Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Một ngàn con đường quê - Robert James Waller (phần 1)

Một ngàn con đường quê

(Phần kết “Những cây cầu ở quận Madison”)

Tác giả: Robert James Waller
Dịch giả: Thanh Vân
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2013

Tác giả cuốn tiểu thuyết bạn đang cầm trong tay, Robert James Wallen hiện sống trong một nông trại hẻo lánh trên những chóp núi cao hoang vắng bang Texas và theo đuổi những ham thích của mình: viết văn, chụp ảnh, âm nhạc, kinh tế và toán học. Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Những cây cầu ở quận Madison, và đây là phần kết của cuốn sách đó.
* * *
Phần còn lại của câu chuyện

Sau nhiều năm với số lượng phát hành lên tới hàng chục triệu bản, cuốn Những cây cầu ở quận Madison vẫn là một trong những chuyện tình hay nhất của mọi thời đại. Tình yêu của Robert Kincaid, một nhà nhiếp ảnh tự do và Francesca Johnson, vợ một nông dân truyền thống, đã là lời nói thay cho khát vọng tình yêu nam nữ ở khắp nơi, nó cho chúng ta biết tình yêu là gì, rằng khi con người yêu và được yêu mãnh liệt, cuộc đời sẽ lật sang một trang mới ra sao.
MỘT NGÀN CON ĐƯỜNG QUÊ cuối cùng, trong cuốn truyện mới, thấm thía đắng cay này, Robert James Waller kể nốt phần còn lại chuyện tình của Robert và Francesca. Robert Kincaid chỉ còn lại những hồi ức tình yêu, và rồi ở tuổi 68, ông quyết định lên đường một lần nữa. Ông gọi cuộc hành trình này là Lần Cuối cùng, với ý định trở lại không gian cũ và thầm nói lời từ biệt với Francesca. Trên đường trở lại cầu Roseman ở quận Madison, Iowa, ông thình lình bắt gặp quá khứ xa xưa, bất ngờ...
* * *
Một lần nữa, dành tặng những con chim ưng, những người xa lạ, những chàng cao bồi cuối cùng.
Và tặng tất cả các bạn đọc những người đã hỏi về phần còn lại của câu chuyện.
Và đây, là cuốn sách của những hồi kết.

Thư của tác giả.

Có những bài ca nảy sinh từ lớp cỏ xanh rờn, từ bụi bặm của hàng ngàn con đường quê.
Đây là một trong những bài ca ấy.
Tôi bắt đầu cuốn “Những cây cầu ở quận Madison” bằng những lời như thế. Nhưng trên thực tế, có hai câu chuyện. Đôi khi, các câu chuyện phải đợi đến lượt mình, để không giẫm chân lên nhau. Những năm qua, đã có nhiều thư của các bạn đọc Những cây cầu, đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu niên, cả nam lẫn nữ, của những người lái xe tải, các bà nội trợ, các luật sư, phi công và công nhân giàn khoan dầu. Chắc chắn là có tới hàng ngàn bức từ khắp nơi trên thế giới, đầy những ý nghĩ tử tế và những mong ước tốt lành.
Trong số những người viết thư ấy, có một tỉ lệ đáng kể muốn biết thêm về Robert Kincaid và Francesca Johnson, về cuộc sống của họ, về những chuyện xảy ra với họ sau bốn ngày chung sống ở quận Madison, Iowa. Tôi đang sống trong một nông trại yên tĩnh, hẻo lánh trên chóp núi cao hoang vắng của bang Texas, trở lại với những nghiên cứu kinh tế, toán học và chơi nhạc jazz bằng ghita, tôi cảm thấy không cần đào bới các ghi chép nghiên cứu, và không muốn viết thêm nữa. Tuy nhiên, ở đâu đó, vào lúc nào đó, vì những lý do không rõ ràng, sau khi đọc thêm một bức thư hỏi về các thông tin trên, tôi quyết định kể nốt câu chuyện còn lại.
Tôi thường kinh ngạc vì những điều không chắc có thực, vốn là bản chất của sự tình cờ. Những cây cầu ở quận Madison là một truyện nhỏ, xảy ra trong thời gian ngắn, ban đầu cuốn sách được viết làm quà tặng cho gia đình và bạn bè, một cuốn sách mà tôi không bao giờ ngờ là đến nay, đã được xuất bản hơn 35 thứ tiếng; và khi viết, tôi cũng không hề có ý định xuất bản. Một cuốn sách chạy từ cái máy in rẻ tiền, phát thành tiếng lục cục khi tôi dùng phần mềm giá năm đôla trên chiếc máy tính Zenith 286.
Thế nên, đây là phần còn lại của câu chuyện, dành cho các bạn đã yêu cầu và những người khác cũng đang tò mò muốn biết. Nếu bạn chưa đọc cuốn “Những cây cầu…”, có thể không cần cuốn sách ấy ở bên bạn. Với những ai đã đọc cuốn “Những cây cầu…”, tôi nghĩ bạn sẽ tìm thấy, giữa bao điều khác, sự kinh ngạc vì niềm vui bất ngờ mà Robert Kincaid khám phá ra lúc cuối đời.

ROBERT JAMES WALLER
Trên miền cao hoang vắng Texas Del Norte Mountains
Đêm Giao thừa, 2001
* * *

Phần 1 - Robert Kincaid


Vậy là:
Cái dây thừng to lại quay tròn
có lẽ không giật cao và hung dữ
như bạn đã từng làm
nhưng vẫn gây nên tiếng xì xì
và cảm nhận
vòng tròn trên đầu bạn
và ánh nắng rơi xuống qua thòng lọng
tỏa bóng trên mặt đất nơi sợi dây lớn quay tròn
trong lúc tất cả rơi
xuống tận những thứ cuối cùng,
thêm một - lần - nữa...

... xuống quãng đường dài, ngoằn ngoèo và không thể tránh khỏi, từ nơi ta đu đưa trong bụng mẹ cho đến thứ này: sương mù bao trùm. Eo biển Puget và ngồi trong bar Shorty vào các tối thứ Ba, lắng nghe tiếng kèn xắc xô têno của Cú Muỗi  chơi bản Lá thu.
hoạt động của ta mập mờ ở giữa và vẫn chỉ có một mình, với tiếng o o của chiếc tủ lạnh phủ lên âm thanh của hồi ức. Những chàng cao bồi cuối cùng và đủ thứ. Những người đã vạch ra dấu vết cho ta đi, những bông hoa diên vĩ rực cháy đủ sắc cầu vồng và các học giả đã qua đời từ xa xưa. Giờ đây, chỉ còn âm thanh của ký ức, tiếng o o của tủ lạnh và tiếng kèn xắcxô của Cú Muỗi vào những tối thứ Ba.
Nó có thể khác hẳn trong một cuộc đời khác. Có thể nên chuyện cho ta và người phụ nữ ấy. Nàng là sự may rủi của ta, và ngoảnh nhìn lại chuyện đã qua, mới thấy chẳng có cơ may nào khác. Ta phải luôn biết điều đó, chắc chắn hồi ấy ta cũng đã biết.
Rũ áo ra đi, bỏ lại những gì nàng có, bản thân sự việc đó làm nàng thành con người khác hẳn người mà ta đã chung sống mấy ngày và đêm ấy. Cả quyết định lẫn hành động đều đã xong cả rồi. Ta vẫn phải liều và cố nghĩ ra sẽ làm gì, nếu nàng rẽ vào đường của ta.
Giờ đây, một sớm tháng Mười một năm 1981, sương mù lạnh buốt phủ trên mặt nước. Hàng đống bưu phẩm trên bàn bếp, bán ngay tại sân chỉ được vẻn vẹn năm đôla. Nhiều năm trước, ta đã kéo chúng lên phà đến đây, sau khi người ta san phẳng căn nhà ở Bellingham để xây một trung tâm thương mại. Những chiếc phong bì bề ngoài sặc mùi hành chính - những thứ của chính quyền các nhân viên hội Cựu Chiến binh và An sinh Xã hội vẫn cố tìm mình. Họ không thể hình dung ta không muốn nghe thấy gì từ họ, rằng ta không muốn bất cứ thứ gì họ đề nghị. Những chiếc phong bì đều đóng dấu: Trả lại người gửi.
Trong hộp vẫn còn vài thứ bưu phẩm ngoài những quảng cáo mà người ta cố làm bạn mua những thứ bạn chẳng cần, như các phương tiện cho một phòng chiếu tại gia (hệ thống phát lại audio/video một bộ phim, bằng cách bổ sung một hệ thống âm thanh nhỏ gọn lên tivi có sẵn, hoặc có thể đầu tư một phòng chuyên biệt trang bị đầy đủ loa, ampli lớn và màn hình tivi rộng) và đại loại thế. Thử nghĩ mà xem, phòng chiếu tại gia là cái quái gì vậy ? Nếu ta có tiền trong tay để mua thứ ta chẳng cần, thì biết làm gì với nó?
Ở tuổi sáu mươi tám, Robert Kincaid kéo một dây đeo quần màu cam sờn xơ và lướt  bàn tay kia dọc cổ con chó săn màu vàng tên là Con Đường. Ông châm một điếu Carmel và đến bên cửa sổ. Ở nơi nào đó trong sương mù hoặc đằng sau sương mù, một tàu dắt làm việc trong cảng Seattle rúc còi xa xa, khe khẽ.
Kincaid mở ngăn kéo trên cùng của cái tủ bốn tầng, gần cửa sổ. Nhiều hàng dương bản trong các trang ép plastic, cả cuộc đời ông trên các trang đó, năm bức một hàng và hai mươi hàng thành một trang. Cuộc đời của một người đã dành nhiều năm tìm tòi ánh sáng đẹp. Ông chọn hú họa một trang và giơ lên đèn đọc. Bức đầu ỉà một công nhân bến cảng ở Mombasa, bắp thịt cuồn cuộn và cười ngoác miệng dưới cái mũ dệt kim. Ảnh chụp năm 1954, hai mươi bảy năm trước.
Bức thứ hai là một con hải cẩu non Bắc cực, nhìn thẳng qua ống kính vào ông: năm 1951 và những tảng băng trôi từ Newfoundland.
Rồi eo biển Malacca và những người đàn ông ra khơi trên con thuyền sáu mái chèo, câu cá bằng những lưỡi câu mắc mồi và hy vọng teo dần khi nước cáu quá dài và khó khăn. Sau đó là một bức chụp mùa hè ở Basque Countryside. Một tháng Sáu lạnh lẽo ven biển Beaufort, nơi trước kia Amundsen đã đi qua. Một con hổ lượn khỏi lớp cỏ dài trên bờ hồ Periyar ở nam Ấn Độ. Một bức nữa chụp con diệc đang nhào lộn qua làn nước buổi sáng gần cảng Townsend, bức ảnh trông rất giống tiếng kèn xắcxô của Cú Muỗi trong khúc thứ tư của bài Quý bà sành điệu.
Còn nữa. Cô thôn nữ Mexico, đứng giữa cánh đồng và ngoảnh nhìn ông qua vai, cô đội mũ rơm mềm, váy áo hoa sặc sỡ, tên cô và tên làng cô ghi rất nắn nót ở bên lề: Maria ở Luz Santos, Celaya, Mexico, 1979. Đó là chuyến công tác cuối cùng cho tạp chí, trả công rẻ mạt nên rốt cuộc, ông đã phải dùng thêm tiền riêng mới hoàn thành được công việc. Ông tự hỏi Maria làng Luz Santos bây giờ ra sao, nếu cô còn ở làng đó và mùa hè vẫn làm việc trên đồng.
Ở bao tiếp theo, mặt trời đang từ từ lặn trong một ngày thu ở bắc Dakota và một bộ mặt khắc khổ, đeo kính râm, nhìn xuống từ cửa máy gặt đập màu cam cỡ lớn: Jack Carmine lái máy gặt đập trên cánh đồng nông trại, nam Grand Porks, 1975.
Hàng ngàn tấm ảnh trong tủ đựng tài liệu. Robert Kincaid chỉ giữ những bức đẹp nhất, mà tiêu chuẩn của ông lại quá ư khắt khe. Những bức bỏ đi bị quẳng ra đốt như một phần của việc tuyển chọn. Với từng bức được giữ lại, ông có thể nhớ gần như chính xác thời gian, địa điểm và ánh sáng lúc ông khép màn trập. Thậm chí cả những mùi bao quanh ông. Periyar làm ông nhớ mùi cari, bức chụp ở Basque nhắc ông nhớ món thịt dê nêm gia vị. Bức chụp ở Beaufort ít trải nghiệm thú vị về nấu nướng hơn, chủ yếu là các món ăn nhạt nhẽo của trại, đôi khi có cá, mọi thứ đều xiên, ăn trong màn chống muỗi.
Bức cuối cùng của trang là hình ảnh mờ mờ của đá và nước. Năm 1972, ông đang làm việc trên vách đá ở Acadia thì trượt chân và rơi từ độ cao hơn chín mét xuống cát, lúc ông vừa thả màn trập. Ông giữ bức ảnh như một bằng chứng của sự táo bạo và ngu xuẩn, cùng khoảng cách mong manh giữa chúng. Mắt cá chân bị vỡ không bao giờ lành lại được như cũ, chủ yếu vì ông bỏ qua lời khuyên của bác sĩ và xương chưa kịp khỏi hẳn thì ông đã làm việc quần quật. Ông để trang phim vào chỗ cũ và dựa thoải mái vào ngăn kéo mở, đôi bàn tay gập các tập, những ngón tay buộc lại dây.
Ở phía trước ngăn là một phong bì to bằng giấy tơ chuối, đựng những bức thư ông viết cho Francesca Johnson trong nhiều năm, nhưng không bao giờ gửi. Đằng sau phong bì là một cái hộp đựng các bức ảnh in ra. Robert Kincaid rút cái hộp, lau sạch một khoảng trên bàn bếp, gạt sang một bên bát đĩa bẩn, các tờ quảng cáo và thư từ của Hội cựu Chiến binh trả lại người gửi. Từ từ ngồi xuống ghế và cẩn thận mở hộp, ông đeo cặp kính hai tròng gọng kim loại và nhấc tờ giấy phủ. Ông chăm chú ngắm người phụ nữ trong bức ảnh trên cùng.
Mười sáu năm trước, Francesca Johnson trong chiếc quần jeans cũ và áo phông, đứng dựa vào cột hàng rào ở Iowa và mỉm cười với ông. Màu đen-trắng rất hợp với chị, nổi bật đường nét trên thân hình và gương mặt chị, đúng kiểu chị ngoái nhìn lại hồi đó. Lần đầu tiên in tấm ảnh, chị hiện lên trên giấy như thể chị là bóng ma quá khứ của ông. Lúc đầu là giấy trắng, rồi những đường nét mềm mại của bãi cỏ, hàng rào và dáng người, sau đó Francesca nổi bật trong buổi bình minh ngày thứ Tư, tháng Tám năm 1965. Francesca rời khay đến thẳng với ông.
Robert Kincaid ngắm kỹ bức ảnh như hàng trăm lần qua nhiều năm, từ khi ở đó với chị. Trong hộp có tất cả hai mươi sáu bức ảnh Francesca, nhưng ông thích nhất bức này. Chỉ là Francesca bình dị vào buổi sớm, bộ ngực chị căng lên dưới lớp vải mỏng và hằn rõ mọi đường nét.
Ông đặt hai bàn tay lên bàn cạnh chiếc hộp, duỗi những ngón tay dài, mảnh dẻ, và cảm thấy sự động chạm lên làn da bà trở lại sau từng ấy năm. Cảm nhận thân hình bà, một số hồi ức về xúc giác lan từ tâm trí đến bàn tay ông hoặc bằng cách khác đâu đó. Không cử động bàn tay, chỉ bằng tâm trí, ông có thể lướt chúng ung dung và dịu nhẹ khắp người bà, suốt chiều dài và quanh người bà, khắp người Francesca Johnson.
Francesca và cơ may duy nhất gạt mạnh mọi thời khắc lẻ loi của ông sang một bên, cái cơ may đọa đày duy nhất vì một thứ hơn mọi thứ khác trong suốt bao năm trời đằng đẵng lặng lẽ và cô đơn này, con đường và tiếng gầm rú của động cơ phản lực trên đường tới bất cứ nơi nào có ánh sáng đẹp. Ông sẵn sàng từ bỏ mọi thứ vì bà, từ bỏ con đường và việc làm ảnh, tất cả. Nhưng có những lựa chọn chắn lối họ, những lựa chọn khó khăn cho bà. Bà đã quyết định, một quyết định đúng đắn vì bà nhìn thấu đáo sự việc, và bà ở lại. Ở lại với gia đình của bà tại Iowa, thay vì ra đi cùng ông.
Lạy Chúa, làm sao ông có thể đưa nó trở lại, biến các hình ảnh thành cảm giác, thành thực tế đau khổ ngay tại đó cho ông.
Bụng anh áp sát bụng chị, chị uốn cong người dâng hiến cho anh, ánh chớp của đêm hè đặc sệt xuyên qua rèm cửa phòng ngủ. Nụ cười mỉm dịu dàng của chị và chị không thể ngừng vuốt ve anh, trên giường, sáng hôm sau, bàn tay chị luôn ở trên người anh.
- Nếu không vuốt ve anh, em sợ tất cả những thứ này có thể biến mất, - Francesca bảo anh, chị mỉm cười và ép sát vào anh lúc nói.
Nhưng rồi nó vẫn ra đi, đúng như thế. Ra đi vào sáng ngày thứ Năm lúc Robert lái xe xuống con đường mòn trong nông trại của chị ở miền nam Iowa, khi mặt trời nóng bỏng, cây cối im lìm và vạn vật lặng lẽ. Khi anh đứng trên bậc chiếc xe tải tên là Harry và ngoảnh nhìn lại chị trên đường, nhìn một lúc rất lâu trước khi chầm chậm lái Harry vào con đường hàng quận. Nước mắt anh giàn giụa khi ngoảnh nhìn Francesca lần nữa, chị ngồi ở đầu con đường làng, ngồi vắt chéo chân, đầu vùi trong hai bàn tay, trong hơi nóng và bụi bặm của mùa hè Iowa.
Ai bảo rằng những đám lửa sẽ tàn lụi? Có thể lập lòe một chút, nhưng không bao giờ tắt hẳn. Những huyền thoại cổ, những ai không muốn ép sát người đàn bà vào mình hơn nữa và phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện đã trở thành vụ lợi. Ngắm ảnh Francesca Johnson, bàn tay ông lướt trên bà, qua bao dặm đường và năm tháng, ông muốn lại có tất cả lần nữa, muốn có bà trần truồng và chuyển động dưới người ông, nói những lời mà không phải lúc nào ông cũng hiểu, nhưng dầu sao vẫn hiểu. Ông cảm thấy mình bắt đầu cương cứng và mỉm cười. Chỉ nghĩ đến bà, ông mới có thể như thế.
Robert Kincaid rút cái nhíp trong túi quần jeans bên trái và moi ra mảnh giấy nhỏ gấp gọn. Mảnh giấy đã hoen ố và xơ xác vì hàng ngàn lần mở ra, và đọc đến mười ngàn lần dòng chữ của Francesca Johnson, trong đó có trích một câu của W.B. Yeats: “Nếu anh muốn ăn tối lần nữa, tối nay làm xong việc, khi “bướm đêm trắng muốt bay”, anh ghé đến nhé. Bất cứ lúc nào cũng được”.

(William Butler Yeats (1865-1939): Nhà thơ và nhà soạn kịch Ireland, lãnh đạo phong trào Phục hưng Ireland và là một trong những nhà văn lỗi lạc nhất trong thế kỷ 20).

Nét chữ của bà từ mùa hè xa xôi ấy, khi tháng Tám nóng nực và đọng lại, lúc ông uống trà đá trong căn bếp ngôi nhà nông trại giản dị của bà. Khuya đêm ấy, bà đã gắn lời mời này vào thành cây cầu mái, cầu Roseman ở quận Madison, Iowa.
Chỉ cần trò chuyện với bà, một lần nữa nói rằng ông cảm nhận ra sao, rằng cả đời ông đã dành trọn vẹn cho mấy ngày đó. Ông muốn cảm ơn bà, và nếu không còn gì nữa, chỉ ngắm bà, thấy lại gương mặt bà lần nữa. Một khoảnh khắc để nói ông vẫn ở đó và vẫn yêu bà. Không thể và không bao giờ là có thể, bà có một gia đình và mọi thứ. Ông ngả ra sau, lùa bàn tay vào mớ tóc hoa râm, rối bù như thường lệ, dài hơn cổ áo sơmi khoảng năm xăngtimét. Những việc cuối cùng, thêm-một-lần-nữa-thôi, và con đường vẫn ở ngoài kia. Những chàng cao bồi cuối cùng phải vung dây thừng lên lần nữa. Phải làm điều đó. Cưỡi lên con ngựa đã mệt cho đến khi nó quỵ ngã, và để chi họ tuyệt tự trên con đường tiến hóa chấm dứt bằng cái chết của ông.
Ông đã náu mình ờ đây với sương mù trên mặt nước, sương mù bên cửa, và những dấu chân suốt bao năm tháng đè nặng lên ông. Nép bên rìa của... gì nhỉ? Không gì hết.
Ông rót một tách cà phê, tới cái tủ tường và mở ra. Trên các giá là dụng cụ của ông: năm ống kính đậy nắp và xếp trong một túi da mềm, hai máy Nikon F và ống têlê bọc kỹ trong lớp vải dày. Các dụng cụ chuyên dùng, các dụng cụ cũ kỹ, những nút bấm, khóa kéo bằng kim loại đã mòn vẹt, xây xước và sứt sẹo vì bị gió nóng tạt cát vào và những tảng đá trên các cánh đồng hoang Ireland, vì bị xô đẩy và chà xát trên những dặm đường trong chiếc Harry, cùng những cú xóc trên máy bay phản lực xuyên lục địa đến châu Phi, châu Á hoặc nơi nào đấy.
Trong ngăn tủ lạnh có cuộn phim Kodachrome II 25 cuối cùng của ông. Khi người ta ngừng sản xuất loại này, ông đã mua năm trăm cuộn và cất trong tủ lạnh, chia ra và bảo quản chúng, giữ để dùng riêng cho mình, trong khi các ổ đựng phim trong máy đã chuyển thành loại Kodachrome 64.
Mọi thứ đã sa sút đến thế này, dù ông luôn biết là sẽ như thế. Sương mù trên mặt nước, sương mù ở bên cửa và cuộn phim cuối cùng của ông. Những khái niệm cơ bản: máu xương và da thịt, những suy tư trong tâm trí, tất cả sẽ tiêu tan và đi đến hồi kết của mọi sự vật. Không gì hơn và không thể thay đổi, sức đẩy vĩ đại của những điều đã viết ra từ rất sớm về các cách biến hóa của sự việc, và được các nhà bảo tồn lưu trữ. Một cuộc đời kỳ lạ, lẻ loi và lặng lẽ làm sao. Ngay từ ban đầu, nó đã nhẹ tựa lông hồng và lưu lại cũng y như thế. Ngoại trừ những ngày ấy, bốn ngày sáng óng ánh trong năm 1965.
Ồng đã bỏ xuống nơi này, sau bao năm lang thang trên các vách đá Acadia, trên các bãi biển ở vịnh châu Phi, sau những lúc tranh tối tranh sáng ở một làng miền núi, nơi vạn vật trượt đến với nhau, những cuộc bơi vui vẻ trong hồ ở rừng rậm với con gái một ông hàng lụa, tiếng cười lanh lảnh của cô trong phút chốc xua tan sự tĩnh mịch. Ông thường xuyên nhận thức được tiếng gào thét của thời gian, sự phai tàn và trôi qua của cái thứ lạ lùng được gọi là cuộc sống, hiểu rằng tất thảy chỉ là phù du. Làm việc, ăn, đi thẳng người, rồi sau này là đi loạng choạng. Ngắm nghía mọi thứ để lại trong cái tủ đựng tài liệu bốn tầng, cũng thoáng qua như ta vậy. Chỉ những hình ảnh là còn lại, là bằng chứng lặng lẽ cho những hoạt động rộn ràng trước kia của ta mà thôi.

Ấn Độ
hoặc vịnh châu Phi,
hoặc eo biển Malacca,
luôn giống nhau:
những con người trên cát,
hoặc chèo thuyền trên những lớp sóng vỗ bờ.
Một số người làm trong lúc những người khác quan sát.
Ngày mai
họ sẽ làm việc đó
một lần nữa

Một khi ý nghĩ đã đến với ông, nó không rời đi nữa. Ông đến bên cửa sổ và ngắm sương mù. Ngay cả buổi sáng cũng có vẻ chán ngán, dù mới chỉ bắt đầu.
Robert Kincaid mở ngăn kéo tủ bếp. Ba cuốn séc chưa chuyển thành tiền mặt, thù lao cho những buổi chụp ảnh chán ngắt ở các trường học và hội chợ nghệ thuật, tổng cộng là 742 đô la. Không còn những ngày huy hoàng nữa, không còn những chuyến lang thang dài hơi, chụp ảnh cho tạp chí National Geographic, đưa ông đến bất cứ nơi nào có ánh sáng đẹp.
Ông còn tám mươi bảy đôla tiền mặt nữa. Hộp cà phê của ông đầy tiền lẻ, có khi được đến năm chục hoặc hơn. Động cơ mới lắp cho chiếc Harry mới chạy sáu mươi tám ngàn dặm. Nghỉ lại nơi rẻ tiền, hành lý gọn nhẹ tối thiểu, ngủ trong xe nếu cần. Ông có thể làm thế, có thể đến nơi đó một lần nữa, ông và con chó săn Con Đường.
- Này Con Đường, mi nghĩ chúng ta có nên đi không? Chỉ đến đấy, ngắm cầu Roseman, nhớ lại những chuyện cũ thôi? Chẳng làm gì hơn, chỉ đứng ở chỗ của cô ấy lần nữa. Còn tốt hơn là ngồi đây và ngán ngẩm thương thân, ngắm mùa thu với cỏ cây, hoa lá và bướm, khóc vì những thứ chẳng bao giờ trở lại.
Con Đường thở hổn hển và ve vẩy đuôi, đến ngồi cạnh Robert Kincaid.
- Ta không biết bây giờ cô ấy trông như thế nào nữa. Không biết cô ấy có thay đổi nhiều không?
Những cây thông bên ngoài mờ ảo trong màn sương, nhỏ giọt. Tiếng cỏ đuôi chó rơi thịch trên nền rừng thông. Lại tiếng nữa.
Sống lẻ loi gần như suốt sáu mươi tám năm, vì lựa chọn và vì hoàn cảnh, những ý nghĩ của ông cuộn lại với nhau vì chẳng có ai nghe và nếu có nghe thấy cũng chẳng để ý. Tuy vậy, cuối cùng chúng tuôn trào theo kiểu tùy tiện, từ suy nghĩ thành lời nói. Vì công việc trí óc không thể kìm giữ trong yên lặng mãi, lời lẽ phải buột ra ngoài để những suy nghĩ khác có thể thế chỗ.
Với hầu hết mọi người, chỉ một hoặc hai ngày, có thể nhiều giờ liền hoàn toàn một mình và di chuyển trong sự lặng lẽ triền miên là đủ bắt đầu cả một quá trình. Robert Kincaid đã sống suốt đời như thế. Ông nói chuyện một mình trong lúc làm ảnh, hoặc trong lúc nấu ăn, ông lẩm bẩm về tốc độ màn trập hoặc gia vị, về máy ảnh hoặc phó mát. Con chó trở thành kẻ tiếp thu vui vẻ những suy nghĩ bộc lộ, và quan trọng hơn cả, nó hài lòng với âm thanh của lời lẽ đến với nó hoặc lướt qua nó.
- Chắc các con cô ấy đã trưởng thành và ra ở riêng cả rồi. Mà cũng không thể có cơ hội nhìn thấy cô ấy. Ta không biết chắc phải làm gì nếu gặp cô ấy. Cũng không biết cô ấy sẽ làm gì. Trời ạ, biết đâu cô ấy đã quên hết bốn ngày đó. Chỉ là một hồi ức mà có khi cô ấy không thích nghĩ đến nữa.
Robert Kincaid hiểu rõ hơn nhiều. Francesca Johnson và ông đã bị khóa chặt với nhau, miễn là đầu óc họ còn nhớ được. Ông không bao giờ ngờ vực điều đó. Bà có mặt trên mọi con đường ông đi suốt mười sáu năm qua. Ông biết, và ông tin chắc rằng với bà cũng hệt như thế. Nhưng thỉnh thoảng, sẽ nhẹ nhàng hơn nếu ông hình dung bà không còn nghĩ đến ông nữa, khiến ông chịu đựng dễ dàng nỗi đau như ngọn giáo đâm phập vào ngực mỗi khi ông nghĩ đến bà.
Một tình yêu to lớn trong khoảnh khắc bập bềnh, khi ngọn gió quanh quẩn trên lưng ông, vạn vật ngập ngừng trong mọi thứ mà nó lan tới. Một khoảnh khắc xao xuyến, khi người lữ khách già nhìn thấy ánh lửa trong nhà, khi đoàn tàu đến chỗ nghỉ và tiếng còi im bặt. Khi ông đã ngừng lượn quanh ngôi tháp cổ của Rilke một thời gian. (Trích câu thơ của Rainer Maria Rilke (1875-1926), nhà thơ và nhà văn Áo gốc Đức).
Cái tủ lạnh đằng sau ông cằn nhằn như người, Robert Kincaid hút một điếu Camel nữa, ông ho hai lần và ngắm buổi sáng trải ra trước mắt. Ông nhớ lại căn bếp trong nông trại ở Iowa. Như một nhân chứng cuối cùng và gần như không nhầm lẫn, ông làm sống lại tất thảy, con mắt của nhà nhiếp ảnh bẩm sinh và thạo nghề là chiếc máy ảnh đặc biệt, ông lại có thể nhìn thấy nó, căn bếp ấy, với mọi chi tiết. Lớp vải sơn lót nền nứt nẻ và cái bàn formica, cái radio cạnh bồn rửa và những con bướm đêm lượn quanh ngọn đèn.
Francesca ở đó, mặc bộ váy hồng, chân đi xăng đan trắng, đang nhìn anh. Francesca Johnson nắm lấy cơ hội lớn nhất đời và ngã thẳng vào anh, còn anh cũng ngã quỵ trước chị. Nếu có tội, thì đây là tội chung của họ chia đều và công bằng. Tối hôm ấy, anh đứng đó, dựa vào tủ lạnh ngắm chị, ngắm riềm váy trên đôi chân rám nắng, thon thả của chị. Rồi sau đó là sức đẩy mạnh mẽ của những cung cách cổ xưa - chúng ta vừa ca ngợi vừa nguyền rủa nó những cung cách cổ xưa đầy lôi cuốn và bản tango trên phố vang vọng từ xa nhưng mỗi lúc một tiến lại gần hơn.
Những cung cách cổ xưa hòa quyện trong tấm trải giường lộn xộn của một đêm hè nóng nực, trên những giọt mồ hôi ở bụng, mặt và vú Francesca, mồ hôi trên vai và mặt anh, cả trên lưng và bụng anh. Những cung cách cổ xưa với những cây thủy cự thơm ngát, đường cong của chiếc áo choàng giao chiến đỏ thắm và tiếng reo hò của những đám đông ở xa, không thể nhìn thấy cuộc thi đấu nhưng vẫn cổ vũ. Tất cả những năm tháng kìm nén khát khao của chị, cùng tất cả những năm tháng tương tự của anh, làm cả hai đến với nhau hết lần này đến lần khác, trong lúc những cây nến nhỏ giọt, những trận mưa rơi rồi tạnh, và buổi sớm tinh mơ ngập ngừng lan trên miền quê nam Iowa.
Ngay từ tia sáng đầu tiên, anh đã đưa chị ra bãi cỏ và bảo chị dựa vào một cột rào. Ở nơi đó anh đã biến chị thành một bức ảnh đen-trắng, bức ảnh lúc này ở trong hộp trên bàn, tại một căn bếp khác, trong buổi sáng mờ sương của Seattle.
Sợi dây thừng to lớn lại quay nhanh. Chiếc Harry ướt mèm và đầy mùi khói thuốc lá. Lại những thói quen ấy, cố tình giống hệt mười sáu năm trước. Chiếc vali lèn sát vào cái lốp dự phòng trên thùng xe, buộc bằng sợi dây phơi. Lần này không có chiếc ghita, nhiều năm nay Robert không chơi ghita nữa. Nghĩ đến nó, ông trở lại căn nhà nhỏ và bới cây đàn ra khỏi chỗ, cạnh tủ lạnh. Hộp đàn bẹp rúm và khó mà biết cây đàn trông ra sao, vì thế ông không buồn mở hộp. Ông nhún vai và mang ra thùng xe, buộc vào cạnh vali và kéo tấm vải dầu phủ lên cả cây đàn lẫn cái vali. Cây ghita trong hộp đàn phát ra một âm thanh nhè nhẹ, du dương lúc ông thít mạnh sợi dây cho chặt, dường như nó dỗ dành là vẫn có thể chơi được, nếu lấy nó ra khỏi bóng tối, lên dây và gảy.
Nếu như trước kia, Robert Kincaid đã nhảy phắt từ thùng xe xuống đất, nhưng bây giờ ông ngồi trên cửa hậu và nhẹ nhàng trượt xuống, đặt cái chân lành lên mặt đất rồi đến chân kia, vì nếu không cẩn thận, ông có thể ngã như bỡn.
Chỉ mang một balô đựng một chiếc máy ảnh Nikon F và chỉ một ống kính - loại 105 li ưa thích của ông - và cuộn phim Kodachrome II duy nhất. Một cuộn phim cho chuyến viễn du gọi là Lần Cuối cùng.
Phích nước, máy ảnh, vali, ba tút Camel, một thùng bia Tàu ông thấy bán trong một cửa hàng trên bờ biển. Cái túi ngủ cũ. Nếu thiếu tiền, ông có thể hạ trại ngay trên thùng xe. Một cuốn Những ngọn đồi xanh châu Phi (Tác phẩm của Ernest Hemingvvay, xuất bản năm 1935) tả tơi, cuốn sách ông mang theo năm 1965 và không đọc từ hồi đó. Ông ngắm mình: đôi giày ống Red Wing thay đế đến lần thứ tư, quần jeans bạc màu, sơmi kaki và đeo dây quần màu cam. Chiếc áo leo núi có mũ trùm màu nâu ở đằng sau ghế, một túi áo bị rách và vệt cà phê trên ống tay bên phải. Bộ trang phục không thay dổi, tiện dụng của một người sống lang thang.
Con Đường ngồi trên ghế cạnh ông. Bình nước và cái đĩa thiếc cho nó để trên sàn xe, cạnh bao thức ăn cho chó và hộp cà phê đầy tiền lẻ.
Tuy vậy, phải chọn lộ trình. Ở ngoài trời trong đêm lạnh sẽ dành cho miền quê phía Bắc xa xôi, vào thời gian này trong năm. Thực ra, không có lộ trình đặc biệt nào, vì không có địa điểm đặc biệt nào nữa. Bắt đầu là đi về phương Nam tới Oregon, sau đó là California rồi rẽ về hướng Đông. Ông nghe nói gần đây Iowa không xê dịch tí nào, và từ Bắc California, ông sẽ đi về hướng Đông là chính.
Có thể lang thang qua Nam Dakota và thăm Black Hills lần nữa, vì chặng đường cuối cùng là đến quận Madison, Iowa. Năm 1973, ông đã trở lại Hills và chụp ảnh cho bài tường thuật cuộc khai quật khảo cổ, một trong các tác phẩm cuối cùng của ông cho một ấn phẩm quan trọng. Người dẫn đường cho ông là một ông già khó tính, có khi vẫn còn ở quanh đó. Có thể dừng lại và chào hỏi, đến một quán rượu nào đó và lắng nghe tiếng phong cầm nếu người kéo đàn vẫn còn. Robert Kincaid ngồi thẳng lên trên ghế và nhìn chăm chú qua kính chắn gió, để cảm giác về mọi thứ ở ngoài kia và mọi thứ ông chưa từng nhìn thấy tác động đến ông.
- Mi biết không, Con Đường, ta thấy thấm mệt vì mọi thứ ảm đạm và bất hạnh ta đang đắm mình trong đó. Có lẽ mi cũng thế. Nói năng giả dối về những cung cách cũ và những ngày xưa, loanh quanh ở đây, xem các tài liệu, hồ sơ của các thứ quá quen thuộc mà ta đã làm. Nguyền rủa tình trạng dã man của sự già yếu, từ bỏ và  biến đời mình thành một mảnh có thật của sự hỗn độn xấu xa. Chẳng giống ta chút nào. Thực tế là một chuyện, nhưng cắt xén dần những ước mơ là cái chết đang đến gần bên cửa.
Ông dừng lại một lát, nhìn xuống con chó.
- Mi đã bao giờ nghe những dòng thơ tuyệt vời này của Cummings chưa? Không phải ông bạn Cú Muỗi của chúng ta đâu, mà là ông e.e. cummings, người thích viết tên mình bằng chữ thường. Xem nào... ờ, ta không thể nhớ ra tất cả... một thứ gì đó về bác sĩ và các trường hợp vô vọng, về các vũ trụ tốt đẹp hơn ở nơi nào đó nếu ta đi tìm chúng.
(E.E. Cummings (1894-1962): Nhà thơ Mỹ, là một trong những người có nhiều thử nghiệm cấp tiến và sáng tạo nhất trong thế kỷ 20)
Ông mỉm cười với con chó.
- Ta sẽ trở lại ngay thôi.
Vào nhà, Robert Kincaid cầm cái balô để trên giá phòng kho và túm cái chân máy Gitzo sứt sẹo dựa vào tường hậu, đằng sau bốn cái sơmi treo ở đó. Tìm khắp trên sàn kho, ông tìm được cái áo len dài tay, cổ lọ mầu đen, ông mua ở Ireland nhiều năm trước và quấn cái áo quanh chân máy Gitzo. Chiếc áo làm việc đu đưa trên mắc. Ông lấy xuống và mặc vào.
Ông xếp các máy ảnh và phụ tùng trong tủ bếp vào balô, từng thứ một rất ngăn nắp, đâu vào đấy. Ông vẫn còn bốn mươi ba cuộn phim Tri-X đen-trắng trong ngăn kéo, lăn lóc trên bề mặt tấm bảng của một tạp chí nhiếp ảnh có uy tín:

TẶNG ROBERT. L. KINCAID
ĐỂ CÔNG NHẬN SỰ CỐNG HIẾN XUẤT SẮC SUỐT ĐỜI
TRONG NGHỆ THUẬT NHIẾP ẢNH
(Animus non integritatem sed íacinus cupit –
Trái tim sẽ không thuần khiết nếu thiếu phiêu lưu)

Ông bốc các cuộn phim vào một túi mua hàng, nhìn quanh rồi vắt cái chân máy quấn áo len lên một bên vai, balô lên vai kia. Lúc khóa căn nhà, ông cẩn thận không để cánh cửa có khung lưới chắn muỗi sập mạnh lúc đóng.
Rồi trở lại xe.
- Sẵn sàng chưa, cún? - Ông hỏi và khởi động máy. - Để xem dọc đường chúng ta quên gì nhé.
Mặt trời mỏng manh le lói qua màn sương mù giữa buổi sáng lúc Robert Kincaid đi phà vào đất liền, qua eo biển vào vịnh Elliot. Sóng gợn nhè nhẹ trên mặt nước. Ông lái xe qua các phố vắng ra khỏi thành phố, dọc theo cảng, qua công viên, nơi ông và Cú Muỗi thỉnh thoảng ngồi trên ghế dài và kể cho nhau nghe những điều họ tin là thật về đời mình. Ở Olympia, ông đổi séc của trường ra tiền mặt và gửi một bưu thiếp cho Cú Muỗi, cho biết ông ra khỏi thành phố và vài tuần nữa sẽ gặp lại ông ta. Người già hay lo cho nhau, ông bạn Cú Muỗi của ông có thể băn khoăn và lo lắng.
Ông quyết định theo những con đường ven biển xuống phía Nam và đến gần Maytown, rẽ về hướng Tây vào vùng quê thoáng đãng gần như quê ông, có những con đường tách biệt và nhiều thị trấn nhỏ. Con Đường thò đầu ra cửa và vểnh tai lên trong gió.
Thế là, tháng Mười một năm 1981, lấy các dụng cụ xuống lần cuối cùng và một lần nữa, mắc kẹt trong những vòng xoắn của sợi dây, Robert Kincaid quay nhanh sợi thừng to lần nữa và nhằm thẳng tới Iowa, đến những cây cầu ở quận Madison.
------------ 
tiếp: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2015/06/mot-ngan-con-uong-que-robert-james_4.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét