Bữa rượu máu
Tác giả: Nguyễn Tuân
Phía tây thành B. trên một nền đất rộng đổ sát vào chân
thành cho lần gạch ngoài thành được thêm vững chãi, lũ cây chuối mật tha hồ mặc
sức mà mọc. Nó um tùm, tàu lá rộng và không bị gió đánh rách, che kín cả bóng
mặt trời. Trên áng cỏ bốn mùa ẩm ướt, loài nấm dại sinh nở hết sức bừa bộn.
Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm
không có vết chân người.
Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh
định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng thân chuối cao vút và tàu lá
chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi
lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa Ngâu đổ lên vườn chuối
một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu.
Vườn chuối phía tây thành sớm nay quang đãng khác mọi ngày.
Trên mặt cỏ ngổn ngang nhựa thẫm màu. Nhựa ấy bị không khí làm se lại, kết nên
thành những khối keo quyện chặt lấy bùi cỏ gà.
Cùng một buổi chiều ấy, mấy người vợ lính cơ đứng trong
luống bãi dâu trồng ở dưới chân thành, sát ngay với bờ hào được nghe tiếng
người hát trên ngọn thành, ở trên đầu họ, đúng ngay chỗ vườn chuối im lìm của
mọi ngày.
Tiếng người trên mặt ngọn thành cũ hát rằng:
“Trời nổi cơn lốc
Cảnh càng u sầu
Tiếng loa vừa dậy
Hồi chiêng mớm mau
Ta hoa thanh quất
Cỏ xanh đổi màu
Sống không thù nhau
Chết không oán nhau
Thừa chịu lệnh cả
Dám nghĩ thế nào
Người ngồi cho vững
Cho ngọt nhát dao
Hỡi hồn !
Hỡi quỷ không đầu!”
Người ở trên mặt thành hát đến đâu thì tiếng những thân cây
chuối đổ xuống mặt đất tường thành lại kêu roạt roạt đến đấy. Bọn người đàn bà
hái dâu ngừng tay bứt lá, nghiêng đầu lắng nghe kỹ. Cái bài hát năm mươi tư chữ
nghe như bài sai của thầy phù thủy, đã hát đi hát lại đến mấy lần. Cứ xong mỗi
câu thì lại có một tiếng roạt. Chỉ có cây chuối bị chặt mạnh mình lìa hẳn gốc,
đổ vật xuống mặt đất thì mới kêu roạt roạt như vậy thôi. Nhưng mà ai chặt
chuối? Không phải hẳn là cấm địa, nhưng góc thành sau kho lúa kia cũng là một
miếng đất cấm, ai dám vượt phép quan vào đấy mà hát, mà phá vườn. Có chăng là
làm loạn.
Những người vợ lính cơ, quen sống trong không khí loạn lìa,
chiều nay và đêm nay bàn tán mãi về cái tiếng hát trên vườn chuối mặt tường
thành. Chồng họ cũng lấy làm lạ và tự nhủ ngày mai vào trại sẽ hỏi chuyện cho
rõ.
Buổi sáng hôm sau, bọn vợ lính cơ, thêm được ít người tò mò
nữa kéo đến vườn dâu ngoài thành, vẫn nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt
thành, với những câu hát rõ mồn một:
“Ta hoa thanh quất
Cỏ xanh đổi màu
Sống không thù nhau
Chết không oán nhau...”
Khi nghỉ ngơi, lúc họ mang chuyện đó về nhà thì những người
lính cơ đều ra vẻ cảm động sợ hãi và cắt nghĩa:
- Ông Bát Lê sắp làm việc đấy.
- ???
- Ông lớn sắp đem mười mấy người ra chém. Và tiếng người hát
trên mặt thành là tiếng ông Bát Lê đang tập múa thanh quất ở vườn chuối đấy.
- Múa thanh quất? Ở vườn chuối? Sao lại hát những câu ghê
thế? Và ông Bát Lê vốn chém người đã nổi tiếng, còn phải tập với tành gì nữa?
- U mày không hiểu. Lâu nay ông Bát không phải khai đao vì
Ông Lớn thấy già yếu muốn cho nghỉ tay. Mỗi lần có án trảm, ông Bát chỉ phải ra
pháp trường cho có mặt thôi. Còn công việc thì đã có người khác đỡ tay. Nhưng
vẫn cứ được tiền thưởng. Ðã đến gần một năm nay ông Bát không cầm đến thanh
quất. Không hiểu tại sao, lần này Ông Lớn lại cho gọi ông Bát ra cho kỳ được và
xem chừng như ngài săn sóc đến cái vụ xử trảm này nhiều lắm.
Lui vào tư thất, quan Tổng đốc sung chức Ðổng lý Quân vụ,
nhác thấy lão Lê đang co tay úp lên mang tai nhìn vào đám vàng son lộng lẫy nhà
riêng mình, ngài liền quở:
- Mấy bữa nay, chú đi đâu? Ta cho thằng Cửu nó sang gọi mấy
lần đều thấy đóng cửa.
- Bẩm lạy Ông lớn, ít lâu nay con về nhà quê. Giá như ngày
trước, có khi nào con dám đi xa, sớm tối lúc nào cũng phải ở trong nội thành,
phòng những lúc Ông Lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây. Ông Lớn thương
phận già nua cho con được nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Ðược tin
Ông Lớn cho đòi, con vội vã vào hầu, xin Ông Lớn tha tội. Con chờ lệnh Ông Lớn
truyền xuống.
- Thôi, cho đứng dậy.
Quan Đổng lý Quân vụ ngả mình trên ghế bành vàng và son, hất
hàm hỏi tên bát phẩm đầy tớ già đang co ro người bên chiếc cột:
- Liệu bây giờ chém còn mát tay nữa không?
- Dạ.
- Dạ sao? Chú có biết ta sắp cho xuống cái lệnh chi không?
- Dạ.
- Có mười hai tên tử tù sắp phải hành hình. Quan Công sứ
muốn được thị kiến lúc bọn hắn chịu án trảm. Ngươi chém thế nào cho gọn thì
chém, hễ chém một đầu đến hai nhát thì không những ta truất tiền thưởng mà
người còn bị quở nữa. Chém cho thực ngọt.
- Dạ.
- Tiền thưởng này chính của Quan Công sứ cho. Ta muốn giữ
phần cho người nên ta cho gọi vào mà lĩnh lấy việc này, gọi là kiếm một chút
bổng để dưỡng tuổi già. Chú phải biết khi nhận lấy muời hai tên tử tù là chú
phải làm việc cho đầy đủ. Chớ để phiền đến ta. Ta đã trót khoe khoang cái tài
chém “treo ngành” của chú với quan Công sứ. Chú nghĩ thế nào?
- Dạ, bẩm Ông Lớn đã thương đến phận tôi tớ chúng con xin
hết sức tuân theo. Nhưng bây giờ con già yếu lắm, không biết có còn làm được
việc như hồi xưa nữa không. Vả chăng gần một năm nay không cầm đến mã tấu con e
có điều hơi lạc mất đường đao.
- Ta đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Chú còn đủ thời giờ để tập
lại lối chém treo ngành. Nếu cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền
lại cho một ngườii nào được thì một lần cuối cùng này nữa, chú cũng nên cho một
vị quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém của một người đầy tớ hầu cận ta là như
thế nào.
- Dạ, bẩm Ông lớn...
- Chú đừng nhiều lời. Ðây này, ta cho chú mượn thanh quất
của ta mà làm việc. Sẵn có vườn chuối ở sau kho lúa, cho phép chú lên đó mà
tập. Có ai ngăn cản, cứ đưa cái tín bài này ra cho họ nom rõ.
Quan Ðổng lý Quân vụ rút khỏi ống bút trên bàn một lá thẻ
đỏ, viết mấy chữ thảo vào mặt thẻ sơn trắng, trao cho Bát Lê. Thế là từ hôm ấy
Bát Lê lĩnh thanh quất của quan Tổng đốc leo lên tường thành, xông xáo trong
vườn chuối, hết sức tự do, hết sức tàn nhẫn, chém ngang thân loài thực vật,
trước khi chém vào cổ mười hai tên tù đang nằm đợi ngày cuối cùng. Vườn chuối
trên mặt thành vốn mọc không có hàng lối nhất định. Ông Bát phẩm Lê phải chọn
lựa mãi mới được mấy dẫy chuối mọc theo hàng lối thẳng thắn. Y soạc cẳng, lấy
bước chân đo những quãng trống từ một gốc chuối này đến một gốc chuối khác.
Tiến lên, lùi xuống, đo ngang, đo dọc tự cho là tạm tạm được, y bèn nhẹ nhàng
phát hết những tàu lá chuối rườm rà. Ðấy là cái khu dọn dẹp sẵn để nhân lấy sự
thí nghiệm sau hết của một thanh quất bị bỏ quên đã lâu ngày.
Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa
kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém
không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để
mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, y nhảy nhót trong vườn
chuối, đưa lưỡi gươm qua bên phải lại múa lưỡi gươm qua bên trái, thanh gươm
hai lưỡi gọn gàng, nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu lớp
sương đêm. Mảnh khăn vuông vải trắng bịt tóc Bát Lê đã đẫm ướt và nhựa chuối
chát thấm vào đất, gặp ánh nắng sớm, đã xuống màu dần dần.
Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc, nhẩy nhót
như một kẻ điên cuồng. Cứ mỗi một cây chuối gẫy gục xuống cỏ đánh roạt một cái
thì Bát Lê lại cất tiếng hát:
“Sống không thù nhau
Chết không oán nhau…”
Câu hát được những tiếng cây chuối đổ chấm câu cho và đã
vẳng từ trên mặt thành xuống mặt một bãi dâu ở chân thành...
Tập như thế cho thuần tay hết một buổi sớm và một buổi
chiều. Bát Lê sớm ngày hôm sau lại trở lại vười chuối đã rầu cả lá, đã khô cả
vết thương. Y hồi hộp chống gươm xuống mặt đất ẩm ngổn ngang sự tàn phá, như
một võ sinh sắp trổ tài ở võ trường với sự phân vân, lo ngại của phút biểu
diễn. Rồi Bát Lê trịnh trọng tiến vào cái khu vườn chuối đã dọn từ hôm trước để
nhận lấy lưỡi gươm thí nghiệm cuối cùng của một cuộc tập chém. Y đứng vào giữa
hai dãy chuối, tay phải cầm ngang thanh quất.
Y lùi lại ba bước, lấy hơi thở cho đều, vừa hát to câu:
“Tiếng loa vừa dậy”
Vừa tiến mạnh lên, thuận tay chém vào cây chuối đầu tiên dãy
bên phải. Ðà gươm mạnh từ cao soải xuống theo một chiều chếch, tưởng gặp đến gỗ
cứng cũng lướt qua. Thế mà thanh quất chỉ ngập vào chiều sâu thân cây độ chín
phần mười. Lưỡi thanh quất bị ngừng ở cái cữ ấy, rồi lại được lấy ra khỏi thân
cây chảy mủ. Vừa giật lưỡi thanh quất khỏi thân cây đang từ từ gục xuống, vừa
hát một câu nữa:
“Hồi chiêng mớm mau”
Bát Lê lại tiến thêm ba bước đến ngang tầm cây chuối hàng
đầu dãy bên trái. Bát Lê thuận đà thanh quất, lại chém xuống đấy một nhát thứ
hai. Một thân cây thứ hai gục xuống nữa như một thân hình người quỳ chịu tội.
Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải. Bát Lê đã hát hết mười
bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối. Bát Lê quay mình lại, ngắm các công
trình phá hoại của mình. Thì ở mười bốn cây chuối chịu tội kia, thân trên bị
chém vẫn còn dính vào phần gốc bởi một lần bẹ giập nát.
Bát Lê mỉm cười, gỡ cái khăn chùm trên đầu, lau lưỡi gươm
vào đấy, vuông vải lại dẫm thêm chất nhựa xám.
Thế là xong một cuộc tập chém lối treo ngành. Và Bát Lê cũng
vui vẻ trong lòng đợi ngày nhật tù. Ði từ bề cao nền cỏ xuống chân thành, qua
những bậc cấp thúc vào lòng đất. Bát Lê chốc chốc lại dừng bước lại và ưỡn mình
về phía sau, ngắm cánh tay khẳng kheo mình đang lăm lăm cầm lưỡi gươm.
Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý Quân vụ một buổi chiều thu
quyết đã đổi màu. Mọi khi, ở đấy chỉ có bê, bò được thả lỏng cúi cổ ngốn áng cỏ
tươi bên cạnh một tốp lính hiền lành, tay cầm lưỡi liềm cắt cỏ về cho ngựa quan
ăn. Bây giờ ở đấy, người dựng lên một cái nhà rạp có tàn, có quạt, có cờ ngũ
hành. Trước nhà rạp người ta chôn sẵn mười hai cái cọc tre bị vồ gỗ đập mạnh
xuống toét cả đầu. Và đánh đai lấy khu nhà rạp rộng độ một mẫu, mấy trăm lính
mặc áo có dấu, có nẹp đã tề chỉnh tuốt gươm trần để thị uy.
Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thì sáng hơn là nền
trời. Nền trời vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái lạ. Những bức tranh
mây chó màu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt.
Mọi người chờ đợi một cái gì.
Từ phía nhà ngục, mười hai con người chậm chạp tiến tới giữa
hai tốp lính áp giải. Bãi cỏ im lìm đến nỗi tiếng gông lũ tù giây va vào nhau
theo một nhịp bước rụt dè nghe cứ rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu
định liệu bước đi cho cỗ đòn đám.
Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn chỗ cọc tre và
trong một lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Lũ tử tù bị trói giật
cánh khuỷu, quỳ gối trên mặt đất, khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch
nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông,
nắn xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần om thế nào cho tội nhân
lúc quỳ phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như
thế, tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi đao thả mạnh xuống cái cổ
căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi người
họ. Trông xa, họ có cái cứng thản nhiên của những tượng đá tạc hình người Chiêm
Thành quỳ trước sân đền thờ vua Lý.
Tiếng nhạc bát âm thổi bài Lưu thủy trường gần mãi lại. Rồi
trong một giây phút mọi người lắng rő tiếng sênh tiền. Ai nấy nín thở. Trông ra
cờ quạt kín cả nền trời và lính tráng kín cả mặt cỏ. Bụi cát bay mù như lúc có
cuộc hành quân. quan Công sứ mặc đồ binh phục trắng có ngù kim tuyến đi ngang
hàng cùng quan Tổng đốc. Hai quan đầu tỉnh - một người đi ghệt, một người đi
ủng - đều gò bước đi cho nó ăn nhập với cái long trọng của pháp trường. Những
tên lính tỉnh gầy ốm che sát vào người hai ông Lớn mọi thứ tàn vàng, tán lía,
lọng xanh.
Cái đầu chúng không dám phạm thượng, cúi gầm xuống mặt đất,
nhìn cánh cỏ may chọc thủng ống quần mình.
Trong nhà rạp, các quan an vị. Ông thông ngôn người Nam kỳ đứng
khoanh tay đằng sau quan Lưu trú Pháp. Quan Tổng đốc nói trước:
- Những người sắp bị hành hình kia là dư đảng giặc Bãi Sậy.
Ty chức rất mong rằng đấy là những kẻ phiến loạn cuối cùng. Và nhờ hồng phúc
của Quan Lớn, cuộc trị an ở xứ này chóng định.
Bát Lê cầm gươm tiến đến trước nhà rạp, vòng tay thu lưỡi
gươm lại, vài một vái, cúi mặt đứng im. Quan Tổng đốc nhớm mình khỏi mặt ghế
bành:
- Xin phép Quan Lớn cho ty chức được trình với Quan Lớn một
tên đầy tớ trung thành. Hắn là đao phủ thủ tại pháp trường hôm nay.
- Có phải cái người mà Quan Lớn nói là có tài chém đầu người
chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lằn da cổ đó không?
- Dạ. Mấy hôm nay hắn hạ thủ trong một hơi những mười hai
cái đầu. Bây giờ để xin ra lệnh khai đao.
Quan Công sứ gật. Viên giám trảm và Bát Lê đều lùi ra ngoài
rất mau.
Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng chiêng. Rứt mỗi hồi
chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác. Tùng! Bi li! Bi li!
Bát Lê bắt đầu hoa không thanh quất mấy vòng. Rồi y hát
những câu tẩy oan với hồn con tội. Trong nhà rạp các quan chỉ nghe thấy cái âm
lơ lớ rờn rợn. Quan Công sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù
và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục đến đấy. Những
tia máu phun kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều. Trên áng cỏ hoen ố, không
một chếc thủ cấp nào rụng xuống.
Bát Lê làm xong công việc, không nghỉ ngơi chạy tuốt vào
đứng trước nhà rạp. Bấy giờ quan Công sứ mới nhìn kỹ. Y mặc áo dài trắng, một
dải giây lưng điều thắt chẽn ngang bụng. Thấy trên quần áo trắng của y không có
một giọt máu phun tới, quan Công sứ gật gù hỏi quan Tổng đốc để nhớ lấy tên họ
một người đao phủ có lối chém treo ngành rất ngọt.
Ngài thưởng cho Bát Lê mấy cọc bạc đồng bà lão.
Lúc quan Lưu trú gần cầm mũ cáo từ về tòa Sứ, quan Tổng lý
quân vụ còn ân cần buộc ông thông ngôn Nam kỳ dịch cho đủ câu này:
- Bẩm Quan Lớn, chém treo ngành như thế này là phải lựa vào
những lúc việc quân quốc thanh thản, số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhộn
nhạo quá, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chẻ đôi cây tre đực
dài ra, cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Ðại để nó
cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà róc
ngang như người ta róc mắt mía.
Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu
còn dính vào cổ người chết quỳ kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán, nổi lên
một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn
gió lốc cuốn gẫy ngọn cờ súy, cũng chỉ mạnh được thế thôi. Trận gió soắn hút
cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi.
Bấy giờ vào khoảng giữa giờ Thân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét