Clochette
Tác giả: Guy De Maupassant
Dịch giả: Vũ Yến Ly
Nhà xuất bản Lao động - 2005
Có lạ lùng không khi có những kỷ niệm cũ cứ
ám ảnh bạn mãi mà bạn không sao tống khứ chúng đi được.
Tôi có một kỷ niệm, một kỷ niệm xa xưa, một
kỷ niệm cũ kỹ lâu đời đến nỗi tôi cũng không sao hiểu nổi làm sao nó lại có thể
nằm mãi trong trí nhớ của tôi một cách sống động và dai dẳng đến thế. Tôi đã chứng
kiến biết bao chuyện, buồn có, vui có, cảm động có và cả khủng khiếp cũng có đến
nỗi mà tôi tự cảm thấy ngạc nhiên khi thấy rằng không thể sống qua một ngày, dù
chỉ một ngày thôi, mà không nhìn thấy khuôn mặt của bà Clochette hiển hiện trước
mắt tôi, cho dù tôi biết bà từ ngày xửa ngày xưa, khi tôi còn là một cậu bé mười
hay mười hai tuổi gì đó.
Đó là một bà thợ may già, cứ đến thứ ba
hàng tuần đến vá lại những đồ vải trong nhà bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi thuở đó sống
trong một lâu đài cổ ở nông thôn với kiểu kiến trúc cổ: một ngôi nhà mái nhọn ở
giữa và bốn năm trang trại bao xung quanh.
Ngôi làng, một ngôi làng lớn với một thị trấn
nhỏ cách đó vài trăm mét, nằm sát xung quanh nhà thờ, một nhà thờ xây gạch đỏ
nhưng qua năm tháng đã xỉn màu thành gần như màu đen.
Lại nói chuyện bà Clochette, cứ vào khoảng
sáu rưỡi bảy giờ sáng thứ ba, bà lại đến nhà tôi và ngay khi vào kho đồ vải là
bà bắt tay ngay vào việc.
Bà là một phụ nữ cao lớn gày gò, có râu,
hay nói đúng hơn là lông lá bởi bà có lông tơ khắp cả mặt, một kiểu lông tơ
đáng ngạc nhiên, kỳ cục, mọc thành từng đám lạ lùng, từng túm xoăn xoăn trên khắp
cả khuôn mặt to lớn của bà. Trông buồn cười kỳ quặc như một viên sen đầm mặc
juýp thò hai ống chân lông lá ra khỏi juýp vậy. Bà có cả lông tơ trên mũi, dưới
mũi, xung quanh mũi, trên cằm, trên má. Lông mày của bà có màu ghi vừa dày, vừa
rậm, vừa dài một cách khác thường. Trông nó như một đôi ria bị đặt nhầm chỗ.
Bà đi khập khễnh, nhưng không khập khễnh
như những người què bình thường mà như một chiến thuyền có mỏ neo. Khi bà đặt cả
tấm thân to lớn xương xẩu lên cái chân lành, trông bà có vẻ như đang lấy đà để
nhảy lên trên đầu một con sóng lớn vậy, rồi, đột nhiên, bà lặn xuống như để biến
mất trong một vực sâu, bà thụt sâu vào trong lòng đất. Bước chân của bà khiến
cho người ta liên tưởng đến một cơn bão, và cứ thế bà lúc la lúc lắc đi. Đầu bà
luôn đội một chiếc mũ trắng lớn không vành với những dải ruy băng dài phất phơ
sau lưng, trông như dài tới tận chân trời, từ bắc đến nam, rồi lại từ nam đến bắc
theo mỗi bước chuyển động của bà.
Tôi rất quý bà Clochette. Ngay khi tôi vừa
dậy là tôi leo ngay lên kho đồ vải, ở đó, tôi thường thấy bà đang ngồi khâu, dưới
chân để một chiếc lồng ấp chân nhỏ. Ngay khi tôi đến, bà liền ép bằng được tôi
dùng chiếc lồng ấp của bà, ép tôi ngồi lên phía trên cái lồng ấp để tôi không bị
lạnh, bị sổ mũi trong căn phòng lạnh lẽo nằm sát mái nhà này.
Bà thường bảo: “Lạnh sẽ làm cháu ho, nó sẽ
hút máu cháu ra từ đường họng đấy”.
Bà kể chuyện cho tôi nghe, vừa kể vừa thoăn
thoắt khâu đồ vải với những ngón tay dài, nhọn, khoằm khoằm. Đôi mắt bà khuất
sau gọng kính dày, vì tuổi tác đã khiến mắt bà mất đi sự tinh anh, có vẻ to,
sâu và như to gấp đôi lên.
Trong chừng mực nào đó, tôi vẫn còn nhớ được
những điều bà đã nói với tôi, và những lời nói đó khiến trái tim non nớt của một
cậu bé như tôi xúc động. Bà có một tâm hồn hào hiệp của một phụ nữ nghèo. Bà biết
mọi chuyện và hiểu mọi việc theo một cách đơn giản. Bà kể cho tôi nghe mọi sự
kiện diễn ra trong thị trấn, chuyện một con bò sữa xổng khỏi chuồng bò và rồi một
sáng, người ta thấy nó trước cửa cối xay gió của Prosper Malet, đang ngắm những
cánh quạt cối xay quay quay, hay chuyện phát hiện ra một quả trứng gà trong gác
chuông nhà thờ mà không ai biết con gà nào có thể leo tận lên đó mà đẻ trứng được,
hay chuyện con chó nhà ông Jean Pilas, đã tìm bằng được và mang về cho ông chủ
nó chiếc quần đùi từ một nơi cách xa nhà nó đến mười dặm, do một kẻ đi qua đường
đã tiện tay rút trộm và đang phơi trước cửa nhà hắn.
Bà cứ rủ rỉ kể như thế, gieo vào tâm hồn
tôi từ những chuyện ngây ngô vớ vẩn, những thảm kịch không thể quên được tới những
bài thơ hào hùng, bí ẩn. Và những câu chuyện ly kỳ được tạo nên từ những vần
thơ đã khiến nảy sinh trong tâm trí tôi một thế giới rộng lớn với bao điều kỳ
diệu.
Thế rồi, một ngày thứ ba, sau khi đã hái những
quả phỉ với một gia nhân ở rừng Hallets, phía sau trang trại Noirpré, tôi chạy
về nhà, leo lên kho đồ vải để tìm bà. Tôi nhớ tất cả mọi chuyện hôm đó, rõ ràng
như thể nó vừa diễn ra ngày hôm qua vậy.
Khi mở cửa kho đồ vải, tôi nhìn thấy bà thợ
khâu già đang nằm xoài, cạnh chiếc ghế của bà, mặt úp xuống đất, hai cánh tay
dài sõng sượt, một tay vẫn còn cầm kim và tay kia nắm một chiếc áo sơ-mi của
tôi.
Một chân bà duỗi dài dưới ghế, kính của bà
văng ra chân tường.
Tôi kêu thét lên. Mọi người chạy xô đến, và
một vài phút sau đó thì tôi hiểu rằng bà Clochette đã chết.
Không bút nào tả xiết được nỗi đau đớn thống
thiết xót xa của tôi lúc bấy giờ, một nỗi tiếc thương sâu sắc vò xé con tim non
nớt của tôi. Tôi lê bước xuống dưới phòng khách và giấu mình trong một xó tối,
thu lu trong một chiếc ghế bành to, úp mặt vào đầu gối và khóc. Tôi hẳn đã ở đó
rất lâu vì tôi thấy trời tối dần.
Bỗng nhiên ai đó đi vào với một chiếc đèn,
nhưng người đó không nhìn thấy tôi và tôi nghe thấy tiếng bố mẹ tôi nói chuyện
với bác sĩ.
Họ đang nói chuyện về bà Clochette, ông bác
sĩ giải thích nguyên nhân của tai nạn. Tuy nhiên tôi không hiểu gì lắm. Rồi ông
ngồi xuống và uống một ly rượu mùi với một vài chiếc bánh bích quy.
Ông lại cất tiếng, và những gì ông nói lúc
đó đã lưu lại mãi trong trí óc tôi và sẽ còn lưu lại mãi cho tới khi tôi xuống
mồ. Thậm chí đến tận giờ tôi vẫn còn có thể kể lại một cách tương đối chính xác
những gì hôm đó ông đã nói.
- A! - Ông nói. - Người phụ nữ khốn khổ! Đó
là bệnh nhân đầu tiên của tôi. Cô ta bị gãy chân vào đúng ngày đầu tiên tôi đến
đây và tôi thậm chí còn không có thời gian để rửa tay nữa và vội vàng nhảy ngay
lên xe khi người ta đến tìm tôi rất gấp vì đó quả là một ca rất nghiêm trọng, cực
kỳ nghiêm trọng.
Cô lúc đó mới mười bảy tuổi và là một thiếu
nữ vô cùng xinh đẹp, rất xinh đẹp, ông bà có tin không? Còn về phần chuyện của
cô, tôi đã không bao giờ nói cho cô ấy biết, và ở đây ngoài tôi và một người,
người đó cũng đã đi khỏi xứ sở này, không một ai biết chuyện của cô. Giờ đây cô đã
chết, tôi có thể nói ra một chút bí mật của cô rồi.
Thời đó, có một trợ giảng trẻ đến sống ở thị
trấn, một chàng rất điển trai với khuôn mặt đẹp như tạc và một dáng vóc chuẩn
trong bộ quân phục hạ sĩ quan. Tất cả các cô gái đều chạy theo anh ta nhưng anh
ta không thèm đếm xỉa đến bọn họ, vả chăng anh ta rất sợ ông giáo Grabu, cấp
trên của anh ta, người khá khó tính.
Rồi ông Grabu nhận cô gái xinh đẹp Hortense
vào làm thợ may vá trong nhà. Cô Hortense xinh đẹp đó chính là người phụ nữ vừa
mất trong nhà ông bà. Và người ta gọi cô là Clochette sau khi cô gặp nạn.
Anh chàng trợ giảng để ý ngay đến cô gái
xinh đẹp này, còn cô thì thấy thích thú vui sướng vì đã đánh đổ được pháo đài
tưởng như không thể chinh phục đó. Họ hẹn gặp nhau buổi đầu tiên ở tầng thượng
trường học vào cuối buổi may, khi đêm xuống.
Hôm đó, lúc hết giờ làm, cô làm ra vẻ như
đi về nhà nhưng thay vì đi xuống cầu thang sau khi rời khỏi nhà ông Grabu thì
cô lại leo lên trên, rồi giấu mình vào một góc đợi người yêu. Anh này cũng mau
chóng đến gặp cô ngay và anh bắt đầu buông lời tán tỉnh nguyệt hoa. Bỗng cánh cửa
tầng thượng kẹt mở và ông Grabu xuất hiện, hỏi:
“Ồ! Anh làm gì ở đây thế hả Sigisbert?”
Cảm thấy mình sẽ bị vướng vào một điều tai
hại, anh trợ giảng trẻ hoảng sợ trả lời một cách ngu ngốc:
“Ồ! Tôi lên đây để nghỉ ngơi thư giãn một
lúc, thưa ông Grabu”.
Tầng thượng đó rất lớn, rất rộng và tối đen
như mực. Sigisbert vừa thì thầm vừa đẩy nhẹ cô gái đang hốt hoảng:
“Đi đi, trốn đi. Tôi sẽ mất việc làm là chắc
rồi, hãy tự cứu lấy mình, trốn đi!”.
Ông hiệu trưởng nghe thấy tiếng thì thầm, lại
hỏi:
“Hóa ra anh không ở đó một mình à?”.
“Tôi có một mình thôi mà, thưa ông”.
“Không, tôi không tin vì anh vừa nói chuyện
đấy thôi”.
“Xin thề với ông là tôi chỉ ở đây có một
mình thôi mà”.
“Ta sẽ biết ngay thôi.”
Ông già vừa nói vừa mở cửa đi xuống để lấy
đèn.
Thế là cậu trai hèn nhát sợ cuống lên, có vẻ
như anh ta bỗng nhiên tức điên lên và luôn miệng nhắc:
“Cô trốn đi, nhanh lên, trốn đi. Làm sao để
ông ấy không tìm thấy cô, cô sắp lấy mất miếng cơm của tôi rồi đấy, ông ta sẽ
đuổi việc tôi mất thôi, trốn đi, cô phá hỏng sự nghiệp của tôi mất thôi... Trốn
đi! Trốn ngay đi!”.
Lại có tiếng chìa khóa quay trong ổ.
Hortense chạy đến chiếc cửa con trông ra phố,
cô mau chóng mở nó ra rồi với một giọng khẽ khàng nhưng kiên quyết cô bảo:
“Tôi leo ra đây, lát nữa khi ông ấy đã đi
khỏi thì ông ra đỡ tôi lên nhé”.
Rồi cô nhảy ra.
Ông Grabu chẳng tìm thấy ai ngoài cậu trợ
giảng trên tầng áp mái cả, ông ta đi xuống, vô cùng ngạc nhiên.
Mười lăm phút sau, cậu Sigisbert đến nhà
tôi và kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện. Cô gái trẻ vẫn đang nằm ở chân tường
và không sao gượng dậy được sau cú ngã từ tầng ba xuống. Tôi vội đi đến chỗ cô
với anh ta. Anh ta khóc như mưa, tôi mang cô gái bất hạnh về nhà tôi, chân phải
của cô bị gãy, xương gãy đâm vào thịt. Cô không hề rên la, than vãn gì mà chỉ
nói một cách nhẫn nhục đáng khâm phục:
“Ôi, tôi bị phạt, bị phạt nặng quá!”.
Tôi gọi cấp cứu và gọi bố mẹ cô đến, tôi bịa
với bố mẹ cô rằng cô bị ô-tô đâm gãy chân ngay trước cửa nhà tôi. Họ tin tôi,
và cảnh sát uổng công tìm kiếm trong suốt một tháng trời thủ phạm gây nên vụ việc
đó.
Thế đấy! Tôi có thể nói rằng người phụ nữ
này là một anh hùng, chảy trong huyết quản cô là dòng máu của những người anh
hùng, mà nếu có dịp nó sẽ được bộc lộ tạo nên những câu chuyện đẹp đáng ghi vào
sử sách.
Và đó là tình yêu duy nhất của cô. Giờ đây
cô đã chết hoàn toàn trinh nguyên. Đó là một kẻ tử vì đạo, một người có trái
tim nhân hậu, một con người cao thượng. Nếu tôi không khâm phục cô đến thế tôi
đã không kể cho ông bà nghe câu chuyện này. Ông bà đã hiểu vì sao mà tôi đã
không hề hé răng kể ai nghe chuyện của cô ta khi cô còn sống.
Ông bác sĩ im bặt. Mẹ tôi bật khóc. Bố tôi
nói gì đó nhưng tôi nghe không rõ. Rồi họ đi ra.
Tôi vẫn ngồi yên trong ghế bành, bật khóc.
Rồi tôi nghe thấy những tiếng động lạ, tiếng chân bước nặng nề, tiếng va đụng
trong cầu thang.
Họ mang thi thể của Clochette xuống.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét