Ransom Riggs
Trại Trẻ Đặc Biệt Của Cô Peregrine
Chương 11
Chúng tôi leo lên triền dốc và vượt qua đỉnh đồi như một
toán cựu binh đã rã rời vì chiến tranh, thành hàng một, đầu cúi gằm: Bronwyn bế
Millard trên tay, còn bà Peregrine nằm trên mái tóc như tổ chim của Fiona.
Quang cảnh xung quanh lỗ chỗ những hố bom còn bốc khói, những đám đất vừa bị
xới lên hất vung vãi ra khắp nơi như thể một con chó khổng lồ nào đó đã đào
bới. Tất cả chúng tôi tự hỏi không biết cái gì đang chờ đợi mình ở nhà, nhưng
không ai dám nói ra lời.
Chúng tôi có được câu trả lời thậm chí từ trước khi đi qua
khu rừng. Bàn chân Enoch đá phải thứ gì đó, cậu ta bèn cúi người xuống nhìn. Đó
là một viên gạch đã cháy đen một nửa. Cơn hoảng loạn bùng lên. Đám trẻ bắt đầu
cuống cuồng chạy theo lối mòn. Khi họ tới chỗ bãi cỏ, những đứa nhỏ nhất òa
khóc. Khói bốc mù mịt khắp nơi. Quả bom đã không dừng lại trên ngón tay Adam
như thường lệ mà xẻ dọc anh ta làm đôi ngay chính giữa và nổ tung. Góc đằng sau
nhà đã biến thành một đống đổ nát sụp xuống bốc khói ngùn ngụt. Những đám lửa
nhỏ cháy trên lớp giấy dán tường đã thành than của hai căn phòng. Nơi Adam từng
nằm là một cái hố nham nhở đủ sâu để chôn một người đứng thẳng. Giờ đây thật dễ
hình dung cảnh tượng nơi này sẽ ra sao vào một ngày nào đó: chính là đống phế
tích buồn thảm như có ma ám tôi đã khám phá ra lần đầu tiên hồi tuần trước.
Ngôi nhà ác mộng. Bà Peregrine nhảy xuống từ trên đầu Fiona và bắt đầu hối hả
chạy vòng quanh trên mặt cỏ cháy sém, kêu lớn lên hốt hoảng.
- Cô phụ trách, chuyện gì đã xảy ra vậy? - Olive hỏi. - Tại
sao thời điểm chuyển đổi không tới?
Bà Peregrine chỉ có thể kêu rít lên đáp lại. Dường như bà
cũng bối rối và hoảng loạn như tất cả chúng tôi.
- Làm ơn hãy biến hình trở lại! - Claire nài nỉ, quỳ gối
xuống trước mặt bà.
Bà Peregrine đập cánh, nhảy lên và dường như đang cố gồng
mình, nhưng vẫn không thể biến hình. Đám trẻ xúm quanh đầy lo ngại.
- Có chuyện gì đó không ổn, - Emma nói. - Nếu có thể trở lại
thành người thì lúc này cô đã làm rồi.
- Có lẽ chính vì thế vòng thời gian bị dịch chuyển, - Enoch
đề xuất. - Còn nhớ chuyện về cô Kestrel lúc trước không khi cô ấy bị ngã xe đạp
trong một vụ tai nạn giao thông chứ? Cô ấy bị đập đầu xuống và biến thành một
con chim cắt trong cả một tuần. Và chính lúc đó vòng thời gian của cô ấy bị
dịch chuyển.
- Chuyện đó thì có liên quan gì tới cô Peregrine?
Enoch thở dài.
- Có thể cô chỉ bị chấn thương đầu và bọn mình chỉ cần đợi
một tuần để cô bình phục lại.
- Một cái xe tải đang phóng nhanh là một chuyện, - Emma nói.
- Bị đám xác sống hành hạ lại là chuyện khác. Chẳng thể biết được tên khốn đó
đã làm gì cô Peregrine trước khi bọn tớ cứu được cô ấy.
- Đám xác sống? Số nhiều à?
- Chính đám xác sống đã bắt bà Avocet đi, - tôi nói.
- Làm sao cậu biết được? - Enoch hỏi.
- Chúng là đồng bọn của Golan, phải không nào? Và tớ đã thấy
đôi mắt của cái gã bắn vào bọn tớ. Chẳng còn gì để nghi ngờ nữa.
- Vậy thì cô Avocet chết chắc rồi, - Hugh nói. - Chúng chắc
chắn sẽ giết cô ấy.
- Có thể là không, - tôi đáp. - Ít nhất cũng không phải ngay
lập tức.
- Tớ biết một điều về đám xác sống, - Enoch nói, - chúng
giết những người đặc biệt. Đó là tập tính của chúng. Chúng sẽ làm thế.
- Không, Jacob nói đúng, - Emma nói. - Trước khi gã xác sống
đó chết, hắn đã nói cho bọn tớ biết vì sao chúng bắt cóc nhiều Chủ Vòng Thời
Gian đến thế. Chúng sẽ ép buộc họ phải thực hiện lại phản ứng từng tạo ra các
hồn rỗng hồi trước - chỉ có điều ở quy mô lớn hơn. Lớn hơn rất nhiều.
Tôi nghe thấy ai đó kêu lên thảng thốt. Những người khác đều
im lặng. Tôi nhìn quanh tìm bà Peregrine và thấy bà cô độc đậu bên rìa cái hố
bom ở chỗ Adam.
- Chúng ta cần chặn chúng lại, - Hugh nói. - Chúng ta cần
tìm ra nơi chúng mang các Chủ Vòng Thời Gian tới.
- Bằng cách nào? - Enoch hỏi. - Bám theo một chiếc tàu ngầm
chắc?
Đằng sau tôi, một tiếng hắng giọng vang lên thật to, chúng
tôi quay lại thì thấy Horace đang ngồi xếp bằng trên đất.
- Tớ biết nơi chúng đang tới, - cậu ta khẽ nói.
- Ý cậu là sao, cậu biết ư?
- Đừng bận tâm cậu ấy biết bằng cách nào, cậu ấy biết, -
Emma nói. - Chúng đã mang cô ấy đi đâu, Horace?
Cậu ta lắc đầu.
- Tớ không biết tên nơi đó, - cậu ta nói, - nhưng tớ đã thấy
nó.
- Vậy hãy vẽ nó ra, - tôi nói.
Cậu ta ngẫm nghĩ giây lát rồi kiên quyết đứng dậy. Trông như
một người truyền bá Phúc Âm hành khất trong bộ vest đen rách toạc, cậu ta lê
chân tới chỗ một đống tro tràn ra từ bên trong ngồi nhà nứt toác rồi cúi xuống
bốc đầy một lòng bàn tay muội than. Tiếp theo, dưới ánh trăng dìu dịu, cậu ta
bắt đầu vẽ lên một bức tường vỡ bằng những nét thật rộng. Chúng tôi xúm lại
quanh để xem. Cậu ta đang vẽ một hàng những nét đậm thẳng đứng, trên cùng là
nhưng vòng xoắn mảnh, trông như cọc rào và dây thép gai. Ở một bên là một khu
rừng tối tăm. Dưới đất có tuyết phủ, được thể hiện bằng muội than đen. Và đó là
tất cả.
Sau khi vẽ xong, cậu ta loạng choạng lùi ra và ngồi phịch
xuống cỏ, ánh nhìn đờ đẫn, xa xăm. Emma dịu dàng đặt tay lên vai cậu ta và nói:
- Horace, cậu còn biết gì thêm về nơi này không?
- Nơi đó lạnh lẽo lắm.
Bronwyn bước tới xem xét những nét Horace vạch ra trên
tường. Cô vòng cánh tay ôm lấy Olive, đầu Olive hiền hòa tựa vào vai cô.
- Tớ trông nó như một nhà tù vậy, - Bronwyn nói. Olive nghển
cổ lên.
- Thế nào? - cô khẽ hỏi. - Khi nào chúng ta đi?
- Đi đâu? - Enoch vừa nói vừa giơ hai bàn tay lên. - Đó chỉ
là một mớ nguệch ngoạc!
- Đó là một nơi nào đó, - Emma nói và quay lại nhìn thẳng
vào mặt cậu ta. - Chúng ta không thể cứ tới chỗ nào có tuyết và tìm một cái nhà
tù.
- Và chúng ta cũng không thể ở lại đây.
- Sao lại không?
- Hãy nhìn tình trạng nơi này đi. Hãy nhìn cô phụ trách.
Chúng ta đã có khoảng thời gian rất tuyệt ở đây, nhưng nó kết thúc rồi.
Enoch và Emma đôi co một hồi. Những người còn lại ai nấy
chọn cho mình một bên. Enoch lý luận rằng họ đã tách biệt quá lâu khỏi thế
giới, họ sẽ bị mắc kẹt trong cuộc chiến tranh hay bị đám hồn rỗng bắt nếu rời
khỏi vòng, và tốt hơn nên tìm cơ hội ở đây, ít nhất họ cũng thông thuộc địa
hình nơi này. Những người khác nhấn mạnh rằng đằng nào giờ chiến tranh và đám
hồn rỗng đã tìm đến với họ rồi, và họ không có lựa chọn nào khác. Đám hồn rỗng
và bọn xác sống sẽ quay lại tìm cô Peregrine, và thậm chí khi đó chúng còn đông
hơn. Và phải nghĩ tới cả cô Peregrine nữa.
- Chúng ta sẽ tìm một Chủ Vòng Thời Gian khác, - Emma đề
xuất. - Chỉ có những người bạn của cô phụ trách mới biết cách giúp cô.
- Nhưng sẽ thế nào nếu tất cả các vòng thời gian khác cũng
đều đã bị dịch chuyển? - Hugh nói. - Sẽ thế nào nếu tất cả Chủ Vòng Thời Gian
khác đều đã bị bắt cóc?
- Chúng ta không thể nghĩ theo lối đó. Nhất định phải còn
lại vài người.
- Emma nói đúng, - Millard nói, nằm trên mặt đất lấy một
mảnh tường vỡ làm gối kê đầu. - Nếu lựa chọn còn lại là cứ chờ đợi và hy vọng -
rằng sẽ không có thêm hồn rỗng nào mò tới, rằng cô phụ trách sẽ khá hơn - thì
theo tớ đó chẳng phải là lựa chọn.
Những người thoái chí cuối cùng cũng bị làm cho bẽ mặt và
phải đồng ý. Cần rời bỏ trại trẻ. Đồ mang theo cần được đóng gói. Cần trưng
dụng vài chiếc thuyền từ chỗ bến tàu để sử dụng, và đến sáng tất cả sẽ lên
đường.
Tôi hỏi Emma họ sẽ định hướng ra sao. Nói gì thì nói, đám
trẻ đã ở trên đảo gần tám mươi năm, còn bà Peregrine lại không thể nói hay bay
được.
- Có một bản đồ, - cô nói với tôi trong khi chậm rãi quay
đầu nhìn về phía trại trẻ đang bốc khói. - Đấy là trong trường hợp nó chưa bị
cháy mất.
Tôi xung phong giúp cô đi tìm nó. Quấn vải ướt lên che mặt,
chúng tôi đánh liều đi vào trong nhà, chui vào qua bức tường đổ sập. Các cửa sổ
đã vỡ hết kính, không gian mù mịt khói nhưng nhờ ánh sáng mạnh từ ngọn lửa trên
bàn tay Emma, chúng tôi tìm được đường tới phòng học. Tất cả các giá sách đã đổ
ập xuống như những quân domino, chúng tôi đẩy chúng sang bên và phủ phục xuống
tìm kiếm trong những cuốn sách rơi vung vãi trên sàn. Và như thể vận may đã mỉm
cười, cuốn sách thật dễ tìm: đó là cuốn sách to nhất trong thư viện. Emma reo
lên mừng rỡ và cầm nó lên.
Trên đường quay ra, chúng tôi tìm thấy rượu mạnh, cồn thuốc
phiện và băng gạc sạch cho Millard.
Sau khi giúp lau sạch và băng vết thương lại cho cậu ta,
chúng tôi cùng ngồi xuống xem cuốn sách. Thực ra đây là một tập bản đồ chứ
không phải một tấm bản đồ, được đóng trong bìa da được nhuộm màu đỏ thẫm như
vang Bourgogne, mỗi trang đều được vẽ cẩn thận trên thứ chất liệu gì đó như
giấy da. Tập bản đồ rất đẹp và cổ, khổ to đến mức khít một vòng tay ôm của
Emma.
- Nó được gọi là “Bản đồ Các Ngày”, - cô nói. - Nó thể hiện
tất cả các vòng thời gian được cho là từng tồn tại.
Trang cô đã giở ra có vẻ là một bản đồ Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù
không có con đường nào được vẽ, không biên giới nào được vạch rõ. Thay vào đó,
tấm bản đồ có vẽ rải rác những vòng xoáy ốc nhỏ xíu, tôi đoán đó là vị trí các
vòng thời gian. Ở giữa mỗi vòng xoáy là một ký hiệu đặc trưng tương ứng với một
chú giải ở phía cuối trang bản đồ, tại đó các ký hiệu xuất hiện trở lại cạnh
một dãy các con số cách nhau bằng dấu gạch ngang.
Tôi chỉ vào dòng ghi 29-3-316 / ?-?-399 và hỏi:
- Đây là cái gì vậy, một loại mật mã à?
Emma đưa ngón tay lần theo dòng số.
- Vòng thời gian này là ngày hai mươi chín tháng Ba năm 3l6
Công nguyên. Nó tồn tại cho tới tận thời điểm nào đó vào năm 399, nhưng ngày
tháng thì không rõ.
- Chuyện gì xảy ra năm 399 vậy?
Cô nhún vai.
- Trong đó không nói rõ.
Tôi vươn người ra trước cô và lật sang một bản đồ Hy Lạp,
trên đó còn dày đặc các vòng xoáy ốc và con số hơn.
- Nhưng liệt kê tất cả những cái này ra để làm gì? - tôi
hỏi. - Làm thế nào cậu có thể tới những vòng cổ xưa này được?
- Bằng cách nhảy cóc, - Millard nói. - Đó là một việc cực kỳ
phức tạp và nguy hiểm, nhưng bằng cách nhảy cóc từ một vòng tới một vòng khác -
một ngày thuộc về năm mươi năm trước trong quá khứ chẳng hạn - cậu có thể thấy
mình tiếp cận được toàn bộ những vòng đã ngừng tồn tại trong vòng năm mươi năm
vừa qua. Nếu từ đó cậu có thể tìm được tới chúng, ở trong các vòng đó cậu sẽ
còn tìm thấy những vòng khác, và cứ thế tăng lên theo số mũ.
- Đó là du hành vượt thời gian, - tôi kinh ngạc thốt lên. -
Du hành vượt thời gian thật sự.
- Phải, tớ cho là vậy.
- Vậy thì nơi này, - tôi nói, chỉ tay vào hình vẽ bằng muội
than của Horace trên tường. – Chúng ta không những phải xác định xem nó nằm ở
đâu, mà còn vào thời điểm nào nữa, đúng không?
- Tớ e là thế. Và nếu quả thực cô Avocet đang bị đám xác
sống, những kẻ khét tiếng thành thạo trong việc nhảy cóc thời gian bắt giữ, thì
rất có khả năng nơi cô ấy và các Chủ Vòng Thời Gian khác bị đưa tới nằm ở đâu
đó trong quá khứ. Điều đó sẽ khiến cho việc tìm họ càng thêm khó khăn, và việc
đến đó càng thêm nguy hiểm. Vị trí những vòng thời gian trong quá khứ đều bị
các kẻ thù của chúng ta biết rõ, và chúng thường lảng vảng chờ chực ngay gần
lối vào.
- À, nếu thế, - tôi nói, - quả là chuyện tốt khi tớ đi cùng
các cậu.
Emma quay sang nhìn tôi.
- Ồ, thế thì tuyệt quá! - cô reo lên rồi ôm chầm lấy tôi. -
Cậu chắc chứ?
Tôi nói với cô là tôi chắc. Dù đang mệt rã rời, đám trẻ cũng
hồ hởi huýt sáo và vỗ tay. Một vài người ôm hôn tôi. Thậm chí cả Enoch cũng bắt
tay tôi. Nhưng khi tôi quay lại nhìn Emma, nụ cười của cô đã biến mất.
- Có chuyện gì vậy? - tôi hỏi.
Cô cựa người bối rối.
- Có một chuyện cậu cần phải biết, - cô nói, - và tớ e là nó
sẽ làm cậu không muốn đi cùng bọn tớ.
- Không đâu, - tôi cam đoan với cô.
- Khi chúng ta rời khỏi đây, vòng thời gian sẽ khép lại đằng
sau chúng ta. Có thể cậu sẽ không bao giờ còn quay lại được thời điểm cậu xuất
phát để tới đây. Hay ít nhất cũng không dễ dàng.
- Chẳng có gì cho tớ ở đó nữa, - tôi vội nói. - Thậm chí dù
có thể quay lại, tớ cũng không chắc mình muốn thế.
- Bây giờ cậu nói vậy thôi. Tớ cần cậu phải chắc chắn.
Tôi gật đầu, rồi đứng lên.
- Cậu đi đâu thế? - Emma hỏi.
- Đi dạo.
Tôi không đi xa, chỉ chậm rãi vòng quanh khoảng sân gọn ghẽ,
ngắm nhìn bầu trời lúc này đã quang đãng, với hàng tỷ ngôi sao trải ra rải rác.
Những ngôi sao cũng là những kẻ du hành vượt thời gian. Có bao nhiêu trong số
những đốm sáng cổ xưa kia là dư ảnh cuối cùng của các mặt trời giờ đây đã chết?
Có bao nhiêu ngôi sao nữa đã hình thành nhưng ánh sáng của chúng vẫn chưa đi xa
được tới đây? Nếu tất cả các mặt trời trừ mặt trời của chúng ta đều vụt tắt tối
nay, sẽ phải mất quãng thời gian bằng bao nhiêu đời người nữa chúng ta mới nhận
ra sự cô độc của mình? Tôi vẫn luôn biết bầu trời đầy ắp các bí ẩn - nhưng mãi
tới bây giờ tôi mới nhận ra mặt đất cũng đầy ắp bí ẩn đến mức nào.
Tôi tới chỗ con đường mòn dẫn vào rừng. Ở đầu bên kia là nhà
và mọi thứ tôi biết, không bí ẩn, bình thường và an toàn. Có điều nó không an
toàn. Không hẳn an toàn. Không còn an toàn nữa. Đám quái vật đã sát hại ông nội
Portman, và chúng đã bám theo tôi. Sớm muộn gì chúng sẽ lại tiếp tục. Có khi
nào một ngày nào đó tôi quay về nhà và thấy bố mình nằm chết dưới sàn, người
đầm đìa máu? Hoặc là mẹ tôi?
Ở đầu bên này con đường, đám trẻ đang tập trung thành từng
nhóm nhỏ đầy phấn khích, lần đầu tiên trong cuộc đời được bàn bạc lên kế hoạch
cho tương lai.
Tôi bước trở lại chỗ Emma, cô vẫn đang cúi xuống tập bản đồ
to tướng. Bà Peregrine đậu cạnh Emma, dùng mỏ mổ lên chỗ này chỗ kia trên bản
đồ. Cô ngước lên khi tôi lại gần.
- Tớ chắc, - tôi nói.
Cô mỉm cười.
- Tớ rất vui.
- Chỉ còn một việc tớ phải làm trước khi đi.
* * *
Tôi quay về thị trấn ngay trước bình minh. Mưa cuối cùng
cũng ngớt, và khởi đầu của một ngày quang đãng đã hé rạng phía chân trời. Đường
cái trông giống như một cánh tay với các tĩnh mạch bị rạch toang, những vết
rạch dài ở nơi nước lụt cuốn trôi lớp sỏi rải đường đi mất.
Tôi bước vào quán rượu, qua chỗ quầy bar vắng tanh lên lầu,
đến hai căn phòng của bố con tôi. Tối om, cửa phòng bố tôi vẫn đóng, điều này
khiến tôi nhẹ nhõm vì tôi vẫn chưa nghĩ ra được làm thế nào để nói những gì
phải nói với ông. Thay vì thế, tôi ngồi xuống, lấy bút và giấy rồi viết cho ông
một lá thư. Tôi cố giải thích mọi thứ. Tôi viết về đám trẻ đặc biệt, về các hồn
rỗng cũng như việc tất cả những câu chuyện ông nội Portman kể hóa ra đều là sự
thật. Tôi kể với bố những gì đã xảy đến với bà Peregrine và bà Avocet, đồng
thời cố giải thích để ông hiểu vì sao tôi phải ra đi. Tôi mong ông đừng lo
lắng. Sau đó, tôi dừng bút rồi đọc những gì vừa viết.
Không ổn. Bố sẽ không bao giờ tin vào lá thư. Ông sẽ nghĩ
tôi đã bị mất trí hệt như ông nội, hoặc cho rằng tôi đã bỏ trốn hay bị lừa đi
theo kẻ nào đó, hay nhảy từ trên vách đá xuống. Dù là thế nào, tôi cũng sẽ hủy
hoại cuộc sống của ông.
Tôi vo tờ giấy lại và ném nó vào sọt rác.
- Jacob?
Tôi ngoảnh lại và thấy bố đang tựa người vào thành cửa, đôi
mắt lờ mờ, tóc rối bù, mặc một chiếc áo sơ mi bết bùn và quần jean.
- Con chào bố.
- Bố sẽ hỏi con một câu đơn giản, không vòng vo, - ông nói,
- và bố muốn một câu trả lời đơn giản, không vòng vo. Tối qua con đã ở đâu?
Tôi có thể thấy ông đang cố sức để giữ bình tĩnh. Tôi đã
quyết định chấm dứt việc nói dối.
- Bố, con ổn cả. Con đã ở cùng các bạn con.
Chẳng khác gì tôi giật chốt an toàn một quả lựu đạn.
- ĐÁM BẠN CỦA CON CHỈ LÀ TƯỞNG TƯỢNG! - bố tôi hét lên. Ông
bước lại phía tôi, mặt đỏ gay. - Bố ước gì mẹ con và bố đừng bao giờ để gã bác
sĩ tâm lý lập dị đó thuyết phục đưa con tới đây, vì chuyện đó đã trở thành một
tai họa ghê gớm! Vừa rồi là lần cuối cùng con nói dối bố đấy! Giờ hãy vào phòng
con và bắt đầu gói ghém đồ. Chúng ta sẽ lên chuyến phà tiếp theo!
- Kìa bố?
- Và khi chúng ta về nhà, con sẽ không được ra khỏi nhà cho
tới khi chúng ta tìm được bác sĩ tâm lý nào đó không ngu toàn tập!
- Bố!
Tôi cân nhắc trong giây lát xem mình có buộc phải chạy trốn
khỏi ông hay không. Tôi hình dung ra bố đè tôi xuống, lớn tiếng gọi người tới
giúp, rồi điệu tôi lên phà với hai cánh tay bị giữ lại trong một cái áo bó chặt
người dùng để kiểm soát bệnh nhân tâm thần.
- Con không đi với bố đâu, - tôi nói.
Đôi mắt ông nheo lại, rồi ông nghiêng đầu sang một bên như
thể chưa nghe rõ. Tôi đang định nhắc lại câu vừa rồi thì có tiếng gõ cửa.
- Biến đi! - bố tôi gắt lên.
Tiếng gõ cửa lại vang lên, lần này to rõ hơn. Bố tôi đùng
đùng xông tới mở toang cửa ra, và đứng trên đầu cầu thang là Emma, một quả cầu
lửa xanh lơ nhỏ xíu nhảy múa trên bàn tay cô. Bên cạnh cô là Olive.
- Xin chào, - Olive nói. - Chúng cháu tới đây gặp Jacob.
Bố tôi ngớ người ra nhìn họ.
- Cái gì thế này…
Hai cô gái lách qua ông vào trong phòng.
- Hai người đang làm gì ở đây vậy? - tôi khẽ gắt lên với họ.
- Bọn mình chỉ muốn tự giới thiệu thôi, - Emma đáp, nhoẻn
một nụ cười hết cỡ về phía bố tôi. - Chúng cháu gần đây có chơi khá thân với
con trai chú, vì thế chúng cháu thấy ghé qua thăm cũng là hợp lẽ.
- Được thôi, - bố tôi nói, đưa mắt nhìn qua nhìn lại hai vị
khách.
- Cậu ấy thực sự là một chàng trai cừ khôi, - Olive nói. -
Rất can đảm!
- Và đẹp trai nữa! - Emma nói thêm và nháy mắt với tôi.
Cô bắt đầu chao qua chao lại quả cầu lửa giữa hai bàn tay
mình như một món đồ chơi. Bố tôi nhìn nó chăm chăm như bị thôi miên.
- Ph.. phải, - ông lắp bắp. - Hẳn rồi.
- Chú không phiền nếu cháu cởi giày ra chứ ạ? - Olive hỏi,
rồi cởi luôn giày ra mà không đợi câu trả lời, và lập tức lơ lửng bay lên tận
trần. - Cảm ơn chú. Thế này thoải mái hơn nhiều!
- Bố, đây là các bạn con. Những người bạn con đã kể với bố.
Đây là Emma, còn kia là Olive, trên trần ấy.
Bố tôi loạng choạng lùi lại một bước.
- Bố vẫn đang ngái ngủ, - ông mơ màng nói. - Bố mệt quá…
Một cái ghế tựa nhấc mình lên khỏi sàn, bồng bềnh bay tới
chỗ ông, đằng sau là một dải băng bó được quấn rất có nghề nhấp nhô trong không
khí.
- Vậy mời chú ngồi xuống, - Millard lên tiếng.
- Được, - bố tôi đáp, và ông ngồi xuống.
- Cậu làm gì ở đây vậy? - tôi thì thào hỏi Millard. - Đáng
lẽ cậu cần nằm nghỉ chứ?
- Tớ đi loanh quanh thôi. - Cậu ta giơ lên một lọ thuốc
trông có vẻ hiện đại. - Tớ phải công nhận trong tương lai họ chế tạo được những
viên thuốc giảm đau công hiệu đến kỳ diệu!
- Bố, đây là Millard, - tôi nói. - Bố không nhìn thấy cậu ấy
vì cậu ấy vô hình.
- Rất vui được gặp cháu.
- Cháu cũng vậy, - Millard nói.
Tôi đến bên bố và quỳ gối xuống cạnh ghế ông ngồi. Đầu ông
hơi gật gù.
- Bố, con sẽ đi. Có thể bố con mình sẽ không gặp nhau một
thời gian.
- Ồ, vậy sao? Con định đi đâu?
- Một cuộc du hành.
- Một cuộc du hành, - ông nhắc lại. - Khi nào con về?
- Con cũng không biết nữa.
Bố tôi lắc đầu.
- Hệt như ông nội con vậy.
Millard vặn nước từ vòi vào một cái cốc rồi mang tới cho bố
tôi, ông đưa tay ra cầm lấy nó, như thể những cái cốc thủy tinh bay lơ lửng chẳng
có gì lạ thường. Tôi đoán ông thực sự nghĩ mình đang mơ.
- Được rồi, chúc ngủ ngon, - bố tôi nói rồi đứng dậy, bám
vào ghế để đứng vững hẳn, sau đó lê bước về phòng ngủ của mình. Dừng lại ngoài
cửa, ông quay lại nhìn vào mặt tôi. - Jake này?
- Vâng, thưa bố?
- Cẩn thận con nhé!
Tôi gật đầu. Bố tôi đóng cửa lại. Một khoảnh khắc sau tôi
nghe thấy ông nằm vật xuống giường. Tôi ngồi xuống và đưa tay lên xoa mặt. Tôi
không biết phải cảm thấy thế nào nữa.
- Bọn mình có giúp được gì không? - Olive hỏi từ chỗ cô đang
bám trên trần.
- Tớ không rõ nữa, - tôi nói. - Tớ không nghĩ vậy. Sau đây
bố tớ sẽ chỉ thức dậy và nghĩ ông đã nằm mơ thấy tất cả các cậu.
- Cậu có thể viết một lá thư, - Millard gợi ý. - Nói với ông
ấy bất cứ điều gì cậu muốn - ông ấy không bám theo bọn mình được đâu.
- Tớ đã viết một lá thư. Nhưng nó không phải là bằng chứng.
- À, - cậu ta đáp. - Phải, tớ hiểu khó khăn của cậu rồi.
- Bị vậy cũng hay nhỉ, - Olive nói. - Ước gì bố mẹ tớ đã yêu
tớ đủ để lo lắng khi tớ rời khỏi nhà.
Emma đưa tay ra siết nhẹ bàn tay Olive. Rồi Emma nói:
- Có lẽ tớ có bằng chứng đấy.
Cô lấy từ trong cạp váy ra một cái ví nhỏ rồi lấy từ đó ra
một bức ảnh. Cô đưa bức ảnh cho tôi. Đó là ảnh chụp cô và ông tôi khi ông còn
trẻ. Tất cả sự chú ý của cô tập trung vào ông, nhưng ông dường như đang để tâm
đi đâu. Bức ảnh thật buồn và đẹp, bao hàm toàn bộ phần ít ỏi tôi biết về mối
quan hệ của hai người.
- Nó được chụp ngay trước khi Abe lên đường ra trận, - Emma
nói. - Bố cậu sẽ nhận ra tớ, phải không?
Tôi mỉm cười với cô.
- Trông cậu như chưa già thêm lấy một ngày.
- Tuyệt vời! - Millard nói. - Đó là bằng chứng của cậu.
- Cậu luôn giữ bức ảnh này bên mình sao? - tôi hỏi khi trả
lại Emma bức ảnh.
- Phải. Nhưng tớ không còn cần đến nó nữa. - Cô tới bên bàn,
cầm lấy cây bút của tôi và bắt đầu viết lên đằng sau bức ảnh. - Tên bố cậu là
gì?
- Franklin.
Khi đã viết xong, cô đưa bức ảnh cho tôi. Tôi xem qua cả hai
mặt rồi lấy lá thư của mình từ trong sọt rác ra, vuốt phẳng nó, rồi để lại trên
bàn cùng bức ảnh.
Franklin thân mến,
Rất vui được gặp cậu.
Đây là một bức ảnh của bố cậu và tôi đã chụp khi ông ấy sống
ở đây.
Tôi hy vọng nó sẽ đủ để thuyết phục cậu rằng tôi vẫn còn
sống, và những câu chuyện Jacob kể không phải là hư cấu. Jacob sẽ đi cùng các
bạn tôi và tôi trong một thời gian. Chúng tôi sẽ trông chừng cho nhau được an
toàn hết mức mà những người như chúng tôi có thể giữ được. Một ngày nào đó, khi
nguy hiểm đã qua, cậu ấy sẽ trở về với cậu.
Tôi xin hứa với cậu.
Thân, Emma Bloom
T.B:
Tôi biết có thể cậu đã tìm thấy một lá thư tôi gửi cho bố
cậu nhiều năm trước. Đó là một lá thư không hợp tình hợp lý cho lắm, và tôi cam
đoan với cậu rằng bố cậu không hề đề nghị tôi viết; và ông ấy cũng không trả
lời nó. Ông ấy là một trong những người chính trực nhất mà tôi từng biết.
- Sẵn sàng đi rồi chứ? - tôi hỏi.
Các bạn tôi đang đứng trên ngưỡng cửa, chờ đợi tôi.
- Chỉ đi nếu cậu cũng sẵn sàng, - Emma đáp.
Chúng tôi lên đường tới triền đồi. Khi tới gần đỉnh đồi nơi
tôi luôn dừng lại để xem mình đã đi xa đến mức nào, lần này tôi vẫn bước đi
tiếp. Đôi khi tốt hơn không nên nhìn lại. Khi chúng tôi tới chỗ mộ đá, Olive vỗ
lên các tảng đá như một con thú cưng đã thân quen lâu ngày.
- Tạm biệt, vòng thân mến, - cô nói. - Mày đã luôn là một
cái vòng thật tốt, và chúng tao sẽ nhớ mày lắm.
Emma bóp khẽ lên vai cô gái, cả hai người cùng quỳ phục
xuống và chui vào trong.
Vào đến căn phòng trong cùng, Emma ghé ngọn lửa của cô sát
lên tường và chỉ cho tôi thấy thứ tôi chưa bao giờ nhận ra trước đây: một danh
sách dài các ngày tháng và chữ cái viết tắt họ tên được khắc vào đá.
- Đó là tất cả những lần người ta từng dùng vòng thời gian
này, - cô giải thích. - Tất cả những ngày khác mà vòng thời gian đã được cài
đặt theo.
Nhìn vào danh sách, tôi đọc được một dòng P.M 3-2-1853 và
một dòng J.R.R. 1-4-1797 và một dòng gần như không còn đọc nổi X.J. 1580.
Gần dưới cùng là một vài dấu hiệu lạ lùng tôi không hiểu
được.
- Chữ Rune, - Emma nói. - Cổ lắm rồi.
Millard lần tìm trong đám sỏi cho tới khi thấy một viên đá
có cạnh sắc, rồi dùng một viên đá khác làm búa, cậu ta đục một dòng ghi chú của
mình bên dưới những dòng khác.
Dòng này viết A.P. 3-9-1940.
- AP là ai vậy? - Olive hỏi.
- Alma Peregrine, - Millard nói, rồi cậu ta thở dài. - Đáng
ra người khắc dòng này phải là cô, chứ không phải tớ.
Olive lần bàn tay lên trên những nét khắc thô ráp.
- Cậu có nghĩ lúc nào đó một Chủ Vòng Thời Gian khác sẽ tới
đây để tạo ra một vòng thời gian không?
- Tớ hy vọng là thế, - cậu ta nói. - Tớ thực lòng hy vọng là
thế.
* * *
Chúng tôi chôn cất Victor.
Bronwyn bê cả chiếc giường của anh ta lên và mang nó ra ngoài,
Victor vẫn nằm trên đó, và khi toàn bộ đám trẻ tập hợp lại trên bãi cỏ, cô kéo
chăn đắp ra và ôm lấy Victor, đặt cái hôn cuối cùng lên trán anh ta. Mấy cậu
con trai chúng tôi nâng các góc giường lên như những người khiêng linh cữu và
đưa anh ta tới đặt xuống cái hố quả bom đã đào thành.
Rồi tất cả chúng tôi cùng leo lên ngoại trừ Enoch, cậu ta
lấy một người đất sét từ trong túi áo ra và nhẹ nhàng đặt lên ngực chàng trai.
- Đây là chú lính cừ nhất của tớ, - cậu ta nói. - Để làm bạn
cùng cậu.
Người đất sét ngồi dậy, Enoch bèn dùng ngón cái ấn nó nằm
xuống. Người đất sét bèn lăn sang bên, một cánh tay kê dưới đầu và có vẻ như
ngủ thiếp đi. Khi cái hố đã được lấp đầy, Fiona kéo vài chồi cây và đoạn dây
leo rải lên nền đất mới đắp và bắt đầu trồng chúng.
Khi những người còn lại trong chúng tôi đã hoàn thành việc
gói ghém đồ cho cuộc hành trình, Adam đã trở lại vị trí cũ của anh ta, chỉ có
điều giờ đây anh ta đánh dấu ngôi mộ của Victor.
Sau khi đám trẻ đã nói lời từ biệt trại trẻ, một số cầm theo
vài mảnh gạch hay bông hoa ngắt trong vườn làm kỷ niệm, chúng tôi thực hiện
chuyến đi cuối cùng qua hòn đảo: qua những vạt rừng cháy đen nghi ngút khói,
qua đầm lầy bị những hố bom đào xới, qua rặng đồi và xuống qua thị trấn nhỏ với
làn khói than bùn lơ lửng phía trên nơi các cư dân đang nấn ná bên các khung
cửa sổ và cửa ra vào, quá mệt mỏi và choáng váng tới mức dường như chẳng hề
nhận ra cuộc diễu hành nho nhỏ của những đứa trẻ có dáng vẻ đặc biệt ngang qua
phía trước họ. Chúng tôi lặng lẽ nhưng đầy kích động. Đám trẻ đã không hề ngủ,
nhưng nếu nhìn vào họ bạn sẽ không thể biết được điều đó.
Hôm ấy là ngày mồng bốn tháng Chín, và lần đầu tiên sau một
thời gian rất dài, ngày tháng lại bắt đầu trôi qua. Vài người trong đám trẻ quả
quyết họ có thể cảm nhận thấy sự khác biệt; không khí trong buồng phổi họ tươi
mới hơn, dòng máu tuần hoàn trong người họ chảy nhanh hơn. Họ cảm thấy tràn đầy
sức sống và chân thực hơn. Cả tôi cũng thế.
* * *
Tôi từng mơ thoát khỏi cuộc sống bình thường của mình, song
cuộc đời tôi chưa bao giờ bình thường. Chỉ đơn giản tôi đã không thể nhận ra nó
khác thường tới mức nào. Cũng như thế, tôi chưa bao giờ tưởng tượng được rằng
nhà có thể là một nơi tôi sẽ nhớ nhung. Ấy vậy nhưng khi chúng tôi chuyển đồ
xuống những chiếc thuyền của mình trong ánh bình minh đang dần ló dạng, trước
một lằn ranh mới của Trước và Sau, tôi nghĩ tới mọi thứ mình sắp để lại sau
lưng - bố mẹ, thị trấn nơi tôi sống, cậu bạn từng thân nhất và là người bạn duy
nhất của tôi - và nhận ra việc ra đi sẽ không hề giống như tôi từng tưởng
tượng, không giống như rũ bỏ một gánh nặng. Ký ức về chúng là thứ gì đó rõ ràng
và nặng nề, và tôi sẽ mang nó theo mình.
Ấy thế nhưng, cuộc sống trước đây của tôi là một thứ không
thể quay trở lại, cũng như ngôi nhà bị trúng bom của đám trẻ. Các cánh cửa đã
bị hất tung ra khỏi những cái lồng của chúng tôi. Mười đứa trẻ đặc biệt và một
con chim đặc biệt cần được thu xếp đủ chỗ chỉ trên ba chiếc thuyền chèo tay,
trong khi rất nhiều thứ cần bị lược bỏ và để lại trên bến tàu. Khi chúng tôi đã
xong việc, Emma đề nghị một người trong chúng tôi nói điều gì đó - một lời phát
biểu dành cho chuyến đi phía trước - nhưng dường như không ai có sẵn từ ngữ.
Vậy là Enoch giơ cao cái lồng của bà Peregrine lên, bà liền kêu lên một tiếng
thật to, chói tai. Chúng tôi đáp lại bằng một tiếng hô vang, vừa là tiếng reo
chiến thắng vừa là lời than vãn, dành cho mọi thứ đã mất đi nhưng vẫn có thể
giành lại.
Hugh và tôi chèo chiếc thuyền đầu tiên. Enoch ngồi quan sát
chúng tôi ở mũi thuyền, sẵn sàng chờ đến lượt mình, trong khi Emma đầu đội mũ
ngắm nhìn hòn đảo đang lùi xa dần. Mặt biển như một tấm gương gợn sóng lăn tăn
trải ra vô tận phía trước chúng tôi. Ngày mới ấm áp, nhưng một cơn gió lạnh nổi
lên khỏi mặt nước, và tôi có thể thoải mái chèo trong hàng giờ. Tôi tự hỏi làm
thế nào sự bình yên này có thể thuộc về một thế giới đang trong chiến tranh.
Trên chiếc thuyền kế tiếp, tôi thấy Bronwyn vẫy tay và đưa
chiếc máy ảnh của bà Peregrine lên mắt. Tôi mỉm cười đáp lại. Chúng tôi không
mang theo bất cứ cuốn album ảnh cũ nào; có thể đây sẽ là bức ảnh đầu tiên trong
một cuốn album mới tinh. Thật lạ khi nghĩ tới chuyện một ngày kia có lẽ tôi
cũng sẽ có xấp ảnh ố vàng của chính mình để chỉ cho những đứa cháu đang hoài
nghi xem - cùng những câu chuyện hoang đường của chính tôi để kể lại cho chúng.
Sau đó, Bronwyn hạ chiếc máy ảnh xuống và giơ cánh tay lên,
chỉ vào thứ gì đó phía đằng sau chúng tôi.
Ngoài xa, nổi lên đen sẫm trong ánh mặt trời đang lên, một
đoàn chiến hạm xuất hiện nơi đường chân trời.
Chúng tôi chèo nhanh hơn.
Hết
-----------
Đọc tiếp Thành Phố Hồn Rỗng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét