Thứ Hai, 10 tháng 10, 2016

Thành phố hồn rỗng - tác giả Ransom Riggs (Ch 1 - Ch 4)

Ransom Riggs

Thành phố hồn rỗng

Dịch giả: Lê Đình Chi

Giới thiệu

Mồng 3 tháng 9 năm 1940.
Vội vã nói lời tạm biệt hòn đảo từng là chốn náu thân yên ấm, mười đứa trẻ đặc biệt chạy trốn khỏi đám quái vật đang săn lùng mình. Chỉ có một người có thể giúp họ, cô phụ trách Peregrine, nhưng bà lại đang bị mắc kẹt trong hình dạng một con chim. Jacob Portman và bạn bè của cậu bắt đầu cuộc hành trình đầy bất trắc khó lường, hy vọng có thể tìm được người giúp cô phụ trách yêu quý trở lại dạng người. Nhưng nơi mà họ tìm đến, London năm 1940, đã là một thành phố tan hoang dưới tầm bom đạn, và những nguy hiểm chết người ẩn giấu mọi nơi, chưa kể thứ rùng rợn nhất: những xác sống, hồn rỗng. Với từng ấy thử thách, liệu đám trẻ có cứu được cô Peregrine?
Là tập thứ 2 trong series “Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine”, Thành phố hồn rỗng tiếp nối một câu chuyện khiến độc giả mê hoặc. Như một nhà ảo thuật dày dạn, Ransom Rigg kết hợp văn phong hồi hộp với những bức ảnh minh họa kỳ lạ để củng cố bầu không khí ám ảnh của câu chuyện. Đáng sợ đến mức kinh ngạc nhưng cũng vô cùng cảm động, điểm đáng chỉ trích duy nhất của sách chính là nó buộc những độc giả cứ phải nôn nao khi kết thúc trang cuối - họ không muốn kìm lòng chờ đợi cho đến tập tiếp theo.
*

Và kia! Trên con thuyền đi về phía chúng tôi
Một ông lão, tóc bạc phơ tháng năm tuổi tác,
Rền rĩ: “Khốn thay cho các ngươi, những linh hồn sa ngã!
Chẳng bao giờ có hy vọng được nhìn lên thiên đường.
Ta tới dẫn các ngươi sang bờ bên kia;
Vào bóng tối vĩnh hằng; vào lửa và sương giá.
Và ngươi, linh hồn sống đang đứng đằng kia,
Hãy tránh xa khỏi những kẻ đã chết này!”
Nhưng ông ta thấy là tôi không lui bước…
- Hỏa ngục của Dante, khổ III

Những người Đặc Biệt

Jacob Portman
Nhân vật chính của chúng ta, có thể nhìn thấy và cảm nhận được sự hiện diện của hồn rỗng

Emma Bloom
Cô gái có thể tạo ra lửa từ hai bàn tay, từng có mối liên hệ tình cảm với ông nội của Jacob

Abraham Portman (quá cố)
Ông nội của Jacob, bị hồn rỗng sát hại

Bronwyn Bruntley
Cô gái sở hữu sức mạnh phi thường

Millard Nullings
Cậu bé tàng hình, là học giả trong đám trẻ đặc biệt

Olive Abroholos Elephanta
Cô gái bay lơ lửng

Horace Somnusson
Cậu bé có khả năng thấy trước tương lai và phải chịu sự giày vò của những giấc mơ tiên tri

Enoch O’Connor
Cậu bé có khả năng truyền sự sống cho một đối tượng trong khoảng thời gian ngắn

Hugh Apiston
Cậu bé nuôi ong trong người và có khả năng điều khiển chúng

Claire Densmore
Cô bé có cái miệng thứ hai sau gáy; ít tuổi nhất trong số những đứa trẻ đặc biệt của cô Peregrine

Fiona Frauenfeld
Cô gái trầm mặc, có khả năng khiến cây cối lớn lên

Alma Lefay Peregrine
Chủ Vòng Thời Gian, có khả năng biến hình, thao túng thời gian; chủ Vòng Thời Gian đặt tại Cairnholm, đã bị bắt trong hình dạng chim

Esmerelda Avocet
Một Chủ Vòng Thời Gian; Vòng Thời Gian của bà bị những kẻ biến chất tấn công và bà bị bọn xác sống bắt cóc
*
Không phải người Đặc Biệt

Franklin Portman
Bố của Jacob, nhà điểu cầm học, muốn trở thành tác giả viết sách về thiên nhiên

Maryann Portman
Mẹ Jacob, người thừa kế chuỗi nhà thuốc lớn thứ hai Florida

Ricky Pickering
Một người bạn bình thường của Jacob

Ác sĩ Golan (đã chết)
Một xác sống đội lốt bác sĩ tâm lý để đánh lừa Jacob và gia đình cậu, về sau bị Jacob giết

Ralph Waldo Emerson (quá cố)
Nhà viết tiểu luận, diễn giả, nhà thơ
* * *

Phần Một


Chương 1


Chúng tôi chèo thuyền qua vịnh, đi ngang qua những con tàu dập dềnh đang đùn gỉ ra từ các mối nối của chúng, qua những đám chim biển lặng lẽ đậu thành hàng trên đỉnh những tàn tích bướng bỉnh còn sót lại của các bến tàu đã chìm, ngang qua những ngư dân hạ lưới xuống nhìn chăm chăm như hóa đá khi chúng tôi bơi ngang qua, không dám chắc chúng tôi có thật hay chỉ là ảo ảnh; một cuộc diễu hành của những bóng ma trên mặt nước, hay của những kẻ sẽ sớm trở thành hồn ma. Chúng tôi là mười đứa trẻ và một con chim trên ba chiếc thuyền nhỏ tròng trành, quả quyết chèo đi trong im lặng thẳng ra ngoài biển, khu vịnh an toàn duy nhất trong vòng nhiều dặm nhanh chóng lùi xa đằng sau chúng tôi, lởm chởm những vách đá và đầy huyền ảo trong ánh vàng buổi bình minh pha lẫn màu trời xanh. Đích đến của chúng tôi, bờ biển đất liền xứ Wales đầy mong đợi, nằm đâu đó phía trước nhưng chỉ hiện ra mờ mờ, một dải sẫm màu mơ hồ chạy dài theo đường chân trời phía xa.
Chúng tôi chèo qua trước ngọn hải đăng cũ bình thản vươn lên đằng xa, chỉ mới tối qua đây còn là nơi xảy ra bao biến cố kinh hoàng. Chính tại đó, trong khi bom đang nổ rền quanh mình, chúng tôi đã thiếu chút nữa chết đuối, thiếu chút nữa bị những viên đạn xé ra từng mảnh; cũng tại đó tôi đã cầm lấy một khẩu súng, siết cò và giết chết một người, một hành động đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi; tại đó chúng tôi đã để mất cô Peregrine rồi giành lại được bà - từ bộ hàm thép của một chiếc tàu ngầm - dù cô Peregrine trở lại với chúng tôi đã bị tổn thương, cần sự giúp đỡ mà chúng tôi thì không biết giúp như thế nào. Lúc này bà đang đậu trên đuôi thuyền của chúng tôi, nhìn về nơi trú ẩn bà tạo dựng nên giờ đang lùi xa dần, khuất dần sau mỗi nhịp chèo.
Cuối cùng, chúng tôi chèo qua đê chắn sóng và ra ngoài biển khơi rộng mênh mông, và mặt nước phẳng lặng như gương của vịnh bị khuấy động bởi những gợn sóng nhỏ bị cắt ra theo hai bên mạn thuyền của chúng tôi. Tôi nghe thấy một chiếc máy bay đang xuyên qua các đám mây cao tít trên đầu chúng tôi và, dừng tay chèo lại, tôi nghển cổ lên, chững lại để hình dung xem đội thuyền bé nhỏ của chúng tôi nhìn từ trên độ cao đó thì như thế nào: tôi đã lựa chọn thế giới này, và mọi thứ tôi có trong nó, và tất cả những sinh mạng đặc biệt, quý giá của chúng tôi chứa gọn trong ba mảnh gỗ mong manh trôi nổi trên con mắt mênh mông không chớp của biển cả.
Xin hãy nhân từ.
* * *
Những chiếc thuyền của chúng tôi dễ dàng lướt qua những con sóng, cả ba chiếc cùng sóng hàng ngang nhau, một cơn gió thân thiện đưa chúng tôi về phía bờ. Chúng tôi thay nhau chèo thành ca, lần lượt cầm mái chèo để tránh kiệt sức, mặc dù tôi cảm thấy mạnh mẽ đến mức trong gần một giờ tôi từ chối nhường lại chúng. Tôi đắm mình trong nhịp chèo khua, hai cánh tay tôi vẽ thành từng đường hình e líp dài trong không khí như thể đang kéo về phía mình thứ gì đó từ chối trong chịu tới. Hugh phụ trách mái chèo bên đối diện với tôi, và đằng sau cậu ta, ngồi trên mũi thuyền, là Emma, đôi mắt cô ẩn kín dưới vành của một chiếc mũ rộng vành, đầu cúi xuống một tấm bản đồ được trải ra trên hai đầu gối. Thỉnh thoảng cô lại ngẩng lên khỏi bản đồ để quan sát đường chân trời, và chính hình ảnh khuôn mặt cô trong ánh mặt trời đã đem đến cho tôi năng lượng tôi không ngờ mình có.
Tôi cảm thấy mình có thể chèo mãi - cho tới khi Horace hét lớn từ một trong hai chiếc thuyền còn lại hỏi còn bao nhiêu đại dương nữa ngăn cách chúng tôi với đất liền, còn Emma thì nheo mắt nhìn lại phía hòn đảo, rồi cúi xuống bản đồ, những ngón tay xòe ra để đo đạc, sau đó nói, ít nhiều ngờ vực, “Bảy cây số thì phải?”. Nhưng sau đó Millard, cũng ngồi trên thuyền của chúng tôi, thì thầm gì đó vào tai Emma, cô cau mày rồi xoay vuông góc tấm bản đồ lại, rồi lại cau mày, và nói, “Ý tớ là tám cây rưỡi”. Khi những từ này rời khỏi miệng cô, tôi cảm thấy mình - và nhìn thấy những người khác - có vẻ ít nhiều nản chí.
Tám cây rưỡi: hành trình mất một giờ đồng hồ trên chiếc phà làm dạ dày lộn ngược đã đưa tôi tới Cairnholm vài tuần trước. Khoảng cách mà một chiếc thuyền máy bất cứ kích cỡ nào cũng có thể dễ dàng vượt qua. Ít hơn một cây rưỡi so với quãng đường các ông bác phì nộn của tôi cứ cách một tuần lại chạy vào dịp cuối tuần để làm từ thiện, và cũng chỉ nhiều hơn thế một chút so với quãng đường mẹ tôi tự đắc bà có thể thực hiện được trong các lớp tập trên máy chèo thuyền tại phòng gym tưởng tượng của bà. Nhưng phải ba mươi năm nữa chiếc phà chạy qua lại giữa hòn đảo và đất liền mới bắt đầu hoạt động, những chiếc máy tập chèo thuyền thì không hề bị chất nặng hành khách và hành lý, và chúng cũng không đòi hỏi phải liên tục chỉnh hướng chèo chỉ để giữ thuyền đi đúng hướng. Phiền phức hơn thế, quãng đường biển chúng tôi đang vượt qua lại rất bất trắc, một cái bẫy nuốt chửng tàu bè khét tiếng: tám cây rưỡi trên mặt biển đỏng đảnh, quay quắt, dưới đáy rải rác những xác tàu đắm đã xanh rì cùng xương cốt thủy thủ, và lẩn khuất đâu đó trong bóng tối sâu thẳm là kẻ thù của chúng tôi.
Có những người trong chúng tôi lo sợ như thế, họ cho rằng đám xác sống đang ở ngay gần, đâu đó bên dưới chúng tôi, trong chiếc tàu ngầm Đức đó, chờ đợi. Nếu chưa biết chúng tôi đã chạy trốn khỏi đảo, thì chúng cũng sẽ sớm biết. Chúng không đời nào đi xa tới mức bắt cóc cô Peregrine để rồi lại bỏ cuộc chỉ sau một lần thử sức thất bại. Những chiếc tàu chiến đang chậm chạp dịch chuyển ngoài xa như những con rết và các máy bay Anh thường trực quan sát trên không khiến cho việc nổi lên bề mặt giữa ban ngày quá nguy hiểm với chiếc tàu ngầm, nhưng khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sẽ trở thành con mồi ngon xơi. Chúng sẽ tìm đến chúng tôi, bắt cô Peregrine đi, và nhấn chìm những người còn lại. Thế là chúng tôi chèo, hy vọng duy nhất của chúng tôi là tới được đất liền trước khi màn đêm bắt kịp.
* * *
Chúng tôi chèo cho tới khi cánh tay đau nhức, vai nổi cục. Chúng tôi chèo cho tới khi cơn gió hây hẩy buổi sáng ngừng thổi và mặt trời gay gắt xối nắng xuống chúng tôi như thể qua một thấu kính phóng đại, và mồ hôi đọng lại ướt sũng quanh cổ áo chúng tôi, và tôi nhận ra đã không ai nghĩ đến chuyện mang theo nước ngọt, còn biện pháp chống nắng vào năm 1940 đồng nghĩa với việc đứng trong bóng râm. Chúng tôi chèo cho tới khi da quanh rìa lòng bàn tay bong tróc, tin chắc mình hoàn toàn không thể chèo thêm nhát nào nữa, nhưng rồi lại chèo, rồi thêm một nhịp, rồi lại thêm một nhịp nữa.
- Các cậu ra hàng xô mồ hôi rồi đấy, - Emma nói. - Để tớ chèo cho một lúc không các cậu chảy tan hết bây giờ.
Giọng nói của cô làm tôi giật mình bừng tỉnh khỏi một cơn đờ đẫn. Tôi gật đầu đầy biết ơn và để cô ngồi thay vào chỗ chèo thuyền, nhưng hai mươi phút sau tôi đòi lại nó. Tôi không thích những ý nghĩ len lỏi vào đầu mình khi cơ thể tôi nghĩ ngơi: những cảnh tưởng tượng bố tôi tỉnh giấc phát hiện ra tôi đã đi khỏi khu phòng trọ của hai bố con tại Cairnholm, thay vào chỗ tôi là lá thư khó hiểu của Emma; rồi cơn hoảng loạn sẽ diễn ra kế tiếp. Hồi ức về những điều kinh hoàng tôi phải chứng kiến gần đây thoáng lóe lên; một con quái vật kéo tôi vào bộ hàm của nó; kẻ từng là bác sĩ tâm lí của tôi rơi xuống chết; một người đàn ông bị vùi trong một cái quan tài đầy nước đá, bị lôi từ thế giới bên kia trở lại trong thoáng chốc để lào phào vào tai tôi với cái cổ họng chỉ còn một nửa vẹn. Vậy là tôi chèo bất chấp sức lực cạn kiệt cùng cái cột sống có vẻ sẽ chẳng bao giờ thẳng lại được, cũng như hai bàn tay trầy xước vì ma sát, và cố không nghĩ tới bất cứ điều gì, những chiếc mái chèo nặng trịch đó vừa như một bản án chung thân vừa như một cái phao cứu sinh.
Bronwyn, dường như không biết mệt mỏi, một mình chèo cả một chiếc thuyền. Olive ngồi đối diện nhưng chẳng giúp được gì; cô gái nhỏ không thể kéo mái chèo đi mà không nhấc bổng mình lên không trung, để rồi một cơn gió nhẹ cũng có thể làm cô bay vụt đi mất như một cái diều. Vậy là Olive hò hét cổ vũ trong khi Bronwyn gánh phần việc của hai người - hay ba hoặc bốn, nếu bạn tính đến những chiếc va li và hộp chất đầy chiếc thuyền của họ, bên trong nhét đầy quần áo, thức ăn, bản đồ, sách và rất nhiều thứ ít thực tế hơn, như vài chiếc lọ đựng tim bò sát ngâm dấm trong cái túi vải len thô của Enoch; hay tay nắm cửa trước bị bung ra từ ngôi nhà của cô Peregrine, một kỷ vật Hugh tìm thấy trên bãi cỏ lúc chúng tôi đi ra thuyền và quyết định cậu ta không thể sống thiếu nó; hay cái gối cồng kềnh Horace đã cứu khỏi ngôi nhà đang cháy - đó là cái gối may mắn của cậu ta, anh chàng nói vậy, và là thứ duy nhất ngăn chặn được những cơn ác mộng làm cậu ta sợ đến đờ người.
Những món đồ khác quý giá tới mức đám trẻ giữ khư khư bên mình thậm chí cả khi chèo thuyền. Fiona kẹp giữa hai đầu gối một chậu đất có cả giun lấy trong vườn. Millard đã bôi lên mặt một nắm bột gạch bị bom nghiền nát vụn, việc này lạ lùng cứ như thể một nghi thức để tang. Những thứ họ giữ lại khư khư ấy có vẻ lạ lùng, nhưng một phần trong tôi lại cảm thấy đồng cảm: đó là tất cả những gì họ còn lại từ mái ấm của họ. Những đứa trẻ biết nó đã mất không có nghĩa là họ biết từ giã nó thế nào.
Sau ba giờ chèo thuyền như những nô lệ khổ sai, khoảng cách đã làm hòn đảo co nhỏ lại còn cỡ một bàn tay xòe ra. Trông nó chẳng còn gì tương đồng với cái pháo đài bao quanh toàn vách đá cheo leo báo điềm gở mà tôi trông thấy lần đầu tiên vài tuần trước; giờ đây, trông hòn đảo có vẻ mong manh, một phiến đá đang đứng trước nguy cơ bị những con sóng cuốn phăng đi.
- Nhìn xem! - Enoch đang ngồi thuyền bên cạnh chúng tôi chợt hét lên, đứng bật dậy. - Nó đang biến mất!
Một màn sương mù ma quái bao trùm lấy hòn đảo, che khuất nó khỏi tầm mắt, chúng tôi bèn ngừng chèo dõi theo nó mờ dần.
- Hãy nói lời tạm biệt hòn đảo của chúng ta, - Emma nói, cô đứng lên và bỏ mũ ra. - Có thể chúng ta sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa.
- Vĩnh biệt, Đảo, - Hugh nói. - Bạn đã thật tốt với chúng tôi.
Horace đặt mái chèo của cậu ta xuống và vẫy tay.
- Tạm biệt, Nhà. Tớ sẽ nhớ tất cả các căn phòng cũng như khu vườn của cậu, nhưng chủ yếu là nhớ cái giường của tớ.
- Tạm biệt, Vòng, - Olive sụt sịt. - Cảm ơn bạn đã che chở bọn mình an toàn suốt những năm qua.
- Những năm tuyệt vời, - Bronwyn nói. - Những năm tuyệt nhất tờ từng biết.
Cả tôi cũng thầm tạm biệt với nơi đã thay đổi tôi mãi mãi - và cũng là nơi, còn hơn bất cứ nấm mồ nào, sẽ mãi lưu giữ ký ức cũng như bí ẩn về ông tôi. Ông và hòn đảo đó đã trở nên gắn bó đến độ không thể tách rời, và giờ đây, khi cả hai đều đã biến mất, tôi tự hỏi liệu có bao giờ thực sự hiểu được những gì đã xảy đến với mình không: tôi đã trở thành cái gì, đang trở thành cái gì. Tôi đã tới hòn đảo để giải đáp bí ẩn của ông mình, và trong khi làm điều đó, tôi lại khám phá ra bí ẩn về chính mình. Quan sát Cairnholm biến mất cũng giống như chứng kiến chiếc chìa khóa duy nhất còn lại để mở ra bí ẩn của tôi chìm dần dưới những ngọn sóng thăm thẳm mịt mù.
Rồi, bị nuốt chửng bởi màn sương mù khổng lồ, hòn đảo cứ thế mà biến mất. Như thể nó chưa từng tồn tại.
* * *
Không lâu sau, màn sương mù bắt kịp chúng tôi. Tầm nhìn của chúng tôi ngày càng hẹp dần, đất liền mờ đi, mặt trời nhạt nhòa chỉ còn là một quầng trắng nhợt, và chúng tôi quay vòng trong con nước cuộn xoáy cho tới khi mất hết mọi cảm nhận về phương hướng. Cuối cùng, chúng tôi dừng lại, đặt mái chèo xuống và chờ đợi trong sự im lặng buồn nản, hy vọng sương mù sẽ tan; sương chưa tan thì đi thêm nữa cũng chỉ vô ích.
- Tớ không thích thế này đâu, - Bronwyn nói. - Nếu bọn mình đợi quá lâu, đêm sẽ buông xuống, lúc ấy bọn mình sẽ phải tính đến những thứ đáng lo ngại hơn thời tiết xấu.
Thế rồi, như thể nghe thấy lời Bronwyn và quyết định bắt chúng tôi phải ở yên chỗ, thời tiết xoay sang cực tồi. Một cơn gió mạnh bùng lên, và chỉ trong vài khoảnh khắc, thế giới của chúng tôi đã biến đổi. Mặt biển quanh chúng tôi bị quất lên thành những con sóng bạc đầu đập vào mạn và đổ ập vào lòng thuyền, làm nước lạnh sóng sánh quanh chân chúng tôi. Tiếp theo mưa trút xuống, dữ dội như những viên đạn nhỏ đập lên da chúng tôi. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã bị đảo lộn quay cuồng như những món đồ chơi cao su trong một bồn tắm.
- Quay mũi thuyền hướng vào các con sóng! - Bronwyn hét lên, dùng đôi mái chèo của cô chém xuống nước. - Nếu chúng đập vào mạn, chúng ta chắc chắn sẽ bị lật.
Nhưng phần lớn chúng tôi chèo thuyền khi biển lặng cũng đã mệt lả, đừng nói gì lúc biển sôi trào, số còn lại thì quá sợ hãi chẳng với nổi lấy mái chèo, nên thay vì thế, chúng tôi cố sống cố chết bám chặt lấy mạn thuyền.
Một bức tường nước cồn lên lao thẳng về phía chúng tôi. Chúng tôi trồi lên trên con sóng khổng lồ, mấy chiếc thuyền gần như dựng đứng. Emma bám lấy tôi, còn tôi bám lấy cọc chèo; đằng sau chúng tôi, Hugh dùng cả hai cánh tay bíu chặt lấy chỗ ngồi. Chúng tôi leo lên đỉnh con sóng như đang ở trên đoàn xe ray nhào lộn, dạ dày tôi như rơi tuột xuống tận chân, và khi chúng tôi lao xuống sườn dốc bên kia con sóng, tất cả những thứ trong thuyền không được gắn chặt xuống bằng đinh - bản đồ của Emma, túi của Hugh, cái va li kéo màu đỏ tôi đã mang bên mình từ Florida - đều bay qua đầu chúng tôi rồi rơi xuống nước.
Chẳng có thời gian đâu để lo lắng tới những gì đã mất, vì thoạt đầu chúng tôi thậm chí còn không thấy được những chiếc thuyền khác. Khi trở lại vị trí thăng bằng chúng tôi liếc mắt nhìn vào vũng nước xoáy và lớn tiếng gọi tên các bạn mình. Một khoảnh khắc im lặng khủng khiếp trôi qua trước khi chúng tôi nghe thấy những giọng nói cất lên gọi lại chúng tôi, và chiếc thuyền của Enoch xuất hiện từ màn sương mù, cả bốn người đang ngồi nguyên trên đó, vẫy tay về phía chúng tôi.
- Mọi người ổn cả chứ? - tôi hét lên.
- Đằng kia! - họ gọi lại. - Nhìn đằng kia!
Tôi thấy họ không phải vẫy tay chào, mà thu hút sự chú ý của chúng tôi về phía một thứ trên mặt nước, cách đó gần ba mươi mét - một thân thuyền bị lật úp.
- Đó là thuyền của Bronwyn và Olive! - Emma nói.
Chiếc thuyền đã lộn ngược, phần đáy thuyền hoen gỉ chĩa lên trời. Quanh thuyền không có dấu hiệu nào của hai cô bạn.
- Chúng tôi phải lại gần hơn! - Hugh lớn tiếng, và quên hết tình trạng kiệt sức của mình, chúng tôi cầm lấy mái chèo rồi chèo về phía chiếc thuyền lật, không ngớt gọi to tên họ.
Chúng tôi chèo qua một đám áo quần bị hất tung ra từ các va li bị mở toang, chúng tôi đi thuyền qua bên những chiếc váy đang dập dềnh giống hệt cô gái nào đó chết đuối. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, và cho dù cả người ướt sũng và đang run lẩy bẩy, tôi hầu như không cảm thấy lạnh. Chúng tôi gặp thuyền Enoch tại chỗ chiếc thuyền lật úp của Bronwyn và cùng nhau tìm kiếm khắp mặt nước.
- Họ đâu rồi? - Horace rên rỉ. - Ôi, nếu chúng ta mất họ…
- Ở bên dưới! - Emma nói, chỉ tay vào chiếc thuyền lật úp. - Có thể họ bị mắc kẹt bên dưới nó!
Tôi rút một mái chèo của mình ra khỏi cọc đỡ và đập vào thân chiếc thuyền lật úp.
- Nếu các bạn đang ở bên trong, bơi ra đi! - tôi gọi to. - Bọn mình sẽ cứu các cậu!
Khoảnh khắc đó thật đáng sợ, không tiếng trả lời nào vang lên, và tôi có thể cảm thấy mọi hy vọng cứu được hai cô gái tan biến dần. Nhưng rồi sau đó, từ dưới chiếc thuyền lật úp có một tiếng gõ đáp lại - rồi một nắm tay đấm xuyên qua thành thuyền, những vụn gỗ bắn tung lên, và tất cả chúng tôi cùng bật dậy vì bất ngờ.
- Đó là Bronwyn! - Emma réo lên. - Họ còn sống!
Thêm vài cú đấm nữa, Bronwyn đã có thể đục ra trên thân thuyền một cái lỗ vừa người chui lọt. Tôi chìa mái chèo cho cô và cô nắm lấy nó, rồi Hugh và Emma cùng xúm vào, chúng tôi đã đưa được cô qua mặt nước cuộn trào, đưa cô vào trong thuyền chúng tôi trong khi thuyền của cô chìm nghỉm, biến mất dưới các con sóng, Bronwyn rất hoảng hốt, kích động, cô cứ hét lên dù chẳng còn hơi sức. Cô hét lên bởi Olive không có mặt dưới thân thuyền cùng cô. Cô bé vẫn mất tích.
- Olive… tới cứu Olive, - Bronwyn lắp bắp khi đã lăn nhào vào trong lòng thuyền. cô run lẩy bẩy, ho khạc ra nước biển. Cô đứng dậy trong lòng thuyền tròng trành và chỉ vào con bão tố. - Đằng kia! - cô kêu lên. - Thấy không?
Tôi đưa tay lên che mắt khỏi làn mưa rát rạt và nhìn theo, nhưng tất cả những gì tôi thấy là những con sóng và sương mù.
- Tớ chẳng thấy gì cả!
- Cậu ấy ở đằng kia! - Bronwyn quả quyết. - Sợi dây!
Thế rồi tôi nhìn thấy thứ cô chỉ vào: không phải một cô gái đang vùng vẫy trên mặt nước mà là một sợi dây gai to nhô lên, gần như không thể nhìn thấy trong cảnh hỗn loạn này. Một đoạn dây màu nâu bị kéo thẳng căng chạy từ mặt nước lên và mất hút vào sương mù. Olive hẳn đang được buộc vào đầu trên, không thể trông thấy.
Chúng tôi chèo đến chỗ sợi dây, Bronwyn kéo nó xuống, và sau một phút Olive xuất hiện từ đám sương mù trên đầu chúng tôi, một đầu dây cột quanh eo. Đôi giày của cô đã tuột ra khi thuyền lật, nhưng Bronwyn đã cột Olive vào dây neo, đầu còn lại của cuộn dây đã nằm yên dưới đáy biển. Nếu không nhờ vậy, chắc chắn giờ này cô gái đã mất tăm giữa các đám mây.
Olive quàng hai cánh tay ôm quanh cổ Bronwyn và cảm ơn:
- Cậu đã cứu tớ, cậu đã cứu tớ!
Hai cô gái ôm chầm lấy nhau. Cảnh tượng ấy làm cổ họng tôi nghèn nghẹn.
- Chúng ta vẫn chưa thoát hiểm đâu, - Bronwyn nói. - Chúng ta vẫn phải vào được bờ trước khi trời tối, nếu không rắc rối của chúng ta mới chỉ bắt đầu thôi.
* * *
Cơn bão đã ít nhiều yếu bớt, và những cơn sóng biển hung hãn lắng xuống, nhưng ý tưởng chèo thêm một nhịp nữa, cho dù trên mặt biển hoàn toàn phẳng lặng, giờ đây cũng là chuyện không thể tưởng tượng nổi. Chúng tôi thậm chí chưa đi được một nửa quãng đường vào đất liền mà tôi đã cảm thấy sức tàn lực kiệt. Hai bàn tay tôi đau nhức rần rật. Hai cánh tay tôi nặng trĩu như hai khúc cây. Không chỉ thế, chiếc thuyền dập dềnh lắc lư liên tục đã tạo ra hậu quả rành rành lên dạ dày tôi - và nếu xét đoán từ màu xanh mét trên những khuôn mặt quanh mình, tôi không phải là người duy nhất.
- Chúng ta sẽ nghỉ một lát, - Emma nói, cố tỏ ra phấn chấn. - Chúng ta sẽ nghỉ và tát nước ra khỏi thuyền cho tới khi sương mù tan…
- Thứ sương mù này có một kiểu tính cách của riêng nó, - Enoch nói. - Nó có thể kéo dài nhiều ngày không gián đoạn. Chỉ vài giờ nữa trời sẽ tối, và khi đó chúng ta sẽ phải hy vọng có thể qua được đến sáng mà không bị đám xác sống tìm ra. Chúng ta sẽ hoàn toàn không có khả năng tự vệ.
- Mà còn không có nước uống, -  Hugh nói.
- Hay thức ăn, - Millard đề thêm.
Olive giơ cả hai bàn tay lên và nói:
- Tớ biết nó ở đâu!
- Nó là cái gì? - Emma hỏi.
- Đất liền. Tớ thấy đất liền khi đang lơ lửng trên đầu sợi dây đó. - Olive đã bay lên qua cả lớn sương mù, cô giải thích, và thoáng nhìn thấy rõ đất liền.
- Hữu ích quá nhỉ, - Enoch cằn nhằn. - Bọn này đã quay lòng vòng một chỗ đến cả sáu lần kể từ khi cậu lơ lửng trên đó rồi.
- Vậy hãy để tớ lên đó lần nữa.
- Cậu chắc chứ? - Emma hỏi cô. - Nguy hiểm đấy. Sẽ thế nào nếu một cơn gió cuốn cậu đi, hay dây bị đứt?
Khuôn mặt Olive trở nên cương quyết.
- Đưa tớ lên. - Cô nhắc lại.
- Cậu ấy mà đã thế này thì tranh luận cũng chỉ vô ích thôi, - Emma nói. - Lấy dây ra đi, Bronwyn.
- Cậu là cô bé can đảm nhất tớ từng biết đấy, - Bronwyn nói, rồi bắt tay vào việc. Cô kéo neo lên khỏi mặt nước, lôi vào trong thuyền, rồi dùng đoạn dây có thêm nhờ nó, chúng tôi buộc hai chiếc thuyền còn lại với nhau để chúng không bị tách ra nữa, sau đó lại đưa Olive qua màn sương mù lên trên bầu trời.
Một khoảnh khắc im lặng lạ lùng trôi qua trong khi tất cả chúng tôi ngửa đầu ra sau, nhìn chằm chằm vào một sợi dây vươn thẳng lên các đám mây - chờ đợi một tín hiệu từ trên trời. Enoch phá vỡ bầu im lặng.
- Sao rồi? - cậu ta sốt ruột hỏi.
- Tớ thấy rồi! - câu trả lời vọng xuống, giọng nói của Olive chỉ còn nghe lạo xạo mờ hồ giữa tiếng sóng ồn ào. - Thẳng phía trước!
- Với mình thế là tốt rồi! - Bronwyn nói, và trong khi tất cả những người còn lại trong chúng tôi ôm bụng ngồi lử đử tại chỗ, cô leo sang chiếc thuyền đằng trước, cầm mái chèo và bắt đầu chèo, chỉ được định hướng nhờ tiếng nói rất nhỏ của Olive, một thiên thần không thể trông thấy trên bầu trời.
- Sang trái… sang trái nữa… đừng đi quá!
Và cứ như thế, chúng tôi chậm chạp bơi về phía đất liền, sương mù bám theo chúng tôi, những dải dài xám xịt của nó giống như những ngón tay ma quái của một con quỷ luôn cố gắng lôi chúng tôi trở lại.
Như thể hòn đảo cũng không muốn để chúng tôi ra đi.

Chương 2


Hai chiếc thuyền nối vào nhau của chúng tôi chững lại ở vùng nước nông đầy đá. Chúng tôi vào đến bờ đúng lúc mặt trời đang tắt dần đằng sau những tầng mây xám mênh mông, có lẽ còn chừng một tiếng nữa trời sẽ tối hẳn. Bãi biển là một mũi đất lởm chởm đá đầy tảo mắc lại khi thủy triều xuống, nhưng với tôi nó thật đẹp, còn đẹp hơn bất cứ bãi biển cát trắng tinh dành cho du lịch nào ở quê nhà. Nó có nghĩa là chúng tôi đã tới nơi. Nó có nghĩa gì với những người khác tôi khó lòng hình dung được; phần lớn họ chưa rời khỏi Cairnholm suốt thời gian bằng cả đời người, và giờ đây họ ngỡ ngàng nhìn quanh, sững sờ vì vẫn còn sống và băn khoăn không biết nên làm gì với chuyện đó.
Chúng tôi loạng choạng rời khỏi thuyền với những đôi chân rỡ rời. Fiona bốc một nắm sỏi dính đầy bùn cho vào miệng, lấy lưỡi đảo qua đảo lại chúng, như thể cô cần đến cả năm giác quan để thuyết phục bản thân rằng mình không phải đang mơ - cũng chính là điều tôi từng cảm thấy khi ở trong Vòng Thời Gian của cô Peregrine lần đầu tiên. Từ bé đến giờ, tôi chưa bao giờ nghi ngờ chính đôi mắt của mình đến thế. Bronwyn rên lên rồi ngồi phịch xuống cát, kiệt sức đến không thể nói thành lời. Những người khác xúm lại quanh cô, rối rít cảm ơn cô vì những gì cô đã làm, nhưng những lời cảm ơn đó thật gượng ép; chúng tôi nợ cô quá nhiều, mà hai từ cảm ơn thật nhỏ bé, Bronwyn cố xua chúng tôi đi, song vì quá mệt nên cô hầu như không thể giơ nổi bàn tay lên nữa.
Emma và mấy cậu con trai kéo Olive từ trên những đám mây xuống.
- Trông cậu đúng là xanh lè! - Emma kêu lên khi Olive xuất hiện qua làn sương mù, và cô nhổm dậy kéo cô bé lại ôm vào lòng. Olive ướt sũng và lạnh cóng, hai hàm răng va lập cập. Không có tấm chăn nào, thậm chí chẳng có lấy một chiếc áo khô cho cô bé, vậy là Emma đưa đôi bàn tay luôn ấm nóng của cô lướt khắp người Olive cho tới khi những cơn rùng mình kinh khủng nhất của cô bé dịu xuống, sau đó cử Fiona và Horace đi tìm củi nhóm lửa. Trong khi đợi hai người trở lại, chúng tôi tập trung quanh hai chiếc thuyền để kiểm kê những gì đã mất ngoài biển. Một bản tổng kết nghiêm trọng. Hầu như tất cả mọi thứ chúng tôi mang theo giờ đây đều đã nằm dưới đáy biển.
Những gì chúng tôi còn lại là quần áo đang mặc trên người, một ít thực phẩm trong những cái lon hoen gỉ, và chiếc rương hành lý to tướng của Bronwyn, không thể bị phá hủy và có vẻ không thể chìm - và nặng một cách phi lý tới mức chỉ có chính Bronwyn may ra mới vác được nó. Chúng tôi cạy mở ba cái chốt kim loại của nó, hăm hở tìm xem liệu có thấy thứ gì đó hữu ích, hay tốt  hơn thế, ăn được, nhưng tất cả những gì cái rương chứa đựng là một tập truyện ba cuốn có tên là “Những truyện kể về người đặc biệt”, các trang sách đã mềm nhũn vì ngấm nước biển, và một tấm thảm hút nước ở buồng tắm có thêu mấy chữ cái ALP, các chữ cái đầu họ tên cô Peregrine.
- Ôi, ơn Chúa trên thiên đường! Ai đó đã nhớ đến tấm thảm hút nước trong buồng tắm. - Enoch ngẩn ra. - Chúng ta được cứu rồi.
Tất cả những thứ khác đều đã mất, kể cả toàn bộ bản đồ của chúng tôi - tấm bản đồ nhỏ Emma đã dùng để định hướng cho chúng tôi vượt qua eo biển cũng như tập bản đồ lớn các Vòng Thời Gian bọc bìa da từng là món tài sản Millard rất trân trọng, “Bản đồ Các Ngày”. Khi Milllard nhận ra nó đã mất, cậu bắt đầu làm toáng lên.
- Trên đời chỉ còn năm tấm bản đồ và nó là một trong số đó! - anh chàng than vãn. - Một tài liệu vô giá! Chưa kể nó chứa đựng những ghi chép và chú giải cá nhân của tớ suốt bao nhiêu năm!
- Ít ra chúng ta vẫn còn “Những truyện kể về người đặc biệt”, - Claire nói, vẩy vẩy nước biển khỏi những lọn tóc vàng của cô. - Tớ sẽ không thể ngủ nổi buổi tối nếu không được nghe một câu chuyện.
- Những câu chuyện cổ tích hay ho thì ích gì nếu chúng ta thậm chí không thể tìm ra đường đi? - Millard hỏi.
Tôi thầm nhủ: Tìm đường đi đâu kia chứ? Rồi tôi chợt nhận ra, trong lúc vội vã đào thoát khỏi hòn đảo, tôi đã chỉ nghe thấy đám trẻ nói về việc tìm vào đất liền, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thảo luận xem cần làm gì một khi đã tới được đây - như thể ý tưởng thực sự sống sót qua được chuyến đi trên những con thuyền nhỏ xíu đó là quá xa xăm, quá lạc quan một cách lố bịch, tới mức lên kế hoạch cho nó chỉ lãng phí thời gian. Tôi nhìn sang Emma để được trấn an như tôi vẫn hay làm. Cô rầu rĩ nhìn xuống bãi biển. Từ trên nền cát lổn nhổn đá, có những đụn cát thấp phất phơ cỏ mọc. Xa hơn nữa là rừng: một chướng ngại vật màu xanh có vẻ không thể vượt qua, chạy dài liên tục xa hết tầm mắt tôi về cả hai phía. Emma,
với tấm bản đồ đã mất của cô, vốn nhắm tới một thành phố cảng nào đó, nhưng sau khi cơn bão ập tới, mục tiêu của chúng tôi chỉ còn là vào được đất liền. Chẳng thể nào biết chúng tôi đã chệch hướng bao xa. Tôi không thấy con đường, biển chỉ dẫn hay thậm chí lối mòn nào. Chỉ một màu hoang vu.
Tất nhiên, chúng tôi không hẳn là cần bản đồ, biển chỉ dẫn hay bất cứ thứ gì khác. Chúng tôi cần cô Peregrine - lành lặn, khỏe mạnh - người biết chính xác cần đi đâu và làm cách nào để đưa chúng tôi tới đó an toàn. Con chim đang đậu trước mặt chúng tôi lúc này, đang xòe lông ra hong khô trên một tảng đá, cõi lòng cũng bị tổn thương nặng nề như bên cánh gãy đang gập xuống thành một hình chữ V đầy lo sợ. Tôi có thể nói đám trẻ rất đau lòng khi trông thấy bà như thế. Bà được trông đợi sẽ là mẹ, là người bảo vệ họ. Bà đã là nữ hoàng của thế giới trên hòn đảo nhỏ của họ, nhưng giờ đây bà không thể nói, không thể tạo Vòng Thời Gian, thậm chí còn không thể bay. Họ nhìn bà, cau mày rồi quay đi nhìn chỗ khác.
Cô Peregrine luôn đưa mắt nhìn chăm chăm về phía mặt biển tối sầm màu đá xám. Đôi mắt nặng nề, đen thẳm chứa đựng mỗi phiền muộn không nói nên lời.
Đôi mắt đó dường như nói: Ta đã phụ lòng trông đợi của các em.
* * *
Horace và Fiona gập người lại đi về phía chúng tôi qua bãi cát lổn nhổn đá, gió thổi làm mái tóc hoang dã của Fiona xõa bung ra như một đám mây bão, Horace nhảy lên, hai bàn tay áp chặt vào hai bên cái mũ chóp cao của mình để giữ nó yên vị trên đầu. Bằng cách nào đó, cậu ta vẫn giữ được nó trong suốt thời gian chúng tôi gần như gặp phải thảm họa ngoài biển, nhưng giờ đây cái mũ bị móp vào ở một bên và trông như một cái ống khói bị uốn cong. Dẫu vậy, cậu ta vẫn không chịu vứt nó đi; Horace nói cái mũ rất hợp với bộ đồ cắt may bảnh chọe bê bết bùn ướt sũng của mình. Cả hai đều tay không.
- Chẳng có củi ở bất cứ chỗ nào! - Horace nói khi hai người tới chỗ chúng tôi.
- Các cậu đã tìm trong rừng chưa? - Emma hỏi, chỉ tay vào các hàng cây tối sẫm phía sau các đụn cát.
- Ghê lắm, - Horace nói. - Bọn tớ nghe thấy tiếng một con cú.
- Từ lúc nào cậu bắt đầu sợ chim vậy hả?
Horace nhún vai nhìn xuống mặt cát. Sau đó, Fiona thúc khuỷu tay vào cậu ta, anh chàng có vẻ tự nhớ ra được rồi nói:
- Nhưng bọn tớ đã tìm thấy một thứ khác.
- Nơi ở à? - Emma hỏi.
- Hay một con đường? - Millard hỏi.
- Một con ngỗng để nấu bữa tối phải không? - Claire hỏi.
- Không, - Horace đáp lại. - Những quả khí cầu.
Tiếp theo là một thoáng im lặng ngỡ ngàng.
- Ý cậu là sao, khí cầu à? - Emma hỏi.
- Những quả khí cầu to tướng trên trời, có người bên trong.
Khuôn mặt Emma tối sầm lại.
- Chỉ cho bọn tớ thấy đi.
Chúng tôi đi theo hai người trở lại con đường họ vừa từ đó đi lại, vòng qua một khúc uốn cong của bãi biển, rồi leo lên một bờ kè nhỏ. Tôi băn khoăn tự hỏi làm thế nào chúng tôi lại không nhìn thấy một thứ rõ mồn một như những khinh khí cầu, cho tới khi chúng tôi leo lên một ngọn đồi và tôi trông thấy chúng - không phải những quả khí cầu hình giọt nước to lớn đủ màu sắc bạn vẫn thấy trên những tờ lịch tường hay những tấm áp phích cổ động (“Bầu trời là giới hạn!”), mà là một cặp khí cầu máy cỡ nhỏ: những túi khí hình quả trứng màu đen có lồng treo bên dưới, mỗi cái lồng có một phi công. Những khí cầu này rất nhỏ và đang hạ xuống thấp, đu đưa hết tiến lại lùi thành hình dích dắc, và tiếng sóng vỗ đã át đi tiếng cánh quạt động cơ của chúng. Emma kéo chúng tôi vào đám cỏ cao, và chúng tôi ngồi sụp xuống nấp khỏi tầm nhìn.
- Đó là khí cầu săn ngầm, - Enoch lên tiếng, trả lời khi chưa ai kịp hỏi.
Millard có vẻ là người hiểu biết nhất khi nói đến bản đồ và sách vở, song Enoch mới là chuyên gia về mọi thứ dính đến quân sự.
- Cách tốt nhất để phát hiện tàu ngầm địch là từ trên trời, - cậu ta giải thích.
- Nếu thế tại sao chúng lại bay sát mặt đất thế? - tôi hỏi. - Và sao chúng không bay xa hơn ra ngoài biển?
Cái đó thì tớ không biết.
- Cậu có nghĩ bọn họ đang tìm kiếm… chúng ta không? - Horace dò hỏi.
- Nếu ý cậu muốn nói họ là đám xác sống, - Hugh nói, - đừng có ngốc thế. Bọn xác sống đang ở cùng bọn Đức. Chúng ở dưới cái tàu ngầm Đức đó.
- Bọn xác sống liên minh với bất kì ai có lợi ích gắn liền với lợi ích của chúng, - Millard nói. - Chẳng có lý do nào để cho rằng chúng lại không xâm nhập vào các tổ chức của hai phe trong chiến tranh.
Tôi không thể rời mắt khỏi mấy cỗ máy kì lạ trên bầu trời. Trông chúng không tự nhiên, như những con côn trùng cơ khí kềnh càng mang những quả trứng to tướng.
- Tớ không thích chúng bay kiểu như thế, - Enoch nói, đôi mắt sắc bén chăm chú tính toán. - Chúng đang tìm kiếm dọc bờ biển chứ không phải ngoài khơi.
- Tìm cái gì cơ? - Bronwyn hỏi, nhưng câu trả lời đã hiển nhiên và đáng sợ đến mức không ai muốn nói thành tiếng. Chúng đang tìm kiếm chúng tôi. Tất cả chúng tôi cùng túm tụm lại trong đám cỏ, và tôi cảm thấy cả người Emma căng lên cạnh mình.
- Tớ hô thì chạy nhé, - cô nghiêm giọng khẽ nói. - Chúng ta sẽ giấu thuyền đi rồi ẩn nấp.
Chúng tôi đợi mấy chiếc khí cầu lượn ra xa, rồi bật dậy khỏi đám cỏ, thầm cầu mong chúng tôi đang ở quá xa để có thể bị phát hiện. Trong lúc chúng tôi chạy, tôi chợt nhận ra mình đang ước giá mà màn sương mù từng quấy rầy chúng tôi ngoài biển hãy quay lại để che giấu chúng tôi. Với tôi, rất có khả năng nó đã cứu chúng tôi một lần rồi; nếu không có sương mù, những chiếc khí cầu kia hẳn đã phát hiện ra chúng tôi từ hàng giờ trước, trên những chiếc thuyền, khi chúng tôi không có chỗ nào để chạy trốn.
Và theo cách đó, đây là điều cuối cùng hòn đảo làm để cứu những đứa trẻ đặc biệt của nó.
* * *
Chúng tôi kéo hai chiếc thuyền của mình qua bãi biển về phía một cái hang bên bờ biển, cửa hang là một kẽ nứt đen ngòm trên vách đá. Bronwyn đã dốc hết sức lực đến nỗi gần như không tự mình bước đi nổi nữa, chứ đừng nói gì khiêng thuyền, vì thế những người còn lại trong chúng tôi vật lộn để kéo dây kéo, vốn liên tục kêu kèn kẹt và thẳng căng ra vì các thân thuyền luôn tìm cách cắm mũi xuống cát ướt. Qua được nửa bãi biển, cô Peregrine ré lên một tiếng kêu cảnh báo, và hai chiếc khí cầu có điều khiển nhô lên trên các đụn cát, xuất hiện trong tầm mắt chúng tôi. Chúng tôi vùng chạy như bay trong cơn hoảng hốt, vùn vụt kéo hai chiếc thuyền vào trong hang như thể chúng được đặt trên ray trượt, trong khi cô Peregrine tập tễnh nhảy cạnh chúng tôi, bên cánh bị thương kéo lê trên cát.
Khi cuối cùng cũng khuất khỏi tầm nhìn của chúng, chúng tôi thả hai chiếc thuyền xuống và ngồi vật xuống tựa vào thân thuyền lật ngược, tiếng thở hổn hển của chúng tôi vang vọng trong bóng tối ẩm ướt với tiếng nước nhỏ giọt tí tách.
- Làm ơn, làm ơn đừng để chúng nhìn thấy chúng con, - Emma cầu nguyện thành tiếng.
- Ôi, khỉ thật! Dấu vết của chúng ta! - Millard kêu lên, rồi cậu ta cởi phăng chiếc áo khoác đang mặc và trườn ra ngoài xóa vết trượt mà những chiếc thuyền của chúng tôi đã tạo ra; từ trên trời, trông chúng chẳng khác gì những mũi tên chỉ thẳng vào chỗ nấp của chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể dõi theo dấu bước chân của cậu ta xa dần. Nếu bất cứ ai khác ngoài Millard mò ra ngoài, người đó chắc chắn đã bị nhìn thấy.
Một phút sau cậu ta quay vào, run bần bật, bê bết cát, một vết đỏ loang ra trên ngực áo.
- Bây giờ chúng đang đến gần, - cậu ta thều thào. - Tớ đã cố hết sức có thể.
- Cậu lại chảy máu kìa! - Bronwyn kêu lên lo lắng, Millard đã bị trúng đạn trong cuộc hỗn chiến của chúng tôi ở ngọn hải đăng tối hôm trước, và cho dù đến lúc này quá trình phục  hồi của cậu ta nhanh đáng kể, nhưng cũng còn lâu mới lành hẳn.
- Cậu đã làm gì với lớp băng bó vết thương của cậu rồi?
- Tớ đã ném nó đi rồi. Nó được buộc lằng nhằng đến mức tớ không thể tháo ra nhanh được. Một người vô hình phải luôn có khả năng cởi hết đồ trên người trong nháy mắt, nếu không khả năng của cậu ta chỉ vô ích!
- Nếu chết rồi cậu ta thậm chí sẽ còn vô dụng hơn, đồ con lừa cứng đầu, - Emma nói. - Giờ thì ngồi im và đừng có cắn phải lưỡi. Sẽ đau đấy.
Cô áp chặt hai ngón tay vào lòng bàn tay còn lại, tập trung một khoảnh khắc, và khi cô nhấc hai ngón tay ra, chúng đã sáng rực, nóng đỏ. Millard chùn lại.
- Này này, Emma, tớ nghĩ thà cậu đừng…
Emma ấn mạnh hai nón tay vào bên vai bị thương của cậu ta. Millard thở hộc ra. Có tiếng thịt cháy xèo xèo và một làn khói bốc lên từ da cậu ta. Trong chốc lát, máu đã ngừng chảy.
- Tớ sẽ có sẹo mất! - Millard rên rẩm.
- Phải, thì sao? Ai mà thấy nó được?
Cậu ta hờn dỗi im bặt.
Tiếng động cơ của hai chiếc khi cầu vang lên to hơn, rồi to hơn nữa, được vách đá trong hang khuếch đại lên. Tôi hình dung ra chúng treo lơ lửng phía trên hang, quan sát vết chân chúng tôi, chuẩn bị tấn công. Vai Emma tựa vào vai tôi. Mấy đứa trẻ nhỏ chạy đến chỗ Bronwyn và úp mặt vào lòng cô, cô bèn nựng nịu chúng. Bất chấp những công năng dị thường của mình, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực: tất cả những gì chúng tôi có thể làm là ngồi bó gối chớp mắt nhìn nhau trong cảnh tranh tối tranh sáng mờ mờ, nước mũi chảy ròng ròng vì lạnh, hy vọng kẻ thù sẽ không tìm ra chúng tôi.
Cuối cùng, tiếng động cơ bắt đầu nhỏ đi, và khi chúng tôi lại có thể nghe thấy giọng nói của chính mình, Claire lí nhí trong lòng Bronwyn:
- Kể cho bọn tớ nghe một câu chuyện đi, Wyn. Tớ sợ, tớ không thích tất cả chuyện này tẹo nào và thay vì thế tớ nghĩ tớ thích nghe một câu chuyện.
- Phải đấy, cậu kể chuyện đi! - Olive nài nỉ. - Một câu chuyện từ Những truyện kể, làm ơn đi. Đó là những câu chuyện ưa thích của tớ.
Là người ra dáng đàn chị nhất trong đám trẻ đặc biệt, với những đứa trẻ nhỏ nhất, Bronwyn còn giống một người mẹ hơn cả cô Peregrine. Chính Bronwyn đưa chúng lên giường ngủ buổi tối, Bronwyn cũng là người đọc truyện cho chúng nghe và hôn lên trán chúng. Đôi cánh tay mạnh mẽ của cô dường như được tạo nên để ôm lấy chúng trong vòng tay ấm áp, đôi vai rộng của cô để công kênh chúng. Nhưng giờ không phải lúc kể chuyện - và cô cũng nói như vậy.
- Sao chứ, chắc chắn là phải rồi! - Enoch lên tiếng với giọng mỉa mai đều đều. - Nhưng lần này hãy tạm bỏ qua Những truyện kể và kể cho chúng tớ câu chuyện bằng cách nào những đứa trẻ của cô Peregrine tìm được đường tới nơi an toàn khi không có bản đồ hay chút thức ăn nào và sẽ không bị đám hồn rỗng ăn thịt trên đường! Tớ rất nóng lòng muốn nghe xem câu chuyện đó kết thúc thế nào.
- Giá như cô Peregrine có thể nói cho chúng mình biết, - Claire sụt sịt. Cô rời khỏi Bronwyn và tới bên con chim đang đậu trên một thân thuyền lật úp quan sát chúng tôi. - Chúng em phải làm gì đây, cô phụ trách? - Claire nói. - Làm ơn hãy trở lại hình người đi. Làm ơn hãy tỉnh lại đi!
Cô Peregrine kêu cu cu và dùng cánh vuốt ve mái tóc Claire. Sau đó, Olive cũng tiến lại, khuôn mặt giàn giụa nước mắt.
- Chúng em cần cô, cô Peregrine! Chúng em bị lạc đường, đang gặp nguy hiểm và càng lúc càng đói bụng, mà chẳng còn mái nhà hay bạn bè nào ngoài chính những người đang ở đây, và chúng em cần cô!
Đôi mắt đen của cô Peregrine sáng lên long lanh. Bà quay đi, tránh ra ngoài tầm với. Bronwyn quỳ xuống cạnh mấy cô bé.
- Cô ấy chưa thể trở lại hình người ngay bây giờ được, các cô bé. Nhưng chúng ta sẽ chữa khỏi cho cô ấy, tớ xin hứa.
- Nhưng bằng cách nào? - Olive hỏi. Câu hỏi của cô vang vọng lại trên các vách đá, mỗi tiếng vọng hỏi thêm lần nữa. Emma đứng dậy.
- Tớ sẽ cho các cậu biết bằng cách nào, - cô nói, và mọi con mắt đổ dồn vào cô. - Chúng ta sẽ đi bộ. - Emma nói những lời đó với vẻ quả quyết khiến tôi lạnh người. - Chúng ta sẽ đi, cứ đi cho tới khi đến được thành phố nào đó.
- Nhưng nếu không có thành phố nào trong vòng năm mươi ki lô mét thì sao? - Enoch hỏi.
- Thì chúng ta sẽ đi bộ năm mươi mốt ki lô mét. Nhưng tớ biết chúng ta đã không bị đẩy đi chệch hướng xa đến thế.
- Thế nếu bọn xác sống phát hiện ra chúng ta từ trên không thì sao? - Hugh hỏi.
- Chúng sẽ không phát hiện ra. Chúng ta sẽ cẩn thận.
- Thế nếu chúng đợi sẵn chúng ta trong thành phố thì sao? - Horace hỏi.
- Chúng ta sẽ giả làm người thường. chúng ta sẽ qua mặt chúng được.
- Tớ giả làm người bình thường không tốt lắm đâu, - Millard vừa cười vừa nói.
- Không ai nhìn thấy cậu đâu, Mill. Cậu sẽ là trinh sát tiền trạm cho chúng tớ, là người bí mật thu thập những thứ cần thiết cho chúng ta.
- Tớ đúng là một tay trộm khá tài năng, - cậu nói với chút tự hào. - Một bậc thầy đích thực trong nghệ thuật sử dụng năm ngón tay.
- Sau đó thì sao? - Enoch chua chát hỏi. - Có thể chúng ta sẽ có đồ ăn bỏ bụng và chỗ nào ấm áp để ngủ, nhưng chúng ta vẫn phải lang thang bên ngoài, lù lù ra đó, dễ bị tấn công, không có Vòng Thời Gian… mà cô Peregrine thì… thì vẫn…
- Bằng cách nào đó chúng ta sẽ tìm thấy một Vòng, - Emma nói. - Có những dấu mốc và ký hiệu dành cho những người biết tìm kiếm. Còn nếu không có, chúng ta sẽ tìm ai đó giống như chúng ta, một đồng loại cũng là người đặc biệt có thể chỉ dẫn cho chúng ta vị trí của Vòng gần nhất. Và trong Vòng đó sẽ có một Chủ Vòng Thời Gian, người đó sẽ có thể dành cho cô Peregrine sự giúp đỡ cô ấy cần.
Tôi chưa từng gặp ai có sự tự tin mãnh liệt như Emma. Tự tin toát ra từ mọi thứ thuộc về cô: tư thế của cô, cần cổ vươn cao; hàm răng nghiến chặt khi cô hạ quyết tâm về một điều gì đó; cách cô kết thúc mỗi câu đầy quả quyết, không bao giờ bằng một dấu hỏi. Nó thật dễ lây, tôi thích nó, và tôi phải kìm chế thôi thúc đột ngột muốn hôn cô, ngay tại đó, trước mặt mọi người.
Hugh bật ho, và những con ong lao ra khỏi miệng cậu ta tạo thành một dấu hỏi run rẩy trong không khí.
- Làm sao cậu dám chắc là vậy? - Hugh hỏi.
- Vì tớ tin chắc, thế thôi. - Và cô giơ hai bàn tay ra như thể chỉ có vậy.
- Cậu vừa có một bài diễn văn đầy hào khí rất hay ho, - Millard nói, - và tớ ghét phải làm hỏng nó, nhưng từ những gì chúng ta biết, cô Peregrine là Chủ Vòng Thời Gian duy nhất chưa bị bắt. Hãy nhớ lại những gì cô Avocet đã nói với chúng ta: bọn xác sống đã tấn công các Vòng và bắt cóc các Chủ Vòng từ nhiều tuần trước rồi. Như thế có nghĩa là dù có thể tìm thấy một Vòng Thời Gian, chúng ta cũng chẳng có cách nào để biết liệu Chủ Vòng còn đó hay không - hay thay vì thế kẻ thù của chúng ta đang chiếm cứ nó. Chúng ta không thể cứ khơi khơi tới gõ cửa các Vòng Thời Gian và hy vọng trong đó không đầy ắp xác sống.
- Hay có cả đống hồn rỗng đang đói ngấu bu quanh, - Enoch nói.
- Chúng ta sẽ không phải hy vọng, - Emma nói, sau đó mỉm cười về phía tôi. - Jacob sẽ nói cho chúng ta biết.
Cả người tôi lạnh toát.
- Tớ?
- Cậu có thể cảm thấy đám hồn rỗng từ xa mà, phải không nào? - Emma nói. - Bên cạnh khả năng nhìn thấy chúng?
- Khi chúng ở gần, lúc đó tớ có vẻ cảm thấy như mình sắp nôn ọe vậy, - tôi thừa nhận.
- Chúng cần phải ở gần tới mức nào? - Millard hỏi. - Nếu chỉ là vài mét, như thế chúng ta vẫn ở trong tầm bị xơi tái. Bọn tớ cần cậu cảm nhận được chúng từ xa hơn nhiều.
- Chính xác thì tớ chưa thử, - tôi nói. - Tất cả chuyện này còn quá mới với tớ.
Tôi chỉ mới chạm trán con hồn rỗng của bác sĩ Golan, Malthus, con quái vật đã sát hại ông tôi, sau đó thiếu chút nữa đã dìm tôi chết đuối dưới đầm lầy ở Cairnholm. Hắn đã ở cách bao xa khi lần đầu tiên tôi cảm thấy hắn rình rập tôi, lẩn khuất bên ngoài nhà tôi ở Englewood? Không thể biết được.
- Dù sao đi nữa, tài năng của cậu có thể được phát triển, - Millard nói. - Các năng lực đặc biệt cũng ít nhiều giống như cơ bắp vậy - cậu càng luyện tập nhiều, chúng càng to ra.
- Chuyện này đúng là điên rồ! - Enoch nói. - Có thực tất cả các cậu liều lĩnh tới mức đặt cược tất cả vào cậu ta không đấy? Sao chứ, cậu ta chỉ là một cậu nhóc - một anh chàng bình thường mềm nhũn gần như chẳng biết gì về thế giới của chúng ta!
- Cậu ấy không bình thường, - Emma nói, nhăn mặt như thể đó là lời sỉ nhục thậm tệ nhất. - Cậu ấy là một trong số chúng ta!
- Vớ vẩn, ngớ ngẩn! - Enoch hét lên. - Cậu ta không thể trở thành anh em với tớ chỉ nhờ có một tí xíu máu đặc biệt trong huyết quản. và chắc chắn điều đó không thể khiến cậu ta trở thành người bảo vệ tớ! Chúng ta không biết cậu ta có thể làm gì - nhiều khả năng cậu ta chẳng phân biệt được giữa một con hồn rỗng ở cách xa năm mươi mét và mùi trung tiện!
- Cậu ấy đã giết một gã trong bọn chúng, đúng không nào? - Bronwyn nói. - Đâm xuyên qua mắt nó bằng một cái kéo xén lông cừu! Lần cuối cùng cậu nghe nói tới một người đặc biệt còn trẻ như thế làm được việc tương tự là khi nào hả?
- Chưa có, kể từ Abe, - Hugh nói, và khi tên ông được nhắc đến, cả đám trẻ chìm vào im lặng đầy kính cẩn.
- Tớ nghe nói có lần cậu ấy đã dùng tay không giết chết một gã, - Bronwyn nói.
- Tớ nghe nói cậu ấy đã giết một gã bằng một que đan và một đoạn dây, - Horace nói. - Thực ra tớ đã mơ thấy điều đó, vậy nên tớ chắc chắn cậu ấy đã làm được như thế.
- Một nửa những chuyện đó chỉ toàn là được dựng lên, và cứ mỗi năm lại càng được thổi phồng thêm lên. - Enoch nói. - Anh chàng Abraham Portman tớ biết thêm chưa từng làm gì giúp chúng ta.
- Cậu ấy là một người đặc biệt vĩ đại! - Bronwyn nói. - Cậu ấy đã chiến đấu dũng cảm và giết được hàng chục hồn rỗng vì chúng ta!
- Rồi sau đó cậu ta bỏ chạy và bỏ mặc chúng ta ẩn núp trong ngôi nhà đó như những kẻ tị nạn trong khi cậu ta lang thang khắp nước Mỹ đóng vai anh hùng!
- Cậu không biết cậu đang nói gì đâu, - Emma lên tiếng, đỏ bừng vì phẫn nộ. - Trong chuyện đó còn nhiều nguyên do hơn thế.
Enoch nhún vai.
- Dù sao đi nữa, tất cả chuyện đó đều không phải vấn đề, - cậu ta nói. - Dù các cậu có nghĩ gì về Abe, nhóc này cũng không phải là cậu ấy.
Vào khoảnh khắc ấy tôi ghét Enoch, thế nhưng không thể trách cậu ta vì đã nghi ngờ tôi. Làm sao những người khác, chắc chắn và thuần thục những khả năng của mình đến thế, có thể đặt nhiều niềm tin tới vậy vào năng lực của tôi - một thứ tôi chỉ mới bắt đầu hiểu và biết mình có thể làm được mới vài ngày? Dường như chuyện tôi là cháu ai chẳng mấy ý nghĩa.
Tôi chỉ đơn giản không biết mình đang làm gì.
- Cậu nói đúng, tớ không phải ông tớ, - tôi nói. - Tớ chỉ là một cậu nhóc từ Florida tới. có lẽ tớ đã gặp may khi giết được con hồn rỗng đó.
- Vớ vẩn, - Emma nói. - Một ngày nào đó cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng hệt như Abe.
- Hãy hy vọng ngày đó sớm đến, - Hugh nói.
- Đó là số mệnh của cậu, - Horace nói, và cách cậu nói ra những lời này khiến tôi nghĩ cậu biết điều gì đó tôi không biết.
- Nếu đúng thế, mong Chim giúp đỡ tất cả chúng ta, - Enoch nói.
Đầu tôi quay cuồng. Gánh nặng từ kỳ vọng của họ đe dọa sẽ đè bẹp tôi. Tôi đứng lên, loạng choạng, và đi ra phía cửa hang.
- Tớ cần chút không khí, - tôi nói, đẩy Enoch sang bên.
- Jacob, đợi đã! - Emma kêu lên. - Những chiếc khí cầu!
Nhưng chúng đã bay đi từ lâu.
- Cứ để cậu ta đi, - Enoch lầm bầm. - Nếu chúng ta may mắn, cậu ta sẽ bơi trở lại Mỹ.
* * *
Bước đi theo mép nước, tôi cố gắng - hay muốn - hình dung bản thân mình dưới góc nhìn của những người bạn mới: không phải là Jacob, cậu nhóc từng gãy xương mắt cá chân khi chạy theo một chiếc xe bán kem, hay từng miễn cưỡng nghe theo mệnh lệnh của bố và thất bại ba lần khi tìm cách giành lấy một chỗ trong đội chạy việt dã vốn chẳng phải đua tranh khốc liệt gì của trường cậu ta, mà là Jacob, người săn tìm các bóng ma, người giải nghĩa kỳ tài những cơn quặn thắt ruột, người phát hiện và diệt trừ những con quái vật chính hiệu có thật - và tất cả những điều đó có thể sẽ định đoạt sống chết cho cả đám trẻ đặc biệt vui vẻ chúng tôi.
Làm thế nào tôi có thể kế thừa di sản của ông tôi đây?
Tôi leo lên một đống đá nằm ngay mép nước và đứng đó, hy vọng cơn gió thổi đều đều sẽ hong khô bộ quần áo ẩm ướt của mình, và trong ánh sáng đang tắt dần tôi ngắm nhìn biển, một tấm bạt xám xịt không ngừng thay đổi tông độ, những sắc xám trộn lẫn vào nhau và tối sẫm. Ngoài xa, thỉnh thoảng một đốm sáng lại lóe lên. Cây hải đăng ở Cairnholm đang nhấp nháy lời chào tạm biệt cuối cùng của nó.
Tâm trí tôi trôi dạt đi. Tôi chìm vào một giấc mơ ban ngày.
Tôi thấy một người đàn ông. Ông ta trạc tuổi trung niên, người bê bết bùn bẩn thỉu, chậm chạp bò theo rìa một vách đá, mái tóc lơ thơ rối bời và ướt nhẹp xõa xuống khuôn mặt. Gió quất vào chiếc áo khoác mỏng của ông như thổi vào một lá buồm. Ông dừng lại, phủ phục xuống chống người trên hai khuỷu hay. Hai bên khuỷu tay ông trượt xuống chỗ đất lõm ông đã tạo nên hàng tuần trước đó, trong khi ông lang thang dọc theo các vách đá ven biển này tìm những con nhạn biển đang kết đôi và tổ hải âu. Ông giơ một chiếc ống nhòm lên mắt, nhưng hướng nó xuống thấp, thấp hơn vị trí các tổ chim, xuống một dải bờ biển hẹp hình lưỡi liềm nơi thủy triều dâng thu nhặt đủ thứ và hất chúng dạt vào bờ: củi rêu và rong biển, mảnh thuyền vỡ - và đôi khi, như lời cư dân địa phương, cả những xác chết.
Người đàn ông ấy là bố tôi. Ông đang tìm kiếm một thứ ông khẩn thiết mong muốn không tìm thấy.
Ông đang tìm thi thể con trai mình.
Cảm thấy cái gì đó chạm vào giày mình, tôi mở choàng mắt ra, giật mình rời khỏi cơn nửa tỉnh nửa mơ.
Trời đã sẩm tối, và tôi đang ngồi trên đống đá, hai đầu gối thu vào áp sát ngực, và đột nhiên Emma ở đó, cơn gió thổi tung mái tóc, cô đứng trên mặt cát phía dưới tôi.
- Cậu ổn chứ? - cô hỏi.
Đó là một câu hỏi sẽ phải cần ít nhiều trình độ toán đại học và chừng một giờ thảo luận để trả lời. Tôi cảm thấy cả trăm thứ xung đột nhau, đại bộ phận chúng tự triệt tiêu lẫn nhau về bằng tổng của lạnh, mệt mỏi và không thực sự hào hứng trò chuyện.
Vì thế tôi nói:
- Tớ ổn cả, chỉ đang cố hong khô người thôi, - rồi vỗ vào ngực chiếc áo len ẩm sì của mình để giải thích.
- Việc đó thì tớ có thể giúp cậu. - Cô leo lên đống đá và ngồi xuống cạnh tôi. - Đưa tay đây cho tớ.
Tôi chìa một cánh tay ra, và Emma đặt cánh tay tôi vắt qua trên đầu gối cô. Khum hai bàn tay lại trên miệng, cô cúi đầu xuống cổ tay tôi. Sau đó, hít một hơi thật sâu, cô thổi ra từ từ qua hai lòng bàn tay và một luồng hơi nóng dễ chịu không thể tin nổi lan dọc theo cẳng tay tôi, tới mức gần như gây đau.
- Nóng quá à? - cô hỏi.
Tôi cứng người lại, một cơn rùng mình lan khắp người, rồi lắc đầu.
- Tốt.
Cô di chuyển lên cao hơn theo cánh tay tôi rồi thổi lần nữa. Thêm một luồng hơi nóng ngọt ngào. Giữa các nhịp thở, cô nói:
- Tớ hy vọng cậu không bận lòng vì những gì Enoch nói. Những người còn lại trong chúng tớ đều tin cậu, Jacob. Enoch có thể trở thành một kẻ độc mồm độc miệng khủng khiếp, đặc biệt là khi cậu ta cảm thấy ghen tị.
- Tớ nghĩ cậu ấy nói đúng, - tôi nói.
- Cậu không thực sự nghĩ vậy. phải không?
Tất cả nhất loạt xổ ra.
- Tớ không hề biết tớ đang làm gì, - tôi nói. - Ai trong số các cậu lại đi trông cậy vào tớ chứ? Nếu tớ thực sự đặc biệt thì cũng chỉ một chút thôi, tớ nghĩ vậy. Như kiểu tớ chỉ có một phần tư máu đặc biệt còn các cậu mang trọn vẹn máu đặc biệt.
- Không phải thế đâu, - Emma bật cười nói.
- Nhưng ông tớ đặc biệt hơn tớ. Chắc chắn phải thế. Ông rất khỏe…
- Không, Jacob, - cô nói, nheo mắt lại nhìn tôi. - Thật đáng kinh ngạc. về nhiều mặt, cậu cũng hệt như cậu ấy. Tất nhiên, cậu cũng khác biệt nữa - cậu dịu dàng và dễ mến hơn - nhưng mọi thứ cậu nói… cậu nói hệt như Abe hồi đầu khi cậu ấy mới tới sống cùng bọn tớ.
- Thật sao?
- Phải. Cậu ấy cũng rất bối rối. Cậu ấy chưa bao giờ gặp người đặc biệt nào khác. Cậu ấy không hiểu năng lực của mình cũng như cách nó vận hành, hay cậu ấy có thể làm gì. Mà nói thực lòng thì cả bọn tớ cũng không hề biết. Điều cậu và cậu ấy có thể làm là rất hiếm gặp. Nhưng ông cậu đã học được cách sử dụng nó.
- Bằng cách nào? - tôi hỏi.  -Ở đâu?
- Trong chiến tranh. Cậu ấy là thành viên một đơn vị bí mật gồm toàn người đặc biệt trong quân đội Anh. Chiến đấu chống lại đám hồn rỗng lẫn bọn Đức. Người ta không trao huân chương tặng thưởng cho những việc kiểu như họ đã làm - nhưng với bọn tớ họ là những người anh hùng, và không ai hơn được ông cậu. Những hy sinh họ chịu đựng đã đẩy lùi những kẻ sa đọa trong nhiều thập kỷ và cứu được tính mạng vô số người đặc biệt.
Ấy thế nhưng ông lại không thể cứu được hai cụ nội, tôi thầm nghĩ. Thật bi thảm lạ lùng làm sao.
- Và tớ có thể nói với cậu điều này, - Emma nói tiếp. - Cậu cũng đặc biệt chẳng kém gì cậu ấy - và cũng can đảm không kém.
- Chà. Giờ thì cậu chỉ đang cố làm tớ cảm thấy phấn chấn hơn thôi.
- Không. - Emma nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. - Không phải thế. Rồi cậu sẽ nhận ra, Jacob. Một ngày nào đó, cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng còn cừ khôi hơn cậu ấy trước đây.
- À phải, đó là điều mọi người vẫn nói. Làm thế nào cậu có thể chắc chắn vậy được?
- Tớ cảm thấy điều đó rất rõ rệt, - cô nói. - Cậu được định đoạt để làm điều đó, tớ nghĩ vậy. Cũng như cậu được định đoạt sẽ tới Cairnholm.
- Tớ không tin vào những thứ như thế. Số phận. Các vì sao. Định mệnh.
- Tớ đâu nói là định mệnh.
- Được định đoạt cũng thế thôi, - tôi nói. - Định mệnh là dành cho những nhân vật trong các cuốn sách về những thanh gươm thần kỳ. Toàn những chuyện tào lao bí đao. Tớ ở đây vì ông tớ lẩm bẩm gì đó về hòn đảo của các cậu mười giây trước khi ông qua đời - chỉ vậy thôi. Đó là một việc tình cờ. Tớ mừng vì ông đã nói về điều đó, nhưng lúc ấy ông đã mê sảng. Ông cũng đã có thể nói ra một danh sách đồ tạp hóa.
- Nhưng cậu ấy không làm thế, - Emma nói.
Tôi ngao ngán thở dài.
- Và nếu chúng ta lên đường đi tìm các Vòng Thời Gian, các cậu trông cậy tớ sẽ cứu các cậu thoát khỏi đám quái vật, nhưng thay vì thế tớ lại khiến tất cả các cậu bị giết, như thế cũng là định mệnh phải không?
Emma cau mày, đặt cánh tay tôi trở lại vào lòng tôi.
- Tớ không hề nói định mệnh, - cô nhắc lại. - Điều tớ tin là khi những việc lớn lao xuất hiện trong đời, không hề có sự tình cờ nào cả. Mọi thứ xảy ra đều có một lý do. Cậu có mặt ở đây vì lý do nào đó - chứ không phải để thất bại rồi chết.
Tôi chẳng còn tâm trí đâu để tranh cãi.
- Được thôi, - tôi nói. - Tớ không nghĩ cậu đúng - nhưng tớ hy vọng là thế.
Tôi cảm thấy thật tệ hại vì lúc trước đã nổi cáu với Emma, nhưng lúc ấy tôi đã lạnh cóng, hoảng sợ và muốn thủ thế. Tôi đã có những khoảnh khắc tốt đẹp và tệ hại, những lúc khiếp sợ và tự tin - mặc dù vào lúc này tỷ lệ khiếp sợ so với tự tin của tôi đang chênh lệch đến mức thảm hại, ba trên một chẳng hạn, và trong những khoảnh khắc khiếp sợ, có vẻ như tôi đã bị đẩy vào một vai trò tôi không hề yêu cầu, tình nguyện lên tuyến đầu trong một cuộc chiến mà chưa bao giờ có ai trong chúng tôi biết trọn vẹn quy mô tầm vóc của nó. “Định mệnh”, nghe như một bổn phận, và nếu tôi nhất định phải bị đẩy vào trận chiến chống lại một đội quân những tạo vật ghê rợn, đó cần phải là điều tôi chọn lấy.
Mặc dù về mặt nào đó, sự lựa chọn đã được đưa ra rồi, khi tôi đồng ý chèo thuyền đi vào nơi vô định với những đứa trẻ đặc biệt này. Và nếu tôi thực sự tìm kiếm kỹ lưỡng mọi ngóc ngách nội tâm mình, thì cũng không hẳn là tôi không yêu cầu được làm thế. Quả thực, tôi đã từng mơ về những chuyến phiêu lưu kiểu này từ khi còn bé. Hồi ấy, tôi đã từng tin vào định mệnh, và tin tuyệt đối vào nó, với trọn trái tim thơ dại bé nhỏ của mình. Tôi cảm thấy sự thôi thúc rộn lên trong lồng ngực trong lúc lắng nghe những câu chuyện phi thường của ông nội. Một ngày kia sẽ đến lượt mình. Thứ lúc này có vẻ là bổn phận thì hồi đó từng giống như lời hứa - rằng đến một ngày tôi sẽ thoát khỏi thị trấn bé xíu của mình và sống một cuộc đời phi thường, như ông nội từng sống, và vào ngày đó, cũng như ông nội Portman, tôi sẽ làm được điều gì đó có ý nghĩa. Ông thường hay nói với tôi, “Cháu sẽ trở thành một người vĩ đại, Yakob. Rất vĩ đại”.
“Như ông ấy ạ?” khi đó tôi sẽ hỏi ông. “Cừ hơn ấy chứ”, ông sẽ trả lời.
Hồi ấy tôi đã tin ông, và giờ vẫn muốn thế. Nhưng càng biết nhiều hơn về ông, cái bóng của ông càng trở nên dài ra, và việc ngày nào đó tôi có thể trở nên vĩ đại như ông dường như càng trở nên bất khả thi. Thậm chí, chỉ thử làm thế thôi cũng có thể là tự sát. Và khi tôi hình dung ra mình đang thử sức, những ý nghĩ về bố tôi lại chen vào - ông bố tội nghiệp sắp bị dày vò khổ sở của tôi - và trước khi tôi có thể xua chúng ra khỏi tâm trí mình, tôi tự hỏi làm thế nào một người vĩ đại lại làm chuyện khủng khiếp đến thế với ai đó thương yêu mình. Tôi bắt đầu rùng mình.
- Cậu lạnh quá, - Emma nói. - Để tớ làm cho xong đã nào.
Cô cầm cánh tay còn lại của tôi lên và hà hơi lên suốt dọc cánh tay. Cảm giác ấy gần như quá mức tôi chịu nổi. Khi cô chạm tới vai tôi, thay vì đặt cánh tay trở lại vào lòng tôi, cô cầm nó lên quàng quanh cổ mình. Tôi nhấc cánh tay còn lại của mình lên gia nhập cùng nó, rồi Emma cũng quàng cánh tay ôm lấy tôi, trán chúng tôi tì vào nhau.
Emma thì thầm thật khẽ:
- Tớ hy vọng cậu không hối hận về lựa chọn của cậu. Tớ rất vui vì cậu có mặt ở đây cùng bọn tớ. Tớ không biết tớ sẽ làm gì nếu cậu rời đi. Tớ sợ rằng tớ sẽ không ổn chút nào.
Tôi đã nghĩ tới chuyện trở lại. Trong một khoảng khắc tôi đã thực sự cố hình dung ra nó trong đầu mình, xem sẽ thế nào nếu bằng cách nào đó tôi có thể chèo một trong những chiếc thuyền của chúng tôi trở lại hòn đảo, và quay về nhà.
Nhưng tôi không thể làm thế. Tôi không thể hình dung ra. Tôi thì thầm:
- Làm sao tớ có thể chứ?
- Khi cô Peregrine trở lại hình người, cô ấy sẽ có thể giúp cậu trở về. Nếu cậu muốn ra đi.
Câu hỏi của tôi không phải là về khả năng. Tôi chỉ đơn giản có ý: Làm sao tớ nỡ rời xa cậu chứ? Nhưng những lời đó không thể nói ra được, chúng không thể tìm được đường ra khỏi miệng tôi. Vậy là tôi giữ chúng lại trong tâm trí, và thay vì thế tôi hôn cô.
Lần này, đến lượt hơi thở Emma trở nên gấp gáp. Hai bàn tay cô đưa lên má tôi nhưng dừng lại, ngần ngại không chạm vào. Hơi nóng phả ra từng đợt từ tay cô.
- Chạm vào tớ đi, - tôi nói.
- Tớ không muốn làm cậu bỏng, - cô nói, nhưng một luồng lửa bùng cháy lên trong lồng ngực tôi liền nói: Mình không bận tâm, vậy là tôi cầm lấy các ngón tay cô và đưa chúng lướt đi trên má tôi, và cả hai chúng tôi cùng kêu lên thảng thốt. Thật nóng nhưng tôi không rụt lại. Tôi không dám, sợ rằng cô sẽ không chạm vào tôi nữa. Rồi sau đó môi chúng tôi lại gặp nhau, chúng tôi lại hôn nhau, và hơi âm diệu kỳ của cô lan đi trong tôi.
Đôi mắt tôi khép lại. Thế giới tan biến đi.
Cho dù cơ thể tôi đang lạnh cóng trong màn sương mù buổi tối, tôi cũng không hề cảm thấy điều đó. Cho dù biển đang gầm thét bên tai tôi, tôi cũng không hề nghe thấy. Cho dù tảng đá tôi ngồi sắc cạnh lởm chởm, tôi cũng hầu như không để ý tới. Mọi thứ bên ngoài hai chúng tôi đều chỉ là phù phiếm.
Rồi một tiếng va chạm mạnh vọng lại trong màn đêm, nhưng tôi không nghĩ gì tới nó - tôi không thể dứt mình khỏi Emma - cho tới khi âm thanh đó lặp lại kèm theo tiếng kim loại kêu ken két gai người, và một luồng sáng lóa mắt quét qua chúng tôi, và cuối cùng tôi không thể lờ nó đi thêm được nữa.
Ngọn hải đăng, tôi nghĩ. Ngọn hải đăng đã bị rơi xuống biển. Song ngọn hải đăng là một chấm sáng ở tít xa, không phải một luồng sáng chói lọi như mặt trời, và ánh sáng của nó chỉ di chuyển theo một chiều, chứ không quét qua quét lại tìm kiếm.
Đó không phải là ngọn hải đăng. Đó là một ngọn đèn pha - và nó chiếu tới từ mặt nước gần bờ.
Đó là đèn pha của một chiếc tàu ngầm.
* * *
Trong một giây kinh hoảng ngắn ngủi, liên lạc giữa bộ não và đôi chân bị cắt đứt. Đôi mắt và đôi tai tôi ghi nhận được chiếc tàu ngầm ở không xa bờ: con quái vật kim loại nhô lên trên mặt biển, nước ào ào chảy xuống từ hai bên sườn nó, đám người ào ào leo lên boong từ cái cửa sập mở tung, hò hét, chĩa những luồng sáng vào chúng tôi. Rồi sự kích thích tới được chân tôi và chúng tôi trượt, ngã, lao từ trên đống đá xuống và chạy thục mạng.
Ánh đèn hất bóng chúng tôi qua bãi biển, cao ba mét và trông rõ quái đản.
Một giọng nói vang lên từ loa. “DỪNG LẠI! KHÔNG ĐƯỢC CHẠY!”
Chúng tôi lao vào trong hang - Chúng đang tới, chúng đang ở đây, dậy, dậy đi - nhưng đám trẻ đã nghe thấy những tiếng động và đứng bật cả dậy - tất cả trừ Bronwyn, cô đã kiệt sức ngoài biển tới mức phải tựa vào vách hang ngủ thiếp đi và không tài nào dậy được. chúng tôi lay cô, hét vào mặt cô, nhưng cô chỉ làu bàu rồi vùng tay gạt chúng tôi ra. Cuối cùng, chúng tôi đành bám lấy eo cô dựng dậy, chẳng khác gì nâng một tòa tháp xây bằng gạch lên, nhưng khi hai bàn chân Bronwyn chạm đất, đôi mắt đỏ quạch của cô mở ra, và cô tự đứng lên.
Chúng tôi vơ vội lấy của nả của mình, giờ lại lấy làm mừng là chúng vừa nhỏ vừa ít. Emma ôm lấy cô Peregrine trong vòng tay. Chúng tôi ùa ra ngoài. Trong khi chúng tôi chạy vào các đụn cát, tôi trông thấy sau lưng chúng tôi một đám bóng người đang ì oạp lội qua những mét nước cuối cùng để lên bờ. Trong tay chúng, những khẩu súng được giơ lên cao quá đầu để giữ cho khô.
Chúng tôi cuống cuồng chạy qua một hàng cây đang bị gió thổi tung vào khu rừng không một lối mòn. Bóng tối bao trùm lấy chúng tôi. Phần ánh trăng còn lại chưa bị mây che khuất giờ bị những tán cây che kin nốt, những cành cây làm ánh trăng mờ nhạt tiêu biến hoàn toàn. Không có thời gian để mắt chúng tôi kịp thích nghi hay để chúng tôi cẩn thận lần mò tìm đường hay làm bất cứ điều gì khác ngoài chạy muốn đứt hơi, một đám người liên tục vấp dúi dụi, cánh tay dang ra, tránh né những thân cây dường như đột ngột hiện ra trong không khí chỉ cách chúng tôi gần chục phân.
Sau vài phút chúng tôi dừng lại, lồng ngực phập phồng, lắng nghe. Những giọng nói vẫn ở đằng sau chúng tôi, chỉ có điều giờ đây hòa cùng chúng còn một âm thanh khác: tiếng cho sủa.
Chúng tôi chạy tiếp.

Chương 3


Chúng tôi loạng choạng vừa chạy vừa vấp qua khu rừng tối đen trong quãng thời gian có vẻ như hàng giờ, không có mặt trăng hay vì sao nào để dùng ước lượng thời gian đã trôi qua. Tiếng người hò hét và tiếng chó sủa vang vọng xung quanh trong khi chúng tôi chạy, đe dọa chúng tôi từ mọi phía mà cũng chẳng biết từ đâu. Để cắt đuôi không cho lũ chó lần theo hơi mình, chúng tôi lội xuống một dòng suối lạnh cóng và đi theo nó cho tới khi các bàn chân chúng tôi tê cóng, và khi chúng tôi lội từ suối lên, có cảm giác như tôi đang loạng choạng trên hai đầu mỏm chân cụt bị kim loại châm buốt nhói.
Sau một thời gian, chúng tôi bắt đầu hụt hơi. Ai đó rên lên trong bóng tối. Olive và Claire bắt đầu tụt lại đằng sau, Bronwyn bèn đưa tay ra dìu hai cô bé, nhưng sau đó đến cô cũng không thể tiếp tục thêm nữa. Cuối cùng, khi Horace vấp phải một cái rễ cây ngã vật ra đất rồi nằm đó khẩn khoản xin dừng lại nghỉ chân, tất cả chúng tôi bèn dừng lại.
- Dậy, đồ lười biếng! - Enoch rít lên với cậu ta, nhưng bản thân anh chàng cũng thở hổn hển, sau đó Enoch tựa lưng vào một cái cậy thở lấy hơi, và tính hăng máu có vẻ đã trôi tuột hết khỏi cậu ta.
Chúng tôi đã tới ngưỡng tột cùng của sức chịu đựng. Chúng tôi phải dừng lại.
- Dù sao cứ chạy vòng quanh trong bóng tối thế này cũng vô ích, - Emma nói. - Chúng ta hoàn toàn có thể kết thúc ở đúng chỗ bắt đầu.
- Chúng ta sẽ có thể cảm nhận được tốt hơn về cánh rừng này dưới ánh sáng ban ngày, - Millard nói.
- Với điều kiện chúng ta sống được lâu đến thế, - Enoch nói.
Một cơn mưa nhẹ rơi xuống. Fiona tạo ra một nơi trú mưa cho chúng tôi bằng cách dỗ dành một vòng cây ngả các cành thấp xuống kề sát vào nhau, nựng nịu vuốt ve lớp vỏ cây và thì thầm với các thân cây cho tới khi các cành đan lại tạo thành một tấm mái lá không cho nước lọt qua, vừa đủ cao để chúng tôi có thể ngồi bên dưới. Chúng tôi bò vào trong, ngồi đó lắng nghe mưa rơi và tiếng sủa xa xa của lũ chó. Ở đâu đó trong rừng, những kẻ có súng vẫn đang truy lùng chúng tôi. Chỉ còn lại một mình cùng những ý nghĩ trong đầu, tôi tin chắc mỗi người trong chúng tôi đều đang băn khoăn cùng một thứ - chuyện gì sẽ xảy ra với chúng tôi nếu chúng tôi bị bắt.
Claire bắt đầu khóc, thoạt đầu khe khẽ, nhưng rồi ngày càng to hơn, cho tới khi cả hai cái miệng của cô đều khóc to, và cô bé hầu như không thể thở được giữa những tiếng nức nở.
- Im lặng nào! - Enoch nói. - Chúng sẽ nghe thấy cậu mất. đến lúc đó tất cả chúng ta sẽ có lý do để khóc đấy!
- Chúng sẽ mang chúng mình ra cho chó ăn! - cô bé nói. - Chúng sẽ bắn thủng nhiều lỗ lên người chúng ta và bắt cô Peregrine đi!
Bronwyn nhích sát vào ôm chặt lấy cô bé trong vòng tay mạnh mẽ của mình.
- Làm ơn nào, Claire! Cậu phải nghĩ về thứ gì khác đi!
- Tớ đã… đang cố đây! - cô bé nức nở.       
- Cố hơn nữa đi!
Claire nhắm tịt mắt lại, hít một hơi thật sâu, và nín thở cho tới khi trông cô như một quả bóng sắp vỡ tung - rồi òa lên vừa ho nấc vừa khóc còn ầm ĩ hơn lúc trước. Enoch bịt hai bàn tay che lên miệng cô.
- Suỵỵỵt!
- Tớ x… x… xin lỗi! - cô bé thổn thức. - C… có thể nếu tớ được nghe một câu chuyện… một trong nh… Những truyện kể….
- Đừng có lại thế nữa, - Millard nói. - Tớ bắt đầu ước gì chúng ta mất luôn mấy cuốn sách khỉ gió ấy cùng những thứ khác ngoài biển cho rồi!
Cô Peregrine lên tiếng - ở mức độ tình trạng của cô cho phép - nhảy lên trên nắp cái rương của Bronwyn và lấy mõ mổ mổ xuống. Bên trong, cùng những gì còn lại trong đống của nả ít ỏi của chúng tôi, là bộ “Những truyện kể”.
- Tớ đồng ý với cô P, - Enoch nói. - Cũng đáng thử đấy… bất cứ cái gì để ngăn cậu ta gào tướng lên!
- Được rồi, cô bé, - Bronwyn nói, - nhưng chỉ một chuyện thôi, và cậu phải hứa sẽ thôi khóc!
- Tớ h… hứa, - Claire thút thít.
Bronwyn mở rương lấy ra một tập “Những truyện kể về người đặc biệt” bị ngấm nước.
Emma nhích lại gần, thắp lên một đốm lửa nhỏ nhất có thể trên đầu ngón tay để lấy ánh sáng đọc. Sau đó, cô Peregrine, nóng lòng muốn dỗ yên Claire, ngậm lấy mép bìa sách và mở cuốn sách tới một chương có vẻ ngẫu nhiên.
Bằng giọng khe khẽ, Bronwyn bắt đầu đọc.
- “Ngày xửa ngày xưa vào thời kỳ đặc biệt, trong một khu rừng sâu cổ kính có vô vàn động vật sinh sống. Có thỏ, hươu và cáo, cũng giống như mọi khu rừng, nhưng còn cả những con vật ít gặp hơn, như gấu chân cà kheo, linh miêu hai đầu và bán lừa cao cổ biết nói. Những động vật đặc biệt này là mục tiêu ưa thích của đám thợ săn, họ thích bắn chúng rồi treo lên tường để khoe khoang với đám bạn thợ săn của bọn họ, nhưng điều những kẻ này còn thích hơn là bán chúng cho các chủ vườn thú, đám đó sẽ nhốt chúng vào chuồng rồi thu tiền ai muốn ngắm nhìn chúng. Đến đây, bạn có thể cho rằng bị nhốt trong chuồng hẳn là tốt hơn nhiều so với bị bắn và treo lên tường, nhưng để cảm thấy hạnh phúc, những con vật đặc biệt phải được tự do chạy nhảy, và sau một thời gian, tinh thần những con vật bị giam hãm trong chuồng suy sụp, rồi chúng bắt đầu ghen tị với những bạn bè treo trên tường của chúng….”
- Câu chuyện này buồn quá, - Claire càu nhàu. - Kể chuyện khác đi.
- Tớ thích nó, - Enoch nói. - Kể tiếp về chuyện săn bắn và treo lên tường đi.
Bronwyn tảng lờ cả hai.
- “Đây là thời những người khổng lồ vẫn còn bước đi trên trái đất”, cô đọc tiếp, “như trong thời Aldinn cách đây lâu lắm, dù số lượng họ rất ít và đang giảm dần. Và tình cờ một trong những người khổng lồ này sống gần khu rừng, ông rất tốt bụng, nói năng rất nhẹ nhàng và chỉ ăn thực vật, tên ông là Cuthbert. Một ngày nọ, Cuthbert đi vào rừng hái quả mọng thì nhìn thấy một gã thợ săn đang săn một con bán lừa cao cổ. Vốn là một người khổng lồ tốt bụng, Cuthbert cầm lấy cái cổ dài của con bán lừa cao cổ bé bỏng, và bằng cách đứng kiễng chân lên hết mức, điều ông hiếm khi làm vì nó khiến cả bộ xương già nua của ông kêu răng rắc, Cuthbert có thể với lên rất cao và đặt con bán lừa cao cổ lên một đỉnh núi, tránh xa nguy hiểm. Sau đó, để chắc ăn, ông kẹp nát bét gã thợ săn giữa các ngón chân mình. Tiếng tăm về lòng tốt của Cuthbert lan đi khắp khu rừng, và chẳng mấy chốc những con vật đặc biệt tìm tới chỗ ông mỗi ngày, xin được nhấc lên đỉnh núi tránh khỏi vòng nguy hiểm. Và Cuthbert nói, “Ta sẽ bảo vệ các em, hỡi các em trai và em gái bé nhỏ. Để đổi lại, ta chỉ yêu cầu duy nhất một điều là các em hãy trò chuyện và bầu bạn với ta. Không còn nhiều người khổng lồ trên thế gian này, và thỉnh thoảng ta cảm thấy cô đơn”. Những con vật bèn nói, “Tất nhiên rồi, Cuthbert, chúng em sẽ làm thế”. Vậy là mỗi ngày Cuthbert lại cứu thêm nhiều con vật đặc biệt khỏi tay đám thợ săn, cầm cổ chúng nhấc chúng lên núi, cho tới khi có cả một bầy động vật đặc biệt trên đó. Những con vật hạnh phúc trên đó vì chúng cuối cùng có thể sống bình yên, còn Cuthbert cũng hạnh phúc, vì nếu đứng kiễng chân tựa cằm lên đỉnh núi, ông có thể trò chuyện với những người bạn mới của mình như hằng mong. Thế rồi đến buổi sáng nọ, một phù thủy tới gặp Cuthbert. Ông đang tắm trong một hồ nước nhỏ dưới chân núi thì bà ta nói với ông, “Tôi rất xin lỗi, nhưng giờ tôi buộc phải biến anh thành đá đây”. “Tại sao bà có thể làm như thế?”, người khổng lồ hỏi. “Tôi rất tốt bụng kia mà. Tôi là một người khổng lồ tử tế”. Bà ta đáp, “Tôi được gia đình người thợ săn anh đã giẫm bẹp thuê”. “À”,  người khổng lồ đáp, “Tôi đã quên mất anh ta”. “Tôi rất xin lỗi”, bà phù thủy lại nói, rồi sau đó bà ta vung một cành cây cáng lò chĩa vào người khổng lồ và Cuthbert tội nghiệp biến thành đá. Đột nhiên Cuthbert trở nên nặng trich, nặng đến mức ông bắt đầu chìm xuống hồ. Ông chìm, chìm mãi, không ngừng chìm xuống cho tới khi nước ngập lên tới tận cổ ông. Những người bạn động vật của Cuthbert nhìn thấy điều đang xảy ra, và cho dù cảm thấy điều đó thật kinh khủng, chúng vẫn quyết định mình không thể làm gì giúp ông. “Ta biết các em không thể cứu ta”, Cuthbert hét vọng lên với các bạn mình, “nhưng ít nhất hãy tới nói chuyện với ta! Ta bị mắc kẹt dưới này rồi, cô đơn lắm!”. “Nhưng nếu bọn em xuống đó, đám thợ săn sẽ bắn bọn em!”, chúng đáp lại. Cuthbert biết chúng có lý, nhưng ông vẫn cầu khẩn chúng. “Hãy nói chuyện với ta!”, Ông kêu lên. “Làm ơn hãy tới nói chuyện với ta!”. Những con vật cố hát và hét vọng tới chỗ Cuthbert tội nghiệp từ đỉnh núi an toàn của chúng, nhưng chúng ở quá xa mà giọng chúng thì quá nhỏ, vì thế ngay cả khi có đôi tai khổng lồ, đối với Cuthbert, những âm thanh đó vẫn chỉ khẽ hơn cả tiếng lá xào xạc trong gió. “Nói chuyện với ta đi!”, ông cầu khẩn. “Hãy tới nói chuyện với ta!”. Nhưng chúng chẳng bao giờ tới. Và đến tận khi cổ họng biến thành đá như phần cơ thể còn lại, người khổng lồ vẫn khẩn khoản gọi. Hết chuyện”.
Bronwyn gập sách lại. Claire có sẽ sững sờ.
- Thế là hết à? - Enoch bật cười.
- Thế là hết, - Bronwyn nói.
- Chuyện gì mà khiếp quá, - Claire nói. - Kế chuyện khác đi!
- Một chuyện là một chuyện, - Emma nói, - giờ thì đến lúc đi ngủ rồi.
Claire trề môi phụng phịu, nhưng đã nín khóc, vậy là câu chuyện đã hoàn thành nhiệm vụ của nó.
- Ngày mai không có vẻ gì là sẽ dễ dàng hơn hôm nay đâu, - Millard nói. - Chúng ta cần tranh thủ nghỉ ngơi được chừng nào hay chừng đó.
Chúng tôi cạy những mảng rêu êm ái xếp lại làm gối, Emma dùng hai bàn tay hong khô nước mưa ngấm vào rêu trước khi chúng tôi kê chúng xuống dưới đầu. Không có chăn, chúng tôi nép sát vào nhau lấy hơi ấm: Bronwyn ôm lấy mấy đứa trẻ nhỏ nhất; Fiona ôm lấy Hugh, những con ong bay ra rồi chui vào qua cái miệng mở ra của cậu ta khi cậu ta ngáy để canh gác cho cậu chủ đang ngủ của chúng; Horace và Enoch run rẩy tựa lưng vào nhau, quá kiêu hãnh nên không chịu ôm lấy nhau; còn tôi thì với Emma. Tôi nằm ngả lưng xuống đất, còn cô nằm trong vòng tay tôi, gối đầu lên ngực tôi, khuôn mặt cô kề sát mặt tôi mời gọi tới mức tôi có thể hôn lên trán cô bất cứ lúc nào tôi thích - và chắc tôi đã không ngừng lại nếu không phải vì tôi đã mệt rũ còn cô ấm áp như một chiếc chăn sưởi điện, vậy là chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi và mơ về những điều vui vẻ, có thể quên đi được.
Tôi chẳng bao giờ nhớ những giấc mơ đẹp; chỉ có những giấc mơ xấu lưu lại.
Xét tới hoàn cảnh thì việc tôi có thể ngủ được quả là một điều kỳ diệu. Ngay cả khi ở đây - khi đang chạy trốn bảo mạng, ngủ ngoài trời đối mặt với cái chết - ngay cả khi ở đây, trong vòng tay cô, tôi vẫn có thể tìm thấy chút bình yên.
Cô Peregrine đảo mắt quan sát tất cả chúng tôi, đôi mắt đen của bà ánh lên mờ mờ trong bóng tối. Dù bị thương và không thể làm gì được, bà vẫn là người bảo vệ cho chúng tôi.
Buổi đêm trở nên lạnh buốt, Claire bắt đầu run rẩy và ho. Bronwyn lay Emma dậy và nói:
- Tiểu thư Bloom, mấy đứa bé cần cậu đấy; tớ sợ cô bé bị ốm rồi.
Vậy là sau khi thầm thì xin lỗi, Emma rời khỏi vòng tay tôi để qua chăm sóc cho Claire. Tôi cảm thấy một thoáng ghen tị, rồi đến cảm giác tội lỗi vì đã ghen tị với một người bạn đang ốm. Vậy là tôi nằm một mình, không hiểu sao lại cảm thấy bị bỏ rơi và nhìn chằm chằm vào bóng tối, kiệt quệ hơn bao giờ hết, nhưng lúc này lại không tài nào ngủ được, tôi đành lắng nghe những người khác cựa mình ú ớ trong những cơn ác mộng không thể sánh ngang với thực tế chúng tôi nhiều khả năng phải đối diện khi thức dậy. Và cuối cùng bóng tối dần dần bị gỡ đi từng lớp một, bầu trời sáng dần, từ từ đến mức không thể nhận ra, chuyển sang màu xanh nhạt dịu dàng.
* * *
Vào lúc rạng đông, chúng tôi chui ra khỏi nơi trú chân của mình. Tôi phủi rêu khỏi tóc và cố gắng gột bùn khỏi cái quần đang mặc nhưng công cốc, bùn chỉ càng lan rộng ra thêm, khiến tôi trông giống một tạo vật bằng bùn vừa được khạc ra từ lòng đất. Tôi chưa bao giờ biết đến cảm giác đói cồn cào tới mức này, bụng tôi như đang tự gặm lấy chính nó, và bất cứ chỗ nào có thể đau, tôi đều cảm thấy đau, kết quả từ việc chèo thuyền và chạy trốn, rồi ngủ qua đêm trên mặt đất. Dẫu vậy, cũng có vài điều may mắn: trong đêm mưa đã ngừng, ngày mới đang dần ấm lên, chúng tôi có vẻ đã thoát khỏi đám xác sống và lũ chó của chúng, ít nhất vào lúc này; hoặc chúng đã thôi sủa, hoặc chúng đã ở quá xa nên khó mà nghe thấy.
Để làm được việc đó, chúng tôi đã khiến chính mình lạc đường đến vô vọng. Vào ban ngày, tìm đường trong khu rừng này cũng chẳng dễ hơn ban đêm. Những cây linh sam cành lá xanh um trải ra bất tận thành từng hàng lộn xộn, nhìn về hướng nào cũng giống như nhìn vào hình ảnh phản chiếu của những hướng khác trong gương. Mặt đất ở đây như tấm thảm lá rụng che đi mọi dấu vết của chúng tôi tạo ra đêm hôm trước. Chúng tôi đã thức giấc trong lòng một mê cung xanh mà không có bản đồ hay la bàn, và bên cánh gãy của cô Peregrine đồng nghĩa với việc bà không thể bay lên cao quá ngọn cây để dẫn đường cho chúng tôi. Enoch đề xuất chúng tôi đưa Olive lên phía trên rừng cây như đã làm giữa màn sương mù, nhưng chúng tôi chẳng có cuộn dây nào để giữ cô lại, và nếu cô bé bị tuột ra và bay vút lên trời, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ kéo cô xuống trở lại được.
Claire đã ốm và ngày càng ốm nặng hơn, cô nằm co quắp trong lòng Bronwyn, mồ hôi trán rịn ra bất chấp trời lạnh. Cô bé gầy tong teo đến mức tôi có thể đếm hết xương sườn dưới lớp váy.
- Cậu ấy sẽ ổn chứ? - tôi hỏi.
- Con bé bị sốt, - Bronwyn nói, áp một bàn tay lên má cô bé. - Cô bé cần thuốc.
- Trước hết chúng ta sẽ phải tìm đường ra khỏi khu rừng mắc dịch này, - Millard nói.
- Trước hết chúng ta cần ăn, - Enoch nói.- Chúng ta hãy ăn và thảo luận những lựa chọn của chúng ta.
- Lựa chọn nào? - Emma nói. - Cứ chọn một hướng và chúng ta sẽ đi theo hướng đó. Hướng nào cũng như nhau cả thôi.
Chúng tôi rầu rĩ im lặng ngồi ăn. Lúc trước tôi chưa bao giờ thử qua đồ ăn của chó, nhưng tôi biết chắc bữa ăn này còn tệ hơn - những miếng thịt béo ngậy màu nâu xỉn xúc từ trong những cái hộp đã hoen gỉ, và vì không có dụng cụ, chúng tôi phải dùng ngón tay để xúc.
- Tớ đã đóng hộp năm con gà mái tơ ướp muối, ba hộp gan ngỗng béo cùng dưa chuột muối, - Horace cay đắng nói, - và đây là tất cả những gì còn sót sau vụ chìm thuyền của chúng ta.
Cậu ta bịt mũi rồi thả một cục thức ăn bèo nhèo dính dính xuống cổ họng nuốt chửng. - Tớ nghĩ chúng ta đang bị trừng phạt.
- Vì cái gì? - Emma nói. - Chúng ta vẫn luôn là những thiên thần hoàn hảo. À phải, phần lớn chúng ta.
- Tội lỗi từ những kiếp trước, có lẽ là thế. Tớ không biết.
- Những người đặc biệt không có kiếp trước, - Millard nói. - Chúng ta sống tất cả các kiếp cùng một lúc.
Chúng tôi nhanh chóng xong bữa, chôn những cái hộp rỗng đi rồi chuẩn bị lên đường. Đúng lúc chúng tôi sắp khởi hành, Hugh lao vụt qua một đám cây bụi dày đặc vào khu trại tạm bợ của chúng tôi, lũ ong quần lượn quanh đầu cậu ta thành một đám mây náo động. Cậu ta hổn hển thở không ra hơi vì kích động.
- Cậu đã biến đi đâu vậy ? - Enoch hỏi.
- Tớ cần được riêng tư một chút để làm chút chuyện buổi sáng, mà lo đến chuyện của cậu đi, - Hugh nói, - và tớ tìm thấy…
- Ai cho phép cậu biến ra khỏi tầm mắt hả? - Enoch nói. - Bọn tớ thiếu chút nữa đã rời đi không có cậu đấy!
- Ai nói là tớ cần được cho phép hả? Dù thế nào đi nữa, tớ thấy…
- Cậu không thể cứ lang thang bỏ đi như thế! Sẽ thế nào nếu cậu bị lac?
- Chúng ta vốn đã lạc rồi.
- Đồ ngốc! Sẽ thế nào nếu cậu không thể tìm được đường quay lại?
- Tớ rải lại sau một chuỗi ong đánh dấu đường, như mọi lần…
- Cậu làm ơn để cậu ấy nói hết xem nào! - Emma gắt lên.
- Cảm ơn, - Hugh nói, rồi sau đó cậu ta quay lại chỉ ngược về phía vừa chạy lại. - Tớ thấy nước. Rất nhiều, sau những hàng cây đằng kia.
Khuôn mặt Emma tối sầm lại. Cô nói:
- Chúng ta đang cố tránh xa biển, chứ không phải trở lại đó. Hẳn chúng ta đã vòng ngược trở lại trong đêm.
Chúng tôi đi theo Hugh quay lại con đường cậu ta vừa theo đó đi tới. Bronwyn mang cô Peregrine trên vai và bế Claire tội nghiệp đang ốm trên tay. Sau chừng chín mươi mét, một bề mặt xám xịt với những vệt sáng lấp lánh xuất hiện sau các tán cây; một vùng nước rộng lớn nào đó.
- Ôi, thật kinh khủng, - Horace nói. - Chúng đã dồn chúng ta trở lại đúng tay chúng!
- Tớ chẳng nghe thấy tiếng tên lính nào cả, - Emma nói. - Thực ra, tớ chẳng nghe thấy gì cả. Thậm chí cả tiếng đại dương.
Enoch nói:
- Bởi vì không phải là đại dương, đồ đần, - rồi cậu ta đứng lên chạy về phía mặt nước. Khi chúng tôi bắt kịp, cậu ta đang đứng giẫm chân trong cát ướt, ngoái lại nhìn chúng tôi với nụ cười Tớ đã bảo rồi mà đắc thắng.
Cậu ta nói đúng: đây không phải là biển. Đây là một hồ nước xám xịt, phủ đầy sương mù, rất rộng, bao quanh là rừng linh sam, bề mặt bình lặng của nó phẳng lì láng bóng như mặt đá xám. Nhưng tôi đã không nhận ra được ngay nét nổi bật nhất; cho tới khi Claire chỉ về phía một khối đá lớn nhô lên khỏi mặt nước nông gần đó. Thoạt đầu, đôi mắt tôi lướt nhanh qua nó, nhưng sau đó trở lại quan sát thêm lần thứ hai. Có điều gì đó kỳ quái ở tảng đá này - và nhất định là quen thuộc.
- Đó là người khổng lồ trong câu chuyện! - Claire nói, chỉ tay về phía nó trong khi vẫn nằm trong vòng tay Bronwyn. - Đó là Cuthbert!
Bronwyn xoa đầu cô bé.
- Thôi nào, cậu đang bị sốt.
- Đừng ngớ ngẩn thế, - Enoch nói. - Đó chỉ là một tảng đá thôi.
Nhưng không phải vậy. Dù đã bị gió và mưa bào mòn đi ít nhiều đường nét, tảng đá trông đúng là giống một người khổng lồ bị chìm đến tận cổ dưới hồ. Người ta có thể thấy rõ nó có một cái đầu, một cái cổ, có cả mũi, thậm chí cả yết hầu, và một vài lùm cây rậm rạp mọc lên trên đỉnh khối đá như một chỏm tóc bù xù. Nhưng điều thực sự kỳ lạ là tư thế của cái đầu - nó ngả ra đằng sau, miệng há to, như thể, giống như người khổng lồ trong câu chuyện chúng tôi vừa nghe tối hôm trước, ai đó đã bị biến thành đá trong khi cố gọi những người bạn của mình trên đỉnh núi.
- Và nhìn kìa! - Olive nói, chỉ vào một vách đá vươn cao lên đằng xa. - Đó chắc là ngọn núi của Cuthbert!
- Những người khổng lồ có thực, - Claire lẩm bẩm, giọng yếu ớt nhưng đầy ngỡ ngàng. - Và “Những truyện kể” cũng thế!
- Đừng có đi tới những kết luận lố bịch, - Enoch nói. - Khả năng nào có vẻ dễ đúng hơn đây? Người viết câu chuyện chúng ta đọc tối qua lấy cảm hứng từ một tảng đá tình cờ có hình dạng giống như một cái đầu khổng lồ, hay tảng đá hình đầu người này thực sự là một người khổng lồ?
- Cái gì cậu cũng lấy ra để pha trò được, - Olive nói. - Tớ tin vào những người khổng lồ, cho dù cậu không tin đi nữa!
- “Những truyện kể” chỉ là các câu chuyện thôi, không hơn. - Enoch càu nhàu.
- Hay thật đấy, - tôi nói, - đó chính xác là điều tớ đã nghĩ về tất cả các cậu, trước khi tớ gặp các cậu.
Olive bật cười.
- Jacob, cậu ngốc thật. Cậu thực sự nghĩ chúng tớ đều chỉ được tưởng tượng ra sao?
- Tất nhiên. Và thậm chí sau khi gặp các cậu tớ vẫn nghĩ thế trong một thời gian. Như kiểu nghĩ là có thể tớ đã bị mất trí.
- Có thật hay không thì đây cũng là một sự trùng hợp khó tin nổi, - Millard nói. - Vừa mới đọc câu chuyện đó tối hôm qua, thế rồi gặp đúng bối cảnh đã truyền cảm hứng cho nó ngay sáng hôm sau ư? Có bao nhiêu cơ hội nhỉ?
- Tớ không nghĩ đây là sự trùng hợp, - Emma nói. - Chính cô Peregrine đã giở sách ra, nhớ không? Cô chọn câu chuyện đó hẳn là có mục đích.
Bronwyn quay sang nhìn con chim đang đậu trên vai mình và nói:
- Phải vậy không, cô P? Tại sao?
- Bởi vì nó có ý nghĩa nào đó, - Emma nói.
- Chắc chắn rồi, - Enoch nói. - Nó có nghĩa là chúng ta cần đi tới leo lên vách đá kia. Khi đó có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy đường ra khỏi khu rừng này!
- Ý tớ là câu chuyện có ý nghĩa nào đó, - Emma nói. - Trong câu chuyện , người khổng lồ muốn gì nào? Thứ ông ấy yêu cầu hết lần này đến lần khác ấy?
- Ai đó để nói chuyện cùng! - Olive trả lời như một học sinh năng nổ.
- Chính xác, - Emma nói. - Vậy nếu ông ta muốn nói chuyện, chúng ta hãy lắng nghe những gì ông ta có để nói.
Nói xong, cô lội xuống hồ.
Chúng tôi quan sát cô lội ra, có phần hơi lúng túng.
- Cậu ấy đi đâu thế? - Millard hỏi. Có vẻ cậu ta muốn hỏi tôi. Tôi lắc đầu.
- Chúng ta đang bị đám xác sống săn đuổi! - Enoch hét với theo Emma. - Chúng ta đã hoàn toàn bị lạc! Cậu đang nghĩ tới cái quỷ quái nào vậy?
- Tớ đang nghĩ như một người đặc biệt! - Emma quát lại.
Cô bì bõm lội qua làn nước nông tới chân tảng đá, sau đó leo lên hàm nó và nhìn vào trong cái miệng đang há ra của nó.
- Thế nào? - tôi gọi. - Cậu thấy gì vậy?
- Không biết! - cô trả lời. - Trông như thể bên trong chạy sâu xuống dưới. Tốt hơn tớ nên lại nhìn gần hơn!
Emma trèo vào trong khuôn miệng bằng đá của người khổng lồ.
- Tốt hơn cậu nên leo xuống khỏi chỗ đó, không lại làm sao bây giờ! - Horace gọi lớn. - Cậu đang khiến mọi người lo lắng đấy.
- Cậu thì cái gì chả lo, - Hugh nói.
Emma ném thêm một hòn đá xuống dưới cổ họng người khổng lồ, lắng nghe âm thanh vọng lại. Cô đang dợm nói, “Tớ nghĩ chỗ này có thể là một…”, thì trượt chân trên những hòn sỏi rời, và từ cuối cùng cô nói bị sót mất khi cô toài người bám lại kịp thời, suýt ngã.
- Cẩn thận!- tôi gọi lớn, tim đập thình thịch. - Đợi đã, tớ cũng tới đây!
Tôi bì bõm lội xuống hồ theo sau cô.
- Nó có thể là cái gì cơ? - Enoch hỏi.
- Chỉ có một cách để tìm ra thôi! - Emma nói đầy kích động, rồi đi sâu hơn vào miệng người khổng lồ.
- Ôi, Chúa ơi, - Horace thốt lên. - Cậu ấy đi vào kìa…
- Đợi đã! - tôi lớn tiếng gọi lần nữa, nhưng Emma đã đi, rồi biến mất xuống dưới cổ họng người khổng lồ.
* * *
Khi lại gần, trông người khổng lồ có vẻ to hơn so với khi nhìn từ trên bờ, và khi ngó xuống cuống họng tối om của nó, tôi dám thề tôi gần như có thể nghe thấy ông lão Cuthbert hít thở. Tôi khum hai bàn tay lại gọi tên Emma. Chính giọng nói của tôi vọng trở lại. những người khác lúc này cũng đang lội xuống hồ, nhưng tôi không thể đợi họ - nhỡ Emma đang gặp nguy hiểm dưới đó thì sao? Tôi bèn nghiến chặt răng, thả hai chân vào bóng tối, rồi buông mình xuống.
Tôi rơi khá lâu. Trong hẳn một giây. Rồi ùm – một cú rơi vào nước lạnh tới mức làm tôi há hốc miệng, tất cả các sợi cơ trên người đồng loạt co thắt lại. Tôi đã phải tự nhắc mình khóa nước nếu không muốn chìm nghỉm. tôi đang ở trong một cái hang hẹp tối mờ mờ ngập đầy nước, không có đường nào để leo trở lên cái họng dài trơn tuột của người khổng lồ; không dây thừng, không thang, không bậc để chân. Tôi lớn tiếng gọi Emma, nhưng khắp xung quanh không thấy bóng dáng cô đâu.
Ôi Chúa ơi, tôi thấm nghĩ. Cô ấy chết đuối rồi! Nhưng rồi có thứ gì đó chạm vào cánh tay tôi, và các bong bóng nước bắt đầu sủi lên khắp xung quanh tôi, rồi một khoảnh khắc sau Emma trồi lên mặt nước, hổn hển thở lấy hơi. Trông cô có vẻ vẫn ổn trong ánh sáng mờ nhạt.
- Cậu đang đợi gì vậy? - cô nói, dùng bàn tay khỏa nước như thể muốn tôi cùng lặn xuống với mình. - Đi thôi!
- Cậu mất trí à? - tôi nói. - Bọn mình đang bị mắc kẹt ở đây!
- Tất nhiên là không! - cô nói.
Giọng nói của Bronwyn gọi xuống từ bên trên.
- Xiiin chào, tớ nghe thấy hai người dưới đó! Các cậu tìm thấy gì thế?
- Tớ nghĩ chỗ này là lối vào một Vòng Thời Gian! - Emma đáp lại. - Bảo mọi người nhảy xuống và đừng sợ. Tớ và Jacob sẽ gặp các cậu ở phía bên kia!
Rồi sau đó cô cầm tay tôi, và dù không hoàn toàn hiểu chuyện gì đang diễn ra, tôi vẫn hít một hơi thật sâu và để cô kéo mình xuống dưới mặt nước. Chúng tôi lộn ngược người đạp chân bơi xuống dưới hướng đến một cái lỗ vừa cỡ người chui lọt trên vách đá, qua đó có thể nhìn thấy một tia sáng ban ngày. Emma đẩy tôi vào trong rồi theo sau, và chúng tôi bơi qua một lối thông dài chừng ba mét, sau đó chui ra hồ. Phía trên chúng tôi, tôi có thể nhìn thấy bề mặt nước dập dềnh, và ở trên nữa là bầu trời xanh được khúc xạ qua làn nước, và khi chúng tôi bơi lên hướng về phía nó, nước ấm lên nhanh chóng. Sau đó, chúng tôi nhô lên khỏi mặt nước, há miệng thở lấy hơi, và ngay lập tức tôi có thể cảm thấy thời tiết đã thay đổi: lúc này trời nóng và oi bức, và ánh sáng đã chuyển sang ráng chiều vàng óng. Cả độ sâu của hồ nước cũng đã thay đổi - giờ đây nước đã dâng lên tới tận cằm người khổng lồ.
- Thấy chưa? - Emma cười hân hoan. - Chúng ta đang ở một chỗ khác!
Và thế là chúng tôi đã đi vào một Vòng Thời Gian - từ bỏ buổi sáng mát mẻ của năm 1940 để tới một buổi chiều nóng bức của một năm nào đó xa xưa hơn, cho dù thật khó nói rõ xa xưa hơn bao lâu ở giữa chốn rừng già này, cách xa những manh mối có thể cung cấp dữ liệu của thế giới văn minh.
Từng người một, những đưa trẻ khác nhô lên khỏi mặt nước quanh chúng tôi, và khi trông thấy sự vật thay đổi nhiều đến mức nào, họ cũng đã tự mình hiểu ra.
- Các cậu có nhận ra điều này nghĩa là gì không? - Millard kêu lên the thé. Cậu ta đang hất nước văng tung tóe, bơi vòng vòng, thở không ra hơi vì phấn khích. - Như thế có nghĩa là có những tri thức bí mật được ghi lại trong “Những truyện kể!”.
 - Vậy là giờ chúng cũng không vô dụng lắm, phải không? - Olive nói.
- Ồ, tớ rất nóng lòng được phân tích và lập chú thích cho chúng, - Millard vừa nói vừa xoa xoa hai bàn tay vào nhau.
- Thách cậu dám viết lên cuốn sách của tớ đấy, Millard Nullings! - Bronwyn lên tiếng.
- Nhưng đây là Vòng Thời Gian nào vậy? - Hugh hỏi. - Các cậu nghĩ ai đang sống ở đây?
Olive nói:
- Những người bạn động vật của Cuthbert, tất nhiên rồi!
Enoch đảo mắt chán nản nhưng rồi ngừng lại không nói ra khả năng mà cậu ta đang nghĩ đến - Đó chỉ là một câu chuyện mà thôi! - có thể và tâm trí cậu ta cũng đang bắt đầu đổi hướng.
- Mỗi Vòng Thời Gian đều có một Chủ Vòng, - Emma nói, - kể cả những vòng bí ẩn từ trong các truyện kể trong sách. Vậy chúng ta hãy cùng đi tim bà ấy nào.
- Được thôi, - Millard nói. - Ở đâu?
- Địa điểm duy nhất câu chuyện nhắc tới ngoài hồ nước này là ngọn núi kia, - Emma nói, chỉ về phía vách đá nhô lên đằng sau những rặng cây. - Ai sẵn sàng leo trèo một chút nào?
Chúng tôi đều đói và mệt, tất cả chúng tôi, nhưng việc tìm thấy Vòng Thời Gian đã đem đến cho chúng tôi một luồng sinh lực mới. chúng tôi để người khổng lồ bằng đá lại sau lưng mình và bắt đầu băng qua rừng đi về phía chân vách đá, quần áo của chúng tôi nhanh chóng khô cong trong thời tiết nóng. Khi chúng tôi lại gần vách đá, mặt đất bắt đầu dốc lên, rồi sau đó một lối mòn rõ nét xuất hiện, chúng tôi đi theo nó lên, lên mãi, qua những lùm cây linh sam rậm rạp và những lối đi ngoằn ngoèo lởm chởm đá, cho tới khi con đường mòn ở một số nơi trở nên dốc tới mức chúng tôi phải leo bằng cả tứ chi, bấu vào những gờ góc cạnh trên mặt đất để đu lên.
- Tốt hơn nên có thứ gì đó kỳ diệu ở cuối con đường này, - Horace nói và đưa tay lên gạt mồ hôi trán. - Một quý ông thì không vã mồ hôi!
Con đường một co hẹp lại như một dải ruy băng, mặt đất trở nên dựng đứng ở bên phải chúng tôi và dốc xuống hun hút về bên trái, tiếp theo là một tấm thảm xanh các ngọn cây trải rộng.
- Ôm lấy bờ vách đá! - Emma cảnh báo. - Rơi xuống dưới khá sâu đây.
Chỉ nhìn xuống bờ vực tôi đã chóng mặt. Đột nhiên, dường như tôi vừa hình thành một nỗi sợ độ cao đến quặn thắt dạ dày, và tôi phải dồn hết sự tập trung lại chỉ để đặt được một bàn chân xuống phía trước bàn chân kia. Emma chạm khẽ lên cánh tay tôi.
- Cậu không sao chứ? - cô thì thầm. - Trông cậu tái mét kìa.
Tôi nói dối là mình vẫn ổn, và thành công trong việc giả bộ bình thường qua thêm đúng ba khúc quẹo nữa của con đường mòn, đến lúc ấy tim tôi đập nhanh vọt lên, hai chân run rẩy dữ dội tới mức tôi phải ngồi xuống ở ngay giữa lối mòn hẹp, chặn đường tất cả những người đi sau.
- Ôi trời, - Hugh lẩm bẩm. - Jacob xỉu rồi kìa.
- Tớ không biết mình bị làm sao nữa, - tôi lẩm bẩm.
Trước đây, tôi chưa bao giờ bị sợ độ cao, nhưng lúc này tôi thậm chí không thể đưa mắt nhìn qua bờ vực bên rìa lối mòn mà dạ dày không quặn thắt lại.
Thế rồi một điều thật khủng khiếp nảy ra với tôi: thế nhỡ điều tôi đang cảm thấy không phải là chứng sợ độ cao mà là đám hồn rỗng thì sao?
Nhưng không thể có chuyện đó: chúng tôi đang ở trong một Vòng Thời Gian, nơi đám hồn rỗng không thể tới. Thế nhưng càng xem xét cơn đau quặn bụng, tôi càng thấy tin chắc không phải bờ vực đang làm phiền tôi, mà là thứ gì đó bên dưới vực.
Tôi cần phải nhìn tận  mắt.
Những người khác lo lắng bàn tán cạnh tôi, hỏi tôi bị làm sao, có ổn không. Tôi tảng lờ những lời họ nói, ngả người ra trước chống trên hai bàn tay, bò về phía rìa lối mòn. Càng tới gần, cảm giác đau quặn trong dạ dày tôi càng dữ dội, như thể bị cào rách thành từng mảnh từ bên trong. Còn cách chục phân nữa, tôi nằm ép sát bụng xuống đất, đưa các ngón tay ra bấu vào rìa bờ vực, sau đó nhích người lên trước cho tới khi tôi có thể ngó xuống qua rìa lối mòn.
Đôi mắt tôi chỉ mất một khoảnh khắc để nhìn thấy con hồn rỗng. Thoạt đầu, nó chỉ là một chấm nhỏ mờ mờ mất hút giữa sườn núi lởm chởm; một cái bóng chập chờn trong không khí giống như những quầng hơi bốc lên từ một chiếc ô tô còn nóng rực. Một chút mơ hồ, hầu như không thể nhận ra.
Đó là cách thức chúng xuất hiện trong mắt những người bình thường và những người đặc biệt khác - trong mắt bất cứ ai không thể làm được như tôi. Sau đó, tôi thực sự trải nghiệm năng lực đặc biệt của mình được kích hoạt. Rất nhanh chóng, những cơn co thắt trong bụng tôi tụ dồn lại, tập trung thành một điểm đau duy nhất; rồi sau đó, theo một cách tôi không hoàn toàn lý giải được, cơn đau đó trở nên có định hướng, kéo dài ra từ một điểm thành một đường, từ một chiều thành hai chiều. Đường thẳng này, như một chiếc kim la bàn, chỉ chéo về phía phía cái chấm mơ hồ ở phía dưới tôi gần một trăm mét về bên trái trên sườn núi, những gợn sóng và ánh chập chờn mờ mờ của nó bắt đầu tập hợp, đông tụ lại thành một khối đen hữu hình, một thân người được tạo nên từ các xúc tu và bóng đen, bám vào vách đá.
Và sau đó nó nhận ra tôi đã thấy nó, và cả thân hình kinh tởm của con quái vật trở nên căng cứng. Áp sát người vào vách đá, nó ngoạc cái miệng đầy răng nhọn hoắt ra và rống lên một tiếng ghê rợn như muốn xé rách màng nhĩ.
Các bạn tôi chẳng cần tôi phải mô tả thứ tôi nhìn thấy nữa. Chỉ mình âm thanh đó là đủ.
- Hồn rỗng! - ai đó hét lên.
- Chạy! - một người khác la lớn, nói ra điều đã hiển nhiên.
Tôi tụt lùi khỏi bờ vực và được kéo đứng dậy, sau đó tất cả chúng tôi cùng túm tụm thành một khối đồng loạt chạy, không phải xuống chân núi mà lên trên cao hơn, đi xa hơn vào nơi xa lạ thay vì quay lại phía đất bằng và lối ra khỏi Vòng Thời Gian đang nằm sau lưng chúng tôi. Vì đã quá muộn để quay trở lại; tôi có thể cảm thấy con hồn rỗng chồm dậy leo lên theo sườn núi - nhưng ra xa khỏi chúng tôi, về phía đoạn cuối lối mòn, để cắt đường lui của chúng tôi trong trường hợp chúng tôi tìm cách chạy thoát khỏi nó xuống dưới núi. Nó đang dồn chúng tôi vào bẫy.
Điều này thật mới mẻ. Trước đây tôi chưa bao giờ có khả năng phát hiện ra hồn rỗng bằng cách thức gì khác ngoài đôi mắt mình, nhưng giờ đây tôi cảm thấy cái kim la bàn nhỏ xíu trong người đang chỉ ra sau lưng chúng tôi và tôi gần như có thể hình dung ra con quái vật đang vùn vụt lao xuống phía đất bằng. Như thể khi nhìn thấy con hồn rỗng, tôi đã gắn một thiết bị phát tín hiệu định vị lên nó bằng đôi mắt mình.
Chúng tôi cuống cuồng chạy qua một khúc quanh - cảm giác sợ độ cao thoáng qua của tôi có vẻ đã biến mất - và chạm phải một bức tường đá nhẵn nhụi, cao ít nhất mười năm mét. Con đường mòn kết thúc ở đây; khắp chung quanh chúng tôi, mặt đất đều đột ngột kết thúc ở những góc dựng đứng chóng mặt. Trên vách đá không có thang, không có chỗ bám tay. Chúng tôi cuồng cuồng tìm một con đường khác - một lối đi bí mật ẩn trên vách đá, một cánh cửa, một đường hầm - nhưng chẳng có gì hết, và không còn đường nào để tiến về phía trước ngoài leo lên trên; và có vẻ để lên trên chẳng có cách nào khác ngoài dùng đến khí cầu hay sự trợ giúp của một người khổng lồ có lẽ chỉ có trong huyền thoại.
Cơn hoảng loạn bùng lên. Cô Peregrine bắt đầu kêu rít lên, còn Claire òa khóc trong khi Horace đứng than vãn:
- Thế là hết, tất cả chúng ta sẽ chết!
Những người còn lại tìm kiếm những phương thức tuyệt vọng cuối cùng để cứu lấy bản thân. Fiona đưa hai bàn tay lần theo vách đá, tìm kiếm những kẽ nứt có thể chứa đất để cô có thể trồng một dây nho hay thứ gì đó giúp chúng tôi có thể leo lên. Hugh chạy ra rìa lối mòn và ngó xuống bờ vực.
- Giá như có dù, chúng ta có thể nhảy xuống!
- Tớ có thể là dù! - Olive nói. - Nắm lấy chân tớ!
Nhưng vực rất sâu, dưới đáy là khu rừng tối tăm đầy bất trắc. Bronwyn đi đến quyết định tốt hơn nên đưa Olive lên trên vách đá trước mặt thay vì xuống núi, và một tay bế Claire đang sốt nằm rũ, Bronwyn dùng tay kia dẫn Olive tới vách đá.
- Đưa đôi giày của cậu! - cô nói với Olive. - Ôm lấy Claire và cô P lên trên đỉnh nhanh nhất có thể!
Olive trông có vẻ hoảng sợ.
- Tớ không biết liệu tớ có đủ khỏe không! - Cô kêu lên.
- Cậu cần phải thử, cô nàng chích chòe bé bỏng! Cậu là người duy nhất có thể giúp họ an toàn!
Và cô quỳ gối xuống, đặt Claire đứng dậy, cô gái đang ốm liền loạng choạng bước vào vòng tay Olive. Olive ôm thật chặt lấy Claire, cởi đôi giày nặng như chì của cô, rồi sau đó, khi hai cô gái bắt đầu bay lên, Bronwyn chuyển cô Peregrine từ vai mình sang đỉnh đầu Olive. Phải tải nặng, Olive bay lên rất chậm chạp - chỉ khi cô Peregrine bắt đầu đập bên cánh còn lành của bà và túm lấy tóc Olive, còn Olive thì la toáng lên và vung chân đạp, cả ba người họ nới thực sự cất cánh.
Con hồn rỗng đã gần xuống tới đất bằng. Tôi biết điều đó cũng chắc chắn như thể tôi có thể nhìn thấy nó tận mắt. Trong lúc đó, chúng tôi mò mẫm tìm trên mặt đất bất cứ thứ gì có thể làm vũ khí - nhưng thứ duy nhất chúng tôi tìm được chỉ là cuội sỏi.
- Tớ có thể là một vũ khí, - Emma nói, đoạn cô vỗ hai bàn tay vào nhau rồi tách chúng ra, lập tức một quả cầu lửa thật ấn tượng bùng cháy lên giữa hai bàn tay đó.
- Và đừng quên bầy ong của tớ! - Hugh nói, há miệng để lũ ong bay ra. - Chúng mà bị chọc tức là cũng hung dữ lắm đấy!
Enoch, người luôn tìm ra cách để cười cợt vào những thời điểm không thích hợp nhất, bật cười hô hố:
- Cậu định sẽ làm gì? - Cậu ta nói, - Thụ phấn nó đến chết à?
Hugh tảng lờ cậu ta, thay vì thế quay sang tôi.
- Cậu sẽ là đôi mắt của chúng ta, Jacob. Hãy cho bọn tớ biết con quái vật ở đâu và bầy ong của tớ sẽ đốt cho nó lòi óc ra!
Cái kim la bàn bằng cảm giác đau của tôi cho tôi biết lúc này nó đang ở trên lối mòn, và theo cách cơn đau lan tràn khắp cơ thể tôi, như thế có nghĩa nó đang nhanh chóng lại gần.
- Giờ thì nó sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào, - tôi nói, chỉ về đoạn uốn cong của con đường mòn chúng tôi đã đi qua. - Hãy sẵn sàng.
Nếu không phải sự kích động cao độ đang tràn ngập khắp người tôi, cơn đau lúc đó đã khiến tôi tê dại.
Chúng tôi chuẩn bị tư thế để sẵn sàng chiến đấu hoặc bỏ chạy, một vài người trong chúng tôi khom người xuống với hai bàn tay xiết thành nắm đấm như võ sĩ quyền Anh, những người khác như các vận động viên chạy trước khi súng lệnh nổ, cho dù chẳng ai biết phải chạy đi đâu.
- Một đoạn kết thật khốn khổ và bất hạnh cho cuộc phiêu lưu của chúng ta, - Horace nói. - Bị một con hồn rỗng ăn thịt ở một xó xỉnh nào đó của xứ Wales!
- Tớ cứ nghĩ chúng không thể vào được các Vòng Thời Gian, - Enoch nói. - Làm thế quái nào mà nó lại chui vào đây được?
- Có vẻ như chúng đã tiến hóa, - Millard nói.
- Ai thèm bận tâm chuyện đó xảy ra thế nào chứ! - Emma gay gắt. - Nó ở đây và đang đói!
Thế rồi từ bên trên chúng tôi một giọng nói rất khẽ vang lên:
- Mọi người dưới kia lại đây!
Tôi nghển cổ lên thì thấy khuôn mặt Olive lùi lại biến mất phía trên đỉnh vách đá. Một khoảnh khắc sau, thứ gì đó như một cuộn dây thừng dài rơi từ mép vách đá xuống. Nó gỡ ra rồi duỗi thẳng căng, ở cuối sợi dây một tấm lưới bung ra và buông xuống sát mặt đất.
- Nhanh lên! - Giọng nói của Olive lại vang lên. - Có một đòn bẩy trên này - tất cả mọi người nắm lấy tấm lưới, tớ sẽ nhấc nó lên!
Chúng tôi chạy đến chỗ tấm lưới, nhưng nó rất bé, gần như không đủ chỗ cho hai người.
Gắn vào sợi dây ở ngang tầm mắt là tấm ảnh một người đàn ông bên trong tấm lưới - chính tấm lưới này - hai chân co gập lại đằng trước và treo lơ lửng trên mặt đất trước bề mặt một vách đá - chính là vách đá này. Ở đằng sau bức ảnh có một lời nhắn được ghi:

CÁCH DUY NHẤT
ĐỂ LÊN TRẠI ĐỘNG VẬT:
TRÈO VÀO TRONG

GIỚI HẠN TRỌNG LƯỢNG:
CHỈ ĐƯỢC PHÉP MỘT NGƯỜI
BẮT BUỘC

Phương tiện di chuyển này là một kiểu thang máy nguyên thủy - để dành cho một người lên một lần, chứ không phải tám. Nhưng chẳng còn đủ thời gian để sử dụng nó như dự kiến, vì thế tất cả chúng tôi đều chen chúc vào trong tấm lưới, bám mình vào nó bằng bất bất cứ cách nào có thể.
- Kéo bọn tớ lên! - Tôi hét lớn.
Lúc này con hồn rỗng đang ở rất gần; cơn đau dữ dội tới mức kinh khủng.
Trong vài giây tưởng như vô tận, không có gì xảy ra. Hồn rỗng lao qua khúc quanh, dùng những cái lưỡi đầy cơ bắp của nó như những cái chân, tứ chi con người đã teo lại của nó rủ xuống vô dụng. Sau đó, một tiếng kim loại ken két vang lên, sợi dây thừng căng ra, và chúng tôi tròng trành đu đưa trong không khí.
Con hồn rỗng đã gần vượt qua hết khoảng cách giữa nó và chúng tôi. Nó lao tới với cái miệng há hoác, như thể để vơ hết chúng tôi vào giữa hai hàm răng của nó như một con cá voi nuốt các sinh vật phù du. Chúng tôi vẫn chưa đi được nửa quãng đường lên vách đá thì nó đã tới mặt đất phía dưới chúng tôi, rồi thu mình lại như một cái lò xo chuẩn bị bật tung lên.
- Nó sắp nhảy lên! - Tôi la lớn. - Co chân các cậu vào trong lưới!
Con hồn rỗng giậm những cái lưỡi của nó xuống đất và lao lên. Chúng tôi đang lên khá nhanh và có vẻ như con hồn rỗng sẽ vồ trượt chúng tôi, nhưng đúng lúc nó bật nhảy cao nhất, một trong những cái lưỡi của nó bắn ra quấn quanh cổ chân Emma như một cái thòng lọng.
Emma hét lên, dùng chân còn lại đá vào cái lưỡi trong khi tấm lưới dừng lại xóc nẩy, ròng rọc phía trên quá yếu để có thể nhấc cả chúng tôi lẫn con hồn rỗng lên.
- Gỡ nó ra khỏi chân tớ! - Emma hét lên. - Gỡ nó ra, gỡ nó ra!
Tôi cũng cố đá vào nó, nhưng lưỡi của con hồn rỗng cũng chắc như chế từ sợi thép, đầu lưỡi phủ đầy hàng trăm giác bám không ngừng ngoe nguẩy, vì thế bất cứ ai định gỡ cái lưỡi ra cũng sẽ chỉ làm chính mình dính luôn vào nó. Rồi sau đó con hồn rỗng nhích người lên, bộ hàm của nó gần lại từng chút một cho tới khi chúng tôi có thể ngửi thấy hơi thở tanh tưởi như từ dưới mộ phả lên của nó.
Con hồn rỗng rít lên. Các giác bám xung quanh lưỡi nó, trắng bệch ra và bốc khói đen, cháy xèo xèo. Emma ép chặt hơn, nhắm mắt lại và hét lên, tôi nghĩ đó không phải là một tiếng kêu đau đớn, mà là một kiểu tiếng hô chiến đấu, cho tới khi con hồn rỗng bị buộc phải buông ra, cái lưỡi xúc tu bị thương của nó tuột khỏi cỏi chân cô. Trong một khoảnh khắc khác thường, khi không phải con hồn rỗng tóm lấy Emma mà Emma mới là người túm lấy gã, con quái vật quằn quại rú rít lên bên dưới chúng tôi, mùi da thịt của nó bị cháy khét lẹt xộc vào đầy mũi chúng tôi, cho tới khi cuối cùng chúng tôi phải la lên với cô buông ra, và đôi mắt Emma lại mở ra, dường như nhớ ra mình đang ở đâu, cô bèn tách hai bàn tay mình khỏi nhau.
Con hồn rỗng rơi xuống rời khỏi chúng tôi, quờ quạng trong khoảng không trống rỗng trong khi nó rơi xuống. Tấm lưới mang theo chúng tôi lao vọt lên trên do sức căng đã ghì chúng tôi xuống đột ngột được giải phóng, và lao vọt lên qua rìa phía trên vách đá, và chúng tôi rơi ập xuống thành một đống trên đỉnh của nó. Olive, Claire và cô Peregrine đang đợi chúng tôi trên đó, khi chúng tôi gỡ mình ra khỏi lưới và loạng choạng rời xa khỏi vách đá, Olive hoan hô, cô Peregrine kêu rít lên và đập bên cánh lành, còn Claire ngẩng đầu lên từ chỗ đang nằm trên mặt đất, mỉm cười yếu ớt.
Chúng tôi lảo đảo chóng mặt, và lần thứ hai trong vòng từng ấy ngày, ngỡ ngàng vì mình vẫn còn sống.
- Đã hai lần cậu cứu mạng bọn tớ, chích chòe bé hỏng! - Bronwyn nói với Olive. - Còn Emma, tớ biết cậu can đảm từ trước rồi, nhưng chuyện này quả là đỉnh của đỉnh.
Emma nhún vai:
- Hoặc là tớ, hoặc là nó. - Cô nói.
- Tớ không thể tin là cậu chạm vào nó. - Horace nói.
Emma chùi hai bàn tay vào váy mình, đưa lên mũi và nhăn mặt.
- Tớ hi vọng là thứ mùi này sẽ nhanh chóng biến đi, - cô nói. - Con quái vật đó nặng mùi giống như một bãi rác vậy!
- Cổ chân cậu thế nào? - Tôi hỏi cô. - Không bị đau chứ?
Cô quỳ gối và kéo tất xuống, để lộ một vệt đỏ lựng chạy vòng quanh cổ chân.
- Cũng không quá tệ. - Cô nói, thận trọng chạm vào cổ chân. Nhưng khi Emma đứng dậy dồn sức nặng lên bên chân này, tôi thấy cô nhăn mặt.
- Cậu quả là hữu dụng! - Enoch gầm gừ với tôi. - Chạy đi! Cháu của người diệt trừ hồn rỗng đã nói thế đấy!
- Nếu chạy trốn con hồn rỗng đó, có thể ông tớ đã không bị nó giết hại. - Tôi nói. - Đó là một lời khuyên hữu ích.
Tôi nghe thấy một tiếng thịch từ phía dưới vách đá chúng tôi vừa leo lên và cảm giác lúc trước lại quặn thắt bên trong tôi. Tôi đến bên rìa và nhìn xuống. Con hồn rỗng vẫn đang sống khỏe mạnh dưới chân vách đá, và đang bận rộn dùng những cái lưỡi của nó đục từng lỗ vào vách đá.
- Tin xấu, - tôi nói. - Cú rơi không giết chết nó.
Trong nháy mắt, Emma đã đến bên cạnh tôi.
- Nó đang làm gì?
Tôi quan sát con quái vật xoắn một trong những cái lưỡi của nó cắm vào một cái lỗ nó đã trổ ra, sau đó nhấc mình lên và bắt đầu trổ một cái lỗ thứ hai. Nó đang tạo ra những chỗ bám - hay đúng hơn là chỗ bám lưỡi.
- Nó đang cố lao lên vách đá. - Tôi nói. - Chúa ơi, trông nó giống hệt Kẻ hủy diệt khủng khiếp. [The Terminator -Kẻ hủy diệt, nhân vật trong một bộ phim điện ảnh Mỹ ra mắt năm 1984. Đây là một sát thủ người máy sinh học có trí thông minh nhân tạo].
- Giống hệ gì cơ? - Emma hỏi.
Thiếu chút nữa tôi đã bắt đầu giải thích, nhưng rồi lắc đầu. Dù sao đó cũng là một sự so sánh ngu ngốc - đám hồn rỗng trông còn đáng sợ hơn nhiều, và nhiều khả năng còn nguy hiểm chết chóc hơn so với bất cứ quái vật trong phim nào.
- Chúng ta cần chặn nó lại! - Olive nói.
- Hay tốt hơn là cần chạy! - Horace nói.
- Không chạy thêm nữa! - Enoch nói. - Chúng ta cứ giết quách con quái vật khốn kiếp đó đi được không?
- Chắc rồi! - Emma nói. - Nhưng bằng cách nào?
- Có ai có một thùng dầu sôi không? - Enoch hỏi.
- Liệu cái này có thay được không? - Nghe thấy Bronwyn lên tiếng, tôi quay lại thì thấy cô nhấc một tảng đá lớn lên qua đầu.
- Có thể. - Tôi nói. - Cậu nhắm chuẩn không? Cậu có thể thả nó xuống chỗ tớ bảo chứ?
- Chắc chắn tớ sẽ thử. - Bronwyn nói, loạng choạng bước về phía mép vách đá mang theo tảng đá đong đưa thật bấp bênh trên tay.
Chúng tôi đứng nhìn xuống qua rìa.
- Xa hơn về phía này. - Tôi nói, hối cô dịch trái.
Đúng lúc tôi định ra hiệu bảo cô ném tảng đá xuống thì con hồn rỗng nhảy từ một chỗ bám qua chỗ bám kế tiếp, và lúc này cô lại đứng sai chỗ.
Con hồn rỗng tạo ra chỗ bám mỗi lúc một nhanh hơn; giờ đây nó đã trở thành mục tiêu di động. Tình hình rất xấu ở chỗ, tảng đá trên tay Bronwyn là duy nhất hiện diện trong tầm mắt. Nếu cô trượt, chúng tôi sẽ không có cơ hội thứ hai.
Tôi buộc mình phải căng mắt nhìn chằm chằm vào con hồn rỗng bất chấp sự thôi thúc gần như không thể chịu đựng nổi muốn nhìn đi chỗ khác. Trong vài giây kỳ lạ đầu óc tôi đờ đẫn, giọng nói của các bạn tôi tắt ngấm đi,  và tôi có thể nghe thấy máu của chính mình chảy rần rật trong tai và tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, và dòng suy nghĩ của tôi hướng tới con quái vật đã giết ông tôi; kẻ đã đứng trên cơ thể rách nát đang hấp hối của ông trước khi hèn nhát bỏ chạy vào rừng.
Hình ảnh trước mắt tôi lượn sóng, hai bàn tay tôi run rẩy. Tôi cố trấn tĩnh lại.
Anh bạn được sinh ra để làm việc này, tôi tự nhủ với chính mình. Anh bạn được tạo ra để giết những con quái vật như gã này. Tôi lẩm bẩm nhắc lại như một thần chú.
- Nhanh lên nào, Jacob! - Bronwyn nói.
Con quái vật vờ lao qua trái, rồi nhảy sang phải. Tôi không muốn đoán, và lãng phí cơ hội tốt nhất của chúng tôi để giết nó. Tôi muốn biết. Và bằng cách nào đó, vì lý do gì đó, tôi cảm thấy tôi có thể.
Tôi quỳ gối xuống, ghé sát bờ vách đá tới mức giờ đây Emma phải móc hai ngón tay vào đằng sau thắt lưng của tôi để giữ tôi khỏi ngã. Tập trung vào con hồn rỗng. Tôi nhắc lại với chính mình câu thần chú - sinh ra để giết, sinh ra để giết - và cho dù con hồn rỗng lúc này đang bất động, đục vào một  điểm trên bờ vách, tôi cảm thấy kim la bàn trong bụng mình hơi nhích mội chút rất nhỏ sang bên phải chỗ đó.
Như một linh cảm.
Bronwyn đang bắt đầu run lẩy bẩy dưới sức nặng của tảng đá.
- Tớ không bê thứ này được lâu nữa đâu! - Cô nói.
Tôi quyết định tin vào bản năng của mình. Cho dù vị trí la bàn của tôi chỉ vào đang trống không, tôi hét lên bảo Bronwyn ném tảng đá xuống đó. Cô xoay người về phía đó, rồi với một tiếng rên nhẹ nhõm, ném tảng đá xuống.
Vào khoảnh khắc ngay sau khi cô ném tảng đá, con hồn rỗng lao sang phải - tới đúng chỗ la bàn của tôi đã chỉ. Nó ngước nhìn lên, thấy tảng đá lao về phía mình, và nhổm người để nhảy tiếp - nhưng không có đủ thời gian. Tảng đá đập mạnh vào đầu con quái vật và hất cả người nó xuống vách đá. Cùng một tiếng rầm  như sấm động, cả con hồn rỗng lẫn tảng đá cùng nhau chạm đất. Những cái lưỡi xúc tu vọt lên từ bên dưới tảng đá, run rẩy, rồi đờ ra bất động. Tiếp theo máu đen trào ra, tỏa rộng ra xung quanh tảng đá thành một vũng to đặc quánh.
- Trúng rồi! - Tôi reo lên.
Đám trẻ bắt đầu nhảy lên và hoan hô.
- Nó chết rồi, nó chết rồi! - Olive reo to, - Con hồn rỗng kinh khủng chết rồi!
Bronwyn dang tay ôm chầm lấy tôi. Emma hôn lên đỉnh đầu tôi. Horace bắt tay tôi, còn Hugh vỗ lên lưng tôi. Thậm chí cả Enoch cũng chúc mừng tôi:
- Làm khá lắm, - Cậu ta nói có chút miễn cưỡng. - Giờ đừng quá tự đắc về chuyện đó.
Đáng ra tôi phải cực kì phấn khởi, nhưng tôi hầu như không cảm thấy gì, chỉ là cảm giác tê dại lan rộng khi cơn đau đến run người của Cảm Giác lui dần.
Emma có thể thấy tôi kiệt sức. Thật dịu dàng, và theo cách làm cho không ai khác có thể nhận ra, cô cầm lấy cánh tay tôi trong khi chúng tôi đi ra xa khỏi rìa vách đá.
- Đó không phải là may mắn, - Cô thì thầm vào tai tôi. - Tớ đã đứng về cậu, Jacob Potman.
* * *    
Con đường mòn bị cắt cụt dưới chân vách đá lại tiếp tục ở đây, trên đỉnh vách đá, chạy theo một sống đá và qua một ngọn đồi.
- Tờ giấy gắn vào dây thừng viết Lên trại động vật, - Horace nói. - Theo các cậu thì phía trước là cái gì?
- Cậu mới là người nằm mơ về tương lai, - Enoch nói. - Tớ tưởng là cậu sẽ nói cho bọn tớ biết chứ.
- Trại động vật là gì vậy? - Olive hỏi.
- Nơi tập trung những con vật. - Emma giải thích. - Giống như kiểu vườn thú vậy.
Olive reo lên vỗ tay.
- Đó là những người bạn của Cuthbert! Trong câu chuyện! Ôi, tớ mong được gặp họ quá! Các cậu có nghĩ Chủ Vòng cũng sống ở đó không?
- Vào lúc này, - Millard nói. - Tốt nhất là đừng đoán gì cả.
Chúng tôi bắt đầu bước đi. Tôi vẫn còn choáng váng sau cuộc chạm trán với con hồn rỗng. Năng lực của tôi đúng là có vẻ phát triển thêm, đúng  như Millard từng nói, nó trở nên mạnh mẽ hơn giống như một bó cơ khi tôi luyện tập nhiều hơn. Khi trông thấy một con hồn rỗng, tôi có thể theo dõi nó, và nếu tập trung chú ý vào nó đúng cách, tôi có thể dự đoán được hành động tiếp theo nó sẽ thực hiện, thông qua một thứ dựa trên bản năng nhiều hơn lý trí.
Tôi cảm thấy chút hài lòng nhất định khi học được thêm một điều mới mẻ về năng lực đặc biệt của mình, và trong điều kiện chẳng có gì dạy bảo tôi ngoài trải nghiệm thực tế. Không có gờ chắn an toàn nào ở đây để giúp những quả bóng bowling của tôi khỏi lao xuống rãnh. Bất cứ sai lầm nào tôi phạm phải cũng có thể gây ra những hậu quả tức thời và chết người, cho cả tôi và những người quanh tôi. Tôi lo rằng những người khác sẽ bắt đầu tin tưởng tôi một cách thái quá - hay còn tệ hơn thế, sợ rằng tôi cũng tin như thế. Và tôi biết, ngay khi tôi bắt đầu tự mãn - ngay khi tôi không còn ướt quần vì sợ trước đám hồn rỗng - một điều khủng khiếp sẽ xảy ra.
Vì thế, có thể thật may mắn khi tỉ lệ khiếp sợ/tự tin của tôi đang ở thời kỳ cao kỉ lục. Có thể là mười trên một trăm. Tôi đút hai bàn tay vào túi quần trong lúc chúng tôi bước đi, sợ rằng những người khác sẽ thấy chúng run rẩy.
- Nhìn kìa! - Bronwyn nói, dừng phắt lại giữa chừng trên lối mòn. - Một ngôi nhà giữa các đám mây!
Chúng tôi đã đi theo sống đá được nửa đường. Ở phía trên, đằng trước chúng tôi, tít trên cao ở phía xa, một ngôi nhà có vẻ lơ lửng giữa các đám mây. Khi chúng tôi đi xa hơn và leo lên ngọn đồi, đám mây tách ra và ngôi nhà hiện rõ mồn một trong tầm mắt. Nó rất nhỏ, và nằm cheo leo không phải trên một đám mây mà trên một tòa tháp rất lớn được xây dựng hoàn toàn từ những thanh tà vẹt đường sắt được xếp chồng lên nhau, toàn bộ công trình này nằm giữa một bãi cỏ bằng phẳng trên đỉnh đồi. Đây là một trong những công trình nhân tạo lạ lùng nhất tôi từng thấy qua. Xung quanh nó, trên bãi cát có vài chiếc lán nằm rải rác, và ở tận đầu cùng phía xa có một vạt rừng nhỏ, nhưng chúng tôi chẳng để ý đến - tất cả chúng tôi đều đổ dồn ánh mắt vào tòa tháp.
- Cái gì thế này? - Tôi thì thầm.
- Một tòa tháp canh chăng. - Emma đoán .
- Một chỗ để máy bay cất cánh chắc? - Hugh nói.
Nhưng chẳng có chiếc máy bay nào ở đây cả, cũng không có dấu vết của đường băng.
- Có thể là chỗ cất cánh cho khí cầu máy. - Millard nói.
Tôi nhớ lại đoạn phim tư liệu cũ về chiếc khí cầu cũ Hindenburg xấu số hạ xuống đỉnh của một cấu trúc trông như một tháp phát sóng vô tuyến - một công trình trông cũng không khác lắm so với tòa tháp này - và cảm thấy một cơn ớn lạnh kinh hoàng lan đi khắp người. Sẽ thế nào nếu những chiếc khí cầu đã săn lùng chúng tôi ngoài bãi biển đặt căn cứ ở đây, và chúng tôi đã ngu ngốc rơi vào một ổ xác sống?
- Hoặc có thể đó là ngôi nhà của một Chủ Vòng. - Olive nói. - Tại sao mọi người cứ đi ngay tới những kết luận đáng sợ nhất thế?
- Tớ tin chắc là Olive nói đúng. - Hugh nói. - Chẳng có gì đáng sợ ở đây cả.
Cậu ta được trả lời ngay lập tức bởi mổi tiếng gầm thật to chẳng có chút nhân tính nào, dường như xuất phát từ vùng bóng râm bên dưới tòa tháp.
- Cái gì vậy? - Emma hỏi. - Một con hồn rỗng nữa chắc?
- Tớ không nghĩ vậy, - Tôi nói; cảm giác trong tôi vẫn còn mờ nhạt.
- Tớ không biết và cũng không muốn biết. - Horace nói và bật lùi lại.
Nhưng chúng tôi không có lựa chọn; thứ đó muốn gặp chúng tôi.
Tiếng gầm lại vang lên, làm lông trên cánh tay tôi dựng cả lên, và ngay sau đó một khuôn mặt lông lá xuất hiện giữa hai thanh tà vẹt dưới thấp. Nó gầm gừ với chúng tôi như một con chó dại, từng vệt nước dài nhỏ tong tong xuống từ cái miệng tua tủa răng nanh của con vật.
- Các bậc tiền bối xa xưa chứng giám, đó là thứ gì vậy? - Emma lẩm bẩm.
- Chui vào trong cái Vòng này quả là một ý tưởng vĩ đại! - Enoch nói. - Mọi chuyện với chúng ta vẫn thực sự suôn sẻ cho tới lúc này.
Con vật không rõ là giống gì đó bò qua giữa các thanh tà vẹt và chui ra ngoài ánh mặt trời, nằm phủ phục tựa hông xuống liếc mắt nhìn chúng tôi thật đểu cáng, miệng nhếch lên thành nụ cười, như thể đang hình dung xem óc chúng tôi mùi vị ra sao.  Tôi không thể nói chắc chắn nó là người hay động vật; mặc một mớ giẻ rách tướp trên người, nó có thân hình của con người, nhưng lại di chuyển như một con khỉ, thân hình lòng khòng của nó trông giống như một tổ tiên đã tuyệt chủng xa xưa của chúng ta với quá trình tiến hóa đã dừng lại từ hàng triệu năm trước. Đôi mắt và hàm răng của sinh vật nọ có màu vàng xỉn, làn ra sáng có những chấm sẫm màu, mái tóc là một mớ lù xù dính bết.
- Ai đó giết nó đi chứ! - Horace nói. - Hay ít nhất cũng làm nó thôi nhìn tớ đi!
Bronwyn đặt Claire xuống và thủ thế sẵn sàng chiến đấu, trong khi Emma giơ hai bàn tay ra tạo lửa - nhưng có vẻ cô cũng quá choáng váng chẳng thể làm gì hơn ngoài gọi ra một bụm khói. Sinh vật hình người kia căng người ra, gầm gừ, rồi vọt tới như vận động viên chạy Olympic - không phải về phía chúng tôi mà là vòng quanh chúng tôi, nhào tới sau một đống đá rồi lại nhô đầu lên trưng ra một nụ cười nhăn nhở đầy răng nhọn. Nó đang đùa bỡn với chúng tôi, như một con mèo vờn mồi trước khi kết liễu.
Sinh vật nọ có vẻ như sắp sửa thực hiện một cú chạy nữa - lần này nhằm vào chúng tôi - thì một giọng nói từ đằng sau cất lên ra lệnh cho nó.
- Ngồi xuống và ngoan nào!
Và sinh vật đó làm theo, thả lỏng người ngồi xuống trên hai chi sau, lưỡi thè ra khỏi miệng thành một kiểu cười mơ màng.
Chúng tôi quay lại và thấy một con chó bình thản chạy thong thả về phía chúng tôi. Tôi nhìn về phía sau nó xem ai đã lên tiếng - nhưng chẳng có ai cả, và sau đó chính con chó mở miệng ra nói:
- Đừng bận tâm tới Grunt, nó chẳng biết phép lịch sự gì hết! Đó chỉ là cách nó nói cảm ơn thôi! Con hồn rỗng đó đúng là phiền toái vô cùng!
Con chó dường như đang nói với tôi, nhưng tôi quá kinh ngạc để có thể trả lời. Nó không chỉ nói bằng giọng gần như người - và là một giọng Anh rất tinh tế nữa - mà còn ngậm trong miệng một cái tẩu và đeo trên mắt một đôi kính mắt tròn màu xanh lục.
- Ôi Chúa ơi, tôi hy vọng là các cô cậu không cảm thấy quá xúc phạm. - Con chó nói tiếp, hiểu lầm sự im lặng của tôi. - Grunt chỉ có ý tốt, các cô cậu sẽ phải thứ lỗi cho nó. Nói theo đúng nghĩa đen, nó đã được nuôi lớn trong một cái chuồng gia súc. Mặt khác, tôi lại được giáo dục tại một lãnh địa lớn, là con thứ bảy của người con thứ bảy trong một dòng dõi chó săn danh giá. - Con chó cúi chào theo cách lịch thiệp nhất một con chó có thể, chạm mũi xuống tận đất. - Addison MacHenry, hân hạnh được phụng sự các cô cậu.
- Quả là một cái tên kì khôi cho một con chó. - Enoch nói, có vẻ chẳng hề ấn tượng khi gặp một con chó biết nói.
Addison giương kính lên nhìn Enoch và nói:
- Vậy xin phép cho tôi hỏi quý cậu xưng danh là gì nhỉ?
- Enoch O’Connor, - Enoch nói đầy tự hào, hơi ưỡn ngực ra một chút.
- Quả là một cái tên kì khôi cho một cậu nhóc bẩn thỉu mặt phị, - Addison nói, đoạn con chó đứng dậy trên hai chân sau, vươn lên cao gần bằng Enoch. - Tôi là một con chó, phải, nhưng là một con chó đặc biệt. Vậy tại sao tôi phải chịu một tên chó thông thường? Chủ nhân trước đây của tôi gọi tôi là “Boxie” và tôi khinh thường cái tên đó - thật xúc phạm phẩm giá! - vì thế tôi đớp vào mặt ông ta và lấy tên ông ta. Addison: tôi nghĩ nó xứng tầm với một con vật có tri thức như tôi hơn. Hồi ấy là ngày trước khi cô Wren* tìm ra tôi và đưa tôi về đây.
[*Chim hồng tước].
Một loạt khuôn mặt sáng lên khi nghe nhắc tới tên  một Chủ Vòng Thời Gian, và một tia hi vọng nhen nhóm lên trong chúng tôi.
- Cô Wren mang ông đến đây à? - Olive hỏi. - Nhưng còn người khổng lồ Cuthbert thì sao?
- Ai cơ? - Addison hỏi, rồi sau đó lắc đầu. - À, phải, câu chuyện. Chỉ là thế thôi, tôi e là vậy - một câu chuyện xưa xửa xừa xưa, lấy cảm hứng từ hòn đá kì cục bên dưới kia và trại động vật của cô Wren.
- Đó là mi nói thế. - Enoch lẩm bẩm.
- Cô Wren hiện đang ở đâu? - Emma hỏi. - Chúng tôi cần nói chuyện với bà ấy.
Addison nhìn lên ngôi nhà nằm trên đỉnh tòa tháp và nói:
- Kia là nơi ở của bà ấy, nhưng lúc này bà ấy không có nhà. Bà ấy đã bay đi mấy hôm trước để giúp các chị em Chủ Vòng Thời Gian của bà ấy tại London. Đang có một cuộc chiến tranh, các cô cậu biết đấy... tôi đoán là các cô cậu đã nghe nói về nó rồi phải không? Điều đó giải thích vì sao các cô cậu vượt đường dài đến đây trong bộ dạng tị nạn thảm hại thế này đúng không?
- Vòng của chúng tôi bị tấn công, - Emma nói. - Rồi sau đó chúng tôi bị mất hết đồ đạc ngoài biển.
- Và thiếu chút nữa mất luôn cả mạng. - Millard thêm vào.
Nghe thấy tiếng Millard, con chó giật mình.
- Một người vô hình! Một ngạc nhiên hiếm gặp. Và một người Mỹ nữa. - Con chó vừa nói vừa hất hàm về phía tôi. - Các cô cậu quả là một nhóm đặc biệt, ngay cả với những người đặc biệt.
Nó lại thụp xuống đứng trên cả bốn chân và quay về phía tòa tháp.
- Lại đây, tôi sẽ giới thiệu các cô cậu với những động vật khác. Họ sẽ vô cùng kinh ngạc khi gặp các cô cậu. Tội nghiệp chưa, các cô cậu chắc phải đói lả sau cuộc hành trình rồi. Đồ ăn thức uống sẽ được chuẩn bị sẵn sàng!
- Chúng tôi cũng cần thuốc nữa. - Bronwyn nói, quỳ gối xuống bế Claire lên. - Cô bé này ốm nặng lắm!
- Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể cho cô ấy! - Con chó nói, - Chúng tôi mắc nợ các cô cậu điều đó và nhiều hơn thế vì đã giải quyết vấn đề hồn rỗng nho nhỏ vừa rồi cho chúng tôi. Một kẻ phiền toái khó tả, như tôi đã nói.
- Đồ ăn thức uống, có phải ông chó này vừa nói thế không? - Claire hỏi.
- Dinh dưỡng, lương thực, thực phẩm. - Con chó đáp. - Các cô cậu sẽ được ăn như ông hoàng bà chúa ở đây.
- Nhưng tôi không thích thức ăn dành cho chó. - Claire nói.
Addison phá lên cười, giọng cười giống người đến kinh ngạc.
- Cả tôi cũng không, thưa quý cô.

Chương 4


Addison đi bằng bốn chân với cái mũi tẹt hếch lên trong khi sinh vật hình người có tên là Grunt chạy vùn vụt xung quanh chúng tôi như một con cún con bị cuồng chân. Từ phía sau các bụi cỏ và những cái lán nằm rải rác đây đó, tôi có thể thấy những khuôn mặt đang nhìn lén về phía chúng tôi - phần lớn đều lông lá, và có đủ hình dạng, kích thước. Khi chúng tôi đi tới giữa mặt bằng đỉnh núi, Addison vươn lên đứng trên hai chân sau và gọi to, “Đừng sợ, các bạn! Hãy lại đây gặp những bạn trẻ đã trừ khử gã khách không được hoan nghênh của chúng ta!”.
Lần lượt từng con, một đoàn sinh vật kỳ lạ bước ra khoảng trống. Addison giới thiệu chúng trong khi chúng lại gần. Sinh vật thứ nhất trông giống như nửa trên của một con hươu cao cổ thu nhỏ gắn vào nửa sau của một con lừa. Nó bước đi vụng về trên hai chân sau – mà kỳ thực nó cũng chỉ có hai chân.
- Đây là Deirdre, - Addison nói. - Cô ta là một bán lừa cao cổ, trông hơi giống một con lừa và một hươu cao cổ ghép lại với nhau, chỉ có điều là ít chân hơn cộng với tính khí cáu bẳn hơn. Cô nàng là một kẻ thảm hại chua ngoa khủng khiếp khi chơi bài, - con chó thì thầm nói thêm. - Đừng bao giờ chơi bài với một con bán lừa cao cổ. Hãy chào đi nào, Deirdre!
- Tạm biệt! - Deirdre nói, đôi môi to như môi ngựa của con vật co ra sau thành một nụ cười phô ra những cái răng vẩu. - Ngày chả ra gì! Gặp các vị khó chịu thật! - Rồi con vật phá lên cười - một tiếng hí be be cao vút - và nói, - Đùa thôi!
- Deirdre nghĩ cô ấy khá vui tính, - Addison giải thích. - Nếu cậu giống một con lừa và một hươu cao cổ, - Olive nói, - thì sao cậu lại không được gọi là một lừa hươu cao cổ?
Deirdre cau có trả lời:
- Bởi vì tên gì mà lại kinh khủng như thế? Bán lừa cao cổ nghe rất thuận miệng, cậu không nghĩ vậy sao? - Rồi con vật thè lưỡi ra - trơn nhẫy, hồng hào, và dài đến cả mét - rồi chỉnh cái vương miện trên đầu Olive cho ngay ngắn lại bằng phần chót lưỡi. Olive kêu ré lên chạy ra nấp sau lưng Bronwyn rồi cười khúc khích.
- Tất cả động vật ở đây đều biết nói sao? - tôi hỏi.
- Chỉ Deirdre và tôi thôi, - Addison nói, - và đó cũng là điều tốt. Đám gà mái sẽ không bao giờ ngơi miệng, và họ không thể nói được lấy một từ!
Vừa đúng lúc, một bầy gà mái cục tác không ngớt miệng như những quả cầu len lăn về phía chúng tôi từ một cái chuồng gà cháy đen.
- À! - Addison nói. - Giờ đến lượt các cô nàng đây rồi.
- Chuyện gì xảy ra với chuồng của bọn họ thế? - Emma hỏi.
- Cứ mỗi lần chúng tôi sửa chữa lại nó, bọn họ lại đốt trụi nó đi, - con chó nói. - Thật là bực mình. - Addison quay người hất hàm về phía khác. - Có lẽ các cô cậu sẽ muốn lùi lại một chút. Đám gà mái này mà bị kích động lên thì…
BÙM! Một âm thanh nghe như tiếng nổ làm tất cả chúng tôi nhảy dựng lên, và vài tấm ván ít ỏi cuối cùng còn chưa bị tổn hại của cái chuồng gà vỡ vụn và bắn tung lên không khí.
-…trứng của họ liền nổ tung. - Addison kết thúc nốt câu.
Khi khói tan, chúng tôi thấy bầy gà mái vẫn đang chạy về phía mình, không hề bị thương tổn và có vẻ cũng chẳng ngạc nhiên gì trước vụ nổ, một đám mây lông vũ bay tơi bời xung quanh chúng như những bông tuyết.
Enoch há hốc miệng.
- Mi muốn nói với ta là đám gà mái này đẻ trứng nổ sao?! - cậu ta nói.
- Chỉ khi bọn họ kích động thôi, - Addison nói. - Phần lớn trứng của họ khá an toàn - và ngon tuyệt nữa! Nhưng chính những quả trứng nổ đã làm họ có tên gọi không hay ho lắm: Gà mái Ngày Tận Thế.
- Tránh xa chúng tôi ra! - Emma hét lên khi đám gà mái xích lại gần. - Các cô sẽ làm nổ tung tất cả chúng tôi mất!
Addison phá lên cười.
- Họ rất dễ thương và vô hại, tôi cam đoan với cô đấy, và họ cũng không đẻ trứng ở đâu hết ngoài chuồng của họ.
Đám gà mái hân hoan cục tác quanh chân chúng tôi.
- Các cô cậu thấy chưa? - con chó nói. - Họ thích mấy người đấy!
- Đây đúng là một trại thương điên! - Horace nói.
Deirdre bật cười.
- Không đâu, cậu bé. Đây là một trại động vật.
Sau đó, Addison giới thiệu chúng tôi với một số động vật có năng lực đặc biệt tinh tế hơn, bao gồm một con cú đậu trên cành cây quan sát chúng tôi, im lặng và chăm chú, và một đàn chuột dường như liên tục biến mất rồi lại hiện ra trong tầm mắt một cách huyền ảo, như thể chúng dành một nửa thời gian ở một không gian thực tại nào khác. Còn có cả một con dê với cặp sừng rất dài và đôi mắt đen thẳm; một thành viên mồ côi của một đàn dê đặc biệt từng sinh sống trong khu rừng bên dưới.
Khi tất cả đám động vật đã tập hợp lại, Addison lớn tiếng:
- Ba lần hoan hô dành cho những người diệt trừ hồn rỗng!
Deirdre hí lên, con dê gõ móng xuống đất, con cú rúc lên, đội gà mái cục tác còn Grunt gầm gừ bày tỏ sự tán thưởng. Trong khi tất cả việc này diễn ra, Bronwyn và Emma liên tục đưa mắt nhìn nhau - Bronwyn liếc nhìn xuống áo khoác của cô, cô Peregrine đang được giấu ở đó, rồi nhướng mày sang Emma hỏi: Bây giờ nhé? Và Emma lắc đầu trả lời: Chưa đến lúc.
Bronwyn đặt Claire nằm xuống một đám cỏ dưới một bóng cây mát mẻ. Cô bé đang vã mồ hôi và run rẩy, lúc tỉnh lúc mê.
- Có một thứ thuốc nước đặc biệt tôi đã thấy cô Wren pha chế để trị sốt, - Addison nói. - Có vị kinh khủng nhưng hiệu quả.
- Mẹ tớ hay nấu xúp gà cho tớ, - tôi đề xuất.
Đám gà mái hốt hoảng kêu quang quác, Addison liền ném về phía tôi một cái nhìn gay gắt.
- Cậu ấy đùa đấy mà! - con chó nói. - Chỉ là đùa thôi, đùa rõ vô duyên, ha ha! Làm gì có thứ gì gọi là xúp gà chứ!
Với sự giúp đỡ của Grunt và hai ngón cái có thể quay ra đối diện với nhau của anh ta, Addison cùng cô nàng bán lừa cao cổ đi chuẩn bị món thuốc nước. Chẳng mấy chốc, họ đã quay lại mang theo một cái bát đựng thứ gì đó như nước rửa bát bẩn thỉu. Sau khi Claire uống hết tới giọt cuối cùng và nằm xuống ngủ, đám động vật dọn ra cho chúng tôi một bữa ăn khiêm tốn: những giỏ bánh mì mới nướng cùng táo ninh nhừ và trứng luộc - loại không nổ - tất cả đều được đưa thẳng tới tận tay chúng tôi, vì họ không có đĩa hay khay bạc. Tôi đã không nhận ra mình đói tới mức nào cho đến khi ngấu nghiến hết ba quả trứng và một ổ bánh mì chỉ trong vòng chưa tới năm phút.
Khi đã ăn xong, tôi ợ lên một tiếng, quệt miệng và ngước mắt lên thì thấy tất cả đám động vật đang nhìn lại, háo hức quan sát chúng tôi, khuôn mặt họ sống động thông minh tới mức tôi trở nên đờ đẫn và phải vất vả chống đỡ lại một cảm giác mạnh mẽ quả quyết là tôi đang mơ.
Millard đang ngồi ăn cạnh tôi, tôi liền quay sang cậu ta và hỏi:
- Trước hôm nay cậu đã bao giờ nghe nói tới các động vật đặc biệt chưa?
- Chỉ trong các câu chuyện cho trẻ con thôi, - cậu ta lúng búng, khoang miệng đầy ắp bánh mì. - Vì thế thật lạ lùng khi một câu chuyện như thế lại dẫn chúng ta đến với họ.
Chỉ mình Olive dường như không hề ngạc nhiên trước tất cả những chuyện này, có lẽ vì cô vẫn còn quá bé - hay ít nhất là một phần trong cô - và do đó khoảng cách giữa những chuyện kể với đời thực vẫn chưa có vẻ quá lớn.
- Những con vật khác đâu rồi? - cô hỏi Addison. - Trong câu chuyện kể về Cuthbert còn có cả gấu chân cà kheo và linh miêu hai đầu nữa.
Và ngay lập tức, tâm trạng hân hoan của các động vật tan biến. Grunt giấu mặt vào hai lòng bàn tay to bản, còn Deirdre bật ra một tiếng hí phiền muộn.
- Đừng hỏi, đừng hỏi, - cô bán lừa cao cổ nói, cúi gục cái đầu dài xuống. Nhưng đã quá muộn.
- Những bạn trẻ này đã giúp chúng ta , - Addison nói. - Họ xứng đáng được nghe câu chuyện buồn của chúng ta, nếu họ muốn.
- Nếu các bạn không phiền thì hãy kể cho chúng tôi, - Emma nói.
- Tôi thích những câu chuyện buồn, - Enoch nói. - Nhất là những câu chuyện trong đó các công chúa bị rồng ăn thịt và tất cả mọi người đều chết vào đoạn kết.
Addison hắng giọng.
- Trong trường hợp của chúng tôi, nghe có vẻ giống con rồng bị công chúa ăn thịt hơn, - con chó nói. - Chuyện đã trôi qua vài năm với những con vật như chúng tôi, và đã bắt đầu chừng vài thế kỷ trước. - Con chó đi đi lại lại, giọng nói của nó đầy vẻ rao giảng quan trọng. - Ngày xửa ngày xưa, thế giới này đông nghịt những động vật đặc biệt. Vào thời Aldinn, có nhiều động vật đặc biệt trên trái đất này hơn người đặc biệt. Chúng tôi xuất hiện dưới mọi hình dạng, kích thước các bạn có thể hình dung ra: cá voi có thể bay như chim, những con giun to bằng cái nhà, chó thông minh gấp đôi so với tôi, cô cậu tin được không. Một số loài có cả vương quốc riêng, có thủ lĩnh cai trị.
Một tia sáng lóe lên di chuyển trong đáy mắt con chó, gần như khó lòng nhận ra - như thể nó đã sống đủ lâu để nhớ rõ về thế giới ở thời kỳ đó - rồi nó thở dài thật sâu, tia sáng tắt vụt đi, và nói tiếp:
- Nhưng số lượng của chúng tôi chỉ còn không bằng một nhỏ trước đây. Chúng tôi đã rơi vào cảnh gần tuyệt chủng. Có ai trong các cô cậu biết chuyện gì đã xảy ra với các loại động vật đặc biệt từng có thời phổ biến trên thế giới không?
Chúng tôi im lặng ăn, lấy làm xấu hổ vì mình không biết.
- Được rồi, - con chó nói. - Hãy đi cùng tôi và tôi sẽ chỉ cho các cô cậu thấy.
Và nó thong thả chạy ra ngoài nắng rồi ngoái lại nhìn, đợi chúng tôi theo sau.
- Làm ơn nào, Addie, - cô bán lừa cao cổ nói. - Không phải bây giờ - những vị khách của chúng ta đang ăn mà!
- Họ hỏi, và giờ tôi đang trả lời họ, - Addison nói. - Bánh mì của họ sẽ vẫn ở nguyên đây sau vài phút nữa!
Chúng tôi miễn cưỡng bỏ đồ ăn xuống và đi theo con chó. Fiona ở lại để trông nom Claire, lúc này vẫn đang ngủ, rồi với Grunt và cô bán lừa cao cổ chạy theo sau, chúng tôi băng qua bãi đất phẳng tới chỗ vạt rừng nhỏ mọc ở rìa phía xa. Một lối đi rải sỏi uốn lượn qua các gốc cây, chúng tôi giẫm lên đó lạo xạo bước đi tới một trảng trống.
Ngay trước khi chúng tôi tới chỗ đó, Addison nói:
- Tôi xin phép được giới thiệu với các cô cậu những động vật đặc biệt xuất chúng nhất từng sống!
Và những hàng cây tách ra hé lộ một nghĩa địa nhỏ đầy ắp những hàng bia mộ trắng sắp xếp ngay ngắn.
- Ôi, không, - tôi nghe thấy Bronwyn thốt lên.
- Có lẽ ở đây có nhiều động vật đặc biệt được chôn cất hơn cả số hiện còn sống trên toàn châu Âu, - Addison nói, lách qua các ngôi mộ để đi tới, tựa chân trước vào một bia mộ. - Đây là Pompey. Bà ấy là một con chó tử tế, và chỉ liếm vài cái là có thể làm lành các vết thương. Một kỳ quan thực sự! Ấy thế nhưng bà ấy lại bị đối xử thế này đây. - Addison tặc lưỡi, và Grunt bước tới, cầm trên tay một cuốn sách nhỏ và dúi nó vào tay tôi. Đó là một tập album ảnh, được mở sẵn tới bức ảnh chụp một con chó bị đóng ách, như lừa hay ngựa, vào một cái xe nhỏ. - Bà ấy bị đám diễn xiếc rong trong hội chợ bắt làm nô lệ, - Addison nói, - bị buộc phải kéo xe cho những đứa trẻ béo phị được cưng nhiều như những con gia súc kéo tầm thường - thậm chí còn bị đánh bằng roi thúc! - Đôi mắt con chó cháy rực lên căm giận. - Đến nỗi khi cô Wren cứu được Pompey, bà ấy đã suy sụp đến mức gần như chết hẳn. Bà ấy chỉ thoi thóp thêm được vài tuần sau khi tới đây, rồi được chôn cất ở chỗ này.
Tôi đưa cuốn album cho những người khác. Tất cả những ai trông thấy bức ảnh đều thở dài, lắc đầu hoặc cay đắng lẩm nhẩm. Addison đi tới một ngôi mộ khác.
- Còn vĩ đại hơn nữa là Ca’ab Magda, - con chó nói, - bà linh dương mười tám sừng đã tung hoành trong các Vòng Thời Gian ở Ngoại Mông. Bà ấy thật kinh khủng! Mặt đất rung chuyển dưới móng guốc của bà khi bà chạy! Người ta kể thậm chí bà đã từng hành quân vượt dãy Alpes cùng quân đội của Hannibal năm 218 trước Công nguyên. Thế rồi vài năm trước, một tay thợ săn đã bắn bà.
Grunt đưa ra bức ảnh chụp một phụ nữ lớn tuổi trông có vẻ như vừa trở về sau một chuyến đi săn ở châu Phi, ngồi trên một cái ghế kỳ dị làm từ những chiếc sừng.
- Tôi không hiểu, - Emma nói, nhìn chăm chăm vào bức ảnh. - Ca’ab Magda đâu?
- Đang bị ngồi lên, - Addison nói. - Tay thợ săn lấy sừng của bà ấy chế thành một cái ghế.
Thiếu chút nữa Emma đánh rơi mất tập album.
- Thật ghê tởm!
- Nếu đó là bà ấy, - Enoch vừa nói vừa gõ vào bức ảnh, - vậy cái gì được chôn cất ở đây?
- Cái ghế, - Addison nói. - Một cuộc đời đặc biệt đã bị phí phạm như thế đấy.
- Nghĩa địa này đầy ắp những câu chuyện như của Magda, - Addison nói. - Cô Wren muốn trại động vật này là một con thuyền cứu nạn, nhưng dần dà nó trở thành nghĩa địa.
- Như tất cả các Vòng Thời Gian của chúng ta, - Enoch nói. - Như chính bản thân giới sinh vật đặc biệt. Một thử nghiệm thất bại.
- “Nơi này đang chết dần”,  cô Wren hay nói vậy. - Giọng Addison cất lên bắt chước bà Chủ Vòng. - “Và tôi chẳng là gì ngoài người chủ trì một tang lễ dài!” - Đôi mắt Addison ươn ướt khi nhớ tới bà, nhưng nhanh chóng đanh trở lại. - Cô ấy đã rất kịch.
- Làm ơn đừng nhắc tới Chủ Vòng của chúng ta bằng thời quá khứ, - Deirdre nói.
- Rất kịch, - con chó nói. - Xin lỗi. Không có đã.
- Bọn họ săn các bạn, - Emma nói, giọng lạc hẳn đi vì bức xúc. - Tàn sát các bạn, giam hãm các bạn trong vườn thú.
- Đúng như những tay thợ săn đã làm trong câu chuyện về Cuthbert, - Olive nói.
- Phải, - Addison nói. - Có những sự thực tốt nhất nên được diễn đạt dưới dạng truyền thuyết.
- Nhưng chẳng có Cuthbert nào cả, - Olive nói, bắt đầu hiểu ra. - Không có người khổng lồ nào hết. Chỉ có một con chim.
- Một con chim rất đặc biệt, - Deirdre nói.
- Các bạn đang lo lắng cho bà ấy. - tôi nói.
- Tất nhiên là thế rồi, - Addison nói. - Theo như tôi biết, cô Wren là Chủ Vòng duy nhất còn lại chưa bị bắt. Khi nghe nói các chị em của mình bị bắt cóc đưa tới London, bà đã bay ngay tới đó để giúp đỡ họ mà không dành ra lấy một khoảnh khắc nghĩ tới an nguy của bản thân.
- Hay của chúng tôi, - Deirdre lẩm bẩm.
- London ư? - Emma hỏi. - Các bạn có chắc đó là nơi những Chủ Vòng bị bắt cóc bị đưa tới không?
- Hoàn toàn chắc chắn, - con chó trả lời. - Cô Wren có điệp viên trong thành phố - một bầy bồ câu đặc biệt theo dõi mọi thứ và báo cáo lại cho bà. Gần đây, vài con bồ câu tới gặp chúng tôi trong tình trạng buồn phiền khủng khiếp. Họ nhận được thông tin chắc chắn là các Chủ Vòng đã - và vẫn đang - bị giam cầm trong các Vòng Trừng Phạt.
Một vài đứa trẻ kêu lên thảng thốt, nhưng tôi không hiểu ý con chó muốn nói gì.
- Vòng Trừng Phạt là gì vậy? - tôi hỏi.
- Chúng được thiết lập để giam giữ những xác sống bị bắt, những tên tội phạm bất trị, và những kẻ mất trí nguy hiểm, - Millard giải thích. - Chúng không hề giống những Vòng Thời Gian chúng ta biết. Là những nơi rất, rất kinh khủng.
- Và bây giờ đến lượt bọn xác sống, và hẳn là cả đám hồn rỗng của chúng, đang canh giữ họ,- Addison nói.
- Lạy Chúa lòng lành! - Horace thốt lên. - Thế thì còn tồi tệ hơn những gì chúng tôi đã sợ!
- Cậu đang đùa chắc? - Enoch nói. - Đây chính xác là điều tớ đã sợ!
- Cho dù đám xác sống đang toan tính mục đích ám muội nào, - Addison nói, - rõ ràng là chúng cần đến tất cả các Chủ Vòng để hoàn thành điều đó. Giờ đây chỉ còn lại cô Wren… cô Wren can đảm, táo bạo một cách bất cẩn… và ai biết còn được trong bao lâu!
Sau đó, con chó ư ử hệt như một vài con chó vẫn làm trong lúc sấm chớp bão bùng, cụp tai lại và cúi đầu xuống.
* * *
Chúng tôi quay trở lại dưới bóng cây và hoàn tất bữa ăn của mình, và khi chúng tôi đã no căng không thể ăn thêm miếng nào nữa, Bronwyn quay sang Addison và nói:
- Ông biết đấy, ông Chó, mọi thứ không đến nỗi khủng khiếp như ông nói đâu.
Sau đó, cô nhìn Emma rồi nhướng mày lên, và lần này Emma gật đầu.
- Vậy sao, - Addison đáp lại.
- Phải, đúng thế. Thực ra, ở ngay đây tôi có một thứ có thể sẽ làm ông vui lên.
- Tôi hơi nghi ngờ điều đó đấy, - con chó lẩm nhẩm, nhưng vẫn ngẩng đầu lên khỏi hai chân trước để nhìn xem thứ đó là gì.
Bronwyn mở áo khoác ra và nói:
- Tôi muốn ông gặp người Chủ Vòng thứ hai còn chưa bị bắt, cô Alma Peregrine.
Con chim ló đầu ra ngoài ánh nắng và chớp mắt.
Giờ đến lượt những con vật ngỡ ngàng. Deirdre há hốc miệng kinh ngạc, Grunt kêu lên the thé và vỗ tay, còn bầy gà mái vỗ phành phạch đôi cánh vô dụng của họ.
- Nhưng chúng tôi nghe nói vòng của các cô cậu đã bị tấn công! - Addison nói. - Chủ Vòng của các bạn đã bị bắt cóc!
- Đúng thế, - Emma nói đầy tự hào, - nhưng chúng tôi đã đoạt lại được cô ấy!
- Nếu vậy, - Addison nói, cúi đầu xuống trước cô Peregrine, - đây quả là một hân hạnh hiếm có. Sẵn sàng phụng sự bà. Nếu bà cần một chỗ để biến hình, tôi sẽ rất vui được dẫn bà tới nơi ở riêng của cô Wren.
- Cô ấy không biến hình được, - Bronwyn nói.
- Thế là sao? - Addison hỏi. - Bà ấy ngại chăng?
- Không, - Bronwyn nói. - Cô ấy bị kẹt.
Cái tẩu rơi khỏi miệng Addison.
- Ôi, không, - con chó khẽ thốt lên. - Cô có chắc thế không
- Cô ấy đã thế này được hai ngày rồi, - Emma nói. - Tôi nghĩ nếu có thể trở lại dạng người, thì đến lúc này cô ấy đã làm thế rồi.
Addison lắc đầu hất đôi kính ra khỏi mặt mình rồi nhìn con chim, đôi mắt mở to đầy quan ngại.
- Tôi có thể khám cho bà ấy được không? - con chó hỏi.
- Ông ấy là một bác sĩ Dollitle chính hiệu, - cô bán lừa cao cổ nói. - Addie chữa trị cho tất cả chúng tôi khi chúng tôi ốm.
Bronwyn nâng cô Peregrice lên khỏi áo khoác cô rồi để con chim xuống đấy.
- Nhưng mà hãy cẩn thận với bên cánh bị thương của cô ấy.
- Tất nhiên rồi. - Addison nói.
Con chó bắt đầu chậm chậm rãi đi vòng vòng quanh con chim, quan sát từ mọi góc độ. Sau đó, nó dùng cái mũi to ươn ướt ngửi ngửi đầu và đôi cánh con chim.
- Hãy cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với bà ấy. - Cuối cùng nó nói, - Và khi nào, như thế nào. Hãy kể lại cho tôi biết tất cả.
Emma kể lại toàn bộ câu chuyện: cô Peregrine đã bị Golan bắt cóc thế nào, bà đã suýt chết đuối trong lồng nhốt dưới biển ra sao, và bằng cách nào chúng tôi đã cứu được bà khỏi một chiếc tàu ngầm do đám xác sống điều khiển. Những con vật chăm chú lắng nghe. Khi chúng tôi kể xong, con chó dành một khoảnh khắc để ngẫm nghĩ, rồi sau đó đưa ra chẩn đoán:
- Bà ấy đã bị đầu độc. Tôi tin chắc là thế. Bị đầu độc bằng thứ gì đó khiến bà ấy bị giữ nguyên ở dạng chim.
- Thật ư? - Emma hỏi. - Làm sao các ông biết được?
- Bắt cóc và vận chuyển các Chủ Vòng khi họ ở dạng người và có thể thi triển các phép thuật làm ngừng thời gian là một việc làm nguy hiểm. Tuy nhiên, khi ở dạng chim, quyền năng của họ rất hạn chế. Theo cách này, cô phụ trách của các cô cậu trở nên nhỏ gọn, dễ cất giấu... và ít đe dọa hơn. - Con chó nhìn cô Peregrine. - Gã xác sống đã bắt bà có phun thứ gì lên bà không? - Nó hỏi bà. - Một chất lỏng hay chất khí nào đó?
Cô Peregrine gật gù - có vẻ như một cái gật đầu.
Bronwyn há hốc miệng.
- Ôi, cô phụ trách, em rất xin lỗi, chúng em không hề biết.
Tôi cảm thấy cảm giác tội lỗi nhói lên. Chính tôi đã dẫn đám xác sống tới hòn đảo. Tôi chính là lý do khiến chuyện này xảy ra với cô Peregrine. Tôi đã lảm đám trẻ đặc biệt mất đi mái nhà của họ, hay ít nhất là một phần. Nỗi hối hận mà những điều đó gây nên chèn nặng như một tảng đá trong họng tôi.
Tôi nói:
- Nhưng rồi bà ấy sẽ khá hơn đúng không? Và sẽ trở lại hình người chứ?
- Cánh của bà ấy sẽ lành lại. - Addison đáp. - Nhưng nếu như không có sự trợ giúp, bà ấy sẽ không trở lại hình người được.
- Cô ấy cần sự giúp đỡ như thế nào? - Emma hỏi. - Ông có thể giúp cô ấy được không?
- Chỉ một Chủ Vòng khác mới có thể giúp đỡ bà ấy. Và bà ấy còn rất ít thời gian.
Tôi sững người lại. Đây là một tin mới.
- Ý ông là sao? - Emma hỏi.
- Tôi không thích trở thành người báo tin xấu. - Addison nói. - Nhưng hai ngày là khoảng thời gian rất dài với một Chủ Vòng khi bị giam hãm trong hình dạng này. Càng trải qua nhiều thời gian dưới dạng chim, phần bản thể người của bà ấy ngày càng mất đi. Kí ức, ngôn ngữ của bà ấy - mọi thứ tạo nên bà ấy - cho tới khi cuối cùng bà ấy không còn là Chủ Vòng Thời Gian nữa. Bà ấy sẽ chỉ là một con chim, vĩnh viễn.
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh cô Peregrine nằm xoài trên giường bệnh của một phòng cấp cứu, xúm quanh là các bác sĩ, hơi thở đã ngừng - mỗi tích tắc trôi qua đều gây cho bộ não của bà một tổn thương mới không thể chữa lành.
- Bao lâu? - Millard hỏi. - Cô ấy còn thêm bao lâu nữa?
Addison nheo mắt, lắc đầu.
- Hai ngày, nếu bà ấy mạnh mẽ.
Những tiếng thì thầm và thảng thốt vang lên. Chúng tôi ai nấy đều tái mặt.
- Ông chắc chứ? - Emma hỏi. - Ông có hoàn toàn, thực sự chắc không?
- Tôi từng chứng kiến chuyện đó xảy ra trước đây rồi. - Addison chỉ chân về phía con cú nhỏ đang đậu trên cành cây gần đó. - Olivia đây vốn là một Chủ Vòng trẻ nhưng gặp phải một tai nạn nghiêm trọng trong quá trình huấn luyện. Người ta mang cô ấy tới chỗ chúng tôi năm ngày sau đó. Cô Wren và tôi đã làm tất cả những gì có thể để cố đưa cô ấy trở lại hình người, nhưng chỉ vô vọng. Chuyện đó xảy ra mười năm trước; kể từ dạo ấy, Olivia vẫn cứ thế này.
Con cú mở to mắt nhìn chằm chằm câm lặng. Bên trong nó không còn sức sống nào ngoài của một con vật; có thể thấy ngay điều đó trong sự vô hồn của đôi mắt.
Emma đứng dậy. Cô dường như định nói gì đó - tôi hi vọng là để tập hợp chúng tôi, thúc giục chúng tôi hành động bằng những lời hô hào truyền cảm hứng nào đó - nhưng có vẻ cô không thể nói lên lời. Cố kìm lại tiếng nức nở, cô loạng choạng đi xa khỏi chúng tôi.
Tôi gọi với theo, nhưng Emma không dừng lại. Những người khác chỉ nhìn cô bước đi, choáng váng trước tin xấu kinh khủng; và cũng choáng váng trước biểu hiện của sự yếu đuối hay do dự từ Emma. Cô đã duy trì được sự mạnh mẽ của mình trước tất cả những người khác lâu đến mức chúng tôi dần coi thái độ đó là đương nhiên, nhưng cô không phải là sắt đá. Emma có thể đặc biệt, song cô cũng là một con người.
- Tốt hơn cậu nên đi gọi cô ấy về đi, Jacob. - Bronwyn nói với tôi. - Chúng ta không nên nán lại đây lâu.
* * *
Tôi bắt kịp Emma, cô đang đứng gần rìa bãi đất phẳng trên đỉnh núi, nhìn chăm chú xuống phong cảnh bên dưới, những triền đồi dốc xanh rì thoai thoải dần xuống vùng đồng bằng phía xa. Cô nghe thấy tôi lại gần nhưng không ngoái lại.
Tôi lúng túng đứng cạnh cô và cố nghĩ ra lời lẽ nào đó phấn chấn để nói.
- Tớ biết cậu đang sợ, và... và ba ngày có vẻ không phải là quãng thời gian dài, nhưng...
- Hai ngày, - cô nói. - Có thể là hai ngày. - Đôi môi cô run rẩy. - Và đó thậm chí còn chưa phải là điều tồi tệ nhất.
Tôi giật mình.
- Làm thế nào tình hình lại có thể tồi tệ hơn nữa?
Emma đã cố gắng kìm chế để khỏi rơi nước mắt, nhưng giờ đây, trong cơn vỡ òa đột ngột, cô đã thua. Cô ngồi phịch xuống đất và nức nở, một cơn bão tố bao trùm lấy cô. Tôi quỳ gối xuống, đưa cánh tay ôm lấy Emma và giữ chặt.
- Tớ xin lỗi. - Cô nói, nhắc lại câu đó ba lần, giọng khàn khàn, như một sợi dây thừng bị tước rách dần. - Đáng ra cậu không bao giờ nên ở lại. Đáng ra tớ không nên để cậu ở lại. Nhưng tớ đã ích kỉ... ích kỉ khủng khiếp!
- Đừng nói vậy. - Tôi nói. - Tớ ở đây... tớ ở đây, và tớ sẽ không đi đâu cả.
Câu nói đó dường như chỉ làm cô khóc to hơn. Tôi ép môi lên trán cô, hôn lên đó cho tới khi cơn bão tố bắt đầu lắng dịu trong cô, những tiếng nức nở khẽ dần chỉ còn là thút thít.
- Hãy nói cho tớ biết đi. - Tôi nói. - Nói cho tớ biết điều gì không ổn.
Sau một phút, Emma đứng dậy, lau mắt, và cố trấn tĩnh lại.
- Tớ hi vọng tớ không bao giờ phải nói điều này. - Cô nói. - Hi vọng rằng điều đó sẽ chẳng nghiêm trọng. Cậu có nhớ lúc tớ nói với cậu, vào buổi tối cậu quyết định đi cùng bọn tớ, là có thể sẽ không bao giờ về nhà được nữa không?
- Tất nhiên tớ nhớ.
- Cho đến lúc này tớ đã không hề biết điều đó thực sự đúng đến mức nào. Tớ sợ là tớ đã kết án cậu, Jacob, bạn thân mến, vào một cuộc sống ngắn ngủi kẹt trong một thế giới tàn lụi.
Cô hít một hơi run rẩy, rồi nói tiếp:
- Cậu đến với chúng tớ qua Vòng Thời Gian của cô Peregrine, và điều đó có nghĩa là chỉ có cô Peregrine hay Vòng Thời Gian của cô mới có thể giúp cậu quay trở lại. Nhưng giờ đây Vòng Thời Gian của cô không còn nữa - hoặc nếu nó chưa biến mất thì cũng sắp rồi - như thế thì cô Peregrine là đường về nhà duy nhất của cậu. Nhưng nếu cô không bao giờ trở lại hình người nữa...
Tôi nặng nề nuốt khan, cổ họng tôi khô khốc.
- Thì tớ sẽ mắc kẹt trong quá khứ.
- Phải. Và cách duy nhất để trở về cái thời vẫn được cậu coi là thời đại của cậu sẽ là phải đợi nó - từng ngày, từng năm.
Bảy mươi năm.
Đến khi đó bố mẹ tôi, và tất cả những ai tôi biết hay quan tâm hẳn đều đã chết, còn với họ thì tôi hẳn đã chết từ lâu. Tất nhiên, nếu như chúng tôi sống sót qua được tất cả những thử thách sắp phải đối diện, tôi vẫn luôn có thể đi tìm bố mẹ tôi trong vài thập kỷ nữa, sau khi họ ra đời - nhưng để làm gì? Họ sẽ chỉ là những đứa trẻ, những người xa lạ với tôi.
Tôi tự hỏi đến khi nào bố mẹ tôi trong thời hiện tại ở nhà sẽ từ bỏ hi vọng tìm thấy tôi còn sống. Họ sẽ tự kể cho nhau những chuyện gì để lý giải cho sự biến mất của tôi. Có phải tôi đã bỏ trốn? Hay bị mất trí? Hay gieo mình xuống biển từ một vách đá?
Liệu họ có tổ chức tang lễ cho tôi? Mua cho tôi một cỗ quan tài?  Khắc tên tôi lên bia mộ?
Tôi sẽ trở thành một bí ẩn họ không bao giờ lý giải được. Một vết thương không bao giờ lành.
- Tớ rất xin lỗi. - Emma lại nói. - Nếu biết tình hình của cô Peregrine tồi tệ đến thế, tớ xin thề với cậu, tớ sẽ không bao giờ đề nghị cậu ở lại. Hiện tại không có ý nghĩa gì với tất cả bọn tớ. Nó sẽ giết chết bọn tớ nếu bọn tớ lưu lại đó quá lâu! Nhưng cậu - cậu vẫn còn gia đình, một cuộc sống...
- Không. - Tôi nói,  hét lên, vung bàn tay đâu xuống đất - để xua đuổi những ý nghĩ than thân trách phận bắt đầu bao phủ bóng trong đầu. - Tất cả giờ đã qua rồi. Tớ đã chọn ở đây.
Emma áp tay lên bàn tay tôi và dịu dàng nói.
- Nếu những gì các động vật nói là đúng, và tất cả các Chủ Vòng của chúng ta đã bị bắt cóc, chẳng bao lâu nữa nơi đây cũng không còn. - Cô bốc lấy một ít đất trong bàn tay rồi rải chúng bay theo gió. - Không có các Chủ Vòng để duy trì các Vòng Thời Gian, chúng sẽ sụp đổ. Đám xác sống sẽ lợi dụng các Chủ Vòng để thực hiện lại thí nghiệm đáng nguyền rủa của chúng, và tai họa năm 1908 sẽ tái diễn - và hoặc chúng sẽ thất bại, cả thế giới sẽ bị biến thành một hố sâu bốc khói, hoặc chúng sẽ thành công và  trở thành bất tử, khi đó chúng ta sẽ bị đám quái vật đó thống trị. Dù theo cách nào đi nữa, chúng ta sẽ sớm tuyệt chủng, nghiêm trọng hơn cả tình hình của các động vật đặc biệt!  Và giờ tớ lại kéo cậu vào cơn ác mộng vô vọng này - để làm gì kia chứ?
- Chuyện nào xảy ra cũng đều có lý do cả. - Tôi nói.
Tôi không thể tin những lời đó lại được nói ra từ miệng mình, nhưng ngay khi chúng vang lên tôi đã cảm thấy sự đích xác của chúng ngân vang lên trong tôi như một tiếng chuông.
Tôi ở đây vì lí nào đó. Có một điều đã khiến tôi được sinh ra không chỉ để tồn tại, mà để hành động - và hành động đó không phải là bỏ chạy, lẩn trốn hay bỏ cuộc ngay khi tình thế có vẻ khủng khiếp và vô vọng.
- Tớ tưởng cậu không tin vào định mệnh. - Emma nói, xem xét tôi với vẻ hoài nghi.
Tôi từng không tin - không hẳn là tin - nhưng tôi cũng không chắc nên giải thích thế nào về thứ tôi tin nữa. Tôi nghĩ lại những câu chuyện ông nội thường hay kể cho tôi nghe. Chúng đầy ắp những điều kì diệu và phiêu lưu, nhưng xuyên suốt chúng còn một điều sâu sắc hơn nữa - cái cảm giác biết ơn vĩnh cửu. Khi còn bé, tôi đã tập trung vào phần ông nội Potman mô tả một hòn đảo đầy mầu nhiệm cùng những đứa trẻ đặc biệt với năng lực kỳ diệu, nhưng giữ vai trò trung tâm trong các câu chuyện của ông lại là cô Peregrine, việc bà đã giúp đỡ ông vào cái thời khắc cần kíp khẩn thiết như thế nào. Khi tới xứ Wales, ông tôi từng là một cậu bé hoảng loạn, không nói được ngôn ngữ của nơi này, một cậu bé bị hai loại quái vật săn đuổi: một loại cuối cùng đã giết hại gần hết thành viên gia đình cậu, còn loại kia, gớm ghiếc đến khó tả và vô hình với tất cả mọi người, trừ cậu, và có vẻ như trực tiếp bước ra từ những cơn ác mộng của cậu. Đối mặt với những đe dọa này, cô Peregrine đã che giấu ông, cho ông một mái nhà và giúp ông khám phá ra con người thật của mình - bà đã cứu cuộc đời ông, và khi làm thế, bà cũng góp phần vào sự ra ra đời của bố tôi, và vì thế tôi nợ họ. Nhưng tôi hẳn đã không bao giờ chào đời nếu không nhờ lòng nhân ái lớn lao, vị tha cô Peregrine dành cho ông tôi. Tôi bắt đầu dần tin rằng mình được đưa tới đây để báo đáp món nợ đó - nợ của chính tôi, của bố tôi và cả ông tôi nữa.
Tôi cố hết sức để giải thích.
- Chuyện này không phải là định mệnh. - Tôi nói. - Nhưng tớ thực sự nghĩ có mọi sự cân bằng trên thế giới, và đôi lúc những thế lực chúng ta không hiểu nổi can thiệp vào để chỉnh cán cân theo đúng hướng. Cô Peregrine đã cứu ông tớ, và giờ tớ có mặt ở đây để góp phần cứu bà.
Emma nheo mắt lại, chậm rãi gật đầu. Tôi không thể đoán chắc liệu cô có đang đồng ý  với tôi hay tìm mọi cách lịch sự để nói với tôi là tôi đang mất trí.
Rồi cô ôm lấy tôi.
Tôi không cần giải thích thêm nữa. Emma đã hiểu.
Cả cô cũng nợ cô Peregrine mạng sống.
- Chúng ta có ba ngày. - Tôi nói. - Chúng ta sẽ tới London, giải thoát một trong các Chủ Vòng, rồi chữa khỏi cho cô Peregrine. Tình hình vẫn chưa vô vọng. Chúng ta sẽ cứu bà ấy, Emma, hoặc chết trong khi cố làm điều đó.
Những lời nói có vẻ can trường và kiên quyết tới mức trong một khoảnh khắc tôi tự hỏi liệu tôi có thật là người đã nói ra chúng.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, Emma bật cười, như thể cô thấy những lời tôi nói có vẻ gì đó tức cười, rồi cô nhìn đi hướng khác trong một thoáng. Khi cô quay lại nhìn tôi, quai hàm cô nghiến chặt, đôi mắt sáng lên, sự tự tin trước đây của Emma đã quay trở lại.
- Đôi lúc tớ không thể chắc chắn được liệu cậu hoàn toàn mất trí hay cậu là một thứ phép màu. - Cô nói, - Dù tớ bắt đầu nghĩ có lẽ khả năng thứ hai là đúng.
Cô vòng hai cánh tay ôm lấy tôi lần nữa, và chúng tôi ôm chặt lấy nhau hồi lâu, cô tựa đầu lên vai tôi, hơi thở của cô ấm áp phả vào cổ tôi, vậy là đột nhiên tôi không muốn gì hơn là loại bỏ nốt những khoảng cách nhỏ nhoi còn lại giữa cơ thể chúng tôi, muốn hòa làm một.
Nhưng sau đó cô gỡ mình ra, hôn lên trán tôi rồi bắt đầu quay trở lại chỗ những người khác.
Tôi quá ngây ngất đến nỗi không thể đi theo ngay lập tức, vì vừa có một điều mới mẻ diễn ra, một vòng quay bên trong tim tôi trước đây tôi chưa bao giờ nhận thấy, và nó đang quay tít nhanh đến mức làm tôi chóng mặt. Và Emma càng đi xa dần, vòng quay đó càng quay nhanh hơn, như thể có một cuộn dây vô hình đang tuột ra từ nó, nối giữa hai chúng tôi, và nếu cô đi quá xa sợi dây đó sẽ đứt phựt - và giết chết tôi.
Tôi băn khoăn không biết liệu cảm giác đau nhói lạ lùng, ngọt ngào này có phải yêu.
* * *
Những người khác đang xúm lại dưới bóng cây, cả những đứa trẻ và đám động vật. Emma và tôi rảo bước về phía họ. Tôi cảm thấy thôi thúc muốn khoác tay cô, và thiếu chút nữa đã làm thế nếu không phải một điều đã ập đến làm tôi nghĩ lại. Tôi đột nhiên ý thức được - khi Enoch quay sang nhìn chúng tôi với sự nghi ngờ rõ ràng mà cậu ta luôn dành cho tôi trước đây, và giờ đây dành cho cả hai chúng tôi, với mức độ ngày càng tăng - là Emma và tôi đã trở thành một đội tách riêng khỏi những người khác, một mối liên kết riêng tư với những bí mật và hứa hẹn chỉ của ai người.
Bronwyn đứng lên khi chúng tôi lại gần.
- Cậu ổn cả chứ, Emma?
- Ổn cả, ổn cả. - Emma vội nói. - Chỉ là tớ bị thứ gì đó bay vào mắt thôi. Bây giờ, tất cả mọi người thu dọn đồ đạc của mình. Chúng ta phải tới London ngay lập tức, và tìm cách chữa cho cô Peregrine trở lại như cũ!
- Bọn tớ rất mừng vì cậu đồng ý. - Enoch nói kèm theo một cái đảo mắt. - Bọn tớ cũng đã đi tới kết luận đó vài phút trước, khi hai người đang ở đằng kia thì thầm.
Emma đỏ mặt, nhưng không mắc bẫy khiêu khích của Enoch. Vào lúc này, còn nhiều chuyện khác quan trọng cần lo hơn là vài xung đột vặt vãnh - cụ thể là vô vàn nguy hiểm khó lường của cuộc hành trình chúng tôi sắp thực hiện.
- Tớ chắc tất cả mọi người đều đã ý thức được. - Emma nói. - Dù có đánh giá theo bất kỳ chỉ tiêu nào, đây vẫn là một kế hoạch rất tồi mà hi vọng thành công vô cùng ít ỏi.
Cô đưa ra một số lý do. London ở cách đây rất xa - có thể theo tiêu chuẩn của thế giới hiện nay thì không, khi chúng ta có thể dùng GPS tìm đường tới ga tàu hỏa gần nhất và lên một chuyến tàu tốc hành nhanh chóng đưa chúng tôi tới trung tâm thành phố trông vài giờ. Tuy nhiên, vào năm 1940, ở một nước Anh đang bị chiến tranh làm rung chuyển, London dường như cách xa cả thế giới: các tuyến đường bộ và đường sắt có thể bị tắc nghẽn vì người tị nạn, bị bom phá hủy, hay bị dành riêng cho các đoàn quân xa, bất cứ lý do nào cũng có thể buộc chúng tôi phải mất thêm thời gian mà cô Peregrine không còn thời gian để lãng phí.
Tệ hơn nữa, chúng tôi sẽ bị săn đuổi - và thậm trí còn ráo riết hơn trước đây, khi bây giờ gần như toàn bộ các Chủ Vòng khác đã bị bắt giữ.
- Hãy quên chuyến đi đi. - Addison nói. - Đó là điều ít đáng lo nghĩ nhất đối với các cô cậu! Có lẽ tôi đã can gián không đủ thuyết phục khi chúng ta bàn bạc chuyện này lúc trước. Có lẽ các cô cậu chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình các Chủ Vòng đang bị giam cầm. - Con chó nhấn mạnh từng âm tiết như thể chúng tôi bị nặng tai. - Chẳng lẽ chưa ai trong các cô cậu từng đọc về các Vòng Trừng Phạt từ những cuốn sách lịch sử thế giới đặc biệt của các cô cậu sao?
- Tất nhiên là chúng tôi có đọc. - Emma nói.
- Vậy thì các cô cậu phải biết tìm cách xâm nhập vào đó cũng đồng nghĩa với tự sát. Chúng là những cái bẫy chết người, từng cái một trong chúng đều chứa đựng những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử London - vụ Đại Hỏa hoạn năm 1666; cuộc vây hãm chết chóc của người Viking năm 842; đỉnh cao thảm khốc của Dịch bệnh ghê rợn! Người ta không xuất bản các bản đồ định vị những nơi này vì lý do hiển nhiên. Vì thế, trừ phi các cô cậu có kinh nghiệm thực tế về những phần bí hiểm nhất của thế giới đặc biệt...
- Tôi là người chuyên nghiên cứu về những Vòng Thời Gian bí hiểm và khó chịu. - Millard lên tiếng. - Điều đó từng là thú vui trong nhiều năm.
- Khá lắm! - Addison nói. - Vậy tôi đoán cậu có cách để vượt qua cả bầy hồn rỗng canh gác lối vào của chúng nữa.
Đột nhiên, có vẻ như ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào tôi. Tôi khó nhọc nuốt vào, cố tỏ vẻ tự tin và nói.
- Phải, thực tế thì chúng tôi có cách.
- Tốt hơn nên thế. - Enoch lầm bầm.
Sau đó, Bronwyn nói:
- Tớ tin cậu, Jacob. Tớ chưa biết cậu lâu, nhưng tớ cảm thấy mình biết rõ trái tim cậu, một trái tim mạnh mẽ, chân thành - một trái tim đặc biệt - và tớ tin cậu.
Cô cúi người tựa sát vào tôi, khoác vai tôi, và tôi cảm thấy cổ họng thít lại.
- Cảm ơn cậu. - Tôi nói, cảm thấy thật kém cỏi nhỏ bé trước cảm xúc lớn lao của cô.
Con chó tặc lưỡi.
- Điên rồ. Các cô cậu chẳng có chút bản năng tự bảo tồn nào. Quả là kì diệu khi các cô cậu bây giờ vẫn còn hít thở.
Emma bước tới trước mặt Addison và tìm cách làm con chó im lặng.
- Phải, kì diệu. - Cô nói. - Cảm ơn ông vì đã khai sáng cho chúng tôi bằng quan điểm của mình. Giờ đây, gạt những lời bi quan sang một bên, tôi cần phải hỏi các bạn còn lại: có ai phản đối gì việc chúng ta đang đề xuất không? Tôi không muốn ai tình nguyện vì bị gây sức ép.
Horace rụt rè giơ tay lên.
- Nếu London là nơi tất cả đám xác sống đang có mặt, chẳng phải tới đó cũng có nghĩa là bước thẳng  vào tay chúng? Liệu đó có phải là ý hay không?
- Đó là một ý tưởng thiên tài. - Enoch bực bội nói. - Bọn xác sống tin chắc những đứa trẻ đặc biệt chúng ta đều ngoan ngoãn, yếu đuối. Việc chúng ta lần theo là điều chúng không bao giờ lường được.
- Thế nếu chúng ta thất bại thì sao! - Horace hỏi. - Chúng ta sẽ tự tay giao cô Peregrine tới tận trước cửa nhà chúng!
- Ai bảo London là cửa nhà chúng thế?" Hugh nói.
Enoch khịt mũi.
- Đừng có bọc đường cho thực tế. Nếu như chúng đã phá mở được cá Vòng Thời Gian dùng làm nhà tù và sử dụng những nơi này để giam giữ các Chủ Vòng của chúng ta, các cậu có thể đánh cược hết thịt trên người mình là chúng đã kiểm soát nốt phần còn lại của thành phố! London chắc chắn sẽ nhung nhúc lũ chúng. Hãy nhớ lấy lời tớ. Nếu không phải thế, đám xác sống đã chẳng bao giờ  bận tâm truy lùng chúng ta trên hòn đảo nhỏ Cairholm cũ kĩ. Đó là chiến lược quân sự cơ bản. Trong chiến trận, đầu tiên các cậu không nhắm vào ngón chân  hồng hồng của kẻ thù - các cậu sẽ đâm thẳng vào tim hắn!
- Làm ơn nào. - Horace rên rẩm. - Nói về những Vòng Thời Gian bị phá hủy và những quả tim bị đâm thế là đủ rồi đấy. Cậu làm mấy đứa nhỏ phát hoảng bây giờ.
- Tớ không sợ! - Olive nói.
Horace co rúm lại. Ai đó lẩm bẩm đồ hèn.
- Không được nói thế! - Emma gắt lên nói. - Thấy sợ thì cũng chẳng có gì sai cả. Như thế có nghĩa là các cậu nhìn nhận điều cực kỳ nghiêm túc chúng tớ đề xuất một cách rất nghiêm chỉnh. Bởi vì, phải, việc này sẽ nguy hiểm. Phải, cơ hội thành công rất nhỏ nhoi. Và thậm chí dù chúng ta có tới được London, không gì đảm bảo chúng ta sẽ có thể tìm ra các Chủ Vòng, chưa nói gì tới cứu được một người. Hoàn toàn có khả năng là cuối cùng chúng ta sẽ héo mòn dần trong một nhà tù nào đó của bọn xác sống hay bị tiêu hóa trong bụng của một con hồn rỗng. Mọi người hiểu cả chưa?
Những cái gật đầu nghiêm nghị tỏ vẻ đã hiểu.
- Tớ có bọc đường thứ gì không, Enoch?
Enoch lắc đầu.
- Nếu thử làm việc này, - Emma nói tiếp, - Rất có thể chúng ta sẽ mất cô Peregrine. Nhưng nếu không thử, nếu không đi, khi đó chắc chắn chúng ta sẽ mất cô - và kiểu gì lũ xác sống cũng sẽ bắt được chúng ta! Nói như vậy nghĩa là ai cảm thấy không đủ can đảm thực hiện chuyến đi có thể ở lại. - Cô muốn nói tới Horace và tất cả chúng tôi đều biết. Horace chăm chăm nhìn xuống đất. - Cậu có thể ở lại đây, một nơi an toàn, và bọn tớ sẽ tới đón cậu sau, khi trở ngại đã qua. Không có gì phải xấu hổ vì điều đó cả.
- Có tâm thất trái của tớ chứng giám! - Horace nói. - Nếu tớ ngồi yên cho qua chuyện này thì tớ sẽ chết vì nhục mất.
Đến cả Claire cũng từ chối bị bỏ lại.
- Tớ vừa trải qua tám năm toàn những ngày vui vẻ nhàm chán. - Cô nói, đang nằm ngủ dưới bóng cây bèn chống khuỷu tay ngồi nhổm dậy. - Ở lại đây trong khi các cậu đi phiêu lưu ư? Không đời nào!
Nhưng khi cố đứng dậy, cô nhận ra mình không thể, và lại nằm vật xuống, ho sặc sụa và chóng mặt. Cho dù thứ chất lỏng như nước rửa bát cô uống lúc trước đã làm cơn sốt dịu phần nào, vẫn không thể có chuyện Claire đủ sức để thực hiện chuyến đi tới London - không phải hôm nay, hay ngày mai, và chắc chấn sẽ không kịp thời gian giúp cô Peregrine. Ai đó cần ở lại cùng Claire trong khi cô bé hồi phục.
Emma đề nghị mọi người xung quanh tình nguyện. Olive giơ tay lên, nhưng Bronwyn bảo cô bé hãy quên chuyện đó đi - cô còn quá nhỏ. Bronwyn nhấp nhổm định giơ tay lên, nhưng rồi lại thôi. Cô nói đang bị giằng xé giữa mong muốn ở lại bảo vệ Claire và bổn phận với cô Peregrine.
Enoch đưa khuỷu tay huých Horace.
- Có chuyện gì với cậu vậy? - Enoch châm chọc. - Đây là cơ hội tuyệt vời để cậu được tụt lại sau còn gì?
- Tớ muốn phiêu lưu, tớ thực sự và thành thật muốn. - Horace khăng khăng. - Nhưng tớ cũng muốn được chứng kiến sinh nhật lần thứ 105 của mình, nếu cả hai có thể. Hãy hứa là chúng ta không cố cứu vớt cả cái thế giới bị nguyền rủa này nhé.
- Chúng ta chỉ muốn cứu cô P thôi. - Emma nói. - Chúng ta không thể cam đoan gì về bất cứ sinh nhật của ai.
Horace có vẻ hài lòng với câu trả lời này, và cả hai tay cậu ta vẫn nằm yên vị hai bên sườn.
- Còn ai khác không? - Emma vừa hỏi vừa nhìn quanh.
- Được rồi. - Claire nói. - Tớ có thể tự lo cho mình được.
- Không có chuyện đó đâu. - Emma nói. - Những người đặc biệt chúng ta phải trông nom nhau.
Bàn tay Fiona giơ lên. Cô lặng lẽ quá, tới mức tôi gần như quên mất cô đang ngồi cùng chính tôi.
- Ê, cậu không được! - Hugh nói. Cậu ta trông có vẻ tổn thương, như thể Fiona đã chối bỏ cậu ta khi tình nguyện ở lại. Cô nhìn cậu ta với đôi mắt to buồn bã, nhưng bàn tay cô vẫn giơ nguyên.
- Cảm ơn cậu, Fiona. - Emma nói. - Nếu may mắn, chỉ vài ngày nữa là bọn tớ gặp lại cả hai cậu thôi.
- Xin như Chim muốn. - Bronwyn nói.
- Như Chim muốn. - Những người khác hòa theo.
* * *
Chiều trôi dần sang tối.
Trong một giờ nữa, trời sẽ tối trong Vòng Thời Gian của những con vật, và việc tìm đường xuống núi sẽ nguy hiểm hơn nhiều với chúng tôi. Trong lúc chúng tôi sửa soạn rời đi, những con vật tốt bụng chuẩn bị cho chúng tôi thực phẩm tươi ngon và những chiếc áo dệt từ len của con cừu đặc biệt, và Deirdre thề là chúng có những tính chất đặc biệt, dù chính xác là  gì thì cô bán lừa cao cổ không thể nhớ rõ ràng.
- Không bắt lửa, tôi nghĩ vậy, hoặc có thể là không thấm nước. Phải rồi, chúng không bao giờ chìm trong nước, giống như những cái áo phao nhỏ vậy. Hay có thể, ồ, tôi không nhớ nữa, dì sao thì chúng cũng ấm!
Chúng tôi cảm ơn Deirdre rồi gập áo lại cho vào chiếc rương của Bronwyn. Sau đó, Grunt bước tới, cúi gập người ra trước, bê một cái gói giấy có buộc dây.
- Một món quà từ bầy gà mái. - Deirdre giải thích, nháy mắt trong khi Grunt ấn nó vào trong tay tôi. - Đừng đánh rơi cái gói.
Một người khôn khéo hơn tôi hẳn đã cân nhắc thiệt hơn về chuyện mang thuốc nổ theo trong chuyến đi, nhưng chúng tôi đang cảm thấy mình rất dễ bị tấn công, và cả con chó lẫn cô bán lừa cao cổ đều thề rằng nếu chúng tôi nhẹ nhàng với mấy quả trứng thì chúng sẽ không phát nổ, vậy là chúng tôi cẩn thận xếp chúng vào giữa những chiếc áo len trong cái rương của Bronwyn. Đến lúc này, ít nhất chúng tôi không còn phải tay không đối diện với những kẻ có súng.
Sau đó, chúng tôi đã gần sẵn sàng, ngoại trừ một điều: rời khỏi Vòng Thời Gian của những con vật, chúng tôi sẽ trở lại lạc đường như khi tới. Chúng tôi cần biết phương hướng.
- Tôi có thể chỉ cho các cô cậu đường ra khỏi khu rừng. - Addison nói. - Hãy gặp tôi trên đỉnh tòa tháp của cô Wren.
Không gian trên đỉnh tháp chật hẹp tới mức chỉ hai người trong chúng tôi đứng cùng nhau được trên đó, vậy nên Emma và tôi đi lên, leo lên những thanh tà vẹt xếp thành tòa tháp như những bậc của một cái thang khổng lồ. Grunt leo thoăn thoắt như khỉ lên tới đỉnh chỉ mất nửa thời gian, cắp theo Addison dưới nách.
Tầm nhìn từ trên đỉnh thật kinh ngạc. Về phía Đông, những triền rừng dốc thoai thoải trải dài ra xa rồi nhường chỗ cho đồng bằng hoang vu bát ngát. Về phía Tây, bạn có thể nhìn suốt tới tận đại dương, ở đó có một con tàu có vẻ cổ xưa với những cánh buồm lớn, phức tạp đang lướt đi theo bờ biển. Tôi chưa bao giờ hỏi ở đây đang là năm nào - 1492? 1750? - nhưng tôi đoán với những con vật điều đó chắc chẳng mấy quan trọng. Đây là một nơi an toàn cách xa thế giới loài người, và chỉ trong thế giới loài người năm tháng mới tạo ra sự khác biệt.
- Các cô cậu sẽ hướng về phía Bắc. - Addison nói, quả quyết hướng cái tẩu của mình về phía một con đường có thể thấy loáng thoáng chạy qua những hàng cây bên dưới như một nét mờ kẻ bằng bút chì. - Ở cuối con đường đó là một thị trấn, và ở trong thị trấn đó - ít nhất là ở thời gian của các cô cậu - có một ga tàu hỏa. Thời điểm các cô cậu di chuyển giữa các Vòng Thời Gian là khi nào nhỉ - 1940 phải không?
- Đúng thế, - Emma đáp.
Dù chỉ hiểu lơ mơ điều hai người họ đang nói đến, tôi vẫn là kẻ chưa bao giờ ngại đưa ra những câu hỏi ngớ ngẩn.
- Cứ đi từ đây ra luôn thì sao? - Tôi hỏi. - Đi tới London ngay trong năm hiện tại, dù nó là năm nào đi nữa?
- Cách duy nhất là dùng ngựa hay xe ngựa. - Addison nói. - Sẽ mất vài ngày... lại còn gây ra bao chuyện rầy rà đáng kể, theo kinh nghiệm của tôi. Tôi e rằng các cô cậu không có nhiều thời gian để lãng phí. - Con chó quay lại dùng mũi đẩy mở cánh cửa dẫn vào căn nhà nhỏ trên đỉnh tháp. - Mời vào. - Nó nói. - Còn một thứ nữa tôi muốn cho các cô cậu xem.
Chúng tôi theo Addison vào trong. Căn nhà rất chật chội và giản dị, khác xa tòa nhà vương giả của cô Peregrine. Toàn bộ đồ nội thất gồm một cái giường nhỏ, một tủ đựng quần áo và một bàn viết có nắp cuộn. Một cây kính viễn vọng được nắp trên giá ba chân hướng ra ngoài cửa sổ: đài quan sát của cô Wren, bà dùng nó để theo dõi những dấu hiệu bất trắc và những con bồ câu điệp viên dưới quyền hết đi rồi lại đến.
Addison tới bên bàn.
- Nếu các cô cậu gặp khó khăn gì trong việc tìm đường. - Con chó nói. - Ở đây có tấm bản đồ khu rừng.
Emma mở nắp bàn ra và tìm thấy một tấm bản đồ, một cuộn giấy cũ ố vàng. Bên dưới là một bức ảnh nhàu nhĩ. bức ảnh chụp một phụ nữ quàng khăn san đen có những hình tròn kim loại trang trí với mái tóc hoa râm búi cao lên theo kiểu thật lạ. Bà đang đứng cạnh một con gà mái. Thoạt nhìn, nó giống như một kiểu ảnh chụp hỏng vào một khoảnh khác không tập trung khi người phụ nữ đang nhìn đi hướng khác với đôi mắt khép lại, thế nhưng lại có một điểm rất hợp lý trong bức ảnh - mái tóc và trang phục của người phụ nữ tiệp với bộ lông đốm trăng và đen của con gà mái; người phụ nữ và con gà đang ngoảnh mặt đi hai hướng đối diện, ngụ ý một mối liên hệ lạ lùng giữa họ như thể họ đang nói với nhau mà không cần dùng đến lời; đang mơ về nhau.
Rõ ràng đây là cô Wren.
Nhìn thấy bức ảnh Addison dường như co rúm lại. Tôi có thể đoán chắc con chó lo lắng cho bà, nhiều hơn những gì nó muốn thừa nhận.
- Làm ơn đừng coi đây là sự đồng thuận với chuyến đi tự sát của các cô cậu. - Nó nói. - Nhưng nếu các cô cậu thành công trong nỗ lực điên rồ của mình... và tình cờ gặp cô Wren trên đường... các cô cậu có thể cân nhắc... ý tôi là liệu các cô cậu có thể cân nhắc...
- Chúng tôi sẽ bảo bà ấy về nhà. - Emma nói, sau đó gãi gãi lên đầu Addison. Đó là một cử chỉ hoàn toàn bình thường với một con chó, nhưng dường như lại là một chuyện lạ đối với một con chó biết nói.
- Chó cầu chúc may mắn cho các cô cậu. - Addison đáp.
Sau đó, tôi định vuốt ve con chó, nhưng nó đã đứng lên trên hai chân sau và nói.
- Cậu không phiền chứ? Làm ơn hãy dừng tay lại!
- Xin lỗi. - Tôi lẩm bẩm, và khoảnh khắc lúng túng tiếp sau cho thấy rõ ràng đến lúc ra đi.
Chúng tôi leo xuống khỏi tòa tháp để tới chỗ các bạn mình, nói những lời tạm biệt đầy nước mắt với Claire và Fiona dưới bóng mát của gốc cây to. Đến lúc này Claire đã có một tấm đệm để nằm và chăn để đắp, và như một công chúa, cô chào đón chúng tôi tại chỗ nằm tạm kê ngay trên đất của mình, bòn lấy những lời hứa khi chúng tôi quỳ gối xuống bên cạnh cô.
- Hãy hứa cậu sẽ quay trở lại. - Cô nói với tôi khi đến lượt tôi. - Và hứa sẽ cứu cô Peregrine.
- Tớ sẽ cố hết sức. - Tôi nói.
- Như thế vẫn chưa được. - Cô nghiêm khắc nói.
- Tớ sẽ quay lại. - Tôi nói. - Tớ hứa.
- Và cứu cô Peregrine!
- Và cứu cô Peregrine. - Tôi nhắc lại, dù những lời này nghe thật sáo rỗng; tôi càng cố nói cho có vẻ tự tin thì thực ra lại cảm thấy ít tự tin.
- Tốt! - Cô gật đầu nói. - Tuyệt vời vô cùng khi được biết cậu, Jacob, và tớ rất mừng vì cậu đến để ở lại.
- Cả tớ cũng thế. - Tôi nói, rồi hối hả đứng dậy vì khuôn mặt bừng sáng với mái tóc vàng óng viền quanh của cô có vẻ chân thành đến mức làm tôi đau nhói. Claire tin tưởng hoàn toàn vào điều chúng tôi nói với cô: rằng cô và Fiona sẽ ổn cả ở đây, giữa những von vật đặc biệt, trong một Vòng Thời Gian đã bị Chủ Vòng của nó bỏ lại. Rằng chúng tôi sẽ quay lại đón họ. Tôi dốc lòng hy vọng điều đó sẽ không chỉ là diễn một màn kịch được dựng lên để khiến nhiệm vụ khó khăn chúng tôi phải làm trở nên khả thi.
Hugh và Fiona đứng riêng sang một bên, tay cầm tay, trán dựa vào nhau, chào tạm biệt theo cách riêng lặng lẽ của họ. Cuối cùng, tất cả chúng tôi đã tạm biệt Claire xong và sẵn sàng lên đường, nhưng không ai muốn quấy rầy hai người họ, vì thế chúng tôi đứng nhìn trong khi Fiona tách mình ra khỏi Hugh, lắc vài hạt cây rơi xuống từ mái tóc tổ chim bù xù của cô, và làm mọc lên một bụi hồng nở đầy những bông hoa đỏ thắm ở đúng nơi họ đang đứng. Những con ong của Hugh ùa tới thụ phấn cho bụi hoa, và trong khi chúng bận bịu với việc đó - như thể cô gái đã tạo ra bụi hoa chỉ để hai người họ có một khoảnh khắc cho riêng mình - Fiona ôm lấy cậu con trai và thì thầm gì đó.
Cuối cùng hai người họ quay lại thì thấy tất cả chúng tôi đang nhìn, Fiona đỏ bừng mặt còn Hugh bước lại chỗ chúng tôi với hai bàn tay đút vào túi quần, bầy ong bay theo thành một dải, và gắt lên.
- Đi thôi, màn trình diễn kết thúc rồi.
Chúng tôi bắt đầu xuống núi đúng lúc trời nhá nhem. Những con vật tiễn chúng tôi đến tận chỗ vách đá dựng đứng.
Olive nói với chúng.
- Các bạn không đi cùng chúng tôi sao?
Cô bán lừa cao cổ khịt mũi.
- Ra ngoài đó chúng tôi sẽ không thể sống sót quá năm phút! Các cậu ít nhất có thể hi vọng được coi như người bình thường. Nhưng nếu ai đó thấy tôi... - Con vật lắc lư thân hình không có chi trước của mình. - Tôi sẽ bị bắn, nhồi bông rồi treo lên trong nháy mắt.
Sau đó, con chó lại gần Emma và nói.
- Nếu tôi có thể yêu cầu một điều cuối cùng từ cô...
- Ông đã rất tử tế. - Cô đáp. - Bất cứ điều gì có thể.
- Phiền cô châm tẩu thuốc cho tôi được không? Ở đây chúng tôi không có diêm; cả năm nay tôi không được hút thuốc đàng hoàng.
Emma làm theo yêu cầu, chạm một ngón tay cháy sáng vào nõ tẩu. Con chó bập một hơi thuốc dài đầy hài lòng rồi nói.
- Chúc các cô cậu may mắn, những đứa trẻ đặc biệt.
---------------------
Còn tiếp 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét