Ransom Riggs
Thành phố hồn rỗng
Dịch giả: Lê Đình Chi
Chương 5
Chúng tôi bám vào tấm lưới đu đưa
xoay qua xoay lại như một bầy khỉ, lóng ngóng va vào bề mặt vách đá trong khi
ròng rọc kêu rít lên và sợi thừng nghiến cót két. Chạm đất thành một đống bó cứng
lấy nhau, chúng tôi gỡ mình ra khỏi mớ bòng bong và tạo thành cảnh tượng trông
như một bộ phim đã thất lạc của Three Stooges [Một
nhóm phim hài Mĩ chuyên sản xuất những bộ phim ngắn trong giai đoạn 1925 -
1970]; vài lần tôi nghĩ mình đã thoát ra, rồi cố đứng lên chỉ để ngã
dập mặt xuống lần nữa bịch một cái rõ
nực cười!
Con hồn rỗng đã chết nằm cách đó
chỉ chừng mấy chục phân, những cái xúc tu của nó duỗi xòe ra như những cánh tay
của một con sao biển bị đè bẹp dưới tảng đá. Tôi gần như cảm thấy bối rối vì
chuyện đó: một con quái vật đáng sợ như thế lại bị những đứa trẻ như chúng tôi
tiêu diệt.
Lần tới - nếu còn có lần tới - tôi không nghĩ chúng tôi có thể được may mắn
như thế.
Chúng tôi rón rén đi vòng qua cái
xác hôi thối của con hồn rỗng. Chúng tôi lao xuống núi nhanh nhất có thể với mức
độ hiểm trở của con đường mòn và món hành lý dễ phát nổ của Bronwyn. Xuống tới
đất bằng, chúng tôi có thể lần theo đúng dấu chân của mình để quay trở lại qua
thảm rêu mềm ướt át của khu rừng. Chúng tôi lại tìm thấy cái hồ đúng lúc mặt trời
lặn và lũ dơi đang kêu rít lên bay ra khỏi nơi ẩn náu của chúng. Những con vật
này dường như mang theo một điều đe dọa khó hiểu từ thế giới của ban đêm, gào
thét và bay lượn trên đầu trong khi chúng tôi bì bõm lội qua làn nước nông về
phía người khổng lồ đá. Chúng tôi leo lên miệng người khổng lồ rồi trượt xuống
cổ họng ông ta, sau đó bơi ra ngoài ở phía sau tảng đá và lập tức lao vào làn
nước lạnh hơn, ánh sáng rực rỡ hơn của buổi trưa, tháng Chín năm 1940.
Những người khác trồi lên quanh
tôi, kêu thét lên và khum lấy tai, ai cũng cảm thấy áp lực đi kèm theo sự chuyển
dịch quá nhanh..
- Cứ như một chiếc máy bay cất
cánh vậy. - Tôi nói, cử động hàm để nhả không khí ra.
- Tớ chưa bao giờ bay trên máy
bay. - Horace nói, giũ nước khỏi vành mũ cậu ta.
- Cũng như cậu đang đi trên xa lộ
và ai đó hạ cánh cửa xe xuống ấy. - Tôi nói.
- Xa lộ là gì? - Olive hỏi.
- Thôi quên đi.
Emma suỵt bảo chúng tôi im lặng.
- Nghe xem!
Tôi có thể nghe tiếng chó sủa từ
đằng xa. Tiếng sủa có vẻ cách rất xa, nhưng âm thanh trong rừng sâu truyền đi rất
lạ, và khoảng cách có thể rất sai lệch.
- Chúng ta cần phải đi thật
nhanh. - Emma nói. - Trừ phi tớ bảo gì khác, từ giờ đừng ai phát ra âm thanh
nào nữa - bao gồm cả cô, thưa cô phụ trách!
- Tớ sẽ ném một quả trứng nổ vào
con chó đầu tiên lại gần chúng ta. - Hugh nói. - Điều đó sẽ dạy cho chúng biết
thế nào là săn đuổi người đặc biệt.
- Đừng có làm liều. - Bronwyn
nói. - Cầm một quả trứng mà không đúng cách thì có khả năng cậu sẽ làm tất cả
chúng nổ tung đấy.
Chúng tôi lên khỏi hồ và bắt đầu
quay lại qua khu rừng, Millard dò đường bằng tấm bản đồ nhàu nát của cô Wren.
Sau nửa giờ, chúng tôi tới chỗ con đường đất Addison đã chỉ ra từ trên đỉnh
tháp. Chúng tôi đứng trên chỗ vết lún của một chiếc xe goòng cũ trong khi
Millard nghiên cứu bản đồ, xoay ngang xoay dọc nó, nheo mắt nhìn những chỗ đánh
dấu nhỏ xíu trên đó. Tôi thò tay vào trong túi quần jean của mình tìm điện thoại,
cứ đinh ninh có thể mở ra một tấm bản đồ riêng - thói quen cũ - để rồi nhận ra
mình đang bấm lên một tấm kính hình chữ nhật tắt ngấm nhất quyết không chịu
sáng lên. Tất nhiên, cái điện thoại đã chết: bị ngấm nước, không được sạc pin,
và cách trạm phát tín hiệu di động gần nhất năm mươi năm. Cái điện thoại là vật
sở hữu duy nhất của tôi còn sót lại sau tai họa trên biển của chúng tôi, nhưng ở
đây nó hoàn toàn vô dụng, một vật thể xa lạ. Tôi ném nó vào rừng. Ba mươi giây
sau tôi cảm thấy một cơn hối hận bùng lên và chạy đi nhặt nó về. Vì những lý do
không hoàn toàn rõ ràng với mình, tôi vẫn chưa sẵn sàng vứt bỏ nó đi.
Millard gấp bản đồ lại và tuyên bố
thị trấn ở bên trái chúng tôi - một chuyến cuốc bộ kéo dài ít nhất năm hay sáu
giờ.
- Nếu chúng ta muốn tới nơi trước
khi trời tối thì tốt hơn nên khẩn trương lên.
Chúng tôi chưa đi bộ được bao lâu
thì Bronwyn để ý thấy một đám bụi bốc lên trên đường đằng sau chúng tôi, cách
khá xa.
- Có người đang tới. - Cô nói. -
Chúng ta nên làm gì đây?
Millard cởi áo khoác ra, ném vào bụi cỏ dại
bên rìa đường, biến thành người vô hình.
- Tớ khuyên các cậu nên tàng
hình. - Cậu ta nói. - Bằng bất cứ cách thức nào trong giới hạn khả năng của các
cậu.
Chúng tôi rời khỏi đường và nằm mọp
xuống khuất đằng sau một rặng cây bụi. Đám bụi tỏa rộng, và cùng với nó vang
lên tiếng lọc cọc của bánh xe gỗ và tiếng lóc cóc của móng ngựa.
Đó là một đoàn xe ngựa. Khi đoàn
xe ngựa lọc cọc và lóc cóc hiện ra từ đám bụi và bắt đầu đi ngang qua chỗ chúng
tôi, tôi thấy Horace há hốc miệng kinh ngạc còn Olive nở một nụ cười. Đó không
phải những chiếc xe chở hàng xám xịt tôi thường thấy ở Cairnholm, mà là thứ xe như
tới từ một gánh xiếc, được sơn đủ bảy sắc cầu vồng, nóc xe và những cánh cửa được
trang hoàng chạm trổ, được kéo bởi những con ngựa bờm dài, ngồi trên xe là những
người đàn ông và phụ nữ đeo đầy những chuỗi hạt cườm và choàng khăn màu sắc sặc
sỡ.
Nhớ lại những câu chuyện Emma kể
về những chuyến biểu diễn rong cùng cô Peregrine và những người khác, tôi quay
sang và hỏi.
- Họ có phải là người đặc biệt
không?
- Họ là người Digan. - cô đáp.
- Đó là tin tốt hay tin xấu vậy?
Cô nheo mắt lại.
- Chưa biết được.
Tôi có thể thấy Emma đang cân nhắc
một quyết định, và tôi tin chắc mình biết nó là gì. Thị trấn chúng tôi đang hướng
tới cách đây rất xa, mà những chiếc xe ngựa này đi nhanh hơn nhiều so với chúng
tôi đi bộ. Với đám xác sống và chó đang săn lùng chúng tôi, gia tăng tốc độ có
nghĩa là sự khác biệt giữa bị bắt và thoát được. Nhưng chúng tôi không biết những
người Digan này là ai, hay liệu chúng tôi có thể tin tưởng họ hay không.
Emma nhìn tôi.
- Cậu nghĩ thế nào? Bọn mình có
nên đi nhờ không?
Tôi nhìn những chiếc xe. Nhìn trở
lại Emma. Nghĩ xem đôi chân tôi sẽ cảm thấy thế nào sau sáu giờ đi bộ với đôi
giày vẫn còn ướt.
- Chắc chắn là nên rồi. - Tôi
nói.
Ra hiệu cho những người khác,
Emma chỉ vào chiếc xe sau cùng và ra hiệu chạy theo nó. Chiếc xe được tạo hình
như một ngôi nhà thu nhỏ, mỗi bên có một ô cửa sổ nhỏ và một cái bệ nhô ra đằng
sau như một bậc cửa, có lẽ vừa đủ rộng và sâu để chứa tất cả chúng tôi nếu
chúng tôi chen chúc sát vào nhau. Chiếc xe đang di chuyển nhanh, nhưng chúng
tôi vắt chân lên cổ chạy đuổi theo thì vẫn kịp, vì thế khi nó chạy qua và chúng
tôi đã nằm ngoài tầm mắt người đánh xe cuối cùng, chúng tôi lao ra khỏi bụi cây
và gấp gáp chạy theo sau nó. Emma leo lên đầu tiên, rồi chìa một bàn tay ra đỡ
người tiếp theo. Từng người một, chúng tôi kéo nhau lên và đứng yên vị vào những
chỗ gò bó ở dọc theo bậc cửa sau của chiếc xe ngựa, thận trọng làm việc đó thật
lặng lẽ để người đánh xe khỏi nghe thấy.
Chúng tôi đi như thế một lúc lâu,
cho tới khi tai chúng tôi ong ong vì tiếng bánh xe lọc cọc, quần áo bám đầy bụi,
đến khi mặt trời ban trưa đã chạy ngang qua bầu trời và sà xuống đằng sau những
ngọn cây chĩa lên như những bức vách của một hẻm núi xanh lục khổng lồ ở hai
bên chúng tôi. Tôi liên tục liếc nhìn khu rừng, sợ rằng vào bất cứ lúc nào bọn
xác sống cùng lũ chó của chúng cũng có thể ập tới tấn công chúng tôi. Nhưng suốt
nhiều giờ chúng tôi đã không thấy bất cứ ai - không xác sống, thậm chí không
khách lữ hành nào khác. Như thể chúng tôi đãtới một vùng đất bị bỏ hoang.
Thỉnh thoảng, đoàn xe dừng lại và
tất cả chúng tôi đều nín thở, sẵn sàng bỏ chạy hay chiến đấu, tin chắc chúng
tôi sắp bị phát hiện. Chúng tôi cử Millard đi thám thính, cậu ta rón rén xuống
xe thì phát hiện những đám người Digan chỉ đang duỗi chân duỗi tay hay đóng lại
một cái móng ngựa, và chúng tôi lại tiếp tục di chuyển. Cuối cùng, tôi không
còn lo lắng về chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi bị phát giác nữa. Những người
Digan có vẻ vô hại và cũng đã mệt nhoài vì đi đường. Các ông các bà có thể làm ơn chia sẻ một mẩu bánh mì được không?
May đâu biết đâu họ lại cho chúng tôi ăn tối và đưa chúng tôi đến tận ga tàu hỏa.
Không lâu sau đó, giả thiết của
tôi được mang ra thử thách. Những chiếc xe đột ngột rẽ ra khỏi đường và dừng lại
ở một trảng trống nhỏ. Bụi chưa kịp lắng xuống thì một người đàn ông to con bước
tới đi vòng ra phía sau chiếc xe chúng tôi đang trốn. Ông ta đội trên đầu một
cái mũ lưỡi trai mềm, hàng ria rậm, hai khóe miệng bị kéo xệch xuống tạo thành
vẻ mặt dữ tợn.
Bronwyn giấu cô Peregrine vào
trong túi áo khoác của mình, trong khi Emma nhảy xuống xe và thể hiện tốt nhất
bộ dạng của một đứa trẻ mồ côi khốn khổ.
- Thưa ông, chúng cháu cầu xin
ông rủ lòng thương! Nhà chúng cháu bị trúng bom, ông thấy đấy, bố mẹ chúng cháu
mất cả rồi, và chúng cháu đang khổ sở vì lạc đường...
- Câm mõm lại! - Người đàn ông gầm
lên. - Xuống khỏi đó, tất cả chúng mày!
Đó là một mệnh lệnh, không phải lời
đề nghị, được nhấn mạnh thêm bởi con dao được trang trí nhưng trông thật đe dọa
ông ta múa trên tay.
Chúng tôi nhìn nhau, không chắc
phải làm gì. Liệu chúng tôi có nên tấn công ông ta rồi bỏ chạy, và nhiều khả
năng để lộ bí mật của mình trong khi làm thế - hay tiếp tục làm ra vẻ bình thường
lâu hơn chút nữa và đợi xem ông ta làm gì? Rồi có thêm vài chục người nữa xuất
hiện, đổ ra từ những chiếc xe của họ để đứng dàn hàng quanh chúng tôi thành một
vòng rộng, nhiều người trong số họ cũng cầm dao. Chúng tôi đã bị bao vây, lựa
chọn cho chúng tôi vụt giảm hẳn.
Những người đàn ông đều đầu tóc
bù xù xám xịt với đôi mắt sắc sảo, mặc đồ sẫm màu dày nặng được may để giấu đi
hàng lớp bụi đường. Những người phụ nữ mặc váy rộng sáng màu, mái tóc dài của họ
được giữ lại trong khăn trùm đầu. Những đứa trẻ tụ tập lại đằng sau và chen vào
giữa họ. Tôi cố so sánh những điều ít ỏi tôi biết về người Digan với những
khuôn mặt trước mắt mình. Liệu có phải họ sắp tàn sát chúng tôi - hay chỉ là bản
chất họ vốn cục cằn?
Tôi nhìn Emma tìm manh mối. Cô đứng
áp hai bàn tay vào ngực, không giơ ra như lúc định tạo lửa. Nếu cô không định tấn
công họ, tôi quyết định cũng sẽ không làm thế.
Tôi xuống khỏi xe như người đàn
ông đã yêu cầu, hai tay giơ cao lên đầu. Horace và Hugh làm theo, rồi đến những
người khác - tất cả trừ Millard, cậu ta đã lỉnh đi mà không ai nhìn thấy, và chắc
đang núp gần đó, chờ đợi và quan sát.
Người đàn ông đội mũ mềm, người
tôi đoán là thủ lĩnh của đoàn người Digan, bắt đầu ào ào trút câu hỏi về phía
chúng tôi.
- Chúng mày là ai? Chúng mày từ
đâu tới? Bố mẹ chúng mày đâu?
- Chúng cháu từ phía Tây tới, -
Emma bình tĩnh đáp. - Từ một hòn đảo ngoài khơi. Chúng cháu là trẻ mồ côi, như
cháu đã giải thích rồi. Nhà của chúng cháu đã bị bom phá trụi trong một cuộc
không kích, và chúng cháu buộc phải chạy trốn. Chúng cháu đã phải chèo thuyền
vào tận đất liền và suýt chết đuối. - Cô cố gắng nặn ra vài giọt nước mắt. - Chúng
cháu chẳng còn gì cả, - Emma thút thít. - Chúng cháu đã bị lạc trong rừng nhiều
ngày không có gì ăn, không còn quần áo nào khác ngoài những gì mặc trên người.
Chúng cháu thấy đoàn xe của ông đi ngang qua nhưng sợ quá nên không dám lộ diện.
Chúng cháu chỉ muốn đi nhờ tới thị trấn…
Người đàn ông quan sát cô, những
nếp nhăn cau có trên mặt ông ta càng hằn sâu thêm.
- Tại sao chúng mày lại buộc phải
chạy khỏi hòn đảo sau khi nhà chúng mày bị bom lạc? Và tại sao chúng mày lại chạy
vào rừng thay vì đi theo bờ biển?
Enoch lên tiếng.
- Không có lựa chọn nào khác. Chúng cháu bị săn đuổi.
Emma lừ mắt nhìn cậu ta nghiêm khắc như muốn nói: Để tớ lo chuyện này.
- Bị ai săn đuổi? - Người thủ lĩnh Digan hỏi.
- Những người xấu. - Emma đáp.
- Những người mang súng. - Horace nói. - Mặc như binh lính,
dù chúng thực sự không phải là lính.
Một người phụ nữ choàng khăn màu vàng sáng bước tới trước.
- Nếu quân lính truy lùng chúng, thì có nghĩa chúng là rắc rối
chúng ta không cần đến. Tống khứ chúng đi, Bekhir.
- Hay trói chúng vào thân cây và bỏ chúng lại! - Một người
đàn ông bộ dạng lòng khòng nói.
- Không! - Olive hét lên. - Chúng cháu cần tới London trước
khi quá trễ!
Người thủ lĩnh nhướng một bên mày.
- Quá trễ để làm gì?
Chúng tôi đã không hề khiến ông ta động lòng trắc ẩn mà chỉ
khiến ông ta tò mò.
- Chúng tao sẽ không làm gì cho tới lúc biết được chúng mày
là ai. - Ông ta nói. - Và chúng mày đáng giá thế nào.
* * *
Mười người đàn ông cầm dao lưỡi dài giải chúng tôi về phía một
chiếc xe sàn phẳng không thành chở phía trên một chiếc chuồng to. Thậm chí từ
xa tôi đã có thể thấy đó là một cái chuồng để dành nhốt động vật, dài sáu mét,
rộng ba mét, được làm từ những song sắt dày.
- Các ông không định nhốt chúng cháu vào trong chứ ạ? -
Olive hỏi.
- Chỉ nhốt tới khi chúng tao quyết định được xem sẽ làm gì với
chúng mày thôi. - Người thủ lĩnh nói.
- Không, các ông không được làm thế. - Olive hét lên. - Chúng
cháu phải tới London, và thật nhanh!
- Và vì sao phải thế?
- Một trong chúng cháu bị ốm. - Emma nói, ném về phía Hugh một
ánh mắt đầy ngụ ý. - Chúng cháu cần tìm bác sĩ cho cậu ấy.
- Chúng mày cần phải tới tận London vì một ông bác sĩ. - Một
người đàn ông Digan nói. - Jebbiah là một bác sĩ. Phải không nào, Jebbiah?
Một người đàn ông với những vết thương đóng sẹo xù xì chạy
dài hai bên má bước tới trước.
- Đứa nào trong chúng mày bị ốm?
- Hugh cần một bác sĩ chuyên khoa. - Emma nói. - Cậu ấy bị một
bệnh trạng hiếm gặp. Ho do bị ong đốt.
Hugh đưa một bàn tay áp lên cổ như thể bị đau rồi ho, và một
con ong bắn vọt ra khỏi miệng cậu ta. Một vài người Digan há hốc miệng, và một
cô bé giấu mặt vào váy của mẹ mình.
- Đó là một trò lừa đảo! - Người đàn ông được gọi là bác sĩ
nói.
- Đủ rồi. - Thủ lĩnh của người Digan nói. - Chui vào chuồng,
tất cả chúng mày.
Bọn họ thúc chúng tôi lên một tấm ván dốc thoải bắc lên cái
chuồng. Chúng tôi xúm lại ở đầu dưới tấm ván. Không ai muốn đi đầu tiên.
- Chúng mình không thể để bọn họ làm việc này! - Hugh thì
thào.
- Cậu đang đợi gì vậy? - Enoch hét lên với Emma. - Đốt họ
đi!
Emma lắc đầu và thì thầm.
- Có quá nhiều người.
Cô đi đầu tiên lên tấm ván và chui vào chuồng. Phần mái lắp
song sắt của cái chuồng khá thấp, sàn rải dày cỏ khô có mùi khó ngửi. Khi tất cả
chúng tôi đã vào trong, người thủ lĩnh đóng sầm cửa lại, khóa trái nó sau lưng
chúng tôi rồi bỏ chìa vào túi áo.
- Không ai được lại gần chúng! - Ông ta hét lớn với bất cứ
ai trong tầm nghe. - Chúng nó có thể là phù thủy hay tệ hơn thế.
- Phải, bọn tôi là thế đấy! - Enoch nói qua các song sắt. - Giờ
hãy để chúng tôi đi, nếu không chúng tôi sẽ biến con cái các người thành lợn
lòi!
Người thủ lĩnh bật cười trong lúc bước xuống tấm ván. Trong
lúc đó, những người Digan khác rút lui ra khoảng cách an toàn và bắt đầu đóng
trại, cắm lều và bắc bếp. Chúng tôi ngồi sụp xuống đống cỏ khô, cảm thấy thất bại
và tuyệt vọng.
- Để ý nhìn cẩn thận. - Horace nói. - Chỗ nào cũng có phân
gia súc đấy!
- Ôi dào, chuyện đó thì có gì quan trọng, Horace? - Emma
nói. - Chẳng ai thèm bận tâm nếu quần áo cậu bẩn cả.
- Tớ thì có. - Horace đáp.
Emma đưa hai bàn tay lên ôm mặt. Tôi ngồi xuống cạnh cô và cố
nghĩ ra điều gì đó phấn chấn để nói, nhưng chẳng nghĩ ra được gì.
Bronwyn mở áo khoác ra để cô Peregrine có thêm ít không khí
trong lành, còn Enoch quỳ cạnh bà, ghé tai như thể lắng nghe điều gì đó.
- Nghe thấy không? - Cậu ta hỏi.
- Cái gì? - Bronwyn hỏi lại.
- Tiếng mạng sống của cô Peregrine đang trôi dần đi! Emma,
đáng ra cậu phải đốt cháy thui mặt đám Digan đó trong khi cậu còn có cơ hội.
- Chúng ta đã bị bao vây! - Emma nói. - Sẽ có vài người
trong chúng ta bị thương trong cuộc ẩu đả. Hay có thể bị giết. Tớ không thể mạo
hiểm chuyện đó.
- Vậy là thay vì thế cậu mạo hiểm tính mạng của cô
Peregrine!
- Enoch, để cậu ấy yên. - Bronwyn nói. - Quyết định cho tất
cả mọi người là việc không dễ dàng gì. Không phải cứ đến lúc cần lựa chọn chúng
ta đều có thể biểu quyết.
- Vậy thì các cậu nên để tớ quyết định cho tất cả mọi người.
- Enoch đáp.
Hugh khịt mũi.
- Chúng ta hẳn đã bị giết từ lâu rồi nếu cậu là người chỉ
huy.
- Nghe này, bây giờ chuyện đó không quan trọng nữa. - Tôi
nói. - Chúng ta cần rời khỏi cái chuồng này và tới được thị trấn đó. Đáng ra giờ
này chúng ta đã gần tới đích hơn nhiều rồi nếu không bám lên xe đi trộm ngay từ
đầu, vì thế không cần phải than tiếc chỗ sữa còn chưa được vắt. Chúng ta chỉ cần
nghĩ ra cách gì đó để trốn thoát.
Vậy là chúng tôi suy nghĩ, rất nhiều ý tưởng đã nảy ra,
nhưng dường như chẳng có cái nào khả thi.
- Biết đâu Emma có thể đốt thủng cái sàn này. - Bronwyn đề
xuất. - Nó được làm bằng gỗ.
Emma dọn sạch cỏ khô khỏi một mảng sàn và gõ xuống đó.
- Dày quá. - Cô khổ sở nói.
- Wyn, cậu có thể bẻ cong những cái song kia ra không? - Tôi
hỏi.
- Có thể. - Cô nói. - Nhưng khi đám Digan còn đang kè kè gần
đây thì không được. Bọn họ sẽ thấy và cầm dao chạy đến.
- Chúng ta cần kín đáo trốn đi chứ không phải phá chuồng ra.
- Emma nói.
Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng thì thầm từ bên ngoài
song sắt.
- Các cậu quên mất tớ rồi à?
- Millard! - Olive thốt lên, gần như bay vọt lên khỏi đôi
giày vì phấn khích. - Cậu đã ở đâu thế?
- Tìm hiểu tình hình xung quanh. Và đợi cho mọi thứ lắng xuống.
- Cậu có thể lấy cắp chìa khóa cho bọn mình được không? -
Emma hỏi, gõ gõ lên cửa chuồng khóa trái. - Tớ thấy người thủ lĩnh bỏ nó vào
túi áo.
- Rình rập và xoáy đồ là sở trường của tớ. - Cậu ta cam đoan
với chúng tôi, và lỉnh đi sau khi nói xong.
* * *
Từng phút chậm chạp trôi qua. Rồi nửa giờ. Rồi một giờ. Hugh
đi đi lại lại dọc theo cái chuồng, một con ong bồn chồn lượn vòng quanh đầu cậu
ta.
- Sao cậu ta lâu thế? - Hugh lầm bầm.
- Nếu cậu ta không sớm trở lại, tớ sẽ lấy trứng ra ném đấy.
- Enoch nói.
- Làm thế đi, cậu sẽ khiến tất cả chúng ta bị giết hết. -
Emma nói. - Chúng ta đang nằm trong rọ ở đây. Một khi khói tan đi, bọn họ sẽ xẻ
thịt sống chúng ta.
Vậy là chúng tôi ngồi đó và đợi thêm, theo dõi đám người
Digan, đám Digan cũng nhìn lại. Mỗi phút trôi qua cùng giống như thêm một cái
đinh nữa đóng xuống quan tài của cô Peregrine. Tôi nhận ra mình đang nhìn bà chằm
chằm, như thể bằng cách nhìn thật kỹ tôi có thể phát hiện ra những thay đổi đã
xảy đến với bà - nhìn thấy những đốm lửa còn sót lại của nhân tính bên trong bà
từ từ lụi tàn. Nhưng bà trông vẫn giống hệt như trước, chỉ có điều dường như
bình tĩnh hơn, ngủ thiếp đi trên lớp cỏ
khô bên cạnh Bronwyn, lồng ngực nhỏ nhắn phủ đầy lông vũ của bà phập phồng nhè
nhẹ. Bà dường như không ý thức được rắc rối chúng tôi đang lâm vào, hay quãng
thời gian đếm lùi đang lơ lửng treo trên đầu mình. Có lẽ việc bà có thể ngủ vào
một thời điểm như lúc này cũng đủ là bằng chứng cho thấy bà đang thay đổi. Cô
Peregrine ngày trước hẳn đã vô cùng bồn chồn lo lắng.
Sau đó, dòng suy nghĩ của tôi trôi sang bố mẹ tôi, vẫn luôn
như vậy khi tôi không thể kiểm soát được tâm trí mình. Tôi cố hình dung ra
khuôn mặt họ lần cuối tôi nhìn thấy. Những
mảnh ghép nhỏ gắn lại với nhau trong tâm trí tôi: bộ râu ngắn lưa thưa đã mọc
lên trên cằm bố tôi sau vài ngày trên đảo; hình ảnh mẹ tôi mân mê nhẫn cưới một
cách vô thức khi bố tôi nói quá lâu về thứ gì đó bà không quan tâm; đôi mắt
nhanh nhẹn của bố tôi, luôn dõi theo đường chân trời trong cuộc tìm kiếm bất tận
những con chim của ông.
Giờ đây đôi mắt đó đang dõi tìm tôi.
Khi màn đêm buông xuống, khu trại bừng lên nhộn nhịp quanh
chúng tôi. Đám người Digan trò chuyện, cười đùa, và khi một đám trẻ con chơi một
bài hát bằng những chiếc kèn co và đàn violon méo mó mòn vẹt, bọn họ nhảy. Giữa
các bài hát, một cậu con trai từ đám thiếu niên lén đi vòng qua đằng sau cái
chuồng nhốt chúng tôi, cầm trên tay một cái chai.
- Cái này dành cho người ốm. - Cậu ta vừa nói vừa nhìn ra đằng
sau canh chừng.
- Ai cơ? - Tôi hỏi, cậu thiếu niên bèn hất hàm về phía Hugh,
cậu này đang nằm rũ ra trên sàn, co rúm lại vì ho, thật khéo quá.
Cậu nhóc tuồn cái chai vào qua các song sắt. Tôi mở nút
chai, ngửi thử một cái, và thiếu chút nữa ngã vật ra. Cái chai có mùi như nhựa
thông trộn với phân ủ.
- Cái gì thế này? - Tôi thốt lên.
- Tao chỉ biết là nó công hiệu. - Cậu ta lại ngó ra sau. - Được
rồi, tao đã làm một việc cho bọn mày. Giờ bọn mày nợ tao. Vậy hãy nói cho tao
biết - bọn mày đã phạm phải tội lỗi gì? Bọn mày là lũ trộm hả? - Sau đó, cậu ta
hạ giọng xuống và hỏi. - Hay bọn mày đã giết ai?
- Cậu ta nói gì thế? - Bronwyn hỏi.
Chúng tôi chẳng giết
ai cả. Thiếu chút nữa tôi đã nói thế, nhưng rồi hình ảnh thân người Golan lộn
nhào rơi xuống một ghềnh đá lóe lên trong đầu tôi, tôi bèn im lặng.
Emma lên tiếng thay tôi.
- Chúng tôi chẳng giết ai cả!
- À, bọn mày chắc chắn phải làm gì đó, - Cậu thiếu niên nói.
- Nếu không tại sao người ta lại treo giải thưởng để bắt bọn mày chứ?
- Có giải thưởng sao? - Enoch hỏi.
- Chắc chắn rồi. Người ta treo thưởng cả đống tiền.
- Ai cơ?
Cậu thiếu niên nhún vai.
- Và các người định giao nộp chúng tôi? - Olive hỏi.
Cậu thiếu niên nhếch môi.
- Tao không biết chúng tao có dự định thế hay không. Mấy ông
lớn đang cân nhắc. Dù tao dám nói họ không tin lũ người đã treo giải thưởng lắm.
Nhưng nói gì thì nói, tiền vẫn là tiền, vả lại họ cũng không thích thú gì chuyện
bọn mày không chịu trả lời những câu hỏi họ hỏi.
- Chúng tôi từ đâu tới ư? - Emma kiêu hãnh nói. - Ai lại hạch
hỏi những người tìm đến nhờ mình giúp họ.
- Và cũng không nhốt họ vào chuồng! - Olive nói.
Ngay lúc đó, một tiếng nổ vang lên giữa khu cắm trại. Cậu
nhóc Digan mất thăng bằng ngã nhào từ trên tấm ván xuống cỏ, còn chúng tôi thì
nằm phục xuống trong khi nồi chảo từ một bếp lửa bật tung lên bay vèo vèo trong
không khí. Người phụ nữ Digan đang trông bếp vừa cắm đầu chạy thục mạng vừa la
tướng lên:“Quân giết người!”, váy bốc
cháy, và chắc bà ta đã chạy tuốt ra tận biển nếu không có ai đó cầm một xô nước
cho ngựa uống lên và giội nó vào bà ta.
Một khoảnh khắc sau, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân của
một cậu bé vô hình vang lên trên tấm vàn bên ngoài chuồng.
- Đó là những gì xảy ra khi người ta cố thử làm ốp lết từ một
quả trứng đặc biệt! - Millard nói, vừa thở không ra hơi vừa cười phá lên.
- Là cậu làm à? - Horace hỏi.
- Mọi thứ quá trật tự và yên ắng... đi móc túi thì không được
thiên thời địa lợi cho lắm! Vậy là tớ để lẫn một quả trứng của bọn mình vào
trong trứng của họ, et voilà* ! -
Millard làm một chiếc chìa khóa xuất hiện như từ hư không. - Người ta sẽ ít có
khả năng nhận thấy bàn tay tớ thò vào trong túi họ hơn khi bữa tối vừa nổ tung
văng vào mặt họ.
[* Và thế đấy (tiếng Pháp)]
- Cậu hơi bị lâu rồi đấy. - Enoch nói. - Giờ thì đưa bọn tớ
ra khỏi đây đi.
Nhưng Millard còn chưa kịp tra chìa khóa vào ổ khóa cửa, cậu
nhóc Digan đứng dậy hét tướng lên.
- Cứu với! Chúng nó đang muốn trốn!
Cậu ta đã nghe thấy tất cả - nhưng trong cơn hỗn loạn sau tiếng
nổ, hầu như chẳng ai để ý tới tiếng la hét của cậu ta.
Millard xoay chìa trong ổ khóa. Cánh cửa không mở.
- Ôi, khỉ thật! - Cậu ta nói. - Chẳng lẽ tớ lấy nhầm chìa
khóa rồi.
- Á á á! - Cậu nhóc Digan hét lên, chỉ tay vào khoảng không
nơi giọng nói của Millard vang lên. - Có ma!
- Ai đó làm ơn bắt nó im đi được không? - Enoch nói.
Bronwyn làm theo, thò tay ra khỏi chuồng túm lấy cánh tay cậu
nhóc, đoạn nhấc bổng cậu ta lôi lên kéo sát vào song sắt.
- Cíííuu! - Cậu ta
la toáng lên. - Chúng nó mmm...
Bronwyn đưa một bàn tay bịt miệng cậu nhóc, nhưng cô đã làm
cậu ta im lặng quá muộn.
- Galbi! - Một người phụ nữ hét lên. - Thả nó ra, lũ man rợ!
Và đột nhiên, không hề chủ định, chúng tôi đã bắt một con
tin. Đám đàn ông Digan lao về phía chúng tôi, những con dao lóe sáng trong ánh
lửa đang lụi dần.
- Cậu đang làm gì thế? - Millard kêu lên. - Buông cậu ta ra,
không thì họ giết chúng ta bây giờ!
- Không, đừng! - Emma nói, rồi cô hét lớn. - Thả chúng tôi
ra, nếu không cậu ta sẽ chết!
Những người Digan vây quanh chúng tôi, lớn tiếng đe dọa.
- Nếu chúng mày làm tổn hại nó theo bất cứ cách nào. - Người
thủ lĩnh la lớn. - Tao sẽ giết tất cả chúng mày bằng tay không.
- Lùi lại! - Emma nói. - Chỉ cần để chúng tôi đi, chúng tôi
sẽ không làm hại ai hết.
Một người trong đám đàn ông chạy về phía chuồng, và Emma,
theo bản năng, đưa hai bàn tay ra, và làm bùng lên một quả cầu lửa rừng rực
cháy giữa chúng. Đám đông thảng thốt kinh ngạc, người đàn ông kia khựng lại.
- Giờ thì cậu làm to chuyện rôì! - Enoch rít lên. - Bọn họ sẽ
treo cổ chúng ta lên vì là phù thủy!
- Tớ sẽ thiêu sống kẻ đầu tiên thử làm điều đó! - Emma hét
lên, mở rộng khoảng cách giữa hai lòng bàn tay để làm quả cầu lửa lớn thêm hơn.
- Nào, hãy cho bọn họ biết bọn họ đang gây chuyện với ai!
Đã đến lúc thể hiện một màn. Bronwyn giơ tay ra trước tiên:
bằng một bàn tay, cô nhấc cậu nhóc lên cao hơn nữa, hai bàn chân cậu ta đá đá
trong không khí, rồi bằng bàn tay còn lại cô chộp lấy một trong những song sắt
trên nóc chuồng và bắt đầu uốn cong nó. Hugh rúc đầu vào giữa các thanh song và
thả một hàng ong ra từ khuôn miệng há to của cậu, rồi sau đó Millard, vốn đã chạy
xa khỏi chuồng khi cậu nhóc Digan phát hiện ra cậu ta, hét to từ đâu đó đằng
sau đám đông.
- Và nếu các người nghĩ có thể đấu lại họ, thì có nghĩa là
các ngươi chưa từng gặp ta! - rồi cậu ném một quả trứng lên không.
Quả trứng vẽ thành một đường vòng cung lao qua trên đầu đám
người, rơi xuống một chỗ trống gần đó phát tiếng nổ đinh tai, làm bụi đất bắn
tung lên tới tận các ngọn cây.
Và khi khói tan, một khoảnh khắc nín thở trôi qua, không ai
động đậy không nói gì. Lúc đầu tôi nghĩ màn trình diễn của chúng tôi đã làm những
người Digan chết đứng vì kinh ngạc - nhưng sau đó, khi tiếng oang oang trong
tai tôi đã lặng đi, tôi vỡ lẽ là họ đang lắng nghe thứ gì đó. Rồi sau đấy cả
tôi cũng thế.
Từ phía con đường đang tối dần vang lên tiếng động cơ. Một cặp
đèn pha bật sáng xuất hiện trong tầm mắt, thoắt ẩn thoắt hiện phía sau những
lùm cây theo con đường. Tất cả mọi người, Digan và đặc biệt, cùng quan sát
trong khi ánh đèn đi qua chỗ rẽ vào trảng trống nơi chúng tôi đang đứng - rồi
di chuyển chậm dần, rồi quay trở lại. Một chiếc xe quân sự mui bạt nổ máy lăn
bánh về phía chúng tôi. Từ trong xe vọng ra những tiếng la hét đầy tức giận và
tiếng chó sủa, cổ họng chúng đã khàn đặc vì sủa nhưng không thể ngừng lại vì
lúc này chúng đã lại đánh hơi ra chúng tôi.
Đó là đám xác sống đã săn lùng chúng tôi - còn chúng tôi ở
đây, trong một cái chuồng, thậm chí không thể chạy trốn.
Emma dập tắt ngọn lửa trong tay cô bằng một cái vỗ tay.
Bronwyn thả cậu nhóc Digan xuống, và cậu ta lảo đảo chạy ra xa. Đám người Digan
chạy trở lại phía những chiếc xe ngựa của họ hay vào trong rừng. Chỉ trong nháy
mắt, chúng tôi bị bỏ lại một mình, dường như đã bị lãng quên.
Thủ lĩnh của họ sải bước về phía chúng tôi.
- Làm ơn mở cửa chuồng ra! - Emma nài nỉ ông ta.
Người đàn ông tảng lờ cô.
- Chúng mày nấp xuống dưới lớp cỏ khô và đừng gây tiếng động
gì! - Người đàn ông nói. - Và đừng có giở trò ma thuật nào ra - trừ phi chúng
mày thích đi theo chúng hơn.
Không còn thời gian để hỏi gì thêm. Điều cuối cùng chúng tôi
thấy trước khi mọi thứ trở nên đen kịt là hai người đàn ông Digan chạy về phía
chúng tôi, cầm trên tay một tấm vải dầu. Họ trùm tấm vải lên nóc chuồng. Bóng tối
lập tức bao trùm.
* * *
Tiếng những đôi ủng vang lên bên ngoài chuồng, nặng nề, dữ dội,
như thể đám xác sống tìm cách hành hạ cả chính mặt đất chúng bước lên. Chúng
tôi làm theo chỉ dẫn và vùi mình dưới lớp cỏ khô hôi hám.
Gần đó, tôi nghe thấy một gã xác sống đang nói chuyện với
người thủ lĩnh Digan.
- Người ta đã phát hiện ra một nhóm trẻ con trên con đường
này sáng hôm nay. - Gã xác sống nói, giọng hắn nhanh, gãy gọn, khẩu âm rất lạ -
không ra Anh, không ra Đức. - Ai bắt được chúng sẽ được thưởng đấy.
- Cả ngày nay chúng tôi chưa gặp ai cả, thưa ngài. - Người
thủ lĩnh nói.
- Đừng để vẻ mặt ngây thơ của chúng đánh lừa các vị. Chúng
là những kẻ phản bội của cuộc chiến đấu. Làm gián điệp cho Đức. Hình phạt cho
việc che giấu chúng...
- Chúng tôi chẳng che giấu ai hết. - Người thủ lĩnh cộc cằn
nói. - Các ngài tự đi kiểm tra xem.
- Tao sẽ làm thế. - Gã xác sống nói. - Và nếu chúng tao phát
hiện chúng ở đây, tao sẽ cắt lưỡi mày, ném cho con chó của tao ăn. - Hắn đùng
đùng bước đi.
- Thở. Cũng. Đừng.
- Người thủ lĩnh khẽ thì thầm với chúng tôi, rồi sau đó tiếng bước chân của ông
ta xa dần.
Tôi băn khoăn tự hỏi tại sao ông ta lại nói dối vì chúng
tôi, nếu cân nhắc tới những hậu quả đám xác sống có thể gây ra với đồng bào của
ông ta. Có lẽ là do kiêu hãnh, hay sự khinh miệt thâm căn cố đế với chính quyền
- hay, tôi nghĩ thầm và rùng mình, có thể đám người Digan chỉ muốn có được sự
thỏa mãn từ việc tự tay giết chúng tôi.
Chúng tôi có thể nghe thấy khắp quanh mình tiếng đám xác sống
đang tản ra khắp khu trại, đá thứ nọ hất thứ kia, lật mở những tấm cửa bạt, xô
đẩy những người Digan. Một đứa trẻ hét lên, rồi một người đàn ông giận dữ phản
kháng, nhưng bị chặn lại ngay bởi tiếng gỗ đập vào xương thịt. Thật khổ sở khi
phải nằm đó lắng nghe người khác bị hành hạ - cho dù cũng chính những người đó
mới chỉ vài phút trước đã sẵn sàng xé chúng tôi thành từng mảnh.
Từ khóe mắt tôi thấy Hugh nhô lên khỏi cỏ khô và bò tới chỗ
cái rương của Bronwyn. Cậu ta đưa ngón tay lên chốt khóa và bắt đầu mở nắp
rương lên, nhưng Bronwyn chặn cậu ta lại.
- Cậu đang làm gì vậy? - Cô hỏi bằng khẩu hình.
- Cần tấn công chúng trước khi chúng bắt được bọn mình!
Emma chống khuỷu tay nhổm dậy khỏi lớp cỏ khô rồi lăn người
về phía họ, tôi cũng nhích lại gần hơn để lắng nghe.
- Đừng điên! - Emma nói. - Nếu bây giờ chúng ta ném trứng,
chúng sẽ bắn chúng ta nát bét.
- Vậy thì làm thế nào đây? - Hugh hỏi. - Chúng ta cứ nằm im
đây cho tới khi chúng tìm ra chúng ta sao?
Chúng tôi tụm lại quanh cái rương, thì thầm trao đổi.
- Hãy đợi đến khi chúng mở khóa cửa. - Enoch nói. - Sau đó tớ
sẽ ném một quả trứng qua song sắt đằng sau chúng ta. Điều đó sẽ làm đám xác
sông phân tâm đủ lâu để Bronwyn đập vỡ sọ bất cứ kẻ nào bước vào trong chuồng đầu
tiên, và giúp những người còn lại trong chúng ta có thời gian chạy ra. Phân tán
ra ngoài rìa khu trại, sau đó quay lại và ném quả trứng của mỗi người vào ngọn
lửa chính giữa trại. Tất cả những ai có mặt trong vòng bán kính ba mươi mét sẽ
chỉ còn là ký ức.
- Quỷ tha ma bắt. - Hugh nói. - Như thế có vẻ ổn đấy.
- Nhưng có trẻ con trong trại! - Bronwyn nói.
Enoch đảo mắt chán nản.
- Hoặc ta có thể lo lắng đến những tổn thất đi kèm và chạy
trốn vào trong rừng, mặc cho đám xác sống và lũ chó của chúng tóm chúng ta từng
người một. Nhưng nếu chúng ta dự định tới London - hay sống qua tối nay - tớ
không cổ xúy cho việc đó đâu.
Hugh vỗ lên bàn tay Bronwyn, lúc này đang che trên chốt
rương.
- Mở nó ra. - Cậu ta nói. - Phân phát chúng cho mọi người.
Bronwyn do dự.
- Tớ không thể. Tớ không thể giết những đứa trẻ đã không làm
gì hại chúng ta.
- Nhưng chúng ta không có lựa chọn. - Hugh thì thầm.
- Cậu luôn có lựa chọn. - Bronwyn nói.
Sau đó chúng tôi nghe thấy một con chó gầm gừ rất gần đáy
chuồng, rồi im bặt. Một khoảnh khắc sau, một quầng đèn bấm chiếu vào mặt ngoài
tấm vải dầu.
- Lột tấm vải này xuống! - Ai đó nói. Tôi đoán là kẻ đã dẫn
con chó tới.
Con chó sủa lên, cái mũi sục sạo để lách xuống dưới tấm vải
dầu và ngóc lên lách qua những song sắt.
- Lại đây! - gã quản chó hô lớn. - Chúng tôi đã tìm thấy một
thứ.
Tất cả chúng tôi cùng nhìn Bronwyn.
- Làm ơn đi. - Hugh nói. - Ít nhất hãy để bọn tớ tự vệ.
- Đó là cách duy nhất. - Enoch nói.
Bronwyn thở dài, bỏ tay ra khỏi chốt rương. Hugh gật đầu cảm
ơn và ra mở nắp rương lên. Tất cả chúng tôi đều thò tay vào lấy một quả trứng
ra từ giữa những chiếc áo len xếp chồng lên nhau - trừ Bronwyn. Sau đó, chúng
tôi đứng lên, quay người đối diện với cửa chuồng, trứng trong tay, sẵn sàng cho
điều không tránh khỏi.
Thêm nhiều đôi ủng bước về phía chúng tôi. Tôi cố lên dây
cót tinh thần cho điều sắp đến. Chạy,
tôi tự nhủ. Và đừng nhìn lại, sau đó ném
trứng.
Nhưng một khi biết những người vô tội sẽ chết, liệu tôi có
thể thực sự làm điều đó không? Cho dù để cứu mạng mình? Nếu tôi chỉ ném quả trứng
vào một đám cỏ rồi chạy vào rừng thì sao nhỉ?
Một bàn tay cầm lấy một phía rìa tấm vải dầu và kéo. Tấm vải
bắt đầu trượt đi.
Sau đó, khi sắp sửa để lộ chúng tôi, nó dừng lại.
- Mày giở trò gì vậy? - tôi nghe thấy gã quản chó nói.
- Nếu là ông tôi sẽ tránh thật xa cái chuồng, - một giọng
nói khác cất lên - của một người Digan.
Tôi có thể thấy nửa bầu trời lộ ra trên đầu chúng tôi, những
vì sao nhấp nháy chiếu sáng xuống qua các cành sồi.
- Thế à? Vì sao phải thế? - Gã quản chó hỏi.
- Ông lão Lông Máu vài ngày nay chưa được cho ăn đâu. - người
Digan nói. - Thường thì nó không quan tâm đến mùi vị thịt người, nhưng khi đã
đói như lúc này ông lão cũng không kén chọn thế nữa đâu!
Tiếp theo một âm thanh vang lên làm tôi phải nín thở - tiếng
gầm của một con gấu khổng lồ.
Và thật không thể hiểu nổi, dường như tiếng gầm đó lại xuất
phát từ giữa chúng tôi, bên trong cái chuồng. Tôi nghe gã quản chó bật rủa kinh
ngạc, rồi vội vàng chạy xuống khỏi tấm vải, lôi theo cả con chó đang ăng ẳng của
hắn.
Tôi không thể hình dung nổi bằng cách nào một con gấu lại
chui được vào trong chuồng, chỉ cần biết là tôi phải tránh xa khỏi nó, vì vậy
tôi ép sát người vào các song sắt. Bên cạnh mình, Olive đang ấn nắm tay nhỏ nhắn
của cô vào miệng để khỏi bật tiếng thét lên.
Bên ngoài, những tên lính khác cười nhạo gã quản chó.
- Đồ ngốc! - Hắn bối rối nói. - Chỉ có đám Digan mới giữ một
con vật như thế giữa trại của chúng.
Tôi cuối cùng cũng như thu thập được đủ can đảm để ngoái lại
nhìn sau lưng mình. Chẳng có con gấu nào trong chuồng nhốt chúng tôi. Vậy thứ
gì đã cất lên tiếng gầm ghê rợn đó vậy?
Đám lính tiếp tục lục soát khu trại, nhưng giờ chúng để yên
cái chuồng không động đến. Sau vài phút, chúng tôi nghe thấy chúng leo trở lại
lên xe tải, khởi động máy và rồi cuối cùng chúng cũng đi khỏi.
Tấm vải dầu tuột xuống khỏi chuồng. Những người Digan tập hợp
lại cả quanh chúng tôi.
Tôi cầm lấy quả trứng của mình trong bàn tay run rẩy, tự hỏi
liệu tôi phải dùng đến nó hay không.
Người thủ lĩnh đứng trước mặt chúng tôi.
- Các cô cậu không sao chứ? - Ông nói. - Tôi xin lỗi nếu
chuyện vừa rồi làm các cô cậu sợ.
- Chúng tôi còn sống. - Enoch nói, nhìn quanh cảnh giác. - Nhưng
con gấu của các ông đâu?
- Không phải chỉ có các cô cậu mới có năng lực khác thường.
- Một thanh niên đứng ở rìa đám đông nói, rồi nhanh chóng hết gầm lên như gấu rồi
lại gào lên như mèo, mỗi lần anh ta hơi quay đầu, giọng anh ta lại thay đổi,
làm cho âm thanh nghe như thể chúng tôi đang bị săn đuổi từ mọi hướng. Sau khi
đã vượt qua được cú sốc, chúng tôi òa lên vỗ tay hoan hô.
- Tớ nhớ cậu có nói họ không phải là những người đặc biệt
mà. - Tôi thì thầm với Emma.
- Bất cứ ai cũng có thể thực hiện được những kĩ xảo vặt vãnh
như thế. - Cô nói.
- Xin lỗi nếu tôi đã không giới thiệu chu đáo về bản thân. -
Người thủ lĩnh Digan nói. - Tên tôi là Bekhir Bekhmanatov. Và các cô cậu là
khách danh dự của chúng tôi. - Ông cúi chào thật thấp. - Tại sao các cô cậu
không nói cho chúng tôi biết mình là những syndrigasti?
Chúng tôi há hốc miệng nhìn ông. Người thủ lĩnh đã dùng tới
tên gọi cổ xưa dành cho người đặc biệt, thứ tên gọi cô Peregrine đã dạy chúng
tôi.
- Liệu có phải chúng tôi đã biết ông từ đâu đó rồi không? -
Bronwyn hỏi.
- Ông đã nghe được từ đó ở đâu? - Emma hỏi.
Bekhir mỉm cười.
- Nếu các cô cậu đã chấp nhận lòng hiếu khách của chúng tôi,
tôi hứa sẽ giải thích mọi chuyện.
Sau đó ông cúi người lần nữa, rồi sải bước tới mở cửa chuồng
nhốt chúng tôi.
* * *
Chúng tôi cùng những người Digan ngồi xuống những tấm thảm dệt
tay tinh tế, trò chuyện và ăn món hầm trong ánh lửa bập bùng của hai đống lửa
trại. Tôi bỏ cái thìa đã được đưa cho xuống và húp xì xụp trực tiếp từ một cái
bát gỗ, tất cả phép tắc tại bàn ăn của tôi chỉ còn là một ký ức xa xăm trong
khi thứ nước hầm béo ngậy ngon tuyệt chạy nhỏ giọt xuống cằm tôi. Bekhir đi lại
giữa chúng tôi, đảm bảo mỗi đứa trẻ đặc biệt đều thoải mái, hỏi xem chúng toi đã
được ăn uống đủ chưa, rồi không ngớt lời xin lỗi đi xin lỗi lại về tình trạng
quần áo của chúng tôi, lúc này dính đầy những mảnh cỏ khô bẩn thỉu trong chuồng.
Từ lúc chứng kiến màn thể hiện năng lực đặc biệt của chúng tôi, ông đã hoàn
toàn thay đổi thái độ; chỉ trong vài phút, chúng tôi đã từ chỗ là tù nhân trở
thành các vị khách danh dự.
- Tôi rất xin lỗi về cách các cô cậu bị đối xử lúc nãy. -
Ông nói, ngồi xuống một tấm đệm giữa các đống lửa trại. - Khi liên quan tới an
toàn của đồng bào mình, tôi đề phòng mọi nhẽ. Thời buổi này có rất nhiều kẻ xa
lạ lang thang trên đường - những kẻ không thể trông mặt mà bắt hình dong. Giá
như các cô cậu cứ cho tôi biết các cô cậu là những người syndrigasti...
- Chúng tôi đã được dạy không bao giờ được nói lộ ra với bất
cứ ai. - Emma nói.
- Không bao giờ. - Olive nói thêm.
- Người nào đã dạy các cô cậu như vậy, quả là sáng suốt. -
Bekhir nói.
- Làm thế nào ông biết về chúng tôi được? - Emma hỏi. - Ông
nói ngôn ngữ cổ xưa.
- Chỉ vài từ thôi. - Bekhir nói. Ông nhìn chằm chằm vào ngọn
lửa, nơi một tảng thịt đang sẫm dần được nướng trên xiên. - Chúng ta đã có một
thỏa thuận từ xưa, cộng đồng của các cô cậu và dân tộc tôi. Chúng tôi cũng
không khác mấy các vị. Cùng là những kẻ lang thang bị ruồng bỏ - những linh hồn
bấu víu lấy rìa thế giới. - Ông xé một miếng thịt từ xiên và trầm ngâm nhai. - Chúng
ta có thể coi như đồng minh. Theo năm tháng, những người Digan chúng tôi thậm
chí từng đón nhận và nuôi nấng một số đứa trẻ thuộc cộng đồng các vị.
- Và chúng tôi rất biết ơn vì điều đó. - Emma nói. - Cũng
như biết ơn lòng mến khách của các ông. Cho dù có lẽ hơi thô lỗ, nhưng chúng
tôi cũng không thể lưu lại ở đây lâu hơn nữa. Chúng tôi cần tới London thật
nhanh, điều đó rất quan trọng. Chúng tôi cần bắt kịp một chuyến tàu.
- Vì người bạn bị ốm của các cô cậu à? - Bekhir hỏi, nhướng
một bên mày về phía Hugh, người đã từ lâu không diễn trò nữa và lúc này đang thỏa
thuê ngốn ngấu món hầm trong khi bầy ong vui vẻ vo ve bay lượn trên đầu cậu ta.
- Đại loại là thế. - Emma nói.
Bekhir biết chúng tôi đang giấu giếm điều gì đó, nhưng ông đủ
tử tế để cho phép chúng tôi giấu kín bí mật của mình.
- Tối nay thì không còn chuyến tàu nào nữa đâu. - Ông nói. -
Nhưng chúng tôi sẽ dậy vào rạng sáng để đưa các cô cậu tới ga trước khi chuyến tàu đầu tiên vào buổi sáng
chuyển bánh. Thế được chưa?
- Đành vậy thôi. - Emma nói, lông mày cô cau lại lo lắng.
Cho dù chúng tôi đã tiết kiệm thời gian bằng cách lén đi nhờ
xe thay vì cuốc bộ, cô Peregrine đã mất trọn một ngày rồi. Giờ đây cùng lắm bà
cũng chỉ còn lại hai ngày. Nhưng đó là trong tương lai; còn ngay lúc này chúng
tôi ấm áp, được ăn no, và thoát khỏi nguy hiểm tức thời. Thật khó để chúng tôi
không vui vẻ, dù chỉ trong khoảnh khắc.
Chúng tôi nhanh chóng kết bạn với những người Digan. Mọi người
đều mong muốn quên đi những gì đã xảy ra giữa chúng tôi lúc trước. Bronwyn tìm
cách xin lỗi cậu thiếu niên cô đã bắt làm con tin, nhưng cậu ta gạt đi như thể
không có gì. Những người Digan nhiệt tình tiếp đồ ăn cho chúng tôi, múc đầy bát
cho tôi hết lần này đến lần khác - và múc đầy tràn khi tôi từ chối lấy thêm.
Khi cô Peregrine nhảy ra khỏi áo khoác của Bronwyn và kêu rít lên thông báo nhu
cầu ăn của mình, những người Digan cho cả bà ăn, ném những miếng thịt sống lên
không và reo lên khi bà nhảy lên đớp chúng.
- Bà ấy đói! - Olive bật cười, vỗ tay trong khi con chim
dùng móng chân xé vụn một cái móng lợn.
- Giờ cậu không thấy
mừng vì chúng ta đã không làm họ nổ tung sao? - Bronwyn thì thầm với
Enoch.
- Ồ, tớ đoán là có. - Cậu ta đáp.
Ban nhạc Digan chơi một bài khác. Chúng tôi ăn và nhảy, tôi
thuyết phục Emma cùng nhảy một vòng quanh đống lửa với mình, và cho dù vốn thường
e ngại nhảy trước đông người, lần này tôi để mình được thoải mái. Chân chúng
tôi lướt đi, tay chúng tôi vỗ nhịp nhàng theo điệu nhạc, và trong một vài phút
tưng bừng, chúng tôi đắm mình trong đó. Tôi có thể quên đi chúng tôi đang ở
trong cảnh nguy hiểm đến mức nào, cũng như việc ngay ngày hôm đó thiếu chút nữa
chúng tôi đã bị bọn xác sống bắt giữ và bị một con hồn rỗng ăn thịt, những khúc
xương bị gặm hết của chúng tôi đáng lẽ đã bị nhả xuống sườn núi.
Vào khoảnh khắc đó tôi thấy vô cùng biết ơn những người
Digan, và nhờ phần “con” đơn thuần trong tôi, một bữa ăn nóng hổi, một bài hát
và một nụ cười từ ai đó tôi quan tâm có thể đủ để tôi quên đi mọi điều tối tăm,
dù chỉ được trong chốc lát.
Sau đó, bài hát kết thúc, chúng tôi trở lại ngồi xuống chỗ của
mình, và trong quãng lặng tiếp theo sau, tôi cảm thấy không khí thay đổi. Emma
nhìn Bekhir và nói:
- Tôi có thể hỏi ông một điều được không?
- Tất nhiên, - ông nói. - Tại sao các ông lại mạo hiểm tính
mạng vì chúng tôi?
Ông phẩy tay.
- Các cô cậu hẳn cũng sẽ hành động tương tự.
- Tôi không dám chắc là thế, - Emma nói. - Tôi chỉ muốn hiểu
thôi. Có phải vì chúng tôi đặc biệt không?
- Phải, - ông nói ngắn gọn.
Một khoảnh khắc trôi qua. Người thủ lĩnh quay đi nhìn về
phía những cái cây mọc bao quanh trảng trống, vào những chiếc rương được ánh lửa
chiếu sáng và bóng tối ở đằng sau. Rồi ông nói:
- Các cô cậu có muốn gặp con trai tôi không?
- Tất nhiên, - Emma nói.
Cô đứng dậy, cả tôi và vài người khác cũng làm theo. Bekhir
giơ một bàn tay lên.
- Tôi e là thằng bé hơi nhút nhát. Chỉ mình cô thôi, - ông
nói, chỉ vào Emma, - và cậu. - ông chỉ vào tôi, - cả cái cậu nghe thấy tiếng
nhưng không thấy người nữa.
- Ấn tượng đấy, - Millard nói. - Thế mà tôi đã cố gắng đến
thế để thật kín đáo!
Enoch lại ngồi xuống.
- Tại sao tôi cứ bị gạt ra ngoài mọi thứ vậy? Tôi có mùi à?
Một người phụ nữ Digan mặc váy phồng lướt vào vòng sáng của
đống lửa trại.
- Trong khi họ đi, tôi sẽ xem chỉ tay và đoán vận cho các cô
cậu, - bà nói. Người phụ nữ quay sang Horace. - Có thể đến một ngày kia cậu sẽ
leo lên đỉnh Kilimanjaro! - Rồi sau đó nói với Bronwyn,- Hay cưới một người đàn
ông giàu có, điển trai!
Bronwyn khịt mũi.
- Giấc mơ ưa thích nhất của tôi.
- Tương lai là chuyên môn của tôi, thưa bà, - Horace nói. - Hãy
để tôi cho bà thấy nó được thực hiện như thế nào!
Emma, Millard và tôi rời khỏi họ và bắt đầu đi qua khu trại
cùng Bekhir. Chúng tôi tới một cỗ xe thùng trông có vẻ giản dị, ông leo lên bậc
thang ngắn và gõ cửa.
- Radi? - ông dịu giọng gọi. - làm ơn ra đi nào con. Ngoài
này có người tới gặp con này.
Cửa nhích ra một chút và một người phụ nữ ló ra.
- Thằng bé sợ. Nó không chịu rời khỏi ghế.
Bà nhìn qua chúng tôi thật cẩn thận, sau đó mở rộng cửa và mời
chúng tôi vào. Chúng tôi leo lên các bậc thang và chui vào một không gian chật
chột nhưng ấm cúng và có vẻ vừa được dùng làm phòng khách, vừa được dùng làm
phòng ngủ và bếp. Có một chiếc giường kê dưới khung cửa sổ hẹp, một cái bàn và
ghế, một bếp lò nhỏ thoát khói qua ống khói trên nóc xe; mọi thứ cần thiết để sống
tự túc trên đường trong nhiều tuần hay nhiều tháng liền.
Một cậu bé đang ngồi trên cái ghế duy nhất trong khoang xe.
Trên lòng cậu là một chiếc kèn trumpet. Tôi nhận ra đã thấy cậu chơi kèn lúc
trước trong ban nhạc của những đứa trẻ Digan. Đây là con trai Bekhir, và tôi
đoán người phụ nữ là vợ ông.
- Cởi giày của con ra nào, Radi, - người phụ nữ nói.
Cậu bé tiếp tục nhìn chăm chăm xuống sàn.
- Con phải làm thế sao? - cậu ta hỏi.
- Phải, - Bekhir nói.
Cậu bé cởi một cái ủng ra, rồi nốt cái còn lại. Trong một
giây, tôi không dám chắc vào điều mình đang thấy: chẳng có gì bên trong những chiếc
giày của cậu bé. Có vẻ như cậu không có bàn chân. Ấy thế nhưng cậu đã phải bỏ sức
để tháo ủng ra, vì thế chúng chắc chắn phải gắn vào thứ gì đó. Rồi Bekhir yêu cầu con trai ông đứng dậy, và cậu bé miễn
cưỡng nhổm người ra trước trên ghế và đứng dậy. Cậu có vẻ như bay lên, gấu quần
trống rỗng treo lơ lửng cách mặt sàn chừng chục phân.
- Thằng bé bắt đầu tan biến từ vài tháng trước, - người phụ
nữ giải thích. - Đầu tiên là các ngón chân của nó. Rồi đến gót chân. Cuối cùng
là phần còn lại của cả hai bàn chân. Chẳng thứ gì tôi cho nó uống - không thứ
nước sắc, thứ rượu thuốc nào - có chút hiệu quả trong việc chữa trị cho nó.
Vậy là cậu bé cũng có bàn chân - hai bàn chân vô hình.
- Chúng tôi không biết phải làm gì, - Bekhir nói. - Nhưng
tôi nghĩ có lẽ trong số các cô cậu có ai đó biết chữa bệnh…
- Chẳng có cách nào để chữa thứ cậu ấy gặp phải. - Millard
nói, và tiếng nói của cậu vang lên trong không trung làm cậu bé bất giác ngẩng
đầu lên. - Cậu ấy và tôi giống nhau. Chuyện tương tự đã xảy ra với tôi khi tôi
còn nhỏ. Khi mới sinh ra, tôi chưa vô hình, chuyện đó xảy ra dần dần.
- Ai đang nói vậy? - Cậu bé hỏi.
Millard cầm một cái
khăn quàng nằm bên mép giường và quấn quanh khuôn mặt, để lộ ra đường nét của
mũi, trán, miệng cậu.
- Tôi đây. - Cậu nói, di chuyển trên sàn về phía cậu bé. - Đừng
sợ.
Trong khi những người còn lại trong chúng tôi quan sát, cậu
bé giơ bàn tay lên chạm vào má Millard, rồi lên trán, rồi lên tóc cậu - tôi
chưa bao giờ buồn hình dung về màu sắc và kiểu tóc của cậu ta - thậm chí còn cầm
lấy một lọn tóc kéo như để kiểm tra đó thực là chúng.
- Cậu ở đó, - Cậu bé nói, đôi mắt sáng lên ngỡ ngàng. - Cậu
thực sự ở đó.
- Và cậu cũng thế, thậm chí ngay cả sau khi những người đồng
bào khác của cậu đã ra đi. - Millard nói. - Cậu sẽ thấy, sẽ không đau đâu.
Cậu bé mỉm cười, và khi cậu cười, hai đầu gối người phụ nữ
run rẩy, bà phải tựa người vào Bekhir.
- Cảm ơn cậu. - Bà nói với Milllard, suýt òa khóc. - Cảm ơn
cậu.
Millard ngồi xuống bên đôi bàn chân đã biến mất của Radi.
- Không có gì phải sợ cả, chàng trai. Thực ra, khi cậu đã
quen với sự vô hình, tớ nghĩ cậu sẽ thấy nó có nhiều lợi thế...
Và trong khi cậu ta bắt đầu liệt kê chúng ra, Bekhir bước ra
cửa và gật đầu ra hiệu cho Emma và tôi.
- Hãy để họ ở lại. - Ông nói. - Tôi tin chắc họ có nhiều điều
để nói.
Chúng tôi để Millard ở lại một mình cùng cậu con trai và mẹ
cậu ta. Quay lại bên lửa trại, chúng tôi thấy gần như tất cả mọi người, đặc biệt
hay Digan, đều xúm lại quanh Horace. Cậu ta đang đứng trên một gốc cây trước bà
thấy bói đang ngơ ngẩn, mắt nhắm lại, một bàn tay áp lên đầu bà này, và dường
như đang kể lại một giấc mơ khi nó đến với cậu ta:
-… và chắt của bà sẽ điều khiển một con tàu khổng lồ đi lại
giữa Trái Đất và Mặt Trăng như một chiếc xe buýt đường dài, và trên Mặt Trăng
anh ta sẽ có một ngôi nhà rất nhỏ, rồi anh ta sẽ trễ hẹn thanh toán thế chấp và
buộc phải cho thuê trọ, và một trong những người đến ở trọ là một phụ nữ xinh đẹp
anh ta sẽ yêu mê mệt theo kiểu mặt trăng, nó không hoàn toàn giống tình yêu
trên trái đất vì sự khác biệt về trọng lực trên đó…
Chúng tôi đứng quan sát từ ngoài rìa đám đông.
- Cậu ta nghiêm túc đấy chứ? - Tôi hỏi Emma.
- Có thể. - Cô đáp. - Hoặc cậu ta chỉ đang trêu đùa bà ấy một
chút.
- Tại sao cậu ấy không thể nói về tương lai của chúng ta như
thế?
Emma nhún vai.
- Năng lực của Horace có thể vô dụng đến kinh khủng. Cậu ta
có thể tuồn tuột tiên đoán hết cả đời cho những người lạ hoắc, nhưng với chúng
ta, cậu ấy gần như hoàn toàn bị chặn đứng. Cứ như thế cậu ta càng quan tâm đến
ai thì càng thấy ít về người đó hơn. Cảm xúc che khuất tầm nhìn của cậu ấy.
- Chẳng phải chúng ta ai cũng vậy sao. - Một giọng nói vang
lên từ phía sau chúng tôi, chúng tôi ngoảnh lại thì thấy Enoch đứng đó. - Và về
chuyện đó, tớ hi vọng cậu không làm anh chàng người Mỹ sao nhãng quá mức, Emma
thân mến. Thật khó canh chừng hồn rỗng
khi cái lưỡi của một quý cô trẻ tuổi cứ kề sát tai như thế.
- Đừng có ghê tởm thế! - Emma nói.
- Tớ không thể lờ Cảm Giác đi được dù có muốn đi nữa. - Tôi
nói, dù tôi thực sự ước gì có thể lờ đi được cảm giác ủy mị sến sẩm là Enoch
đang ghen với tôi.
- Vậy hãy nói cho tớ biết về cuộc gặp bí mật của mấy người
đi nào. - Enoch nói. - Có phải đám Digan thực sự bảo vệ chúng ta vì một mối
liên minh xưa rích nào đó mà chẳng ai trong chúng ta từng nghe tới không
- Ông thủ lĩnh và bà vợ có một đứa con trai đặc biệt. - Emma
nói. - Họ hi vọng chúng ta có thể giúp cậu ấy.
- Thật điên rồ. - Enoch nói. - Họ thiếu chút nữa khiến chính
mình bị lũ lính kia lóc thịt sống chỉ vì một thằng bé thôi sao? Đúng là cảm xúc
làm mờ mắt thật! Tớ cứ nghĩ bọn họ muốn bắt bọn mình làm nô lệ vì năng lực của
bọn mình, hay ít nhất cũng mang bọn mình ra bán đấu giá - nhưng thế đấy, tớ
luôn đánh giá người khác quá cao.
- Ồ, cậu đi tìm một con vật nào chết mà chơi đi. - Emma nói.
- Tớ sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi chín mươi chín phần trăm nhân
loại. - Enoch nói, lắc đầu rồi bỏ đi.
- Đôi khi tớ nghĩ cậu ta có một phần là máy móc, - Emma nói.
- thịt bên ngoài, kim loại bên trong.
Tôi bật cười, nhưng trong lòng tự hỏi biết đâu Enoch lại
đúng. Có phải những gì Bekhir đã mạo hiểm vì con trai ông đúng là điên rồ
không? Bởi vì nếu Bekhir điên rồ, thì chắc chắn tôi cũng vậy. Tôi đã phải từ bỏ
nhiều đến chừng nào chỉ vì một cô gái? Bất chấp sự tò mò của tôi, bất chấp ông
tôi, bất chấp những gì chúng tôi nợ cô Peregrine, nói cho cùng tôi có mặt ở đây
- lúc này - chỉ vì một lý do duy nhất: bởi vì kể từ ngày gặp Emma, tôi đã biết
tôi muốn trở thành một phần của bất cứ thế giới nào cô thuộc về. Liệu điều đó
có làm tôi thành kẻ điên rồ không? Hay đó là vì trái tim tôi đã bị chinh phục
quá dễ dàng?
Có thể mình cần một ít
kim loại cho phần bên trong, tôi thầm nghĩ. Nếu tôi giữ cho trái tim mình
được bọc giáp tốt hơn, bây giờ lẽ ra tôi đang ở đâu?
Dễ biết thôi - tôi sẽ ở nhà, bó mình vào một nhịp sống đơn
điệu. Nhấn chìm phiền muộn trong các trò chơi điện tử. Làm việc theo ca tại
Smart Aid. Và để nội tâm chết dần chết mòn vì nuối tiếc theo mỗi ngày trôi qua.
Đồ hèn nhát. Đồ nhóc
con yếu đuối, bệnh hoạn. Mày đã vứt mất cơ hội của mày.
Nhưng tôi đã không như thế. Khi hướng tới Emma, tôi đã mạo
hiểm tất cả - và lại đang tiếp tục mạo hiểm mỗi ngày - nhưng khi làm thế tôi đã
chộp lấy và kéo mình vào trong một thế giới từng có lúc không thể tưởng tượng nổi
với tôi, nơi tôi sống giữa những người còn giàu sức sống hơn bất cứ ai tôi từng
biết, làm những công việc tôi chưa từng mơ mình có thể làm được, sống sót qua
những thử thách tôi không bao giờ mơ mình có thể qua được. Tất cả vì tôi đã để
mình nương theo cảm xúc với một cô gái đặc biệt.
Bất chấp tất cả những rắc rối và hiểm nguy chúng tôi đang gặp
phải, và bất chấp thực tế là thế giới mới lạ này đã bắt đầu sụp đổ ngay khoảnh
khắc tôi khám phá ra nó, tôi vẫn rất vui vì mình đã ở đây. Bất chấp tất cả, cuộc
sống đặc biệt này là thứ tôi luôn mong muốn. Thật lạ lùng, tôi thầm nghĩ, khi
ta có thể vừa sống những giấc mơ đẹp lại vừa sống những cơn ác mộng.
- Có chuyện gì vậy? - Emma hỏi. - Cậu đang nhìn tớ chằm chằm
kìa.
- Tớ muốn cảm ơn cậu, - tôi nói.
Cô chun mũi và liếc mắt như thể tôi vừa nói gì đó tức cười.
- Cảm ơn tớ vì cái gì cơ? - cô hỏi.
- Cậu đem đến cho tớ sức mạnh mà tớ đã không hề biết mình
có, - tôi nói. - Cậu làm tớ tốt lên.
Cô đỏ mặt.
- Tớ không biết phải nói gì nữa.
Emma, tâm hồn rạng rỡ. Tôi cần ngọn lửa của em - ngọn lửa ở
trong nội tâm của em.
- Cậu không cần phải nói gì cả, - tôi nói.
Thế rồi tôi bỗng cảm thấy tha thiết muốn hôn cô, và tôi làm
thế.
* * *
Chúng tôi đã mệt rã rời, nhưng những người Digan lại đang ở
tâm trạng vô cùng hân hoan và có vẻ quyết định tiếp tục tiệc tùng, và sau vài cốc
gì đó nóng hổi, ngọt ngào, nhiều caffeine và thêm vài bài hát, họ đã giành phần
thắng trước chúng tôi. Họ là những người kể chuyện trời sinh và là những ca sĩ
thật duyên dáng; những con người với sức cuốn hút bẩm sinh này đối xử với chúng
tôi như những người anh em họ thất lạc bấy lâu mới tìm lại được. Chúng tôi thức
đến tận nửa đêm để trò chuyện. Anh chàng trẻ tuổi vống giọng lên như gấu thể hiện
một màn nói tiếng bụng xuất sắc tới mức tôi gần như tin là những con rối của cậu
ta đã sống dậy. Cậu này có vẻ hơi phải lòng Emma và dồn về phía cô đủ chiêu trò
thông dụng, mìm cười đầy cổ vũ, song cô vờ như không nhận ra và luôn nắm lấy
bàn tay tôi.
Sau đó, họ kể cho chúng tôi nghe chuyện quân đội Anh, trong
Thế chiến thứ nhất, đã trưng dụng toàn bộ ngựa của họ, và trong một thời gian họ
chẳng còn con ngựa nào để kéo xe. Họ đã bị bỏ mặc lại trong rừng - trong chính
khu rừng này - cho tới một ngày kia, một đàn dê sừng dài lang thang vào khu trại
của họ. Chúng có vẻ hoang dã nhưng đủ thuần để tới ăn đồ ăn trên tay bạn, thế
là một người nảy ra ý thắng một con dê vào cỗ xe, và ra lũ dê này khỏe gần như
không kém những con ngựa họ đã mất. Thế là những người Digan thoát khỏi cảnh mắc
kẹt một chỗ, và cho tới khi chiến tranh kết thúc, những cỗ xe của họ vẫn do những
con dê khỏe khác thường này kéo, và cũng vì thế họ được biết đến trên khắp xứ
Wales với tên gọi Bộ tộc Dê. Để làm bằng chứng, họ đưa ra cho mọi người chuyền
tay nhau xem một bức ảnh ông bác của Bekhir ngồi trên một cỗ xe dê kéo. Không cần
ai nói, chúng tôi biết ngay rằng đây chính là bầy dê đặc biệt bị thất lạc
Addison đã kể. Sau chiến tranh, quân đội trả lại ngựa cho người Digan, và bầy
dê, giờ đây không còn được cần đến nữa, biến mất vào rừng.
Cuối cùng, đống lửa trại tàn dần, họ trải đệm nằm ra cho
chúng tôi và hát một bài hát ru bằng một thứ ngôn ngữ du dương xa lạ, và tôi cảm
thấy nhẹ nhõm êm ái như một đứa trẻ. Anh chàng nói tiếng bụng tới chúc Emma ngủ
ngon. Cô xua anh ta đi, nhưng anh ta vẫn kịp để lại một tấm danh thiếp. Ở mặt
sau có ghi một địa chỉ tại Cardiff, cứ vài tháng, khi nhóm người Digan dừng
chân nghỉ lại, anh ta lại tới đó lấy thư từ. Ở mặt trước là ảnh chụp anh ta
cùng những con rối, và một lời nhắn ngắn dành cho Emma. Cô đưa nó cho tôi xem
và cười khúc khích. Nhưng tôi thấy ái ngại cho anh ta. Anh ta chỉ mắc tội đã
thích cô, cũng giống như tôi vậy.
Tôi cuộn người lại bên Emma trong một tấm đệm ngủ ở bìa rừng.
Đúng lúc đang chìm vào giấc ngủ, tôi chợt nghe thấy tiếng bước chân trên cỏ gần
đó, tôi mở choàng mắt nhưng không thấy ai cả. Đó là Millard, cậu ta đã quay lại
sau khi dành cả buổi tối trò chuyện với cậu bé Digan.
- Cậu ấy muốn đi cùng chúng ta, - Millard nói.
- Ai cơ? - Emma lẩm bẩm như đang say. - Đi đâu?
- Cậu bé. Đi cùng chúng ta.
- Thế cậu nói sao?
- Tớ bảo cậu ta rằng đó là một ý tưởng không hay lắm. Nhưng
tớ cũng không thẳng thừng từ chối.
- Cậu biết là chúng ta không thể đem theo bất cứ ai nữa mà,
- Emma nói. - Cậu ấy sẽ làm chậm chân chúng ta.
- Tớ biết, tớ biết, - Millard nói. - Nhưng cậu bé đang dần dần
biến mất, và rất sợ hãi. Không lâu nữa cậu ta sẽ hoàn toàn vô hình, và cậu ta sợ
sẽ tụt lại đằng sau cộng đồng của mình một ngày nào đó mà những người Digan
không nhận ra, và cậu ta sẽ bị lạc mãi mãi trong rừng giữa lũ sói và nhện.
Emma rên lên và lăn người quay lại đối mặt với Millard. Cậu
ta sẽ không đời nào chịu để chúng tôi ngủ cho tới khi chuyện này được quyết định.
- Tớ biết cậu bé sẽ thất vọng, -
cô nói. - Nhưng thực sự không được đâu. Tớ xin lỗi, Millard.
- Cũng đúng thôi, - Millard vừa
nói vừa thở dài nặng nề. - Tớ sẽ báo tin cho nó.
Cậu ta đứng dậy và rời đi. Emma thở
dài, và suốt một hồi lâu cô cứ trở người trằn trọc.
- Cậu đã làm đúng, - tôi thì thầm.
- Thật không dễ dàng khi là chỗ dựa cho mọi người.
Cô không nói gì, chỉ rúc vào ngực
tôi. Dần dà chúng tôi ngủ thiếp đi, tiếng gió xào xạc qua các cành cây và tiếng
thở dài của lũ ngựa nhẹ nhàng đưa chúng tôi vào giấc ngủ.
* * *
Đó là một đêm ngủ chập chờn và những
giấc mơ tệ hại, cũng gần giống những gì tôi đã trải qua ngày hôm trước: bị những
bầy chó như từ ác mộng vụt ra săn đuổi. Đến sáng, tôi đã mệt nhừ. Tứ chi nặng
như đeo bằng gỗ, đầu lâng lâng. Tôi cảm thấy có khi đừng ngủ còn hơn.
Bekhir đánh thức chúng tôi lúc rạng
sáng.
- Trời sáng rồi, syndrigasti!
Ông gọi lớn, ném xuống những ổ
bánh mì cứng như gạch.
- Bao giờ chết thì các cô cậu tha
hồ mà ngủ!
Enoch sút ổ bánh mì của cậu ta vào
một hòn đá, và nó kêu lên đánh cạch như một khúc gỗ.
- Với bữa sáng thế này chúng tôi
cũng sẽ sớm chết sớm thôi!
Bekhir vuốt tóc Enoch, cười hết cỡ.
- À, thôi nào. Tinh thần người đặc
biệt của cậu sáng nay đi đâu rồi?
- Đi ngủ rồi, - Enoch nói, kéo đệm
ngủ lên trùm đầu.
Bekhir cho chúng tôi mười phút để
sửa soạn cho chuyến đi vào thị trấn. Ông đang cố giữ đúng lời hứa của mình, đưa
chúng tôi tới đó trước giờ chuyến tàu đầu tiên buổi sáng khởi hành. Tôi thức dậy,
loạng choạng bước tới một xô nước, vã ít nước lên mặt, rồi dùng ngón tay đánh
răng. Ôi, tôi nhớ cái bàn chải của mình biết bao. Nhớ cuộn chỉ nha khoa mùi bạc
hà và lọ lăn khử mùi hương-gió-đại-dương của tôi biết bao. Vào lúc đó, chẳng có
gì tôi không sẵn sàng đánh đổi để tìm thấy một cửa hàng Smart Aid.
Tôi sẵn sàng đổi cả vương quốc của
mình lấy một bộ đồ lót mới!
Trong lúc tôi dùng ngón tay chải cỏ
khô ra khỏi tóc và cắn vào một ổ bánh mì bất khả tiêu hóa, những người Digan và
lũ trẻ của họ ngắm nhìn chúng tôi với vẻ mặt thảm sầu. Như thể bằng cách nào đó
họ đã biết cuộc vui tối hôm trước chỉ là những phút hân hoan cuối cùng, và giờ
đây chúng tôi đang bị đưa tới giá treo cổ. Tôi cố làm họ vui lên.
- Sẽ ổn thôi mà, - tôi nói với một
cậu bé tóc sáng trông như chỉ chực òa khóc, - Bọn anh sẽ ổn cả.
Cậu bé nhìn tôi như thế nhìn một hồn
ma đang nói, đôi mắt cậu mở to, đầy băn khoăn.
Tám con ngựa được tập hợp lại,
cùng tám kỵ sĩ Digan - mỗi người kèm một người trong chúng tôi. Ngựa sẽ đưa
chúng tôi tới thị trấn nhanh hơn một đoàn xe. Những con vật này cũng làm tôi
phát hãi.
Tôi chưa bao giờ cưỡi ngựa. Có lẽ
tôi là đứa trẻ duy nhất có gia thế thuộc dạng có thể coi là khá giả ở Mỹ chưa từng
cưỡi ngựa. Chẳng phải vì tôi không nghĩ ngựa là những con vật đẹp đẽ, oai
phong, đỉnh cao của quá trình sáng tạo ra động vật, v.v và v.v - mà chỉ đơn giản
vì tôi không tin bất cứ con vật nào lại có dù chỉ một chút thích thú với việc bị
một người trèo lên lưng hay thúc nó phải chạy. Thêm vào đó, ngựa rất to, với cơ
bắp vạm vỡ và hai hàm răng to tướng luôn nhe ra nhăn nhở, chúng cứ nhìn tôi như
thể chúng biết tôi sợ và đang hy vọng có cơ hội đá vào đầu tôi. Đó là chưa kể tới
việc một con ngựa chẳng hề có đai an toàn - cũng chẳng có hệ thống hãm phụ trợ
nào - trong khi lũ ngựa có thể chạy nhanh gần bằng xe hơi, song lại xóc lắc hơn
nhiều. Toàn bộ thử thách này chỉ đơn giản là trò dại dột.
Tất nhiên là tôi không hé lời nào
về chuyện này. Tôi ngậm miệng, nghiến chặt hàm lại và hy vọng mình ít nhất cũng
sống được đủ lâu để chết theo một cách thú vị hơn là ngã ngựa.
Từ tiếng hô phi nhanh nào! đầu tiên, chúng tôi đã phi nước đại. Tôi lập tức bỏ
mặc sự tự tôn của bản thân và ôm chặt cứng người đàn ông Digan ngồi trên yên đằng
trước tôi, ông ta đang cầm cương - phi nhanh tới mức tôi chẳng có cơ hội vẫy
tay chào tạm biệt những người Digan đã tụ tập lại để tiễn chúng tôi lên đường.
Mà thế cũng tốt: chào tạm biệt chưa bao giờ là điểm mạnh của tôi, và gần đây cuộc
sống của tôi có vẻ chỉ là một chuỗi liên tục những dịp như thế. Tạm biệt, tạm biệt, tạm biệt.
Chúng tôi lao đi. Hai bên đùi tôi
tê dại vì kẹp lấy hông ngựa. Bekhir dẫn đầu đoàn kỵ sĩ, cậu con trai đặc biệt của
ông cùng ngồi trên yên với ông. Cậu bé phi ngựa lưng vươn thẳng, hai cánh tay
xuôi hai bên sườn, hoàn toàn tự tin không chút sợ hãi, hoàn toàn tương phản với
hình ảnh tối hôm trước. Ở đây cậu bé đang trong môi trường của cậu, giữa những
người Digan. Cậu không cần tới chúng tôi. Những người này là đồng bào của cậu.
Cuối cùng chúng tôi phi chậm lại
thành nước kiệu, và tôi thu được đủ can đảm để thò mặt ra khỏi áo khoác người kỵ
sĩ, quan sát phong cảnh đang thay đổi xung quanh. Rừng đã nhường chỗ cho các
cánh đồng. Chúng tôi đang đi xuống một thung lũng, ở giữa thung lũng là một thị
trấn, nhìn từ chỗ này chỉ nhỏ bằng một con tem bưu điện, lọt thỏm giữa màu xanh
lá cây cỏ ở mọi phía. Hướng về nó từ phía Bắc là một chuỗi dài những chấm trắng
hình e líp: làn khói thở của một đoàn tàu.
Bekhir dừng đoàn ngựa lại ở ngay cổng
vào thị trấn.
- Chúng tôi chỉ có thể đi được tới
đây, - ông nói. - Chúng tôi không được hoan nghênh lắm tại các đô thị. Các cô cậu
sẽ không muốn vì chúng tôi mà bị chú ý đâu.
Thật khó hình dung nổi lại có ai kỳ
thị những con người tốt bụng này. Nhưng thế đấy, những định kiến tương tự là một
trong các lý do khiến người đặc biệt phải rút lui khỏi xã hội. Thế giới đáng buồn
này vận hành như thế đấy.
Tôi và những đứa trẻ khác xuống ngựa.
Tôi đứng sau lưng những người còn lại, hy vọng không ai nhận ra đôi chân đang
run rẩy của mình.
Đúng lúc chúng tôi chuẩn bị lên đường,
cậu con trai Bekhir tụt xuống khỏi ngựa của bố mình và kêu lên:
- Đợi đã! Cho em đi cùng mọi người!
- Tớ tưởng cậu đi nói chuyện với cậu
ta rồi cơ mà, - Emma nói với Millard.
- Tớ có nói rồi, - Millard nói.
Cậu bé lôi một cái ba lô ra từ túi
yên ngựa và đeo nó lên vai. Cậu ta đã đóng gói hành lý và sẵn sàng lên đường.
- Em có thể nấu ăn, - cậu nói, - và
bổ củi, cưỡi ngựa, cũng như buộc đủ loại nút thắt.
- Ai đó cho cậu ta một huy chương
danh dự đi, - Enoch nói.
- Chị sợ là không được đâu, - Emma
dịu dàng nói với cậu bé.
- Nhưng em giống mọi người - càng
ngày càng giống hơn! - cậu bé bắt đầu cởi khuy quần. - Hãy nhìn điều gì đang xảy
ra với em!
Chưa ai kịp ngăn cản, cậu ta đã tụt
quần xuống tận mắt cá chân. Mấy cô gái há hốc miệng quay ngoắt đi nhìn chỗ
khác.
Hugh la lớn:
- Mặc quần vào, đồ tâm thần hư hỏng!
Nhưng chẳng có gì để mà nhìn - từ
hông cậu bé trở xuống hoàn toàn vô hình. Sự tò mò quá đáng thôi thúc tôi nhìn
vào phía dưới nửa người còn hiện hình của cậu bé, và tôi thấy rõ mồn một những
gì đang diễn ra.
- Mọi người hãy xem em đã biến mất
nhiều thế nào từ ngày hôm qua, - Radi nói, giọng đầy hoảng hốt. - Chẳng mấy chốc
nữa em sẽ biến mất hoàn toàn!
Những người đàn ông Digan trố mắt
nhìn và thì thầm. Ngay cả những con ngựa của họ cũng có vẻ bồn chồn, tránh ra
xa khỏi đứa trẻ dường như bị mất hai chân.
- Tớ sẽ mọc cánh mất! - Enoch nói.
- Cậu nhóc chỉ còn một nửa thôi kìa.
- Ôi, cậu bé tội nghiệp, - Bronwyn
nói. - Chúng ta không thể để cậu bé đi cùng sao?
- Chúng ta không phải là một gánh
xiếc rong mà bất cứ ai hễ hứng lên là đều có thể gia nhập, - Enoch nói. - Chúng
ta đang thực hiện một nhiệm vụ nguy hiểm để giải cứu Chủ Vòng của chúng ta, và
không thể đóng vai bảo mẫu cho một cậu chàng đặc biệt mới toanh chưa biết gì!
Đôi mắt cậu bé mở to và bắt đầu ầng
ậng nước, và cậu để chiếc ba lô tụt khỏi vai rơi xuống đường. Emma kéo Enoch
sang bên.
- Nói thế thì tàn nhẫn quá, - cô
nói. - Giờ hãy nói với cậu bé là cậu xin lỗi.
- Tớ sẽ không xin lỗi. Quỹ thời
gian quý báu đang cạn dần còn chúng ta đang lãng phí nó một cách ngớ ngẩn đấy.
- Những người này đã cứu mạng
chúng ta!
- Đáng lẽ tính mạng chúng ta đã chẳng
cần ai cứu nếu bọn họ không nhốt chúng ta vào cái lồng quý hóa đó!
Emma kệ xác Enoch và quay sang cậu
bé.
- Nếu hoàn cảnh khác đi, bọn chị
chắc chắn sẽ mở rộng vòng tay chào đón em. Nhưng trong tình thế này, toàn bộ nền
văn minh và cuộc sống của chúng ta đang có nguy cơ bị hủy diệt. Vì thế thời điểm
không thích hợp chút nào cả, em thấy đấy.
- Thật không công bằng, - cậu bé rầu
rĩ. - Tại sao em lại không bắt đầu vô hình từ trước đi cho rồi chứ? Tại sao
chuyện đó lại xảy ra đúng lúc này?
- Khả năng của mỗi người đặc biệt
đều bộc phát vào một lúc nào đó, - Millard nói. - Một số ngay từ thời thơ ấu; với
những người khác nó lại chỉ thể hiện khi họ đã khá lớn tuổi. Anh từng nghe nói
có người không thể nhận ra ông ấy có thể dùng ý nghĩ nhấc bổng mọi vật lên cho
tới khi ông ta đã chín mươi hai tuổi.
- Tớ đã nhẹ bỗng hơn cả không khí
ngay từ khi ra đời, - Olive nói đầy tự hào. - Tớ chui ra khỏi bụng mẹ là bay
vút thẳng lên trần bệnh viện luôn! May nhờ dây rốn tớ mới không bay qua cửa sổ
và vọt tít lên chín tầng mây. Người ta kể bác sĩ đã ngất xỉu vì choáng!
- Giờ cậu vẫn còn gây kinh ngạc lắm,
cô bé yêu quý, - Bronwyn vừa nói vừa vỗ nhẹ lên lưng cô bé động viên.
Millard, có thể nhìn thấy nhờ chiếc
áo khoác và đôi ủng của cậu ta, bước tới chỗ cậu bé.
- Bố em nghĩ sao về chuyện này? -
cậu hỏi.
- Tất nhiên chúng tôi không muốn
nó đi, - Bekhir nói, - nhưng làm sao chúng tôi có thể chăm lo chu đáo cho nó nếu
thậm chí chúng tôi chẳng thế nhìn thấy nó? Nó muốn đi - và tôi nghĩ biết đâu nó
sẽ thoải mái hơn giữa những người đồng loại.
- Ông có yêu cậu ấy không? -
Millard thẳng thừng hỏi. - Cậu ấy có yêu ông không?
Lông mày Bekhir cau lại. Ông là một
người khá bảo thủ, và câu hỏi làm ông thấy không thoải mái. Nhưng sau một lúc hầm
hừ, ông gắt lên:
- Tất nhiên rồi. Nó là con tôi.
- Thế thì ông là đồng bào của cậu ấy,
- Millard nói. - Cậu ấy thuộc về các ông, không phải chúng tôi.
Bekhir không thích bộc lộ cảm xúc
trước mặt người của mình, song nghe xong mấy lời đó, tôi thấy mắt ông chớp chớp
và quai hàm nghiến lại. Ông gật đầu, nhìn xuống con trai mình và nói:
- Vậy thì lại đây nào. Cầm ba lô của
con lên và về thôi. Mẹ con chắc đã pha trà đợi sẵn đấy.
- Vâng, thưa bố, - cậu bé nói, vừa
có vẻ thất vọng vừa nhẹ nhõm.
- Em sẽ ổn thôi, - Millard trấn an
cậu bé. - Còn hơn cả ổn ấy chứ. Và khi tất cả chuyện này kết thúc, anh sẽ tới
tìm em. Ở ngoài kia còn nhiều người nữa như chúng ta, và đến một ngày nào đó
chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra họ.
- Anh hứa nhé? - cậu bé nói, đôi mắt
tràn đầy hy vọng.
- Anh hứa, - Millard nói.
Với câu trả lời đó, cậu bé leo trở
lại lên lưng con ngựa của bố cậu, còn chúng tôi quay lại đi bộ qua cổng vào thị
trấn.
Chương 6
Thị trấn này có tên là Coal (than đá).
Không phải là Coaltown hay
Coalville. Chỉ là Coal. Món than đá này hiện diện khắp nơi, chất thành đống lổn
nhổn cạnh cửa ra vào các ngôi nhà, bốc lên từ các ống khói dưới dạng thứ khói
nhờn nhờn, bê bết trên bộ áo bảo hộ liền quần của những người đàn ông đang đi bộ
tới chỗ làm. Chúng tôi co cụm lại thành một nhóm hối hả đi ngang qua họ về phía
nhà ga.
- Giờ khẩn trưởng lên, - Emma nói.
- Không nói gì hết. Mắt cụp xuống.
Một quy tắc đã được xác lập là nếu
không cần thiết chúng tôi cần tránh tiếp xúc bằng mắt với những người bình thường,
vì những cái nhìn có thể dẫn tới những cuộc trò chuyện, rồi từ trò chuyện dẫn tới
các câu hỏi, và những đứa trẻ đặc biệt cảm thấy khó mà trả lời những câu hỏi do
người lớn bình thường đặt ra mà không gợi ra thêm những câu hỏi nữa. Tất nhiên,
nếu có điều gì mời gọi các câu trả lời thì đó là một nhóm trẻ con bộ dạng nhếch
nhác không có người lớn đi kèm giữa thời buổi chiến tranh - nhất là lại còn có
một con chim ăn thịt to vuốt sắc đậu trên vai một trong số các cô bé - song cư
dân thị trấn dường như chẳng hề để ý tới chúng tôi. Họ xúm lại quanh các dãy
dây phơi quần áo hay trước cửa các tửu quán trên các con phố hẹp ngoằn ngoèo của
Coal, bộ dạng ủ rũ như những bông hoa héo, thoáng đưa mắt về phía chúng tôi rồi
lại nhìn đi chỗ khác. Họ còn nhiều nỗi lo toan khác nữa.
Ga tàu nhỏ tới mức tôi tự hỏi liệu
các đoàn tàu có nhọc công dừng bánh ở đó không. Phần duy nhất có mái che là quầy
bán vé, một túp nhà nhỏ nằm giữa một khoảng sân phơi ra giữa trời. Bên trong
túp nhà có một người đàn ông đang ngủ gật trên một chiếc ghế, đôi mắt kính hai
tròng dày như thành vỏ chai tụt xuống trên sống mũi ông ta.
Emma gõ mạnh lên cửa sổ, làm người
bán vé giật mình bừng tỉnh.
- Cho tám vé đi London! - cô nói. -
Chúng cháu cần tới đó trong chiều nay.
Người bán vé nhìn chúng tôi chằm
chằm qua lớp kính. Ông ta gỡ cái kính hai tròng của mình xuống lau sạch rồi lại
đeo lên, để cho chắc không phải đang nhìn nhầm. Tôi tin chắc trông chúng tôi thực
sự gây sốc: quần áo chúng tôi bê bết bùn, tóc tai nhờn bẩn, dính bết lại dựng
lên dựng lên theo những góc độ kỳ cục. Và có lẽ chúng tôi cũng nặng mùi nữa.
- Rất tiếc, - người bán vé nói. - Tàu
kín chỗ rồi.
Tôi nhìn quanh. Ngoài vài người
đang ngủ gật trên các bang ghế, nhà ga vắng tanh.
- Thật lố bịch! - Emma thốt lên. -
Bán vé cho chúng cháu ngay, nếu không cháu sẽ báo cáo về ông lên cơ quan quản
lý đường sắt vì phân biệt đối xử với trẻ em!
Nếu là tôi thì tôi đã nói năng nhẹ
nhàng hơn với người bán vé, song Emma thì không có chút kiên nhẫn nào với sự khinh
khỉnh làm cao của các vị quan liêu.
- Nếu đúng là có tội danh đó, -
người bán vé đáp, mũi hếch lên miệt thị, - thì nó chắc chắn cũng không áp dụng
cho chúng mày. Đang có chiến tranh, cô nhóc biết đấy, và có nhiều thứ quan trọng
cần được vận chuyển qua lãnh thổ của Nữ hoàng hơn là trẻ con và động vật!
Ông ta ném về phía cô Peregrine một
cái nhìn khắc nghiệt.
- Thứ đó thì kiểu gì cũng không được
cho phép lên tàu trong bất cứ trường hợp nào!
Một đoàn tàu xình xịch tiến vào ga
rồi dừng lại. Người soát vé bắt đầu ló ra ngoài một khung cửa sổ và hô lớn,
“Chuyến tám giờ ba mưới đi London! Tất cả lên tàu!”. Những người đang ngủ gật
trên các băng ghế tỉnh dậy và bắt đầu lục tục đi qua sân ga.
Một người đàn ông mặt bộ đồ xám
chen qua chúng tôi tới cửa quầy vé. Ông ta chìa tiền về phía người bán vé, nhận
được một chiếc vé và hối hả đi về phía đoàn tàu.
- Ông nói là hết chỗ rồi! - Emma
lên tiếng, đấm mạnh lên mặt kính. - Ông không thể làm thế!
- Quý ông đó mua vé hạng nhất, -
người bán vé nói. - Giờ chúng mày xéo đi, lũ oắt con ăn mày hôi hám! Đi chỗ
khác để tìm túi mà móc!
Horace bước tới cửa số quầy vé và
nói:
- Theo định nghĩa, đám ăn mày
không mang theo người nhiều tiền, - rồi cậu thò tay vào túi áo khoác và ném một
xấp tiền dày xuống quầy. - Nếu ông đang bán vé hạng nhất, thì đây là thứ chúng
tôi có!
Người bán vé ngồi thẳng người dậy,
há hốc miệng nhìn xấp tiền. Những người còn lại trong nhóm chúng tôi cũng sững
sờ, ngỡ ngàng không hiểu Horace đã kiếm chỗ tiền đó từ đâu. Đếm qua xấp tiền,
người bán vé nói:
- Chỗ này đủ để mua chỗ nguyên một
toa hạng nhất!
- Vậy thì cho chúng tôi cả một
toa! - Horace nói. - Như thế ông có thể chắc chắn chúng tôi sẽ không móc túi ai
cả.
Người bán vé đỏ lựng mặt và ấp úng.
- V... vâng, thưa ngài… xin lỗi,
thưa ngài - và tôi hi vọng các vị chỉ coi những lời tôi nói lúc trước như những
câu đùa cợt…
- Thôi, đưa những cái vé quái quỷ
đó ra đây để chúng tôi còn lên tàu!
- Ngay đây, thưa ngài!
Người bán vé đẩy một xấp vé hạng
nhất về phía chúng tôi:
- Chúc thượng lộ bình an! - ông ta
nói. - Và làm ơn đừng nói với ai là tôi đã nói vậy, thưa quý vị, nhưng nếu tôi
là quý vị, tôi sẽ giấu con chim đó khuất khỏi tầm mắt. Người soát vé sẽ không
thích nó đâu, dù là vé hạng nhất hay không.
Trong lúc chúng tôi cầm vé rời khỏi
quầy, Horace ưỡn ngực ra đắc thắng như một chú công. - Cậu đã lấy số tiền đó ra
từ xó nào vậy? - Emma hỏi.
- Tớ đã cứu được chúng từ trong
ngăn kéo bàn cô Peregrine trước khi tòa nhà bốc cháy, - Horace đáp. - Tớ đã
khâu sẵn một cái túi đặc biệt trong áo khoác của mình để giữ chỗ tiền đó an
toàn.
- Horace, cậu là một thiên tài! -
Bronwyn thốt lên.
- Liệu một thiên tài có tiêu đi đến
đồng xu cuối cùng như thế không? - Enoch nói. - Liệu chúng ta có thực sự cần đến
cả một toa hạng nhất không?
- Không, - Horace nói, - nhưng khiến
ông ta trông ngớ ngẩn như thế thật vui, phải không nào?
- Tớ đoán là vậy, - Enoch nói.
- Đó là vì mục đích thật sự của tiền
là để thao túng người khác và làm họ cảm thấy thấp kém hơn mình.
- Tớ không hoàn toàn chắc về việc
đó. - Emma nói.
- Tớ chỉ đùa thôi! - Horace nói. -
Tiền là để mua quần áo, tất nhiên rồi.
Chúng tôi sắp sửa lên tàu thì bị
người soát vé chặn lại.
- Cho ta xem vé của các cháu nào!
- ông này nói, và ông ta đang đưa tay cầm xấp vé trên tay Horace thì để ý thấy
Bronwyn nhét thứ gì đó vào trong áo khoác của cô. - Cô bé giấu thứ gì trong đó
vậy hả? - người soát vé hỏi, quay người về phía cô đầy nghi ngờ.
- Cháu có giấu thứ gì ở chỗ nào
đâu ạ? - Bronwyn hỏi lại, cố làm ra vẻ vô tư trong khi khép áo khoác lại che
kín một khối cựa quậy.
- Trong áo khoác của cháu! - người
soát vé nói. - Đừng giỡn với tôi, cô bé.
- Nó là, à… - Bronwyn cố nghĩ thật
nhanh và thất bại. - Một con chim thì sao ạ?
Emma gục đầu xuống, Enoch đưa một
tay lên che mắt và rên rỉ.
- Không được mang vật nuôi lên
tàu! - người soát vé quát to.
- Nhưng ông không hiểu. - Bronwyn
nói. - Cháu đã có nó từ khi còn nhỏ… và chúng cháu nhất định phải lên chuyến
tàu này… và chúng cháu đã trả rất nhiều tiền để mua vé!
- Quy định là quy định! - người
soát vé nói, bắt đầu mất bình tĩnh. - Đừng có giỡn với tôi!
Emma ngẩng đầu lên, mặt cô sáng bừng.
- Một món đồ chơi thôi mà! - cô
nói.
- Cháu nói sao? - người soát vé hỏi
lại.
- Đó không phải là một con chim thật,
thưa ông soát vé. Chúng cháu không bao giờ nghĩ tới việc vi phạm quy định như
thế. Đây là món đồ chơi ưa thích của chị gái cháu, ông thấy đấy, và chị ấy nghĩ
ông muốn lấy mất nó. - Cô xoắn hai bàn tay cầu khẩn đầy khổ sở. - Ông sẽ không
lấy đi món đồ chơi ưa thích của một đứa trẻ chứ, phải không ông?
Người soát vé nhìn Bronwyn với vẻ
ngờ vực.
- Chị cháu trông có vẻ hơi quá tuổi
để chơi đồ chơi rồi, cháu không thấy thế sao?
Emma ghé sát lại và thì thầm:
- Chị ấy có hơi chậm chạp, ông thấy đấy…
Bronwyn cau mày khi nghe thấy mấy
lời này nhưng không còn lựa chọn nào ngoài tiếp tục diễn trò. Người soát vé bước
về phía cô.
- Vậy để ta xem món đồ chơi này
nào.
Đã đến khoảnh khắc quyết định.
Chúng tôi nín thở trong khi Bronwyn mở áo khoác ra, thò tay vào trong, rồi từ tốn
lấy cô Peregrine ra. Khi nhìn thấy con chim, trong một khoảnh khắc khủng khiếp
tôi thoáng nghĩ bà đã chết. Cô Peregrine đã trở nên hoàn toàn bất động, nằm
trên tay Bronwyn với đôi mắt nhắm nghiền, hai chân chìa ra cứng đơ. Sau đó tôi nhận
ra bà chỉ đang giả bộ.
- Ông thấy chưa? - Bronwyn nói. - Không
phải chim thật. Chỉ là chim nhồi thôi.
- Lúc trước ta thấy nó cử động! -
người soát vé nói.
- Nó là… à… một món đồ chơi chạy
cót, - Bronwyn nói. - Ông xem nhé.
Bronwyn quỳ gối xuống, đặt cô
Peregrine xuống đất bên cạnh mình, rồi đưa tay xuống dưới cánh chim làm bộ đang
vặn cót. Một khoảnh khắc sau mắt cô Peregrine mở ra và bà bắt đầu nhảy vòng
quanh, bắt đầu lắc lư cứng nhắc như máy, còn đôi chân nhảy bật lên bật xuống
như lắp lò xo. Cuối cùng, bà sững lại rồi nằm lăn ra, bất động như một mô hình.
Một màn biểu diễn thực sự đáng đoạt giải Oscar. Người soát vé có vẻ gần như -
song chưa hoàn toàn - bị thuyết phục.
- Được rồi, - ông ta đằng hắng, - nếu
đó là một món đồ chơi, cháu làm ơn cất nó vào thùng đồ chơi của cháu nhé. - Ông
hất hàm về chiếc rương Bronwyn đã đặt xuống ke ga.
Bronwyn do dự.
- Đây không phải…
- Vâng, được thôi, không có gì khó
cả, - Emma vừa nói vừa mở nắp khóa rương. - Bỏ nó vào trong này đi chị!
- Nhưng sẽ thế nào nếu không có
không khí trong đó? - Bronwyn khẽ thì thầm với Emma.
- Thì chúng ta sẽ khoét vài cái lỗ
vào thành rương! - Emma thì thầm đáp lại.
Bronwyn cầm cô Peregrine lên và nhẹ
nhàng đặt bà vào trong cái rương.
- Rất xin lỗi, thưa cô, - cô thì
thầm, hạ nắp rương xuống rồi khóa lại.
Cuối cùng người soát vé cầm lấy vé
của chúng tôi.
- Hạng nhất! - ông ta ngạc nhiên
thốt lên. - Toa của các cháu ở tận đầu đoàn tàu.
Ông ta chỉ về phía đầu cuối ke ga.
- Tốt nhất các cháu nên nhanh lên!
- Bây giờ ông ấy mới chịu nói cho
chúng ta biết! - Emma nói, và chúng tôi hối hả chạy dọc theo ke ga. Với một màn
hơi nước xì ra và tiếng kim loại và chạm khi chuyển động, đoàn tàu bắt đầu chuyển
bánh bên cạnh chúng tôi. Lúc này nó mới chỉ nhích đi chầm chậm, nhưng theo mỗi
vòng bánh lăn nó lại chạy nhanh hơn một chút. Chúng tôi đã chạy tới ngang với
toa hạng nhất. Bronwyn là người đầu tiên nhảy lên qua cửa toa đang mở. Cô để
cái rương của mình xuống lối đi giữa toa và đưa tay giúp Olive lên tàu. Thế rồi
từ phía sau chúng tôi một giọng nói hét lớn: “Dừng lại! Xuống khỏi đó!”.
Đó không phải là giọng người soát
vé. Giọng nói này trầm hơn, quyền uy hơn.
- Tớ thề là nếu có thêm một người
nữa tìm cách ngăn chúng ta lên chuyến tàu này… - Enoch nói.
Một phát súng vang lên, và cú sốc
đột ngột nó gây ra làm chân tôi bị vấp. Tôi loạng choạng nhào ra khỏi khung cửa
toa và bật lùi xuống sân ga.
- Tao nói dừng lại! - giọng nói đó
lại gắt lên, và ngoái lại nhìn, tôi thấy một người lính mặc quân phục đứng trên
sân ga, quỳ gối xuống trong tư thế ngắm bắn, súng trường chĩa về phía chúng
tôi. Cùng hai tiếng nổ đinh tai, hắn bắn thêm hai phát đạn nữa sượt qua trên đầu
chúng tôi để đạt được mục đích của mình.
- Xuống tàu và quỳ gối xuống! - hắn
nói, hối hả rảo bước về phía chúng tôi.
Tôi đã định chạy lên tàu, nhưng rồi
tôi thoáng thấy đôi mắt tên lính, và màu trắng đục không hề có đồng tử của
chúng thuyết phục tôi đừng làm vậy. Hắn là một xác sống, và tôi biết hắn sẽ
không buồn cân nhắc trước khi bắn hạ bất cứ ai trong chúng tôi. Tốt hơn đừng
cho hắn lý do làm vậy.
Bronwyn và Olive hẳn cũng có cùng
suy nghĩ, vì họ xuống khỏi tàu và quỳ gối xuống cạnh chúng tôi. Chỉ thiếu chút nữa, tôi thầm nghĩ. Chúng tôi chỉ thiếu chút nữa. Đoàn tàu rời
ga không có chúng tôi, hy vọng tốt nhất của chúng tôi để cứu cô Peregrine đang
chạy xa dần. Và cô Peregrine đang ở trên đó, tôi chợt nhớ ra và choáng váng buồn
nôn. Bronwyn đã để cái rương của cô trên tàu! Một thôi thúc tự động bao trùm lấy
tôi, và tôi vùng dậy đuổi theo đoàn tàu - nhưng rồi một nòng súng trường xuất
hiện chỉ cách mặt tôi gần chục phân, và trong tích tắc tôi cảm thấy tất cả cơ bắp
của mình không còn chút sức lực nào.
- Không. Thêm. Bước. Nào. Nữa.
Tôi sụp trở lại xuống đất.
* * *
Chúng tôi đều quỳ gối, tay giơ
lên, tim đập thình thịch. Gã lính đi vòng quanh chúng tôi, căng thẳng, súng
chĩa lăm lăm, ngón tay đặt sẵn lên cò. Đó là lần quan sát một gã xác sống cận kề
nhất, lâu nhất tôi từng trải qua từ sau vụ bác sĩ Golan. Hắn đang mặc một bộ
quân phục Anh tiêu chuẩn - áo kaki bỏ vào trong quần len lông cừu, ủng đen, mũ
sắt - nhưng mặc chúng một cách vụng về, quần nhăn nhúm, còn mũ sắt lại lật quá
ra sau đầu, như thể đây là những món trang phục hắn vẫn chưa mặc quen. Có vẻ hắn
cũng bồn chồn, đầu nghiêng qua ngó lại trong lúc hắn dồn chúng tôi lại. Hắn chỉ
có một mình, và dù chỉ là một nhóm trẻ con không vũ khí, chúng tôi cũng đã giết
chết một xác sống và hai con hồn rỗng trong ba ngày vừa qua. Hắn sợ chúng tôi,
và điều đó, hơn bất cứ điều gì khác, làm tôi sợ hắn. Nỗi sợ hãi làm hắn trở nên
không lường trước.
Hắn rút một chiếc bộ đàm đeo ở thắt
lưng ra rồi nói liến thoắng vào đó. Xì xì một lát, rồi câu trả lời quay trở lại
ngay sau đó. Tất cả đều bằng mật mã; tôi không hiểu lấy một từ.
Hắn ra lệnh cho chúng tôi đứng dậy.
Chúng tôi đứng lên.
- Chúng ta đi đâu đây? - Olive rụt
rè hỏi.
- Tản bộ một chút, - hắn nói. - Một
cuộc tản bộ ngoan ngoãn, trật tự.
Hắn có cách phát âm cụt ngủn, các
nguyên âm nghe bèn bẹt cho tôi biết hắn từ nơi khác đến nhưng giả khẩu âm Anh,
tuy vậy không được khá cho lắm. Lũ xác sống đáng lẽ phải là các bậc thầy ngụy
trang, song gã này rõ ràng không phải là một ngôi sao trong cộng đồng của hắn.
- Chúng mày không được tách khỏi
hàng, - hắn nói, nhìn trừng trừng vào lần lượt từng người trong chúng tôi. - Chúng
mày không được chạy. Tao còn mười lăm viên đạn - đủ để khoét hai cái lỗ lên mỗi
đứa chúng mày. Và đừng cho là tao không thấy áo khoác của mày, thằng nhóc vô
hình. Cứ thử để tao phải đuổi theo mày xem, tao sẽ xẻo cả hai ngón tay cái vô
hình của mày ra làm kỷ niệm.
- Vâng, thưa ông, - Millard nói.
- Không được nói gì hết! - gã lính
gắt gỏng. - Giờ đi đều bước!
Chúng tôi đi ngang qua trước quầy
vé, người bán vé giờ đã đi đâu mất, rồi ra khỏi nhà ga, ra ngoài phố. Cho dù
các cư dân Coal chẳng buồn liếc mắt nhìn chúng tôi tới lần thứ hai lúc chúng
tôi đi vào thị trấn trước đó, giờ họ ngoái đầu nhìn theo chăm chăm như những
con cú khi chúng tôi bị giải đi thành một hàng trước họng súng. Gã lính giữ cho
chúng tôi đi ngay ngắn trong hàng, cấm cảu quát nạt khi ai đó đi trệch hàng quá
xa. Tôi đi sau cùng, hắn đằng sau lưng tôi, và tôi có thể nghe thấy tiếng dây
lưng đạn kêu lạch cạch trong khi chúng tôi bước đi. Chúng tôi đang quay ngược
trở lại con đường đã đi tới lúc trước, thẳng ra khỏi thị trấn.
Tôi tưởng tượng ra cả tá kế hoạch
đào tẩu. Chúng tôi nên tản ra. Không - hắn sẽ bắn hạ ít nhất vài người trong
chúng tôi. Có lẽ ai đó cần vờ ngất xỉu trên đường, sau đó người đi sau sẽ vấp
chân, rồi trong lúc lộn xộn - không, hắn quá tỉnh táo để mắc mưu một trò kiểu
đó. Ai đó trong chúng tôi cần phải tiếp cận hắn đủ gần để đoạt lấy khẩu súng.
Tôi. Tôi là người ở gần nhất. Có
thể nếu tôi bước đi chậm lại một chút, để hắn bắt kịp, sau đó lao vào hắn…
nhưng tôi đang đùa với ai đây? Tôi không phải là một anh hùng phim hành động.
Tôi sợ đến mức gần như nghẹt thở. Dù thế nào đi nữa, hắn còn cách sau lưng tôi
hơn chín mét, và súng của hắn chĩa thẳng vào lưng tôi. Hắn sẽ bắn tôi ngay khi
tôi quay người lại, và tôi sẽ nằm giữa đường mất máu đến chết. Đó là ý tưởng
ngu ngốc chứ không phải ý tưởng anh dũng.
Một chiếc xe jeep rồ máy chạy tới
từ phía sau và vượt lên qua bên cạnh chúng tôi, đi chậm lại để vừa với nhịp bước
của chúng tôi. Có thêm hai gã lính trên xe, cả hai đều đeo kính râm to bản. Tôi
biết đằng sau những mắt kính đó là cái gì. Gã xác sống ngồi trên ghế hành khách
gật đầu với gã đã bắt được chúng tôi và khẽ chào - Chúc đi đường bình an! - rồi quay sang chúng tôi nhìn trừng trừng.
Từ khoảnh khắc đó, hắn không lúc nào rời mắt khỏi chúng tôi hay rời tay khỏi khẩu
súng trường của mình.
Giờ chúng tôi đã có cả đội hộ tống,
từ một gã xác sống cầm súng trường đã biến thành ba. Mọi hy vọng thoát thân
trong tôi đều tan biến.
Chúng tôi bước đi, đi mãi, giày giẫm
lạo xạo trên mặt đường rải sỏi, động cơ chiếc jeep gầm gừ bên cạnh chúng tôi
như một chiếc máy cắt cỏ rẻ tiền. Thị trấn khuất dần, và một trang trại xuất hiện
hai bên con đường chạy giữa hàng cây, những cánh đồng bỏ hoang trơ trụi. Mấy gã
lính không nói với nhau lời nào. Có gì đó thật máy móc ở chúng, như thể bộ óc của
chúng đã bị rút ra và thay bằng những bảng mạch. Người ta vẫn nói lũ xác sống rất
khôn ngoan, nhưng theo tôi thấy mấy gã này có vẻ giống như người máy. Thế rồi
tôi nghe thấy một tiếng vo ve bên tai mình, khi ngẩng lên, tôi nhìn thấy một
con ong lượn vòng quanh đầu mình rồi bay đi.
Hugh, tôi nghĩ thầm. Cậu ta
đang định làm gì vậy? Tôi nhìn về phía cậu ta trong hàng, lo rằng Hugh có
thể đang toan tính gì đó sẽ khiến tất cả chúng tôi bị bắn - nhưng tôi không thấy
cậu ta.
Tôi đếm nhẩm nhanh trong đầu. Một-hai-ba-bốn-năm-sáu. Trước mặt tôi là
Emma, rồi đến Enoch, Horace, Olive, Millard và Bronwyn.
Hugh đâu rồi?
Tôi gần như nhảy dựng lên không.
Hugh không có ở đây! Nghĩa là cậu ta đã không bị bắt cùng chúng tôi. Cậu ta vẫn
còn tự do! Có lẽ trong lúc hỗn loạn tại nhà ga, cậu ta đã chui xuống khoảng trống
giữa đoàn tàu và ke ga, hoặc đã nhảy lên tàu mà không bị gã lính phát hiện. Tôi
tự hỏi liệu có phải cậu ta đang bám theo chúng tôi hay không - ước gì tôi có thể
ngó lại con đường đằng sau mà không làm cậu ta bại lộ.
Tôi hy vọng Hugh không bám theo
chúng tôi, vì như thế nghĩa là cậu ta đang ở cùng cô Peregrine. Nếu không, làm
thế nào chúng tôi tìm lại được bà? Và nếu bà bị hết dưỡng khí trong khi bị nhốt
bên trong cái rương đó thì làm sao? Và vào năm 1940 người ta sẽ làm gì với những
món hành lý có vẻ đáng ngờ bị bỏ lại đây?
Khuôn mặt tôi nóng bừng, cổ thắt lại.
Có quá nhiều điều để sợ, cả trăm viễn cảnh kinh hoàng chen nhau cố thu hút sự
chú ý trong đầu tôi.
- Trở vào hàng! - gã lính sau lưng
tôi quát, và tôi nhận ra hắn đang nói với tôi - vì trong tâm trạng sốt xình xịch,
tôi đã đi trệch quá xa khỏi tâm đường. Tôi hối hả quay lại vị trí của mình sau
lưng Emma, cô ngoái lại hướng ánh mắt van nài về phía tôi - Đừng làm hắn nổi cáu! - và tôi tự hứa rằng
mình sẽ giữ bình tĩnh.
Chúng tôi bước đi trong im lặng bồn
chồn, sự căng thẳng vo vo lan đi trong chúng tôi như một luồng điện. Tôi có thể
thấy nó ở Emma khi cô không ngừng siết chặt hai nắm tay rồi lại xòe ra; ở Enoch
khi cậu lắc đầu lẩm bẩm một mình; ở Olive theo từng bước chân đi chệnh choạng.
Có vẻ như chỉ còn là vấn đề thời gian, ai đó trong chúng tôi sẽ làm gì đó liều
mạng và những viên đạn sẽ bắt đầu lao đến.
Thế rồi tôi nghe thấy Bronwyn kêu
lên thảng thốt, tôi bèn ngẩng lên nhìn, một cảnh tượng kinh hoàng tôi chưa bao
giờ hình dung ra nổi hiện ra trước mắt tôi. Ba vật thể to tướng nằm bất động
phía trước chúng tôi, một trên đường, hai ở cánh đồng ven đường, ngay bên kia một
con lạch nông. Thoạt đầu tôi nghĩ đó là những đống đất đen, không buồn nhìn vào
chúng.
Thế rồi chúng tôi lại gần hơn, và
tôi không thể coi như chúng là gì khác ngoài bản chất thật của chúng: ba con ngựa
chết nằm chết trên đường.
Olive kêu thét lên. Bronwyn theo bản
năng quay lại trấn an cô bé - “Đừng nhìn,
chích chòe bé bỏng!” - và gã lính ngồi trên xe nổ súng bắn đạn chì lên trời.
Chúng tôi nhào xuống đất, đưa tay ôm đầu.
- Làm thế lần nữa là mày sẽ nằm dưới
lạch cạnh chúng nó đấy! - hắn quát.
Trong lúc chúng tôi đứng dậy, Emma
quay về phía tôi và thì thầm Digan,
sau đó hất hàm về phía con ngựa gần nhất. Tôi hiểu ý cô: đây là mấy con ngựa của
họ. Thậm chí tôi còn nhận ra những dấu hiệu trên một con - các chấm trắng trên
hai chân sau của nó - và biết đó chính là con ngựa tôi mới cưỡi chỉ một giờ trước.
Tôi cảm thấy như mình sắp nôn ọe.
Tất cả cùng ùa về ráp vào nhau, hiện
ra như một cuốn phim trong đầu tôi. Lũ xác sống đã gây ra chuyện này - cũng
chính những kẻ đã tấn công khu trại của chúng tôi tối hôm trước.
Những người Digan đã gặp phải
chúng trên đường sau khi để chúng tôi lại bên rìa thị trấn. Đã có một cuộc giao
chiến, rồi một cuộc truy đuổi. Đám xác sống đã bắn chết lũ ngựa của những người
Digan ngay khi họ đang cưỡi chúng.
Tôi biết bọn xác sống đã giết người
- giết những đứa trẻ đặc biệt. Cô Avocet đã nói thế - song sự tàn bạo của việc
bắn chết những con vật này có vẻ vượt xa cả sự độc ác đó. Một giờ trước, chúng
từng là ba trong số những tạo vật giàu sức sống nhất mà tôi từng thấy - đôi mắt
long lanh khôn ngoan, thân mình vạm vỡ cơ bắp, hừng hực hơi nóng - còn giờ đây,
chỉ vì sự can thiệp của vài mảnh kim loại, chúng chỉ còn là những đống thịt lạnh
ngắt. Những con vật mạnh mẽ, kiêu hãnh bị bắn hạ và bỏ lại trên đường như rác
rưởi.
Tôi rùng mình vì sợ hãi, run lên
vì phẫn nộ. Tôi cũng thấy ăn năn vì từng có định kiến với chúng. Tôi quả là một
thằng nhóc được nuông chiều vô ơn.
Bình tĩnh lại, tôi tự nhủ. Hãy
trấn tĩnh bản thân.
Bekhir và người của ông bây giờ
đâu rồi? Con trai ông đâu? Tất cả những gì tôi biết là đám xác sống sẽ bắn
chúng tôi. Đến giờ thì tôi đã chắc vì chuyện đó. Lũ giả danh mặc áo lính này
cũng chỉ là những động vật; thậm chí còn quái gở hơn cả lũ hồn rỗng chúng kiểm
soát. Ít nhất đám xác sống cũng có bộ óc biết tư duy lý trí - nhưng chúng đã
dùng năng lực sáng tạo đó để hủy hoại thế giới. Để biến sinh vật thành vật chết.
Và để làm gì? Để chúng có thể sống lâu thêm một chút. Để chúng có thể có nhiều
quyền lực hơn một chút lên thế giới quanh chúng, cũng như các sinh vật sống
trong thế giới đó, vốn chẳng mấy được chúng để tâm đến.
Tàn sát. Một sự tàn sát mới ngu ngốc
làm sao.
Và giờ chúng sẽ chẳng tiếc gì sinh
mạng của chúng tôi. Dẫn chúng tôi tới một nơi hành quyết nào đó, rồi tra hỏi và
đánh đập. Và nếu Hugh đủ ngốc để đi theo chúng tôi - nếu con ong bay ngược bay
xuôi theo hàng của chúng tôi đồng nghĩa với việc cậu ta đang ở gần đây - thì
chúng sẽ giết cả cậu ta nữa.
Xin Chúa cứu giúp tất cả chúng
tôi.
* * *
Những con ngựa chết đã lùi lại xa
đằng sau chúng tôi khi mấy gã lính ra lệnh cho chúng tôi rời khỏi đường rẽ vào
một lối mòn hẹp. Đó gần như chỉ là một lối mòn đi bộ, rộng cỡ vài bàn chân, vì
thế mấy gã lính đang chạy xe bên cạnh chúng tôi buộc phải đỗ chiếc jeep lại và
đi bộ, một gã đi trước và hai gã đằng sau. Hai bên chúng tôi các cánh đồng đều
hoang hóa, đầy cỏ dại đang nở hoa và rì rầm âm thanh của những con côn trùng cuối
hè.
Một nơi thật đẹp để chết.
Sau một hồi, một căn lán lợp rạ xuất
hiện trong tầm mắt bên rìa cánh đồng. Đó
là nơi chúng sẽ làm việc đó, tôi nghĩ. Đó
là nơi chúng sẽ giết chúng ta.
Khi chúng tôi lại gần, một cánh cửa
mở ra và một gã lính bước ra khỏi lán. Hắn mặc khác những kẻ đang vây quanh
chúng tôi: thay vì mũ sắt, hắn đội một chiếc mũ sĩ quan viền đen, và thay vì
súng trường, hắn mang súng lục đeo trong bao đựng.
Gã này là chỉ huy.
Hắn đứng trên lối mòn khi chúng
tôi lại gần, nhấp nhổm trên hai gót chân và nở một nụ cười trưng ra bộ răng trắng
bóc.
- Cuối cùng chúng ta cũng gặp
nhau! - hắn lên tiếng. - Chúng mày đã khiến bọn ta phải đi lòng vòng kha khá đấy,
nhưng ta biết cuối cùng thế nào bọn ta cũng bắt được chúng mày. Chỉ là vấn đề
thời gian thôi!
Hắn có vóc người béo lùn, nét mặt
trẻ con, mái tóc thưa có màu sáng đến mức gần như bạc trắng, và tràn đầy một thứ
hưng phấn quái lạ, vui vẻ hệt như một thủ lĩnh Hướng đạo sinh đang hào hứng quá
độ. Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ khi nhìn vào hắn là: Súc sinh. Quái vật. Sát nhân.
- Lại đây, lại đây, - gã sĩ quan
nói, đẩy mở cửa lán ra. - Bạn chúng mày đang đợi bên trong.
Trong lúc đám lính của hắn xua
chúng tôi đi qua trước mặt hắn, tôi thoáng thấy cái họ khâu trên áo sơ mi của hắn:
WHITE (màu trắng).
Như màu sắc vậy.
Ông White. Có thể là một trò đùa chăng? Ở hắn chẳng có gì có vẻ xác
thực; cái họ này càng ít thật hơn.
Chúng tôi bị đẩy vào trong, bị
quát dồn vào một góc. Căn buồng duy nhất trong lán không có đồ đạc gì và đông
chật người. Bekhir và người của ông ngồi dưới đất, tựa lưng vào tường. Họ đã bị
đối xử rất tệ: tất cả đều bầm tím, máu me bê bết, nhếch nhác thảm hại. Thiếu mất
mấy người, trong đó có cậu con trai Bekhir. Đứng canh họ là hai gã lính nữa -
như vậy tổng cộng có sáu gã, nếu tính cả gã White và đội áp giải chúng tôi.
Bekhir bắt gặp ánh mắt chúng tôi
liền nghiêm nghị gật đầu. Hai má ông thâm tím những vết bầm giập. Tôi xin lỗi, ông nói thầm với tôi.
Gã White thấy chúng tôi trao đổi với
nhau liền bước ngay lại chỗ Bekhir.
- Ái chà! Mày biết lũ nhóc này
sao?
- Không, - Bekhir nói, cúi gằm mặt
xuống.
- Không à? - Gã White làm bộ kinh
ngạc. - Nhưng mày vừa xin lỗi thằng nhóc đó. Chắc chắn mày phải biết nó, hay là
mày có thói quen xin lỗi người lạ đấy hả?
- Chúng không phải là đám trẻ các
ông đang tìm kiếm, - Bekhir nói.
- Tao nghĩ chính là chúng nó đấy,
- gã White nói. - Tao nghĩ đây chính là lũ nhóc chúng tao đang tìm. Và thêm nữa,
tao nghĩ tối qua chúng nó đã nghỉ lại khu trại của mày.
- Tôi nói với ông rồi, tôi chưa
bao giờ thấy chúng.
Gã White tặc lưỡi như một thầy
giáo đang chê trách học trò.
- Digan này, mày có nhớ tao đã hứa
sẽ làm gì nếu tao phát hiện ra mày nói dối tao không hả? - Hắn rút một con dao
ra từ thắt lưng ra và kề lưỡi dao lên má Bekhir. - Đúng rồi. Tao đã hứa sẽ cắt
cái lưỡi dối trá của mày ra ném cho chó của tao ăn. Và tao luôn giữ lời hứa của
mình.
Bekhir bắt gặp ánh mắt vô hồn của Ông White và trừng mắt nhìn lại không
nao núng. Từng giây trôi qua trong sự im lặng căng thẳng tột cùng. Đôi mắt tôi
nhìn chằm chằm vào con dao. Cuối cùng, gã White nặn ra một nụ cười và lại điệu
bộ đứng thẳng người lên, phá vỡ sự im lặng.
- Nhưng, - hắn vui vẻ nói, - việc
cần làm thì phải làm trước đã!
Hắn quay sang đối diện với mấy gã
lính đã áp giải chúng tôi.
- Ai trong chúng mày có con chim của
chúng nó?
Mấy gã lính nhìn nhau. Một gã lắc
đầu, rồi một gã khác.
- Chúng tôi không thấy nó, - gã
lính đã bắt chúng tôi tại ga nói.
Nụ cười của gã White xìu xuống. Hắn
quỳ gối xuống cạnh Bekhir.
- Mày nói với tao là chúng nó mang
theo con chim, - hắn nói.
Bekhir nhún vai.
- Chim có cánh. Chúng đến rồi đi.
Ông White đâm vào đùi Bekhir. Chỉ đơn giản là vậy: nhanh chóng, vô
cảm, lưỡi dao đâm vào rồi rút ra. Bekhir kêu thét lên vì kinh ngạc và đau đớn rồi
ngã lăn ra, ôm lấy chân trong khi máu bắt đầu chảy. Horace ngất đi lăn kềnh ra
sàn. Olive thảng thốt kêu to và đưa tay che mắt.
- Mày nói dối tao hai lần rồi đấy,
- gã White vừa nói vừa lau sạch lưỡi dao lên một chiếc khăn tay. Số còn lại
trong chúng tôi nghiến chặt răng và kìm chế không nói gì, nhưng tôi có thể thấy
Emma đã chuẩn bị báo thù, xoa hai bàn tay vào nhau sau lưng để làm chúng nóng
lên. Gã White ném chiếc khăn tay dính đầy máu xuống sàn, tra dao lại vào vỏ và
đứng dậy đối diện với chúng tôi. Hắn gần như mỉm cười song không phải mỉm cười,
mắt mở to, đôi lông mày dính làm một nhướng lên thành một chữ M hoa.
- Con chim của chúng mày đâu? - hắn
bình thản hỏi. Hắn càng làm ra vẻ tử tế thì càng làm tôi chết khiếp.
- Nó bay đi rồi, - Emma bực bội
nói. - Đúng như ông ấy đã nói với ông.
Tôi ước gì cô không lên tiếng; giờ
đây tôi sợ hắn sẽ lôi riêng cô ra tra tấn. Gã White bước về phía Emma và nói:
- Cánh của nó bị thương. Người ta
thấy mày cùng với con chim mới chỉ hôm qua thôi. Nó không thể ở xa đây. - Hắn hắng
giọng. - Tao sẽ hỏi lại mày lần nữa.
- Nó chết rồi, - tôi nói. - Chúng
tôi đã ném nó xuống một con sông.
Có thể nếu tôi làm hắn bực hơn
Emma, hắn sẽ quên là cô từng lên tiếng.
Gã White thở dài. Tay phải hắn lướt
qua bao súng, nấn ná lại chỗ cán con dao, rồi quay lại đặt vào cái khóa đồng của
thắt lưng. Hắn hạ giọng như thể những gì hắn sắp nói chỉ nhằm đến đôitai của
tôi mà thôi.
- Tao hiểu vấn đề rồi. Chúng mày
tin rằng sẽ chẳng ích gì nếu thành thật với tao. Tin rằng chúng tao sẽ giết
chúng mày dù chúng mày có làm gì, nói gì đi chăng nữa. Tao cần chúng mày biết
là không phải thế. Tuy nhiên, để hoàn toàn thành thật, tao sẽ nói thế này: đáng
lẽ chúng mày không nên buộc bọn tao phải săn đuổi chúng mày. Đó là một sai lầm.
Chuyện này đã có thể dễ dàng hơn nhiều, nhưng giờ thì ai nấy đều tức giận,
chúng mày thấy đấy, vì chúng mày đã làm lãng phí quá nhiều thời gian của bọn
tao.
Hắn chỉ một ngón tay về phía đám
lính của mình.
- Những người này ư? Họ thích làm
chúng mày đau lắm. Ngược lại, tao có thể nhìn nhận mọi thứ từ góc độ của chúng
mày. Bọn tao đúng là có vẻ đáng sợ, tao hiểu điều đó. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của
chúng ta, trên boong chiếc tàu ngầm của tao, đúng là thiếu lịch sự xã giao một
cách đáng tiếc. Hơn thế, các Chủ Vòng của chúng mày đã đầu độc chúng mày bằng
những thông tin sai lệch về bọn tao suốt nhiều thế hệ. Vì thế cũng là tự nhiên
thôi khi chúng mày chạy. Với cách nhìn nhận như thế, tao sẵn sàng dành cho
chúng mày thứ tao nghĩ là một đề nghị hợp lý. Chỉ cho bọn tao thấy con chim
ngay bây giờ, và thay vì làm đau chúng mày, bọn tao sẽ gửi chúng mày tới một
nơi đẹp đẽ, nơi chúng mày sẽ được chăm sóc chu đáo. Được ăn hằng ngày, có giường
riêng… một nơi cũng không gò bó hơn cái Vòng Thời Gian lố bịch chúng mày đã ẩn
náu suốt những năm qua.
Gã White nhìn sang người của hắn
và phá lên cười.
- Chúng mày có tin nổi lũ nhóc này
đã sống - bao nhiêu nhỉ, bảy mươi năm phải không? - từng ấy thời gian trên một
hòn đảo bé xíu, sống mãi cùng một ngày lặp đi lặp lại không? Tồi tệ hơn bất cứ
nhà tù nào tao có thể nghĩ ra. Đáng lẽ đã thật dễ dàng hợp tác! - Hắn nhún vai,
nhìn trở lại chúng tôi. - Nhưng ngạo mạn, sự ngạo mạn như nọc độc, đã chế ngự
chúng mày. Và thử nghĩ xem, suốt quãng thời gian ấy đáng lẽ chúng ta có thể làm
việc cùng nhau hướng tới một lợi ích chung!
- Làm việc cùng nhau ư? - Emma
nói. - Các ông săn đuổi chúng tôi! Cử lũ quái vật tới giết chúng tôi!
Khỉ thật, tôi nghĩ. Im đi
nào!
Gã White trưng ra bộ mặt của một
chú cún con đang buồn phiền.
- Quái vật ư? - hắn nói. - Thật
đau lòng. Mày đang nói về tao đấy, mày biết chứ! Tao và tất cả người của tao ở
đây, trước khi bọn tao tiến hóa. Tuy thế, tao sẽ cố không để bụng sự xúc phạm của
mày. Giai đoạn thiếu niên hiếm khi hấp dẫn, dù là giống loài nào đi nữa.
Hắn vỗ mạnh hai bàn tay, làm tôi
giật bắn mình.
- Bây giờ, thẳng vào việc!
Hắn soi mói chúng tôi bằng cái
nhìn chằm chằm chậm rãi, giá lạnh, như thể tìm kiếm điểm yếu trong hàng ngũ
chúng tôi. Ai trong chúng tôi sẽ gục ngã đầu tiên? Rốt cuộc ai sẽ cho hắn biết
sự thật về cô Peregrine đang ở đâu?
Gã White nhắm vào Horace. Cậu ta
đã hồi lại sau khi ngất xỉu nhưng vẫn nằm dưới sàn, co quắp và run bần bật. Hắn
bước một bước dứt khoát về phía cậu ta. Horace thu người lại trước tiếng ủng của
hắn.
- Đứng dậy, nhóc.
Horace không nhúc nhích.
- Ai đó nâng thằng nhóc dậy.
Một gã lính cộc cằn nắm lấy cánh
tay lôi Horace đứng lên. Horace co ro trước mặt gã White, mắt nhìn xuống sàn.
- Tên mày là gì, nhóc?
- Hơ… hơ… Horace…
- Được, Hơ-Horace, mày có vẻ là đứa
biết điều. Thế nên tao sẽ cho mày lựa chọn.
Horace hơi ngẩng đầu lên.
- Lựa chọn…?
Gã White rút dao ra khỏi thắt lưng
và chĩa nó về phía mấy người Digan.
- Chọn xem ai sẽ bị giết đầu tiên.
Tất nhiên là, trừ phi mày muốn cho tao biết Chủ Vòng của mày đang ở đâu. Khi đó
không ai phải chết cả.
Horace nhắm tịt hai mắt lại, như
thể cậu ta chỉ muốn ước gì mình biến khỏi nơi này.
- Hoặc, - gã White nói, - nếu mày
không muốn chọn một đứa trong bọn chúng, tao sẽ rất vui lòng chọn ai đó trong
chúng mày. Mày có thích thế hơn không?
- Không!
- Vậy nói cho tao biết! - gã White
gầm lên, hai môi thu lại để lộ bộ răng sáng bóng.
- Đừng nói gì với chúng hết, syndrigasti! - Bekhir hô lớn, và một gã
lính đá vào bụng ông, làm ông rên rỉ vật ra rồi im bặt.
Ông White đưa tay ra chộp lấy cằm Horace, cố buộc cậu ta phải nhìn
thẳng vào đôi mắt trắng dã ghê rợn của hắn.
- Mày sẽ nói cho tao biết chứ, phải
không? Mày nói cho tao biết, thì tao sẽ không làm hại mày.
- Vâng, - Horace nói, vẫn tiếp tục
nhắm tịt mắt lại, vẫn tiếp tục ước cậu ta sẽ biến được đi, song vẫn phải ở lại
nơi này.
- Vâng gì hả?
Horace hít một hơi run rẩy.
- Vâng, tôi sẽ nói cho ông biết.
- Đừng! - Emma hét lên.
Ôi Chúa ơi, tôi nghĩ. Cậu ta
sẽ khai ra bà ấy. Cậu ta quá bạc nhược.
Đáng lẽ bọn mình nên để cậu ta lại chỗ trại động vật…
- Suỵt, - gã White thì thầm rít
lên vào tai cậu ta. - Đừng có nghe lời chúng. Giờ nói đi, con trai. Nói cho ta
biết con chim đó ở đâu.
- Nó ở trong ngăn kéo, - Horace
nói.
Đôi lông mày dính nhau của gã
White nhíu lại.
- Ngăn kéo. Ngăn kéo nào?
- Vẫn cái ngăn kéo nơi nó luôn ở
đó, - Horace nói.
Hắn chộp lấy hàm Horace lắc lắc và
gầm lên:
- Ngăn kéo nào?!
Horace bắt đầu nói gì đó, rồi ngậm
miệng lại. Khó nhọc nuốt nước bọt. Lưng cứng lại. Thế rồi cậu ta mở mắt ra,
nhìn trừng trừng vào mặt gã White và nói:
- Ngăn kéo quần lót của mẹ mày ấy,
- rồi cậu ta nhổ toẹt vào mặt hắn.
Gã White dùng cán dao đập vào bên
đầu Horace. Olive kêu thét lên, vài người trong chúng tôi bất giác giật thót
mình đau đớn khi Horace ngã vật ra sàn như một tải khoai tây, tiền lẻ và vé tàu
rơi tung ra từ các túi áo cậu ta.
- Cái gì thế này? - gã White nói,
cúi người xuống nhìn.
- Tôi bắt được chúng đang cố lên một
chuyến tàu, - gã lính đã bắt được chúng tôi nói.
- Sao đến bây giờ mày mới nói cho
tao biết hả?
Gã lính lúng túng.
- Tôi tưởng…
- Đừng bận tâm, - gã White nói. - Đi
đón đầu nó. Ngay lập tức.
- Thưa ngài?
Gã White liếc nhìn vé tàu, rồi xem
đồng hồ của hắn.
- Chuyến tàu tám giờ ba mươi đi
London sẽ dừng lâu tại Porthmadog. Nếu mày khẩn trương, nó sẽ vẫn còn đợi mày ở
đó. Lục soát đoàn tàu từ đầu tới cuối, bắt đầu từ toa hạng nhất.
Gã lính đứng nghiêm chào rồi ra
ngoài.
Gã White quay sang mấy gã lính còn
lại.
- Lục soát mấy đứa nhóc còn lại, -
hắn ra lệnh. - Xem xem chúng có mang theo gì đáng quan tâm không. Nếu chúng chống
cự, bắn bỏ.
Trong khi hai gã lính chĩa súng
trường canh chừng chúng tôi, gã thứ ba đi qua từng đứa trẻ đặc biệt một, lục
tìm trong các túi của chúng tôi. Phần lớn chúng tôi chẳng có gì ngoài những mẩu
bánh vụn và xơ vải, nhưng gã lính tìm thấy một chiếc lược ngà trên người
Bronwyn - “Làm ơn, nó là của mẹ tôi!” -
cô cầu xin, nhưng hắn chỉ bật cười và nói, “Bà
ta đáng lẽ ra nên dạy mày cách dùng nó, con nhóc tướng đàn ông!”. Enoch
mang theo một cái túi nhỏ đựng đất huyệt lúc nhúc giun, gã lính mở cái túi ra,
ngửi ngửi, rồi kinh tởm thả rơi xuống. Trong túi tôi hắn tìm thấy chiếc điện
thoại di động đã tắt ngóm. Emma thấy nó rơi bịch xuống sàn và nhìn tôi vẻ lạ
lùng, băn khoăn tại sao tôi vẫn còn giữ nó. Horace nằm bất động dưới sàn, đã bị
đánh ngất hoặc đang giả ngất. Sau đó đến lượt Emma, nhưng cô không chịu. Khi gã
lính tiến về phía cô, Emma gằm ghè.
- Chạm một bàn tay vào người tôi
là tôi đốt trụi luôn đấy!
- Làm ơn giữ lửa của cô lại! - hắn
nói rồi phá lên cười. - Xin lỗi, không thể dừng được.
- Tôi không đùa đâu, - Emma nói,
và cô giơ hai bàn tay từ sau lưng ra. Chúng đỏ rực, và thậm chí từ cách xa cả
mét tôi vẫn có thể cảm thấy hơi nóng chúng phả ra.
Gã lính bật lùi lại khỏi tầm tay
cô.
- Cái chạm tay quả là nóng bỏng,
tính khí cũng chẳng kém! - hắn nói. - Tao thích điều đó ở một phụ nữ. Nhưng cứ
thử đốt tao xem, rồi anh bạn Clark kia sẽ cho óc cô em tung tóe lên tường.
Gã lính hắn vừa nói đến gí nòng
súng trường vào đầu Emma. Cô nhắm mắt lại, lồng ngực phập phồng gấp gáp. Sau
đó, cô hạ hai bàn tay xuống đưa ra sau lưng. Có thể thấy cả người cô đang run
lên vì phẫn nộ.
Cả tôi cũng vậy.
- Giờ thì liệu chừng, - gã lính cảnh
cáo cô. - Không được cử động đột ngột.
Hai nắm tay tôi siết chặt lại
trong khi tôi quan sát hai bàn tay hắn đưa lên đưa xuống theo hai bàn
chân cô, rồi lùa các ngón tay vào dưới đường viền cổ váy cô, làm tất cả một
cách chậm chạp không cần thiết cùng một nụ cười nhăn nhở đểu cáng. Từ bé đến giờ
tôi chưa bao giờ cảm thấy bất lực đến thế, kể cả khi chúng tôi bị nhốt trong
cái chuồng thú đó.
- Cô ấy không có gì cả! - tôi hét
lên. - Để cô ấy yên!
Tôi bị lờ đi.
- Tôi thích con bé này, - gã lính
nói với White. - Tôi nghĩ chúng ta nên giữ cô ta lại một thời gian. Vì… khoa học.
Gã White nhăn mặt.
- Anh đúng là một kẻ đáng ghê tởm,
hạ sĩ. Nhưng tôi đồng ý với anh - con bé thật đáng kinh ngạc. Tao đã nghe nói về
mày rồi, mày biết đấy, - hắn nói với Emma. - Tao sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để
làm được điều mày có thể làm. Giá như chúng ta có thể ngâm hai bàn tay đó của
mày trong chai…
Gã White mỉm cười thật quái gở đoạn
quay sang gã lính.
- Kết thúc đi, - hắn gắt gỏng, - chúng
ta không có cả ngày đâu.
- Rất sẵn lòng, - gã lính đáp, rồi
vừa đứng dậy vừa đưa bàn tay vuốt theo thân người Emma.
Chuyện xảy ra tiếp theo dường như
một cảnh phim quay chậm. Tôi có thể thấy gã dâm dật ghê tởm này chuẩn bị cúi
người xuống hôn Emma. Tôi cũng thấy sau lưng cô, lúc này hai bàn tay Emma đã được
nối với nhau bằng một quầng lửa. Tôi biết chuyện này sẽ đi tới đâu: ngay khoảnh
khắc môi hắn kề sát vào cô, Emma sẽ vung hai bàn tay ra trước và đốt cháy mặt hắn
- cho dù như thế có nghĩa là phải chịu một viên đạn. Cô đã vượt quá ngưỡng chịu
đựng.
Cả tôi cũng vậy.
Tôi căng người, sẵn sàng chiến đấu.
Tôi tin chắc đây là những khoảnh khắc cuối cùng của chúng tôi. Nhưng chúng tôi
sẽ sống những khoảnh khắc này như chúng tôi muốn - và nếu sắp phải chết, thề có
Chúa, chúng tôi sẽ lôi vài gã xác sống đi theo.
Gã lính đưa hai bàn tay trượt
quanh hông Emma. Nòng khẩu súng của một gã khác ấn vào trán cô. Cô dường như
đang ấn trán vào nòng súng, thách hắn bắn. Sau lưng Emma, tôi thấy hai bàn tay
cô bắt đầu xòe ra, những lưỡi lửa nóng trắng cháy dọc theo từng ngón tay.
Đến lúc rồi.
Thế rồi Đoàng! một tiếng súng
vang lên, choáng váng và đinh tai. Tôi nhắm mắt lại, mọi thứ tối đen trong một
giây.
Khi thị lực trở lại với tôi, Emma
vẫn đang đứng. Đầu cô vẫn còn nguyên. Khẩu súng gí vào nó lúc trước giờ chĩa xuống
dưới, còn gã lính vừa định hôn cô đã lùi ra, quay ngoắt người lại nhìn ra cửa sổ.
Phát súng tới từ bên ngoài.
Mọi đầu dây thần kinh trên người
tôi đều tê dại, rần rật vì kích động.
- Cái gì vậy? - gã White hỏi, hối
hả lao tới cửa sổ.
Tôi có thể nhìn qua lớp kính từ
sau lưng hắn. Gã lính lúc trước đã đi chặn đón đoàn tàu đang đứng bên ngoài,
người ngập tới hông trong hoa dại. Hắn quay lưng về phía chúng tôi, súng trường
chĩa về phía cánh đồng.
Gã White thò tay qua các chấn song
cửa sổ và đẩy mở cửa ra.
- Mày bắn cái quái gì thế hả? - hắn
gắt gỏng. - Sao mày vẫn còn ở đây?
Gã lính không nhúc nhích, không
nói gì. Cả cánh đồng sôi động với tiếng vo vo của côn trùng, và trong một lát,
đó là tất cả những gì chúng tôi nghe thấy.
- Hạ sĩ Brown! - gã White lớn tiếng.
Gã kia chậm chạp quay lại, chân lảo
đảo. Khẩu súng trường tuột khỏi tay hắn rơi xuống đám cỏ cao. Hắn loạng
choạng bước tới vài bước.
Gã White rút khẩu súng ổ quay ra
khỏi bao, chĩa nó ra ngoài cửa sổ về phía Brown.
- Nói gì đi chứ, đồ chết tiệt!
Brown há miệng và cố nói; nhưng
thay vì giọng nói của hắn, một âm thanh vo vo kỳ quái vọng lên từ trong bụng hắn,
giống hệt âm thanh đang vang lên trên khắp cánh đồng quanh hắn.
Đó là tiếng ong đập cánh. Hàng
trăm, hàng nghìn con ong. Tiếp theo những con ong xuất hiện: thoạt đầu chỉ vài
con, chui ra qua đôi môi hé mở của hắn. Thế rồi một sức mạnh nào đó vượt qua sức
lực của gã lính dường như đã nắm lấy hắn: hai vai hắn thụt ra sau, ngực ưỡn ra
trước và quai hàm hắn há ngoác ra mở rộng, rồi từ trong cái mồm đang há hoác của
hắn ùa ra một luồng ong dày đặc tới mức trông chúng như một khối duy nhất; một
dòng dài côn trùng tuồn tuột chui ra dường như vô tận từ cổ họng hắn.
Gã White loạng choạng lùi lại khỏi
cửa sổ, sững sờ đến kinh hoàng.
Ngoài cánh đồng, Brown gục xuống
giữa một đám mây ong.
Khi thân hình của hắn ngã vật ra,
một thân hình khác lộ diện sau lưng hắn.
Là một cậu thiếu niên.
Hugh.
Cậu đứng đó đầy thách thức, nhìn
chằm chằm vào qua cửa sổ. Những con côn trùng quần lượn quanh cậu thành một quả
cầu lớn lay động, vần vũ. Ngoài cánh đồng đầy ắp chúng - ong mật và ong bắp
cày, ong vò vẽ và ong vàng, những sinh vật có ngòi để đốt mà tôi không biết hay
không thể kể tên - và có vẻ tất cả chúng đều chịu sự chỉ huy của cậu.
Gã White giương súng lên và bắn hết
băng đạn.
Hugh nhào xuống, biến mất vào đám
cỏ. Tôi không rõ liệu cậu ta bị ngã xuống đất hay chủ động nhào xuống. Rồi ba
gã lính chạy tới bên cửa sổ, và trong khi Bronwyn kêu lên “Làm ơn, đừng giết cậu
ấy!”, chúng bắn như mưa ra ngoài đồng, làm tai chúng tôi ong ong vì tiếng nổ từ
những khẩu súng của chúng.
Thế rồi ong xuất hiện trong phòng.
Có khi đến cả tá, hung hãn lao vào đám lính.
- Đóng cửa sổ vào! - gã White la lớn,
vung tay đập không khí xung quanh hắn.
Một gã lính đóng sầm cửa vào. Tất
cả chúng cùng bắt tay vào đập những con ong đã lọt vào trong. Trong lúc chúng bận
bịu với việc đó, ngày càng có nhiều côn trùng bâu lại bên ngoài - một tấm thảm
khổng lồ, lổn nhổn côn trùng áp sát vào mặt bên kia lớp kính - và nhiều đến nỗi
khi gã White và thủ hạ của hắn giết xong những con ong bên trong phòng, đám côn
trùng bên ngoài đã gần như che khuất mặt trời.
Đám lính co cụm vào giữa phòng,
quay lưng vào nhau, súng chĩa ra ngoài như những chiếc lông nhím. Bên trong tối
tăm và nóng, và tiếng vù vù quái lạ của cả triệu con ong đang nổi điên đập vang
ra khắp phòng như xuất hiện từ một cơn ác mộng.
- Làm cho chúng để bọn tao được
yên! - gã White gào lên, giọng hắn lạc đi, tuyệt vọng.
Cứ như thể còn ai khác ngoài Hugh
có thể làm được điều đó - nếu cậu vẫn còn sống.
- Tao sẽ đưa ra cho mày một đề nghị
khác, - Bekhir vừa nói vừa nắm lấy các chấn song cửa sổ để kéo người đứng dậy,
thân hình tập tễnh của ông nổi bật trên nền kính tối om. - Bỏ súng xuống, nếu
không tao sẽ mở cửa sổ này ra.
Gã White quay ngoắt lại đối diện với
ông.
- Thậm chí một thằng Digan cũng
không ngu tới mức làm việc đó.
- Mày đánh giá chúng tao quá cao đấy,
- Bekhir nói, các ngón tay trượt dần về phía tay nắm cửa.
Đám lính giơ súng trường lên.
- Làm đi, - Bekhir nói. - Bắn đi.
- Đừng bắn, chúng mày sẽ làm vỡ
kính! - gã White hét lên. - Tóm lấy hắn!
Hai gã lính ném súng xuống và lao
tới Bekhir, nhưng trước đó ông đã kịp đấm vỡ lớp kính.
Cả cửa sổ vỡ tan tành. Ong ùa vào
phòng. Cảnh hỗn loạn bùng lên - tiếng la hét, tiếng súng nổ, tiếng xô đẩy - cho
dù tôi hầu như không nghe thấy được dưới tiếng vo vo của bầy côn trùng, thứ âm
thanh dường như không chỉ tràn ngập trong tai tôi mà còn đầy ắp trong từng lỗ
chân lông trên người tôi.
Mọi người trèo cả lên nhau để
thoát ra ngoài. Ở bên phải, tôi thấy Bronwyn đẩy Olive xuống sàn rồi lấy thân
mình che chở cho cô bé. Emma hét to “Nằm xuống!” và chúng tôi nằm bẹp xuống tìm
chỗ trốn trong khi ong bâu đầy trên da, trên tóc chúng tôi. Tôi chờ chết, vì bầy
ong đã phủ kín tất cả phần cơ thể bị hở ra của tôi bằng những cái ngòi đốt chắc
chắn sẽ làm tắt ngấm hệ thần kinh của tôi.
Ai đó đã mở tung cửa. Ánh sáng ùa
vào.
Chừng chục chiếc ủng rầm rầm chạy
đi trên những tấm ván sàn.
Im lặng trở lại. Tôi từ từ bỏ tay
che đầu ra.
Lũ ong đã biến mất. Bọn lính cũng
vậy.
Thế rồi, từ bên ngoài vọng vào một
bản đồng ca những tiếng la hét kinh hoàng. Tôi nhảy bật dậy, hối hả chạy tới
khung cửa sổ vỡ, ở đó một nhóm người Digan và những đứa trẻ đặc biệt đã xúm lại
nhìn ra ngoài.
Thoạt đầu, tôi không hề thấy đám
lính - chỉ một đám côn trùng khổng lồ, dày đặc vần vũ quay cuồng, dày đặc tới mức
tối đen, nằm cách chúng tôi khoảng mười lăm mét về phía đầu lối mòn.
Những tiếng la hét vọng ra từ bên
trong đám côn trùng đó.
Thế rồi từng tiếng la hét một lần
lượt im bặt. Khi tất cả đã kết thúc, đám mây côn trùng bắt đầu tản ra và tan dần,
để lộ ra thân hình gã White và thủ hạ của hắn. Chúng nằm sát cạnh nhau trên cỏ
thấp, đã chết hay gần như vậy.
Hai mươi giây sau, những kẻ triệt
hạ đám xác sống đã biến mất hẳn, tiếng vo vo khủng khiếp của chúng lặng dần khi
chúng quay trở về các cánh đồng. Sau khi chúng ra đi, một sự im lặng lạ lùng và
đượm không khí đồng quê buông xuống, như thể đây chỉ là một ngày hè bình thường
khác, và vừa rồi chẳng có gì bất thường xảy ra.
Emma đếm số thi thể của đám lính
trên các ngón tay cô.
- Sáu. Tất cả chúng, - cô nói. - Thế
là hết.
Tôi đưa cánh tay ôm chầm lấy cô,
run rẩy vì biết ơn và kinh ngạc.
- Mọi người có ai bị thương không?
- Bronwyn hỏi, lo lắng đưa mắt nhìn quanh.
Những khoảnh khắc cuối cùng đã thật
điên khùng - bầy ong đông nghìn nghịt, tiếng súng bắn trong bóng tối. Chúng tôi
kiểm tra xem có ai trong cả bọn bị thương không. Horace vẫn còn choáng nhưng tỉnh
táo, một vệt máu chảy xuống từ thái dương cậu ta. Vết đâm Bekhir phải nhận khá
sâu nhưng sẽ lành. Những người còn lại trong chúng tôi bị chấn động mạnh nhưng
không hề bị thương - và thật kỳ diệu, không ai trong chúng tôi bị ong đốt.
- Khi ông đấm vỡ cửa sổ, - tôi nói
với Bekhir, - làm thế nào ông biết bầy ong sẽ không tấn công chúng ta?
- Tôi không biết, - ông nói. - Thật
may là quyền năng của bạn cậu đủ mạnh.
Bạn của chúng ta…
Emma đột ngột lùi xa khỏi tôi.
- Ôi Chúa ơi! - cô thảng thốt. - Hugh!
Trong lúc hỗn loạn, chúng tôi đã
quên mất cậu ta. Cậu ta có khi đang mất máu đến chết ngày lúc này đây, đâu đó
giữa đám cỏ cao. Nhưng đúng lúc chúng tôi sắp sửa ùa ra ngoài tìm Hugh, cậu ta
xuất hiện trên ngưỡng cửa - rách rưới, dính đầy cỏ, nhưng tươi tỉnh mỉm cười.
- Hugh! - Olive reo lên, chạy ùa đến
chỗ cậu ta.
- Cậu còn sống!
- Tớ còn sống đây! - cậu ta vui vẻ
nói. - Tất cả các cậu vẫn an toàn chứ?
- Vẫn an toàn, nhờ cậu đấy! -
Bronwyn nói. - Ba lần hoan hô dành cho Hugh!
- Cậu đúng là cứu tinh của bọn này
trong lúc khó khăn, Hugh! - Horace reo lên.
- Chẳng ở đâu tớ lại đáng sợ bằng
giữa một cánh đồng đầy hoa dại, - Hugh nói, tận hưởng sự chú ý.
- Xin lỗi về tất cả những lần tớ
mang năng lực đặc biệt của cậu ra đùa, - Enoch nói. - Tớ chắc nó không vô dụng
lắm.
- Thêm vào đó, - Millard nói, - tớ
muốn khen ngợi Hugh về khả năng chọn thời điểm hoàn hảo. Quả thực, nếu cậu tới
chỉ chậm vài giây thôi…
Hugh giải thích cậu đã thoát khỏi
vụ bắt bớ ngoài ga nhờ chui xuống khoảng trống giữa đoàn tàu và ke ga - đúng
như tôi đã nghĩ. Cậu ta phái một con ong trong đàn của mình bám theo chúng tôi,
nhờ đó cậu ta có thể bám theo từ một khoảng cách an toàn.
- Sau đó chỉ còn là vấn đề để tìm
thời điểm hoàn hảo để tấn công, - cậu ta nói đầy tự hào, như thể chiến thắng đã
được đảm bảo chắc chắn từ khoảnh khắc cậu ta quyết định cứu chúng tôi.
- Thế nếu cậu không tình cờ gặp được
một cánh đồng đầy ắp những ong thì sao? - Enoch hỏi.
Hugh lấy thứ gì đó từ trong túi áo
cậu ra và giơ lên: một quả trứng gà đặc biệt.
- Kế hoạch B, - cậu ta nói.
Bekhir tập tễnh đi tới bên Hugh và
bắt tay cậu.
- Chàng trai trẻ, - ông nói, - chúng
tôi nợ cậu mạng sống.
- Thế cậu con trai đặc biệt của
ông thì sao rồi? - Millard hỏi Bekhir.
- Nó đã thoát được cùng hai người
của tôi, ơn Chúa. Hôm nay chúng tôi đã mất ba con ngựa tốt nhưng không mất người
nào.
Bekhir cúi chào Hugh và trong khoảnh
khắc tôi nghĩ thậm chí ông còn định cầm bàn tay Hugh lên hôn.
- Cậu phải cho phép chúng tôi trả
ơn cậu!
Hugh đỏ mặt:
- Không cần đâu, xin cam đoan với
ông…
- Và cũng không có thời gian nữa,
- Emma nói, đồng thời đẩy Hugh qua cửa. - Chúng ta cần bắt kịp chuyến tàu!
Những ai trong chúng tôi vẫn chưa
nhớ ra cô Peregrine đã đi mất đều tái mặt.
- Chúng ta sẽ lấy chiếc jeep của
chúng, - Millard nói. - Nếu chúng ta may mắn - và nếu gã xác sống đó nói đúng -
có thể chúng ta vẫn kịp lên tàu trong khi nó dừng lại ở Porthmadog.
- Tôi biết một đường tắt, - Bekhir
nói, đoạn ông dùng mũi giày vẽ một bản đồ đơn giản lên mặt đất.
Chúng tôi cảm ơn những người
Digan. Tôi nói với Bekhir chúng tôi rất xin lỗi vì đã gây ra cho họ nhiều rắc rối
đến thế, và ông phá lên cười thật to trong khi vẫy tay chào lúc chúng tôi đi
theo lối mòn.
- Chúng ta sẽ gặp lại nhau, syndrigasti, - ông nói. - Tôi biết chắc
là thế!
* * *
Chúng tôi chen nhau leo lên chiếc
jeep của mấy gã xác sống, tám đứa trẻ ngồi lèn chặt như cá sardine trong hộp
trên chiếc xe thiết kế cho ba người ngồi. Vì là người duy nhất từng lái xe, tôi
ngồi vào sau tay lái. Tôi phải mất kha khá thời gian để hình dung ra cách khởi
động cái xe mắc dịch - hóa ra không phải bằng chìa khóa, mà bằng cách bấm vào một
cái nút dưới sàn - rồi sau đó đến chuyện sang số; tôi mới chỉ lái xe số sàn có
vài lần, và luôn có bố tôi chỉ dẫn từ ghế hành khách. Bất chấp tất cả, sau một
hay hai phút, chúng tôi - bấp bênh, nhấp nhổm, có phần do dự - đã lên đường.
Tôi đạp mạnh chân ga và cho xe chạy
nhanh hết mức chiếc jeep quá tải có thể đưa chúng tôi đi, trong khi Millard lớn
tiếng chỉ đường, còn những người khác cố bám chắc. Chúng tôi tới thị trấn
Porthmadog sau hai mươi phút, tiếng còi tàu vang lên trong khi chúng tôi phóng
nhanh theo con phố chính về phía nhà ga. Chúng tôi phanh kít lại trước ga và cuống
cuồng nhảy xuống xe. Tôi còn chẳng buồn tắt máy. Hối hả băng qua nhà ga như những
con báo săn đuổi theo một con linh dương, chúng tôi leo lên toa cuối cùng của
đoàn tàu đúng lúc nó đang được kéo rời khỏi nhà ga.
Chúng tôi đứng cúi gập người xuống
thở hổn hển trên lối đi giữa toa trong khi các hành khách kinh ngạc nhưng cố giấu
cái nhìn chòng chọc. Nhễ nhại mồ hôi, bẩn nhem nhuốc, đầu tóc rũ rượi - trông
chúng tôi hẳn là rất ấn tượng.
- Chúng mình kịp rồi, - Emma hổn hển.
- Tớ không tin nổi chúng mình đến kịp.
- Tớ không tin nổi tớ lái được
nhanh thế, - tôi nói.
Người soát vé xuất hiện.
- Các cô cậu trở lại đây rồi, -
ông này nói kèm theo tiếng thở dài cố nén lại. - Tôi tin là các cô cậu vẫn còn
giữ vé của mình đấy chứ?
Horace moi vé từ trong túi áo chìa
ra thành một nắm.
- Đi đường này tới toa của các cô
cậu, - người soát vé nói.
- Cái rương của chúng cháu! -
Bronwyn nói, bám chặt lấy khuỷu tay người soát vé. - Nó vẫn còn ở đó chứ?
Người soát vé gỡ cánh tay ông ta
ra.
- Tôi đã thử đưa nó tới chỗ hành
lý thất lạc. Nhưng chịu không thể làm cái rương quý hóa đó nhúc nhích lấy một
ly.
Chúng tôi chạy từ toa này sang toa
khác cho tới khi tới khoang hạng nhất, tìm thấy cái rương của Bronwyn vẫn ở
nguyên chỗ cô để nó lại. Cô hối hả lao tới chỗ nó và mở khóa, rồi mở nắp lên.
Cô Peregrine không có trong rương. Tôi cảm thấy một cơn đau tim nho nhỏ.
- Con chim của cháu! - Bronwyn kêu
lên. - Con chim của cháu đâu rồi?!
- Bình tĩnh nào, nó ở ngay đây, -
người soát vé nói, và ông này chỉ lên trên đầu chúng tôi.
Cô Peregrine đang đậu trên một giá
hành lý, ngủ say. Bronwyn loạng choạng lùi lại va vào thành toa, cảm thấy nhẹ
nhõm tới mức thiếu chút nữa thì xỉu đi.
- Làm sao nó lên trên đó được?
Người soát vé nhướng một bên mày
lên.
- Đó là một món đồ chơi rất sống động.
- Ông ta quay người đi ra cửa khoang rồi dừng lại và nói, - Nhân tiện, tôi có
thể mua một món đồ chơi thế này ở đâu nhỉ? Con gái tôi hẳn sẽ thích nó lắm.
- Cháu e rằng nó là độc nhất vô nhị,
- Bronwyn nói, đoạn đỡ cô Peregrine xuống và ôm bà vào lòng.
* * *
Sau tất cả những gì chúng tôi đã
trải qua trong mấy ngày qua - chưa nói gì tới mấy giờ vừa qua - tiện nghi của
khoang hạng nhất quả là một cú sốc. Toa xe của chúng tôi có đi văng da bọc
nhung, một bàn ăn, và những khung cửa sổ ngắm cảnh rộng. Trông nó giống hệt
phòng khách nhà giàu và chúng tôi lại còn không phải chung đụng với ai.
Chúng tôi thay nhau tắm rửa trong
phòng tắm ốp ván gỗ, rồi thưởng thức thực đơn.
- Gọi bất cứ thứ gì các cậu thích,
- Enoch nói, nhấc chiếc điện thoại được gắn vào tay vịn ghế ngả được. - Xin
chào, các vị có pa tê gan ngỗng không? Tôi muốn gọi tất cả. Phải, mọi thứ các vị
có. Và bánh mì nướng tam giác.
Chẳng ai nói gì về những biến cố
đã xảy ra. Có quá nhiều thứ, những thứ quá kinh khủng, và lúc này chúng tôi chỉ
muốn nghỉ ngơi cho lại sức và quên đi. Còn rất nhiều việc phải làm, rất nhiều mối
nguy hiểm phải tính đến.
Chúng tôi dần trở nên thoải mái
hơn với chuyến đi. Bên ngoài, những ngôi nhà thấp bè của Porthmadog bé dần lại,
và ngọn núi của cô Wren hiện lên trong tầm mắt, vươn lên xám xịt phía trên các
ngọn đồi. Trong khi những người khác bị cuốn vào các cuộc trò chuyện, tôi vẫn
dán mũi vào cửa sổ và những khung cảnh vô cùng vô tận của năm 1940 đang hiện ra
đằng sau nó - cho tới tận gần đây, năm 1940 với tôi chỉ là một trải nghiệm nhỏ,
chỉ gói gọn trên một hòn đảo tí xíu, và một nơi tôi có thể rời khỏi bất cứ lúc
nào tôi muốn bằng cách chui qua đường hầm tối tăm trong ngôi mộ đá ở Cairnholm.
Tuy vậy, từ khi rời hòn đảo, năm này trở thành một thế giới, một thế giới trọn
vẹn với những khu rừng đầm lầy, những thị trấn cuộn khói, những thung lũng với
các dòng sông lấp lánh nắng chạy ngoằn ngoèo ngang dọc; và với những con người,
sự vật trông có vẻ cũ kỹ song chưa hề cũ, như những đạo cụ trong một bộ phim về
một thời kỳ quá khứ được dàn dựng công phu nhưng lại chẳng có kịch bản - tất cả
vùn vụt trôi qua ngoài khung cửa sổ của tôi như một giấc mơ vô tận.
Tôi ngủ thiếp đi rồi lại bừng tỉnh,
lại ngủ rồi lại thức dậy, nhịp chuyển động của đoàn tàu ru tôi vào trạng thái
gà gật, trong đó thật dễ quên rằng tôi không chỉ là một kẻ bị động ngồi nhìn,
còn ô cửa sổ của tôi không chỉ là một màn hình chiếu bóng; rằng ngoài kia mọi
thứ cũng đều thực như trong ngày. Thế rồi dần dà tôi nhớ lại mình đã trở thành
một phần thực tại này ra sao: ông nội tôi; hòn đảo; đám trẻ. Cô gái xinh đẹp với
đôi mắt tựa đá lửa ngồi cạnh tôi, bàn tay cô đặt lên bàn tay tôi.
- Có phải tớ thực sự đang ở đây
không? - tôi hỏi cô.
- Ngủ tiếp đi, - cô nói.
- Cậu có nghĩ chúng ta sẽ ổn
không?
Cô hôn lên chóp mũi tôi.
- Ngủ tiếp đi.
Chương 7
Thêm nhiều giấc mơ kinh hoàng nữa, tất cả hòa trộn vào nhau,
chìm lẫn vào rồi vụt hiện lên từ nhau. Những mảnh vụn kinh hoàng từ mấy ngày gần
đây: con mắt thép của một nòng súng nhìn trừng trừng vào tôi từ rất gần; một
con đường ngổn ngang xác ngựa chết; chùm lưỡi của một con hồn rỗng trườn về
phía tôi qua một lỗ hổng; rồi gã xác sống ghê tởm cười nhăn nhở với đôi mắt trống
hoác.
Thế rồi tôi lại trở về nhà, nhưng tôi là một hồn ma. Tôi bồng
bềnh lướt xuống con phố nhà tôi, đi qua cửa trước, vào nhà. Tôi thấy bố tôi ngủ
gục bên bàn bếp, một chiếc điện thoại không dây ôm trước ngực.
Con chưa chết, tôi
nói, nhưng những lời của tôi không vang lên thành tiếng.
Tôi thấy mẹ ngồi bên mép giường bà, vẫn mặc áo ngủ, nhìn
chăm chăm ra ngoài cửa sổ, một buổi chiều nhợt nhạt. Bà hốc hác, kiệt quệ vì
than khóc. Tôi đưa tay ra chạm vào vai bà, nhưng bàn tay tôi đi xuyên qua bờ
vai đó.
Rồi tôi có mặt tại tang lễ của chính mình, nhìn từ dưới huyệt
mộ của mình lên một khoảng trời xám xịt hình chữ nhật.
Ba ông bác của tôi nhìn xuống, những cái cổ béo núc của họ
căng phình ra từ những chiếc cổ cồn trắng hồ bột.
Bác Les: Thật đáng tiếc.
Phải không?
Bác Jack: Anh thực sự
cần phải đặt mình vào vị trí Frank và Maryann ngay lúc này mà cảm nhận.
Bác Les: Phải. Rồi người
ta sẽ nghĩ gì?
Bác Bobby: Người ta sẽ
nghĩ thằng bé có gì đó bất ổn. Mà đúng là thế.
Bác Jack: Dù sao tôi vốn
đã biết. Là nó sẽ làm gì đó như thế này vào một ngày nào đó. Thằng bé có vẻ mặt
đó, anh biết đấy? Chỉ một chút...
Bác Bobby: Bất bình
thường.
Bác Les: Cái đó đến từ
bên đằng nội nó, chứ không phải từ chúng ta.
Bác Jack: Đã đành. Thật
khủng khiếp.
Bác Bobby: Phải.
Bác Jack:...
Bác Les:...
Bác Bobby: Ăn buffet
nhé?
Mấy ông bác của tôi quay đi.
Ricky xuất hiện, mái tóc xanh lục của cậu ta được vuốt keo
thêm cho dịp này.
Người anh em. Giờ cậu
chết rồi, tớ có thể lấy cái xe đạp của cậu chứ?
Tôi cố hét to: Tôi
chưa chết! Tôi chỉ đang ở xa thôi. Tôi xin lỗi.
Nhưng những lời nói đó vọng trở lại, bị nhốt chặt trong đầu
tôi.
Ông mục sư nhìn xuống. Đó là Golan, tay cầm Kinh Thánh, mặc
áo chùng. Hắn cười nhăn nhở. Bọn tao đang
chờ mày đây, Jacob.
Một xẻng đất đầy rơi ào áo như mưa xuống tôi.
Bọn tao đang đợi đấy.
* * *
Tôi bật ngồi thẳng dậy, đột nhiên
choàng tỉnh, miệng khô như giấy. Emma đang ở bên cạnh tôi, hai bàn tay đặt lên
vai tôi.
- Jacob! Ơn Chúa - cậu làm bọn
mình sợ quá!
- Thế à?
- Cậu vừa có một cơn ác mộng, - Millard
nói. Cậu ta đang ngồi đối diện với chúng tôi, trông như một bộ quần áo rỗng được
hồ bột cứng để dựng lên tạo dáng. - Cậu còn nói mơ nữa.
- Thế à?
Emma dùng một trong những chiếc
khăn ăn ở khoang hạng nhất (vải thật!) để lau mồ hôi trên trán cho tôi.
- Đúng thế, - cô nói. - Nhưng nghe
cứ ú ớ lảm nhảm. Tớ chẳng thể hiểu nổi lấy một lời.
Tôi nhìn quanh, cố định thần lại,
nhưng dường như không ai khác nhận ra. Những đứa trẻ khác đang rải ra trong toa
xe, tranh thủ chợp mắt hoặc mơ màng nhìn qua cửa sổ, hay chơi bài.
Tôi thành thực hy vọng không phải
mình đang bắt đầu mất đi sự tỉnh táo.
- Cậu có hay gặp ác mộng không? -
Millard hỏi. - Cậu cần mô tả chúng với Horace. Cậu ấy rất giỏi đoán mộng đấy.
Emma nắn nắn cánh tay tôi.
- Cậu chắc là cậu ổn cả chứ?
- Tớ ổn, - tôi nói, và vì không
thích bị vặn vẹo, tôi liền thay đổi chủ đề. Thấy Millard đang giở tập Những truyện kể về người đặc biệt đặt
trên lòng, tôi hỏi, - Đang đọc gì đó nhẹ nhàng à?
- Đang nghiên cứu, - cậu ta đáp. -
Và không thể tin nổi tớ từng coi đây chỉ là những câu chuyện dành cho trẻ con.
Trên thực tế, chúng cực kỳ phức tạp - thậm chí là thâm sâu - trong việc ẩn chứa
các thông tin bí mật về thế giới người đặc biệt. Có lẽ tớ sẽ phải mất nhiều năm
để giải mã tất cả chúng.
- Nhưng giờ thì điều đó có ích gì
cho chúng ta? - Emma hỏi. - Các Vòng Thời Gian liệu có ích gì nếu chúng có thể
bị hồn rỗng phá vỡ? Thậm chí cả những Vòng Thời Gian bí mật trong cuốn sách đó
cuối cùng cũng sẽ bị tìm ra.
- Biết đâu đó là Vòng Thời Gian
duy nhất bị đột nhập, - tôi nói đầy hy vọng. - Biết đâu con hồn rỗng trong Vòng
của cô Wren theo cách nào đó chỉ là một trường hợp quái gở.
- Một con hồn rỗng đặc biệt! -
Millard nói. - Nghe thú vị đấy - nhưng không. Hắn không phải là tình cờ. Tớ tin
chắc rằng những con hồn rỗng “nâng cấp” này là một hợp phần trong cuộc tấn công
vào các Vòng Thời Gian của chúng ta.
- Nhưng bằng cách nào? - Emma nói.
- Đám hồn rỗng đã biến đổi thế nào để giờ đây chúng có thể xâm nhập vào các Vòng
Thời Gian?
- Đó là một điều tớ đã nghĩ đến rất
nhiều, - Millard nói. - Chúng ta không biết nhiều về lũ hồn rỗng, vì chưa bao
giờ có cơ hội nghiên cứu gã nào trong một môi trường được kiểm soát. Nhưng người
ta vẫn nghĩ rằng, giống những người bình thường, chúng thiếu điều gì đó mà cậu,
tớ cũng như tất cả những người còn lại trong toa tàu này sở hữu - một sự đặc biệt
cốt yếu nào đó - cho phép chúng ta tương tác với các Vòng Thời Gian; để gắn vào
và được hấp thụ vào chúng.
- Như một chìa khóa, - tôi nói.
- Kiểu như vậy, - Millard nói. - Một
số người tin rằng, cũng giống như máu hay dịch não tủy, sự đặc biệt của chúng
ta có đặc tính vật chất. Một số người khác nghĩ nó ở trong chúng ta nhưng không
phải là vật chất. Mà là linh hồn thứ hai.
- Hừm, - tôi thốt lên. Tôi thích ý
nghĩ này: sự đặc biệt không phải là một khiếm khuyết, mà là một sự tăng cường;
không phải chúng tôi thiếu thứ gì đó những người bình thường có, mà là họ thiếu
sự đặc biệt. Có nghĩa là chúng tôi hơn, chứ không kém.
- Tớ ghét tất cả mấy thứ lập dị
đó, - Emma nói. - Ý tưởng rằng cậu có thể bắt giữ linh hồn thứ hai đó trong một
cái bình ư? Đáng sợ quá.
- Ấy thế nhưng theo năm tháng, đã
có vài lần người ta thử làm đúng việc này, - Millard nói. - Gã lính xác sống đó
đã nói gì với cậu nhỉ, Emma? “Tao ước gì tao có thể đóng chai thứ mày có”, hay
gì đó đại loại nhỉ?
Emma rùng mình.
- Đừng nhắc tớ nhớ lại.
- Giả thuyết này cho rằng nếu bằng
cách nào đó tinh chất đặc biệt của chúng ta có thể được chưng cất và thu giữ -
trong một cái chai như hắn nói, hay nhiều khả năng hơn là trong một cái đĩa
nuôi cấy - thì rất có thể tinh chất đó cũng chuyển được từ người này sang người
khác. Nếu điều này khả thi, hãy hình dung ra thị trường chợ đen buôn bán các
linh hồn đặc biệt sẽ bùng nổ trong giới những kẻ giàu có và vô lương tâm. Những
năng lực đặc biệt như ngọn lửa của cậu hay sức mạnh của Bronwyn sẽ được bán cho
ai trả giá cao nhất!
- Thật ghê tởm, - tôi nói.
- Phần lớn người đặc biệt nhất trí
với cậu, - Millard nói, - đó chính là lý do vì sao những nghiên cứu như thế đã
bị cấm từ nhiều năm trước.
- Làm như lũ xác sống quan tâm đến
luật của chúng ta vậy, - Emma nói.
- Nhưng toàn bộ ý tưởng này thật
điên rồ, - tôi nói. - Nó không thể thực sự thành công được, phải không nào?
- Tớ cũng nghĩ thế, - Millard nói.
- Ít nhất là cho tới ngày hôm qua. Giờ thì tớ không còn dám chắc nữa.
- Bởi vì con hồn rỗng ở trong Vòng
Thời Gian của trại động vật sao?
- Phải. Trước ngày hôm qua thậm
chí tớ còn không chắc mình tin vào “linh hồn thứ hai”. Trong đầu tớ chỉ có một
lý giải thuyết phục duy nhất cho sự tồn tại của nó: đó là khi một hồn rỗng ăn
thịt đủ số lượng chúng ta, nó biến đổi thành một dạng sinh vật khác - một sinh
vật có khả năng di chuyển qua các Vòng Thời Gian.
- Nó đã trở thành một xác sống, - tôi
nói.
- Đúng thế, - cậu ta nói. - Nhưng
chỉ trong trường hợp nó ăn thịt những người đặc biệt. Nó có thể ăn thịt bao
nhiêu người bình thường tùy thích mà không bao giờ biến thành một xác sống được.
Do đó, chúng ta nhất định phải có điều gì đó người bình thường còn thiếu.
- Nhưng con hồn rỗng tại khu trại
động vật không hề biến thành xác sống, - Emma nói. - Nó biến thành một hồn rỗng
có thể đi vào Vòng Thời Gian.
- Điều đó làm tớ tự hỏi liệu có phải
đám xác sống đã tác động vào tự nhiên, - Millard nói, - bắt nguồn từ việc truyền
các linh hồn đặc biệt.
- Tớ thậm chí chẳng muốn nghĩ về
điều đó, - Emma nói. - Chúng ta làm ơn nói về điều gì khác được không?
- Nhưng bọn chúng lấy được những
linh hồn ấy từ đâu chứ? - tôi hỏi. - Và bằng cách nào?
- Đã vậy, tớ sẽ đi ngồi chỗ khác, -
Emma nói, và cô đứng dậy tìm một chỗ ngồi khác.
Millard và tôi ngồi im lặng trong
toa tàu một hồi. Tôi không thể thôi hình dung ra cảnh bị trói lên một cái bàn
trong khi một đám bác sĩ quái vật lấy linh hồn của mình ra. Nhưng bọn chúng làm
thế bằng cách nào chứ? Bằng một mũi kim chăng? Hay một con dao?
Để cắt đứt dòng suy nghĩ ghê rợn
này, tôi lại cố thay đổi chủ đề lần nữa.
- Mà trước hết bằng cách nào chúng
ta lại trở nên đặc biệt được nhỉ? - tôi hỏi.
- Chẳng ai biết chắc cả, - Millard
trả lời. - Dẫu vậy vẫn có các truyền thuyết.
- Như là gì?
- Một số người tin rằng chúng ta
là hậu duệ của một nhóm nhỏ những người đặc biệt đã sống cách đây rất, rất lâu,
- cậu ta nói. - Họ rất hùng mạnh, và to lớn, giống như người khổng lồ đá chúng
ta đã tìm thấy.
Tôi nói.
- Vậy tại sao chúng ta lại bé nhỏ
thế này nếu chúng ta từng là những người khổng lồ?
- Truyện kể rằng theo năm tháng,
khi chúng ta đông lên, sức mạnh của chúng ta giảm dần. Khi năng lực của chúng
ta trở nên kém mạnh mẽ hơn, chúng ta cũng nhỏ lại.
- Tất cả thật khó mà nuốt trôi, - tôi
nói. - Tớ cảm thấy mình khỏe ngang một con kiến.
- Thực ra thì kiến khá mạnh mẽ đấy,
so với kích thước của chúng.
- Cậu biết ý tớ là gì mà, - tôi
nói. - Điều tớ thực sự không hiểu nổi là tại sao lại là tớ? Tớ chưa bao giờ đòi
được trở thành thế này. Ai đã quyết định?
Đó là một câu hỏi tu từ; tôi không
trông đợi bất kỳ câu trả lời nào, dù vậy Millard vẫn trả lời tôi.
- Xin dẫn lời một người đặc biệt nổi
tiếng: ở trung tâm bí ẩn của tự nhiên chứa đựng một bí ẩn khác.
- Ai đã nói thế?
- Chúng ta biết về ông dưới tên gọi
Perplexus Anomalus. Nhiều khả năng là một cái tên được nghĩ ra cho một nhà tư
tưởng và một triết gia lớn. Perplexus cũng là một chuyên gia vẽ bản đồ. Ông đã
vẽ ra phiên bản đầu tiên của Bản đồ Các Ngày, khoảng một nghìn năm trước.
Tôi tặc lưỡi.
- Đôi khi cậu nói cứ như thầy giáo
vậy. Đã ai nói cho cậu biết điều đó chưa?
- Thường xuyên, - Millard nói. - Tớ
rất muốn thử dạy học. Nếu như tớ không phải sinh ra thế này.
- Chắc hẳn cậu sẽ rất xuất sắc
trong việc đó.
- Xin cảm ơn, - cậu ta nói. Rồi cậu
im lặng, và trong sự im lặng tôi có thể cảm thấy cậu ta mơ về nó: những khung cảnh
của một cuộc sống đáng lẽ đã diễn ra. Sau một hồi, cậu ta nói:
- Tớ không muốn cậu nghĩ rằng tớ
không thích là người vô hình. Có đấy. Tớ thích là người đặc biệt, Jacob - đó
chính là cốt lõi của tớ. Nhưng có những ngày tớ ước gì có thể tắt được sự đặc
biệt của mình đi.
- Tớ hiểu ý cậu, - tôi nói. Nhưng
tất nhiên tôi không hiểu. Sự đặc biệt của tôi có những thách thức của riêng nó,
song chí ít tôi cũng có thể hòa nhập vào xã hội.
Cửa dẫn vào khoang của chúng tôi
trượt mở. Millard nhanh chóng kéo mũ trùm áo khoác của cậu lên để giấu đi khuôn
mặt - hay đúng hơn là sự thiếu vắng một khuôn mặt. Một phụ nữ trẻ đứng trên ngưỡng
cửa. Cô ta mặc đồng phục và bưng một chiếc hộp đựng những món hàng bán cho
khách.
- Thuốc lá nhé? - cô ta hỏi. - Hay
sô cô la?
- Không, xin cảm ơn, - tôi nói.
Người phụ nữ nhìn tôi.
- Em là người Mỹ.
- Em e là thế.
Cô dành cho tôi một nụ cười thương
hại.
- Hy vọng em có chuyến đi vui vẻ.
Em đã chọn một thời điểm không thích hợp lắm để tới thăm nước Anh.
Tôi bật cười.
- Em cũng đã được bảo thế.
Người phụ nữ rời đi. Millard nhích
người để ngắm cô đi khỏi.
- Đẹp đấy, - cậu ta nói bâng quơ.
Tôi chợt nghĩ có lẽ đã rất nhiều
năm trôi qua kể từ khi cậu ta nhìn thấy một cô gái khác ngoài vài cô gái ít ỏi
sống tại Cairnholm. Nhưng nói gì thì nói, liệu một người như cậu có thể có cơ hội
nào với một cô gái bình thường chứ?
- Đừng nhìn tớ thế, - cậu ta nói.
Tôi không hề nhận ra mình đã nhìn
cậu ta theo cách nào đó đặc biệt.
- Thế nào cơ?
- Như thể cậu thấy ái ngại cho tớ
vậy.
- Đâu có, - tôi nói.
Nhưng đúng là thế.
Sau đó, Millard đứng khỏi chỗ của
cậu ta, bỏ áo khoác ra và biến mất. Trong một hồi lâu tôi không thấy lại cậu ta
nữa.
* * *
Từng giờ trôi qua, và đám trẻ giết
thời gian bằng cách kể chuyện. Họ kể chuyện về những người đặc biệt nổi tiếng,
và về cô Peregrine trong những ngày lạ lùng đầy phấn khích đầu tiên của Vòng Thời
Gian bà làm chủ, rồi rốt cuộc họ đi đến kể chuyện của chính mình. Một vài câu
chuyện tôi đã nghe trước đó - như việc Enoch đã dựng người chết dậy tại nhà
tang lễ của bố cậu ta thế nào, hay việc Bronwyn, khi mới lên mười, đã vô ý cắn
cổ người bố dượng hung bạo của cô - nhưng những câu chuyện khác hoàn toàn mới với
tôi. Vì cho dù đều đã nhiều tuổi như vậy, đám trẻ cũng không thường xuyên chìm
vào hồi ức.
Những giấc mơ của Horace đã bắt đầu
khi cậu ta mới sáu tuổi, nhưng cậu ta không hề nhận ra chúng báo trước cho điều
gì đó cho tới tận hai năm sau, khi vào một buổi tối cậu ta mơ thấy chiếc tàu
Lusitania (Tàu chở khách của Anh bị tàu ngầm Đức
bắn chìm ngày 7/5/1915, làm 1198 hành khách và thủy thủ đoàn thiệt mạng)
bị chìm và ngày hôm sau nghe thấy sự kiện này trên phát thanh. Hugh, từ khi còn
bé, đã thích mật ong hơn bất cứ loại đồ ăn nào khác, và khi lên năm tuổi, cậu bắt
đầu ăn tổ ong cùng với mật - một cách ngấu nghiến tới mức lần đầu tiên tình cờ
nuốt chửng một con ong, cậu không hề nhận ra cho tới khi cảm thấy nó đang vo vo
lượn vòng trong dạ dày mình. “Con ong có vẻ chẳng hề thấy bận tâm”, Hugh nói,
“vì thế tớ nhún vai rồi ăn tiếp. Chẳng mấy chốc tớ đã có cả một tổ trong bụng”.
Khi lũ ong cần lấy phấn hoa, cậu ta đi tìm một cánh đồng đầy hoa nở, và chính tại
một chỗ như thế, cậu ta đã gặp Fiona, lúc ấy đang nằm ngủ giữa những bông hoa.
Hugh cũng kể lại cả câu chuyện của
cô gái. Fiona, theo cậu kể, là một người tị nạn từ Ireland, ở đó cô đã trồng
cây lương thực cho dân làng mình trong thời kỳ nạn đói thập niên 1840 - cho tới
khi cô bị buộc tội là phù thủy và bị xua đuổi. Đây là điều Hugh chỉ biết được
sau nhiều năm tiếp xúc tế nhị không lời với Fiona, cô không nói không phải vì
cô không thể, theo như lời Hugh, mà “vì những điều cô đã chứng kiến trong nạn
đói khủng khiếp đến mức chúng đã lấy đi giọng nói của cô”.
Sau đó đến lượt Emma, nhưng cô
không hề có hứng thú kể lại câu chuyện của mình.
- Sao lại không? - Olive nì nèo. -
Thôi nào, hãy kể về lúc chị khám phá ra mình đặc biệt đi!
- Đó là một câu chuyện xưa rồi, - Emma
lẩm bẩm, - và chẳng có ích gì. Mà không phải tốt hơn chúng ta nên nghĩ về tương
lai thay vì quá khứ sao?
- Có người nổi cáu rồi kìa, - Olive
nói.
Emma đứng dậy bỏ đi về phía cuối
toa tàu, để không ai quấy rầy cô. Tôi để một hay hai phút trôi qua để cô không
cảm thấy bị săn lùng, rồi tới ngồi xuống bên cạnh cô. Cô thấy tôi đến bèn giấu
mình sau một tờ báo, giả bộ đang đọc.
- Tớ không có hứng nói về nó, - cô
nói từ sau tờ báo. - Đó là lý do vì sao!
- Tớ có nói gì đâu.
- Phải, nhưng rồi cậu sắp hỏi, vì
thế tớ giúp cậu đỡ mất công.
- Để cho công bằng, - tôi nói, - tớ
sẽ kể cho cậu nghe một chuyện về tớ trước.
Emma nhìn qua phía trên tờ báo,
hơi có vẻ tò mò.
- Nhưng chẳng phải tớ đã biết mọi
thứ về cậu rồi sao?
- À, - tôi nói. - Không hẳn đâu.
= Được rồi, vậy nói cho tớ biết ba
điều về cậu mà tớ còn chưa biết. Và làm ơn chỉ là những bí mật tối tăm thôi. Giờ
thì khẩn trương lên!
Tôi cố lục lọi trong đầu tìm những
điều lạ lùng đáng quan tâm về mình, nhưng tôi chỉ nhớ ra được những thứ phiền
toái.
- Được rồi, một. Khi tớ còn nhỏ, tớ
thực sự nhạy cảm khi chứng kiến bạo lực trên tivi. Tớ đã không hiểu chúng không
phải là thực. Thậm chí chỉ cần một con chuột hoạt hình đấm một con mèo hoạt
hình là đủ làm tớ phát hoảng và khóc ầm lên.
Tờ báo của Emma hạ thấp xuống thêm
một chút.
- Chúa ban phước cho tâm hồn mong
manh của cậu! - cô nói. - Và giờ hãy nhìn cậu xem, giết chết những con quái vật
ghê rợn đó bằng cách đâm qua tròng mắt rỉ nước của chúng.
- Hai, - tôi nói. - Tớ sinh vào dịp
Halloween, và cho đến lúc tớ tám tuổi bố mẹ tớ vẫn làm tớ tin rằng bánh kẹo người
ta đưa cho tớ khi tớ gõ cửa nhà họ chính là quà sinh nhật.
- Hừm, - Emma lên tiếng, hạ tờ báo
xuống thêm chút nữa. - Chuyện đó mới chỉ hơi nhờ nhờ tối thôi. Nhưng cậu vẫn được
phép tiếp tục.
- Ba. Khi chúng mình gặp nhau lần
đầu, tớ tin chắc cậu sắp sửa cắt cổ tớ. Nhưng cho dù tớ sợ chết khiếp, vẫn có một
giọng nói rất khẽ trong đầu tớ nói rằng: Nếu
đây là khuôn mặt cuối cùng cậu thấy, ít nhất đó cũng là một khuôn mặt xinh đẹp.
Tờ báo rơi xuống lòng cô.
- Jacob, điều cậu nói... - Cô nhìn
xuống sàn, rồi ra ngoài cửa sổ, rồi quay trở lại tôi. - ... thật dễ thương.
- Đúng thế mà, - tôi nói, và trượt
bàn tay trên ghế tới chỗ bàn tay cô. - Được rồi, đến lượt cậu.
- Không phải tớ đang cố giấu gì
đâu, cậu biết đấy. Chỉ là những câu chuyện cũ kỹ mốc meo đó làm tớ già đi đến cả
chục tuổi, và thật vô tích sự. Nó không bao giờ chịu biến đi, cho dù có bao
nhiêu ngày mùa hè huyền diệu đã chen vào giữa từ đó đến nay.
Nỗi đau đó vẫn còn trong cô, vẫn
nhức nhối sau chừng ấy năm.
- Tớ muốn biết về cậu, - tôi nói.
- Cậu là ai, từ đâu tới. Thế thôi.
Emma cựa mình bối rối.
- Tớ chưa bao giờ kể cho cậu về bố
mẹ tớ đúng không?
- Tất cả những gì tớ biết đều là
do nghe từ Golan trong đêm đó tại kho chứa nước đá. Hắn nói họ đã đem cậu cho một
gánh xiếc rong phải không?
- Không, không hẳn là vậy. - Cô dịch
người xuống trên ghế, giọng hạ xuống chỉ còn là tiếng thì thầm. - Tớ đoán sẽ tốt
hơn nếu cậu biết sự thật thay vì những lời đồn thổi và suy đoán. Vậy thì chuyện
là thế này. Tớ bắt đầu bộc lộ năng lực khi mới mười tuổi. Tớ liên tục làm cháy
giường của mình trong khi ngủ, cho tới khi bố mẹ lấy đi tất cả chăn đệm
và để tớ nằm trên một khung giường kim loại trần trong một căn phòng trống trơn
chẳng còn thứ gì có thể bắt lửa trong đó. Họ nghĩ tớ là kẻ mắc chứng cuồng
phóng hỏa và một đứa nói dối, và sự thật rằng bản thân tớ có vẻ chẳng bao giờ bị
bỏng là một bằng chứng hùng hồn. Nhưng tớ không thể bị bỏng, điều này ban đầu
thậm chí tớ cũng chẳng biết. Tớ mới có mười tuổi: tớ chẳng biết gì hết! Đó là một
việc thật kinh khủng, bộc lộ năng lực đặc biệt mà không hiểu nổi chuyện gì đang
xảy ra với mình, cho dù đó là nỗi kinh hoàng gần như toàn bộ những đứa trẻ đặc
biệt đều trải qua vì có rất ít người trong số chúng ta do các ông bố bà mẹ đặc
biệt sinh ra.
- Tớ có thể hình dung ra được, - tôi
nói.
- Một ngày, như mọi người biết, tớ
cũng bình thường như ai, thế rồi hôm sau tớ cảm thấy một vết ban kỳ lạ trong
lòng hai bàn tay mình. Nó đỏ rần, phồng lên, rồi nóng rực - nóng tới mức tớ phải
chạy tới cửa hàng tạp hóa và cho cả hai bàn tay vào một thùng cá tuyết đông lạnh!
Khi lũ cá bắt đầu rã đông và bốc mùi, người bán tạp hóa đuổi tớ về nhà, và ông
ta đòi mẹ tớ phải trả tiền đền những thứ bị tớ làm hỏng. Đến lúc ấy hai bàn tay
tớ đã đỏ rực lên: nước đá chỉ làm tình hình tệ thêm! Cuối cùng, chúng bùng
cháy, và tớ chắc mình sắp phát điên.
- Thế bố mẹ cậu nghĩ sao? - tôi hỏi.
- Mẹ tớ, một người cực kỳ mê tín,
chạy khỏi nhà và không bao giờ quay lại nữa. Bà nghĩ tớ là một con quỷ từ thẳng
địa ngục qua bụng bà lên trần thế. Bố tớ lại có cách nhìn nhận khác hẳn. Ông
đánh đập tớ, nhốt tớ trong phòng, và khi tớ tìm cách đốt cánh cửa, ông dùng những
tấm vải bọc a-mi-ăng trói tớ lại. Giữ tớ bị trói như thế nhiều ngày liền, thỉnh
thoảng tự tay cho tớ ăn, vì ông không tin tớ đến mức cởi trói cho tớ. Mà ông ấy
làm thế cũng phải, vì chắc tớ sẽ đốt ông ấy cháy đen ngay khi ông ấy cởi trói tớ.
- Ước gì cậu đã làm vậy, - tôi
nói.
- Cậu thật dễ mến. Nhưng làm thế
chắc cũng chẳng ích gì. Bố mẹ tớ là những người kinh khủng - nhưng nếu họ không
phải như thế, và nếu tớ sống với họ lâu hơn, kiểu gì rồi đám hồn rỗng cũng tìm
ra tớ. Tớ nợ mạng sống của mình với hai người: Julia, em gái tớ, con bé đã cởi
trói cho tớ vào một buổi tối để cuối cùng tớ cũng có thể chạy trốn; và cô Peregrine,
cô tìm thấy tớ một tháng sau đó, lúc tớ đang làm người diễn trò nuốt lửa trong
một gánh xiếc rong. - Emma mỉm cười buồn rầu. - Ngày tớ gặp cô cũng chính là
ngày tớ coi là sinh nhật mình. Ngày tớ gặp được người mẹ thực sự.
Tim tôi ít nhiều mềm ra.
- Cảm ơn cậu đã kể với tới, - tôi
nói.
Nghe câu chuyện của Emma, tôi cảm
thấy mình gần gũi hơn với cô, và ít cô đơn hơn trong tình trạng rối loạn của
chính mình. Mỗi người đặc biệt đều đã phải vật lộn vượt qua một giai đoạn bất ổn
đầy đau đớn. Tất cả những người đặc biệt đều từng bị thử thách. Sự khác biệt rõ
ràng nhất giữa tôi và họ là bố mẹ tôi vẫn còn yêu quý tôi - và bất chấp những rắc
rối tôi gặp phải với họ, tôi cũng yêu quý họ, theo cách thầm lặng của mình. Ý
nghĩ tôi đang làm họ đau khổ giờ đây đã trở thành một cơn đau thường trực. Tôi
nợ họ những gì? So sánh nó với món nợ tôi còn nợ cô Peregrine hay bổn phận của
tôi với ông nội - hay cảm xúc ngọt ngào, nặng nề tôi cảm thấy với Emma, cảm xúc
có vẻ đang lớn dần lên sau mỗi lần tôi nhìn cô, thì sao? Cán cân nghiêng về bên
thứ hai. Nhưng rốt cuộc, nếu tôi sống sót qua chuyện này, tôi hẳn sẽ phải đối
diện với quyết định tôi đã đưa ra và nỗi đau tôi đã gây ra.
Nếu.
Từ nếu luôn đẩy dòng suy nghĩ của tôi quay trở về hiện tại, vì nếu phụ thuộc rất nhiều vào việc tôi có
giữ được sự minh mẫn hay không. Tôi không thể cảm nhận mọi thứ chính xác nếu
tôi phân tâm. Nếu đòi hỏi sự hiện diện
và tham dự trọn vẹn của tôi vào hiện tại.
Nếu vừa làm tôi sợ hãi nhưng cũng giúp tôi tỉnh táo ở mức tương
đương.
London mỗi lúc một lại gần, những
ngôi làng nhường chỗ cho các thị trấn, rồi thị trấn nhường chỗ cho các khu ngoại
ô nằm liền nhau không gián đoạn. Tôi tự hỏi điều gì đang đợi chúng tôi ở đó; nỗi
kinh hoàng mới nào đang chờ phía trước.
Tôi liếc mắt nhìn qua một tiêu đề
trên tờ báo vẫn để mở trên lòng Emma:
CÁC CUỘC OANH TẠC TÀN PHÁ THỦ ĐÔ.
HÀNG CHỤC NGƯỜI CHẾT.
Tôi nhắm mắt lại và cố không nghĩ
đến điều gì hết.
-----------------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét