Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Cuộc đời của Pi - Yann Martel (P 2)


Chương 6

Anh là một người nấu ăn giỏi. Căn nhà luôn sưởi ấm quá mức của anh lúc nào cũng sực nức mùi thức ăn hấp dẫn. Giá để gia vị của anh trông giống như tủ thuốc của một nhà bào chế. Khi anh mở tủ lạnh hoặc chạn thức ăn, có nhiều nhãn hiệu mà tôi không hiểu gì cả, thậm chí không biết chúng là tiếng nước nào. Anh nấu các món Âu Mỹ cũng thành thạo như các món Ấn Độ. Anh làm cho tôi món mỳ ống pho-mát ngon và tinh tế chưa từng thấy. Món bánh tráng kẹp nhân rau chay anh làm có thể là nỗi ghen tị của cả xứ Mexico.
Tôi còn để ý thấy một điều: chạn thức ăn của anh đầy ắp. Ngăn nào, khoang nào cũng chất hàng núi các loại hộp và gói giấy. Một kho lương thực có thể sống qua cuộc phong tỏa Leningrad.

Chương 7

Tôi có cái may được học một số thầy giáo giỏi trong thủa thiếu thời, những người này, cả đàn ông và đàn bà, đã thâm nhập vào cái đầu tôi và đánh lên một que diêm. Một trong số họ là ông Satish Kumar, thầy dạy môn sinh học ở trường Petit Seminaire và là một người cộng sản tích cực luôn hy vọng Tamil Nadu sẽ thôi bầu các minh tinh màn bạc lên nắm chính quyền và theo gương xứ Kerala. Ông có bề ngoài rất đặc biệt. Đỉnh đầu ông hói và nhọn lại có những ngấn sệ dưới cằm rất kì, rồi đôi vai hẹp chạy xuôi xuống cái bụng khổng lồ như cái chân núi, chỉ tội là quả núi ấy lại lơ lửng trên không, vì cái bụng phệ đột ngột biến mất theo chiều ngang vào hai cái ống quần. Điều bí ẩn đối với tôi là không biết đôi chân khẳng khiu ấy chống đỡ cái khối nặng thân hình ông bằng cách gì, nhưng chúng đỡ được, mặc dù đôi lúc chúng chuyển động rất lạ, như thể hai đầu gối ông cứ cong ra cong vào theo các hướng khác nhau. Cơ thể ông cấu tạo theo kỉ hà học: trông ông như hai tam giác, cái nhỏ cái to, thăng bằng trên hai đường kẻ song song. Nhưng sinh động, còn sần sùi là đằng khác, với những túm lông đen tua tủa đâm ra từ hai lỗ tai. Và thân thiện. Nụ cười ông dường như chiếm hết đáy của cái đầu hình tam giác.
Ông Kumar là người vô thần nhiệt thành đầu tiên mà tôi từng biết. Tôi phát hiện điều này không phải trong lớp học mà là ở vườn thú. Ông ta là vị khách thường xuyên, là người đọc kĩ hết các bảng mô tả và khâm phục tất cả các con vật mà ông đã thấy. Với ông, con vật nào cũng là một chiến thắng của logic và cơ giới, và thiên nhiên nói chung là một minh họa tuyệt hảo của khoa học. Trong tai ông, khi một con vật cảm thấy động lực giao phối, nó nói Gregor Mendel, nhắc đến vị cha đẻ của ngành di truyền học, còn khi đến lúc khoe lông khoe sức của mình thì là Charle Darwin, cha đẻ của thuyết chọn lọc tự nhiên, và những gì mà chúng ta coi là những tiếng hí, gầm, rú, rít, khịt, hót, hét... thì với ông là những âm hưởng của các ngoại ngữ thật sự. Khi ông Kumar đến thăm vườn thú, đó là để bắt mạch vũ trụ, và trí khôn thăm dò của ông luôn luôn khẳng định với ông rằng mọi vật có trật tự, rằng mọi vật là trật tự. Ông rời vườn thú với cảm giác được tươi mới trở lại một cách khoa học.
Lần đầu tiên tôi thấy khuôn hình tam giác của ông đang thao thao bất tuyệt về vườn thú, tôi không dám đến gần ông. Tôi ưa thích ông trong tư cách một thầy giáo bao nhiêu thì tôi cũng e dè ông như thần dân đối với quan phụ mẫu bấy nhiêu. Quả thật tôi có sợ ông chút ít. Tôi quan sát ông từ xa. Ông đã vừa đi đến chỗ hố nuôi tê giác. Hai con tê giác Ấn Độ là trung tâm thu hút khách đến xem nhờ có lũ dê. Tê giác là loài vật cần có giao tiếp xã hội. Khi chúng tôi có được Peak, một con tê giác đực còn non, nó có biểu hiện buồn chán vì bị cách ly và ngày càng bỏ ăn. Trong khi chưa tìm được một con tê giác cái, cha tôi muốn áp dụng một biện pháp tức thời và nghĩ đến việc thử xem Peak có chịu sống chung với một bầy dê hay không. Nếu nó chịu, chúng tôi sẽ cứu được một con vật quý. Còn không thì cũng chỉ mất một vài con dê. Thật tuyệt vời. Peak và bầy dê không rời nhau nửa bước, ngay cả khi có Summit về sống cùng. Lúc bấy giờ, khi cặp tê giác tắm dưới nước thì bầy dê đứng xung quanh mép hồ, còn khi dê ăn ở góc của chúng, Peak và Summit đứng ngay cạnh như thể canh gác cho bạn. Dân chúng đi xem rất khoái cảnh chung sống này.
Ông Kumar ngẩng lên và thấy tôi. Ông mỉm cười, một tay vịn hàng rào, tay kia vẫy tôi lại gần.
- Chào Pi,- ông nói.
- Chào thầy ạ. Thầy đến thăm vườn thú thế này thật tốt quá.
- Tôi vẫn thường đến mà. Có thể nói đây là ngôi đền của tôi. Thật là thú vị kìa...- Ông đang nói về đám tê giác và dê.- Nếu chúng ta có các nhà chính trị như những con dê và tê giác kia, đất nước sẽ đỡ linh tinh lắm. Không may là chúng ta lại có một ngài thủ tướng có đủ hết bộ giáp trụ của tê giác nhưng thiếu hết những ý thức tốt đẹp của nó.
Tôi có biết gì nhiều về chính trị đâu. Cha với mẹ tôi luôn luôn phàn nàn về bà Gandhi, nhưng chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với tôi. Bà Gandhi sống mãi tận miền Bắc, đâu có ở trong vườn thú mà cũng chẳng ở Pondicherry. Dù sao tôi thấy mình cũng phải nói cái gì đó.
- Tôn giáo sẽ cứu chúng ta,- tôi nói. Từ khi tôi có trí nhớ, tôn giáo đã rất gần gụi trong tôi.
- Tôn giáo?- Ông Kumar cười ngoác miệng.- Tôi không tin vào tôn giáo. Tôn giáo là tăm tối.
Tăm tối? Thật khó hiểu. Tôi nghĩ không thể thế được. Tôn giáo là ánh sáng. Liệu ông ta có đang thử tôi không đây? Liệu ông có đang nói Tôn giáo là tăm tối theo kiểu đôi khi ông nói ở trên lớp, ví dụ như Các loài có vú đẻ trứng, chỉ cốt để xem có ai bẻ lại không mà thôi.
Không có lí do gì để đi quá cách giải thích của khoa học và không có lí lẽ lành mạnh nào để tin vào bất kì cái gì ngoài những trải nghiệm giác quan của chúng ta. Chỉ cần một đầu óc sáng sủa một chút, một ý thức quan sát các chi tiết và một chút hiểu biết khoa học cũng đủ lột trần tôn giáo như một thứ dị đoan vô bổ. Không, làm gì có Thượng đế.
Có đúng là ông ấy nói vậy không? Hay là tôi đang nhớ lại những lời của các nhân vật vô thần khác về sau này? Dù sao những lời ấy cũng là một cái đó. Trước đấy, tôi chưa bao giờ nghe những thứ tương tự như thế.
Tại sao phải chịu đựng tăm tối. Mọi vật đều ở ngay đây, rõ ràng, chỉ cần ta nhìn cho cẩn thận.
Ông chỉ con Peak. Ấy, dù tôi vẫn rất khâm phục Peak, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một con tê giác cũng là một cái bóng đèn sáng.
Ông nói tiếp:
- Có người nói Thượng đế đã chết trong thời chia cắt đất nước ta hồi 1947. Ông ấy cũng có thể đã chết trong chiến tranh năm 1971. Hoặc qua đời ngay hôm qua thôi trong một trại mồ côi ở Pondicherry này. Đấy là những gì người ta nói, Pi ạ. Khi tôi bằng tuổi em, tôi sống trên giường, mắc bệnh bại liệt. Ngày nào tôi cũng hỏi, Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế ở đâu? Thượng đế chẳng bao giờ đến. Không phải Thượng đế cứu sống tôi, mà là y học. Lí trí là nhà tiên tri của tôi và nó bảo tôi rằng khi chiếc đồng hồ ngừng chạy, là chúng ta chết. Là hết. Nếu chiếc đồng hồ không chạy tốt, phải chữa nó ngay. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chiếm hữu được các công cụ sản xuất và sẽ có công lý trên trái đất này.
Điều đó hơi quá đối với tôi. Giọng nói thì vừa phải - có tình và can đảm - nhưng các chi tiết có vẻ nhợt nhạt. Tôi lặng thinh. Không phải vì sợ phật lòng ông Kumar. Điều tôi sợ hơn là trong một vài lời thôi ông có thể sẽ phá hủy hết những gì tôi đã yêu. Nhỡ những lời ông nói lại khiến cho tôi mắc bệnh bại liệt thì sao nào? Căn bệnh đó hẳn phải khủng khiếp lắm vì nó có thể giết chết cả Thượng đế trong lòng một con người.
Ông bước đi, khập khà khập khiễng trên mặt biển hoang dại vốn chỉ là mặt đất yên ổn dưới chân.
- Đừng quên bài kiểm tra ngày thứ Ba nhé. Học cho tốt, 3,14 nhé!
- Vâng, thưa thầy Kumar.
Ông trở thành thầy giáo tôi ưa thích nhất ở Petit Semiraire và là lí do khiến tôi theo học ngành động vật học ở Toronto. Tôi cảm thấy có mối thân tình với ông. Đó là cái đầu mối tiên khởi cho tôi hiểu rằng những người vô thần là anh chị em có một niềm tin khác của tôi, rằng mỗi lời họ nó đều là những lời nói của niềm tin. Cũng như tôi, họ đi đến tận cùng trên đôi chân của lí trí - rồi cất bước nhảy theo lòng tin.
Tôi phải trung thực về chuyện này. Những người vô thần không làm tôi khó chịu, mà là những kẻ hoài nghi. Tính hoài nghi cũng có công dụng, nhưng cho một lúc thôi. Chúng ta ai cũng phải qua chỗ Đồi Sọ (1). Nếu Đấng Christ còn phải chơi với hoài nghi, thì chúng ta tất cũng đều phải vậy. Nếu Đấng Christ đã phải qua một đêm cầu nguyện khẩn thiết trong đau khổ, nếu Người đã kêu lên trên thập giá: Cha ơi, Cha ơi, sao Cha nỡ bỏ con? thì tất nhiên chúng ta ai cũng có quyền nghi hoặc. Nhưng chúng ta phải bước tới. Lấy hoài nghi làm triết lí sống ở đời thì cũng như lấy sự bất động làm phương tiện giao thông vậy.

Chương 8

Trong nghề nghiệp chúng tôi thường nói rằng con vật nguy hiểm nhất trong 1 vườn thú là người. Theo nghĩa rộng, chúng tôi hàm ý rằng tính cách ăn thịt lẫn nhau quá đáng của giống loài chúng ta đã biến toàn thể hành tinh này thành 1 con mồi của loài người. Theo nghĩa cụ thể, chúng tôi muốn chỉ những người vẫn cho rái cá ăn lưỡi câu, cho gấu ăn dao cạo, cho voi ăn táo có đinh nhọn ở trong, và cho tất cả các con vật khác ăn đủ các loại đồ vật: bút bi, cặp giấy, đinh ghim, dây cao su, lược, thìa cà phê, móng ngựa, thuỷ tinh vụn, nhẫn, trâm cài đầu và các đồ trang sức khác (không phải chỉ có các đồ nhựa rẻ tiền đâu, mà cả nhẫn cưới bằng vàng nữa kia), rồi thì ống uống nước, dao đĩa nhựa, bóng ping-pong, bóng tennis, vân vân và vân vân. Danh sách khai tử các con vật trong vườn thú vì bị cho ăn các đồ vật như thế bao gồm khỉ độc, bò rừng, cò, vạc, đà điểu, hải cẩu, hải sư, hổ báo, gấu, lạc đà, voi, khỉ, và hầu hết các loài hươu nai, chuột bọ và chim chóc. Trong giới quản lí vườn thú, cái chết của Goliath là câu chuyện ai cũng biết. Đó là một con hải cẩu đực, một con vật lớn, đẹp, nặng hơn 2 tấn, minh tinh của một vườn thú châu Âu nơi nó trú ngụ, được tất cả khách thăm yêu mến. Nó chết vì bị chảy máu nội tạng sau khi có người cho nó ăn một chai bia vỡ.
Chúng tôi tương đối may mắn, ở Pondicherry. Chỗ chúng tôi không có những người mắc chứng sadic như bên châu Âu và châu Mỹ. Tuy nhiên con điêu thử lông vàng của chúng tôi biến mất tăm. Cha tôi nghi nó bị ai đó bắt ăn thịt. Nhiều chim trĩ, công, vẹt bị người ta vặt lông. Chúng tôi tóm được một người mang dao đang trèo vào trại nuôi hươu, người ấy nói ông ta muốn trừng phạt tên Ravana độc ác (là nhân vật trong trường ca Ramayana, biến thành một con hươu để bắt cóc Sita, nàng hầu của Rama). Một người khác thì bị bắt quả tang khi đang bắt trộm một con rắn hổ mang. Ông là người thổi kèn rắn vừa chết mất con hổ mang của mình. Cả hai đều được cứu thoát: con hổ mang thì khỏi bị cuộc sống nô lệ và thứ nhạc tồi tệ kia, còn người ấy thì khỏi toi mạng vì hổ mang cắn. Chúng tôi còn phải đối phó với những người ném đá thường muốn khiêu khích cho súc vật phải động cựa lên. Và chúng tôi còn có một bà mệnh phụ phu nhân mà áo dài lụa bị một con sư tử ngoạm phải. Bà ta bị quay như một con quay yo-yo, thà thoát y còn hơn chết. Mà nào có phải tai nạn cho cam. Bà ấy đã thò cả cánh tay vào chuồng sư tử và vẫy vẫy tà áo dài trước mặt mãnh sư, không biết để làm gì. Bà ấy không sao hết. Rất nhiều các ông lao đến giúp bà. Với cha tôi, bà ấy bảo: “'Ai đời sư tử mà lại thích ăn váy áo cơ chứ. Tôi cứ tưởng chúng chỉ là loài ăn thịt”. Gây rắc rối tồi tệ nhất là đám khách hay thích cho súc vật thức ăn. Mặc dù sự cảnh giác của chúng tôi, bác sĩ thú y Atal của vườn, có thể dùng con số những con vật mắc chứng rối loạn tiêu hóa để minh họa cho những ngày bận rộn của ông ở vườn thú. Ông gọi chung tất cả các loại bệnh tiêu hóa này bằng một từ riêng của ông – “tidbit-it is” - mà phần lớn là do quá nhiều carbonhydrad và đường. Đôi khi chúng tôi ước gì họ chỉ dùng đường thôi thì còn đỡ. Người ta tưởng các con vật có thể ăn bất kỳ thứ gì cũng chẳng ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng. Đâu phải thế. Một con culi của chúng tôi bị ốm nặng với chứng viêm ruột chảy máu sau khi ăn một con cá thiu do một người nhét cho, mà người này nhất định tin rằng ông ta chỉ làm tốt cho con vật mà thôi.
Ngay sau quầy bán vé, cha tôi cho kẻ một dòng chữ sơn đỏ lên tường: “Đố quí vị biết trong vườn thú con vật nào là nguy hiểm nhất?”. Một mũi tên chỉ về 1 tấm rèm nhỏ. Đã có biết bao nhiêu bàn tay tò mò háo hức kéo tấm rèm đó, đến nỗi chúng tôi thường xuyên phải thay cái mới. Đằng sau nó là một tấm gương.
Nhưng tôi đã phải vất vả mới biết được rằng cha tôi còn tin là có một con vật nữa nguy hiểm hơn cả chúng ta, một con vật cực kì phổ biến, lục địa nào cũng có, địa bàn nào cũng có: đó là loài Animalus anthropomorphicus (2), con vật mà chỉ có mắt người mới nhìn thấy. Chúng ta ai cũng gặp con này, có khi còn sở hữu một con là đằng khác. Nó là con vật “xinh xắn”, “đáng yêu”, “vui vẻ”, “thân thiết”... Chúng rình rập trong tất cả các cửa hàng đồ chơi và vườn thú của trẻ con. Biết bao chuyện về chúng cơ chứ. Chúng là đồ trang sức lủng lẳng trên cổ các con vật “đồi trụy”, “xấu xa”, “khát máu” đã xui khiến nên các cơn khùng của lũ điên mà tôi vừa kể ở trên, lũ người muốn làm hài lòng chúng bằng ba-toong và cán ô.
Trong cả hai trường hợp, chúng ta nhìn vào một con vật và thấy một tấm gương. Tâm lý bệnh hoạn luôn muốn đặt mình vào trung tâm của mọi vật là một ngón thuốc độc chết người không những của các nhà thần học mà của cả những nhà động vật học nữa.
Tôi đã học được bài học rằng một con vật là một con vật, cơ bản và thực tế là khác hẳn chúng ta, những hai lần: một lần với cha tôi, và một lần với Richard Parker.
Đó là một buổi sáng Chủ Nhật. Tôi đang tha thẩn chơi một mình thì cha tôi gọi.
- Các con, hãy ra đây.
Có chuyện gì rồi. Giọng nói của cha làm reo một cái chuông báo động tí tẹo trong đầu tôi.
Tôi vội kiểm điểm lại lương tâm. Không có gì cả. Chắc hẳn phải là Ravi thôi. Không biết Ravi có chuyện gì đây. Tôi bước vào phòng khách. Mẹ ở đó. Không bình thường chút nào.
Việc kỷ luật con cái, cũng giống như việc chăm sóc súc vật, thường chỉ là việc của cha. Ravi vào cuối cùng, mặt đầy vẻ tội lỗi.
- Ravi, Piscine, cha có một bài học rất quan trọng cho các con hôm nay.
- Ôi, có thực cần thiết không mình?- Mẹ nói. Mặt mẹ ửng đỏ.
Tôi nuốt nước bọt. Nếu mẹ, thường bình tĩnh và thản nhiên là thế, mà bây giờ có vẻ lo lắng đến độ bực bội thế kia, thì có nghĩa là có chuyện gì nghiêm trọng thật rồi. Tôi và Ravi lén nhìn nhau.
- Có. Rất cần.- Cha nói, có vẻ khó chịu.- Bài học này có thể sẽ cứu mạng sống của chúng.
Cứu mạng sống của chúng tôi! Cái chuông báo động trong đầu tôi không còn bé tí tẹo nữa, nó trở thành quả chuông khổng lồ, giống như quả chuông của ngôi nhà thờ Tâm Thiêng của Giáo hội Jesus mà chúng tôi vẫn nghe thấy, không xa vườn thú là mấy.
Mẹ vẫn chưa chịu:
- Piscine? Nó mới lên tám.
- Nó là đứa mà tôi lo lắng nhiều nhất.
- Con vô tội!- Tôi òa lên.- Lỗi ở anh Ravi hết, gì cũng là lỗi của anh ấy hết ạ!
- Cái gì?- Ravi kêu.- Con có làm cái gì sai trái đâu cơ chứ.- Rồi anh nhìn tôi hằn học.
- Lặng im nào!- Cha tôi nói, giơ tay lên. Cha đang nhìn thẳng vào mẹ.- Gita, em đã thấy Piscine rồi đấy. Nó đang tuổi với bọn nhóc suốt ngày loăng quăng và thọc mũi vào khắp mọi nơi.
Tôi ư? Một thằng loăng quăng? Một thằng thọc mũi vào khắp mọi nơi? Đâu có phải thế? Không phải thế! Mẹ ơi, hãy bảo vệ con đi mẹ, tôi khẩn khoản trong lòng. Nhưng mẹ chỉ thở dài và gật đầu, dấu hiệu cho thấy cái việc khủng khiếp kia sẽ được thi hành.
- Đi theo cha.
Chúng tôi đi như một bọn tử tù ra pháp trường.
Chúng tôi ra khỏi nhà, bước qua cổng, vào vườn thú. Hãy còn sớm và vườn thú còn chưa mở cửa cho công chúng vào.
Những người coi thú và làm vườn đang làm các công việc của họ. Tôi thấy Sitaram, người trông nom bọn khỉ độc, người tôi có cảm tình nhất. Anh đang dừng tay đưa mắt nhìn theo chúng tôi. Chúng tôi đi qua khu chuồng chim, gấu, khỉ độc, khỉ con, tê giác, voi, hươu cao cổ. Chúng tôi đến chỗ hổ, sư tử và báo hoa. Babu, người chăm sóc chúng, đang chờ ở đó.
Chúng tôi đi vòng xuống con đường quanh chuồng, và anh mở khóa cánh cửa dẫn vào chuồng, nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa hào nước. Chúng tôi bước vào. Đó là một cái hang xi-măng rộng và tối, hình tròn, nóng và ẩm, sặc mùi nước đái hổ. Khắp xung quanh là những chuồng lớn ngăn với nhau bởi những song sắt to vật sơn xanh lá cây. Một luồng ánh sáng vàng vọt lọt xuống từ những ổ cửa trên trần. Qua các lối ra của chuồng, chúng tôi có thể nhìn thấy cây cối trên đảo, tràn ngập ánh mặt trời. Các ngăn chuồng rỗng không – trừ một ngăn: Mashisha, con hổ Bengal đầu đàn của chúng tôi, một con vật dài rộng và to lớn, nặng gần hai tạ rưỡi, đang bị nhốt trong chuồng. Đúng lúc chúng tôi bước vào, nó đứng dựa vào các chấn song và bắt đầu gầm gừ rất sâu trong cổ, cặp tai nó ép sát vào đầu và đôi mắt tròn xoe dán chặt vào Babu. Tiếng gầm gừ của nó to và vang đến nỗi tưởng như làm cả khu chuồng rung lên. Đầu gối tôi bắt đầu run. Tôi nép vào mẹ. Mẹ cũng run. Ngay cha tôi cũng có vẻ đang trấn tĩnh lại. Chỉ có Babu vẫn tỉnh bơ như không trước tiếng gầm và cái nhìn xoáy vào anh ta như lưỡi khoan. Anh đã được thử thách để tin tưởng vào các chấn song sắt. Mashisha bắt đầu đi đi lại lại trong giới hạn của chuồng.
Cha quay sang chúng tôi.
- Con vật gì đây?- Cha quát để át được tiếng gầm gừ của Mashisha.
- Dạ, con hổ ạ,- Ravi và tôi đồng thanh, ngoan ngoãn chỉ ra điều hiển nhiên không thể nhầm lẫn.
- Hổ có nguy hiểm không?
- Thưa cha có ạ, hổ nguy hiểm ạ.
- Hổ rất nguy hiểm,- cha hét lên.- Cha muốn các con hiểu rằng không bao giờ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, được chạm đến một con hổ, vuốt ve một con hổ, thò tay qua song sắt chuồng hổ, và ngay cả đến gần một cái chuồng hổ. Đã rõ chưa? Ravi?
Ravi gật đầu lia lịa.
- Piscine?
Tôi gật đầu còn lia lịa hơn.
Cha nhìn tôi chằm chặp.
Tôi gật đầu mạnh đến nỗi lấy làm ngạc nhiên sao chưa bị gẫy cổ và rơi đầu xuống sàn lúc đó.
Tôi muốn có vài lời tự bạch rằng, mặc dù tôi có thể đã nhân cách hóa các con vật đến mức chúng có thể nói trôi chảy được tiếng Anh, với đám chim trĩ than phiền bằng giọng quý phái Anh chính hiệu rằng trà của chúng nguội quá, và bọn khỉ đầu chó bàn bạc kế hoạch chạy trốn sau khi cướp nhà băng bằng giọng găng-tơ Mỹ đặc sệt, nhưng tôi lúc nào cũng tỉnh táo và ý thức được rằng đó chỉ là những huyễn hoặc mà thôi. Tôi hoàn toàn cố tình khoác cho những con vật hoang dã những bộ cánh hiền lành của trí tưởng tượng. Song tôi không bao giờ mụ mị đến hoang tưởng về bản chất thực của chúng. Cái mũi thọc mạch của tôi tỉnh táo hơn thế. Không hiểu sao mà cha tôi lại nghĩ rằng đứa con út của ông lại có thể ngứa ngáy đến mức bước chân vào chuồng một con thú dữ ăn thịt được kia chứ. Nhưng cho dù nỗi lo lạ lùng ấy của cha có nguồn gốc ở đâu đi nữa – mà cha là người cả lo – rõ ràng là ông đã quyết tâm phải trừ bỏ mối này trong buổi sáng hôm đó.
- Để cha cho các con thấy loài hổ nguy hiểm đến mức nào,- cha tiếp tục nói.- Cha muốn các con ghi nhớ bài học này suốt đời.
Cha quay sang gật đầu với Babu. Babu đi ra. Mashisha đưa mắt nhìn theo anh ta và không chịu rời khỏi đầu cửa mà Babu vừa đi qua. Vài giây sau, Babu trở lại, vác theo một con dê đã trói hết chân vào với nhau. Mẹ ôm lấy tôi từ phía sau. Tiếng gầm gừ của Mashisha biến thành một tiếng tru ầm ào sâu tít bên trong cổ.
Babu mở khóa, mở cửa, bước vào, khép và khóa cửa một ngăn chuồng ngay cạnh chuồng Mashisha. Hai ngăn cách nhau bằng các cửa sập và các chấn song. Mashisha lập tức bám vào hàng chấn song đó, cào cấu chúng. Nó bắt đầu thêm vào tiếng gầm gừ kéo dài những tiếng hộc mạnh mẽ như có thuốc nổ. Babu đặt con dê xuống sàn; hai bên sườn con vật phập phồng dữ dội, lưỡi nó thè lè khỏi mồm, và mắt nó trợn ngược. Babu cởi trói cho con dê. Nó đứng lên. Babu ra khỏi chuồng cũng thận trọng như khi vào. Ngăn chuồng đó có hai mức sàn, một mức ngang với chỗ chúng tôi đang đứng, một mức nữa ở phía sau, cao hơn độ một thước, dẫn ra phía ngoài đảo. Con dê lập cập trèo lên sàn trên. Mashisha, không để ý gì đến Babu nữa, chuyển động trong căn chuồng của nó theo bước đi của con dê trong một dáng điệu uyển chuyển như nước chảy. Nó phủ phục và nằm im, cái đuôi đung đưa chậm rãi là dấu hiệu căng thẳng duy nhất.
Babu bước lên chỗ cái cửa sập ngăn giữa hai căn chuồng và bắt đầu kéo nó lên. Biết là sắp được thỏa mãn, Mashisha im phăng phắc. Tôi nghe thấy hai thứ vào giây phút đó: cha nói: “Đừng bao giờ quên bài học này” trong khi ông nhìn lên một cách nghiêm nghị; và tiếng kêu be be của con dê. Chắc nó đã kêu lảnh lót như vậy ngay từ đầu, chỉ có điều đến lúc ấy tôi mới nghe thấy.
Tôi thấy bàn tay mẹ áp chặt lên chỗ tim tôi đang đập thình thịch.
Cái cửa sập kêu rít lên mấy tiếng. Mashisha không tự chủ được nữa – trông có vẻ như sắp nổ tung qua các chấn song sắt. Nó có vẻ lưỡng lự, không biết nên ở nguyên tại chỗ, gần chỗ con mồi nhất nhưng lại không thể với được tới, hay là chuyển xuống sàn dưới, xa con mồi hơn nhưng lại gần cái cửa sập hơn. Nó vươn người lại và bắt đầu gầm gừ.
Con dê bắt đầu nhảy. Nó nhảy cao lạ lùng. Tôi không ngờ dê lại có thể nhảy cao đến thế. Song phía sau căn chuồng là một bức tường xi măng cao và nhẵn nhụi.
Thình lình, cánh cửa sập nhẹ nhàng trượt lên. Rồi yên lặng trở lại, chỉ nghe tiếng con dê kêu và tiếng móng chân nó gõ liên hồi xuống sàn.
Một dòng thác màu đen và da cam chảy ào từ căn chuồng nay sang căn chuồng kia.
Bình thường, người ta không cho hổ báo ăn một ngày mỗi tuần, để mô phỏng theo điểu kiện sống của chúng ngoài hoang dã. Về sau chúng tôi được biết là cha đã ra lệnh bỏ đói Mashisha trong 3 ngày liền.
Không biết là tôi có nhìn thấy máu trước khi nhào vào lòng mẹ hay là tôi đã vẽ ra máu trong kí ức mình sau này bằng những nét bút lông to bè. Nhưng mà tôi nghe thấy. Đủ hãi hùng để thổi tắt ngấm những tia sáng của sự sống chỉ biết ăn chay ra khỏi linh hồn tôi. Mẹ lập cập ôm lùa chúng tôi ra khỏi đó. Chúng tôi sợ phát cuồng. Mẹ tức giận thật sự.
- Sao anh có thể thế được, anh Santosh? Chúng nó chỉ là trẻ con! Anh đã làm chúng sợ hãi đến hết đời!
Giọng mẹ nóng giận và run rẩy. Tôi thấy cả nước mắt đọng trong mắt mẹ. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn.
- Gita, con chim nhỏ của anh, cũng là vì chúng mà thôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Piscine thò tay qua chấn song chuồng hổ một ngày nào đó để vuốt ve bộ lông da cam đẹp đẽ kia? Thà mất con dê còn hơn, phải không nào?
Giọng cha êm, gần như thì thầm. Trông cha rất căng thẳng. Cha chưa khi nào gọi mẹ là “con chim nhỏ của anh” trước mặt chúng tôi.
Anh em tôi quấn chặt lấy mẹ. Cha ôm lấy chúng tôi. Nhưng bài học chưa hết, mặc dù phần sau có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Cha dẫn chúng tôi tới chỗ sư tử và báo.
- Có một người mất trí ở Australia có võ karate đến hắc đai. Hắn ta muốn chứng tỏ sức mạnh của mình với sư tử. Hắn thua. Thậm tệ. Người ta chỉ tìm thấy một nửa thi thể của hắn vào sáng hôm sau.
- Vâng, thưa cha.
Đến bọn gấu Hymalaya và gấu cu li.
- Chỉ một nhát cào của các con vật củ mỉ cù mì kia cũng đủ ruột gan các con lòi đầy mặt đất.
- Vâng, thưa cha.
Bọn hà mã.
- Với cái mõm mềm mại và mỡ màng kia, chúng sẽ nghiền nát thân thể các con thành một đống bầy nhầy. Lên cạn, chúng chạy còn nhanh hơn các con.
- Vâng, thưa cha.
Bọn linh cẩu.
- Những bộ hàm khoẻ nhất trong thiên nhiên. Đừng tưởng chúng hèn nhát hoặc chỉ biết ăn thịt chim chóc. Chúng không nhát và không ăn thịt chim! Chúng sẽ ăn ngay các con khi các con vẫn còn sống hẳn hoi.
- Vâng, thưa cha.
Bọn khỉ độc.
- Khỏe bằng mười người. Chúng bẻ xương các con như bẻ que. Cha biết vài con đã từng được nuôi chơi trong nhà và các con đã từng đùa rỡn với chúng khi chúng còn bé. Nhưng bây giờ chúng đã lớn, hoang dại và khó lường.
- Vâng, thưa cha.
Bọn đà điểu.
- Trông xơ xác và ngốc nghếch, phải không nào? Hãy nghe đây: chúng là một trong những loài vật nguy hiểm nhất trong vườn thú. Chỉ một cú đá của chúng thôi là đủ bẻ gẫy xương sống xương sườn của con rồi.
- Vâng, thưa cha.
Bọn hươu sao.
- Thật xinh đẹp, phải không nào? Nếu các con đực cảm thấy cần thiết, nó sẽ tấn công các con và những nhánh sừng ngắn ngủi kia sẽ xuyên thủng các con như dao găm vậy.
- Vâng, thưa cha.
Bọn lạc đà Arập.
- Một miếng đớp của nó thôi là các con đi toi mảng thịt xương rồi.
- Vâng, thưa cha.
Bọn thiên nga đen.
- Với những cái mỏ kia, chúng sẽ bổ vỡ sọ các con. Và sẽ bẻ chân tay các con bằng những đôi cánh của chúng.
- Vâng, thưa cha.
Bọn chim lau nhau.
- Chúng sẽ cắt đứt ngón tay của các con bằng mỏ nhọn như thể tay các con là bơ vậy.
- Vâng, thưa cha.
Lũ voi.
- Con vật nguy hiểm nhất trong tất cả. Trong vườn thú voi là con vật đã giết chết nhiều người làm và khách tham quan nhất. Một con voi non sẽ có thể xé rời chân tay và giày xéo thân thể các con thành bẹp gí. Đó là số phận của một người làm trong một vườn thú bên châu Âu, đã dám trèo vào chuồng voi qua một cửa sổ. Một con voi chín chắn hơn, bình tĩnh hơn, sẽ nghiền nát các con vào tường hoặc ngồi lên các con. Nghe thì buồn cười đấy - nhưng hãy nghĩ mà xem!
- Vâng, thưa cha.
- Còn nhiều các con chúng ta không thể đến được. Đừng tưởng chúng vô hại. Sinh vật nào cũng biết tự vệ, không kể to nhỏ. Con vật nào cũng dữ tợn và nguy hiểm cả. Nó có thể không giết chết các con, nhưng chắc chắn sẽ làm các con thương tổn. Nó sẽ cào cấu, cắn xé và các con chỉ việc đợi đó để bị nhiễm trùng, sưng tấy và đầy mủ, rồi thì sốt cao và mười ngày trong bệnh viện.
- Vâng, thưa cha.
Chúng tôi đến chỗ bọn chuột khoang, loài vật duy nhất bị cha tôi ra lệnh bỏ đói cùng với Mashisha. Chúng không được ăn bữa tối hôm trước. Cha mở khoá chuồng. Ông lấy ra một túi đồ ăn trong túi quần và dốc hết xuống sàn.
- Các con thấy những con chuột khoang này chứ?
- Vâng, thưa cha.
Các chú chuột run rẩy vì mệt khi chúng hối hả gậm nhấm những hạt ngô.
- Này, này…- cha cúi xuống bế một con lên tay.- Chúng không nguy hiểm đâu.
Đám chuột chạy tản ra ngay lập tức.
Cha cười. Ông đưa cho tôi con chuột khoang đang còn kêu lí nhí. Ông đã chuẩn bị cho bài học kết thúc một cách nhẹ nhàng.
Con chuột khoang căng thẳng nép mình trong cánh tay tôi. Một con còn non. Tôi bước đến chuồng và thận trọng đặt nó xuống sàn. Nó chạy vụt đến bên mẹ nó. Lí do duy nhất khiến những con chuột khoang này không gây nguy hiểm – nghĩa là không gây đổ máu bằng răng và móng của chúng – là chúng thực sự đã đựơc thuần hóa. Nếu không, túm một con chuột khoang hoang dã bằng đôi bàn tay trần sẽ giống như túm một con dao đằng lưỡi.
Bài học kết thúc. Ravi và tôi nín lặng và né tránh cha suốt một tuần. Mẹ cũng lờ cha đi. Khi tôi đi qua chỗ bọn tê giác, tôi tưởng tượng rằng chúng đang cúi đầu buồn bã vì đã mất một trong số những bạn bè thân thiết của chúng.
Nhưng biết làm sao được khi ta yêu quý cha? Cuộc sống cứ tiếp tục và ta đừng có mà chạm đến hổ. Chỉ trừ có chuyện là tôi đã trót đổ tội vu vơ cho anh Ravi sáng hôm đó và bây giờ thì coi như đã hết rồi. Trong nhiều năm sau, khi Ravi muốn khủng bố tôi, anh sẽ rít lên khe khẽ vào tận tai tôi, “Hãy cứ đợi cho đến khi chỉ còn mày với tao. Mày sẽ là con dê tiếp theo đấy!”
------------
Chú thích
(1): Đồi Sọ, nguyên văn Gethsemane, (theo bản dịch Tân Ước của Phan Khôi) là tên quả đồi nơi Jesus ẩn trốn và cầu nguyện trước khi bị quân La Mã bắt.
(2): Chữ Latinh, nghĩa là con vật mang hình người.

Chương 9

Cốt lõi của nghệ thuật và khoa học coi sóc vườn thú là làm sao cho động vật quen với sự có mặt của người. Mục đích chính là rút ngắn khoảng cách bỏ chạy của con vật, cái cự li tối thiểu mà nó dám để cho đối tượng có thể là kẻ thù đến gần. Một con hồng hạc ngoài hoang dã sẽ không để ý đến ta nếu ta ở cách xa nó ba trăm mét. Vượt quá giới hạn đó là nó sẽ căng thẳng ngay. Lại gần nó một chút là nó sẽ bay khỏi chỗ đó cho đến khi khoảng cách ba trăm mét kia lại được lặp lại hoặc bay thẳng cho đến lúc kiệt sức. Mỗi loài vật có khoảng cách bỏ chạy khác nhau và chúng ước lượng khoảng cách đó theo các cách khác nhau. Hổ báo thì nhìn, hươu nai thì nghe, gấu ngửi. Hươu cao cổ sẽ cho phép ta đến gần chúng khoảng ba mươi mét nếu ta đi bằng ôtô, nhưng nếu ta đi bộ thì khoảng một trăm năm mươi mét là chúng bắt đầu bỏ chạy. Những con cua một càng chỉ để ta đến gần chúng khoảng mười mét; khỉ bạc má sẽ nháo nhác trên cành khi có ai đó ở cách chúng hai mươi mét; loài trâu nước Châu Phi phản ứng ở cự li bảy mươi mét.
Phương tiện để ta rút ngắn khoảng cách bỏ chạy là những hiểu biết của ta về con vật, là thức ăn và nơi ẩn nấp mà ta cho nó, và những biện pháp bảo vệ khác mà ta có thể áp dụng. Khi thành công, kết quả là ta có một con vật hoang yên tâm và thoải mái không những sẽ ở yên mà còn khoẻ mạnh, sống lâu, ăn uống ngoan ngoãn, hành xử và giao đãi một cách tự nhiên và hay nhất nữa là bắt đầu sinh con đẻ cái. Tôi không dám so sánh vườn thú của chúng tôi với vườn thú ở San Diego hoặc Toronto hoặc Berlin hay Singapore nhưng cũng không thể không tự hào về một vườn thú như thế. Cha tôi đã vào nghề một cách tự nhiên, như thể ông sinh ra để làm việc đó. Thiếu đào tạo chính quy, nhưng bù lại, cha có năng khiếu bẩm sinh và mắt nhìn sắc sảo. Cha có tài chỉ cần nhìn một con vật là có thể đoán được nó đang nghĩ gì. Cha chăm sóc chúng tận tình, và đáp lại, chúng sinh con đẻ cái, có con hơi nhiều quá là đằng khác.

Chương 10

Ấy thế mà vẫn có những con vật tìm đường tẩu thoát. Những con bị nhốt trong các chuồng trại không thích hợp với chúng là những ví dụ rõ hơn cả. Con vật nào cũng có những nhu cầu ăn ở phải được đáp ứng đúng. Nếu chuồng nuôi quá nắng hoặc quá ẩm ướt hoặc quá trống trải, nếu cành đậu quá cao hoặc quá lộ liễu, nếu nền sàn quá nhiều cát, nếu quá ít cành để có thể làm tổ, nếu máng ăn quá thấp, nếu có quá ít bùn để đầm mình – và còn biết bao nhiêu những cái nếu như thế nữa – con vật sẽ không ở yên được. Vấn đề không phải là xây dựng một bản sao cho tất cả các điều kiện tự nhiên ngoài hoang dã, mà là có được cái cốt lõi của điều kiện đó. Mọi thứ trong một khu chuồng phải vừa vặn mà thôi, nghĩa là trong vòng khả năng có thể thích ứng được của con vật. Khốn nạn cho những vườn thú nào mà chuồng trại không tốt! Chúng gây biết bao tai tiếng cho nghề này rồi.
Những con thú hoang bị bắt lúc đã trưởng thành là một ví dụ khác của các con thú có tâm lí bỏ trốn; thường thì chúng đã quá quen với những nếp riêng trong cuộc sống hoang và không còn khả năng thích ứng với môi trường mới.
Nhưng ngay cả các con vật sinh ra và lớn lên trong vườn thú, chưa bao giờ biết thế giới hoang dã, thích nghi hoàn toàn với chuồng trại của mình và không hề căng thẳng với sự có mặt của người, cũng sẽ có những giây phút phấn khích thúc giục chúng tìm cách đào thoát. Hết thảy các loài sống đều mang trong mình một phần tâm lí điên rồ khiến chúng hành xử lạ lùng và đôi khi không thể giải thích nổi. Nhưng cái phần điên rồ này cũng là cứu cánh; nó cũng chính là một phần không thể thiếu của khả năng thích ứng. Không có nó, chắng có giống loài nào có thể sinh tồn.
Cho dù lí do muốn trốn là gì đi nữa, điên hay là không điên, những ai vốn chê bai vườn thú nên hiểu rằng thú vật không bỏ chạy đến một nơi nào đó, mà chỉ bỏ chạy khỏi cái gì đó.
Có cái gì đấy trong lãnh thổ của chúng đã khiến chúng hoảng sợ - sự đột nhập của kẻ thù, sự tấn công của một con thú đầu đàn, một tiếng động lạ - và gây nên phản ứng trốn chạy. Con vật chạy trốn, hoặc cố chạy trốn. Tôi đã kinh ngạc đọc thấy ở vườn thú Toronto - một vườn thú rất tốt, phải nói ngay thế - những con báo hoa có thể nhảy dựng lên cao tới sáu thước.
Chuồng báo hoa của chúng tôi ở Pondicherry có tường ngăn phía sau cao hơn năm thước; tôi đồ rằng Rosie và Copycat đã không nhảy qua tường không phải vì chúng không thể mà vì chúng không muốn mà thôi. Thú vật bỏ trốn từ chỗ quen thuộc ra chỗ lạ - và nếu có một thứ mà loài vật ghét nhất, thì đó là cái lạ lẫm. Những con thú bỏ trốn thường ẩn náu ngay ở chỗ đầu tiên mà nó cảm thấy an toàn, và chúng chỉ nguy hiểm đối với những ai tình cờ xen vào giữa chúng và nơi chúng nghĩ là an toàn đó.

Chương 11

Hãy xem trường hợp con báo đen cái đã trốn khỏi vườn thú Zurich hồi mùa đông 1933. Nó là con báo mới ở vườn và dường như đã quấn quýt với con báo đực ở đó. Nhưng các vết thương do bị cào cấu đã cho thấy có sự bất hoà trong gia đình. Trước khi người ta quyết định nên phải làm gì thì con báo đã chui lọt qua một kẽ hở trên trần rào và biến mất trong đêm. Dân chúng Zurich hoảng hốt khi nghe tin một con thú dữ đang lẩn quất trong thành phố. Người ta đặt bẫy, thả chó săn. Và chỉ bắt được vài chú chó lạc. Con báo biệt tăm trong mười tuần lễ liền. Cuối cùng, một người lao công tình cờ bắt gặp nó trong một nhà chứa thóc cách thành phố hai mươi lăm dặm và dùng súng bắn chết nó. Người ta thấy xương xẩu của con hươu sao gần chỗ con báo nấp. Hiện tượng một con báo đen nhiệt đới như vậy có thể sống sót trong hơn hai tháng trời giữa mùa băng tuyết Thụy Sỹ mà không ai nhìn thấy, chứ đừng nói đến chuyện nó tấn công ai, đã cho thấy rõ ràng một sự thật là thú vật trốn khỏi các vườn thú không phải là các con vật nguy hiểm có đầu óc tội phạm mà chỉ đơn giản là những sinh linh hoang dã muốn tìm kiếm một nơi thích ứng mà thôi.
Đó chỉ là một trong muôn vàn vụ việc tương tự. Nếu ta dốc ngược thành phố Tokyo và lắc nó như đổ rác, ta sẽ phải kinh ngạc vì số lượng các thú vật sẽ rơi ra. Nó sẽ dốc ra không phải chỉ có chó với mèo đâu, tôi cam đoan thế. Trăn, rồng Komodo, cá sấu, cá răng hổ, đà điểu, chó sói, cáo, gấu cây, nhím, khỉ độc, lợn lòi… sẽ rơi như mưa xuống đầu ta. Thế mà họ lại mong tìm thấy. Ha! Giữa rừng rậm nhiệt đới Mexico, thử tưởng tượng xem! Ôi chao! Ha! Ha! Buồn cười thật! Buồn cười quá! Họ nghĩ gì cơ chứ?

Chương 12

Đôi khi anh đột nhiên phấn khích. Không phải vì tôi đã nói gì (tôi nói rất ít).
Chính câu chuyện của anh khiến anh phấn khích như vậy. Kí ức là một đại dương và anh bập bềnh trên mặt nước. Tôi lo có thể anh sẽ không muốn kể nữa. Nhưng anh muốn tôi nghe hết câu chuyện của anh. Anh tiếp tục. Sau bao nhiêu năm rồi, Richard Parker vẫn còn ám ảnh tâm trí anh.
Anh là người ngọt ngào. Lần nào tôi đến, anh cũng sửa soạn một bữa tiệc chay kiểu miền Nam. Tôi bảo anh tôi thích các món ăn cay. Không hiểu tại sao tôi lại nói một câu ngu ngốc đến thế. Mà đó thật sự là một câu nói dối. Tôi phải thêm sữa chua hết muỗng này đến muỗn khác, mà chẳng hết cay. Lần nào cũng vậy: dịch vị tôi khô kiệt, da lựng lên như củ cải đỏ, nước mắt tôi giàn giụa, đầu quay như thể một con trăn vừa nuốt chửng phải một cái máy cắt cỏ.

Chương 13

Ta thấy đấy, nếu ta ngã vào một chuồng nhốt sư tử, cái lí do để một con sư tử sẽ xé xác ta không phải là vì nó đói - vườn thú luôn cho chúng ăn thừa mứa - cũng không phải vì nó là đồ khát máu, mà chỉ vì ta đã xâm phạm lãnh thổ của nó.
Cũng chính vì thế mà người dạy thú trong rạp xiếc luôn luôn phải vào trong vòng diễn trước, và phải để cho bầy sư tử nhìn thấy hẳn hoi. Làm như vậy, anh ta khẳng định rằng cái vòng diễn ấy là lãnh thổ của anh ta, không phải của chúng, một sự khẳng định được củng cố liên tục bằng những tiếng quát tháo, dậm chân, và quất roi đen đét. Bọn sư tử bị ấn tượng mạnh. Thế yếu đè nặng lên chúng. Cứ để ý mà xem, khi chúng vào vòng diễn, đường đường là “vua của muôn loài”, sức dài vai rộng là thế, mà len lét cụp đuôi bò vào vòng diễn mà cứ dúi vào mép vòng, không nơi ẩn náu. Chúng đang phải trình diện trước một con đực đầy thế áp đảo, một con đực siêu quần, và chúng phải phục tòng những nghi thức của con đực ấy. Thế là chúng há miệng cho to, ngồi cho thẳng, nhảy cho lọt vào các vòng tròn phất giấy, bò cho qua những ống, đi giật lùi cho khéo, lăn dưới sàn cho giỏi. “Thật là một tay kỳ lạ”, chúng lờ mờ suy nghĩ. “Chưa thấy một sư tử đầu đàn nào như tay này. Nhưng hắn thật kỳ vĩ. Túi thức ăn bao giờ cũng đầy và - cứ nói thật đi các cậu - các trò tinh quái của hắn cũng khiến chúng ta bận rộn đấy chứ. Chí ít thì chúng ta cũng không phải đi xe đạp như bọn gấu dở hơi hoặc đón bắt những cái đĩa bay như bọn khỉ độc”.
Chỉ có điều người dạy hổ lúc nào cũng phải duy trì địa vị độc tôn của mình. Giá phải trả sẽ rất đắt nếu anh ta vô tình để mình tụt xuống hàng thứ hai. Nhiều hành vi thù địch và hung dữ của thú vật chỉ là biểu hiện của tâm lý xã hội không an toàn. Con thú trước mặt ta phải biết rõ nó đứng ở đâu, bên trên hay bên dưới ta.
Địa vị xã hội là trung tâm điều khiển cuộc sống của nó. Chỗ đứng quyết định nó có thể giao tiếp với ai và như thế nào, lúc nào và chỗ nào có thể uống nước, vân vân và vân vân. Khi nó chưa biết rõ địa vị xã hội của mình, con thú sống một cuộc đời vô chính phủ không thể chịu nổi. Nó lo lắng, sợ sệt, cáu bẳn và nguy hiểm. Hay cho người dạy thú ở một điểm là đối với các loài thú bậc cao, địa vị xã hội không phải lúc nào cũng được xác định bởi sức mạnh hung dữ của chúng. Tác giả Hegiger (1950) viết, “Khi hai con thú gặp nhau, con nào có thể đe dọa được đối thủ sẽ được công nhận có địa vị cao hơn, và điều này không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào một cuộc đánh nhau; có nhiều khi chỉ cần một cuộc đối mặt là đủ”. Thật là những lời của người nghiên cứu thú vật, thông thái. Ông Hediger làm giám đốc vườn thú trong nhiều năm, đầu tiên là vườn thú Basel rồi sau đó là vườn thú Zurich. Ông là một người thông thạo lối sống của thú vật.
Đó là vấn đề đầu óc cao hơn bắp thịt. Bản chất ưu thế của người dạy thú là ở tâm lý. Khung cảnh lạ lẫm, dáng dấp thẳng thắn của anh ta, thái độ bình thản, cái nhìn thẳng thắn và tập trung, những bước chân quả quyết, những tiếng thét kỳ lạ (ví dụ tiếng roi quất và tiếng còi thổi) – đó là những yếu tố ào ạt tác động vào tâm lý con thú khiến cho nó phải nghi ngại, sợ hãi, khiến cho nó thấy rõ nó đứng ở đâu, là điều mà nó khao khát muốn biết nhất. Biết thế rồi, số Hai sẽ lùi bước và số Một sẽ quay ra phía khán giả và lên tiếng, “Chúng tôi xin bắt đầu buổi diễn! Và bây giờ, thưa quý ông quý bà, qua những vòng lửa thật kia…”

Chương 14

Một điều thú vị là con sư tử dễ bảo nhất trong vòng diễn là con có địa vị xã hội thấp nhất trong bầy, là con hạng bét, xếp vào hàng cuối, omega (1). Chỉ có nó là được lợi nhiều nhất trong việc cúc cung thân thiện với người dạy thống soái. Không phải chỉ những phần thưởng thêm nếm. Một quan hệ thân cận còn mang lại cho nó sự bênh vực chống lại các thành viên khác trong bầy. Chính cái con thú thứ bét ngoan ngoãn này, trong mắt công chúng, cũng to lớn và hung dữ như các con khác trong bầy, sẽ là ngôi sao của buổi diễn, trong khi người dạy thú để mặc các con thú thứ nhì và thứ ba trong bầy ngồi chầu rìa xung quanh.
Điều đó cũng đúng với tất cả các loài thú làm xiếc và cũng đúng với tình trạng trong các vườn thú. Những con thú thấp hèn nhất về mặt xã hội là những con cố gắng chịu khó nhất để làm thân với những người coi sóc nó. Chúng đã chứng tỏ là những con thú trung thành nhất, cần đến họ nhất, ít thách thức nhất và ít lằng nhằng nhất. Hiện tượng này đã được người ta ghi nhận đối với những loài hổ báo, bò rừng, hươu, cừu hoang, khỉ vượn và nhiều loài khác nữa. Đó là một thực tế ai cũng biết trong nghề vườn thú.
-------------
Chú thích:
(1) Omega (Ω) - chữ cái thứ 24 và là cuối cùng trong bảng chữ cái Hy Lạp; cũng có nghĩa là “kết thúc”, “cuối cùng”. Alpha - (α) - là chữ cái đầu tiên và hay được dùng với nghĩa “khởi đầu”, “đứng đầu”. (ND)

Chương 15

Nhà anh là một ngôi đền. Trong lối vào nhà treo một bức hình Ganesha, người đàn ông đầu voi đóng khung. Ồng thần ngồi ngoảnh mặt ra, màu sắc hồng hào, bụng phệ, đội mũ miện và mỉm cười, ba bàn tay cầm các vật khác nhau, bàn tay thứ tư mở lòng ra trong dáng điệu ban phước và chào mừng. Ông là vị thần khắc phục các trở ngại, mang lại may mắn, trí tuệ, và coi sóc việc học hành. Thân thiện và dễ gần vào bậc nhất. Ông thần khiến tôi mỉm cười. Một con chuột ngồi chầu dưới chân ông. Cái xe của ông đấy. Vì khi thần Ganesha đi đâu, ông cưỡi chuột. Trên bức tường đối diện với bức hình này có treo một cây thánh giá bằng gỗ giản dị.
Trong phòng khách, trên bàn cạnh cái sôpha, có một khung nhỏ lồng ảnh Đức mẹ Đồng trinh Mary vùng Guadalupe, hoa lá tràn ra từ tà áo mở của người. Bên cạnh là một khung khác lồng ảnh thánh Kaaba choàng áo chùng đen, trang phục thiêng liêng nhất của đạo Hồi, với hàng ngàn tín đồ vây quanh như những vòng nước xoáy. Trên mặt cái tivi là một bức tượng đồng vàng thần Shiva trong hóa thân của Nataraja, chúa tể của các vũ điệu, người điều khiển mọi dịch chuyển của vũ trụ và dòng chảy của thời gian. Vị thần đang nhảy múa trên lưng con quỷ ngu dốt, bốn cánh tay đưa ra theo tư thế múa, một bàn chân trên lưng con quỷ, chân kia giơ lên trong không trung. Người ta nói khi Nataraja đặt cái chân ấy xuống, thời gian sẽ ngừng trôi.
Trong bếp có một cái miếu đặt bên trong một cái chạn. Cửa của cái chạn này đã được thay bằng một cái khung vòm chạm trổ. Cái khung vòm có dấu một bóng đèn vàng cứ đến tối thì thắp lên để soi sáng cái miếu. Hai bức hình ở đằng sau một cái ban thờ nhỏ: một bên lại là Ganesha, còn ở giữa, trong cái khung lớn hơn, là hình thần Krishma, mỉm cười, da mầu xanh trời, đang thổi sáo. Cải hai bức hình đều có những vệt bột màu đỏ và vàng bôi trên mặt kính, chỗ trán của hai vị thần. Trong cái đĩa đồng nhỏ trên ban thờ là ba hình tượng bằng bạc nhỏ xíu. Anh lấy ngón tay chỉ cho tôi biết mỗi hình tượng này là đại diện cho ai: thần Lakshmi này, Shakti, nữ thần sinh ra các thần, trong hoá thân của Parvati; và Krisma, lần này trong hóa thân của một đứa bé nghịch ngợm đang bò lổm ngổm. Lẫn trong các vị thần ấy là một hình tượng dương vật Shiva bằng đá, trông như nửa trái vú sữa với một mầm dương vật lồi lên ở chính giữa, biểu tượng Hindu của sức sống đực cái trong vũ trụ. Cạnh cái đĩa, phía bên này là một vỏ ốc gắn trên một cái đế, phía bên kia là một cái chuông lắc tay nhỏ bằng bạc. Rơi vãi xung quanh đầy những hạt gạo, và một đóa hoa vừa bắt đầu tàn. Những đồ vật này phần lớn được xức dầu thơm và có các dầu chấm màu vàng và đỏ.
Trên cái đợt ở phía dưới là nhiều đồ cúng khác nhau: một bình thủy đầy nước, một cái thìa đồng đỏ, cái đèn có bấc cuộn ngâm trong dầu, các bó nhang, và những cái bát nhỏ đựng đầy bột đỏ, bột vàng, gạo và đường cục.
Có một Đức Mẹ Đồng trinh Mary nữa trong phòng ăn.
Trên gác, trong phòng làm việc, có một Ganesha nữa bằng đồng vàng ngồi xếp bằng cạnh máy vi tính, một đấng Christ trên thập tự giá bằng gỗ từ Brazil mang về treo trên tường, và một cái thảm để ngồi cầu nguyện màu xanh lá cây ở góc phòng. Đấng Christ trông rất sinh động. Người đang chịu đau khổ. Cái thảm cầu nguyện nằm ở chỗ của nó rất rõ ràng riêng biệt. Bên cạnh nó, trên một giá sách thấp, là một cuốn sách có phủ vải. Chính giữa tấm vải ấy là một từ Arập duy nhất, thêu rất tinh tế, gồm bốn chữ: một chữ aliph, hai chữ lams và một chữ ha. Đó là từ Thượng Đế trong ngôn ngữ Arập.
Cuốn sách trên cái bàn cạnh giường là một cuốn Thánh kinh Cơ đốc.

Chương 16

Tất cả chúng ta sinh ra đều là những người Thiên Chúa giáo cả, có phải không nhỉ? Nghĩa là đều còn trong cõi mờ mịt không tín ngưỡng, cho tới khi một nhân vật nào đó dẫn dắt chúng ta đến với Thượng đế. Sau cuộc gặp gỡ đó, phần lớn chúng ta không còn thắc mắc về Thượng đế nữa. Nếu có thay đổi, thì thường xảy ra với những người ít thắc mắc về chuyện đó mà thôi. Cuốn theo dòng đời, càng ít nghĩ càng dễ quên mất Thượng đế. Nhưng tôi không rơi vào trường hợp này. Nhân vật đưa tôi đến với thượng đế lần đầu tiên trong đời là người chị em của mẹ tôi, người đã mang tôi đến một ngôi đền khi tôi còn bé tí. Bác Rohini rất sung sướng được gặp gỡ đứa cháu mới ra đời và bác nghĩ rằng Đức Thánh mẫu cũng phải đựơc chia sẻ nỗi sung sướng ấy. “Sẽ là chuyến du hành tượng trưng đầu tiên của nó”, bác nói. Quả thật vậy! Chúng tôi lúc ấy đang ở vùng Madurai. Chuyến xe lửa kéo dài bảy tiếng đồng hồ đầu tiên trong đời tôi. Có xá gì. Đó là nghi lễ vào đời theo tín ngưỡng Hinđu của tôi. Mẹ bế tôi trên tay. Bác Rohini dìu mẹ đi. Kí ức tôi không thể ghi nhớ rõ chuyến đi vòng quanh trong ngôi đền đó, nhưng một chút hương nhang, một vài tia sáng và bóng tối, một vài ánh lửa, những vệt màu vụt lóe lên, một cái gì đó thâm trầm và bí ẩn của ngôi đền chắc đã đọng lại trong tôi. Một hạt giống của niềm hoan lạc tín ngưỡng, chưa bằng một hạt cải, đã được gieo vào và nẩy mầm trong tôi. Nó đã không ngừng lớn lên từ ngày ấy.
Tôi là một tín đồ Hinđu bởi những thỏi nhang hình côn nặn bằng bột kumkum màu đỏ và những giỏ trầm vàng, bởi những vòng hoa kết và những mẩu cùi dừa, bởi tiếng chuông ngân dài dọn bước chân người đến với Thượng đế, bởi những âm thanh khắc khoải của cây sáo sậy nadaswaram và tiếng trống đổ dồn, bởi tiếng chân trần bước trên sàn đá những hành lang tối có những tia sáng mặt trời xuyên nghiêng huyền ảo, bởi hương thơm của nhang, bởi lưỡi lửa của các cây đèn arati chập chờn trong bóng tối, bởi những khúc ca bhajan cất lên ngọt ngào làm vậy, bởi bầy voi đứng chầu quanh đền đợi ban phước lành, bởi những bức tranh tường kể bao câu chuyện lung linh, bởi những vầng trán mang trên chúng những ký hiệu khác nhau của chỉ một từ - niềm tin. Tôi trở nên trung thành với những ấn tượng cảm xúc đó trước cả khi hiểu lí do và ý nghĩa của chúng. Chính là cõi lòng tôi đã xui khiến tôi như thế. Tôi cảm thấy như ở tại nhà mình trong một ngôi đền Hinđu. Tôi ý thức được sự hiện diện, không phải như khi ta cảm thấy có ai bên cạnh, mà một cái gì đó lớn lao hơn nhiều. Cho đến nay, tim tôi vẫn thót lại mỗi khi tôi bắt gặp dấu hiệu hiện diện của Thượng đế trong nội cung thiêng liêng của một ngôi đền. Sự thực là tôi đang ở trong bào thai của vũ trụ linh diệu, nơi sinh ra muôn vật, và đang ân hưởng cái may mắn được ngắm nhìn bản thể sinh động của chúng. Hai tay tôi tự nhiên tìm đến nhau trong tư thế nguyện cầu thành tín. Tôi khao khát lộc thánh prasad, món cúng dường ngọt ngào lên Thượng đế và được hóa lộc cho chúng ta như một món ân hưởng thánh thiện. Lòng bàn tay tôi cần được cảm thấy sức nóng của ngọn lửa thiêng liêng, ân sủng của nó tôi xin đem lên cặp mắt và vầng trán của mình.
Nhưng tôn giáo lớn lao hơn nhiều các nghi lễ đó. Nó là cái mà nghi lễ muốn biểu đạt. Trong chuyện này tôi cũng là một người Hinđu. Vũ trụ có nghĩa lí trong cách nhìn Hinđu của tôi. Có Brahman, linh hồn của thế giới, cái khung muôn đời trên đó giải lụa sinh tồn được dệt nên muôn hình vạn trạng, với tất cả những điểm trang không gian và thời gian của nó. Rồi có Brahman nirguna, vô tính chất, nằm ngoài tầm biết, không thể mô tả, không thể với tới; với những con chữ nghèo nàn chúng ta đành chỉ biết khâu một bộ quần áo cho nó gọi là Thái cực, là Chân lý, là Cõi một, là Ý niệm tuyệt đối, là Thực tế cuối cùng… Và cố mặc vừa cho nó, nhưng Brahman nirgura luôn luôn làm bục chỉ những bộ quần áo đó của chúng ta. Chúng ta chẳng biết nói gì nữa. Nhưng rồi lại còn có Brahman saguna, có tính chất, và mặc vừa bộ quần áo. Thế là chúng ta gọi là Shiva, Krishna, Shaki, Ganesha; ta có thể tiếp cận nó với chút hiểu biết; ta có thể phân biệt những thuộc tính của nó – yêu thương, xót xa, sợ hãi – và ta cảm thấy được sức hút dịu dàng của quan hệ. Brahman saguna là Brahman được hiển hiện ra cho những giác quan hạn hẹp của ta, là Brahman đựơc biểu hiện không phải qua thần linh mà là qua người, thú vật, cây cỏ, thậm chí qua cả một dúm đất, vì bất kỳ cái gì cũng có một vệt thánh ở trong nó. Sự thực là Brahman chẳng khác gì Atman, cái sức mạnh tinh thần bên trong ta, cái mà ta có thể gọi là linh hồn. Linh hồn cá thể chạm tới linh hồn thế giới cũng như một cái giếng thông mạch với tầng nước ngầm của nó. Cái có thể duy trì vũ trụ bên ngoài ý nghĩ và lời nói, và cái nằm bên trong cốt lõi của chúng ta và luôn gắng gỏi để tự biểu hiện, chỉ là một mà thôi. Cái nhất định bên trong cái vô cùng, cái vô cùng bên trong cái nhất định. Nếu hỏi ta Brahman và Atman quan hệ với nhau chính xác là như thế nào, ta sẽ nói rằng cũng như cách mà ngôi Cha, Con và Thánh thần quan hệ với nhau, nghĩa là một cách thần bí. Những có một điều rõ rệt: Atman tìm cách để thực hiện Brahman, để được nhập một với cái Tuyệt đối, và nó du hành trong đời sống như một cuộc hành hương trong đó nó sinh ra rồi chết đi, lại sinh ra rồi chết đi nữa, cứ như thế, như thế mãi, cho đến khi nó trút bỏ được các các lớp vỏ bọc đã cầm tù nó. Con đường đi đến giải phóng của mỗi chúng ta được giàu thêm hoặc nghèo đi bằng chính những hành động của chúng ta.
Đó, một cách ngắn gọn, là tư tưởng Hinđu, và tôi đã là một người Hinđu suốt cả cuộc đời. Với những ý niệm xác tín Hinđu tôi nhận biết được chỗ của mình trong vũ trụ.
Nhưng chúng ta chẳng nên bám chặt lấy bất cứ một thứ gì! Khốn nạn thay cho những kẻ cực đoan và những ai kệ kinh nhãng nghĩa!
Tôi chợt nhớ đến một câu chuyện về thần Krishna khi ngài còn là một chàng trai chăn bò. Đêm nào chàng cũng mời các cô gái đến nhảy múa với mình ở trong rừng. Họ đến và họ nhảy múa. Đêm tối, ngọn lửa ở giữa họ bùng lên dữ dội, nhạc đệm ngày một nhanh – các cô gái múa và múa và múa với vị chúa tể ngọt ngào của họ, người đã phân thân không mệt mỏi để có thể nằm trong vòng tay tất cả các cô gái. Nhưng khi các cô bắt đầu trở nên ghen tuông, khi mà ai cũng tưởng rằng Krishna là bạn nhảy chỉ của riêng mình, chàng liền biến đi. Cho nên ta không nên đem lòng ghen tị với Thượng đế.
Tôi có quen một người đàn bà ở Toronto này, rất thân thiết với tôi. Bà là mẹ nuôi của tôi. Tôi gọi bà là Auntieji (1) và bà thích thế. Bà là người vùng Quebec. Mặc dù đã sống ở Toronto hơn ba mươi năm, tâm trí nói tiếng Pháp của bà thỉnh thoảng vẫn xen vào cách bà nghe và nhận biết các âm thanh tiếng Anh. Cho nên, khi lần đầu nghe cái danh hiệu Hare Krishnas, bà nghe không ra. Bà nghe thành “Hairless Christians”, và cứ đinh ninh như thế trong nhiều năm (2). Khi tôi cải chính điều đó, tôi nói với bà rằng thực ra bà cũng chẳng nhầm lẫn gì nhiều; rằng những người Hinđu, với khả năng yêu thương của họ, thực tế cũng là những người Cơ đốc giáo không có lông thật, cũng như những người Hồi giáo trong cái cách họ thấy Thượng đế trong mọi vật, chỉ là những người Hinđu có râu rậm, còn những người Cơ đốc giáo, trong tinh thần hiến dâng mình cho Thượng đế của họ thì cũng là những người Hồi giáo có thói quen đội mũ mà thôi.
-----------
Ghi chú:
(1) Auntieji: nghĩa là cô/ bác thân yêu
(2) Hare Krishna: một giáo phái dựa trên kinh Vệ Đà ở Mỹ năm 1966. Tín đồ giáo phái này có tập quán ca ngợi thần Krishna. Bà cụ nghe thành Hairless Chirstian, nghĩa là người Cơ đốc giáo không có lông. Đoạn văn này giới thiệu quan điểm tôn giáo rất tự do của Pi Patel, chuẩn bị cho các câu chuyện tiếp theo.

Chương 17

Điều kỳ diệu đầu tiên khắc vào lòng ta sâu sắc nhất: những điều kỳ diệu đến sau chỉ vừa khít vào cái ấn tượng của buổi ban đầu. Chính do những tín ngưỡng Hinđu mà tôi có được bức phong cảnh nguyên bản của trí tưởng tượng tôn giáo của mình, với những thành phố, sông suối, những bãi chiến trường, rừng rú, những ngọn núi thiêng và biển sâu nơi thánh thần, đạo tặc và người thường chen vai thích cánh nhau, và nhờ thế mà định ra được chúng ta là ai và tại sao chúng ta lại tồn tại. Chính trên mảnh đất Hinđu ấy là lần đầu tiên trong đời tôi đã nghe được về sức mạnh vô biên của lòng nhân từ. Chính là thần Krishna đã nói về điều đó. Tôi nghe thấy, và đi theo ngài, thần Krishna đã đưa tôi đến với một người.
Khi tôi mười bốn tuổi - một tín đồ Hinđu đang thực sự hạnh phúc trong niềm tin của mình - thì vào một ngày lễ nọ, tôi gặp Jesus Christ.
Không phải thường xuyên cha có ngày nghỉ lễ rời vườn thú đi chơi đây đó, nhưng một lần như thế, cả nhà đi Munnar, ngay trên mạn Kerala. Munnar là một trại đồi nhỏ nằm giữa một số đồn điền trồng chè cao nhất thế giới. Đó là vào đầu tháng Năm, chưa vào mùa mưa. Bình nguyên Tamil Nadu nóng nực dễ sợ. Chúng tôi lên tới Munnar sau năm giờ lái xe trên con đường lên núi ngoằn ngèo. Khí lạnh trên cao dễ chịu như thể ta có bạc hà trong miệng.
Chúng tôi làm những thứ mà người đi du lịch vẫn làm. Đi thăm nhà máy chè Tata. Đi thuyền trên hồ. Xem một trung tâm lai giống gia súc. Chúng tôi cho những con Nilgiri tahrs - một loài dê hoang - ăn muối trong khu vườn quốc gia. (Cha nói với mấy người du lịch Thụy Sỹ ở đó: “Chúng tôi cũng có mấy con này ở vườn thú của chúng tôi. Quý vị nên đến chơi Pondicerry”). Ravi với tôi đi loanh quanh trong các trại chè gần thị trấn, tất cả chỉ là cái cớ để giữ cho chúng tôi khỏi uể oải trì trệ mà thôi. Về chiều, cha với mẹ cũng yên vị trong phòng trà của khách sạn đầy đủ tiện nghi như hai con mèo phơi nắng bên cửa sổ. Mẹ đọc sách trong khi cha tán gẫu với khách cùng ở trọ tại đó.
Có ba quả đồi ở Munnar. Chúng không thể sánh với những quả đồi cao - có thể gọi là núi được - ở xung quanh thị trấn, nhưng ngay buổi sáng đầu tiên khi đang ăn điểm tâm, tôi đã để ý thấy chúng đều có một điểm nổi bật là mỗi quả đồi có một ngôi nhà cho Thượng đế. Quả đồi phía bên phải, ngay bên kia sông, có một đền thờ Hinđu bên sườn dốc; quả đồi ở giữa xa hơn một chút, thì có một đền thờ Hồi giáo; còn quả đồi phía bên trái thì trên đỉnh là một nhà thờ Cơ đốc.
Ngày thứ tư ở Munnar, khi đã về chiều, tôi đứng trên quả đồi phía bên trái đó. Mặc dù đã có học qua một trường mang danh Cơ đốc giáo, tôi chưa bao giờ vào đến bên trong của một nhà thờ - và lúc đó tôi định sẽ phải liều làm cái việc ấy. Tôi biết rất ít về đạo Cơ đốc. Nó nổi tiếng là có ít thánh thần và đầy rẫy bạo lực. Nhưng nó có nhiều trường học tốt. Tôi đi vòng quanh ngôi nhà thờ. Nó được xây dựng cốt bưng bít cho thật kỹ những gì nó chứa đựng bên trong. Những bức tường dày không có đặc điểm gì, mầu xanh da trời nhạt và rất cao. Những cửa sổ hẹp không thể nhìn qua được. Một pháo đài.
Tôi đến chỗ chái nhà ở của thầy cả. Cửa mở. Tôi nấp ở một góc và nhìn xem quang cảnh ra sao. Bên trái cánh cửa là một cái bảng nhỏ có dòng chữ Thầy cả Xứ đạo và Giúp việc Thầy cả. Bên cạnh mỗi cái tên ấy là một cái hộp nhỏ có cửa trượt. Cả hai thầy đều đang có mặt trong nhà thờ. Cửa trượt trên hai cái hộp đều đang ở về một phía, để lộ chữ “Có nhà” kẻ bằng sơn vàng. Một thầy đang làm việc ở văn phòng của mình, lưng quay ra phía cửa có bệ ngồi chơi, còn thầy kia ngồi trên một cái ghế dài cạnh một cái bàn tròn kê trong quãng lối đi từ ngoài vào gian trong, rõ ràng là nơi để tiếp khách. Ông ta ngồi ngoảnh mặt ra phía cửa ra vào và cửa sổ, tay cầm một cuốn sách, chắc là cuốn Thánh kinh. Ông đọc một lúc, ngẩng lên, lại đọc một lúc nữa, rồi lại ngẩng lên, dáng điệu vừa nhàn tản vừa tỉnh táo và tự tin. Mấy phút sau, ông gập cuốn sách lại và đặt sang bên. Ông để hai bàn tay vào nhau lên mặt bàn và ngồi đó, vẻ mặt bình thản, không chờ đợi và cũng không thoái lui.
Lối vào ấy sạch, những bức tường trắng; cái bàn và những chiếc ghế dài bằng gỗ sẫm màu; còn vị tu sĩ ấy thì mặc tấm áo choàng trắng tinh - mọi thứ đều xâm chiếm tôi. Không phải chỉ vì cái quang cảnh ấy, mà vì một cảm thức tự nhiên rằng ông ở đó - rộng mở và bình tĩnh - sẵn sàng cho bất kì ai muốn đến nói chuyện với mình; một khúc mắc trong tâm hồn, một gánh nặng trong lòng; một vùng tăm tối trong lương tâm, ông sẽ lắng nghe bằng tình yêu thương, và ông sẽ cho ta niềm an ủi, dẫn dắt ta tận tình.
Tôi xúc động. Những gì trước mặt đã đi thẳng vào lòng tôi và khiến tôi rung động.
Ông đứng lên. Tôi tưởng ông sẽ gạt cái cửa dưới của mình sang phía khác, nhưng không phải. Ông lui vào phía trong, có vậy thôi, để ngỏ cánh cửa từ tiền sảnh vào căn phòng bên trong. Tôi vẫn nhớ rõ mình đã để ý đến điều ấy: cả hai cánh cửa, ngoài và trong, đều mở. Rõ ràng, ông và đồng sự của ông đều sẵn sàng ở đó.
Tôi ra khỏi chỗ nấp và đánh liều. Tôi bước vào nhà thờ. Bụng thót hết cả lại. Chỉ sợ sẽ có một người Cơ đốc ra chặn tôi lại và quát. “Mày làm gì ở đây? Sao mày dám vào nơi thánh thất, đồ dơ bẩn? Cút ra ngay!”
Nhưng không có ai cả. Và cũng chẳng có gì nhiều để phải tìm hiểu. Tôi bước tiếp và quan sát bên trong nhà thờ. Có một bức họa. Có phải tranh thờ của họ không nhỉ? Cái gì đó như là cảnh lấy người làm con sinh hiến tế. Một thượng đế phải được chiều lòng bằng máu. Những người đàn bà ngây dại ngẩng mặt lên trời và những đứa trẻ béo tốt có cánh bay lượn xung quanh. Một thứ chim thần. Ai là thượng đế ở trong đó? Một bên nội sảnh có một bức tượng bằng gỗ sơn. Lại một nạn nhân nữa, sưng vù và đẫm máu với những sắc màu táo bạo. Tôi dán mắt vào hai đầu gối của bức tượng. Trầy tróc kinh khủng. Lớp da màu hồng bị lột ra trông như những đài hoa, để lộ hai xương bánh chè đỏ rực như xe cứu hỏa. Khó có thể liên hệ cảnh tra tấn cực hình này với người thầy tu trong kia.
Hôm sau, cũng khoảng giờ ấy, tôi lại dấn mình: Vào.
Người Cơ đốc có tiếng là khắc nghiệt và có nhiều hình phạt nặng nề. Kinh nghiệm của tôi với Cha Martin lại hoàn toàn khác. Ông thực tốt bụng. Ông mời tôi trà và bánh quy với một bộ ấm chén cứ kêu lanh ca lanh canh mỗi khi đụng vào chúng; ông xử với tôi như người lớn; và ông kể cho tôi nghe một câu chuyện. Nhưng có lẽ, vì người Cơ đốc hay thích dùng chữ viết hoa, tôi phải nói rằng đó là một Câu Chuyện.
Chuyện ơi là chuyện! Điều đầu tiên hấp dẫn tôi là sự không thể tin được. Cái gì thế không biết? Loài người phạm tội nhưng chính con trai Thượng đế lại phải trả giá? Tôi cố hình dung cha Martin nói với tôi: “Này Piscine, một con sư tử lẻn vào chuồng lama hôm nay và giết chết mất hai con. Hôm qua, một con khác giết mất một con hươu đen. Tuần trước chính hai con này đã ăn thịt mất một con lạc đà. Tuần trước nữa thì chúng ăn bọn cò vạc vô tội vạ. Chắc chắn chúng cũng là thủ phạm đã làm đi tiêu con điêu thử lông vàng của chúng ta. Tình hình không thể chịu được nữa. Phải có biện pháp. Cha đã quyết định. Cách duy nhất để bọn sự tử có thể ăn năn chuộc tội của chúng là thế này: cha sẽ cho chúng ăn thịt con.”
“Vâng, thưa cha, đó là điều chính đáng và hợp logic cần phải làm. Xin cho con một phút để tắm rửa.”
“Hãy vui hưởng ân Chúa, hỡi con trai của ta!”
“Sáng danh chúa đời đời, Cha ơi!”
Chuyện lạ đời đến thế là cùng. Sao lại có thứ tâm lí như vậy được?
Tôi xin nghe một câu chuyện khác, may ra thỏa đáng hơn chăng. Chắc hẳn tôn giáo này cũng phải có hơn một câu chuyện trong bị - tôn giáo là nhiều chuyện để kể lắm. Nhưng cha Martin làm tôi phải hiểu rằng những câu chuyện có trước Câu Chuyện - mà chẳng thiếu gì thật - chỉ đơn thuần là dạo đầu mà thôi. Tín ngưỡng của người Cơ đốc chỉ có một Câu Chuyện, và họ trở lại với nó, chỉ với nó, mãi mãi. Với họ thế là đủ.
Tôi bần thần im lặng suốt đêm hôm đó ở khách sạn.
Việc một vị thần phải chịu đựng gian truân, tôi có thể hiểu đựơc. Các vị thần Hinđu đều phải đương đầu với trộm cắp, nạt nộ, bắt cóc, tiếm đoạt trong số phận của họ. Ramayana là gì nếu không phải chỉ là chuyện một ngày xui xẻo của thần Rama? Gian truân, đồng ý. Hoạn nạn, cũng được. Kể cả phản bội nữa. Nhưng nhục nhã? Chết? Tôi không thể tưởng tượng được thần Krishna chịu để bị lột trần truồng, quất bằng roi, giễu cợt, lôi xềnh xệch ngoài phố, và nhất nữa là bị đóng đanh câu rút - mà khổ nhất là tất cả những cái đó lại chỉ do bàn tay của bọn người trần mắt thịt. Tôi không nghe thấy có vị thần Hinđu nào chết. Brahman hiển lộ không có chịu chết. Quỷ sứ và quái vật thì phải chết, các loài khác cũng thế. Chết hàng nghìn hàng triệu - vì tất thẩy chúng sinh ra đời chỉ là để chết. Vật chất cũng thế, cũng tan biến đi. Nhưng thần linh không thể héo tàn mà mất dạng vì cái chết. Thế là sai. Linh hồn thế giới không thể chết, ngay cả khi nó ngụ trong một bình chứa hữu hạn. Điều sai lầm của đấng tối cao Cơ đốc giáo là để cho con ruột của chính Ngài phải chết. Bởi lẽ nếu ngôi Con mà phải chết, điều đó không thể làm giả được. Nếu Thượng đế trên thập tự giá là Thượng đế giả vờ chịu trận cho tấn bi kịch của loài người nó sẽ biến Tình yêu của đấng Christ thành Màn kịch hề của đấng Christ. Cái chết của ngôi Con phải thực. Cha Martin khẳng định với tôi rằng đúng như thế. Nhưng một khi đã là một Thượng đế để chết, thì mãi mãi sẽ là một Thượng đế chết, có phục sinh cũng vậy thôi. Ngôi Con phải ngậm cái miếng chết ấy mãi mãi trong miệng mình. Thánh Ba ngôi sẽ phải ô uế vì thế; vì lẽ có mùi chết bên tay phải của ngôi Cha. Sự thực ấy sẽ khủng khiếp biết bao. Tại sao Thượng đế lại mong ước điều đó cho chính ngài? Tại sao không để mặc sự chết cho lũ có sinh có tử mà thôi? Tại sao phải bôi bẩn cái đẹp đẽ, phải làm hỏng sự hoàn hảo?
Tình yêu. Đó là câu trả lời của cha Martin.
Còn sự vâng lời của đức chúa Con thì sao? Có câu chuyện thần Krishna hồi nhỏ, bị các bạn mách là đã ăn một cục đất. Bà mẹ nuôi của ngài, Yashoda, đến bên ngài với một ngón tay trách móc. “Không được phép ăn đất, thế là hư đấy”, bà mắng. “Nhưng con có ăn đâu”, vị thần vô địch trả lời, vị chúa tể của mọi vật lúc đấy vẫn trá hình làm một thằng bé con sợ hãi. “Chậc! Chậc! Há mồm ra!” Yashoda ra lệnh. Krishna làm theo lời bà. Ngài mở rộng miệng. Yashoda nín thở. Bà nhìn thấy trong miệng Krishna toàn bộ, hoàn chỉnh vũ trụ ngoài thời gian, tất cả tinh tú và khoảng không giữa chúng; bà thấy tất cả những ngày của hôm qua và của ngày mai; bà thấy tất cả các ý tưởng và tình cảm, tất cả thương xót và hy vọng, và ba sợi tao dệt nên vật chất; không thiếu một hòn sỏi, một cây nến, một sinh linh, một ngôi làng hoặc một dải ngân hà nào, kể cả chính bà và tất cả những cục đất ở chỗ chính đáng của chúng. “Thưa Đức ông”, bà nói một cách thành kính, “xin người ngậm miệng lại”.
Có chuyện Vishnu đầu thai làm người lùn Vamana. Anh ta xin vua quỷ Bali chỉ ba bước đất. Bali cười phá lên trước hình dạng nhỏ bé như con vật của kẻ đến cầu hôn con gái mình, cũng như điều cầu xin kì quặc nọ. Vua quỷ đồng ý. Lập tức, Vishnu hiện nguyên hình trong vóc dáng vũ trụ của mình. Với một bước đầu tiên, ngài thâu tóm hết trái đất, bước thứ hai lấy hết các cõi trời, và với bước thứ ba ngài đá Bali văng vào nơi vô định.
Ngay cả Rama, ngôi Con nhiều tính người nhất, thậm chí đã có lúc quên cả bản chất thần linh của mình khi mải đánh nhau với vua quỷ Lanka để cướp lại nàng Sita, cũng không bao giờ chịu lép một bề. Không thể có cây thập tự nào đè bẹp được ngài. Khi đã hăng lên, ngài vươn khỏi cái tầm cỡ người hữu hạn của mình với một sức mạnh không ai có được và với những vũ khí mà loài người không thể sử dụng được.
Đó mới thật sự là Thượng đế. Chói sáng, hùng mạnh, đầy quyền năng. Thừa sức để giải thoát, cứu rỗi và trừng trị quỷ dữ.
Còn đức chúa Con này, thì nào là phải đói, phải khát, phải mệt nhọc, buồn rầu, lo lắng, phải bị bắt nạt và quấy nhiễu, phải chịu đựng những kẻ theo mình mà chẳng hiểu gì, và phải chịu sự khinh miệt của những kẻ thù địch - kiểu thần thánh gì thế không biết? Là thần thánh nhưng lại nhỏ nhoi bằng người, đúng là vậy. Thì cũng có phép lạ, đúng thế, phần lớn là phép thuốc thang, một ít khác giúp người khỏi đói bụng, hay nhất cũng chỉ là phép ngưng được bão táp, đi được vài bước trên mặt nước mà thôi. Nếu đó là phép lạ, thì chúng chỉ là những pháp thuật nhỏ, tương tự như những mẹo chơi bài, bất kì vị thần Hinđu nào cũng có thể làm hơn thế gấp trăm lấn. Vị chúa Con này là một ông thần chủ yếu dùng thì giờ của mình để kể chuyện, để nói. Vị chúa Con này đi bộ, một vị thần của đám bộ hành, mà lại đi trong một nơi nóng nực, với những bước chân hệt như người, đôi dép cũng chỉ bước qua được những hòn đá trên mặt đường; còn đến khi cần phải vi hành cho nhanh thì ngài cưỡi một con lừa bình thường. Vị chúa Con này là một vị thần đã chết trong ba tiếng đồng hồ, với những tiếng rên rỉ, thở dốc và những lời than khóc. Đó là kiểu thần thánh gì vậy? Cái gì đã là nguồn cảm hứng cho vị chúa Con ấy?
Tình yêu, cha Martin nói.
Ngôi Con này chỉ xuất hiện có một lần, rất lâu rồi, và thật xa xôi như vậy sao? Trong một bộ lạc không ai biết đến ở một xó Tây Á, quanh quẩn trong mảnh đất của một vương quốc đã suy tàn từ lâu như vậy sao? Bị kết thúc khi trên đầu chưa một sợi tóc hoa râm? Không con cháu, chỉ còn lại những mẩu chuyện tẻ mẻ không đầy đủ, công đức của ngài tiêu tan cùng cát bụi như vậy sao? Gượm đã nào. Thế này thì không phải chỉ là trường hợp Brahman bị run quá mức khi phải bước lên sân khấu nữa. Đây là Brahman ích kỷ. Đây là Brahman không có lòng quảng đại và không công bằng. Đây là Brahman chưa hiển lộ thực sự. Nếu Brahman sẽ chỉ có một con trai, ngài sẽ phải phì nhiêu như Krishna với bầy thôn nữ kia chứ, phải không nào? Cái gì có thể biện hộ cho chuyện thần linh mà lại keo kiệt đến mức như vậy?
Tình yêu. Cha Martin nhắc lại.
Thôi, xin vái tạ các vị, tôi sẽ đi với Krishna của tôi. Chất thần thánh của người đã chinh phục và cuốn hút tôi đến tận cùng. Các vị cứ việc mà giữ lấy ngôi Chúa Con lắm mồm và mồ hôi mồ kê nhễ nhại ấy.
Đầy, tôi đã gặp gỡ vị thầy Cả đã gây ra lắm chuyện rắc rối tận xửa xưa như thế đấy: nghĩa là với cảm giác phiền muộn và bất tín ở trong lòng.
Trong ba ngày liền, ngày nào tôi cũng đến uống trà với cha Martin. Mỗi lần, khi tách trà lanh canh vào cái đĩa nhỏ và cái thìa lanh canh vào mép nó, tôi lại đưa ra những câu thắc mắc như thế.
Mà câu trả lời thì luôn giống hệt nhau.
Ông ta khiến tôi không yên được, vị chúa Con ấy. Ngày lại ngày, nỗi ân hận đối với ngài cứ bùng lên ngày một lớn, và tôi lại tìm ra thêm những khiếm khuyết của ngài.
Ông ta lại còn có tính hay thình lình nổi trận lôi đình nữa chứ! Đấy, cái buổi sáng ấy ở chỗ Bethany, Thượng đế thấy đói, Thượng đế muốn ăn điểm tâm. Ngài tới cạnh một cây vả. Không phải mùa, nên cây vả chưa ra quả. Thượng đế nổi cáu. Con trai ngài liền lẩm bẩm: “Mày sẽ không bao giờ đơm hoa kết trái nữa”. Và tức thời, cây vả khô héo đi. Đấy là lời kể lại của Matthew, được cả Mark nhắc lại (1).
Tôi xin hỏi, cây vả thì có tội gì nếu lúc đó chưa phải đến mùa nó ra quả? Cái kiểu gì mà lại làm một việc như thế với cái cây vô tội, bắt nó phải khô héo đi ngay tức thời?
Tôi không thể xua ngài ra khỏi đầu mình. Đến giờ cũng vậy. Tôi mất ba ngày liền chỉ có suy nghĩ về ngài. Ngài càng gây phiền muộn cho tôi bao nhiêu, tôi lại càng khó quên ngài bấy nhiêu. Và tôi càng biết thêm về ngài bao nhiêu, càng không muốn rời ngài bầy nhiêu.
Ngày cuối cùng của chúng tôi ở Munnar, chỉ còn vài tiếng trước khi chúng tôi ra đi, tôi chạy quáng quàng lên trái đồi phía bên trái ấy. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy nó như một cảnh trí Cơ đốc điển hình. Cơ đốc giáo là một tín ngưỡng vội vàng. Cứ xem việc thế giới được tạo nên chỉ trong có bảy ngày thì thấy. Ngay cả chỉ là biểu tượng thôi, sự tạo tác ấy vẫn cứ là quá gấp gáp. Với một người sinh ra trong một tín ngưỡng mà một trận chiến vì một linh hồn duy nhất thôi cũng là một cuộc chạy tiếp sức qua nhiều thế kỷ, với vô vàn thế hệ nối tiếp nhau, thì cách giải quyết chóng vánh của Cơ đốc giáo có hiệu quả chóng cả mặt. Nếu tín ngưỡng Hinđu êm đềm trôi như dòng sông Hằng, thì Cơ đốc giáo sôi sùng sục như thành phố Toronto vào giờ cao điểm. Đó là một tín ngưỡng nhanh như chim cắt và hối hả như một cái ô tô cấp cứu. Nó quay tít thò lò, hiển lộ trong tức khắc. Ta mất hay còn chỉ trong cái tức khắc ấy. Cơ đốc giáo trải mãi qua bao thời đại, những cốt lõi nó chỉ tồn tại ở một thời: ngay bây giờ.
Tôi chạy thoăn thoắt lên trái đồi ấy. Mặc dù cha Martin không “có nhà” – cha mẹ ơi, cái cửa trượt của cha đẩy qua phía khác – thế mà đội ơn Chúa, cha lại vẫn ở đó.
Tôi hổn hển, “Cha ơi, con muốn làm một người Cơ đốc, xin cha giúp con”.
Ông mỉm cười. “Piscine, con đã là vậy rồi đấy - tận đáy lòng con mà. Ai đã gặp đấng Christ với tấm lòng thành đều là người Cơ đốc cả. Con đã gặp ngài ở Munnar này rồi”.
Ông vỗ lên đầu tôi. Không phải như người ta vỗ về nhẹ nhàng đâu. Trên đầu tôi, tay ông như đang vang lên BUM BUM BUM.
Tôi tưởng mình sắp nổ tung vì sung sướng.
- Khi nào trở lại, cha con mình lại uống trà với nhau nhé.
- Vâng, thưa cha.
Nụ cười của ông thật tốt lành. Nụ cười của đấng Christ.
Tôi bước vào nhà thờ, lần này không còn sợ hãi gì nữa, vì bấy giờ nó đã là nhà của tôi nữa rồi. Tôi nói lời cầu nguyện dâng lên đấng Christ, là người đang sống. Rồi tôi chạy xuống trái đồi bên trái ấy để leo lên trái đồi bên phải để cảm tạ vị chúa tể Krishna đã đem Jesus người Nazareth, người có lòng nhân ái mãnh liệt đến thế, vào đời tôi.
-----------
Ghi chú:
(1) Matthew và Mark là hai tông đồ của Jesus, mỗi người chép lại những việc làm của Jesus trong một cuốn sách riêng, về sau thành hai tập trong kinh Tân Ước, còn gọi là Phúc Âm – Phúc Âm của thánh Matthew và Phúc Âm của thánh Mark. (ND)
-------------------
P3: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2012/04/cuoc-oi-cua-pi-yann-martel-p-3.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét