảy lên bờ, định lấy thuyền bơi đi, nhưng bị vấp vào đá què chân.
- Ừ, thế sao?
- Thế, đất nó yêu những người tốt, còn người xấu nó cũng
biết cách trừng phạt. Người nào đểu đất nó cũng biết chơi lại đấy. Đáng nhẽ bố
cứ để mặc hắn cho đất - Grinka nói với giọng cáu kỉnh. - Thế mà bố… bố lại lấy
thuyền chở hắn đến bệnh viện.
- Phải… phải, phải. - Đêmiđôp ba lần nhắc lại câu đó bằng
giọng khàn khàn và có vẻ không hài lòng.
- Nhưng nếu chúng là đồ đểu thì việc gì bố phải làm thế… -
Grinka lại sôi nổi, nói to. - Nó còn bắn cả vào bố chứ đâu phải chỉ bắn nai? Mà
bố có phải súc vật đâu, bố là người cơ mà?
Ông chả biết trả lời con trai ra sao nữa? Nhưng phải trả
lời, Đêmiđôp biết và cảm thấy như vậy.
- Về mặt nào đó thì có lẽ con nói đúng, Grinka ạ. - Đêmiđôp
bóp mạnh chiếc gối cho nó phồng lên. - Nhưng mặt khác thì lại không đúng. Thế
hỏi bố còn tim không? Hay là tim bố đã thay bằng cái khác rồi? Cái gã nông dân
ấy đúng là kẻ đê tiện rồi… Nhưng dù sao hắn vẫn là con người. Chả lẽ để mặc hắn
chết hay sao?
- Thế ngộ bố bị thương, hắn có chở bố đến bệnh viện không?
- A… Bố đã nói là về mặt ấy thì con đúng mà. Nhưng mặt khác…
- Mặt này với chả mặt khác… Phải cho công bằng chứ, - Grinka
vẫn không chịu thua.
- Công bằng…Đó cũng là vấn đề phức tạp, con ạ. Có lẽ mỗi
người hiểu nó theo cách riêng của mình.
- Sao lại theo cách riêng của mình? Phải có một sự công bằng
nào là công bằng nhất chứ?
- Rồi khi nào lớn lên con sẽ hiểu có hay không có… Con sẽ
hiểu rõ hơn bố. Bây giờ thì ngủ đi, cái thằng hay vặn vẹo kia.
Mấy từ cuối cùng Đêmiđôp nói hơi sẵng. Ông cáu với chính
mình, vì hiểu rằng, ông đã không giải thích, không thể giải thích nổi cho con
trai một điều rất quan trọng và cần thiết đối với nó.
9
Cuối cùng dải nước còn sót lại cũng bị phủ băng, tuyết đã
rơi dầy, và dòng sông rộng trở thành vắng ngắt và buồn tẻ. Từ bờ bên này sang
bờ bên kia là cả một khoảng không trắng muốt và sạch bóng, sạch đến nỗi có cảm
tưởng không bao giờ có ai dám đặt chân lên nó, và cho đến tận mùa xuân cũng
không có ai dám khuấy động sự yên tĩnh của con sông rốt cuộc cũng đã bắt đầu
thiếp đi.
Nhưng Đêmiđôp biết rõ là sẽ không phải như thế, rằng chỉ hai
ba ngày nữa, khi băng cứng hơn một chút là con người sẽ dẫm đạp lên lớp băng
trắng muốt ấy. Mà những người đầu tiên đặt chân lên nó sẽ là dân câu cá. Ở làng
Đubrôvinô thì ngoài trẻ con, hầu như không có người nào đi câu cá, họa chăng
chỉ có tên Maksêep lúc nào cũng tham làm việc đó, cùng hai ba ông già khác.
Nhưng đám dân thành phố cách đó chừng bảy chục kilômet về phía thượng nguồn sẽ
lũ lượt kéo đến. Mọi người đều biết đến cái bến cá mùa đông nằm sau hòn đảo.
Hôm nay thứ tư, thì chiều thứ sáu là họ sẽ tới tấp kéo về đây nghỉ hai ngày
cuối tuần. Maria cũng biết chuyện đó, nên từ chiều qua mụ đã lên trung tâm
huyện chở về không biết bao nhiêu thùng rượu vốtka. Và trong làng Đubrôvinô,
cái ô cửa “mắt sói” sẽ lại sáng rực ánh đèn đến tận sáng. Bản thân Maria thì
đến gần nửa đêm mới đi ngủ còn Maksêep sẽ thay ả đứng bán sau tấm màn vải đo
đỏ, nơi hắn sẽ đưa ra từng chai rượu không trả lại tiền thừa.
Khi nghĩ đến cái “mắt sói”, Đêmiđôp bỗng nhớ ra rằng từ cái
ngày ông ném chai rượu vào tường nhà Maksêep, ông chưa uống giọt nào. Và lạ
một cái là ông không thấy thèm. “Không lẽ không bao giờ mình thèm rượu nữa sao?
Giá được thế thì tốt. Grinka phải nuôi cho lớn. Sáng mai mình sẽ cho nó ra chỗ
bến cá chơi. Quả thực đó là chỗ dễ câu nhất, là cái vũng có nhiều cá rô nhất -
gần chỗ bờ bên kia, nhưng sang đó hãy còn nguy hiểm. vì trên chính trục sông
băng vẫn chưa cứng hẳn. Mà ở ngay cạnh đảo thì lại chẳng có gì để câu. Sáng mai
khi Grinka tỉnh dậy, mình đã có nồi cháo cá rồi! Ăn đi con, rồi đi học…”
Đúng là sáng hôm sau Đêmiđôp dậy từ lúc mặt trời chưa mọc,
cầm lấy lưỡi câu, cần câu, hộp mồi chuẩn bị sẵn từ tối qua. Khi ông bước ra
đường, trời hãy còn tối đen, những ngôi sao lớn trên trời rất sáng. Nhưng có
một ngôi sao sáng mà Đêmiđôp không biết tên của nó, rơi vào một bụi cây trên
hòn đảo. Như thế nghĩa là trời sắp sáng.
Lớp băng Đêmiđôp dẫm lên khi đi ra đảo thỉnh thoảng lại khẽ
kêu lách tách. Nhưng tiếng rạn của nó ngắt quãng và yếu ớt, không có vẻ gì đe
dọa, Đêmiđôp biết rõ điều đó. “Nhưng mò đến chỗ trục sông thì không được, - ông
nghĩ thầm, - ở đó băng không giữ nổi, ngã gãy chân ngay”
Rồi ông lại nghĩ đến Grinka, đến chuyện ông đã không giảng
giải được cho cậu bé phải đối xử với những tên đểu cáng như thế nào, và có một
sự công bằng nào là công bằng nhất trên đời này không. Bây giờ dù ông có thèm
rượu đi nữa, cũng không đời nào ông cầm lấy cốc.
Trong lúc ông vừa đi thong thả, vừa nghĩ ngợi như thế thì
trời bắt đầu hửng, mép chân trời phía đông đã bắt đầu nở ra.
Đến gần đảo, Đêmiđôp dừng lại, chọn chỗ và bắt đầu lấy xà
beng đục băng, chỉ một nhát ông đục ngay được một lỗ băng. Ông đặt xà beng
xuống mặt băng, nhưng chưa kịp đứng dậy thì nghe thấy tiếng kêu thất thanh:
- Ối, dân làng ơi, cứu tôi với!
Giọng kêu lạc hẳn đi vì sợ. Nhưng dù giọng có lạc đến đâu
thì khi nghe thấy những âm thanh đầu tiên, Đêmiđôp đã nhận ra ngay đó là giọng
của ai. Hơn nữa, dường như Đêmiđôp đã đoán trước điều đó, nên ông không lấy gì
làm ngạc nhiên lắm. Nhất là ông đã biết trước, hình như biết trước điều gì sẽ
xảy ra ở đó, sau cái mỏm nhỏ của hòn đảo có tiếng kêu vẳng lại. Đêmiđôp bỗng nôn
nao sung sướng, tựa như có chiếc lò xo sống nào bị căng hết sức bỗng bật ra
khỏi máu, co lại và trong phút chốc làm biến đi nỗi đau tích tụ từ nhiều năm
nay. “A ha… a ha!” trong đầu ông hai lần thoáng hiện một ý nghĩ hả hê, vui
mừng. Rồi lòng ông tràn ngập một cảm giác, tựa như cái công việc cực nhọc mà
ông đã làm suốt đời cuối cùng đã làm xong, cái mục tiêu mà ông theo đuổi bao
nhiêu năm nay cuối cùng đã đạt được…
Con người ta đôi khi thật khó hiểu. Mới hôm kia hôm qua,
thậm chí mới sáng nay, Đêmiđôp còn sống trong linh cảm mơ hồ, rằng sẽ có điều
gì quan trọng khác thường xảy đến với ông, ông cảm thấy điều mà vì nó ông sống
khắc khoải đau đớn bao nhiêu năm nay, điều mà có thể ông sinh ra là vì nó, ngày
càng đến gần, đến gần hơn. Nhưng đó là điều gì thì lại không sao hiểu ra và cắt
nghĩa cho được.
- Dân làng ơi!… Dân làng ơi!… - Tiếng kêu thất thanh lại
vang lên trên dòng sông hoang vắng, dưới bầu trời tối lạnh, nơi có hàng triệu
vì sao đang sáng mờ.
“Nó đấy!… Nó đấy!…” – trong đầu Đêmiđôp loé lên những ý nghĩ
như vậy, và tuy hiểu rằng phải đi, phải chạy đến chỗ có tiếng kêu của Maksêep,
nhưng ông vẫn đứng nguyên tại chỗ không nhúc nhích, chân ông hình như dính chặt
vào lớp băng.
Phải, đúng là đôi khi không thể hiểu được con người ta ra
làm sao. Mới cách đây nửa tiếng, khi bước chân ra khỏi nhà, và mới cách đây vài
phút, khi bước chậm rãi trên mặt băng, không biết bằng linh cảm gì, Đêmiđôp
đoán ra rằng Maksêep, kẻ tử thù không đội trời chung của ông, đang ở gần đâu
đây, không xa. Rồi khi nhớ lại cuộc nói chuyện với Grinka cách đây không lâu và
nghe tiếng băng khe khẽ rạn dưới chân, Đêmiđôp còn nghĩ rằng lớp băng cứng hẳn
vẫn có thể giữ được tấm thân phì nộn của Maksêep, nó chỉ oằn xuống nhiều hơn
và kêu mạnh hơn. Và chắc Maksêep cũng còn đủ trí khôn để đừng bén mảng đến trục
sông, đến cái bến cá trù phú.
- Cứu tôi với! - lần thứ ba tiếng kêu vọng đến tai Đêmiđôp.
Giọng Maksêep lần này đã đuối lắm, nghe tuyệt vọng và cam
chịu.
“Hừ, ra hắn cũng hiểu giờ này còn ai nghe thấy tiếng hắn?” - Đêmiđôp thờ ơ nghĩ vậy. Rồi cũng thản nhiên như thế, ông nhận xét: - Thế là hắn
vẫn mò đến chỗ trục sông. Hắn ngu quá! Thôi, kệ thây, như thế mới đúng là trời
có mắt.
Tuy nghĩ thế, nhưng chân Đêmiđôp vẫn cứ bước vội tới chỗ hòn
đảo và tiến đến gần mỏm cát. Cảm thấy dưới chân lớp cát khô bị băng phủ, ông
chợt phát hiện ra sự mâu thuẫn giữa ý nghĩ và hành động của mình “Có vẻ như
mình đang vội đi cứu hắn. Ồ không… Ta chỉ đứng xa quan sát xem hắn… Không!”
Nhưng nghĩ thế, Đêmiđôp vẫn tiếp tục rảo bước. Sau khi chạy
từ sau mỏm cát ra, ông nhìn thấy phía trước, trong bóng tối đang sẫm dần, một
chấm đen trên mặt băng. Ông đi thẳng đến đó mà thâm tâm biết rõ rằng lẽ ra
không nên đi. Vì bất cứ lúc nào ông cũng có thể bị thụt băng, rơi xuống hố nước
giá buốt và chỉm nghỉm ngay lập tức. Nước chỗ này rất xiết, chỉ một hai tích
tắc là tấm thân ông sẽ bị kéo xuống dưới lớp băng và trôi đi tiếp, đầu ông sẽ
bị va vào băng một lúc, để cố phá vỡ nó mà không thể nào phá vỡ nổi, sẽ đập
mãi, càng ngày càng thấy khó thở hơn, “Mà ở nhà thằng Grinka đang ngủ… Khi tỉnh
dậy, nó sẽ chờ ông ở ngoài phố về…”. Đó sẽ là ý nghĩ cuối cùng lóe lên trong óc
nó, lóe lên rồi tắt ngay…
- Nhanh lên, cứu tôi với, bạn ơi!
Đến chỗ Maksêep chỉ còn chục bước. Nhưng không biết có phải
vì tiếng kêu đó, hay vì tiếng băng rạn nguy hiểm dưới chân, hay cũng có khi vì
những ý nghĩ trong đầu, Đêmiđôp bỗng dừng lại, và bất giác nằm xuống mặt băng.
Ông nằm sấp, hai tay hai chân dạng ra và cảm thấy tim đập rất mạnh. “Thật là
ngu, suýt nữa thì chính mình cũng bị thụt. Mà vì cái gì mới được chứ?”. Rồi ông
lại thấy dưới bụng, dưới ngực, dưới đôi khuỷu tay của mình là cả một hố nước
sâu thẳm phủ một lớp băng mỏng giòn, ông nghe thấy, dù hiểu rằng không nên nghe
thấy thì hơn, những luồng nước đặc đang liếm dưới vỏ băng đó. “Quay lại ngay,
quay lại - như có người nào bắn vội vào đầu ông những câu đó. Hãy trườn ngay lại
phía sau, - Chớ có đứng dậy bây giờ…”
- Lại gần chút nữa đi, bạn! - Maksêep hổn hển nói - Băng
không vỡ đâu. Và quẳng cho tôi cái gì đó… Cái thắt lưng…
- Nhưng tao đây, Maksêep !
- Ô-ô-ô!
Nỗi uất giận bất lực, sự tuyệt vọng và rên rỉ trước lúc chết
– tất cả đều chứa đựng trong tiếng kêu đó của Maksêep , xé tan màn không khí mờ
đục. Đêmiđôp phân biệt được rõ từng sắc thái trong giọng kêu của y, cười khảy,
và lại cảm thấy lạnh toát người vì một ý nghĩ hả hê.
“Hay là mình bị lạnh vì hơi băng thấm qua áo lông?” - một ý
nghĩ mơ hồ không biết từ đâu đến với ông khiến ông nhăn mặt.
Buổi sáng mùa đông hiện ra một cách khó khăn chật vật, bóng
tối vẫn còn sẫm và hình như không tan ra mà lại càng dày đặc hơn.
Nhưng trong cái màn tối dày đặc trước lúc rạng đông ấy,
Đêmiđôp vẫn nhìn rõ mọi vật, thậm chí cả ánh mắt đã mờ đi của Maksêep .
Cái đầu hắn vẫn nhấp nhô trong lỗ băng không rộng lắm, nhưng
dài chừng sáu thước… Có một cái sào vắt ngang lỗ băng, Maksêep đuối sức treo lơ
lửng trên cái sào, còn dòng nước mạnh và xiết đang cố sức kéo người y xuống,
kéo đôi chân y ở dưới nước về phía trước. “Rõ ràng hắn cũng biết đến chỗ đó rất
nguy hiểm nên mang theo cái sào để phòng xa…” - Đêmiđôp nhẩm tính thầm trong
bụng.
- Paven, Paven - Maksêep gọi to tên ông hai lần - Tôi chết
mất…
Đêmiđôp nhìn thấy Maksêep đang chết. Từ lâu Đêmiđôp đã hiểu
chuyện gì đã xẩy ra ở đây, tại sao cái hố nước dài như thế. Khi bị thụt chân,
Maksêep hốt hoảng bíu lấy chiếc sào cố bò lên khỏi lỗ băng, nhưng lớp băng mỏng
và giòn cứ mỗi lúc một vỡ to thêm. Những mảnh vụn lập tức rơi xuống và bị nước
cuốn đi. Cả Maksêep cũng bị thụt, nhưng hắn lại cố bò lên mặt băng, và mặt băng
lại vỡ ra. Nhưng người hắn rét run lên vì lạnh và sợ, sức đuối dần, cuối cùng
hắn không đủ sức áp ngực lên mặt băng nữa. Người hắn vắt trên sào như cái móc,
chân thì nằm trong lỗ băng, dường như có ai nắm lấy đôi chân đó, kéo đi mỗi lúc
một mạnh và sắp sửa kéo tuột ra khỏi thanh sào lạnh buốt và trơn nhẫy.
- Mày kêu cứu ai vậy? Mày thử nghĩ xem!
- Paven! Paven! Paven! - trong giọng nói của Maksêep có sự
cầu khẩn mà có lẽ thấm được cả đá.
- Hừ mày! - nghe thấy thế, Đêmiđôp văng ra một câu độc ác và
chế nhạo. - Nhưng thằng Grinka nhà tao một hôm đã nói với tao thế này: phải để
cho những thằng đểu sống một mình với đất. Những người tử tế thì đất yêu mến,
nhưng bọn đểu thì tự nó biết cách trừng phạt. Và không nên ngăn cản nó làm
chuyện đó… Nó bảo rằng như thế là sự công bằng công bằng nhất. Đúng không?
- Paven… Anh nên có tình người.
- Nó là trẻ con mà biết suy nghĩ rất đúng.
- Hãy có lòng nhân đạo, Paven…
- Thế hồi đó… ở Kônmôgôrôva, lúc mày đá túi bụi vào đầu tao
mày có lòng nhân đạo không? Lúc mày tự tay dẫn tao đến đồn công an và vu cho
tao đốt cháy kho thóc, mày có nhân đạo không? Lúc mày ngủ với vợ chưa cưới của
tao, mày có nhân đạo không?
- Tôi không có… Tôi là thằng đểu… Tôi biết.. Nhưng tôi đã cố
tìm mọi cách chuộc cái đểu của tôi rồi. Có điều anh không muốn…
- Thế mày cho rằng sự đê tiện của con người có giá hay sao?
Không có giá nào hết Mày có hiểu điều đó không?
- Không biết… Tôi không hiểu… Tôi nghĩ…
- Và đâu phải mày muốn chuộc lại sự đểu cáng. Mày chỉ muốn
thoát khỏi tao thôi. Vì mày sợ.
- Không, tôi không sợ. Tôi biết anh không giết tôi, anh
không động đến tôi.
- Nói láo!
- Đúng mà, đúng mà. Nhưng lúc đầu cũng có thể tôi nghĩ rằng…
Quả thực tôi cũng sợ… Nhưng sau tôi hiểu ra - không, anh sẽ không động đến tôi…
- Không động đến mày?
- A ha, Có điều anh cứ theo đuổi mãi làm tôi rất khó chịu…
Lúc nào anh cũng ám ảnh bên cạnh.
- Tao làm mày nhớ lại chuyện… cái hồi ở gần kho thóc phải
không?
- Đúng, anh cứ làm tôi nhớ đến chuyện đó.
- Có bao giờ mày hối hận vì chuyện đó không?
- Biết nói thế nào? Vì anh sẽ chẳng tin.
- Đúng, tao không tin…
Họ, hai con người già cả ấy, lúc này nói với nhau đã bình
thản, tựa như ngồi trò chuyện bên ấm trà buổi tối, hồi tưởng lại chuyện ngày
xưa. Nếu ai nhìn thấy và nghe thấy câu chuyện của họ, thì chỉ qua từng lời
riêng lẻ có thể đoán rằng câu chuyện của họ là câu chuyện lạ kỳ. Lại thêm cái
hoàn cảnh họ đang ở lúc này: một người thì nằm úp sấp bụng xuống mặt băng, một
người thì nằm trong hố băng, thân treo lơ lửng trên cây sào mảnh. Nhưng không
có ai nhìn thấy họ.
Sau khi nói một lúc, họ im lặng. Đôi vai của Maksêep nhô
trên mặt nước cũng đã bị đông cứng, chiếc mũ lông cừu sờn rách cũng phủ đầy
những giọt băng dài. Dòng nước vẫn ra sức cuốn hắn đi, Maksêep rõ ràng đã gần
kiệt sức, người hắn cứ từ từ tuột dần khỏi cây sào, đôi vai ngày càng ngập sâu
hơn trong nước.
- Vĩnh biệt, Maksêep , - Đêmiđôp nói. - Bây giờ thì mày… thở
nốt những giây cuối cùng.
Cái giọng đều đều ấy, những lời lẽ tàn nhẫn ấy dường như kéo
Maksêep trở lại thực tại, làm cho y nhận thấy hết toàn bộ tình cảnh lúc này của
y.
- Paven… Paven Grigôrêvits! - y rống lên như thú vật.
- Hừ, mày còn nhớ cả họ tao kia à?
- Cứu tôi với! Còn sống ngày nào tôi sẽ cầu nguyện cho anh!
Tôi thề sẽ làm tất cả để trả ơn anh. Cứu tôi với…
- Cứ cho rằng tao muốn cứu mày đi nữa, nhưng tao sẽ ra sao?
Băng cũng sẽ vỡ dưới chân tao.
- Không vỡ đâu. Nó sẽ giữ anh, vì anh gầy, người anh nhẹ.
- Nhưng tao rất thích được xem mày chết.
- Tôi đã đưa anh tiền, nhưng anh không nhận. Hay anh chê ít?
Cứu tôi đi, tôi sẽ cho anh hết, cho hết…
- Hết là bao nhiêu?
- Thì ba nghìn… Năm nghìn… Bẩy nghìn! Anh nghe thấy không,
bẩy!
- Ít quá. Vì nguy hiểm lắm.
Trong giọng nói của Đêmiđôp có vẻ chế giễu, nhưng Maksêep
không nhận ra, lúc này y chẳng còn tâm trạng đâu hiểu ra điều đó.
- Chín ngìn! Tôi sẽ cho anh chín nghìn! - y kêu lên và cảm
thấy người y sắp tuột hẳn khỏi cây sào. - Tôi không có hơn, không có!
- Nói dối, mày với con Maria ăn cắp được nhiều hơn. Sao mỗi
lần mày chỉ tăng hai nghìn một thế? Tăng hẳn… năm nghìn một xem nào!
Maksêep rú lên tuyệt vọng, hắn khóc lóc, gào thét vang cả
khoảng sông lúc này đã xanh hẳn.
- Đồ khốn kiếp! anh không phải con người! Tôi đã nói là sẽ
cho anh hết, cho hết. Cả năm nghìn anh vừa nói! Và còn nữa… Nhà cửa, tài sản
tôi sẽ bán… Và sẽ cho anh hết. Anh cứ việc lấy hết, Paven. Ôi dân làng ơi!
- “Đồ súc vật hôi thối!” - trong đầu Đêmiđôp lại bùng lên
ngọn lửa ghê tởm làm ông nóng ran cả đầu. Nhưng cũng trong óc ông có tiếng gì
rạn nứt. Đêmiđôp hiểu rằng, đó không phải là tiếng rạn trong đầu, mà là tiếng
băng rạn mỗi lúc một mạnh hơn và nguy hiểm hơn, vì ông đang nhoài người bò tới
gần chỗ hố nước, và trong đầu ông vọng lại tiếng rạn đáng sợ của mặt băng. Bò
thêm tí nữa là mình cũng có thể bị lôi xuống nước, mà Grinka đang ở nhà… Tất
nhiên nó không phải mồ côi. Nađegiơđa và thằng Valentin sẽ mang nó về nuôi.
Chồng nó là anh chàng khá, nó chưa làm thằng Grinka giận bao giờ.
Khi chỉ còn ba bốn mét nữa là đến hố băng, Đêmiđôp vẫn cảm
thấy cái lớp băng dưới bụng mình võng dẫn, từ từ xoay người nằm ngửa ra, cởi
thắt lưng áo khoác ra. Sau đó ông lại cởi dây lưng quần, và bắt đầu nối hai
thắt lưng với nhau.
- Nhanh lên, Paven… Nhanh lên! - ông nghe thấy tiếng kêu.
- Không sao, mày vẫn còn giữ được! Đồ súc vật hôi thối… Mà
không giữ được thì đó cũng là số kiếp của mày.
Rồi Đêmiđôp lại trườn thêm chút nữa đến gần chỗ hố băng đáng
sợ, vì hai thắt lưng nối nhau vẫn chưa tới được chỗ Maksêep.
- Bây giờ thế này, Maksêep…! Bắt lấy thắt lưng, tao sẽ kéo,
còn mày cố trườn lên mặt băng. Lựa chỗ nào chắc mà trườn, đừng làm mạnh quá.
Đừng có cử động mạnh, nếu không tao sẽ thả đầu dây ra là mày chết ngay.
- Tôi sẽ nhẹ nhàng thôi…
- Vậy thì bắt lấy này!
Đêmiđôp thắt nút một đầu dây lại rồi nhằm đầu Maksêep mà
ném. Và ông ném trúng. Maksêep lập tức chộp ngay lấy đầu dây cứu tinh. Đêmiđôp
cảm thấy hắn nắm rất chắc, không thể nào rứt ra được.
- Bây giờ trườn lên, - Đêmiđôp vừa kéo dây lưng về phía mình
vừa ra lệnh. - Nhớ phải thật nhẹ nhàng…
Mặt băng tuy có tuyết phủ nhưng dù sao vẫn rất trơn. Maksêep
chỉ giữ đầu dây, không dám kéo về phía mình. Y hiểu rằng chỉ cần y kéo mạnh là
lập tức Đêmiđôp sẽ bị kéo theo về hố băng và cũng sẽ sa hố luôn, nếu như ông
không nhanh tay buông đầu dây kia
Maksêep nắm đầu dây bằng tay phải, còn mấy ngón tay trái ra
sức bấu vào mép băng, cố nhoài người lên khỏi hố nước, nhưng không sao ngoi lên
được. Thấy thế Đêmiđôp vội kêu to:
- Cố nhoài ngược dòng. Ngược lên trên…
- A ha, nào…
Đêmiđôp nghe thấy tiếng răng Maksêep đánh vào nhau, tay vẫn
nắm chặt thắt lưng, ông xoay ra nằm ngửa, sau đó từ từ nghiêng người sang bên
trái, lại nằm úp bụng xuống. Rồi lại bắt đầu kéo dây, cố làm cho Maksêep nhích
dần lên theo ngược dòng nước chảy.
- Bây giờ thế này… Chân không bị tê chứ?
- Không biết… Tôi không cảm thấy chân. Nhưng hình như không.
- Vậy thì cố thử nhấc chân lên mặt băng xem. Thế nào? Hiểu
không?
- Aha, aha… Tôi đang thử đây…
Maksêep đã hiểu ra tại sao ban nãy Đêmiđôp ra lệnh cho y
trườn ngược dòng và bây giờ yêu cầu y làm gì dòng nước kéo người y trôi xuôi
theo hố băng, cần phải cố đẩy chân trái lên một chút và đưa nó lên bờ, sau đó…
Có điều chân y không chịu tuân theo ý muốn của y…
- Đúng rồi! - Bỗng y nghe thấy tiếng nói đó và hiểu rằng dù
chân y không chịu tuân theo, dù y không cảm thấy chân mình, nhưng chắc y đã làm
đúng yêu cầu. - Bây giờ tao sẽ kéo còn mày thì co chân lên và từ từ nâng nó lên
bờ. May cho mày là dây lưng của tao còn chắc. Nào, theo lệnh tao. Hai, ba…
Tiếng “ba” Maksêep không nghe thấy nữa. Y chỉ cảm thấy y đã
ở trên mặt băng chứ không còn trong nước nữa. Y cảm thấy như thế và một niềm
sung sướng ập đến với y, y lại bắt đầu khóc.
- Cám ơn, Paven, cám ơn!
Từ đầu tiên y nói thầm, còn từ thứ hai thì bật thành tiếng
kêu
- Đừng mừng vội, con lợn. Hãy trườn ra xa khỏi hố băng.
Trườn đi. Kẻo không thoát chết chìm thì bây giờ có thể chết cóng đấy.
Và Maksêep ngoan ngoãn bò đi, băng dưới bụng y kêu lách
tách, nhưng không vỡ.
- Mày là sâu bọ mà cũng đòi gọi người đến cứu. - mấy lời đó
vẳng đến tai Maksêep .
Hắn quay lại và nhìn thấy Đêmiđôp đang ngồi trên mặt băng,
cởi nút buộc hai thắt lưng. Tựa như sợ người coi rừng già đó sắp sửa tiến lại
phía y và lấy thắt lưng quất tới tấp vào y, như dạo nào ông đánh Maria, tựa như
quên mất rằng có thể y lại bị tụt xuống hố băng, Maksêep quỳ lên, sau đó đứng
thẳng dậy và bỏ đi thẳng. Lúc đầu y đi còn thận trọng, thong thả dò từng bước,
dần dần y bước mau hơn. Cuối cùng khi cảm thấy băng dưới chân đã chắc, lớp băng
không còn thấy lùng nhùng nữa, y cắm cổ chạy thật nhanh.
Đêmiđôp vẫn ngồi nguyên trên mặt băng, nhìn mãi theo Maksêep
cho tới khi hắn khuất hẳn sau màn sương xanh buổi sáng.
10
Suốt mùa đông Maksêep bị cảm lạnh, hai lần phải vào nằm bệnh
viện tỉnh, và hết mùa xuân, khi các con suối bắt đầu róc rách chảy, y mới dần
dần bình phục hẳn. Những hôm có mặt trời y lại chống gậy bước ra ngoài phố,
người hốc hác và xanh rớt, y đưa mắt cau có ngắm nhìn đường phố, nhìn những
người qua đường và trầm ngâm suy nghĩ.
Mấy lần y nhìn thấy Đêmiđôp đi vào cửa hàng hoặc từ cửa hàng
bước ra, y nhìn theo ông bằng cặp mắt trống rỗng nặng nề. Có lẽ Đêmiđôp cũng
cảm thấy đôi mắt nhợt nhạt của Maksêep trĩu nặng, cảm thấy cái nhìn nặng nề của
chúng. Ông chỉ cười nhạt và bỏ đi. Maksêep nhận thấy nụ cười nhạt ấy, nhưng chỉ
hơi bĩu môi, giận dữ gõ gõ chiếc gậy xuống đất.
Khi Đêmiđôp đến cửa hàng mua rượu, Maria hầu như không nói
gì với ông. Mãi khi Maksêep bị đưa vào bệnh viện lần thứ hai, ả mới nói với ông
những lời khó hiểu:
- Ông lôi lão ấy ở dưới hố băng lên làm gì không biết! Dù
sao bây giờ lão ấy sống cũng như chết rồi.
Ả nói một cách lạnh lùng, khô khan, như có điều gì oán trách
Đêmiđôp.
Lần khác thì ả hỏi:
- Dạo này anh bỏ rượu rồi đấy à? Tôi cũng không nhớ lần cuối
cùng anh mua rượu là khi nào nữa.
Lần thứ nhất Đêmiđôp không nói gì, nhưng lần này ông đáp:
- Nhưng trong rượu vốtka có cái gì tốt đâu?
Đêmiđôp nhận thấy hình như Maria có chuyện gì. Đứng bán hàng
bây giờ trông ả lúc nào cũng buồn bã, ít nói. Trong có mùa đông mà trông ả gầy
hẳn đi. Trong làng người ta đồn rằng ả lo cho chồng, nhưng Đêmiđôp vẫn cảm thấy
nguyên nhân không phải là ở chồng ả. Nhưng ở đâu thì ông không biết và cũng
không muốn biết.
Ông còn để ý thấy điều này nữa: khi nào Maksêep nằm viện thì
ô cửa “mắt sói” trong nhà Maksêep không sáng nữa. Nhưng cứ hễ y về nhà là lập
tức nó lại sáng ngay.
Một hôm ông đang ngồi trên chiếc ghế dài chôn ngay cạnh
tường nhà, Maksêep bỗng đứng dậy, cất tiếng gọi Đêmiđôp, rồi tiến lại phía ông,
tay vẫn chống gậy. Hai môi lão ta vẫn mím chặt và trễ hẳn xuống.
- Mày… - Maksêep nói rồi im lặng, nuốt nước bọt.
- Ừ, tao đây. Sao?
Đôi mắt Đêmiđôp chứa chất nỗi căm thù nặng trĩu như chì.
Nhưng lạ thay, điều đó không làm Đêmiđôp thấy căm giận như mọi khi, mà chỉ
khiến ông muốn đi nhanh cho khuất mắt.
- Mày chờ số tiền đã hứa à? Mày chờ mấy nghìn ấy phải không?
Tiền cứu mạng ấy?
- Tất nhiên là chờ. Vì ngay từ đầu tao vẫn tin: một khi mày
đã hứa, thế nào mày cũng mang đến. - Đêmiđôp cười nhạt.
Maksêep bối rối sững người trong giây lát, sau đó hắn uất
quá không kìm được, hét vang cả phố.
- Mày… là đồ khốn nạn! Đồ ác quỷ! Mày chỉ muốn hút máu
người, chứ không phải muốn tiền, hiểu chưa? Đây, hút đi!
Đêmiđôp không nói gì, chỉ hơi cau mặt, bình thản hỏi:
- Nghĩa là mày đau đớn lắm phải không?
Giá đất có nứt đôi, trời có vỡ tan làm nhiều mảnh ngay trước
mặt Maksêep, thì cũng không thể làm cho sắc mặt y tái nhợt như lúc nghe xong
những lời ấy của Đêmiđôp. Đầu ngả ra phía sau, đôi má trắng bệch run lên, hắn
há mồm như muốn cho tiếng kêu thoát ra ngoài, nhưng không kêu được. Và hắn cứ
đứng ngửa đầu ra sau như thế cho đến khi Đêmiđôp đi khuất hẳn vào trong ngõ.
Tối hôm đó, cái “mắt sói” mãi không thấy sáng lên trong làng
Đubrôvinô, rồi cả đêm đó cũng không sáng. Nhận thấy điều đó, Đêmiđôp lại cười
khẩy.
Cả tối hôm sau cũng không thấy nó sáng. Và nói chung các
buổi tối khác nó cũng không bao giờ chiếu sáng nữa.
11
Mùa hè nóng lên rất nhanh, đất mỗi ngày một ấm lên. Cây cối
trong rừng Đubrôvinô bắt đầu nở hoa và chim chóc bắt đầu líu lo ca hát.
Mọi vật xung quanh cũng nở hoa và ca hát, duy có Maksêep là
vẫn ngày một gầy mòn xơ xác, người y càng ngày càng còng xuống, như muốn uốn
thành cái móc, và khô đi như bị phơi nắng.
Bây giờ đi đâu y cũng chống nạng và hoàn toàn không sợ gặp
Đêmiđôp nữa. Trái lại, y còn cố tình chạm trán ông nhiều hơn ở những chỗ vắng
người, nhưng Đêmiđôp không thèm để ý đến chuyện đó, làm như không để ý có
Maksêep .
Một hôm, sau khi câu cá chán chê, Đêmiđôp và cậu bé Grinka
nằm ngủ trên bờ sông Ôbi. Sau khi đốt lên đống lửa, Đêmiđôp ngồi trên một hòn
đá nhẵn và nhìn những ánh lửa nhảy nhót trên mặt nước sẫm tối. Grinka mệt quá
nên chẳng bao lâu thiếp đi trong túp lều dựng tạm. Đêmiđôp lấy tạm giấy dầu phủ
lên mái lều, vì bên kia sông vẳng lại tiếng sấm ầm ĩ.
Bất ngờ Maksêep từ trong rừng bước ra bờ sông, tiến gần đến
đống lửa, hơ tay vào ngọn lửa. Đêmiđôp không ngờ hắn đến, nhưng cũng không ngạc
nhiên trước cử chỉ của y.
Ngồi im một lúc, Maksêep hất hàm chỉ cái rìu đặt trên đống
củi khô đã chẻ sẵn trên bờ để cho vào đống lửa:
- Thế nào? Đêm hôm nay tối và âm u, hoang vắng như trong nấm
mồ. Chắc cả đời mày chờ cơ hội như thế này.
- Cút ngay khỏi đây, - Đêmiđôp nói khẽ.
- Mày định dìm tao xuống sông, hay chôn tao trong rừng
taiga? Hả?
- Để làm gì? Mày cứ việc sống cuộc sống thối rữa của mày!
- Nghĩa là mày không muốn hả? Chia tay nhé?
- Tao đã bảo cút đi. Nếu muốn tao đã không kéo mày lên khỏi
hố băng.
- Ề… ề… không… Tao vẫn cứ nghĩ mãi không biết mày kéo tao
lên để làm gì, nguyên nhân tại sao? Để mày được tự tay khử tao cho hả giận…
- Tao thấy mày thần hồn nát thần tính đấy…
Nói xong câu đó, Đêmiđôp đứng dậy chui vào trong lều, nằm
xuống cạnh Grinka. Một lúc sau trời đổ mưa và đống lửa tắt ngấm. Đêmiđôp nghe
thấy tiếng những thanh củi đang cháy gặp nước mưa kêu xèo xèo, rồi tắt. Còn
Maksêep, - Đêmiđôp cảm thấy như thế - thì vẫn ngồi nguyên trên tảng đá ướt,
dưới trời mưa tầm tã. Sau đó có tiếng bước chân y bước lạo xạo trên sỏi đi xa
dần.
12
Cuối mùa hè, Maksêep trông càng gầy xọm và khô héo hơn,
không biết ở đâu lù lù bước vào nhà Đêmiđôp. Lúc bấy giờ Grinka đang chơi với
lũ trẻ trong làng, Đêmiđôp thì đang chuẩn bị bữa trưa trên bếp điện.
- Chào Paven, - Maksêep nói bằng cái giọng không còn biểu lộ
gì. Trong tay y cầm cái túi xách to có khóa kéo bằng sắt.
- Chào!
Đêmiđôp đáp lại không niềm nở cũng không lạnh lùng, giọng
ông cũng thờ ơ lạnh nhạt. Và không ai có thể ngờ rằng giữa hai con người này có
khoảng cách bằng nhiều năm hận thù.
Đêmiđôp vẫn tiếp tục loay hoay với mấy chiếc nồi. Maksêep
quan sát ông làm và nói:
- Tôi mang món nợ đến đây. Đừng nghĩ là tôi lừa anh.
- Cái gì?
- Tiền. Anh cầm lấy đi.
Nói đoạn y cầm túi tiền dốc ngược xuống mặt bàn, rũ rũ cho
tất cả các xấp tiền rơi ra. Đêmiđôp cứ lặng im nhìn đống tiền đó.
- Bao nhiêu đấy?
- Nhiều lắm, đúng mười lăm nghìn.
Đêmiđôp ngồi xuống nhíu lông mày, hết nhìn đống tiền lại
nhìn sang Maksêep chừng hai phút. Maksêep ngồi đầu bàn bên kia, cũng hết nhìn
đống tiền lại nhìn Đêmiđôp.
Họ cứ ngồi như thế, đống tiền cũng cứ nằm trước mặt hai
người.
- Thế mày không tiếc à? - cuối cùng Đêmiđôp hỏi.
- Tính mạng còn quý hơn. Vả lại tao đã hứa…
- Thế Maria thì sao?
- Cô ta có liên quan gì trong chuyện này?
- Thôi được rồi… Cảm ơn.
- Nghĩa là mày nhận hả? - Maksêep liếm liếm đôi môi khô.
Lần này Đêmiđôp không nói gì, họ lại ngồi bất động chừng hai
ba phút, và không khí mỗi lúc một nặng nề, im phắc hơn. Ngoài cửa sổ một làn
gió nhẹ, không còn là gió hè nữa, mà đã lành lạnh, run rẩy thổi, làm tấm cửa gỗ
mỏng manh khẽ run lên kêu cót két trong những bản lề đã hoen gỉ. Tiếng kêu nghe
than vãn buồn bã, nhưng hình như cả hai không ai nghe thấy nó, họ ngồi như
những người điếc.
Bất thần cánh cửa sổ kẹt lên một tiếng to hơn. Tiếng kẹt đó
dội vào lồng ngực Đêmiđôp làm ông đau nhói, tựa như có vật gì cùn, mẻ đâm vào
tim ông. Ông nhăn mặt vì nỗi đau đớn quá sức ấy, rồi chậm rãi, nặng nề đứng
dậy:
- Được, cám ơn… - giọng ông cũng khô và rè rè như tiếng cánh
cửa. Ông đưa mấy ngón tay sần sùi chai cứng cầm lấy những xấp tiền trên bàn,
hết xấp này đến xấp khác… Tất cả có mười ba xấp - một xấp toàn giấy năm mươi
rúp, tám xấp giấy mười rúp và bốn xấp giấy năm rúp. Mỗi xấp đủ một trăm tờ,
đúng theo kiểu ngân hàng - Chà, con số mười ba!
Rồi ông nhếch mép cười đau đớn.
Từ lúc Đêmiđôp đứng dậy, không hiểu sao mặt Maksêep bắt đầu
tái. Những ngón tay đặt trên bàn của y khẽ run lẩy bẩy, y khẽ rút tay khỏi bàn,
nhưng không biết để tay vào đâu, lúc thì y thò tay vào túi áo vét sờn, lúc thì
lại rút nó ra đặt lên bàn. Sau đó y cầm lấy cái túi đang để dưới đất đặt lên
đùi, rồi cứ vô tình bóp chặt nó trong tay.
Đêmiđôp lại cười khẩy và nói một câu lạ lùng khó hiểu:
- Toán học là khoa học độc địa!
Maksêep thôi không vò nhầu túi nữa, ngây người ra như cố tìm
hiểu ý nghĩa những lời nói đó. Mặt y lúc này xám xịt như đất thó. Y lại liếm
đôi môi cũng bắt đầu tái nhợt như thế. Rồi y nói bằng giọng van lơn cầu khẩn:
- Anh đếm lại đi… Đúng mười lăm nghìn đấy…
- Thì tao đang đếm đây… Từ năm ba mươi tám đến năm bốn tám,
tao bị ngồi tù… Đấy là chưa kể ba năm bị quản thúc… Mười năm… Vị chi thế là mỗi
năm mày trả tao một nghìn rưởi… nghĩa là mỗi tháng một trăm hai mươi nhăm rúp,
mỗi ngày bốn rúp… Chà, tao đã bảo toán học là quái ác lắm mà!
Đêmiđôp nói lúc đầu to và rành rọt, cứ tuôn ra một tràng như
bắn súng liên thanh. Sau đó giọng ông khản đi. Những từ cuối cùng ông nói thầm
thì, khó nhọc. Trong lúc nói ông không nhìn Maksêep.
Trong lúc Đêmiđôp nói, máu dần dần trở lại trên mặt Maksêep,
hai gò má và trên sống mũi y lấm tấm mồ hôi.
- Tất nhiên là… Tất nhiên là… - y lắp bắp - Nhưng dù sao anh
cứ nhận cho…
Có một cục gì to nặng trôi qua cổ họng Đêmiđôp dường như rửa
sạch cuống họng ông, làm cho giọng ông lại trở lại trong như lúc đầu - rõ ràng
và rắn rỏi:
- Tại sao người ta không giam cái thằng ngu mình thêm mười
năm nữa nhỉ? Có phải bây giờ mình nhận được ba mươi nghìn rúp không? Đúng vậy.
Mày sẽ cho ba mươi chứ?
Maksêep vẫn ngồi ôm cái túi trên đùi, mắt nhìn không chớp đi
chỗ khác, mà có lẽ không nhìn thấy gì, nhìn ra phía cửa sổ bên ngoài gió đang
lay động những ngọn bạch dương đã bắt đầu vàng.
- Sao mày im lặng? Trả nợ chứ…? - Đêmiđôp đỏ bừng mặt quát
hỏi.
- Tôi trả… tôi trả… - Maksêep vừa nói vừa gật đầu lia lịa.
Khi nói xong câu đó y mới nhớ ra, giật mình đánh thót. Hắn đã hiểu rõ hắn vừa
nói chuyện gì, hiểu theo cách riêng của hắn, rồi cũng vội vã như thế, hắn nuốt
nước bọt nói tiếp: - Bây giờ tôi cũng sẽ trả nữa… Tất nhiên cái nhà tù ấy… không
phải người đàn bà. Bốn rúp tất nhiên là ít… Tôi sẽ kiếm thêm. Ngày mai tôi sẽ
mang thêm túi đầy nữa… Tôi sẽ mang thêm, tôi hứa, đừng động đến tôi Paven, đừng
động…
Đó là vì lúc ấy Đêmiđôp đang tiến gần đến chỗ Maksêep để
giằng lấy cái túi trên đùi y, còn y thì vội lấy hai tay ôm chặt cái túi vào
bụng. Nhưng Đêmiđôp vẫn giật được cái túi ra, rồi kề miệng túi vào mép bàn, ông
trút tất cả xếp tiền vào cái miệng túi da sẫm. Sau đó ông đặt túi lên bàn, kéo phécmơtuya
lại. Tiếng khóa kéo ghê răng như chọc thủng sự im lìm tuyệt đối vừa bao phủ căn
phòng cách đây một giây, và bắt đầu nghe thấy tiếng thở nặng nhọc và khàn khàn
của hai người già đó.
- Cả hai - Maksêep và Đêmiđôp - lúc này đều nhìn không chớp
mắt vào cái túi. Maksêep một tay nắm lấy đầu gối, tay kia nhét trong túi áo,
ngồi ngả người ra phía trước, như muốn đứng bật dậy, nhưng không dám. Đêmiđôp
thì đứng im cạnh bàn như cái cột, đôi tay dài với hai bàn tay rộng buông thõng
theo người như hai cái chổi nặng. Má, trán và cả khuôn mặt Maksêep lúc này trở
nên đỏ ửng, lấm tấm những giọt mồ hôi lớn, tựa như hắn vừa trong nhà tắm hơi
ra, mồ hôi cứ chảy ròng ròng từ má xuống áo sơ mi, chui vào trong áo, nhỏ thành
giọt từ cằm xuống đầu gối. Mặt Đêmiđôp thì khô khan, rắn đanh và hơi tai tái.
Khuôn mặt ông bất động, chỉ có trên gò má những khối u cứ phồng lên, rồi lại
xẹp đi.
Sau đó cùng một lúc cả hai rời mắt khỏi chiếc túi một cách
rất khó nhọc. Đêmiđôp từ từ quay lại phía Maksêep, còn Maksêep thì chậm chạp
ngước nhìn Đêmiđôp.
Một luồng điện như lan vào trong phòng khi hai ánh mắt họ
bắt gặp nhau. Nó lóe lên, rọi sáng khuôn mặt họ, đốt cháy cặp mắt – Trong ánh
mắt bất động, đục như chì của cả hai người không biểu lộ cái gì ngoài vẻ căm
thù, hằn học như trước.
- Cút ngay khỏi đây, - Đêmiđôp nói khẽ, khó khăn lắm ông mới
tách được đôi môi khô nặng đang mím chặt. Ông dùng một tay cầm lấy cái túi trên
bàn ném vào lòng Maksêep .
Maksêep thất kinh, suýt ngã ngồi xuống đất. Hắn không ngã có
lẽ vì hai tay tóm chặt lấy cái túi.
- Anh sao thế… Paven? - hắn rên rỉ. - Anh không nhận à?
- Xe-eéo!
Và Đêmiđôp cau mặt nhảy lại chỗ Maksêep, tóm lấy cổ áo y,
đẩy mạnh ra phía cửa. Nhưng chắc vì nóng nẩy ông không lường đúng hướng, nên
Maksêep không rơi vào cửa, mà lại ngã vào rầm cửa. Tay
vẫn nắm chặt túi, y quay phắt lại, mặt hầm hầm đe dọa, nhưng không hiểu sao lại
nói bằng giọng nhũn nhặn van xin:
- Tôi chỉ muốn… Paven… đối xử tốt hơn… theo tình người… Anh
hiểu cho…
Song những lời của y lại làm cho Đêmiđôp điên tiết hơn:
- M-mày - ông rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt lao về
phía cửa, lấy chân đạp tung ra, tựa như muốn chẻ nó ra làm nhiều mảnh - M-mày!
Rồi lại túm lấy cổ áo Maksêep, ông lôi thốc hắn ra khỏi nhà
như lôi con chó con.
… Anh lái máy kéo của nông trang tên là Lenka cùng cô con
gái bác chăn ngựa Artamôn là Klapka vừa lúc đó đi ngang qua, trố mắt nhìn bác
thợ rừng cũ Đêmiđôp đang nắm cổ áo tên Maksêep không biết lôi đi đâu, còn hắn
ta thì cứ cố níu lại.
Họ nghe thấy Maksêep cứ luôn mồm rên rỉ độc một câu:
- Paven… Paven…
Và cứ sau mỗi câu của hắn, Đêmiđôp lại đáp:
- Tao đã hiểu! Tao đã hiểu…
- Bác dẫn hắn ra sông dìm đấy à? - Lenka lịch sự hỏi khi
Đêmiđôp lôi Maksêep đi ngang chỗ họ.
- Họ say đấy mà, Lenka! - Cô Klapka sợ hãi ngăn Lenka.
Mấy lời đó dường như làm Đêmiđôp tỉnh lại, ông đứng lại,
nhưng tay vẫn nắm chặt cổ áo Maksêep. Sau đó ông buông tay hất mạnh kẻ thù ra.
- Đồ chó, có cho trôi sông cũng đáng…
Đoạn ông vừa thở phì phò vừa lấy nắm tay chùi quần áo.
Maksêep bị văng ra xa mấy bước, đã quay người lại và đứng lom
khom trông rất kỳ khôi.
Một tay hắn lau mặt đẫm mồ hôi, tay kia thì nắm lấy quai túi
cho chắc và dễ cầm hơn, dáng như định lao tới chỗ Đêmiđôp và đập cái túi vào
đầu ông.
- Nghĩa là… nghĩa là… mày không lấy phỏng?
- Đem về cho con Maria… vì hàng giờ nó phải tất bật khổ sở
để kiếm ra nó.
- Tao hỏi lần cuối cùng?! - Maksêep bỗng rít lên.
Đêmiđôp đã bình tĩnh lại, cười khảy:
- Tao lấy thì mày với con Maria của mày sẽ khô héo như cọng
cỏ.
- Khô héo à? Thế thì… hãy nhìn đây! - Maksêep hét lên, mắt
long sòng sọc, chạy ra sông.
Phố nằm ngay sát bờ sông Ôbi. Chỉ cách năm mươi mét là đến
ngay bờ đất dốc đứng, tiếp đó là một dải cát không rộng lắm rồi đến mặt sông.
Maksêep hấp tấp trượt xuống bờ dốc, chân đá văng cả đất, xuống đến nơi hắn tiếp
tục chạy. Đến gần nước hắn dừng lại, kêu to một lần nữa:
- Thế thì nhìn đây, đồ khốn!
Rồi hắn vung tay ném cái túi xuống sông.
- Ôi, cái túi của ai thế không biết? - Klapka kêu lên.
Klapka nói chưa hết câu thì cái túi đã vẽ lên trên không một
hình vòng cung như một con chim đen xấu xí, rơi tõm xuống nước. Dòng nước lập
tức lôi nó đi mỗi lúc một xa bờ.
Khi cái túi vừa rơi xuống nước, Maksêep lập tức nhoài người
lên, như muốn lao theo xuống nước, hắn chạy vội mấy bước xuống nước. Nhưng rồi
đi chậm và dừng hẳn lại. Cái túi bập bềnh giữa dòng nước đục và vàng trôi đi
mỗi lúc một xa. Anh chàng lái máy kéo Lenka, Klapka và Đêmiđôp nhìn theo nó…
Maksêep cũng im lặng nhìn theo. Hắn đứng so người, hai tay buông thõng, lưng
quay lại phía mọi người và quay lại phía làng.
Khi cái chấm đen biến mất trên dòng sông, Klapka lại lên
tiếng hỏi:
- Có cái gì trong túi thế?
- Chẳng có gì cả. - Đêmiđôp đáp.
Nghe thấy thế anh lái máy kéo Lenka, từ nãy vẫn đưa mắt ngờ
vực theo dõi hết Maksêep lại đến Đêmiđôp, như cố đoán xem có chuyện gì giữa hai
người này, và có lẽ đã đoán ra được chuyện gì, lại nheo mắt quan sát Đêmiđôp và
quay lại bảo Klapka:
- Thôi, ta đi đi, - và cầm lấy tay cô gái.
- Đồ ngốc! Đúng là đồ ngốc! - Klapka hướng về phía Maksêep
nói. - Cái túi da còn mới nguyên. Phải đến gần hai chục rúp chứ ít à?
- A hà… Đúng là chỉ tiếc cái túi thôi, - Đêmiđôp nói.
13
Mưa lại bắt đầu rơi trên vùng rừng Đubrôvinô, rừng lại ẩm
ướt và buồn bã. Sông Ôbi cứ lặng lẽ lăn đi hết đợt sóng này đến đợt khác, nhưng
khi nào có gió nổi lên thì dòng sông lại sôi lên giận dữ, chao đảo, và cả khối
nặng của nó lại đập vào bờ đá.
Trong suốt thời gian còn lại của mùa hè và cả mùa xuân,
Đêmiđôp không gặp Maksêep lần nào nữa. Hắn như đã chui xuống đất.
Maria, vợ hắn, tự dưng cũng bắt đầu võ vàng, gầy rộc đi, y
như chính Maksêep chồng mụ vậy, mụ già đi trông thấy. Má bắt đầu răn và khô đi,
đứng bán hàng sau quầy trông mụ tàn tạ, nhếch nhác, mắt lúc nào cũng xưng xưng - rõ ràng là hay khóc và khóc nhiều.
- Cô phải bình tĩnh, cô Maria, - một hôm Đêmiđôp nói với mụ
như vậy – Chứ không trông cô sợ quá.
- Đồ súc sinh đê tiện, anh đã làm gì Maksêep của tôi thế?
Anh đã làm gì? - Mụ nổi giận oà lên khóc nức nở.
Đêmiđôp hoảng quá bước vội ra khỏi cửa hàng.
Khi lớp đất bị mưa làm nhão ra và đã bắt đầu se đi nhờ những
cơn giá lạnh buổi sớm, và từ trên trời đã bắt đầu rơi xuống những bông tuyết
đầu mùa, một hôm Maria bỗng đến nhà Đêmiđôp, đứng dựa lưng vào mép cửa, đầu
trùm khăn kín mít, mụ lại vừa khóc vừa nói như hôm ở cửa hàng:
- Anh đã làm gì Maksêep nhà tôi thế? Làm gì?
- Khoan đã! - Đêmiđôp nói. - Đã đến thì ngồi xuống đây đã.
Ông đặt cho mụ cái ghế cạnh bàn, mụ đã hơi bình tĩnh lại,
chỉ thỉnh thoảng còn sụt sịt và buồn bã nhìn ra ngoài cửa sổ, trông già và xấu
hẳn đi.
- Thế Maksêep bị làm sao? - Đêmiđôp khẽ hỏi.
- Làm sao?… Nằm trong nhà mà cứ như con chồn trong hang cả
tháng không bước chân ra phố. Suốt ngày vật vã, như có gì thiêu đốt trong lòng.
Đêm nằm thì nghiến răng kêu ken két - thật kinh khủng… Và bắt đầu uống rượu.
Anh thì bỏ, còn lão ấy thì bắt đầu uống.
- Hắn bị lửa đốt, Maria ạ… Cái đểu cáng của hắn dày vò hành
hạ hắn, đốt hắn đấy!
- Tôi biết, - người đàn bà thở dài. - Lúc uống say lão chửi
bới anh mới dữ tợn làm sao. Lão nói sẽ bóp vụn xương anh ra. Lão cứ gào lên:
phải chăng nó định chơi lối kẻ cả với tao? Chà - nó tha thứ cho ta hết thảy, nó
cứu ta thoát chết mà không thèm lấy tiền cứu mạng. Chà - ta phải lấy thắt lưng
quất mày tan thịt! Đồ kẻ cả!…
- Tôi cứ nghĩ mãi, Maria ạ… Hắn thì đã đi một nhẽ. Bây giờ
tôi không còn ngạc nhiên về chuyện hồi đó hắn đã sai cô đến túp lều của tôi
trong rừng. Nhưng còn cô… làm sao cô có thể đang tâm làm chuyện đó?
- Giá anh hỏi nhẹ nhàng hơn một chút! - Mụ thốt lên - Tôi
ngu quá, tôi đúng là ngu hết sức… - Rồi nuốt nước mắt đang trào ra, mụ tiếp: -
Anh chưa biết tôi là con đàn bà tồi tệ như thế nào, tôi là đứa thối thây có hơn
gì Maksêep đâu. Hồi trẻ không biết anh nhận thấy gì trong tôi nhỉ? Vì hôm đó…
cái hôm anh đến nhà tôi bàn chuyện cưới ấy, tôi đã biết trước Maksêep đang chờ
sẵn anh gần kho thóc. Anh ấy ra lệnh cho tôi - cô hãy cho hắn uống thật nhiều
để đầu óc hắn bị mụ đi. Và tôi đã cố làm như thế…
- Tôi biết chuyện đó… từ lâu tôi đã đoán ra, - Đêmiđôp quay
lưng lại, thốt ra một câu buồn bã.
- Đấy!… Còn chuyện tôi đến nhà anh, thì tôi..
Đêmiđôp thò tay lấy thuốc ra, rít một hơi dài.
- Cách đây ít lâu anh có bảo tôi không phải đàn bà, cũng
chẳng phải con người. Quả như thế thật… Giá như trên đường đời tôi không gặp
Maksêep, có lẽ tôi đã là người khác. Nhưng bây giờ thì nói làm gì! Anh, và cùng
với anh là cuộc sống khác mà tôi có thể có đã tuột đi mất rồi.
- Phải, bây giờ là như thế. - Đêmiđôp tán thành với mụ.
- Điều khiến lão ấy điên tiết hơn cả là không thể hiểu nổi
vì sao anh tha thứ cho lão ấy. Khi anh cứu mạng lão ấy thì lão ấy nghĩ: rốt
cuộc hắn cũng chỉ tham một số tiền lớn. A ha, thì ra con người ta ai cũng như
nhau cả thôi! Bây giờ lão ấy không tiếc số tiền đã mất, mà tiếc vì anh đã không
tham số tiền ấy… Nghĩa là khi ấy anh đã liều mạng không phải vì lợi lộc, anh
cứu người không vì tham tiền, anh đã không nuôi thù hận đến cùng, mà đã tha
thứ. Lão ấy cứ rên lên: tại sao, tại sao?
- Tất cả những cái đó dễ hiểu thôi, cô Maria ạ, - Đêmiđôp
nói, - Tôi không thể sống mãi với nỗi thù hận trong lòng được. Nặng nề quá. Tôi
muốn nghỉ ngơi.
Lúc này người đàn bà mới nhìn ông ngạc nhiên:
- Thật khó hiểu, cả tôi cũng thấy khó hiểu. Lão ấy phá hoại
đời anh, có thể nói đã băm nát. Lão ấy và tôi… vậy mà anh tha thứ…
- Phải, tôi tha thứ! - tự dưng Đêmiđôp lại nổi cáu - Nhưng
thế thì tại sao hắn còn đau khổ, tại sao hắn lại nổi xung? Tôi nghĩ, có lẽ hắn
đã bắt đầu hiểu ra - không phải hắn chỉ có lỗi với tôi, mà còn có lỗi với tất
cả mọi người, có lỗi với mảnh đất mà hắn đang sống trên đó… Đối với tôi thì tôi
tha thứ, nhưng mọi người sẽ không tha thứ cho hắn. Không bao giờ tha thứ cho
hắn, và cho cô. Bởi vì nếu người ta tha thứ cho loại người như các người… tha
thứ chuyện như thế - thì trên trái đất này sẽ còn lại cái gì?
Maria ngồi thêm một lúc nữa, ngẫm nghĩ những lời của ông,
rồi đứng dậy, chậm rãi đi ra cửa. Đến cửa, mụ dừng lại, lại tựa lưng vào mép
cửa:
- Anh muốn biết tôi đến đây làm gì phải không? - mụ nói khẽ
bằng giọng mệt mỏi. Sau đó đưa cả hai tay lau mãi đôi má. Rồi buông thõng hai
tay, ưỡn thẳng người lên. Hai má mụ lúc này cũng trắng bệch như bức tường mà mụ
đứng cạnh, mắt ánh lên một tia bệnh tật. - Tôi đến đây là để muốn nói với anh,
Paven ạ - lẽ ra anh không nên kéo lão ta ra khỏi hố băng làm gì… Giá như vậy
lại tốt hơn… Cả cho lão ấy, cả cho tôi…
- Còn thế nữa! Nhưng nếu tôi không kéo hắn lên, thì cô có
hiểu cho tôi không? Tôi có thể làm như thế, nhưng không muốn.
- Nhưng có ai biết được chuyện đó? Vì chỉ có hai người các
anh…
- Phải… Nhưng liệu tôi có quên được những chuyện đó hay
không? Làm rồi quên ngay được ư?
Maria vẫn đứng thẳng người, như bị cột chặt vào bức tường.
Mụ cố hiểu ý nghĩa trong những lời nói cuối cùng của Đêmiđôp, và cũng có thể ý
nghĩa của toàn bộ cuộc nói chuyện. Thốt nhiên, mụ bẻ tay kêu lên:
- Trời ơi! Tôi đã bỏ mất cái hạnh phúc to lớn quá!
Vừa kêu mụ vừa bỏ chạy ra đường.
14
Mùa đông bắt đầu đến một cách yếu ớt, không có tuyết. Sông
Ôbi mới nổi bật lên cách đây một tuần, còn đất đai thì gần như trơ trụi. Nó bị
bao phủ bởi một lớp băng mỏng, khô giòn, dày chừng hai xăngtimét, trên đường
phố Đubrôvinô đầy những mô đất bùn đã khô. Và không thể đi bằng xe trượt tuyết
cũng như bằng xe kéo được.
Đến thứ sáu trời bỗng nổi giông tuyết mạnh đến nỗi cây cối
trong rừng gẫy răng rắc.
Xẩm tối, như mọi khi, mặc cho trời lạnh cóng, những người đi
câu cá vẫn rời khỏi thành phố, kéo đến gõ cửa nhà Maksêep đến tận nửa đêm, mặc
dù ô cửa sổ quen thuộc đối với họ không thắp sáng và Maria đã dán vào đó mảnh
giấy có ghi mấy chữ rất to “Không có vôtka”.
- Lại gõ… Tao mang gậy thông lò ra đập cho chúng một trận
bây giờ, - Maksêep mặc chiếc áo sơ mi lót trong, đi đi lại lại trong buồng, giận
dữ kêu lên mấy lần.
Và sau mỗi lần y lại ngồi vào bàn, tỳ khuỷu tay lên bàn, bóp
lấy thái dương, và cứ ngồi như thế rất lâu, trong bụng mỗi lúc một thấy căm
giận Maria - mụ biết thế. Cuối cùng, cơn giận bốc lên cao, y hơi quay cái bộ
mặt đầy râu ria bẩn thỉu lại vừa hét váng nhà:
- Đồ chó cái! Đồ chó cái bẩn thỉu… Chính mày là nguyên nhân
gây ra tất cả!
Maksêep giận đến cực độ. Maria nhìn thấy và hiểu rõ điều đó.
Tháng gần đây, y hay cằn nhằn riếc móc mụ vì chuyện cái hôm trong rừng đã không
quyến rũ được Đêmiđôp.
- Giá mà mày làm cho nó ngủ được với mày có phải nó đã thôi
theo đuổi chúng ta không, tao biết chắc như thế. Vậy mà đồ ngựa cái như mày
không làm nổi chuyện đó.
Lúc đầu Maria căm hận vì những lời riếc móc đó, mụ khóc tấm
tức:
- Xì! Thôi đừng có giở nước mũi ra nữa! - Maksêep quát. - Mày chưa hiểu sao? Giá mày biết cách tán tỉnh nó - thì nó đã chẳng kéo tao lên
khỏi hố băng đâu. Nhưng nó đã kéo lên, nó đã tính toán hết cả - ý muốn bảo, cứ
sống và suy nghĩ xem mày là đồ đểu cáng thế nào và tao là người tốt như thế
nào…
- Đênix, anh đừng nghĩ chuyện ấy nữa! - mụ van nài hắn. - Chúng ta hãy đi khỏi nơi đây! Bây giờ hắn không đuổi theo chúng ta nữa đâu.
- Đi khỏi đây!… Chả đi mãi rồi đấy thôi! Bây giờ không đi
đâu thoát được nó đâu!
Maria cảm thấy có cái gì nhoi nhói trong ngực và trong đầu
mụ.
Vào quãng gần nửa đêm, đám dân câu cá mới thôi không gõ cửa
nhà Maksêep nữa, nhưng Maksêep vẫn cứ đi đi lại lại trong buồng. Sau đó hắn vào
kho lấy ra đồ nghề câu cá - cần câu, gầu xúc và thanh xà beng.
Hắn ngắm nghía mãi cái xà beng, sờ vào cái đầu nhọn của nó,
và nhấc nhấc nó trong tay không biết để làm gì.
- Anh định đi câu cá hay sao thế? - Maria đang nằm trên
giường nghển cái đầu rối bù lên hỏi.
- Đừng lo, bây giờ tôi không bị sa hố nữa đâu, - hắn cười
khảy đáp. - Băng bây giờ đã cứng hẳn rồi, hôm qua còn có chiếc xe tải sang bên
kia sông được.
Sau khi chuẩn bị xong dụng cụ đi câu, hắn nằm xuống, nhưng
không ngủ mà chỉ luôn mồm thở dài. Một lúc sau, khi trời đã bắt đầu rạng, hắn
mới dậy.
Hắn lẳng lặng ăn sáng, uống hết cốc đầy rượu vôtka. Hắn ngồi
ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại uống thêm cốc nữa.
- Cho nó ấm, - bỗng nhiên hắn giải thích. - Đêm hình như đã
ấm hơn, băng trên cửa sổ đã tan rồi. Nhưng dù sao vẫn chưa phải mùa hè…
Sau đó hắn mặc chiếc áo dạ, đội mũ lông cừu vào, gói ghém
mấy thứ đồ câu, rồi bước ra cửa. Ra đến cửa, hắn nói lại câu ngày hôm qua đã
nói:
- Phải… Bây giờ chẳng đi đâu thoát khỏi nó được.
Còn một mình ở nhà, Maria đi thu dọn bàn ăn, mặc quần áo rồi
ra cửa hàng làm việc. Trong lúc dọn bàn, cũng như trong khi bước trên con đường
lồi lõm, nhiều mô đất, dính nhem nhép, đầu óc mụ lúc nào cũng bị ám ảnh bởi
những lời cuối cùng của chồng. Mụ đã nghe những lời ấy không phải một lần, mụ
hiểu rõ chồng mụ nói những lời ấy với ngụ ý gì. Nhưng lần này trong cái giọng
nói của y có cái gì khác lạ, khó hiểu và đáng sợ. Giọng y vẫn khàn khàn, nhưng
lần này không còn thấy cái vẻ tức giận, điên khùng tuyệt vọng như mọi khi.
Giọng nói đó có vẻ lạnh lùng, thờ ơ với ý nghĩa chứa đựng trong lời nói, điều
đó làm cho mụ thấy chột dạ, và mỗi lúc một làm mụ thấy thêm lo lắng. Hơn nữa,
khi nói ra những lời đó, Maksêep lại nhếch mép cười khảy, khuôn mặt y méo hẳn
đi, bao nhiêu cơ trên mặt co rúm cả lại, ánh mắt trông lờ đờ, có vẻ như sắp
tắt…
Khi đã tới cửa hàng và đưa tay mở khóa cửa, Maria bỗng nhớ
lại vẻ mặt và ánh mắt y. Lập tức trong đầu mụ nhói lên một ý nghĩ sợ hãi: thế
còn mồi câu? Trước đây mỗi khi đi câu bao giờ Maksêep cũng loay hoay chuẩn bị
rất lâu nhiều thứ mồi khác nhau. Vậy mà lần này y chả buồn nghĩ đến chuyện đó!
Thế thì đi câu gì? Trời ơi, mà chính y nói…
Hai tay run run mụ xoay chìa khóa trong ổ khóa đã mở một
nửa, nhưng làm rớt chìa xuống đất. Nhưng mụ không cúi xuống tìm chìa, chính mụ
cũng không nhận ra là làm rớt chìa, mà cắm đầu chạy dọc theo đường làng, về
phía bờ sông. Mụ chạy ra sông làm gì, chuyện gì có thể xảy ra với Maksêep ở đó?
Băng rất cứng, hôm qua xe tải còn qua lại được. Nhưng mụ vẫn chạy, tuy chưa
hiểu ra mụ chạy để làm gì, có một sức mạnh nào đó cứ đẩy mụ chạy về phía trước,
còn trong đầu thì như có những tiếng gì dội vào óc.
15
… Bước ra khỏi nhà, Maksêep hớp bầu không khí lạnh, hắn hít
quá nhiều, hít cho thấm vào tận máu, tựa như muốn cào cấu lồng ngực. Y không hề
thấy lâng lâng chút nào, mặc dù vừa uống hết cả một chai rượu, nhưng đột nhiên
hắn thấy đầu quay cuồng. Tuy vậy cảm giác đó cũng chóng trôi qua, y cứ bước
những bước dài tới bờ sông, tay nắm cái xà beng hơi chúc về phía trước, khuỷu
tay áp sát vào mạng sườn.
Cả khoảng sân phía sau hòn đảo, bên bờ bên kia, lố nhố toàn
những tay đi câu cá. Họ ngồi chỗ thì tản mạn, chỗ thì túm tụm, lác đác trên mặt
băng có vài mái lều bằng giấy dầu.
Maksêep đã tới hòn đảo, mắt chăm chăm nhìn xuống chân như sợ
bước hụt.
Khi đi vòng hết hòn đảo, người đầu tiên y nhìn thấy là
Đêmiđôp. Cạnh ông là cậu bé Grinka đang ngồi trên bờ hố băng làm nhiệm vụ tiếp
mồi: Má cậu đỏ hây, mắt ánh lên vẻ ham thích. Mồi rất tốt, bên cạnh cái hố của
Đêmiđôp và Grinka có chừng một chục xâu cá, mỗi xâu có ba con cá đông cứng.
- Nghĩa là cá rô chỉ đi một mình? - Maksêep bỗng dừng lại
hỏi.
Đêmiđôp ngước nhìn y nhưng không trả lời, quay sang phía hố
băng.
- Còn con trai đấy - Chà…
- Cái gì - con trai làm sao?
- Tôi nói là hắn nhanh lắm. Hắn đã biết câu thạo lắm.
Đêmiđôp lại ngẩng mặt lên vẻ ngờ vực. Maksêep không hiểu sao
lại cười khảy một cách rất lạ, cười bằng một nửa mặt. Tựa như không phải hắn
nhếch mép cười, mà chỉ nhấp nháy môi.
- Đúng, cho nó chơi. Không việc gì thú vị hơn… ai hiểu được…
công việc câu cá…
Y ngoẹo cổ và đi tiếp, đầu như tách hẳn ra. Nhưng đang đi
bỗng y dừng lại, mở miệng nói để hở hai răng bạc lấp lánh:
- Tao đã đoán ra là chú mày ở đâu… Phải, tao biết trước…
Nụ cười nhạt khó hiểu của y, lời lẽ của y, nhất là cái từ
“chú mày” mà y vẫn hay dùng hồi trẻ - có cái gì làm Đêmiđôp khó chịu, lo lắng,
gây ra cho ông cảm giác không lành. Ông quên bẵng cái cần câu và đưa mắt theo
dõi Maksêep không chớp.
Còn Maksêep có lẽ không tìm được chỗ để đào hố, cứ đi đi lại
lại giữa những người câu cá, đầu vẫn cứ ngoẹo sang một bên. Cuối cùng, hình như
tìm được một chỗ, y bắt đầu đục lỗ băng ở xa hẳn mọi người. Y đục rất lâu, ba
lần cúi người xuống xúc những mẩu băng vụn trong hố ra.
“Băng cũng không đến nỗi dầy, chỉ khoảng mười xăngtinmét, mà
hắn đào gì lâu thế? - Đêmiđôp nhận xét thầm trong bụng, - Hay là hắn yếu thật
rồi?”
Đêmiđôp quay sang định sửa cần câu thì vừa lúc Maksêep quẳng
cái xà beng xuống. Y quăng nó thật xa, như quẳng cái vật không cần thiết và chỉ
làm vướng y. Đêmiđôp vội vã bỏ ngay cần câu xuống mặt băng, đôi lông mày bạc và
cứng của lão dướn lên và chau lại. Đầu óc ông chưa hiểu ra chuyện gì, nhưng
thâm tâm ông thấy nhói lên một cái, rồi cái nữa…
Trong khi Maksêep cởi nút thắt lưng, rồi quăng chiếc áo
khoác dạ xuống mặt băng, Đêmiđôp đứng phắt dậy, cảm thấy hai đầu gối run lẩy
bẩy, không phải tự lão bật dậy, mà như có sức mạnh bên ngoài nào nhấc lão dậy.
Nhưng ý thức lão vẫn chưa hoạt động.
- Maksêep! Giữ hộ anh ấy với! Giữ hộ với! Giữ… - một giọng
đàn bà thất thanh bỗng vang lên trên khoảng sông trắng xóa. Nghe rất đáng sợ vì
nó vang lên bất ngờ, và đó là giọng kêu cứu. Những người đánh cá đứng cả dậy,
ngơ ngác không hiểu ai kêu và tại sao kêu, kêu cái gì: băng hình như rất chắc,
không ai có thể bị thụt chân được.
Chỉ có Đêmiđôp cuối cùng mới đoán ra câu chuyện. Ông chạy
nặng nề tới chỗ Maksêep. Grinka sợ hãi nhìn theo bố.
Maksêep lúc ấy đang đứng cạnh cái hố do chính y đào, đường
kính phải gần một mét. Maksêep đứng thẳng người như con chuột vàng đứng trước
hang, tựa như nhẫn nại chờ cho Đêmiđôp chạy đến gần. Tim y đập liên hồi, mặt đỏ
xạm. Tay run run, y cởi cúc áo sơmi, làm như
cái áo đang xiết chặt cổ y làm y không thở được.
Khi Đêmiđôp chỉ còn cách năm bước, Maksêep khép chặt hai tay
vào người, cứ thế bước xuống hố băng, và cả người y thụt xuống nước như cái
cây. Nước từ hố băng trào lên trên mặt băng.
- Paven! - Grinka lúc ấy cũng chạy đến gần sợ hãi hét lên - Cái… gì thế? Ông ấy làm sao thế? Ông ấy làm thế để làm gì?
Mặt cậu bé trắng nhợt như tuyết. Đêmiđôp giữ chặt lấy cậu
bé, ôm sát cậu vào người như sợ Grinka cũng bị thụt xuống hố băng.
- Không có gì đâu, con ạ… Không có gì cả. Bác ấy, bác
Maksêep ấy, con thấy không, bị trượt chân… - Đêmiđôp ấp úng nói khẽ - Đi trên
băng bao giờ cũng phải hết sức cẩn thận, nguy hiểm lắm. Vậy mà bác ấy không cẩn
thận… trượt chân và ngã…
Họ cứ đứng ôm chặt lấy nhau như thế thẫn thờ nhìn dòng nước
đen chảy trong hố băng. Dòng nước xoáy làm cho cái mũ lông cừu của Maksêep cứ
quay tròn, rồi kéo tuột nó xuống đáy nước.
Từ khắp nơi mọi người chạy về phía bố con Đêmiđôp đứng. Chỉ
có Maria không chạy nữa. Nhìn thấy chồng rơi tõm vào hố băng, mụ như vấp phải
bức tường chắc, sững lại, ngã khuỵu chân xuống, gập bụng lại, rồi ngã chúc đầu
xuống đất.
Hình như mụ không khóc, không nghe thấy tiếng khóc. Chỉ thấy
tấm thân mụ rung lên từng đợt…
16
Khoảng hai tuần bố con Đêmiđôp sống trong cảnh im lặng, chỉ
khi thật cần thiết mới trao đổi với nhau dăm ba câu.
Nhưng một buổi tối, khi đã lên giường nằm, Grinka bỗng cất
tiếng hỏi trong bóng tối:
- Bố nói… bác ấy bị trượt chân ngã, bác Maksêep ấy… Thế bác
ấy đào cái hố to như thế để làm gì?
- Để làm gì ấy à? Cái hố nhỏ quá thì chóng bị băng đóng kín,
cứ thỉnh thoảng lại phải đục rộng thêm luôn, còn hố to thì có thể câu cả buổi
không cần đục thêm
Nhưng cảm thấy lời giải thích của mình không thuyết phục
được con trai, ông lại tiếp:
- Thứ hai, nhỡ câu được con cá rô to hơn cái lưỡi xẻng thì
làm thế nào lôi lên được? Chờ đục to ra thì cá chui mẹ đi mất rồi! Mà Maksêep
thì tham bắt cá lắm. Nên hắn đục thật to để phòng xa.
- Thế bố có thương bác ấy không? - Grinka ngắt lời bố.
- Không, con ạ, - Nghĩ ngợi một chút Đêmiđôp mới trả lời. - Hắn ta là một tên đểu.
- Đấy, bố thấy chưa. Thì con đã bảo mà: đất chỉ yêu người
tốt, người nào tốt thì nó yêu, còn kẻ xấu thì nó cũng biết trừng phạt đấy!
- Thôi, ngủ đi con. Nghĩ đến chuyện ấy làm gì? Bài ngày mai
con thuộc hết chưa?
- Hết rồi ạ.
- Thế thì ngủ đi!
Nhưng Grinka trằn trọc mãi không sao ngủ được, cậu thở dài
thườn thượt như người lớn. Cuối cùng, sau khi ngáp một cái, cậu lại hỏi:
- Những tên đểu phải ở một mình với đất chắc sợ lắm phải
không bố?
- Không, có lẽ phải sống một mình với lương tâm thì bọn
chúng thấy sợ hơn, con ạ.
- Nghĩa là thế nào ạ?
- Chả thế nào cả! Thôi ngủ đi, hỏi lôi thôi mãi!- Paven nổi
cáu, nhưng ông cáu với ông, với những lời cuối cùng của ông thì đúng hơn.
Grinka chưa hiểu, và Đêmiđôp cũng không muốn để cậu hiểu quá
sớm rằng, trên mảnh đất cổ kính dưới vầng trăng ngàn đời ấy đã xảy ra một trong
những tấn bi kịch muôn thuở của người đời.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét