Chương 54
Ngày rạng và mọi thứ càng tệ hơn. Vì bây giờ, ra khỏi bóng
đêm, tôi nhìn thấy cả những gì mà trước đây chỉ có thể cảm thấy: Những màn mưa
mênh mang từ các tầng trời cao thẳm đổ xuống như muốn nghiền nát tôi, và những
con sóng thay nhau cuốn tôi lên cao rồi dìm tôi xuống thấp.
Mắt đờ đẫn, run lẩy bẩy và tê dại, một tay quắp cái hứng
mưa, tay kia bám chặt vào bè, tôi tiếp tục chờ đợi.
Một lúc sau, với sự bất ngờ được nhấn mạnh hơn nữa bằng cái
yên ắng tiếp theo, mưa ngừng rơi. Trời trong, và dường như các con sóng đã theo
mây mà biến đi. Thay đổi thật nhanh và triệt để, như khi ta đi từ nước này sang
nước kia trên đất liền. Bây giờ thì tôi đang ở trên một đại dương khác hẳn. Một
lát sau, mặt trời ngự trị trên cái vòm xanh và biển cả là một làn da mịn phản
chiếu ánh sáng với ức triệu mảnh gương lấp lánh.
Tôi tê cứng hết người, đau nhức và kiệt sức, chẳng biết có
nên mừng vì còn sống hay không nữa. Những từ “Kế hoạch số sáu, kế hoạch số sáu, kế hoạch số sáu”, lặp đi lặp lại
trong đầu tôi như một câu thần chú và đem lại một chút an ủi, mặc dù tôi không
còn nhớ nội dung của kế hoạch số sáu là gì nữa. Xương cốt tôi bắt đầu ấm trở
lại. Tôi gập cái hứng mưa. Tôi quấn chăn quanh người và nằm nghiêng, cuộn tròn
sao cho không có chỗ nào chạm xuống đến nước, rồi ngủ thiếp đi.
Không biết tôi đã ngủ bao lâu. Tỉnh dậy thì thấy có vẻ đã
gần trưa, nóng bức. Cái chăn đã gần như khô. Một giấc ngủ ngắn thật say. Tôi
nghển cổ lên, chống một khuỷu tay.
Xung quanh tôi phẳng phiu vô tận, một toàn cảnh vô cùng tận
của màu xanh nước biển. Không có gì cản tầm mắt. Cái mênh mang đập vào tôi như
một cú đấm thúc vào bụng. Tôi nằm vật xuống, đầu óc quay tít. Cái bè này chỉ là
một trò đùa. Nó chỉ là vài cái que và một mẩu nút chai buộc lại với nhau. Nước
trào lên qua các kẽ hở. Đáy nước thăm thẳm bên dưới sẽ khiến cho ngay cả một
con chim cũng phải chóng mặt. Tôi thấy cái xuồng nó chẳng hơn gì một nửa cái vỏ
hạt dẻ. Nó nổi trên mặt nước cũng như mấy ngón tay đang bám víu lấy mép vực
thẳm. Sớm muộn gì rồi trọng lực cũng kéo nó xuống mà thôi.
Kẻ cùng cảnh ngộ với tôi xuất hiện. Nó đứng hai chân trước
lên mạn xuồng và nhìn về phía tôi. Cảnh tượng một con hổ thình lình xuất hiện
thì bao giờ và ở đâu cũng choáng ngợp cả, nhưng nó càng choáng ngợp hơn trong
khung cảnh lúc đó. Vẻ tương phản lạ lùng giữa bộ cánh da cam tươi có vằn đen
của nó với màu trắng đục của vỏ xuồng thật mạnh mẽ và hấp dẫn không thể tưởng
tượng được. Các giác quan mệt mỏi của tôi đột nhiên ngừng hết cả lại như một
chiếc xe đang chạy hết tốc lực bị kéo hết phanh. Thái Bình Dương mênh mông là
vậy, thế mà đột nhiên giữa chúng tôi, nó trở thành chật hẹp như thể chỉ là một
hào nước hẹp, không rào không giậu.
“Kế hoạch số sáu, Kế
hoạch số sáu, Kế hoạch số sáu”, tâm trí tôi thì thào khẩn cấp. Nhưng kế
hoạch số sáu là cái gì? A, đúng rồi. Chiến tranh vây hãm và bỏ đói. Trò chơi
chờ đợi. Trò thụ động. Kệ cho mọi việc tự nó xảy ra. Quy luật sắt của thiên
nhiên. Cuộc hành quân không ngừng nghỉ của thời gian và việc tàng trữ lương
thực. Đó là kế hoạch số sáu.
Một ý nghĩ réo lên trong đầu tôi như một tiếng thét giận dữ:
“Đồ ngu ngốc! Thằng cả đần! Đồ khỉ! Kế hoạch số sáu là kế hoạch dở nhất!
Richard Parker đang sợ hãi biển cả như một nấm mồ của chính mình. Nhưng đói
khát sẽ làm cho nó hết sợ. Và nó sẽ làm đủ thứ để thoả mãn nhu cầu đó. Nó sẽ
biến con hào nước hẹp thành một cái cầu. Nó sẽ bơi đến tận khi nào đến được bè
để có thức ăn. Còn nước uống, chẳng nhẽ mi đã quên là ở Sundarbans người ta
thấy hổ uống cả nước biển mặn đấy ư? Mi tưởng có thể thi gan với quả thận kiểu
đó của nó hay sao? Ta nói cho mi biết, nếu mi phát động chiến tranh vây hãm và
bỏ đói, mi sẽ thua! Mi sẽ chết! ĐÃ RÕ CHƯA?”.
Chương 55
Tôi phải có vài lời về sự sợ hãi. Sợ hãi là đối thủ thực sự
duy nhất của cuộc sống. Chỉ có sợ hãi mới đánh bại được cuộc sống. Nó là một
đối thủ khôn ngoan và xảo quyệt, tôi biết điều này quá rõ. Nó không có liêm sỉ,
không tuân thủ bất cứ một luật lệ gì, không biết thương xót. Nó tấn công chỗ
yếu nhất của ta, và bao giờ cũng tìm thấy chỗ đó một cách dễ dàng. Nó luôn tấn
công trước hết vào tinh thần của ta. Ta đang bình tĩnh, chủ động, hạnh phúc.
Đùng một cái, sợ hãi, ngụy trang dưới dạng một nghi ngờ nhẹ nhàng, lẻn vào tinh
thần ta như một tên gián điệp. Nghi ngờ gặp phải Không tin và Không tin cố đánh
bật nó ra. Nhưng Không tin là một anh lính quèn kém võ trang. Nghi ngờ loại anh
này ra khỏi vòng chiến một cách dễ dàng. Ta bắt đầu lo lắng, bồn chồn. Lý lẽ
liền xung trận bảo vệ ta. Ta thấy yên lòng lại. Lý lẽ được trang bị bằng một
thứ vũ khí và công nghệ hiện đại nhất. Nhưng, trước sự kinh ngạc của ta, mặc dù
đã có những chiến thuật siêu đẳng và một số chiến thắng không thể phủ nhận, Lý
lẽ vẫn bị yếu thế. Ta lại thấy yếu lòng, hoang mang. Nỗi lo lắng và bồn chồn
của ta trở thành kinh hoàng.
Lúc ấy, Sợ hãi dồn toàn lực sang cơ thể ta, vốn đã lờ mờ cảm
thấy có chuyện chẳng lành đang xảy ra. Lập tức, hai lá phổi ta vỗ cánh bay mất
như một con chim, còn ruột gan ta thì như bầy rắn hốt hoảng trườn đi. Rồi đến
lưỡi ta cứng đơ lại, còn hàm thì bắt đầu phi nước kiệu tại chỗ. Tai ta điếc đặc,
còn cơ bắp bắt đầu run rẩy như sốt rét còn hai đầu gối thì bắt đầu run rẩy. Tất
cả những bộ phận khác cũng vậy. Bộ phận nào cũng hỏng theo kiểu riêng của
chúng. Chỉ có hai con mắt là chạy tốt. Chúng luôn chú ý tới sợ hãi.
Và thế là ta nhanh chóng có những quyết định tai hại. Ta bỏ
rơi những đồng minh cuối cùng của mình là Hy vọng và Tin tưởng. Đó là lúc ta tự
đánh bại chính mình. Và sợ hãi, thực chất, chỉ là ấn tượng đã đánh bại ta.
Chuyện đó rất khó nói ra bằng lời, bởi vì sợ hãi, nỗi Sợ hãi
thực sự hằn sâu vào tận cốt tủy như khi ta phải đối mặt với cái chết, sẽ làm tổ
trong ký ức ta như một tổ thịt thối: nó tìm cách làm thối mọi thứ, kể cả những
lời sẽ phải dùng để nói về chính nó. Cho nên ta phải đấu tranh kịch liệt để
diễn đạt nó ra. Ta phải chiến đấu đến cùng để làm rõ rang ánh sáng của những
lời dùng để nói về nó. Bởi lẽ nếu không thế, nếu nỗi sợ hãi của ta trở thành
một cõi đen tối không lời mà ta lẩn tránh, thậm chí còn có thể lãng quên, ta sẽ
bỏ ngỏ chính ta cho những cuộc tấn công khác nữa của Sợ hãi, vì ta đã chưa bao
giờ thực sự kháng cự kẻ đã từng đánh bại ta.
Chương 56
Chính Richard Parker làm tôi bình tĩnh trở lại. Điều trớ
trêu trong chuyện này là lúc đầu nó đã làm tôi sợ mất mật nhưng lại cũng chính
nó đem lại cho tôi sự bình yên, mục đích, và tôi dám nói rằng cả lành mạnh nữa.
Nó đang nhìn tôi rất chăm chú. Một lúc sau thì tôi hiểu ra
cái nhìn của nó. Tôi đã lớn lên với nó. Đó là cái nhìn của một con thú đang
bằng lòng với cuộc đời của mình, kiểu như ta đang nhìn ra ngoài sau một bữa ăn
ngon trong tiệm và đã đến lúc nhìn ngó mọi người và chuyện gẫu với nhau. Rõ ràng.
Richard Parker đã ăn con linh cẩu đến căng bụng và uống đã nước mưa. Nó không
hề nhe răng lợi, không gầm gừ lầu bầu gì hết. Nó chỉ giản dị nhìn tôi, quan sát
tôi với dáng vẻ tỉnh táo nhưng không đe dọa. Nó vẫy tai, quay đầu sang hai bên
với các góc độ khác nhau, hệt như loài mèo vẫn có thói như thế. Nó trông giống
một con mèo to béo nuôi trong nhà, một con mèo cảnh nặng hơn hai tạ.
Nó khụt khịt, một tiếng khụt khịt từ trong mũi. Tôi dỏng
tai. Nó khụt khịt lần nữa.
Tôi kinh ngạc. Chẳng lẽ thế?
Hổ phát ra nhiều âm thanh khác nhau. Chúng bao gồm một số
tiếng gầm và tiếng gừ, to nhất trong số này có lẽ là tiếng aaoonh, rung hết các
thanh đới, mà các con đực và cái thường phát ra trong mùa giao phối. Đó là
tiếng kêu vang rất xa và rộng, nếu nghe gần thì cực kì khủng khiếp. Khi bị bất
ngờ, hổ hộc lên một tiếng nghe như tiếng nổ gọn và sắc của một khối giận dữ, và
ngay lúc ấy khiến chân ta bật lên tháo chạy nếu không phải bị rúm lại một chỗ.
Khi chúng xông vào con mồi, hổ phát ra những tiếng gầm ngắn như tiếng ho tận cổ
họng, còn để dọa thì tiếng gầm của nó lại mang âm sắc khác. Hổ còn có lối phì
và gừ qua kẽ răng. Nghe có lúc như tiếng lá thu xào xạc trên đất, nhưng âm vang
hơn một chút, hoặc nếu là một tiếng gừ giận dữ thì nghe như một cánh cửa khổng
lồ đang từ từ mở ra trên những chiếc bàn lề gỉ sét, và cả hai loại âm thanh này
đều làm ta buốt hết cả các đốt sống lưng. Hổ còn có nhiều âm thanh khác nữa.
Khi chúng càu nhàu và rền rĩ. Chúng ư ử nhè nhẹ, mặc dù không có âm điệu và
không thường xuyên như mèo, và chỉ ư ử khi thở ra. (Chỉ có mèo là ư ử cả khi
thở ra và hít vào. Đặc tính này phân biệt rõ rệt mèo với hổ. Đặc tính phân biệt
nữa là chỉ có hổ mới có thể gầm. Thế cũng là tốt. Giả dụ mèo nhà mà cũng biết
gầm như hổ thì chắc là chẳng ai muốn nuôi chúng như hiện nay). Hổ thậm chí có
lúc kêu meo meo như mèo nhà, nhưng tiếng to hơn và âm vực thấp hơn, không
khuyến khích người nghe cúi xuống bế chúng lên. Và hổ có thể hoàn toàn im lặng
một cách oai vệ, đúng thế.
Tôi đã từng nghe tất cả những âm thanh đó từ hồi còn nhỏ.
Trừ cái tiếng khụt khịt này mà người ta gọi là prusten. Sở dĩ tôi biết prusten
là vì cha đã kể cho tôi biết.
Trong sách cũng đã có những miêu tả về tiếng khụt khịt này
của hổ. Nhưng cha đã một lần nghe thấy nó khi đến thăm và làm việc ở vườn thú Mysore , trong bệnh viện
của bầy thú ở đó, từ một con hổ đực còn non đang được điều trị bệnh viêm phổi.
Prusten là âm thanh im ắng nhất của loài hổ, một âm thanh phát ra qua lỗ mũi để
biểu thị lòng thân thiện và những ý định vô hại.
Richard Parker lại khụt khịt nữa, lần này thì với một động
tác quay đầu. Trông nó đúng là đang cất tiếng hỏi tôi điều gì.
Tôi nhìn nó, lòng tràn đầy một sự kì diệu đáng sợ. Không
thấy bị đe dọa ngay lập tức nữa, hơi thở của tôi lại dịu lại, tim không còn đập
loạn xạ, và tôi bắt đầu tỉnh táo trở lại.
Phải thuần phục nó. Tôi chợt nhận ra điều đó. Không còn là
vấn đề nó hoặc tôi, mà là nó và tôi. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng, chúng tôi đang
cùng hội cùng thuyền. Chúng tôi sẽ sống – hoặc sẽ chết – cùng với nhau. Nó có
thể bị chết vì một tai biến nào đó, hoặc có thể chết nhanh chóng hơn vì các
nguyên nhân tự nhiên, nhưng hy vọng một kết cục như vậy là một điều xuẩn ngốc.
Điều ngược lại còn dễ xảy ra hơn, vì với thời gian, sức người yếu ớt nơi tôi sẽ
không thể bền bỉ như sức vóc thú vật của nó. Chỉ khi tôi thuần phục được nó,
may ra tôi mới có thể lừa nó vào cái chết trước, nếu chúng tôi bị dồn vào tính
trạng đáng buồn ấy.
Còn nhiều chuyện nữa. Tôi sẽ nói hết. Tôi sẽ thú nhận một bí
mật; một phần con người tôi thấy vui vì có Richard Parker. Một phần con người
tôi không muốn Richard Parker chết một tí nào. Vì nếu nó chết, tôi chỉ có một
mình với nỗi tuyệt vọng, một đối thủ còn ghê gớm hơn cả một con hổ. Nếu như tôi
vẫn còn muốn sống, thì đó là vì Richard Parker. Nó khiến tôi không phải nghĩ
quá nhiều đến gia đình tôi và hoàn cảnh bi thảm của tôi. Nó thúc tôi tiếp tục
sống. Tôi căm ghét nó là vì thế, mà cũng biết ơn nó là vì thế. Đúng là tôi biết
ơn nó. Sự thật hiển nhiên là: không có Richard Parker, tôi đã không còn sống để
kể câu chuyện này.
Tôi nhìn ra chân trời khắp xung quanh. Chẳng phải tôi đang
có một sân khấu xiếc hoàn hảo, tròn trịa, không thể đào tẩu đi đâu và cũng
không có một ngóc ngách nào để lần trốn được hay sao? Tôi nhìn xuống biển.
Chẳng phải đó là nguồn các món ăn có thể dùng để thưởng và dạy nó nghe lời hay
sao? Tôi để ý thấy có một cái còi lủng lẳng ở một chiếc áo phao. Đó chẳng phải
là chiếc roi tốt để cho nó đi đúng hàng đúng lối hay sao? Còn thiếu gì nữa để
thuần phục Richard Parker? Thời gian ư? Phải hàng nhiều tuần lễ trước khi có
chiếc tàu nào tình cờ phát hiện ra tôi. Quyết tâm ư? Không có gì khiến ta quyết
tâm bằng nhu cầu sống còn. Kiến thức ư? Chẳng phải tôi là con trai của một người
chủ vườn thú đấy sao? Phần thưởng ư? Có phần thưởng nào lớn hơn chính cuộc
sống? Có hình phạt nào khủng khiếp hơn cái chết? Tôi nhìn Richard Parker. Tôi
không còn hoảng loạn nữa. Tôi đã chế ngự được nỗi sợ hãi. Sống còn đã nằm trong
tầm tay.
Hãy nổi kèn hiệu lên. Gióng trống lên. Hãy bắt đầu màn trình
diễn. Tôi đứng hẳn lên. Richard Parker để ý ngay. Đứng cho vững trên bè không
phải dễ. Tôi hít một hơi dài và gào lên: “Thưa quý bà và quí ông, quí cô và quí
cậu, hãy mau về chỗ của mình! Mau lên, mau lên. Quí vị không muốn bị muộn trò
đâu. Hãy ngồi xuống, hãy mở mắt ra, mở lòng và chuẩn bị để được kinh hoàng. Nó
đây rồi, để mang lại cho quí vị những vui vẻ mới lạ và niềm hoan lạc tràn đầy,
buổi diễn mà quí vị đã chờ đợi bấy lâu nay, buổi diễn vĩ đại nhất trên trái đất
này đã đến đây rồi! Quí vị đã sẵn sang thưởng thức những điều kỳ diệu của nó
chưa? Rồi phải không ạ? Vậy thì, những kì diệu này biến ảo vô cùng. Quí vị đã
thấy chúng trong những khu rừng ôn đới phủ đầy tuyết trắng. Quí vị đã thấy
chúng trong những khu rừng rậm nhiệt đới gió mùa. Quí vị đã thấy chúng trong
những xứ sở hoang vu cây cối thưa thớt. Quí vị đã thấy chúng trên những đầm lầy
nước lợ mọc đầy xoài và mãng cầu. Sự thực là buổi diễn này có thể làm ở bất cứ
đâu. Nhưng chưa bao giờ quí vị được thấy buổi biểu diễn ấy tại một nơi như nơi
này! Quí bà và quí ông, quí cô và quí cậu, không dám nhiều lời thêm nữa, tôi
xin vinh hạnh giới thiệu:
“ĐOÀN XIẾC NỔI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG, ẤN – CANAĐA , PI PATEL! TUYYÝYYt!
TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!”
Tôi có tác động đến Richard Parker. Ngay tiếng còi đầu tiên,
nó rùng mình và nhe nanh. Ha! Cứ việc nhảy xuống biển nếu máy muốn! Cứ thử đi
xem nào!
“TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!
TUYYÝYYt!”
Nó gầm lên và cào hai chân trước vào không khí. Nhưng nó
không nhẩy. Nó có khả năng không sợ hãi biển nữa khi bị đói khát giầy vò, nhưng
bây giờ thì tôi phải tận dụng nỗi sợ hãi ấy của nó.
“TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!
TUYYÝYYt!”
Nó lùi lại và chúi xuống sàn. Buổi huấn luyện đầu tiên thế
là xong. Một thành công vang dội. Tôi ngừng thổi còi, ngồi phịch xuống bè, hết
hơi và mệt rũ người.
Và thế là ra đời:
Kế hoạch số bảy:
Giữ cho nó sống.
Chương 57
Tôi lôi cuốn cẩm nang ra đọc. Các trang sách vẫn còn ướt.
Tôi cẩn thận giở từng trang. Tác giả là một sĩ quan thủy quân hoàng gia Anh.
Cuốn sách là một kho báu các thông tin thực dụng về việc làm sao để sống sót
sau khi bị đắm tàu, bao gồm cả những mẹo nho nhỏ như sau:
* Luôn luôn đọc kỹ các hướng dẫn.
* Đừng uống nước giải. Hoặc nước biển. Hoặc máu chim.
* Đừng ăn sứa. Hoặc các loại cá có ngạnh. Hoặc cá có mồm như
mỏ vẹt. Hoặc cá có thể phồng người lên như bóng thổi.
* Bóp mạnh hai mắt cá sẽ làm cho nó tê liệt.
* Cơ thể tự nó rất dai sức để sinh tồn. Nếu bị thương, phải
cảnh giác với các phương pháp chữa trị tưởng là hay nhưng vô căn cứ. Phương
pháp lang băm là nguy hiểm nhất. Không có hộ lý nào tốt hơn là nghỉ ngơi và
giấc ngủ.
* Nhấc chân cao lên ít nhất năm phút một lần.
* Nên tránh gắng sức không cần thiết. Nhưng đầu óc nhàn rỗi
sẽ sinh u mê, cho nên cần tận dụng mọi cơ hội để có hoạt động trí não. Đánh
bài, chơi trò Hai mươi câu hỏi và trò Trinh thám bằng mắt là những hình thức
giải trí đơn giản tuyệt vời. Cùng nhau hát cũng là một cách nâng cao tinh thần
rất hữu hiệu. Kể chuyện cũng vậy.
* Nước có màu xanh lá cây thì nông hơn chỗ nước có màu xanh
da trời.
* Phải cảnh giác khi thấy các đám mây ngoài xa có dáng dấp
như các dãy núi. Hãy để mắt tìm màu xanh lá cây. Chỉ khi nào đặt chân lên mặt
đất hãy nghĩ là mình đã lên bờ.
* Đừng bơi. Việc này tiêu hao năng lượng. Hơn nữa, xuồng cứu
nạn thường trôi nhanh hơn bơi. Chưa kể các nguy hiểm khác trong khi bơi. Nếu
thấy nóng, tốt nhất là dấp nước lên quần áo.
* Đừng đái vào quần, có thể thấy ấm một chút lúc đó những sẽ
ngứa ngáy rất khó chịu sau này.
* Hãy tìm cách che nắng. Phơi nắng có thể chết nhanh hơn cả
khi đói khát.
* Khi không bị mất quá nhiều nước qua đường mồ hôi và bài
tiết, cơ thế có thể sống sót được tới mười bốn ngày mà không cần nước uống. Nếu
thấy khát, hãy mút một cái khuy.
* Rùa vừa dễ bắt vừa ăn ngon. Máu rùa là đồ uống không có
muối, rất bổ; thịt rùa thơm và chắc dạ; mỡ có nhiều công dụng khác nhau; và
trứng rùa thì tuyệt hảo. Cẩn thận mỏ và móng rùa.
* Đừng để xuống tinh thần. Sờn lòng thì chấp nhận được,
nhưng đừng bao giờ chịu đầu hàng. Hãy nhớ rằng: Tinh thần là quan trọng nhất.
Nếu ta có ý chí sống, ta sẽ sống. Chúc may mắn!
Cũng có một vài dòng ngắn gọn chắt lọc từ nghệ thuật và khoa
học hàng hải. Tôi học được rằng trong một ngày đẹp trời, lặng gió và với tầm
mắt ở độ cao một thước sáu, thì đường chân trời cách ta khoảng hai dặm rưỡi.
Lời khuyên đừng uống nước giải là hoàn toàn không cần thiết.
Chẳng có ai bị người ta gọi là “Pissing”,- nghĩa là đang đi đái - từ thời thơ
ấu chịu phải chết với một cốc nước giải trên môi, ngay cả khi chỉ có một mình
giữa Thái Bình Dương. Còn các lời khuyên liên quan đến các món ăn chỉ làm tôi
thêm tin chắc rằng người Anh không biết được ý nghĩa của từ thực phẩm. Ngoài
những chi tiết đó ra thì cuốn sách cẩm nang là một tài liệu tuyệt vời. Chỉ có
một chủ đề quan trọng không thấy nói đến: việc thiết lập mối quan hệ alpha –
omega, chủ và tớ, với mấy con vật nuôi trên xuồng cứu nạn.
Tôi phải thiết kế một chương trình huấn luyện cho Richard
Parker. Tôi phải làm nó hiểu được rằng tôi là con hổ đầu đàn và rằng lãnh thổ
của nó chỉ là dưới sàn xuồng, kể từ cái ghế đuôi đến cái ghế giữa mà thôi. Tôi
phải ấn vào đầu nó một ý thức rõ ràng rằng phần mui bạt và khu vực mũi xuồng,
kể cho đến cái ghế giữa, là lãnh thổ của tôi, và tuyệt đối nó không được xâm
phạm.
Tôi phải bắt đầu nghĩ cách câu cá càng sớm càng tốt. Chẳng
mấy chốc, Richard Parker sẽ ăn hết chỗ thịt chết kia ở trên xuồng. Trong vườn
thú, một con hổ hoặc sư tử đã trưởng thành trung bình ăn hết khoảng năm cân
thịt mỗi ngày.
Và còn nhiều việc khác phải làm. Tôi phải tìm phương tiện
che chắn cho mình.
Nếu Richard Parker chúi dưới tấm mui bạt suốt ngày như thế
là có lí do chính đáng lắm. Liên tục ở ngoài trời như thế này, nắng, mưa, gió,
biển, sẽ làm kiệt quệ cả cơ thể lẫn tinh thần. Tôi đã chẳng đọc thấy rằng mưa
nắng có thể đưa đến một cái chết rất nhanh đó hay sao? Tôi phải làm một cái mái
che kiểu gì đó cho mình.
Tôi phải buộc cái bè vào với chiếc xuồng bằng một sợi dây
nữa, đề phòng cái dây hiện nay bị đứt hoặc lỏng ra.
Tôi phải cải thiện bè. Hiện thời thì nó nổi đấy, nhưng khó
lòng ở trên nó lâu được.
Tôi sẽ phải làm cho nó tiện nghi hơn để sống cho tới khi có
thể dọn về và ổn định chỗ của mình trên xuồng. Chẳng hạn như phải làm sao vẫn ở
trên bè mà không bị ướt. Da dẻ tôi nhăn nhúm và sưng tấy khắp người do liên tục
bị ướt. Tình trạng đó phải chấm dứt. Và cũng phải tìm cách cất giấu đồ ngay
trên bè nữa.
Tôi phải thôi đừng hi vọng quá nhiều vào chuyện một con tàu
sẽ đến cứu tôi.
Không nên chờ đợi cái gì khác. Việc sống còn phải bắt đầu từ
chính bản thân mình. Theo kinh nghiệm của tôi, sai làm tệ hại nhất của một nạn
nhân đắm tàu là hi vọng quá nhiều và hành động quá ít. Việc sống còn bắt đầu
bằng ý thức để ý đến những gì sờ thấy lấy được. Trông chờ xa xôi với niềm hi
vọng lười nhác cũng có nghĩa là mộng mị để cuộc sống của mình tuột đi dần dần.
Có biết bao nhiêu việc tôi phải làm.
Tôi phóng tầm mắt về phía chân trời trống rỗng. Sao mà nhiều
nước đến thế. Còn tôi thì chỉ có một mình. Chỉ có một mình.
Tôi bật khóc. Nước mắt tôi nóng bỏng. Vùi mặt vào hai khoeo
tay, tôi khóc tấm tức. Tình trạng của tôi chắc chắn là vô vọng rồi.
Chương 58
Một mình hay không, mất hay còn, tôi vẫn thấy đói và khát.
Tôi kéo dây. Nó hơi căng. Lỏng tay kéo là nó tuột đi, và khoảng cách giữa cái
bè và xuồng lại tăng lên. Có nghĩa là chiếc xuồng trôi nhanh hơn chiếc bè và
đang kéo nó theo. Tôi để ý thấy hiện tượng đó nhưng không nghĩ gì về nó. Đầu óc
tôi còn đang tập trung vào những hành động của Richard Parker.
Trông thì có vẻ như nó đang ở dưới tấm bạt.
Tôi kéo dây cho tới khi đến sát cạnh mũi xuồng. Tôi rướn lên
mép xuồng. Và khi đang kéo xuống, chuẩn bị tấn công vào cái tủ đựng đồ, một
loạt các con sóng ào đến khiến cho tôi phải nghĩ. Và tôi nhận ra rằng với cái
bè ở ngay sát cạnh, chiếc xuồng đã đổi hướng trôi. Nó không còn đi vuông góc
với các ngọn sóng nữa và quay ngang sườn về phía chúng và bắt đầu lắc ngang từ
bên này sang bên kia, kiểu lắc làm cho nôn nao hết cả bụng. Tôi chợt hiểu ra:
Cái bè, khi ở xa chiếc xuồng thì có tác dụng như một cái neo có lực kéo khiến
cho xuồng trôi trực diện qua các con sóng. Sóng và gió ổn định thường có chiều
vuông góc với nhau. Cho nên nếu một chiếc xuồng bị gió đẩy đi nhưng lại bị neo
nổi kéo lại, nó sẽ quay đầu vào vị trí ít cản gió nhất, tức là nằm xuôi theo
chiều gió và vuông góc với sóng. Lúc ấy, nó dập dềnh theo chiều mũi và đuôi
xuồng, dễ chịu hơn nhiều so với tình trạng lắc lư theo chiều ngang. Khi cái bè
đã ở sát cạnh xuồng thì tác dụng neo kéo của nó mất đi, không có gì giữ cho
xuồng đi xuôi gió nữa, và nó liền quay ngang.
Một chi tiết nhỏ nhặt ấy thôi sẽ cứu mạng tôi và sẽ khiến
cho Richard Parker phải hối hận.
Như thể khẳng định cho ý nghĩ thoáng qua ấy của tôi là đúng,
tôi nghe thấy nó gừ lên một tiếng. Đó là một tiếng gừ bất an, có một âm hưởng
khó chịu và sống sượng rất khó định nghĩa. Nó có thể là một tay bơi lội cừ,
nhưng không phải một phù thủy ra trò.
Tôi còn có cơ hội.
Có vẻ như tôi đã quá tự phụ về khả năng chi phối nó, nên
ngay lúc ấy trời gửi đến cho tôi một dấu hiệu cảnh cáo rất lạ. Hình như Richard
Parker là một cây nam châm sống với sức hút mãnh liệt đến nỗi các sinh vật ở
gần nó không thể chịu nổi. Tôi đang sắp trèo lên mũi xuồng thì chợt nghe có
tiêng xoèn xoẹt nhè nhẹ. Có cái gì nho nhỏ rơi xuống nước ngay cạnh tôi.
Đó là một con gián. Nó nổi bập bềnh được một hai giây thì bị
một cái miệng dưới nước nuốt chửng. Lại một con gián nữa rơi xuống nước, một
phút sau đó, đã có khoảng chục con gián thi nhau nhẩy xuống nước lõm bõm cả hai
bên mạn xuồng. Con nào cũng nhanh chóng bị cá nuốt chửng.
Những hình thức sống ngoại lai đang rời bỏ chiếc xuồng.
Tôi thận trọng nhìn qua mép xuồng. Vật đầu tiên lọt vào mắt
tôi là một con gián thật to, chắc thủ lĩnh của cả bộ lạc gián trên xuồng, đang
nằm trong một nếp gấp của tấm bạt phía trên cái ghế mũi xuồng. Tôi ngắm con
gián, tự nhiên thấy rất lạ. Khi nó đã quyết định là đã đến lúc, con gián giương
cánh bay lên không trung với một âm thanh thật tinh tế, dừng lại một tí trên
cao như thể đang kiểm tra xem còn có con nào khác ở lại trên xuồng nữa không,
rồi nhào xuống biển để đón nhận cái chết.
Bây giờ thì chỉ còn hai chúng tôi. Trong năm ngày, toàn bộ
dân số gồm khỉ độc, ngựa vằn, linh cẩu, chuột, ruồi, và gián đã bị tiêu diệt.
Không kể bọn vi trùng và ròi bọ có thể vẫn sống trong chỗ thịt chết của các con
vật kia, trên xuồng không còn ai khác đang sống ngoài Richard Parker và tôi.
Ý nghĩa đó chẳng dễ chịu chút nào.
Tôi nhổm lên và nín thở mở nắp cái thùng. Tôi cố tình không
nhìn xuống dưới tấm bạt vì sợ rằng nhìn sẽ giống như một tiếng kêu có thể sẽ
đánh động Richard Parker. Chỉ khi cái nắp thùng đã dựa vào tấm bạt rồi, tôi mới
dám để ý xem phía bên kia có những gì.
Mùi khai xộc vào mũi tôi, mùi khai khẳn rất choáng của nước
đái hổ vẫn thường thấy trong vườn thú. Hổ là con vật rất có ý thức về lãnh thổ,
và chúng đánh dấu lãnh thổ bằng nước đái của mình. Vậy là rất tốt, cho dù thật
là khai, vì mùi nước đái này chỉ bốc ra từ bên dưới tấm bạt mà thôi. Richard
Parker hình như chỉ chiếm lĩnh khu vực sàn xuồng. Có hy vọng rồi. Nếu tôi chiếm
được khu vực mui bạt, nó với tôi sẽ có thể cùng chung sống được.
Tôi nín thở, cúi đầu xuống và nghó nghiêng qua mép cái nắp
về phía bên kia. Dưới sàn xuồng có khoảng mươi phân nước mưa đọng lại và sóng
sánh bên này bên kia. Đó là cái ao riêng của Richard Parker. Nó đang làm đúng
điều mà tôi cũng sẽ làm trong hoàn cảnh của nó: trốn trong bóng mát. Ngày mỗi
lúc một nóng bức rất khó chịu. Nó nằm bẹp, quay đuôi về phía tôi, hai chân sau
duỗi dài và dang rộng, móng vuốt chổng ngược, bụng và bẹn sát tịt xuống sàn.
Trông thì buồn cười nhưng rõ rang là một tư thế rất dễ chịu.
Tôi trở lại với việc sống còn của mình. Tôi mở một hộp đồ ăn
cấp cứu và ăn đến căng bụng, hết khoảng một phần ba hộp. Rất lạ là chỉ một chút
thế thôi cũng đã làm no bụng tôi rồi. Sắp sửa uống nước từ trong cái túi nước
mưa vẫn quàng qua cổ thì tôi nhìn thấy mấy cái bình đong nước có chia độ. Nếu
không nhúng mình xuống nước được như nó, liệu tôi có quyền nhấp một chút nước
ấy không? Nguồn nước riêng của tôi không thể vô tận được. Tôi vớ một cái bình
đong, cúi xuống, hạ cả cái nắp theo mình cho đến khi nhúng được cái bình vào
nước ao của Richard Parker, chỉ cách hai bàn chân sau của nó độ hơn một thước.
Hai bàn chân chổng ngược với đám lông ướt của nó giống như hòn đảo nhỏ nổi lên
giữa đám rong biển.
Tôi múc được đến nửa lít nước. Không trong lắm. Đầy những
bụi bẩn lửng lơ. Tôi có lo uống phải vi trùng không ư? Thậm chí tôi không hề
nghĩ đến chuyện đó. Trong đầu tôi chỉ biết có cơn khát của mình. Tôi nốc cạn cả
bình nước, rất thỏa mãn.
Thiên nhiên lúc nào cũng lo giữ quân bình, cho nên chẳng lạ
gì ngay lập tức tôi thấy buồn đái. Tôi đái vào cái bình. Đúng đến mức nước mà
tôi đã vừa uống. Và lập tức thấy thèm được uống nữa. Tôi do dự. Tự nhiên muốn
nghiêng bình uống luôn. Tôi cố chống lại cơn thèm đó mà thật khó. Xấu hổ gì mặc
kệ, tôi thấy nước đái ở trong bình thật ngon lành. Chưa bị mất nước nhiều, nên
nước đái của tôi vẫn còn màu trong. Nó sáng lên dưới ánh mặt trời, trông như
một bình nước táo. Và nó đảm bảo tươi nguyên, chứ không như thứ nước uống đóng
hộp dự trữ của tôi. Nhưng tôi chế ngự được mình. Tôi tưới nước đái của mình lên
tấm bạt và nắp thùng để khẳng định lãnh thổ của mình.
Tôi trộm được thêm hai bình nước nữa của Richard Parker, lần
này thì không bị đi đái, và cảm thấy mình tươi tắn như một đóa hoa vừa được
tưới.
Bây giờ là lúc phải cải thiện tình hình của mình. Tôi quay
về với một nội dung của cái tủ và những hứa hẹn của nó.
Tôi lấy một sợi dây thứ hai và buộc thêm vào cái bè.
Tôi phát hiện ra công dụng của cái máy cất nước bằng ánh
nắng mặt trời. Nó biến nước biển thành nước uống được. Cái máy bao gồm một bộ
phận chất dẻo trong thổi lên thành hình chóp nón, chụp lên trên một hộp nổi có
dạng như cái phao cứu nạn, trên mặt có căng một tấm vải bọc cao su đen. Nước biển
chứa trên tấm vải đen được mặt trời đun nóng lên và bốc hơi, đọng lại dưới bộ
phận chóp nón. Thứ nước cất này chảy xuống máng rồi được thu góp vào một cái
túi. Trên xuồng có mười hai cái cất nước như vậy. Tôi đọc cái hướng dẫn sử dụng
rất cẩn thận (như học được từ cuốn cẩm nang sống sót), rồi thổi căng cả mười
hai cái chóp nón, đổ đầy mỗi thùng phao được tới mười lít nước biển. Tôi buộc
các máy cất nước vào với nhau, chằng một đầu dây vào xuồng và đầu kia vào bè,
vừa để giữ an toàn cả mười hai cái cất nước cho dù một đầu dây có bị tuột, vừa
để có thêm một đầu dây nữa nối xuồng với bè. Các máy cất nước trông đẹp và có
vẻ rất khoa học kĩ thuật khi chúng nổi trên mặt nước, nhưng trông chúng cũng có
vẻ bấp bênh và không biết chúng có làm ra nước uống thật hay không.
Tôi quay sang cải thiện cái bè. Tôi rà lại từng nút buộc,
không để cái nào lỏng lẻo. Sau một hồi suy tính, tôi quyết định biến cái chèo
thứ năm, vẫn dùng để gác chân, thành một cái cột buồm. Tôi tháo nó ra. Dùng
cạnh lưỡi cưa của con dao săn, tôi hì hục cắt một cái khấc vào mái chèo, quãng
giữa thân, rồi dùng mũi dao khoét ba lỗ thủng qua phần bẹt của mái chèo. Việc
thì chậm nhưng tốt. Tôi suy tính liên miên. Khi đã xong, tôi buộc cái chèo theo
tư thế thẳng đứng vào phía trong một cái góc bè, phần bẹt lên trên, phần cán
khấc để giữ cho mái chèo không bị tụt xuống. Tiếp theo, để đảm bảo cột buồm sẽ
đứng thẳng, cũng như có được những đường dây qua ba cái lỗ đã khoét và buộc
căng chúng xuống các đầu của những mái chèo nằm ngang của bè. Tôi buộc cái áo phao
trước đây đã chằng vào cái chèo gác chân vào chân cột buồm. Nó sẽ có hai tác
dụng: vừa tăng thêm độ nổi để bù vào sức nặng thẳng đứng của cột, vừa làm một
cái chỗ hơi cao lên để ngồi.
Tôi ném một cái chăn lên trên dàn dây căng. Nó trôi tuột
xuống. Góc chằng dây quá dốc. Tôi gập cái chăn theo chiều dài, cắt hai lỗ quãng
giữa, cách nhau chừng ba mươi phân, rồi nối hai lỗ ấy bằng một đoạn dây ngắn.
Tôi lại ném cái chăn lên, lần này thì có đoạn dây ở giữa chăn để buộc vào cột.
Thế là có một cái dù che.
Tôi mất gần hết ngày hôm đó để sửa sang lại cái bè. Rất
nhiều chi tiết phải để ý đến. Công việc chẳng dễ dàng gì vì lúc nào sóng cũng
làm bè bập bềnh. Rồi lại phải dè chừng Richard Parker suốt ngày. Kết quả không
có gì đáng gọi là mĩ mãn. Cái cột buồm, là tôi cứ gọi thế, chỉ cao hơn đầu tôi
chừng năm bảy phân. Còn sàn bè thì chỉ đủ rộng để ngồi xếp bằng hoặc nằm co gần
như là trong bụng mẹ. Nhưng tôi không phàn nàn gì cả. Cái bè chịu được biển cả,
và nó giữ cho tôi cách xa Richard Parker.
Khi làm xong các việc đó thì đã gần hết chiều. Tôi lấy một
hộp nước, một cái mở hộp, bốn cái bánh trong khẩu phần cấp cứu và bốn cái chăn.
Tôi đóng cái tủ lại (lần này rất nhẹ nhàng), ngồi vào bè và thả dây. Chiếc
xuồng trôi đi. Sợi dây chính căng ra, trong khi sợi dây bảo hiểm mà tôi đã cố
tính buộc dài hơn thì chùng lại. Tôi trải hai cái chăn xuống dưới, gấp cẩn thận
để chúng khỏi chạm xuống mặt nước. Tôi quấn hai cái chăn kia quanh vai và dựa
lưng vào cột. Ngồi lên thêm một cái áo phao như thế rất thích, chỗ ngồi có cao
hơn một chút. Thật ra cũng chẳng cao ráo gì nhiều, chỉ như người ngồi trên một
cái gối dầy vứt dưới sàn nhà, nhưng dù sao thì tôi cũng hy vọng sẽ không bị ướt
nhiều.
Bữa ăn thật ngon khi tôi vừa ăn vừa ngắm mặt trời lặn trên
bầu trời không một gợn mây. Đó là một thoáng thư giãn. Vòm trời rộng lớn bao
trùm thế giới với những sắc màu hùng tráng. Những vì sao háo hức hiện dần ra,
và ngay khi bức màn màu sắc kia bị kéo xuống một chút thôi là chúng bắt đầu
sáng rực lên trên nền xanh sẫm. Gió thổi thành những làn nhẹ nhàng và ấm áp,
còn biển cả thì chuyển mình từ tốn, mặt nước nhấp nhô như thể có những đám
người múa thành từng vòng tròn, giơ tay lên, tản ra rồi lại tụ lại với nhau,
hết vòng này đến vòng khác.
Richard Parker đã ngồi dậy. Chỉ thấy cái đầu và một ít vai
nhô lên khỏi mạn xuồng. Nó nhìn ra. Tôi hét lên, “Này Richard Parker!” và vẫy
tay. Nó nhìn tôi. Nó hít hoặc khịt mũi, cả hai động từ này đều không tả chính
xác được. Prusten rồi. Thật là một con thú tuyệt vời. Thật quí phái. Đúng là
một con hổ hoàng gia Bengal . Tôi may mắn thật
đấy chứ. Thử nghĩ xem nếu tôi phải ở với một con vật trông ngốc nghếch hoặc xấu
xí, một con tapir hoặc đà điểu, hoặc một bầy gà tây chẳng hạn thì sao? Nhất
định là quan hệ của chúng tôi sẽ khó khăn hơn nhiều.
Nghe có tiếng quấy nước, tôi nhìn xuống và há mồm vì kinh
ngạc. Thế mà tôi cứ tưởng chỉ có một mình. Sự im ắng trong không trung, vẻ huy
hoàng của ánh sáng, và cảm giác tương đối an toàn, những cái đó đã khiến tôi
tưởng vậy. Bao giờ cũng có một yếu tố im ắng và cô đơn trong cảm giác bình yên.
Có phải không nhỉ? Khó lòng tưởng tượng mình có thể thấy bình yên trong một ga
tàu điện ngầm đông đúc, có đúng không nào? Vậy thì những nhộn nhạo này là cái
gì đây?
Chỉ một cái liếc nhìn tôi đã phát hiện ra rằng biển là cả
một thành phố. Ngay phía dưới tôi, khắp xung quanh, tôi bất ngờ nhận ra những
đường cao tốc, đại lộ, phố xá và bùng bình chật nịch xe cộ ngầm dưới nước.
Trong nước, chúng thật dầy đặc, trong như thủy tinh và lấm chấm hàng triệu
triệu những li ti rêu tảo, những loài cá như những làn xe tải, xe buýt, xe con,
xe đạp và người đi bộ đang chạy như điên, rõ ràng là đang bóp còi inh ỏi và gọi
nhau í ới. Màu chủ đạo là xanh lá cây. Dưới các tầng nước sâu khác nhau, nơi
mắt tôi có thể dõi đến, tôi thấy những vệt óng ánh của những bong bóng xanh lá
cây có dạ quang mà các con cá bơi rất nhanh để lại đàng sau. Vệt này phai đi,
lập tức lại xuất hiện. Chúng hiện theo đủ các hướng. Chúng giống như các bức
ảnh chụp để mở ống kính thật lâu của các thành phố ban đêm, với những vệt đỏ
kéo dài do đèn hậu của những chiếc xe hơi tạo ra trên phim. Chỉ có khác là ở
đây có làn xe phóng đi chồng chéo lên nhau như thể dọc các mạng lưới đường vượt
cao lên hàng chục tầng nhà. Và ở đây xe cộ có những màu sắc điên rồ nhất. Những
con các dorado – có tới hơn năm chục con đang tuần tiễu ngay bên dưới bè – khoe
ra màu vàng ròng sáng rỡ, màu xanh lục và xanh lam khi chúng lượn qua lượn lại.
Những con cá khác mà tôi không thể nhận diện thì đủ cả vàng, nâu, xanh lơ, đỏ,
hồng, xanh lá cây, trắng, kết hợp đủ kiểu, đơn sắc, sọc, vằn , chấm. Chỉ có bọn
cá mập là nhất định không chịu có màu sắc gì hết. Nhưng cho dù xe cộ màu nào đi
nữa thì tất cả chúng đều có chung một đặc tính là phóng như điên. Có nhiều vụ
đụng xe – tất cả đều có tử vong, phải nói thế - và một số xe bị hất tung ra
khỏi luồng, đâm lung tung và nhào vọt lên khỏi mặt nước để rồi lại rơi xuống
trong một chùm bọt sáng lòa. Tôi ngây người ngắm nhìn cảnh đô thị hỗn độn đó
như quan sát một thành phố từ trên kinh khí cầu. Đó thật là một cảnh tượng kì
vĩ, choáng ngợp. Chắc chắn là Tokyo
cũng có cảnh tương tự vào giờ cao điểm.
Tôi nhìn mãi cho tới khi các ngọn đèn lần lượt tắt đi trong
thành phố đó.
Từ tàu Tsimtsum, tôi chỉ nhìn thấy những con cá heo. Tôi đã
đồ rằng Thái Bình Dương, ngoài những đàn cá kéo nhau từng lũ đi qua, chỉ là một
vùng nước thưa thớt sự sống và phí phạm. Từ bấy đến nay, tôi đã vỡ ra rằng tàu
thủy chở hàng đi quá nhanh so với cá. Khả năng nhìn thấy sự sống dưới biển tử
trên tàu thủy cũng chỉ như khả năng nhìn thấy các con thú hoang trong rừng từ
trên một chiếc xe chạy ngoài xa lộ. Cá heo, là loài bơi rất nhanh, chơi đùa
quanh tàu thuyền cũng như chó hay chạy đuổi theo xe: chúng chạy theo cho đến
khi không thể theo kịp nữa. Nếu muốn nhìn thấy các con vật hoang dã, phải đi
bộ, rón rén, và có ý thức thám hiểm khu rừng đó. Ngoài biển cả cũng vậy. Ta
phải thả bộ qua Thái Bình Dương với những bước chân từ tốn, là nói vậy, thì mới
có thể thấy được kho báu vô biên trong lòng nó.
Tôi nằm nghiêng. Lần đầu tiên sau năm ngày, tôi cảm thấy một
chút thanh thản.
Một tia hy vọng – mà tôi đã xứng đáng được có sau bao công
sức – sáng lên trong lòng tôi. Tôi ngủ thiếp đi.
Chương 59
Tôi thức dậy một lần trong đêm đó. Tôi gạt cái dù che sang
một bên và nhìn ra ngoài. Vầng trăng lưỡi liềm có đường viền thật sắc nét và
bầu trời trong vắt hoàn hảo. Những vì sao tỏa sáng thật mãnh liệt mà cũng rất
kiềm chế, đến nỗi thật vô lý nếu gọi đó là đêm tối. Biển nằm yên, tắm trong thứ
ánh sáng e ấp và lấp lánh, một màn khiêu vũ của màu đen và màu sáng bạc trải
dài vô tận khắp xung quanh tôi. Cái gì cũng như có khối sâu và dầy – khối không
trung bên trên tôi, khối nước xung quanh và bên dưới tôi. Tôi vừa cảm động vừa
sợ hãi. Tôi cảm thấy mình giống như nhà hiền triết Markandeya, từ trong miệng
thần Vishnu ngã ra ngoài khi thần đang ngủ và nhìn thấy toàn thể vũ trụ, tất
thảy mọi thứ trong vũ trụ. Trước khi nhà hiền triết có thể chết vì sợ hãi, thần
Vishnu tỉnh dậy và lại quẳng ông vào miệng mình. Lần đầu tiên tôi nhận thấy –
và còn sẽ nhận thấy điều đó nhiều lần trong suốt cơn hoạn nạn của mình, giữa
những cơn đau đớn và tuyệt vọng – rằng khổ nạn của tôi đang xảy ra trong một
cảnh trí thật lớn lao. Tôi nhìn nhận khổ nạn của mình đúng như bản chất của nó,
hữu hạn và chẳng có nghĩa lý gì, đến nay vẫn vậy. Sự khổ nạn của tôi chẳng vừa
vào đâu cả, tôi biết thế. Và tôi có thể chấp nhận điều này. Chẳng sao cả. Chỉ
có ban ngày là tôi phản đối: “Không! Không! Không! Khổ nạn của tôi có nghĩa lý
của nó. Tôi muốn sống! Tôi không thể không hòa trộn cuộc sống của tôi với cuộc
sống của vũ trụ. Cuộc sống là một cái lỗ nhìn trộm, một lối duy nhất và bé xíu
để đi vào cõi vô cùng – làm sao tôi lại không thể tận hưởng thêm một chút cảnh
tượng của muôn vật có thể thấy được qua cái lỗ ấy? Tôi chỉ có cái lỗ bé tí ấy
thôi mà!”. Tôi lúng búng những lời cầu nguyện của đạo Hồi và nằm xuống ngủ
tiếp.
Chương 60
Sáng hôm sau, tôi không đến nỗi ướt lắm và cảm thấy khỏe
khoắn. Tôi nghĩ điều đó rất đáng nói, nếu xét đến những khó khăn lo lắng mà tôi
đang phải chịu đựng lúc bấy giờ, cũng như việc tôi đã ăn rất ít trong nhiều
ngày liền.
Hôm ấy trời đẹp. Tôi quyết định thử câu cá, lần đầu tiên
trong đời. Sau bữa điểm tâm ba cái bánh qui và một hộp nước, tôi đọc những gì
viết về chủ đề này trong cuốn sách cẩm nang sống còn. Vấn đề đầu tiên: mồi câu.
Tôi suy tính chuyện đó. Có thịt chết, nhưng lấy trộm đồ ăn ngay dưới mũi hổ thì
tôi không dám. Nó không thể hiểu được rằng đó là một khoản đầu tư sẽ đem lại
cho nó những món lại quả tuyệt hảo. Tôi quyết định dùng da giầy. Tôi chỉ còn
một chiếc. Chiếc kia đã tuột mất khi đắm tàu.
Tôi bò lên xuồng và lấy từ một thùng đồ lên một bộ đồ câu,
con dao và một cái xô để cá câu được. Richard Parker đang nằm nghiêng một bên.
Đuôi nó nhảy dựng lên khi tôi leo lên mũi xuồng nhưng đầu nó không động đậy.
Tôi thả bè ra xa.
Tôi buộc lưỡi vào dây câu qua một đoạn thép dẫn mồi. Thêm
mấy hòn chì. Tôi chọn ba hòn có hình giống như thủy lôi. Rồi cởi giầy và cắt nó
thành từng mẩu nhỏ. Không phải dễ, vì da giầy rất dai và cứng. Tôi cẩn thận
luồn mũi câu vào một mẩu da dẹt, không đâm xuyên qua mà cố gài nó vào trong sao
cho đầu nhọn lưỡi câu không lộ ra ngoài. Tôi buông dây xuống thật sâu. Tối hôm
trước tôi đã nhìn thấy biết bao nhiêu là cá và nghĩ rằng sẽ rất dễ cắn câu.
Thế mà chẳng được con nào. Cả chiếc giầy biến dần từng mẩu
một. Dây cứ thấy động hết cái này đến cái khác, cá cứ thi nhau ăn mà không mắc
câu, tôi cứ liên tục thay mồi, cho đến lúc chỉ còn một cái đế và dây giày. Khi
thấy đoạn giây giầy không hấp dẫn như một con giun làm mồi câu, tôi suốt ruột
quá liền móc vào cái lưỡi câu cả cái đế giầy to tướng. Thật là một ý tưởng
không hay. Tôi thấy cái dây câu bị kéo nhẹ một cái, rồi căng ra rất hồi hộp,
sau đột nhiên nhẹ bỗng. Tôi kéo lên, chỉ còn có dây mà thôi. Tôi đã mất cả chì
lẫn chài.
Mất mát đó không làm tôi nản lòng nhiều lắm. Trong bộ đồ câu
vẫn còn nhiều lưỡi thép dẫn mồi và các hòn chì khác, và ngoài ra còn cả một bộ
đồ câu khác còn nguyên. Mà thực ra tôi câu cá đâu phải cho mình ăn. Tôi có rất
nhiều đồ dự trữ mà.
Mặc dù vậy, một phần trí khôn của tôi, cái phần thường nói
ra những điều ta không muốn nghe, la lối rầm rĩ.
“Ngu ngốc thì phải trả giá. Lần sau thì ngươi nên thận trọng
và thông minh hơn”.
Gần hết buổi sáng hôm đó thì con rùa thứ hai xuất hiện. Nó
bơi thẳng lên bè. Nếu muốn, nó đã có thể đâm lên và cắn vào đít tôi. Khi nó
quay người bơi đi, tôi với xuống định tóm lấy hai chân sau của nó, nhưng vừa
chạm tay vào nó tôi đã rụt ngay tay lại vì sợ. Con rùa bơi đi mất.
Vẫn cái phần trí khôn đã la lối tôi trong vụ câu cá thất bại
kia lúc này lại lên tiếng.
“Ngươi định nuôi cái con hổ kia bằng gì, nói rõ xem nào?
Ngươi nghĩ nó sẽ sống được bao lâu với cái xác mấy con vật kia? Ta có phải nhắc
ngươi là hổ không phải là loài ăn thịt chết? Công nhận rằng lúc đói gần chết
thì nó cũng sẽ bịt mũi nhắm mắt mà ăn. Nhưng ngươi có nghĩ rằng trước khi phải
chén con ngựa vằn đã thối rữa kia, nó sẽ cố gắng ăn thịt thằng cu Ấn Độ vẫn còn
tươi sống nguyên lành và chỉ cách nó vài sải bơi ngắn mà thôi không? Rồi còn
tình hình nước uống thì sao? Ngươi biết là hổ không chịu được đói khát kéo dài.
Ngươi có để ý mùi hôi từ mồm miệng nó phả ra không? Dấu hiệu xấu đấy. Chẳng nhẽ
ngươi hy vọng nó sẽ uống cạn Thái Bình Dương để thỏa cơn khát và do vậy cho
phép ngươi cứ thế đi bộ đến châu Mỹ hay sao? Phải công nhận khả năng uống nước
biển đáng kinh ngạc của bầy hổ vùng Sandarbans. Có thể là vì chúng sống nhiều
đời rồi trong các khu rừng tràm ngập mặn. Nhưng khả năng đó chỉ có hạn mà thôi.
Người ta đã chẳng viết rằng hổ phải uống nhiều nước muối quá sẽ thèm thịt người
hay sao? Chao ôi, hãy nhìn kìa. Nhắc đến quỷ thì quỷ xuất hiện. Nó kia kìa. Nó
đang ngáp kìa. Kinh chưa, cả một cái hang khổng lồ. Hãy nhìn những cái răng dài
như nhũ đá kia của nó. Biết đâu hôm nay ngươi sẽ có dịp vào đó chơi”.
Lưỡi của Richard Parker, to và có mầu sắc như một cái túi
cao su đựng nước nóng để chườm, lè ra rồi thụt vào sau khi nó ngáp. Nó nuốt
khan.
Suốt ngày hôm ấy tôi lo lắng đến phát ốm. Tôi không dám đến
gần chiếc xuồng.
Nhưng khác với nỗi lo lắng của tôi, Richard Parker yên lặng
cả ngày hôm đó. Nó vẫn còn chỗ nước mưa và chưa lo gì đến chuyện đói. Nhưng nó
cũng đánh động theo nhiều cách – gầm, gừ, gằn giọng, rên rẩm theo kiểu hổ -
nghĩa là không muốn làm cho tôi yên lòng. Câu đố có vẻ như không có lời giải:
muốn câu thì phải có mồi, mà muốn có mồi thì tôi phải câu được cá. Làm sao bây
giờ. Lấy ngón chân ra làm mồi chăng? Hay cắt bớt một tai.
Rồi một giải pháp tự nó xuất hiện cuối buổi chiều hôm đó một
cách bất ngờ. Tôi kéo dây bè và lần vào cạnh xuồng. Hơn nữa: tôi đã trèo hẳn
lên xuồng và đang lục lọi cái tủ xem có tìm thấy ý tưởng gì có thể cứu mình
được không. Tôi đã buộc cái bè cách xuồng chừng gần hai thước. Tôi tưởng tượng
rằng nếu Richard Parker giở trò gì thì mình sẽ có thể thoát thân chỉ bằng một
cú nhẩy và một cú giật tháo cái nút hờ của giây buộc bè. Tôi đã dám liều như
thế chỉ vì chẳng còn cách nào khác.
Không tìm thây gì, không mồi, không một ý tưởng nào mới, tôi
ngồi dậy và lập tức thấy mình đang ở giữa tâm điểm của cái nhìn soi mói của nó.
Nó ở đầu kia của xuồng, chỗ trước đây con ngựa vằn nằm chết, quay về phía tôi,
có vẻ như đã kiên nhẫn đợi để tôi để ý đến nó. Làm sao tôi lại không nghe thấy
những chuyển động của nó? Làm sao tôi lại có thể tự huyễn hoặc mình rằng tôi có
thể đánh lừa được nó? Bất thình lình, tôi bị tát thẳng vào mặt. Tôi rú lên và
nhắm nghiềm mắt lại.
Với tốc độ của loài mèo nó đã nhảy vọt lên qua chiều dọc của
xuồng và tát tôi.
Mặt tôi sắp bị cào nát, đầu tôi sẽ rụng theo, chết như vậy
thật não nùng. Đau đớn quá nên tôi lại không cảm thấy gì. Bị choáng cũng may.
Và may mắn thay cái khả năng tự điều chỉnh đã cứu ta không phải chịu đau đớn và
buồn khổ quá lớn. Trung tâm điểm của sự sống là một cái ổ cầu chì. Tôi rên rỉ.
“Làm tới đi, Richard Parker, kết thúc tao đi. Nhưng hãy làm ơn làm cho nhanh.
Cầu chì đã đứt rồi, đừng thử nó thêm nữa”.
Nó chẳng vội gì. Nó ở ngay chân tôi, gầm gừ ầm ĩ. Chắc chắn
nó đã phát hiện ra cái tủ và những của báu trong đó. Tôi kinh hoàng mở mắt.
Đó là một con cá. Có một con cá ở trong tủ. Nó đang quẫy ầm
ĩ như bất kỳ một con cá nào khác khi mắc cạn. Một con cá bay. Nó thon thả và có
màu xanh xám đậm, với cặp cánh khô ráo không có lông, và cặp mắt tròn mầu vàng
không hề chớp. Chính con cá bay này đã đập vào mặt tôi, không phải Richard
Parker. Con hổ vẫn ở cách tôi gần năm thước, rõ ràng là nó đang ngạc nhiên không
biết tôi đang bận chuyện gì đây. Nhưng nó đã nhìn thấy con cá. Tôi có thể đọc
được vẻ tò mò sâu sắc trên mặt nó. Có vẻ nó sắp sửa muốn điều tra việc này.
Tôi cúi xuống nhặt con cá và ném về phía nó. Đó là cách dạy
nó phải thuần phục.
Hết chuột thì sẽ có cá bay. Chẳng may, con cá bay đi thật.
Trên không trung, ngay trước mõm con Richard Parker, con cá lượn vù lên và nhào
xuống nước. Nhanh như chớp. Richard Parker quay đầu theo và đớp một cái, những
lớp da dưới cổ nó rung lên, nhưng con cá nhanh quá. Nó có vẻ rất ngạc nhiên và
khó chịu. Nó lại quay về phía tôi. “Miếng ăn của tôi đâu?”, vẻ mặt nó có vẻ hỏi
thế. Tôi vừa sợ vừa buồn. Rồi quay người lại với hy vọng mong manh là có thể
nhẩy vội xuống bè trước khi nó nhào đến tôi.
Đúng lúc đó, không khí bỗng rung lên và chúng tôi bị cả một
bầy cá bay tấn công.
Chúng nhào tới như một bầy châu chấu hung dữ. Không những do
chúng đông, mà rõ ràng có cái gì rất giống với côn trùng trong những âm thanh
cành cạch và vù vù của chúng. Chúng từ dưới nước phóng vụt lên, hàng chục con
một lần, có những con vỗ cánh phành phạch trên không và bay được đến hàng trăm
thước.
Nhiều con nhào xuống nước ngay cạnh xuồng. Nhiều con khác
bay vù qua. Một số đâm nhào vào mạn xuồng, nghe như tiếng pháo tép nổ. Nhiều
con may mắn vùng vẫy trên mui bạt và quẫy được xuống biển. Các con khác, ít may
mắn hơn, rơi thẳng xuống lòng xuồng, quẫy ầm ĩ. Và còn nhiều con cứ thế đâm
thẳng vào chúng tôi. Đứng trơ trọi không gì che chắn, tôi cảm thấy mình đang
trải qua một cảnh tử vì đạo của thánh Sebastian (1). Mỗi con cá đâm vào tôi như
một mũi tên xuyên vào da thịt. Tôi ôm chặt lấy một cái chăn để tự vệ, đồng thời
cố bắt lấy vài con cá. Người tôi đầy những vết tím và sứt sẹo.
Lí do cuộc tấn công ấy lập tức lộ rõ: bọn cá bay bị bầy cá
dorados rượt đuổi sát sạt. Bọn dorados to lớn hơn không thể nào lượn như cá
bay, nhưng chúng bơi nhanh hơn nhiều và các cú vọt lên nhào xuống bất thần của
chúng rất lợi hại.
Chúng có thể chộp được bọn cá bay nếu cả hai cùng từ một
điểm vọt lên không và cùng rơi xuống nước theo một hướng. Và là cá mập, nên bọn
dorados có khả năng vọt lên khỏi mặt nước rất mãnh liệt, mặc dù không bén giọt
trơn tru như cá bay.
Trận chiến trên mặt nước đó diễn ra không lâu, nhưng khi
đang tiếp diễn, mặt biển như sôi lên sùng sục, cá nhẩy loạn xạ và đớp nhau phầm
phập.
Richard Parker đối mặt với bọn cá cứng cỏi và có hiệu quả
hơn tôi. Nó rướn người, chạy quanh, ngăn chặn, với bắt và đớp cắn tất cả những
con cá nào nhào về phía nó. Nó nuốt tươi nhiều con, những cặp cánh cá còn quẫy
ngay trong miệng.
Một màn trình diễn sức mạnh và tốc độ thật đẹp mắt. Thực ra,
không phải chỉ có tốc độ của nó, mà ấn tượng mạnh mẽ hơn là ở dáng vẻ tự tin
thuần túy súc vật của nó, sự cuốn hút hoàn toàn của nó vào giây phút hành động.
Sự hòa trộn của tập trung và thả lỏng, cái tinh thần tự cao đến thế, quả đáng
là niềm ghen tị của những tín đồ Yoga cao đạo nhất.
Khi trận chiến đó qua đi thì kết quả là, ngoài một thân thể
đau nhừ đối với tôi, có sáu con cá bay nằm lại trong tủ và rất nhiều con khác
dưới sàn xuồng. Tôi vội bọc một con cá vào cái chăn, vớ lấy một cái rìu và trở
lại bè.
Tôi tiếp tục rất thận trọng. Việc để mất cả bộ đồ câu sáng
hôm ấy đã có tác dụng làm cho tôi tỉnh táo hơn. Tôi cẩn thận giở con cá ra,
luôn giữ chặt nó xuống bằng một tay, bởi tôi thừa biết nó sẽ tìm cách nhẩy
thoát thân. Càng nhìn thấy con cá, tôi càng cảm thấy khó chịu và sợ hãi. Cái
đầu nó đã ló ra hết. Trong tư thế tôi giữ nó, con cá trông như một miếng kem cá
bẩn thỉu lòi ra trên một cái vỏ cuốn bằng chăn len. Nó đang ngáp ngáp tìm nước,
miệng và mang phồng lên dẹp xuống. Có thể cảm thấy cặp cánh nó đang đẩy mạnh
vào tay tôi. Tôi lật úp cái xô và đè đầu con cá xuống đáy xô. Tôi cầm lấy cái
rìu và nhấc rìu lên.
Tôi đã bắt đầu hạ rìu nhiều lần, mà không thể kết thúc được
nhát chặt. Tình trạng tâm lý mềm yếu ấy có vẻ vô lý nếu xét đến những gì tôi đã
chứng kiến trong những ngày vừa qua, nhưng đó là hành vi của những kẻ khác, của
bọn thú vật ăn thịt lẫn nhau. Có thể coi là tôi có một phần trách nhiệm trong
cái chết của con chuột, nhưng tôi chỉ ném nó đi, chứ Richard Parker mới là kẻ
giết chết nó. Cả một đời chay tịnh bình yên đang ngăn không cho tôi dám chặt
đầu một con cá.
Tôi lấy chăn phủ lên cái đầu cá và xoay cái rìu ngược lại.
Một lần nữa tôi vung tay. Nhưng tôi không thể chịu nổi ý nghĩ mình đang lấy búa
đập xuống một cái đầu mềm mại còn đang sống.
Tôi bỏ rìu xuống, quyết định sẽ bẻ cổ con cá mà không nhìn
nó. Tôi cuốn chặt nó vào trong chăn rồi dùng cả hai tay bắt đầu bẻ cong nó.
Càng bẻ, con cá càng giãy khỏe. Tưởng tượng cảnh chính mình bị quấn vào chăn và
có ai cố bẻ gẫy mình như thế, tôi phát hoảng. Tôi dừng lại nhiều lần. Nhưng tôi
vẫn biết rằng phải làm xong việc này, và càng lâu thì con cá càng phải chịu đau
đớn nhiều hơn.
Nước mắt ròng ròng, tôi cố mãi cho tới lúc nghe thấy tiếng
rắc và không còn thấy động cựa gì trong tay mình nữa. Tôi giở chăn ra. Con cá
bay đã chết. Nó bị bẻ gẫy rời, đẫm máu ở một bên mang.
Tôi khóc lóc đắng cay cho linh hồn của một con vật nhỏ đáng
thương. Đó là sinh linh đầu tiên đã bị tôi giết chết. Từ nay tôi đã thành kẻ
sát sinh. Từ nay tôi đã mắc tội như Cain (2). Tôi mười sáu tuổi, một thằng bé
vô hại, sách vở và tín ngưỡng, và giờ thì tay tôi đã vấy máu. Đó thật sự là một
gánh nặng phải mang theo cho đến hết đời. Sinh linh nào cũng thiêng liêng cả.
Tôi không bao giờ quên con cá đó trong những lời cầu nguyện của mình.
Sau đó thì dễ dàng hơn. Nó đã chết rồi. Con cá bây giờ chỉ
còn như những con cá tôi đã thấy ngoài chợ Pondicherry . Nó thành một cái gì khác rồi,
một cái gì đó bên ngoài quá trình sáng tạo của thế giới. Tôi dùng rìu chặt nó
thành từng miếng nhỏ rồi bỏ cả vào trong xô.
Những giờ còn lại của ngày hôm đó, tôi lại thử câu cá. Lúc
đầu cũng chẳng may mắn gì hơn buổi sáng. Nhưng có vẻ như sẽ dễ có kết quả hơn.
Rõ ràng là chúng thích. Tôi nhận ra rằng đó là những con cá nhỏ, quá nhỏ đối
với lưỡi câu. Tôi quăng dây ra xa hơn và thả cho chìm xuống sâu hơn, ra ngoài
phạm vi của bọn cá nhỏ lăng quăng sát cạnh bè và xuồng.
Chỉ đến khi tôi dùng cả cái đầu con cá bay làm mồi, quăng
dây ra xa rồi nhanh chóng kéo về, khiến cho cái đầu lướt nẩy trên mặt nước, tôi
mới có được cú cắn đầu tiên. Một con dorado nhào lên và lăn xả vào đầu cá. Tôi
thả chùng dây một chút để đảm bảo cho con cá nuốt chửng được mồi, rồi lập tức
giật mạnh. Con dorada vọt hẳn lên mặt nước như một viên đạn, kéo cái dây mạnh
đến nỗi tôi tưởng mình sẽ bị kéo ngã xuống biển. Cái dây câu rất chắc. Nó sẽ
không đứt. Tôi bắt đầu kéo con dorado vào bè. Nó chống cự với tất cả sức mạnh
của nó, nhẩy lên, nhào xuống, quẫy mạnh bên này, bên kia. Dây câu cứa vào tay
tôi. Tôi phải lót tay bằng cái chăn. Tim tôi đập thình thịch. Con cá khỏe như
một con bò đực. Không biết tôi có đủ sức kéo nó vào không.
Tôi để ý thấy tất cả những con cá khác xung quanh bè và
xuồng đã biến mất. Rõ ràng là chúng đã biết tình trạng tuyệt vọng của con cá
mắc câu. Tôi vội vã. Tình trạng này sẽ lôi kéo cá mập đến mất. Nhưng con cá
chiến đấu hăng như quỉ. Hai cánh tay tôi đau nhừ. Mỗi lần tôi lôi được nó vào
gần bè, nó lại vùng vẫy điên cuồng đến mức tôi đành phải nới dây ra một chút.
Cuối cùng thì tôi cũng kéo được nó lên. Con cá dài đến gần
một thước. Cái xô thành vô dụng. Nó sẽ chỉ vừa bằng cái mũ đội đầu cho con cá.
Tôi giữ con cá xuống bằng cách quỳ lên nó và dùng cả hai tay. Một khối nguyên
những cơ bắp đang quẫy, đập thình thịnh lên bè. Cái đuôi thò ra ngoài, bên dưới
tôi. Tôi cưỡi lên nó như một cao bồi cưỡi lên một con ngựa bất kham đang lồng
lộn. Tâm trạng tôi thật đắc thắng và hoang dã. Một con dorado là một con cá
lớn, hoành tráng, chắc nạc và thon thả, với một cái trán gồ biểu lộ một cá tính
mạnh mẽ, một cái vây lưng rất dài và ngạo nghễ như cái mào của một con gà
trống, và bộ vẩy mượt mà sáng trưng. Tôi cảm thấy như đang giáng cho số phận
một đòn chí tử vì đã khuất phục được một đối thủ đẹp đẽ đến vậy. Với con cá này,
tôi đã trả đũa lại biển cả, gió bão, nạn đắm tàu, trả đũa lại tất cả những
nghịch cảnh mà tôi đã phải chịu. Tôi hét lên: “Hỡi thần Vishnu, con xin tạ ơn
Người! Xưa kia Người đã cứu thế giới bằng cách hiện hình cá. Nay thì người đã
cứu con cũng bằng cách hiện hình thành cá. Xin tạ ơn Người!”.
Giết nó không khó. Nếu không phải lấy cái lưỡi câu ra thì
tôi sẽ dành việc ấy cho Richard Parker, là kẻ có quyền và sẽ ăn sống nuốt tươi
ngay con cá. Câu được con dorado khiến cho tôi hỉ hả vô cùng, hơn cả như câu
được một con hổ. Tôi tự tay giết nó. Tôi cầm rìu bằng cả hai tay và hết sức
liên tiếp bổ đầu búa xuống con cá. Tôi vẫn không dám dùng lưỡi sắc của rìu. Con
dorado làm một việc khác thường khi nó chết: nó bắt đầu phát ra đủ các loại ánh
sáng mầu sắc khác nhau. Xanh da trời, xanh lá cây, đỏ, vàng, lửa và tím thi
nhau lấp lánh như đèn neon trên tấm thân đang giẫy dụa của nó. Tôi tưởng như
mình đang đập chết một dải cầu vồng. Sau này tôi mới biết loài dorado nổi tiếng
vì cái chết sặc sỡ rỡ ràng của chúng. Cuối cùng, nó nằm im và không còn mầu gì
nữa, tôi gỡ được cái lưỡi câu. Thậm chí tôi còn gỡ lại được một phần mồi.
Có thể kinh ngạc một điều là chỉ trong một thời gian ngắn
ngủi đến thế, tôi đã đi từ chỗ khóc lóc vì cái chết âm thầm của một con cá bay
đến chỗ hăng hái đập chết một con dorado. Có thể biện hộ rằng tôi đã thấy e
ngại và không nỡ giết một con cá bay chỉ vì trốn chạy và lầm đường rơi vào tay
tôi, còn con dorado lớn lao kia thì tôi đã phải cố hết sức để bắt nó và sự phấn
khích của chiến công ấy đã khiến tôi hăng máu, tự tin ở việc giết chết nó.
Nhưng thực tế mà nói thì lí do không phải như vậy. Mà đơn giản và tàn khốc hơn
nhiều: người ta có thể quen với bất kì việc gì, kể cả chết chóc.
Với lòng tự hào của một kẻ đi săn, tôi kéo cái bè vào gần
xuồng. Tôi cho bè áp vào mạn xuồng, cúi người thất thấp, rồi vung tay ném con
dorado vào trong xuồng. Nó rơi xuống với một tiếng thịch thật nặng, và tôi nghe
thấy Richard Parker phát ra một âm thanh bật gió đầy ngạc nhiên. Sau một vài
tiếng hít hà, tôi nghe rõ tiếng miệng hổ ngoạm nhai nhoàm nhoạp. Tôi đẩy bè ra,
không quên thổi lên nhiều hồi còi để Richard Parker biết rằng ai đã cho nó suất
thức ăn tươi sống đó. Tôi dừng lại nhặt một ít bánh quy và một hộp nước uống.
Năm con cá bay rơi vào trong tủ đã chết cả. Tôi vặn hết cánh của chúng vứt đi,
rồi quấn cả vào cái chăn nay đã thành thiêng liêng vì mạng cá.
Khi tôi đã rửa sạch các vết máu trên người, lau chùi bộ đồ
câu, thu xếp gọn ghẽ mọi thứ và ăn xong bữa tối thì đêm đã buông xuống. Một màn
mây mỏng che khuất các vì sao và vầng trăng. Trời rất tối. Tôi thấm mệt, nhưng
vẫn còn phấn khích vì những sự kiện của những giờ trước đó. Cảm giác bận rộn
khiến tôi thấy vô cùng sảng khoái. Tôi đã không nghĩ một tí gì đến tình trạng
hoặc bản thân mình. Câu cá quả là cách dùng thời gian hay hơn kể chuyện hoặc
chơi trò Gián điệp rất nhiều. Tôi quyết định sẽ lại câu cá ngay khi rạng ngày
sáng hôm sau.
Tôi ngủ thiếp đi, đầu óc còn sáng rỡ những lấp lánh sặc sỡ
của con dorado đang đi vào cõi chết.
---------------
Chú thích :
1- Người La Mã truyền
giảng đạo Cơ Đốc, bị chính quyền bắt và giết năm 1887, sau được Giáo hội Cơ Đốc
phong thánh. Sebastian bị trói đứng vào cọc, trần trụi, và bị lính dùng cung nỏ
bắn tên vào người cho đến chết. ( ND )
2 - Nhân vật trong Kinh Thánh Cơ đốc: là kẻ sát nhân đầu
tiên trong lịch sử nhân loại, đã giết chết chính anh trai của mình. ( ND )
Chương 61
Đêm đó tôi ngủ chập chờn. Sắp sáng thì tôi không cố ngủ nữa
mà chống tay nằm lên. Và cặp mắt nhỏ nhoi của tôi nhìn thấy một con hổ. Richard
Parker đang không yên. Nó rên rỉ, gầm gào, và đi quanh quẩn vòng quanh xuồng.
Lạ thật. Tôi thử đánh giá tình hình. Nó không thể đói được. Chí ít cũng không
đến nỗi đói quá mà trở thành nguy hiểm. Nó khát chăng? Lưỡi nó thè lè thật,
nhưng chỉ chốc lát thôi, và nó không hề hổn hển. Bụng và chân nó vẫn ướt, tuy
không sũng nước như trước. Có thể là nước mưa đọng trong xuồng đã cạn bớt.
Chẳng mấy chốc, nó sẽ khát.
Tôi nhìn lên trời. Màn mây mỏng đã tan đi. Trời trong vắt,
chỉ có vài vẩn mây nhỏ phía chân trời. Sẽ là một ngày nóng bức không mưa nữa
đây. Biển chuyển mình một cách lười nhác, như thể đã thấy mệt vì cái nóng sắp
đến.
Tôi ngồi dựa cột buồm và suy nghĩ về vấn đề của chúng tôi.
Bánh quy và bộ đồ câu sẽ đảm bảo phần cứng của khẩu phần hàng ngày của chúng
tôi. Phần nước mới là cái lo. Nước thì đầy rẫy quanh chúng tôi, nhưng lại không
uống được vì có muối. Tôi có thể trộn một ít nước biển vào nước uống của nó,
nhưng đầu tiên là phải kiếm được phần nước uống ấy đã. Các hộp nước không thể
đủ cho cả hai chúng tôi về lâu dài – thực sự là tôi không hề muốn chia thứ nước
này cho Richard Parker một tí nào – còn trông chờ vào nước mưa không thôi thì
thật là ngốc.
Chỉ còn có những cái máy cất nước bằng nắng kia mà thôi. Tôi
nghi ngờ liếc nhìn chúng. Chúng đã ở dưới nắng được hai ngày rồi. Tôi thấy một
cái đã có vẻ xịt hơi. Tôi kéo dây buộc nó vào và thổi phồng cái chóp nón trở
lại. Không mong chờ gì, tôi thò tay xuống nước xem cái túi chứa bên dưới hộp
phao nó ra sao. Những ngón tay tôi thấy cái túi căng tròn một cách bất ngờ. Tôi
run hết cả người. Trấn tĩnh lại, nhỡ chỉ là nước biển đã lọt vào đó thì sao.
Tôi gỡ cái túi ra, rồi theo đúng chỉ dẫn, hạ thấp nó xuống và nghiêng cái máy
cất để bất kì chút nước nào còn đọng quanh đáy chóp nón sẽ chảy hết vào túi.
Tôi đóng hai cái nắp nhỏ, tháo hẳn cái túi ra và kéo nó lên. Nó hình khối
vuông, làm bằng nhựa dẻo dày, mềm và có màu vàng, với những vạch đo độ in ở một
bên sườn. Tôi nếm nước chứa trong túi. Tôi nếm lại lần nữa. Không hề mặn chút
nào.
“Con bò sữa biển ngọt ngào của ta ơi!” Tôi thốt lên với cái
máy cất nước. “Mày đã ra sữa rồi, và mới ngon làm sao! Vẫn hơi có mùi cao su,
nhưng tao không phàn nàn đâu. Đây này, hãy xem tao uống đây này!”
Tôi uống hết túi nước. Nó có dung tích một lít và đã chứa
gần đầy. Sau một phút thở dài nhắm mắt tận hưởng sung sướng, tôi lắp lại cái
túi. Tôi kiểm tra các máy cất khác. Cái nào cũng có một túi nặng tương tự. Tôi
thu được hơn tám lít nước ngọt, phải nói như là sữa tươi, và chứa cả vào cái xô
cá. Lập tức, những cái bẫy kĩ thuật đó trở thành quá quý giá với tôi như bầy
gia súc đối với một trại chủ. Quả thật, dập dềnh lười nhác trên mặt nước thế
kia, chúng cũng giống một đàn bò đang gặm cỏ trên cánh đồng. Tôi chăm chút vào
chúng, đảm bảo để cái nào cũng đầy nước biển và chóp nón với hộp phao nào cũng
được thổi căng vừa phải.
Sau khi thêm một ít nước biển vào xô, tôi đặt nó lên mặt ghế
bên mạn xuồng ngay sát cạnh mép bạt. Không khí mát mẻ của buổi sáng đã hết.
Richard Parker có vẻ đã yên vị ở phía dưới. Tôi buộc cái xô vào chỗ đó bằng dây
và dùng thêm các móc của tấm bạt ở phía xuồng. Cẩn thận, tôi ngó trộm qua mạn
xuồng. Nó đang nằm nghiêng. Hang ổ nó là một cảnh tượng bẩn thỉu. Các con thú
chết chất thành một đống các bộ phận cơ thể thối tha rất lạ mắt. Tôi nhận ra
một vài cẳng chân, nhiều mảnh da, mảnh đầu, rất nhiều xương. Cánh các con cá
bay rải rác khắp nơi.
Tôi chặt một con cá bay và ném một khúc xương lên trên mặt
ghế. Sau khi đã thu thập đủ những thứ cần thiết từ trong tủ đủ cho ngày hôm đó
và sắp quay về bè, tôi ném thêm một khúc cá lên mui bạt ngay trước mũi Richard
Parker. Nó có tác dụng như ý muốn. Khi bè đang trôi xa khỏi xuồng, tôi thấy nó
ra khỏi chỗ ẩn náu để lượm khúc cá với món đồ lạ ngay cạnh. Nó đứng dậy nghiêng
cái đầu khổng lồ vào xô nước. Tôi cứ sợ nó sẽ làm đổ cái xô. Nhưng không. Mặt
nó biến hẳn vào trong xô, gần khít khịt, và nó bắt đầu uống. Chỉ một nhoáng cái
xô bắt đầu lắc và kêu lạch cạch mỗi khi nó liếm xoàm xoạp vào đáy xô. Khi nó
ngẩng lên, tôi nhìn chằm chằm một cách dữ tợn vào mắt nó và thổi một vài hồi
còi. Nó biến mất vào bên dưới tấm bạt.
Tôi nảy ra ý nghĩ rằng cứ mỗi ngày qua đi, cái xuồng lại
càng giống một vườn thú hơn. Richard Parker đã có khu vực nằm nghỉ và ngủ nghê
của nó, rồi chỗ chứa thức ăn, chỗ nhìn ngó ra bên ngoài, và bây giờ thì cả một
chỗ để uống nước.
Nhiệt độ mỗi lúc một cao. Nóng đến ngột ngạt. Suốt ngày hôm
đó, tôi ngồi dưới dù che và câu cá. Có vẻ là tôi đã hết cái may mắn của người
mới đi câu với con dorado đầu tiên ấy. Cả ngày hôm đó tôi chả câu được gì, kể
cả buổi chiều tà, khi nước biển có vẻ đầy rẫy sự sống bên dưới. Một con rùa
xuất hiện, lần này là loài khác, một con rùa biển xanh lá cây, cồng kềnh hơn và
nhẵn nhụi hơn, nhưng cũng tò mò như con rùa mỏ diều lần trước. Tôi không phản
ứng gì với nó, nhưng bắt đầu nghĩ mình phải làm gì đó với bọn rùa này.
Cái duy nhất có thể gọi là tốt đẹp của một ngày nóng nực như
vậy là cảnh tượng dãy phao cất nước. Chóp nón nào cũng đầy những giọt và vệt
nước đọng ngoằn ngoèo bên trong.
Cuối ngày hôm đó, tôi tính ra là sáng hôm sau sẽ là trọn một
tuần kể từ hôm Tsimtsum chìm xuống đáy đại dương.
Chương 62
Gia đình Robertson sống sót được tám mươi tám ngày trên biển
cả. Thuyền trưởng Blight của con tàu Bounty nổi tiếng đã bị thủy thủ nổi loạn
và ông cùng những người cộng sự của ông bị ném ra khỏi tàu đã sống được bốn
mươi bảy ngày. Steven Callahan sống được bảy mươi sáu ngày. Owen Chase, mà câu
chuyện của ông về tàu đánh cá voi Essex đã bị một con cá voi đánh chìm ra sao
đã là nguồn cảm hứng của Herrman Melville, đã sống được tám mươi ba ngày trên
biển cả cùng với hai thủy thủ, trong đó có một tuần lễ trên một hòn đảo thù
địch. Gia đình Bailey sống được một trăm mười tám ngày. Tôi nghe một thủy thủ
thương gia Triều Tiên tên là Poon gì đó đã sống sót trên Thái Bình Dương trong
một trăm bảy mươi ba ngày vào những năm 1950.
Tôi đã sống sót trên biển trong hai trăm hai mươi bảy ngày.
Thử thách của tôi kéo dài như vậy đấy, hơn bảy tháng trời.
Tôi giữ cho mình luôn bận rộn. Đó là chìa khoá để sống còn.
Trên một chiếc xuồng, thậm chí một cái bè, lúc nào cũng có những việc cần phải
làm. Một ngày điển hình của tôi, nếu khái niệm đó có thể áp dụng cho một kẻ đắm
tàu, đại khái diễn ra như sau:
Từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa buổi sáng:
* thức dậy
* cầu nguyện
* cho Richard Parker ăn sáng
* kiểm tra chung tình trạng của bè, xuồng, đặc biệt chú ý
đến tất cả các nút dây buộc
* chăm chút các máy cất nước (lau chùi, thổi căng, đổ nước)
* ăn sáng và kiểm tra kho đồ ăn
* câu cá và làm cá nếu cắn câu (mổ, rửa, phơi các rẻo thịt
lên dây để phơi nắng cho chín)
Từ giữa sáng đến chiều muộn:
* cầu nguyện
* ăn nhẹ bữa trưa
* nghỉ ngơi và làm những việc nhẹ nhàng (viết nhật kí, xem
xét các vết xây xát trên người, sửa sang các vật dụng, thu xếp tủ chứa cho gọn
gàng, quan sát và nghiên cứu Richard Parker, vân vân)
Từ cuối chiều đến gần tối:
* cầu nguyện
* câu cá và làm cá
* chăm các rẻo thịt phơi (lật mặt, cắt bỏ các chỗ ươn)
* chuẩn bị bữa ăn tối
* ăn bữa tối cùng với Richard Parker
Mặt trời lặn:
* kiểm tra tình trạng chung của bè và xuồng (dây với nút
buộc)
* thu trữ nước ngọt từ các máy cất
* cất giấu tất cả thức ăn và vật dụng
* sửa soạn cho ban đêm (soạn chỗ nằm, cất pháo sáng vào nơi
an toàn trên bè để nhỡ có gặp tàu đi qua, và cái hứng mưa để nhỡ có mưa ban
đêm)
* cầu nguyện
Đêm:
* ngủ từng giấc ngắn
* cầu nguyện
Các buổi sáng thường dễ chịu hơn những lúc chiều muộn, khi
sự trống rỗng của thời gian có chiều hướng hiện ra trong lòng rõ rệt hơn.
Bất kỳ sự kiện gì cũng có ảnh hưởng đến nếp sống thường ngày
đó. Trời mưa, bất cứ lúc nào, cũng dừng mọi việc khác đang làm, và trong lúc
mưa, tôi giữ cái hứng nước, hăng hái tập trung vào việc thu trữ nước hứng được.
Có con rùa xuất hiện cũng là một ngắt quãng lớn. Và tất nhiên, Richard Parker
là một náo động thường xuyên. Điều gì làm cho nó yên được là tôi ưu tiên không
dám lơi là một phút nào. Nó chẳng có một nếp công việc gì ngoài ăn, uống và
ngủ, nhưng có những lúc nó bị khuấy đảo khỏi tình trạng ù lì và lồng lộn quanh
lãnh thổ của mình, đánh động, trở nên khó hiểu. May sao, lần nào như vậy, nó
cũng nhanh chóng bị nắng và nước biển bao la làm cho mệt mỏi và chỉ biết quay
vào trong mui bạt, lại nằm nghiêng hoặc ép bụng xuống sàn xuồng, đầu dựa lên
hai chân trước bắt chéo nhau.
Nhưng tôi không chỉ để ý đến nó vì cần thiết. Tôi qua hàng
nhiều giờ liền chỉ quan sát nó vì đó cũng là một việc thu hút sự chú ý của tôi.
Một con hổ lúc nào cũng là một con thú đầy thú vị, và càng như thế khi ta chỉ
có nó là bạn đồng hành.
Lúc đầu, tôi luôn có ý thức nhìn quanh và trông chờ một con
tàu xuất hiện, gần như là không nhìn được. Nhưng sau một vài tuần, năm sáu tuần
gì đó, tôi hầu như hoàn toàn không có ý thức ấy nữa.
Và tôi đã sống sót bởi vì tôi đã quyết định phải lãng quên.
Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một ngày có trong lịch – ngày 2 tháng 7 năm 1977
– và kết thúc vào một ngày cũng có trong lịch – ngày 14 tháng 2 năm 1978 –
nhưng khoảng thời gian giữa hai ngày đó thì không có lịch nào cả. Tôi không đếm
ngày, đếm tuần, đếm tháng. Thời gian là một ảo giác chỉ làm cho ta phải thở
dốc. Tôi đã sống vì tôi đã quên cả ý thức về thời gian.
Những gì tôi nhớ được là các sự kiện và các cuộc gặp gỡ,
cùng các nếp quen thuộc hàng ngày, những dấu mốc tự chúng xuất hiện đây kia từ
đại dương thời gian và in hằn vào kí ức tôi. Ví dụ như mùi của các vỏ pháo sáng
đã phóng lên từ tay tôi, những lời cầu nguyện khi rạng ngày, việc giết rùa, và
các đặc tính sinh học của các loài tảo. Và nhiều cái khác nữa. Nhưng tôi không
biết có thể kể lại chúng theo trình tự hay không. Ký ức tôi trở lại thành từng
mớ hỗn độn.
Chương 63
Quần áo tôi rữa nát, nạn nhân của nắng và muối. Lúc đầu,
chúng cứ mỏng dần. Rồi chúng rách tơi ra cho đến lúc chỉ còn lại những đường
chỉ. Cuối cùng, cả những đường chỉ đó cũng bục đi. Nhiều tháng trời, tối sống
trần như nhộng, chì có cái còi lủng lẳng trên cổ bằng một sợi dây.
Bỏng rộp vì nước muối – những vết rộp khó chịu, đỏ loét và
chẳng ra hình thù gì – là chứng bệnh cùi của biển khơi, do bị ngâm và sũng nước
lâu ngày. Khi các vết rộp ấy vỡ, da tôi trở nên đặc biệt nhạy cảm. Nhỡ chạm
phải một vết loét ấy là tôi phát khóc và nghẹt cả thở vì đau. Tất nhiên, các
vết rộp này rộ lên tại những chỗ cơ thể tôi hay bị ướt nhất khi ở trên bè, tức
là ở hai bên sườn. Biết bao ngày tôi đã không thể tìm được tư thế nào để nằm
nghỉ được dễ chịu. Thời gian và ánh nắng làm lành được một vết rộp, nhưng rất
lâu, và nếu tôi không giữ được khô người thì các vết rộp mới lại xuất hiện.
Chương 64
Tôi bỏ hàng nhiều giờ để cố tìm hiểu hết các ý nghĩa các
dòng viết về kĩ thuật đi biển trong cuốn cẩm nang. Có rất nhiều cách giải thích
rõ ràng và dễ hiểu về việc làm sao sống được trên mặt biển, nhưng các tác giả
đã giả định rằng người đọc đều đã có những kiến thức cơ bản về hàng hải. Họ cho
rằng nạn nhân đắm tàu đều là những thủy thủ có kinh nghiệm, với com-pa, bản đồ
và máy ngắm trong tay, và đều biết phải tìm đường tránh nạn ra sao. Kết quả là
những lời khuyên như: “Hãy nhớ rằng thời gian là khoảng cách. Đừng quên lên
giây đồng hồ”, hoặc “Có thể dùng ngón tay để đo vĩ độ khi cần thiết”. Tôi có
một cái đồng hồ, nhưng bây giờ nó đã nằm dưới đáy Thái Bình Dương. Tôi đã mất
nó khi chìm tàu Tsimtsum. Còn với kinh độ, vĩ độ thì ôi thôi, kiến thức hải
dương của tôi chỉ bó hẹp trong những gì cuộc sống trong nước biển và không được
mở rộng sang những gì chạy đi chạy lại trên mặt biển.
Gió và dòng chảy là một bí hiểm đối với tôi. Các vì sao
không có nghĩa lí gì với tôi. Tôi không thể gọi tên được một chòm sao nào hết.
Gia đình tôi đã sống với chỉ một ngôi sao: mặt trời. Chúng tôi ngủ sớm và dậy
sớm theo mặt trời. Trong đời tôi đã từng ngắm nhìn những đêm sao đẹp đẽ khi
thiên nhiên vẽ nên bức những bức tranh vĩ đại nhất chỉ với hai màu và những
phong cách giản dị nhất, và tôi cũng cảm được sự diệu kì, nhỏ bé mà tất cả
chúng ta đều cảm thấy, và cũng nhận ra cảm giác rõ rệt về hướng đi của cuộc đời
từ quang cảnh hùng vĩ đó, hầu như rõ rệt, nhưng là nói với nghĩa tâm linh mà
thôi, chứ không phải với nghĩa địa lí. Tôi không có một chút ý niệm gì về việc
có thể dùng bầu trời sao ấy làm một bản đồ chỉ đường. Làm sao những ngôi sao
ấy, cho dù sáng đến đâu, lại có thể giúp tôi tìm đường cho mình nếu chúng cũng
chuyển dịch không ngừng?
Tôi từ bỏ ý định tìm hiểu vấn đề đó. Có biết thêm được gì
nữa thì cũng là vô bổ. Tôi chẳng có phương tiện gì để chủ động được hướng đi
của mình – không chân vịt, không buồm, không động cơ, chỉ vài mái chèo nhưng
không đủ sức điều khiển. Vạch ra một hướng đi chỉ là vô nghĩa nếu tôi không thể
làm gì để thi hành việc đó? Ngay cả khi có thể làm được thế, làm sao tôi biết mình
nên đi về đâu? Sang phía Đông, đến Mỹ? Lên Bắc, đến Châu Á? Xuống phía Nam ,
nơi có các luồng tàu? Lựa chọn nào cũng tốt xấu ngang nhau.
Thế nên tôi trôi dạt. Gió và dòng chảy quyết định nơi tôi sẽ
đến. Thời gian trở thành khoảng cách đối với tôi cũng như mọi sinh vật có sinh
tử khác ở đời – tôi du hành xuôi theo con đường đời – và tôi dùng ngón tay mình
làm các việc khác chứ không cố đo vĩ độ với chúng.
Sau này, tôi tìm ra rằng tôi đã du hành dọc một con đường
nhỏ hẹp, đó là dòng hải lưu ngược xích đạo của Thái Bình Dương.
Chương 65
Tôi câu với các loại lưỡi câu khác nhau, ở các độ sâu khác
nhau và nhằm vào các loại cá khác nhau, từ lối câu cá dưới đáy biển với các
lưỡi rất to cùng nhiều hòn chì nặng thả dây thật sâu đến những lưới nhỏ hơn với
chỉ một hai hòn chì để nhử cá ăn nổi trên mặt nước.
Lâu lắm mới có cá cắn câu, khiến cho lần nào được cá tôi
cũng rất mừng, nhưng kết quả có vẻ không tương xứng tí nào với nỗ lực đã bỏ ra
của tôi. Chờ cá cắn câu quá lâu, cá câu được quá nhỏ, và Richard Parker luôn
luôn bị đói.
Cuối cùng thì tôi thấy cái lao móc câu lại là vũ khí bắt cá
rất lợi hại. Mỗi cây lao gồm có ba phần được vặn vào với nhau: hai đoạn gậy
tròn tạo thành phần cán lao – một đoạn có tay nắm bằng nhựa ở một đầu và có
vòng để nối cây lao vào dây bảo hiểm – và một phần nữa có một cái lưỡi móc câu
có đường kính phần uốn cong rộng đến năm phân và một mũi nhọn sắc bén như kiểu
dây thép gai. Lắp hết lên, một cái lao dài khoảng một thước rưỡi, cầm thấy nhẹ
và chắc như một thanh gươm.
Lúc đầu tôi thường thọc lao xuống sâu độ hơn một thước, có
khi móc cả một con cá vào mũi lao làm mồi, và ngồi đợi. Thường phải đợi lâu
hàng giờ, thân thể tôi căng thẳng đến đau nhừ. Khi thấy một con cá đã bơi vào
đúng chỗ, tôi lấy hết sức lực rút thật nhanh cái lao lên.
Đó là một quyết định phải thi hành lập tức chỉ trong một
phần giây đồng hồ. Kinh nghiệm dạy tôi rằng chỉ nên rút lao khi tôi thực sự cảm
thấy có cơ hội bắt được cá, không nên rút một cách hú hoạ, vì cá cũng rút kinh
nghiệm rất nhanh, và không bao giờ rơi vào cùng một cái bẫy đến lần thứ hai.
Khi may mắn, lưỡi lao sẽ móc chắc vào con cá và tôi có thể
bình tĩnh đem nó lên bè. Nhưng nếu tôi móc một con cá lớn vào đúng phần bụng
hoặc đuôi, nó sẽ vặn người tuột khỏi lao và vuột đi mất với một tốc độ bất ngờ.
Bị thương như vậy, con cá dễ dàng trở thành mồi ngon cho các con cá khác, một
món quà mà tôi không hề muốn tặng cho chúng. Vì vậy mà khi thấy cá to, tôi luôn
cố nhằm vào phần bên dưới mang và vây sườn của nó, vì phản ứng bản năng của cá
khi bị tấn công là bơi lên trên để tránh lưỡi câu, theo đúng hướng tôi sẽ rút
lao.
Có những lần, mũi lao chỉ gãi chứ không móc được vào người
con cá và chúng cứ thế lao thẳng lên khỏi mặt nước, nhào vào tận mặt tôi. Tôi
nhanh chóng mất cảm giác sợ hãi khi chạm vào các con vật dưới biển. Không còn
những xúc động như lần giết con cá bay trong chăn nữa. Một con cá nhảy khỏi mặt
nước bây giờ sẽ phải đương đầu với một thằng bé đói khát đang sẵn sàng làm tất
cả mọi thứ để bắt nó. Nếu cảm thấy lưỡi lao móc vào cá có vẻ còn lỏng lẻo, tôi
thường buông lao – vì đã buộc nó vào dây bảo hiểm – và dùng cả hai tay bắt lấy
con cá. Ngón tay, mặc dù cùn, vẫn nhanh nhẹn và khéo léo hơn một cái móc rất
nhiều. Cuộc chiến đấu sẽ rất dữ dội và nhanh chóng. Những con cá thì trơn tuột
và tuyệt vọng, còn tôi thì chỉ tuyệt vọng mà thôi. Ước sao tôi có được nhiều
tay như nữ thần Durga – hai tay giữ lao, bốn tay bắt cá và hai tay nữa sử dụng
rìu. Tôi phải thu xếp mọi việc với hai tay. Tôi thọc ngón tay vào mắt, thọc cả
bàn tay vào mang, dùng đầu gối ấn nát bụng, dùng răng cắn đuôi – làm đủ mọi thứ
cần thiết để giữ được con cá trên bè cho đến lúc có thể với được rìu và chặt
đầu nó.
Với thời gian và kinh nghiệm, tôi đã trở thành một thợ săn
giỏi hơn. Tôi mạnh bạo hơn và lanh lẹ hơn. Tôi đã phát triển được một bản năng,
một cảm giác rõ rệt về việc phải làm.
Tôi thành công lớn hơn khi bắt đầu dùng đến một phần của cái
lưới đựng hàng. Với tư cách một cái lưới bắt cá thì nó hoàn toàn vô dụng – quá
cứng, quá nặng, và mắt lưới không đủ mau. Nhưng nó là một cái nhử cá hoàn hảo.
Buông thả và uốn lượn tự do dưới nước, nó là một hấp dẫn không cưỡng lại được
đối với các con cá và càng hấp dẫn hơn khi rong biển bắt đầu mọc bám vào nó.
Những con cá kiếm ăn gần bắt đầu quanh quẩn coi cái lưới như hàng xóm của mình,
còn bọn ăn xa, trước chỉ hay đáo qua rất nhanh như bọn dorado, nay cũng phải
lượn lờ chậm lại để xem xét cái khu phố mới mở ấy. Bọn sở tại cũng như bọn
khách ghé qua có biết đâu rằng mắt lưới có cài lưỡi câu. Có những ngày, (chẳng
may quá ít), tôi cứ rút lao lên cái nào là có cá cái ấy. Những lúc đó tôi săn
được thật thừa thãi; trên xuồng không còn đủ chỗ mà dây căng trên bè cũng chật
ních những rẻo thịt dorado, cá bay, cá ngừ, chim, nụ… chứ đừng nói gì đến cái
bụng no kễnh của tôi. Tôi trữ tất cả những gì cần cho mình, còn lại thì cho
Richard Parker. Trong những ngày no đủ ấy, tôi bắt được nhiều cá đến nỗi thân
thể bắt đầu lấp lánh đầy những vẩy cá bám chặt vào da thịt. Tôi cứ để nguyên
những chấm sáng ngời ánh bạc ấy trên người như một tín đồ Hinđu mang trên trán
biểu tượng thần linh. Nếu có thủy thủ nào gặp tôi trên biển lúc đó, chắc hẳn họ
phải nghĩ tôi là một vị thần cá đang đứng trên vương quốc của mình. Đó thật là
những ngày tốt đẹp hiếm hoi.
Rùa quả thật dễ bắt, đúng như viết trong cẩm nang. Trong
chương về “săn bắt và hái lượm”, rùa được nói đến trong phần “hái lượm”. Mặc dù
chúng chắc nịch như xe tăng, rùa không phải là một loài bơi nhanh và khoẻ; chỉ
cần một tay tóm lấy một cái chân sau là có thể bắt được chúng. Nhưng cuốn cẩm
nang quên không nói rằng tóm được rùa chưa chắc đã là tóm được nó. Còn phải
mang nó lên khỏi mặt nước nữa. Mà kéo một con rùa nặng hàng bảy mươi cân đang
quẫy đạp lên được xuồng không phải dễ. Việc đó cần có sức khoẻ phi thường. Tôi
đã phải làm như sau: lôi con rùa vào sát mạn xuồng, lấy dây buộc cổ, chân trước
và cả chân sau, rồi kéo nó lên cho đến khi tay muốn gãy rời ra và mắt nổ đom
đóm. Phải ghì dây thật chắc vào cái móc của mui bạt phía bên kia mũi xuồng, rồi
mỗi khi sợi dây chùng ra một tí là phải kéo thêm lên rồi ghì lại ngay, từng
phân một. Con rùa sẽ được kéo lên khỏi mặt nước cũng từng phân một như thế.
Không thể sốt ruột được. Tôi còn nhớ một con rùa biển màu xanh lá cây đã bị
treo bên cạnh xuồng như vậy trong hai ngày, và nó liên tục quẫy đạp như điên
cuồng. May sao, vào lúc cuối thì rùa lại thường giúp tôi một tay mà không biết.
Tức là khi nó đã bị kéo đến mép xuồng, rùa càng điên cuồng càng muốn thoát thân
và nó cố rụt bốn chân bị trói vào thật mạnh, đúng lúc ấy, tôi cũng cố sức kéo
dây thật mạnh, và hai lực ngược chiều như vậy bỗng hất con rùa bật lên qua mép
xuồng và rơi trượt vào tấm bạt. Tôi sẽ ngã người ra sau, kiệt sức nhưng thật hỉ
hả.
Rùa biển xanh lá cây cho nhiều thịt hơn rùa mỏ diều, và mai
phía bụng của chúng cũng mỏng hơn. Nhưng chúng thường to hơn rùa mỏ diều, trong
nhiều trường hợp là quá to đối với một kẻ đắm tàu đang ngày càng yếu đi như
tôi.
Lạy Chúa, cứ nghĩ rằng tôi vốn là một kẻ ăn chay kiêng khem
rất kĩ. Cứ nghĩ lại hồi trước chỉ cần nghe tiếng bẻ một quả chuối là tôi đã
rùng mình vì tưởng tượng như tiếng một con vật bị bẻ gãy cổ. Tôi đã rơi vào
tình trạng man rợ không thể tưởng tượng nổi mất rồi.
Chương 66
Đáy cái bè đã trở thành nơi trú ngụ của rất nhiều sinh vật
biển, cũng giống như cái lưới, nhưng nhỏ hơn. Nó bắt đầu bằng một lớp tảo xanh
rờn mềm mại bám vào cái áo phao. Rồi đến các loại tảo cứng hơn và có màu sẫm
hơn. Chúng sinh sôi nảy nở và ngày càng dày ra. Các sinh vật khác bắt đầu tới.
Đầu tiên là những con tôm nhỏ xíu, trong suốt, dài chỉ độ mươi phân. Theo sau
đó là những con cá cũng nhỏ như thế và trông như thể suốt đời bị chiếu X quang;
ruột gan chúng rõ mồn một dưới lần da thịt trong suốt. Sau đó, tôi để ý thấy
những con giun màu đen có dây sống trắng ngần, bọn nhuyễn thể lầy nhầy màu xanh
lá cây với đám chân tay chưa tiến hoá thành hình thù gì rõ rệt, những con cá
màu sắc sặc sỡ chỉ dài độ ba mươi phân với những cái bụng phệ, và cuối cùng là
cua, chỉ bé độ một hai phân và có màu nâu. Tôi đã ăn thử tất cả bọn chúng, kể
cả rong tảo, chỉ chừa lũ giun đen. Chỉ có bọn cua là không có vị mặn đắng khó
chịu ở trong miệng. Mỗi lần chúng đến, tôi lại ném vào miệng hết con này đến
con khác. Tôi không thể kiềm chế được mình. Những đàn cua ngon lành ấy thỉnh
thoảng mới kéo đến mà thôi.
Vỏ xuồng cũng trở nên đầy rẫy sự sống, dưới dạng những con hà
cổ ngỗng. Tôi mút mát chúng. Thịt chúng làm mồi câu rất tốt.
Tôi trở nên gần gũi với những kẻ đi ở nhờ bè ngoài biển khơi
của tôi, mặc dù chúng có làm cái bè nặng nề hơn đôi chút. Chúng thu hút sự chú
ý của tôi làm tôi đỡ lo nghĩ, cũng như Richard Parker. Tôi để hàng giờ không
làm gì hết, chỉ nằm nghiêng, đẩy một cái áo phao ra khỏi vị trí độ mươi phân,
như thể mở một cái rèm cửa sổ, và nhìn qua đó xuống dưới nước. Những gì tôi
thấy là cả một thị trấn lộn ngược, nhỏ bé, yên tĩnh và an bình, với những cư dân
đi lại trong đó, lịch sự như thiên thần. Cảnh tượng ấy làm cho thần kinh mệt
mỏi của tôi có được những giây phút thư giãn nghỉ ngơi.
Chương 67
Nếp ngủ của tôi thay đổi. Mặc dù nghỉ ngơi nhiều, tôi ít khi
ngủ được liền một giờ, ngay cả ban đêm cũng vậy. Không phải bị sóng dập dềnh
liên miên làm tôi khó ngủ, cũng không phải vì gió; người ta quen với mấy chỗ đó
như quen với mấy chỗ lồi lõm trên đệm nằm của mình. Tôi cứ bị thức dậy như thế
là vì sợ hãi và bồn chồn. Nghĩ lại tôi thấy quả thực mình đã ngủ rất ít.
Không như Richard Parker. Nó đã thành quán quân ngủ. Phần
lớn thời gian nó nằm dưới tấm bạt. Nhưng trong những ngày dịu trời khi nắng
không quá gắt và cả những đêm yên tĩnh, nó thường ra ngoài. Một trong những tư
thế ưa thích khi ra ngoài trời của nó là nằm trên cái ghế đuôi xuồng, bụng chìa
cả ra mép ghế, chân trước chân sau gác lên hai ghế bên. Một con hổ mà nằm được
vào một chỗ chật hẹp như vậy là vì nó khôn khéo uốn lưng cong cho thật cong.
Khi ngủ, nó gác đầu lên hai chân trước. Còn khi trong tâm trạng tương đối hưng
phấn và có thể còn muốn nhìn quanh, nó gác hẳn đầu lên mép xuồng.
Một tư thế ưa thích nữa của nó là ngồi quay lưng lại phía
tôi, nửa người dưới đặt trên sàn xuồng, hai chân trước ngay cạnh đầu, trông như
thể chúng tôi đang chơi trốn tìm và nó là người đang nhắm mắt đếm. Trong tư thế
này nó thường ngồi rất im lặng, chỉ thỉnh thoảng vẫy tai để chứng tỏ rằng nó
không nhất thiết đang ngủ.
Chương 68
Với những ai có thể phải rơi vào tình trạng khó xử như tôi
lúc ấy, tôi xin được khuyến cáo một chương trình như sau:
1. Chọn một ngày sóng thấp nhưng đều đặn. Ta cần một mặt
nước để trình diễn thật tốt khi xuồng có thể quay ngang đón sóng mà không bị
lật.
2. Thả hết dây neo biển để trên xuồng ổn định và thoải mái
nhất. Chuẩn bị nơi ẩn náu bên ngoài xuồng phòng khi cần đến (rất dễ có khả năng
phải như vậy). Nếu có thể, hãy tạo ra phương tiện gì đó để che chắn thân thể.
Bất kì thứ gì cũng có thể dùng để che chắn được. Ví dụ như quấn chăn hoặc quấn
áo vào tay chân cũng là một dạng áo giáp tối thiểu.
3. Rồi đến phần khó làm: phải khiêu khích con vật. Nó sẽ có
thể tấn công mình. Hổ, tê giác, đà điểu, gấu rừng, gấu nuôi… con gì thì con,
vẫn phải khiêu khích được nó. Cách tốt nhất có lẽ là lân la ra mép lãnh thổ của
mình rồi làm bộ xâm phạm vào phần ranh giới trung lập một cách ầm ĩ. Tôi đã làm
như vậy: tôi ra chỗ mép bạt rồi vừa giậm chân xuống mặt cái ghế giữa xuồng vừa
thổi còi nhè nhẹ. Điều quan trọng là tạo ra được một tiếng động nhất quán và dễ
nhận ra để báo hiệu việc lấn chiếm của ta. Nhưng phải rất quan trọng. Cần phải
khiêu khích con thú, nhưng chỉ đến mức độ như vậy thôi, chứ đừng để nó khùng
lên và tấn công ta ngay lập tức. Nếu xảy ra chuyện đó thì lạy Chúa tôi, ta sẽ
bị xé thành từng mảnh, giẫm bẹp, lòi gan nát ruột, và chắc là sẽ bị ăn thịt. Ta
không muốn thế. Ta muốn con thú bị đánh động, hoang mang, khó chịu, bứt rứt
không yên, nhưng không nổi máu giết người. Trong trường hợp nào cũng không được
bước chân vào lãnh thổ của con thú. Cuộc xâm phạm của ta chỉ hạn chế ở động tác
nhìn thẳng vào mắt nó và thổi còi đánh mõ mà thôi.
4. Khi con thú đã bị kích động, hãy làm sao để gây ra được
một hành động xâm phạm biên giới. Một cách hữu hiệu, theo kinh nghiệm của tôi,
là từ từ lùi về trong khi liên tục gây ra tiếng động. Nhưng phải đảm bảo là
không rời mắt khỏi mắt con thú. Đến khi thấy nó đặt chân vào lãnh thổ của ta,
hoặc thậm chí chỉ tiến vào vùng giáp ranh trung lập thôi, là ta đã đạt được mục
đích. Đừng so đo kiểu luật sư xem nó đã đặt chân vào đâu, có đúng là đã vào
lãnh thổ của ta chưa, mà phải lập tức đối đầu ngay. Vấn đề ở đây là làm cho con
thú hiểu rằng người hàng xóm trên gác của nó đặc biệt khó tính trong chuyện ai
ở nhà người nấy.
5. Một khi con thú đã xâm phạm vào lãnh thổ của ta, hãy dồn
hết sức để tỏ rõ sự phẫn nộ của mình. Dù đã chạy khỏi xuồng hoặc còn đang trên
phần lãnh thổ của ta trên xuồng, hãy bắt đầu thổi còi thật to và lập tức kéo
dây rút các neo biển về. Hai hành động nầy cực kì quan trọng. Phải tiến hành
song song và điều khiển cho xuồng quay ngang với chiều sóng, ví dụ như một mái
chèo, thì hãy dùng ngay lập tức. Xuồng phải quay ngang càng nhanh càng tốt.
6. Với một kẻ đắm tàu kiệt sức, thổi còi liên tục là một
việc rất mệt, nhưng ta không được phép ngừng. Con thú phải liên hệ được cảm
giác say sóng khó chịu của nó với tiếng còi đinh tai nhức óc của ta. Ta có thể
trợ giúp việc nầy bằng cách đứng ở mũi xuồng, hai chân trên mép xuồng và đạp
qua đạp lại để xuồng lắc mạnh hơn nữa theo chiều bị sóng tạt. Dù ta có nhỏ
người đến đâu và xuồng có lớn đến mấy, tác dụng của việc đó thật đáng kinh
ngạc. Tôi đảm bảo rằng chẳng mấy chốc chiếc xuồng sẽ lắc lư và tròng trành như
Elvis Presley (1) vậy. Có điều phải thổi còi liên tục, và chớ làm quá để lật
mất xuồng.
7. Ta phải làm việc đó liên tục cho tới khi con thú đã thực
sự say sóng. Ta phải nghe được nó thở dốc và nôn khan. Ta phải thấy nó nằm bẹp
dưới sàn xuồng, chân tay run rẩy, mắt trợn ngược, mồm miệng há hốc và lẩy bẩy.
Trong suốt những giây phút đó, ta phải làm ù tai con thú bằng tiếng còi lanh
lảnh chát chúa của ta. Nếu thấy mình cũng đã say sóng và buồn nôn, đừng phí
phạm bãi nôn đó xuống biển. Đánh dấu lãnh thổ không gì tốt hơn một bãi nôn. Hãy
nôn ra chỗ ranh giới lãnh thổ của mình.
8. Lúc con thú đã thực sự mệt mỏi và thuần lành, ta có thể
dừng. Say sóng nhanh bị nhưng lại lâu tỉnh. Ta không nên làm quá. Không ai chết
vì buồn nôn, nhưng nó làm nhụt ý chí sống. Lúc thấy đã đủ rồi, ta lại thả dây
neo biển ra. Nếu con thú nằm vật ngay dưới nắng, hãy kiếm cái gì che cho nó, và
làm sao để khi nó tỉnh lại sẽ thấy có nước uống ngay cạnh. Tốt hơn hết là khuấy
vài viên thuốc chống nôn vào chỗ nước ấy nếu có. Tình trạng mất nước trong hoàn
cảnh ấy có thể nguy hiểm đến tính mạng con thú. Còn không thì ta chỉ việc lẳng
lặng rút về phần lãnh thổ của mình và để con thú nằm yên ở đó. Nước uống, nghỉ
ngơi và thư giãn trên xuồng sẽ làm cho nó tỉnh táo trở lại. Nên để cho con thú
đã hoàn toàn hồi phục trước khi tiến hành lại các bước từ một đến tám như vừa
nói.
9. Phải huấn luyện cho đến khi con thú đã thiết lập được mối
liên hệ khăng khít giữa tiếng còi và cảm giác buồn nôn chóng mặt rất mãnh liệt,
và mối liên hệ ấy phải rõ ràng dứt khoát. Từ đó về sau, chỉ cần tiếng còi là đủ
giải quyết các vụ xâm phạm và mọi hành vi không mong muốn khác của con thú. Chỉ
cần một hồi còi chát chúa, ta sẽ thấy con thú run lên sợ hãi và nhanh chóng lui
vào nơi kín đáo an toàn nhất trong lãnh thổ của nó. Một khi đã qua được giai
đoạn huấn luyện nầy, việc dùng còi cần phải hạn chế và thận trọng.
-------------
Chú thích:
(1) Ngôi sao nhạc rock của Mỹ, thành danh vì động tác lắc
người đánh hông của mình. (ND)
Chương 69
Giết rùa là một việc nặng nhọc. Con rùa đầu tiên của tôi là
một con mỏ diều nhỏ. Cái mà tôi háo hức là máu nó, “món đồ uống ngon, bổ và
không có muối”, như hứa hẹn trong cuốn cẩm nang. Cái khát của tôi cũng háo hức
chẳng kém. Tôi đã giữ được mai nó và đang cố giữ chặt một chân sau. Khi đã chắc
tay tôi lật ngửa nó ra dưới nước và định kéo nó lên bè. Con vật quẫy đạp dữ
dội. Không thể trị nó ở trên bè được. Nếu không muốn thả nó đi thì phải làm sao
kéo được nó lên xuồng. Tôi nhìn lên. Một ngày nóng bức và không một gợn mây.
Richard Parker có vẻ chấp nhận cho tôi hiện diện ở mũi xuồng
trong những ngày như thế này, khi không khí giống như ở bên trong một cái lò
nướng nó sẽ không ra khỏi tấm bạt che cho đến khi mặt trời lặn.
Một tay giữ chắc cái chân rùa, tôi dùng tay kia kéo bè về
phía xuồng. Trèo lên xuồng không phải dễ. Khi đã trên xuồng, tôi kéo mạnh để
hất con rùa lên không và cho nó rơi ngửa lưng lên tấm bạt. Đúng như tôi hi
vọng, Richarker Parker chỉ gầm gừ một hai tiếng rồi thôi. Nó không hề có ý định
làm bất cứ việc gì trong cái nóng như ngày hôm đó.
Quyết tâm của tôi nghiêm trọng và mù quáng. Tôi cảm thấy
không thể để phí thời gian. Tôi mở cuốn cẩm nang như thể nó là một cuốn sách
dạy nấu ăn. Sách nói trước hết phải lật ngửa con rùa. Việc đó đã xong. Rồi
“thọc lưỡi dao vào cổ để cắt đứt các mạch máu chạy qua đó”. Tôi nhìn con rùa.
Làm gì có cổ. Nó đã rụt hết vào trong mai. Chỉ còn thấy hai con mắt với cái mỏ
ở giữa những vòng da gấp nếp xung quanh. Nó nhìn tôi nghiêm khắc. Tôi cầm dao
chọc chọc vào một cái chân trước xem nó có thò cổ ra không. Nó chỉ rụt sâu thêm
vào trong mai. Tôi quyết định tiếp cận trực tiếp hơn. Tự tin như thể đã từng
làm việc đó hàng nghìn lần, tôi ấn lưỡi dao vào ngay bên phải và phía dưới cái
đầu con rùa, nghiêng đi một chút. Tôi thọc lưỡi dao thật sâu qua các nếp da rồi
xoay đi xoay lại. Con rùa rụt đầu vào sâu hơn nữa, nhất là phía bị đâm, rồi
thình lình phóng hẳn đầu ra ngoài và dùng mỏ cắn tôi chí tử. Tôi nhảy lui. Nó
thò cả bốn chân và bắt đầu cố thoát thân. Nó lắc lư rất mạnh trong tư thế bị
nằm ngửa, tứ chi quẫy loạn xạ và đầu vươn ra tứ phía. Tôi vớ lấy rìu bổ mạnh
xuống cổ nó. Máu đỏ vọt ra. Tôi vớ lấy cái bình đong và hứng được khoảng ba
trăm mililít. Tôi đoán mình có thể còn hứng được nhiều hơn, có lẽ tới một lít,
nhưng cái mỏ diều của nó sắc quá và hai chân trước vừa dài vừa khoẻ, lại có cả
móng nhọn. Chỗ máu tôi hứng được không thấy có mùi gì đặc biệt. Tôi nhấp thử.
Nếu tôi nhớ đúng thì nó có vị âm ấm rất súc vật. Khó lòng nhớ được những ấn
tượng ban đầu kiểu đó. Tôi đã uống cạn chỗ máu ấy.
Đã tưởng phải dùng rìu để gỡ cái yếm bụng, nhưng rồi tôi
thấy dùng cái cạnh có răng cưa của con dao dễ hơn. Tôi đè một chân lên giữa cái
yếm, chân kia dạng ra hết cỡ để tránh không bị tứ chi nó cào phải. Phần da phía
đầu thì dễ cắt, chỉ trừ những chỗ quanh bốn chân. Tuy nhiên, cưa phần vành đai,
nơi mai với yếm gặp nhau thì rất mệt, đặc biệt vì con rùa vẫn không ngừng quẫy.
Cưa đứt hết xung quanh nó thì tôi như tắm trong mồ hôi và cảm thấy kiệt sức.
Tôi nhấc mãi cái yếm mới chịu rời lên, như thể miễn cưỡng, với một tiếng bụp
ướt nhoét. Lục phủ ngũ tạng lộ ra, phập phà phập phồng – thịt mỡ, máu, ruột,
gan, xương cốt.
Mà con rùa vẫn quẫy. Tôi cắt vào cổ nó cho đến tận xương sống.
Chẳng ăn thua gì. Tứ chi nó tiếp tục đạp. Tôi chặt phăng đầu nó với hai nhát
rìu. Tứ chi nó vẫn quẫy. Kinh khủng hơn là cái đầu bị chặt rời ra mà vẫn tiếp
tục ngáp lên ngáp xuống với hai cặp mắt hấp háy. Tôi gạt nó xuống biển. Cái
phần vẫn còn sống kia của con rùa thì tôi cố nhấc cả lên và thả xuống chỗ
Richard Parker. Con hổ đang đánh động và có vẻ như sắp ngồi dậy. Có thể nó đã
ngửi thấy mùi máu. Tôi bỏ chạy về bè.
Có thể nghe tiếng Richard Parker ăn và thưởng thức món rùa
một cách ầm ĩ. Tôi buồn bã nhìn về phía nó. Tôi đã hoàn toàn kiệt sức. Chỗ máu
uống được có vẻ chẳng bõ bèn gì so với bao nhiêu công sức tôi đã bỏ ra để làm
thịt con rùa.
Tôi bắt đầu suy nghĩ nghiêm chỉnh về chuyện sẽ phải thu xếp
thế nào với Richard Parker.
Tình trạng nó chỉ chịu để yên cho tôi lên xuồng trong những
ngày nóng nực, nếu quả thật đó là lí do chứ không phải đơn thuần là vì nó lười
nhác, không thể cứ kéo dài mãi được. Tôi không thể lúc nào cũng phải chạy trốn
nó như thế. Tôi cần được tiếp cận an toàn cái tủ đồ và phần nóc mui bạt trên
xuồng, bất kể lúc nào, bất kể thời tiết ra sao, bất kể cả tình trạng tâm lí của
nó thế nào. Cái tôi cần là quyền hạn, thứ quyền hạn đi đôi với quyền hành.
Đã đến lúc phải ra tay chiếm lĩnh phần lãnh thổ của tôi ở
trên xuồng.
Chương 70
Trong trường hợp của tôi, để tự vệ trong khi huấn luyện
Richard Parker, tôi làm một cái khiên bằng mai rùa. Tôi cắt hai cái khấc hai
bên và buộc một đoạn dây quanh chỗ đó. Cái khiên hơi nặng. Nhưng có người lính
nào được lựa chọn vũ khí của mình?
Lần đầu tiên tôi thử làm những chuyện nói trên, Richard
Parker nhe nanh, xoay hai tai một vòng, khạc ra một tiếng gầm gừ từ trong cổ
họng và nhào vào tôi. Một bàn chân đầy móng vuốt giương ra của nó vung lên rồi
tát vào cái khiên của tôi. Cú tát đó hất tôi văng ra khỏi xuồng. Tôi rơi xuống
nước và lập tức thả cái khiên ra. Nó chìm nghỉm, sau khi đập bộp một cái vào
ống đồng tôi. Tôi sợ hết hồn – sợ Richard Parker, lại sợ của ở dưới nước. Tôi
tưởng tượng một con cá mập đang lao vào tôi ngay lúc ấy. Tôi cuống cuồng bơi về
bè, chân tay đập loạn xạ, đúng kiểu đánh động nước thường hấp dẫn cá mập. May
sao không có con nào lúc đó. Tôi đến bè, thả dây hết cỡ rồi ngồi bó gối, gục
đầu, cố gắng dập tắt ngọn lửa hãi hùng vẫn đang cháy đùng đùng trong lòng. Rất
lâu sau tôi mới thực sự hết run rẩy. Suốt ngày và đêm hôm đó tôi ở lì trên bè,
không ăn uống gì.
Tôi chỉ tiếp tục khi đã bắt được một con rùa khác. Mai con
này nhỏ và nhẹ hơn, làm khiên tốt hơn. Lại một lần nữa tôi tiến lên và giậm
chân vào cái ghế giữa xuồng.
Không biết mọi người nghe câu chuyện này có hiểu cho tôi
rằng hành vi đó của tôi không phải vì điên hoặc muốn tự tử, mà đơn thuần là chỉ
vì cần thiết. Hoặc là tôi thuần phục nó, bắt nó phải thấy ai là Số Một, ai là
Số Hai – hoặc là tôi sẽ chết vào một ngày xấu trời lúc muốn leo lên xuồng và bị
nó phản đối.
Nếu tôi đã sống qua được giai đoạn thực tập huấn luyện thú
ngoài biển, đó là vì Richard Parker thực sự không muốn tấn công tôi. Hổ, cũng
như các con thú khác, không thích dùng bạo hành để giải quyết các vấn đề. Khi
thú vật đánh nhau, chúng đều có ý thức phải giết và hiểu rõ rằng nếu không thế
thì mình sẽ bị giết. Mỗi trận đánh nhau như vậy đều phải trả giá đắt. Do vậy mà
thú vật có một hệ thống các tín hiệu cảnh báo được đặt ra để tránh phải đánh
nhau, và chúng nhanh chóng nhượng bộ, lùi bước nếu thấy có thể được. Rất ít khi
một con hổ tấn công một con hổ khác mà không báo trước. Thường thì nó sẽ xông
vào đối thủ ngay với những tiếng gầm gừ dữ dội. Nhưng ngay trước khi quá muộn,
con hổ dừng lại, tiếng gầm gào đầy mãnh lực đe doạ của nó vẫn rung bần bật
trong cổ. Nó đánh giá tình hình. Nếu thấy không có đe dọa gì, nó sẽ quay đi,
cảm thấy chính kiến của mình đã được mọi người hiểu rõ.
Richard Parker làm như vậy đối với tôi cả thảy bồn lần. Bốn
lần, nó dùng chân phải tát tôi văng xuống biển, và bốn lần tôi mất khiên. Tôi
bị hãi hùng trước khi, trong khi và sau khi tấn công như vậy, và tôi run lẩy
bẩy rất lâu trên bè. Cuối cùng, tôi học được cách đọc những tín hiệu mà nó gửi
đến tôi. Tôi nhận ra rằng với tai, mắt, râu, nanh, đuôi và cổ họng, nó đã nói
một thứ ngôn ngữ đơn giản với những dấu ngắt rõ ràng để bảo cho tôi biết nó sẽ
sắp làm gì. Tôi học được cách thoái bộ trước khi nó giương vuốt.
Rồi tôi cũng khẳng định được chính kiến của mình, hai chân
trên mạn xuồng lắc lư, ngôn ngữ một nốt của tôi lảnh lót trong tiếng còi, và
Richard Parker rên rỉ, thở dốc dưới sàn xuồng.
Cái khiên thứ năm của tôi tồn tại đến cuối khóa huấn luyện
của nó.
Chương 71
Ước mong lớn nhất của tôi – ngoài việc được cứu – là có một
cuốn sách. Một cuốn sách dài với một câu chuyện không bao giờ kết thúc. Một
cuốn sách tôi có thể đọc đi đọc lại, với những cách nhìn mới, những hiểu biết
mới cho mỗi lần. Than ôi, trên xuồng chẳng có cuốn Kinh Thánh nào. Tôi là chàng
Arjuna đơn độc trên chiếc chiến xa tơi tả mà không được những lời của thần Krishna an ủi. Lần đầu tiên tôi thấy một cuốn kinh thánh
trong ngăn kéo chiếc bàn đầu giường tại một phòng khách sạn ở Canada , tôi đã bật khóc. Tôi gửi
tiền đóng góp cho Nhà xuất bản Gideons ngay hôm sau, kèm theo một bức thư tha
thiết đề nghị họ mở rộng phạm vi hoạt động tới tất cả những đâu có thể có những
kẻ lữ hành mệt mỏi và kiệt sức, chứ không phải chỉ đến các khách sạn, và rằng
họ nên có cả các kinh của những tín ngưỡng khác nữa chứ không phải chỉ Kinh
Thánh Cơ đốc. Tôi cho đó là cách tốt nhất để rao giảng lòng tin. Không phải
những đao to búa lớn từ trên bục giảng, không phải những lời lên án của giáo
hội, không phải áp lực đồng đẳng, chỉ cần một cuốn sách thiêng lặng lẽ đợi ta
để nói lời chào đón, nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt như nụ hôn của cô gái lên má
ta.
Chẳng được thế thì có một cuốn tiểu thuyết cũng được! Nhưng
chỉ có mỗi cuốn cẩm nang sống sót. Chắc hẳn tôi đã đọc nó hàng nghìn hàng vạn
lần trong suốt thời gian khổ nạn của tôi.
Tôi có viết nhật kí. Khó lòng đọc được nó. Tôi viết chữ nhỏ
hết sức vì sợ sẽ bị hết giấy. Cũng chẳng có chuyện gì nhiều trong đó. Chỉ là
một vài chữ vạch lên giấy mong ghi lại một thực tại đã làm tôi choáng ngợp. Tôi
bắt đầu viết độ một tuần gì đó sau ngày đắm tàu. Trước đó thì tôi quá bận bịu
về quá nhiều thứ khác. Các đoạn nhật kí ấy không có đề ngày hoặc đánh số thứ
tự. Điều làm tôi ngạc nhiên khi nhìn lại thời gian đã được ghi lại một cách lạ
lùng. Nhiều ngày, nhiều tuần, tất cả chỉ tóm gọn vào một trang giấy. Tôi viết
về những thứ mà ai cũng sẽ viết trong hoàn cảnh ấy: những việc xảy ra và cảm
giác của tôi, những thứ tôi bắt được và không bắt được, biển cả và thời tiết,
các vấn đề gặp phải và các giải pháp, rồi Richard Parker. Toàn những chuyện
thực tế cả.
Chương 72
Tôi thực hành các nghi lễ tôn giáo mà tôi thích ứng được với
hoàn cảnh của mình – những buổi lễ Mass (1) không có thầy tế, hoặc những buổi
nguyện (2) không có thầy cả, những pujas (3) có thịt rùa làm vật tế, những hành
động kính lễ Allah mà không biết Mecca ở hướng nào và với những câu kinh tiếng
Ả rập sai bét của tôi. Chúng an ủi tôi, điều đó là chắc chắn. Nhưng thật cũng
khó làm sao, ôi chao, thật cũng khó làm sao. Lòng tin vào Thượng đế là một hành
động hỉ xả, thả lỏng, một niềm tin sâu xa, một cử chỉ yêu thương không phài trả
giá – nhưng đôi khi ta thấy yêu được thật là khó khăn biết bao. Đôi khi lòng
tôi nặng trĩu giận hờn, tuyệt vọng và mệt mỏi, đến nỗi tưởng chừng tôi sẽ chìm
nghỉm xuống tận đáy Thái Bình Dương và không thể nào trỗi dậy nổi.
Trong những giờ phút đó tôi đã cố tự nâng đỡ lấy mình. Tôi
sẽ chạm tay vào vành khăn Hồi giáo tự quấn lấy bằng những mảnh ảo còn sót lại
và nói to, “Này là chiếc mũ của Thượng đế!”
Tôi sẽ vỗ tay vào chiếc quần của mình và nói to, “Này là áo
quần của Thượng đế!”
Tôi sẽ chỉ sang Richard Parker và nói to, “Này là con mèo
của Thượng đế!”
Tôi sẽ chỉ vào chiếc xuồng và nói to, “Này là chiếc bè cứu
nạn của Thượng đế!”
Tôi sẽ xoè hai bàn tay thật rộng ra biển và nói to, “Này là
những dải đất mênh mông của Thượng đế!”
Tôi sẽ chỉ lên trời và nói to, “Này là lỗ nhĩ của Thượng
đế!”
Và như thế, tôi sẽ nhắc mình nhớ đến công việc sáng tạo thế
giới và chỗ đứng của tôi ở trong đó.
Nhưng cái mũ của Thượng đế lúc nào cũng chực tuột ra. Áo
quần của Thượng đế cứ rách nát dần. Con mèo của Thượng đế luôn là mối hiểm họa.
Chiếc bè cứu nạn của Thượng đế là nhà tù. Dải đất mênh mông của Thượng đế đang
giết dần giết mòn chính tôi. Và lỗ nhĩ của Thượng đế dường như không hề lắng
nghe tôi.
Tuyệt vọng là một màn tối đen dày đặc không cho ánh sáng lọt
vào hoặc thoát ra. Đó là chốn địa ngục không có lời nào tả xiết. Tôi tạ ơn
Thượng đế vì những cơn tuyệt vọng ấy bao giờ cũng qua đi. Một đàn cá xuất hiện
quanh cái lưới hoặc một cái nút phải buộc lại. Hoặc nghĩ đến gia đình tôi, đến
việc mọi người đã không phải chịu cảnh khổ nạn như tôi. Cái tối đen ấy sẽ rung
động và cuối cùng tan đi, và Thượng đế còn đó, một điểm sáng ngời trong lòng
tôi. Tôi sẽ sống.
-----------
Chú thích:
(1) Lễ chịu mình Thánh của đạo Cơ đốc, trong đó cha đạo làm
lễ rồi phân phát bánh thánh cho các con chiên để nhớ lại bữa ăn cuối cùng của
Jesus với các tông đồ. Trong bữa ăn đó, Jesus đã nói “Này là mình ta, hãy ăn
đi; và này là huyết ta, hãy uống đi.” (ND)
(2) Lễ cử hành trong các nhà nguyện Do Thái, trong đó các
thầy cả giảng dạy những nội dung Aggadah hoặc Halakhah trong kinh sách. (ND)
(3) Nghi lễ thờ phụng một vị thần nào đó trong tín ngưỡng
Hindu, thường có việc hiến tế con sinh. (ND)
Chương 73
Cái ngày tôi ước chừng là sinh nhật mẹ, tôi hát Happy
Birthday rất to để mừng mẹ.
Chương 74
Tôi đã tập được thói quen dọn dẹp sạch sẽ cho Richard
Parker. Ngay khi tôi biết nó vừa đi ngoài xong, tôi ra tay ngay, một việc làm
nguy hiểm bao gồm động tác kều đống phân của nó ra bằng cái lao móc cá rồi từ
mui bạt hót đống phân đó đi. Phân thú có thể nhiễm các loại kí sinh trùng. Điều
này không sao đối với thú vật sống ngoài hoang dã vì chúng rất ít khi ở gần và
không có quan hệ dính líu gì với phân của mình. Các loài sống trên cây hầu như
không nhìn thấy phân của chúng. Các loài sống dưới đất thường phóng uế trên
đường đi tiếp ngay. Nhưng trong khuôn viên nhỏ hẹp của một vườn thú thì khác.
Nếu không dọn phân thú trong chuồng, chúng sẽ bị nhiễm trùng vì thế nào chúng
cũng ăn hết số phân đó. Thú vật đói thường ăn tất cả những thứ gì giống thức ăn
được. Cho nên chuồng thú được dọn sạch sẽ, không phải chỉ vì chiều mũi ngửi của
thức ăn mà thôi. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi, việc duy trì danh tiếng sạch sẽ
của gia đình Patel trong nghề vườn thú không phải là điều tôi quan tâm. Sau vài
tuần Richard Parker táo bón và chỉ thấy nó đi ngoài mỗi tháng một lần, cho nên
việc dọn vệ sinh của tôi chẳng đáng gì theo quan điểm vệ sinh. Nhưng có một lí
do khác khiến tôi làm việc đó. Lần đầu tiên Richard Parker đi ngoài trên xuồng,
tôi để ý thấy nó loay hoay cố giấu phân của mình đi. Tôi thấy ngay ý nghĩa quan
trọng của hành vi đó. Trưng phân của mình ra công khai, bất kể hôi thối, là dấu
hiệu của ý thức trên trướng và áp đảo trong xã hội loài vật. Còn ngược lại, cố
giấu giếm phân là dấu hiệu thoái bộ và nhún nhường. Nó đã có thái độ ấy đối với
tôi.
Có thể thấy là nó bồn chồn khi thấy tôi lấy phân của nó. Nó
nằm, đầu ngửa ra sau và hai tai áp sát vào sọ, phát ra tiếng gầm gừ liên tục và
âm thầm. Tôi tiến hành công việc rất công khai mà cũng rất thận trọng, không
phải chỉ để phòng thân, mà còn muốn gửi đến nó những tín hiệu rõ ràng. Tín hiệu
mạnh mẽ nhất là lúc tôi đã cầm cục phân nó trong tay. Tôi lăn cục phân trong
tay mấy lần, đưa lên sát mũi và hít thành tiếng ầm ĩ, liếc nhìn nó vài ba lần
một cách thách thức, mắt trợn tròn (ôi, giá nó biết là vì sợ) xoáy vào nó cho
tới lúc nó đã nhận ra được quyết tâm của tôi, nhưng không quá lâu đến nỗi khích
động nó. Và mỗi lần đưa mắt sang nó, tôi lại thổi lên một hồi còi đầy đe doạ.
Làm như thế, tấn công nó bằng mắt kiểu ấy (bởi vì thực ra là loài vật cũng như
chúng ta, nhìn chằm chằm vào một hành động tấn công) và rúc còi kiểu ấy, tôi đã
làm cho Richard Parker thấy rõ ràng tôi có quyền, quyền hành của một đấng tiên
chủ, muốn cầm nắn và ngửi hít phân của nó lúc nào cũng được. Cho nên, không
phải là tôi định làm nhiệm vụ vệ sinh vườn thú, mà là đe dọa tâm lí. Và việc đó
có hiệu quả tốt. Richard Parker không bao giờ dám nhìn lại vào mắt tôi; cái
nhìn của nó bập bềnh trên không trung, không bao giờ đặt vào tôi hoặc liếc ngang
qua tôi. Khi tôi cầm nắn cục phân nó trong tay, tôi cảm thấy như quyền uy của
mình đang được hình thành. Việc đó luôn luôn làm tôi kiệt sức vì căng thẳng,
nhưng cũng vô cùng phấn khích.
Vì ta đang trong chủ đề này, nên tôi cũng muốn kể luôn rằng
bản thân tôi cũng đã táo bón chẳng kém gì Richard Parker. Đó là do thức ăn, có
quá ít nước và quá nhiều đạm. Với tôi, việc đi ngoài mỗi tháng một lần thật
chẳng dễ chịu chút nào. Đó là một sự kiện đau đớn, khổ sở và kéo dài lê thê cho
đến lúc người tôi đẫm mồ hôi và mệt đến đứt hơi. Quả thật còn khổ hơn một cơn
sốt cao nhiều.
Chương 75
Khi những hộp thức ăn ngày càng ít đi, tôi giảm khẩu phần
cho đến lúc theo đúng như hướng dẫn trong cẩm nang: chỉ hai cái bánh quy cho
mỗi lần tám tiếng đồng hồ. Tôi thấy đói thường xuyên. Tôi chỉ còn nghĩ đến các
món ăn. Càng ăn ít đi thì tôi càng mơ thấy các món ăn nhiều hơn. Cả một dòng
sông Hằng dào dạt súp rau. Bánh bột lọc nóng to như núi. Những bát cơm to bằng
cả tiểu bang Uttar Pradesh. Cháo đậu chảy lút hết cả vùng Tamil Nadu. Những cây
kem chất cao như núi Himalaya . Những giấc mơ
của tôi trở nên rất có chuyên môn: các thành phần dùng để nấu những món ăn của
tôi lúc nào cũng tươi tắn và ê hề, lò nướng, chảo rán luôn luôn ở đúng mức
nhiệt, mọi thứ đều vừa vặn, không bao giờ cháy hoặc sượng, không bao giờ quá
nóng quá lạnh. Bữa ăn nào cũng hoàn hảo – chỉ có điều không với tay tới được
thôi.
Phạm vi khẩu vị của tôi ngày càng rộng ra. Trước đây tôi làm
ruột và đánh vảy cá rất kĩ, giờ thì tôi chỉ rửa qua cho đỡ nhớt rồi ngoạm ngay
vào chúng, sung sướng cảm thấy miếng ăn trong miệng mình. Tôi nhớ là cá bay rất
ngon, thịt chúng trắng hồng và mềm mại. Dorado thì thịt chắc hơn và vị mạnh
hơn. Tôi bắt đầu nhặt cả đầu cá chứ không ném chúng cho Richard Parker hoặc để
làm mồi câu như trước. Một phát kiến lớn là tìm ra thứ nước có vị rất tươi mát
mút được từ mắt những con cá lớn và từ xương sống của chúng. Rùa, mà trước đây
tôi chỉ biết lấy dao nậy mai và ném sang cho Richard Parker như một bát súp
nóng cho nó, đã trở thành món ăn thích khẩu của tôi.
Không thể tưởng tượng rằng đã có lúc tôi nhìn một con rùa
biển còn sống như nhìn một bữa tiệc có hàng chục món nấu tuyệt hảo hơn hẳn các
món cá. Nhưng là như vậy đấy. Trong tĩnh mạch rùa chảy một dòng sinh huyết ngọt
ngào phải uống được ngay lập tức khi nó đang phụt ra từ cổ con vật, nếu không
thì chỉ vài phút sau là nó đông đặc lại. Không có thứ gì trên đất liền có thể
sánh với thịt rùa, dù là phơi, nướng qua cho tới lúc nó có màu nâu hay nướng kĩ
cho đến màu đỏ sẫm. Không có gì sánh được với trứng rùa và mỡ rùa. Trộn lẫn
tim, phổi, gan, thịt và ruột đã làm sạch, thêm vài miếng lòng cá, rồi khuấy cả
vào nước sốt lòng đỏ trứng, ta sẽ có một món thập cẩm rùa tuyệt hảo khiến ta
phải vét và mút tay cho thật sạch. Đến lúc kết thúc cuộc hành trình thì tôi đã
ăn tất cả những gì mà một con rùa có thể hiến cho ta. Trong đám tảo bám trên
mai một số con rùa mỏ diều, đôi khi tôi còn tìm được những con cua nhỏ. Còn thì
tôi chén tất cả những gì có trong bụng một con rùa. Đã bao lần tôi khoái trá
hàng giờ liền ngồi gậm gạp một khớp chân rùa hoặc đập vỡ những mẩu xương và mút
tuỷ trong đó. Những ngón tay tôi đã quen thói lần mần nhặt nhạnh những mẩu thịt
và mỡ khô còn dính dấp lại bên trong mai rùa, chẳng khác gì bọn khỉ hay tự động
lần mò thức ăn.
Mai rùa rất tiện dụng. Không có chúng thì tôi cũng chẳng
biết sẽ ra sao. Không phải chỉ dùng chúng làm khiên, tôi còn lấy chúng làm thớt
chặt cá và bát trộn thức ăn. Và khi mưa gió đã xé nát những cái chăn đến mức
không thể vá víu lại được nữa, tôi dùng mai rùa để che mưa che nắng, xếp chúng
lại với nhau và nằm ngủ bên dưới.
Thật đáng sợ khi nhận ra thực tế rằng no bụng sẽ làm cho ta
hồ hởi vui vẻ ra sao. Cái này theo sau cái kia từng mức độ một: càng no nê,
càng vui vẻ. Tôi thấy chuyện đó thật gớm ghiếc. Muốn cười được, tôi cần có thịt
rùa.
Đến lúc đã hết bánh quy, cái gì cũng thành ra ăn được, bất
kể mùi vị ra sao. Tôi có thể tống mọi thứ vào mồm, nhai nhai, nuốt nuốt, ngon
lành hay hôi hám hoặc chẳng có mùi vị gì cũng vậy, chỉ cần nó không có vị mặn
là được. Cơ thể tôi đã tập nhiễm một phản ứng ghê tởm đối với muối và nó vẫn
còn cho đến tận bây giờ.
Có một lần tôi đã định ăn cả phân của Richard Parker. Việc
đó xảy ra từ sớm, khi cơ địa tôi còn chưa học được cách sống với cái đói và khi
trí tưởng tượng của tôi vẫn còn điên cuồng tìm kiếm các giải pháp. Tôi đã đem
cho nó nước ngọt từ cái máy cất nước đó không lâu. Sau khi uống một hơi hết chỗ
nước ấy, nó đã biến dạng vào dưới tấm bạt và tôi đã quay ra với mấy việc vặt
trong cái tủ. Như lệ thường hồi bấy giờ, cứ một chốc tôi lại liếc xuống bên
dưới tấm bạt để xem nó sắp định giở trò gì không. Thế là, cái lần ấy, quả nhiên
nó đang làm cái gì đó thật. Nó ngồi chúi người, lưng cong tròn, hai chân sau
dạng ra. Đuôi nó dựng đứng, chạm lên cả cái bạt. Nhìn là tôi biết. Ngay lập tức
tôi nghĩ đến món ăn, chứ không phải vệ sinh thú vật. Tôi quyết định rằng sẽ rất
ít nguy hiểm. Nó ngồi quay sang phía khác và cái đầu che khuất hẳn. Nếu tôi tôn
trọng sự im lặng của nó, có khi nó còn không để ý đến tôi nữa. Tôi vớ một cái
cốc tát nước và với tay ra phía nó. Cái cốc của tôi đến vừa đúng lúc. Khi tôi
đưa cái cốc vào đúng dưới khấu đuôi nó, lỗ đít Richard Parker giãn ra và một
cục phân tròn trịa đen sì lòi ngay ra, trông như một quả bóng cao su. Cục phân
rơi vào cái cốc đánh cách một cái, và chắc chắn sẽ có người coi tôi là mất hết
nhân tính lẫn nhân phẩm, những người không hiểu được mức độ gian khổ của tôi,
khi tôi nói rằng cái tiếng cục phân rơi vào cốc ấy đã vang trong tai tôi như âm
nhạc của một đồng năm rupi người ta bỏ vào ống bơ của một kẻ ăn mày vậy. Một nụ
cười vỡ rạn trên môi tôi và làm nó chảy máu. Tôi thấy biết ơn Richard Parker vô
cùng. Tôi lôi cái cốc lại. Tôi cầm lấy cục phân. Nó thật ấm, nhưng mùi không
nặng. Nó to bằng một trái bóng gulab jamun (1), nhưng không mềm như thế. Thực
tế là nó cứng như một hòn đá. Nhồi nó vào khẩu súng kíp và ta có thể bắn chết
một con tê giác.
Tôi để lại trái bóng đó vào cốc và thêm một ít nước. Tôi đậy
cốc và để nó sang một bên. Mồm miệng tôi ứa nước dãi khi chờ đợi. Khi không thể
chờ được nữa, tôi cho trái bóng vào miệng. Tôi không thể ăn được. Nó có vị rất
gắt, nhưng không phải là vì thế. Có thể là mồm miệng tôi đã ra một quyết định
ngay lúc đó, rất rõ ràng: không có gì ăn được ở trái bóng này. Nó chỉ là một
thứ đáng vất đi, không có một dưỡng chất gì hết. Tôi nhổ nó ra, cảm thấy cay
đắng như bị mất một bình nước quý giá. Tôi lấy cây lao rồi đi dọn hết chỗ phân
của Richard Parker, quẳng xuống cho cá.
Sau chỉ một vài tuần, cơ thể tôi bắt đầu tan rã. Bàn chân,
cổ chân bắt đầu sưng tấy và đứng lên rất khó khăn.
-----------
Chú thích:
(1) Chắc là một môn chơi nào đó của Ấn Độ, chúng tôi chưa
tra cứu ra được, xin độc giả lượng thứ. (ND)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét