Shichiro
Fukazawa - Nhật Bản
Dịch giả :
Hoàng Hải Phong
Những rặng núi
trải dài, trùng trùng, điệp điệp, bốn bề chỉ toàn núi. Nơi đó có làng Shinshu,
ở đầu làng có ngôi nhà nhỏ, đó là nhà của bà Rin. Trước cửa nhà nhô lên một gốc
cây sồi bị cưa cụt, mặt cắt của nó phẳng lì như tấm ván. Trẻ con ở đây và khách
qua đường rất thích ngồi lên gốc cây ấy. Vì vậy mà dân làng gọi nhà bà Rin là
nhà “Gốc cụt”. Bà Rin về ở đây làm dâu từ năm chục năm trước. Quê bà ở bên kia
núi. Ở vùng này, làng bản không có tên gọi nên người ta gọi ngôi làng bên kia
núi là làng ấy, lâu dần thành quen. Bà Rin năm nay đã sáu chín tuổi, chồng bà
mất đã được hai chục năm. Vợ của Tatsuhei, người con trai độc nhất của bà, bị
rơi xuống vực năm ngoái khi đi nhặt hạt dẻ, nên bà Rin chỉ nghĩ đến chuyện tìm
một người vợ mới cho anh con trai góa, dù sao cũng phải có người trông nom bốn
đứa cháu mồ côi. Song ở cả làng này, cả làng bên kia núi đều không có người gái
góa nào tương xứng.
Ngày hôm ấy,
rốt cuộc bà Rin đã nghe thấy điều mà bà mong đợi bấy lâu. Buổi sáng có một
người hành khất đi ngang qua nhà bà để lên núi đã cất tiếng hát:
"Ngày hội
Narayama
Đã tới thêm ba
lần
Thêm ba mùa
hoa nở
Trên cây dẻ
ngoài sân"
Đây là bài ca
về ngày hội của làng họ, gọi là hội Bôn*. Bà Rin lâu nay vẫn chờ đợi người ta
hát bài này, nhưng mãi không thấy ai hát, nên bà lấy làm lơ đãng. Bài hát có
nghĩa là:"Ba năm nữa qua đi, tôi sẽ thêm ba tuổi", song nó
cũng có nghĩa là: nhắc nhở những người già bẩy mươi tuổi rằng đã đến lúc phải
về với thần núi Narayama.
Bà Rin lắng
nghe tiếng hát đang xa dần và liếc trộm Tatsuhei. Anh cũng đang dỏng tai lên
nghe bài hát. Nhìn thấy hai con mắt mở to của anh long lanh, bà hiểu rằng anh
sẽ đi cùng bà lên núi, song rõ ràng anh đau khổ vì điều đấy, và bà trìu mến
nghĩ thầm: "Con trai mình hiếu thảo quá!”
Ngày hôm đấy
bà còn được biết một tin khác. Tin này do một người đưa tin từ quê bà mang đến:
Ở làng ấy có một người phụ nữ vừa góa chồng. Chị ta đã bốn mươi nhăm tuổi, cũng
như Tatsuhei, và vừa chôn cất chồng được ba ngày nay. Về tuổi tác thế là được,
còn những điều khác chẳng đáng kể. Người đưa tin kể chuyện người đàn bà góa,
thỏa thuận với bà Rin ngày chị ta sẽ về làm dâu nhà bà, rồi vội vã đi ngay. Lúc
người đưa tin đến, Tatsuhei vắng nhà nên bà phải quyết định lấy mọi chuyện. Chỉ
còn việc chờ anh về để báo lại cho anh.
Ở làng họ,
những việc như thế này người ta quyết định nhanh chóng. Người ta không tổ chức
đám cưới, chỉ cần đôi bên thỏa thuận với nhau rồi nàng dâu về ở nhà chú rể.
Thực ra cũng có những ông bà mối nhưng họ chỉ quan tâm sao cho cô dâu, chú rể
hợp nhau về tuổi tác. Cô dâu đến chơi nhà chú rể, ở lại ngủ đêm, rồi dần dần
ngủ hẳn ở nhà ấy. Ở đây vào những ngày hội Bôn hay ngày Tết, dân làng cũng có
kỷ niệm, nhưng không có chỗ nào để vui chơi, nên chỉ khác ngày thường là những
hôm ấy mọi người nghỉ không làm việc. Người ta chỉ bày cỗ bàn vào ngày hội
Narayama, mà cũng rất đơn sơ.
Nhìn theo bóng
người đưa tin, bà Rin nghĩ: “Anh ta nói rằng đằng họ hàng nhà mình nhờ anh
ta đến đây. Chắc anh ta là chỗ bà con gần với cô dâu. Chồng cô ta chết chưa
được ba hôm mà đã thấy anh ta lại, hẳn là lo cho cô ấy lắm. Nhưng thế cũng hay
cho nhà mình: cô ấy đến càng sớm càng tốt”.
Bà Rin định
ngày đầu năm mới này sẽ vào núi với thần Narayama, nhưng bà lo lắng; nhà cửa sẽ
ra sao nếu trước khi đi bà không tìm được một nàng dâu cho con trai? Giờ đây đã
tìm được một người vừa đôi phải lứa, bà như trút được gánh nặng trong lòng.
Chẳng bao lâu nữa, nàng dâu sẽ đến cùng với ông bố hoặc một người bà con, nhà
có bàn tay đàn bà sẽ gọn gàng ngăn nắp ngay. Chẳng gì thì bà Rin cũng có bốn
đứa cháu: ba thằng cháu trai, thằng Kesakichi Asakichi lớn nhất đã mười sáu
tuổi, và một đứa cháu gái mới được ba tuổi. Thời gian gần đây, Tatsuhei cứ như
người ngẩn ngơ. Bà Rin và cả làng đều nhận thấy điều đó.
“Nhưng bây giờ
nó sắp hết buồn rồi”. Và bà lấy làm mừng lắm.
Buổi chiều ,
khi Tatsuhei ở núi về, ngồi nghỉ trên gốc cây cụt, bà Rin từ trong nhà lớn
tiếng báo tin:
- Này! Ít lâu
nữa người làng ấy sẽ về làm dâu đấy. Chị ta mới góa chồng ngày hôm kia. Chờ đủ
bốn mươi chín ngày rồi chị ta sẽ thu xếp.
Bà Rin cảm
thấy hãnh diện như vừa thông báo về một chiến công vĩ đại.
Tatsuhei
ngoảnh lại.
- Ở làng bên
hả mẹ? Thế cô ấy bao nhiêu tuổi?
Bà Rin đến bên
Tatsuhei:
- Cô ấy tên là
Tama, cũng trạc tuổi con, bốn mươi năm tuổi.
- Ra thế! Thật
xứng với con. Ha, ha, ha!
Tatsuhei bối
rối ra mặt, anh muốn làm cho bà Rin vui lên. “Hình như nó vẫn lo nghĩ
chuyện gì chứ không phải chuyện vợ con”. Bằng sự nhậy bén của người già, bà
Rin đoán ra điều đó và bà cảm thấy sung sướng.
Trên núi
Narayama có một vị thần. Dân làng không ai hoài nghi việc những người đã vào
núi đều được thấy Ngài. Mà một khi quả thực trên núi có thần linh, cố nhiên người
ta phải ăn mừng ngày lễ của Ngài thật đặc biệt, không giống những ngày hội
khác. Dần dà trong làng chỉ còn lại độc có một ngày hội ấy. Nó trùng với ngày
hội Bôn, thậm chí những bài hát cho cả hai ngày hội cũng giống nhau.
Theo âm lịch,
ngày hội Bôn kéo dài từ ngày 13 tháng bảy đến ngày 16 tháng bảy, còn ngày lễ
thần Narayama thì bắt đầu trước đó một đêm, đêm 12 tháng bảy. Suốt đêm dân làng
uống rượu sakê, nhắm những sản vật mà những cánh rừng và thung lũng tặng cho họ
vào mùa này: hạt dẻ, nho dại, nấm, quả xi và quả kai. Cơm được coi là món ăn
sang trọng nhất. Trong làng người ta trân trọng gọi cơm là Khaghi trắng. Ở nơi
đây khí hậu rất khắc nghiệt, lúa trồng được chẳng là bao, người ta chỉ thường
ăn hạt kê, hạt mạch, ngô, còn gạo để dành để thổi cơm vào dịp lễ Narayama hoặc
nấu cho những người ốm nặng. Trong làng có một bài ca như thế này:
Cha tôi đau
nặng
Nằm suốt ba hôm
Ốm to đến nỗi
Phải nấu cơm ăn
Bài hát chê
trách sự xa xỉ. Kẻ nào bố mới chỉ ốm sơ sơ mà đã cho ăn cơm, kẻ đó bị coi là
hoang phí, hay thậm chí là ngu xuẩn. Đôi khi người ta thay đổi lời ca. Từ “bố”
được thay bằng “con” hoặc “anh”…
Tưởng chừng
như đấy chỉ là những bài hát vui, nhưng thật ra dân làng muốn nhắn nhủ rằng
chẳng nên ăn cơm khi chưa cần thiết.
Về cây dẻ nở
hoa, chỉ có một bài hát.
Thế nhưng có
rất nhiều bài ca khác mừng đón ngày hội Bôn, và mỗi người hát theo một cách
riêng cho mình.
Nhà bà Rin nằm
ở rìa làng, chỗ con đường lên núi chạy ngang qua. Chỉ còn ngót ngét một tháng
nữa là đến ngày hội Narayama nên bà Rin ngày càng hay nghe thấy người ta hát
những bài ca mừng ngày hội. Một người nào đó cất giọng hát: May sao
O-Tori-san, liền đó một giọng khác hòa theo…
May sao
O-Tori-san
Con nhà làm
muối:
Bà đi vào núi
Gặp lúc tuyết
rơi
Ở làng này chữ
“vào núi” chỉ hai việc hoàn toàn khác nhau, nhưng bất kì ai cũng có thể hiểu
ngay lúc ấy bài hát ấy nói về điều gì. Có thể là lên núi kiếm củi, đốt than,
cũng có thể là rời về núi Narayama sống. Ở gia đình người làm muối không có
người đàn bà nào tên là Tori, nhưng có lẽ bà đã sống cách đây vài đời, và khi
bà rời về núi, tuyết đã rơi đầy trời. Bà Tori tượng trưng cho con người hạnh
phúc. Đấy là điều người ta muốn nói đến trong bài ca.
Ở đây tuyết
chẳng lạ với mọi người: về mùa đông đôi khi có tuyết rơi trong làng, còn những
đỉnh núi thì tuyết phủ trắng xóa suốt cả mùa đông. Điều mà người ta muốn nói
đến chính là việc đúng lúc bà Tori vào đến núi thì tuyết rơi. Nếu tuyết rơi lúc
đang đi trên đường thì bà sẽ chẳng phải là người hạnh phúc. Với bà Tori, mọi
việc xảy ra thật đúng lúc.
Bài ca còn một
ý nghĩa nữa. Nó nhắc người ta phải rời về núi Narayama vào mùa đông, chứ không
phải mùa hè. Vì thế mọi người thường đến đây vào đúng lúc tuyết sắp rơi. Chứ
khi tuyết phủ đầy rồi thì đi lại sẽ khó khăn, mà đường vào núi Narayama, nơi ở
của thần linh, chẳng gần gụi gì: qua bảy khe núi và ba hồ nước. Chính vì vậy mà
bài ca căn dặn trước: hãy ra đi vào mùa đông, nhưng trước khi tuyết bắt đầu
rơi. Theo như bài hát này thì thời gian lên núi thật ít ỏi.
Bà Rin từ lâu
đã chuẩn bị ra đi. Từ ba năm nay, bà đã để dành rượu Sakê cho ngày chia tay và
chuẩn bị một chiếc chiếu để ngồi khi lên núi. Chuyện tìm vợ cho người con trai
góa đã cản trở bà, nhưng bây giờ mọi việc đã ổn thỏa: đủ cả chiếu, cả rượu
Sakê, cả vợ cho Tatsuhei. Nhưng còn một điều vẫn làm bà lo lắng.
Không để ai
trông thấy, bà Rin lén giấu một hòn đá và thỉnh thoảng lại dùng nó để ghè răng:
bà muốn đập gãy những chiếc răng còn khỏe. Hai hàm răng bị đá đập vào đau buốt,
nhưng nếu ráng chịu thêm ít nữa, thế nào cũng có vài chiếc rụng. Bà hoan hỉ chờ
đợi điều đó, nên những ngày gần đây thậm chí bà còn cảm thấy nỗi đau đớn đó
thật dễ chịu.
Bà Rin đã già
lắm rồi, mà hai hàm răng của bà vẫn còn nguyên vẹn. Hồi trẻ, bà Rin vẫn tự hào
về bộ răng của mình: chúng chắc đến nỗi có thể cắn vỡ tan những hạt ngô khô.
Suốt từ bấy đến nay, chưa có một chiếc răng nào rụng! Nhưng giờ đây, bà xấu hổ
vì điều đó. Ngay cả hàm răng của Tatsuhei cũng đã thưa đi nhiều, ấy vậy mà răng
của bà vẫn đầy miệng và vẫn có thể nhai đủ mọi thứ, không thua gì bọn trẻ. Có
bộ răng như thế này ở một làng quê nghèo quả thật là một điều đáng xấu hổ.
Bà còn muốn
nhai những gì nữa, quả thông chăng, hay đậu răng ngựa? – người làng nói với bà
như vậy.
Mà không phải
họ nói đùa. Họ tỏ ra khinh thường bà. Đậu răng ngựa là thứ đậu cứng như đá để
cho ngựa ăn, người ăn vào thì bụng bị trướng lên. Người ta cố ý nhắc đến đậu
răng ngựa nên bà hiểu ngay, rằng mọi người giễu cợt bà, bởi vì điều này bà nghe
thấy không chỉ từ một người mà từ nhiều người. Biết làm sao được, bà nghĩ, chỉ
tại mình có bộ răng quá ư là chắc.
- Thế mà bà
nội có những ba mươi ba răng! – Kesakichi trêu bà.
Ôi, đến mức
đứa cháu ruột cũng giễu bà! Bà Rin lấy ngón tay lần đếm những chiếc răng. Thật
ra chỉ có hai mươi tám chiếc.
- Thằng ngốc!
Chỉ có hai mươi tám chiếc thôi chứ - bà nói.
- Thật à? Ấy
là bà chưa đếm hết. Tìm thêm nữa xem nào. – Kesakichi nhục mạ bà. Nó nhất định
muốn bà nó phải có ba mươi ba chiếc răng. Năm ngoái nó làm cho cả làng buồn
cười vì bài hát về hàm răng của bà do nó bịa ra:
Bà tôi có
chiếc rương
Trong góc nhà
cất kĩ
Cả thẩy ba
mươi ba
Chiếc răng
nanh của quỷ.
Kesakichi đã
thay đổi lời ca của một bài hát nghịch ngợm nhất trong làng. Người ta hát
rằng: “Mẹ tôi có chiếc rương. Trong góc nhà cất kĩ. Cả thẩy ba mươi ba.
Sợi tóc mây yêu quý.”
Bài hát giễu
vui người mẹ. Nhại theo bài ca ấy, Kesakichi hát về những chiếc răng của bà nó,
làm cho cả làng khoái trá. Nhưng để khớp với lời ca, nó cần đúng ba mươi ba
chiếc răng.
Vì thế nên nó
phao tin khắp trong làng rằng bà Rin có ba mươi ba chiếc răng.
Ở làng này, bà
Rin được kính trọng hơn bất kì người nào. Sau khi chồng chết, bà không hề bị
điều tiếng, hoặc bị người ta bới móc như những người đàn bà góa khác. Bà không
muốn chuốc lấy nỗi nhục chỉ vì bộ răng còn chắc của mình.“Thể nào cũng phải
rửa được nỗi nhục ấy, trước khi rời về núi” bà nghĩ bụng. Bà muốn mình
sẽ đàng hoàng là một bà già móm mém ngồi sau lưng con trai khi anh địu bà vào
núi.
Vì thế nên bà
giấu mọi người, bí mật dùng đá ghè hai hàm răng: bà cố đập gãy vài chiếc.
Gần bên túp
nhà của bà Rin, có một ngôi nhà, tục gọi là “Nhà tiền”. Thật ra trong làng
không ai có tiền, mà có cũng không biết tiêu gì, nhưng có lần ông láng giềng
đến vùng Etchigo và mang về một đồng tiền cổ. Từ đó ngôi nhà của ông được đặt
tên là “Nhà tiền”. Chủ nhà này, ông Mata, đã bảy mươi tuổi. Mata và bà Rin
không chỉ là chỗ xóm giềng mà còn là những người đồng niên và chơi thân với
nhau từ nhiều năm nay. Song bà Rin đã có ý vào núi Narayama từ lâu, nhưng Mata,
con người tham lam nhất làng vẫn chưa muốn nấu rượu sakê đãi khách, và cho đến
bây giờ vẫn chưa thấy sửa soạn gì. Nghe đồn Mata sẽ vào núi trước tiết lập
xuân, song đã qua hè mà vẫn thấy ông lão ngồi nhà. Người ta lại xì xào rằng có
lẽ đến mùa đông Mata sẽ lên núi, và ra đi lặng lẽ để không ai biết. Nhưng bà
Rin nghĩ rằng ông Mata tham lam này thậm chí không nghĩ đến chuyện vào
núi. “Thật là ngu xuẩn!”. Bà Rin sẽ rời về núi vào tháng Giêng khi
bà tròn bảy mươi tuổi.
Ở cạnh “Nhà
tiền” có một nhà tục gọi là “Nhà thông cụt”. Từ phía sau ngôi nhà này nhô lên
một thân cây thông rất to trông như một cột đá. Ngày trước, đã lâu lắm, nó bị
sét đánh cháy. Cạnh “Nhà thông cụt” là “Nhà mưa”. Ở phía đông nam làng có rặng
núi Tashumi. Chỉ cần một người nào của nhà này đi đến đấy là trời liền đổ mưa.
Thời xưa có một người trong gia đình này đã giết chết một con rắn hai đầu trên
núi Tashumi, nên từ bấy đến nay cứ mỗi khi họ lên núi là trời lại mưa. Vì thế
nên người ta gọi nhà này là “Nhà mưa”.
Kế bên
"Nhà mưa" có một ngôi nhà mang tên Nhà kai. Cả làng có hai mươi hai
nóc nhà, cạnh nhà này có một cây kai cao nhất. "Nhà kai" được ca tụng
với bài hát như thế này:
Nhà kai có bà
Ghin-ian bê tha
Trong nom đàn
chắt
Như lũ chuột
nhà.
Ngày bà Rin
mới về làng này, bà vẫn còn gặp bà cụ Ghin. Theo lời đồn đại, đó là một bà già
bê tha, phóng túng. Bà Ghin là người dốt nát. “Lũ chuột” trong bài hát ám chỉ
lũ cháu chắt đông đúc của bà. Ở “Nhà kai”, người ta đẻ con nhiều như chuột. Bà
Ghin vừa đẻ con, vừa nuôi nấng lũ cháu, vừa trông nom đàn chắt. Hơn nữa, lại
giữa một làng quê nghèo đói như thế này! Bà Ghin bị mọi người khinh ghét vì đã
đẻ ra lúc nhúc một bầy con cháu dâm ô. Trong bài hát, người ta chế nhạo ba đời
nhà Kai dâm ô và đẻ nhiều.
Sang tháng
bảy, mọi nhà tíu tít bận rộn. Ngày lễ Narayama chỉ kéo dài có một ngày nhưng là
ngày hội duy nhất nên mới đầu tháng bảy trong làng đã tràn ngập không khí hội
hè. Thế rồi hôm sau đã sang ngày hội. Tatsuhei bận ngập đầu ngập cổ. Trong nhà
mọi người đều náo nức, mỗi người nghĩ đến việc của mình, chả trông mong gì được
ở Kesakichi; nó biến đâu mất nên cả ngày Tatsuhei phải quần quật một mình.
Khi đi ngang
qua “Nhà mưa” anh nghe thấy tiếng hát, chủ nhà đang hát về những chiếc răng quỷ:
Bà Rin có
chiếc rương
Trong góc nhà
cất kĩ
Cả thẩy ba
mươi ba
Chiếc răng
nanh của quỷ.
“Đồ vô
lại”-Tatsuhei nghĩ bụng. Lần đầu tiên anh nghe thấy bài hát này. Kesakichi đặt
ra bài hát này từ năm ngoái, nhưng khi đó nó còn chưa lọt đến tai Tatsuhei và
bà Rin. Đây là lần thứ hai trong năm nay bà Rin được nhắc đến trong bài hát.
Tatsuhei bước
ngay vào nhà. Gặp chủ nhà ở phòng ngoài, anh ngồi phệt luôn xuống đất, ngay
trước mặt ông ta:
- Nào, cùng đi
lại đằng nhà tôi. Ta thử đếm xem bà Rin có bao nhiêu răng.
“Nhà mưa” kinh
hãi. Anh Tatsuhei vốn lầm lì, bây giờ nhìn ông với vẻ đe dọa là có chuyện chẳng
lành.
- Anh nói gì
vậy? Có gì đâu? Tôi có làm gì đâu? Đấy là thằng Kesakichi nhà anh nghĩ ra đó.
Lúc đó
Tatsuhei mới biết bài hát do thằng con anh bịa ra. Bây giờ anh đã hiểu tại sao
Kesakichi cứ khăng khăng rằng bà nó có ba mươi ba cái răng.
Tatsuhei không
nói gì, bước ra khỏi nhà, anh kiếm một cái gậy to ở ven đường và đi tìm
Kesakichi.
Kesakichi đang
ngồi hát với lũ trẻ gần “Nhà bên đầm” :
Ngày hội
Narayama
Mỗi năm chỉ có
một lần
Được ăn chán,
ăn no
Những hạt cơm
trắng ngần.
Có một hàng
giậu thông bao quanh nhà, nên không nhìn thấy ai, nhưng Tatsuhei nhận ra
Kesakichi qua giọng hát.
Vừa vung roi,
anh vừa quát:
- Kesa! Như
vậy là bà có ba mươi ba cái răng? A, thằng mất dạy! Bà bế ẵm mày, chăm bẵm mày,
còn mày…
Anh giơ roi
lên, nhưng Kesakichi khéo léo tránh được, nên chiếc roi quất mạnh xuống tảng
đá. Tatsuhei bị va tay đau điếng.
Kesakichi chạy
ra xa, và đứng nhìn bố như không có chuyện gì xảy ra.
- Thằng khốn!
Tao sẽ cho mày nhịn đói! – Tatsuhei gầm lên.
Trong làng
người ta hay nói: “Tao sẽ cho mày nhịn đói!” hoặc: “Tao sẽ phạt cơm mày!”. Cố
nhiên có thể phạt bằng cách bắt nhịn đói nhưng thông thường đây chỉ là câu mắng.
Đến bữa cơm
chiều, cả nhà ngồi quanh bàn. Cả Kesakichi đi chơi ngoài đường về cũng ngồi vào
bàn, liếc trộm bố, nó không nhận thấy dấu vết nào của cơn giận, vẻ mặt bố nó
trông buồn rầu nhiều hơn là giận dữ.
Tatsuhei có ý
không muốn nhắc đến bài hát trước mặt bà Rin. Anh không muốn bà Rin biết trong
làng người ta hát bài ca như vậy.Thậm chí trong thâm tâm anh nghĩ: giá cả
Kesakichi cũng lặng thinh thì tốt.
Còn Kesakichi
lại nghĩ thầm: “Việc gì mà bố phải nổi xung lên với mình vì bài hát ấy?” Vì vậy
nên nó quyết chí: “Đã thế mình sẽ hát để trêu ngươi, một khi ông ta không thấy
thích!”
Kesakichi biết
rằng bố nó sắp lấy vợ và nó quyết tâm chống lại việc này.
Cả nhà cắm cúi
ăn. Họ ăn món canh rau, trong đó nổi lèo tèo những viên bột ngô. Canh loãng nên
họ nửa ăn, nửa húp.
Bà Rin nghĩ
ngợi về công việc của mình. Bà linh cảm thấy người con dâu sẽ đến nhà họ vào
ngày lễ, mặc dù cô vẫn chưa đoạn tang. Thậm chí hôm nay bà đã có ý chờ, nhưng
nàng dâu không thấy đến.
“Như vậy là
ngày mai cô ấy sẽ tới, - bà nghĩ- phải báo trước cho tất cả bọn trẻ biết việc
cô ấy đến đây”.
- Có thể ngày
mai người mẹ mới của các con ở làng ấy sẽ về đây, - bà vui vẻ nói với các cháu.
- Có lẽ hơi
sớm. Mới được một tháng. Nhưng nếu cô ấy đến cũng không sao, mẹ sẽ được nhẹ
nhàng hơn trong việc cơm nước.- Tatsuhei có vẻ vui.
- Lại còn thế
nữa kia! – Kesakichi ngắt lời anh. Nó vung tay quay sang bà Rin gào lên : -
Chúng tôi không cần có mẹ nào ở làng ấy cả. – Sau đó nó căm thù nhìn bố, nói: -
Bố chẳng cần gì phải có vợ. Tôi sẽ lấy vợ. – Và nó quay lại quát bà Rin: - Còn
bà thì im đi! Nếu bà chán nấu nướng rồi thì vợ tôi sẽ làm.
Bà Rin sửng
sốt:
- Thằng ngu!
Đừng có mà hốc nữa! – bà lớn tiếng mắng át Kesakichi và vụt mạnh đôi đũa vào cổ
nó.
- Kesakichi
muốn lấy cô Matsu ở nhà “Nhà bên đầm” đấy mà, - thằng bé mười ba tuổi
mách bà Rin. Nó biết là Kesakichi chơi thân với Matsu nên hi vọng bêu
xấu anh nó trước mặt mọi người.
Kesakichi tát
bốp một cái vào má thằng em.
- Câm mồm! –
Và nó hầm hầm lườm em.
Tatsuhei ngạc
nhiên nhưng im lặng. Anh không ngờ con mình lại cả gan đến thế. Trong đầu anh
không hề xảy ra ý nghĩ rằng Kesakichi có thể lấy vợ. Ở làng, theo tục lệ người
ta lấy vợ lấy chồng muộn nên không ai lập gia đình trước tuổi hai mươi.
Thậm chí người
ta còn có bài hát khen ngợi việc hôn nhân muộn mằn.
Cả sau tuổi ba
mươi
Lấy vợ đâu có
muộn
Nào đâu ai có
muốn
Gánh thêm một
miệng ăn.
Thêm một miệng
ăn trong gia đình hoàn toàn không đúng lúc, vì thế nên cả bà Rin, cả Tatsuhei
đều không hề nghĩ đến chuyện lấy vợ cho Kesakichi.
Ven làng có
một con suối chảy qua, đến giữa làng, nó phình ra thành một cái đầm nhỏ. Ngôi
nhà đứng trên bờ đầm nên được gọi là “Nhà bên đầm”. Bà Rin biết rõ cô bé tên là Matsu ở
“Nhà bên đầm”. Bà cảm thấy xấu hổ vì do tính cáu bẳn của người già, bà đã la
mắng Kesakichi. Quả thật Kesakichi đã làm bà bất ngờ, nên bà mới nổi nóng.
Nhưng chỉ đến bây giờ bà Rin mới chợt nhận ra rằng cả Matsu và
Kesakichi đều đã trưởng thành, vậy mà bà không để ý đến chuyện đó. Đây là điều
không thể tha thứ được cho bà.
Kesakichi đứng
dậy bỏ đi.
Ngày lễ đã
đến. Sau khi ăn no nê “khaghi trắng”, bọn trẻ kéo nhau ra bãi. Ở giữa làng có
một chỗ bằng phẳng, không lớn lắm. Chỗ ấy được gọi là bãi Hội. Người ta vui
chơi vào buổi tối, nhưng bọn trẻ con tụ họp ở đây từ sáng. Ở ngoài bãi, người
ta múa điệu Bôn-ôđôri. Nói đúng hơn, không phải là múa, mà người ta đứng thành
vòng tròn, vỗ tay và hát. Tatsuhei cũng đến nhà người quen chơi, nên chỉ có một
mình bà Rin ở nhà.
Và trưa, bà
nhìn thấy một người phụ nữ lạ. Cô ta ngồi trên gốc cây cụt, quay lưng vào nhà.
Một chiếc túi vải lớn nằm bên cạnh. Có lẽ người phụ nữ đang chờ ai.
Bà Rin nghĩ
bụng không biết có phải đó là cô con dâu từ làng bên tới không nhưng người đàn
bà lạ mặt chẳng có vẻ gì định vào nhà bà. “Thế nghĩa là không phải cô ấy”, - bà
Rin nghĩ. Người phụ nữ hình như đến thăm nhà ai, và bây giờ đang ngồi nghỉ.
Nhưng chiếc túi vải to làm bà Rin lại nghĩ rằng dù sao đây cũng phải chỉ là một
người khách bình thường, nên cuối cùng bà quyết định bước ra khỏi cửa.
- Chẳng hay
chị người đâu ta... có lẽ là đến chơi nhân ngày hội? – bà hỏi người phụ nữ
- Nhà anh
Tatsuhei ở đây phải không ạ? – người phụ nữ hỏi tự nhiên.
“Nàng dâu!” –
bà Rin hiểu ra.
- Chị là Tama
ở làng ấy phải không?
- Vâng. Ở chỗ
cháu cũng đang ngày lễ, nhưng tất cả mọi người đều bảo cháu: “Thôi, đi đi, cô
sẽ ăn tết ở đằng ấy”. Và thế là cháu đi.
- Ồ, thế thì
vào đây, vào đây, - bà Rin cầm ống tay áo của Tama kéo vào. Bà sung sướng chạy
ra chạy vào soạn sửa, bà đặt trước mặt người con dâu một chiếc bàn, rồi bưng
mâm ra. – Ăn đi con, để mẹ chạy đi gọi Tatsuhei, - bà nói.
- Mọi người
đều nói: ăn cố ở nhà làm gì. Thôi đi đi, cô sẽ ăn ở làng ấy. Vì thế nên hôm nay
cháu cũng chưa ăn bữa sáng – nàng dâu nói.
- Ồ, thế thì
ăn đi, con cứ ăn tự nhiên.
Bà Rin thầm
nghĩ đằng nào bà cũng mời Tama ăn, dù cho cô ấy nói rằng đã ăn rồi. Chẳng gì
thì bà cũng chờ cô ấy từ hôm qua.
Tama vừa ăn
ngấu nghiến, vừa kể:
- Ai cũng bảo
cháu: bà cụ đằng ấy tốt bụng lắm, nhanh lên mà đi.
Bà Rin sung
sướng nhìn Tama đang nhai ngon lành
- Anh con đã
đến gặp bà. Chính anh ấy cũng nói rằng bà rất tốt. Thế là con quyết định phải
đi sớm.
Bà Rin xích
lại gần Tama. “Người cũng xuề xòa, có lẽ không biết nói dối”, bà nghĩ bụng, rồi
bảo:
- Con có thể
đến sớm hơn cũng được. Mẹ chờ con từ hôm qua kia. - Bà Rin định ngồi sát lại
bên nàng dâu, nhưng chợt sợ rằng cô sẽ nhìn thấy bộ răng nguyên vẹn của mình,
bà vội đưa tay che miệng và ngồi nhích ra. - Nhưng sao con ngồi đó lâu thế? Sao
không vào nhà ngay? - Bà hỏi.
Tama mỉm cười:
- Con chỉ đến
đây một mình, con thấy ngại ngùng quá. Anh con hứa đưa đi, nhưng bữa qua uống
rượu say mèm, còn mọi người thì nói “Bà cụ đằng ấy tốt bụng lắm, cứ đi cho sớm
sủa”.
Nghe lời khen
ngợi, bà Rin tưởng như được lên tận mây xanh. “Có thể cô này còn hơn cả cô con
dâu trước”. Bà nói:
- Lẽ ra mẹ nên
đến đón con mới phải.
- Vâng, giá mà
mẹ đến được. Khi về, hẳn là con sẽ cõng mẹ qua đèo.
Phải, người
phụ nữ này hẳn là sẽ cõng bà qua đèo. Thậm chí bà Rin cảm thấy ân hận vì không
nghĩ ra việc đến đón Tama ở làng ấy. Mà không nhất thiết phải cõng bà, tự bà đi
cũng được. Bà hãy còn đủ sức. Bà Rin xúc động trước tấm lòng nhân hậu của Tama.
Bà chỉ muốn nói với Tama rằng đầu năm mới này bà sẽ rời về núi Narayama. Hôm
anh Tama đến đây, bà cũng đã nói thẳng với anh ta điều đó.
Khẽ liếc trộm
con dâu, bà Rin thấy cô đang vuốt lưng: có lẽ bị nghẹn. Bà Rin bước tới gần
Tama. - Hay là bảo cô ấy ăn từ từ thôi? Chỉ sợ cô ấy lại nghĩ mình bủn xỉn, -
bà lo lắng, rồi quyết định: - Mình sẽ đi tìm Tatsuhei, cứ để cho cô ấy bình
tĩnh ngồi ăn, - Vừa xoa xoa lưng Tama, bà vừa nói: - Sang năm mới mẹ sẽ về núi.
Tama im lặng
một lát.
- Anh con cũng
có nói. Anh ấy nhờ con bảo lại với mẹ đừng đi vội.
- Sao lại thế?
Càng đi sớm càng tốt. Thần núi chỉ càng khen ngợi thôi.
Bà Rin nóng
lòng kể cho Tama vài chuyện nữa. Bà đẩy những món ăn ở giữa bàn lại gần con
dâu. Trên đĩa những miếng cá gáy yamabe xếp có ngọn. Bà Rin thấy cần phải kể
cho Tama về những con cá này.
- Cá này mẹ
bắt đấy – bà khoe.
Yamabe, vua
của các dòng suối núi, là một loài cá quý.
- Mẹ biết bắt
cá cơ à? – Tama hoài nghi hỏi.
- Cả làng này
không ai bắt được nhiều cá như mẹ. Cả Tatsuhei, cả Kesakichi cũng không bằng mẹ
được.
Trước khi lên
núi, bà Rin định bày cho con dâu cách bắt cá yamabe mà chỉ có một mình bà biết.
- Mẹ biết có
một chỗ lúc nào cũng có thể bắt được cá. Thư thả rồi mẹ sẽ chỉ cho. Có điều con
hãy cẩn thận, chớ có nói với ai. Cần phải đến đó vào ban đêm, và thò tay vào
hốc, thể nào cũng có cá, - bà Rin nói. Đôi mắt bà ngời sáng. Đẩy đĩa thức ăn về
phía Tama, bà nói thêm: - Ăn hết đi. Nhà vẫn còn nhiều cá khô. – Sau đó bà đứng
dậy: - Mẹ đi gọi Tatsuhei. Con cứ ăn đi.
Bà bước ra sân
sau và tiến về nhà kho. Giờ đây, khi trong phòng tràn ngập niềm sung sướng, bởi
được mọi người khen là nhân từ, cuối cùng bà lấy hết can đảm, nhắm mắt lại, bà
đập răng vào chiếc cối đá. Cả hàm đau tê dại. Cuối cùng bà thấy trong mồm tứa
ra đầy chất gì âm ấm và mằn mặn. Bà cảm giác hình như lổn nhổn trong mồm những
chiếc răng gẫy. Lấy tay bịt chặt mồm để máu khỏi chảy ra, bà rảo bước ra suối
để rửa. Hai chiếc răng gẫy rơi ra. Bà buồn quá.
- Chỉ được có
thế! Độc có hai cái thôi ư?
Nhưng rồi bà
cho rằng đập được như thế cũng đã là khá. Hai chiếc răng cửa ở hàm trên bị rụng
nên trông vào mồm sẽ thấy trống hẳn. Trong khi đó Kesakichi say bí tỉ, nghêu
ngao ngoài bãi bài hát về những chiếc răng quỷ. Từ mồm bà Rin, máu chảy ra ròng
ròng, hẳn là vết thương còn chưa đỡ.
- Hết ngay
thôi, hết ngay thôi – bà nhắc đi nhắc lại với chính mình. Bà chụm tay vốc nước
xúc miệng, máu vẫn còn chảy, nhưng bà mừng lắm: đã gẫy được hai cái răng! Thật
chẳng uổng công bà lấy đá ghè răng, hai chiếc răng bật nhanh quá. Bà cúi xuống
suối, vục nước vào miệng rồi nhổ ra. Máu không chảy nữa. Chỉ còn thấy hơi đau
trong mồm nhưng bà Rin không để ý đến điều đó. Bà muốn khoe với Tama răng bà đã
tồi như thế nào nên bà quay về nhà. Tama vẫn còn đang ăn. Bà Rin ngồi đối diện
với người con dâu.
- Đừng vội,
con cứ ăn nữa đi. Tatsuhei sẽ về ngay thôi, - bà nói rồi phàn nàn thêm – Mẹ
cũng đến lúc phải lên núi rồi. Răng lợi chẳng còn ra gì nữa.
Và cắn răng
vào môi dưới, bà nhe hàm răng trên ra như muốn bảo: này, con nhìn xem. Bà Rin
muốn nhảy lên vì sung sướng: mọi việc được thu xếp thật tuyệt. Bà bước ra khỏi
nhà, đi ra bãi tìm Tatsuhei. Giờ thì cả làng có thể nhìn thấy hàm răng đã rụng
của hà. Bà tự hào ưỡn thẳng vai bước ra.
Ngoài bãi, Kesakichi
vừa nhảy vừa hát bài hát về những chiếc răng quỷ quái của bà Rin. Vừa khi đó,
bà Rin hiện ra với cái mồm há hốc. Máu đã cầm, lại tiếp tục chảy. Bà Rin không
để ý đến bài ca. Việc đi tìm Tatsuhei là cái cớ thuận tiện để bà khoe với mọi
người cái mồm móm của mình, bà chỉ nghĩ đến điều đó và không để ý đến bài hát.
Nhìn thấy bà
Rin, người lớn và trẻ con đang tụ tập ngòai bãi kêu thét lên và bỏ chạy toán
loạn. Bà Rin trông thật kinh khủng: hàm răng trên cắn vào môi dưới, bà nhe cái
lợi trống hoác ra, một dòng máu chảy xuống cằm bà. Bà Rin không thể nào hiểu
được tại sao tất cả bỏ chạy khi thấy bà nên thậm chí bà còn cố cười cho thật
hiền lành. Bà đã đạt được điều mà bà không ngờ tới: ngày lễ đã trôi qua mà
người ta vẫn bàn tán về bà. “Mụ phù thủy nhà “Gốc cụt”!” – người ta kêu lén bà
như vậy, và lũ trẻ nhỏ tin bà Rin là mụ phù thủy thật.
- Mụ ấy mà tóm
được thì không thả ra đâu!
- Mụ ấy sẽ xé
xác! - bọn con nít thầm thì.
- Nào, tao
mang mày đến nhà mụ Rin cho mà xem! - người ta dọa những đứa bé đang hờn khóc
để cho chúng nín. Buổi tối khi gặp bà Rin, lũ trẻ khóc thét lên và bỏ chạy. Cả
bài hát về những chiếc răng của quỷ, cả việc người ta gọi bà là phù thủy, bà
Rin đều biết.
Ngày hội
Narayama đã qua, chẳng bao lâu gió cuốn đi hết lá trên cây. Thỉnh thoảng có
những hôm trời lạnh như mùa đông. Tatsuhei vẫn cứ thẫn thờ, mặc dù đã lấy vợ.
Chưa đầy một
tháng sau, trong nhà lại xuất hiện một người phụ nữ nữa. Một hôm, Matsu ở
“Nhà bên đầm” tới đây và ngồi lên gốc cây cụt, đến giờ ăn nó cũng nhập cùng mọi
người ngồi vào bàn. Nhìn nó ăn mà thấy thích: nét mặt nó hoan hỉ tưởng như lạc
vào thiên đàng. Nó nhai nhồm nhòam. Nó ngồi cạnh Kesakichi và lặng lẽ ăn. Sau
bữa tối, hai đứa lại ngồi bên nhau. Matsu đánh nhè nhẹ đôi đũa vào má
Kesakichi, và điều đó làm hai đứa thích thú. Cả bà Rin, cả Tatsuhei đều không
cảm thấy ghét Matsu . Bà Rin lấy làm xấu hổ vì cho đến bây giờ bà vẫn
coi Kesakichi như đứa trẻ. Mà nó thì đã trường thành. Buổi tối, Matsu chui
vào chăn với Kesakichi. Lúc ăn trưa, bà Rin để ý thấy bụng Matsu đã tròn
lồ lộ. “Phải sang tháng thứ sáu rồi - bà nghĩ - chắc là chỉ đến tháng giêng
thôi. Mà cũng có thể sớm hơn, trong năm nay chưa biết chừng”. Điều đó làm bà
Rin lo lắng. Nếu Matsu đẻ, mọi người sẽ cho rằng bà Rin cố sống tới tận khi có
chắt.
Ngày hôm sau,
ăn sáng xong, Matsu ra gốc cây cụt và ngồi ở đó cho đến bữa cơm trưa.
Cơm trưa xong nó lại ngồi ngoài gốc cây cụt. Chiều đến Tama bảo nó:
- Matsu ,
đốt bếp lò đi.
Matsu không
biết cách nhóm lửa, gian nhà ngập ngụa khói. Con bé út khóc ầm lên. Khói nhiều
đến nỗi Tama và bà Rin phải bỏ chạy ra ngoài. Cả Matsu cũng vừa dụi mắt, vừa
chạy ra.
- Việc thì quá
biết, việc thì quá điếc. - Tama bật cười. Bà Rin vào nhà, tưới nước vào bếp, ho
sặc sụa vì khói. Sau đó bà lại xếp củi vào và ngọn lửa cháy bùng ngay lên. Vừa
ném từ trong nhà ra những mẩu củi cháy dở ướt sũng, bà vừa nói:
- Cháu nhét
những cành kêiác vào làm gì hả Matsu ? Chớ có đun những cành ấy. Cháu
mà đun củi ấy, mắt sẽ bị đau vài ba năm. - Và bà hạ giọng nói thêm: - Bà thì
thôi thế nào cũng được, bà già rồi, còn các cháu chả việc gì phải làm khổ đôi
mắt.
- Không biết
nhóm lửa thì ru con bé con đi vậy, - Tama sai và đặt đứa bé lên lưng Matsu .
Con bé vẫn khóc vì bị khói. Matsu bắt đầu vừa lắc đứa bé rất mạnh,
vừa hát: “Ôi, cái tội, cái nợ!”
Bà Rin và Tama
sửng sốt nhìn nhau. Ở làng người ta chỉ hát bài này vào những dịp đặc biệt: khi
cõng ai lên núi Narayama hoặc khi lắc đứa nhỏ địu trên lưng. Cách lắc con kỳ
quặc như thế gọi là “quỷ sứ ru con”, hoặc là “bà vú điếc”.
Ôi, cái tội,
cái nợ!
Mang người
chẳng dễ đâu.
Vai và lưng
đều đau,
Cái chân không
muốn bước!
Matsu cố
gào lên át tiếng đứa bé. Đầu đứa trẻ đập qua đập lại hai bên vai nó, đến nỗi
đứa bé không thể há miệng ra được. Đúng là nó hành hạ con bé chứ không phải dỗ
dành. Người ta cũng lắc những người bị cõng lên núi Narayama như thế khi những
con người yếu đuối khiếp nhược ấy kêu khóc không muốn vào núi. Lúc ấy người
cõng hát lên bài ca này. Matsu vẫn hét lên “Ôi, cái tội, cái nợ!” mà không biết
rằng bài hát này còn có đoạn tiếp và có nghĩa là “rửa sạch mọi tội lỗi”; tâm
hồn và thể xác được rửa sạch khỏi tội lỗi; con người được thóat khỏi số kiếp
khốn khổ. Thời xưa người ta hát bài hát ru về bà vú điếc và một bài hát trong
hội Bôn theo những điệu khác nhau, nhưng sau này họ quên mất điều đó, thành thử
hát cả hai bài như nhau. Người ta hát cả hai bài đó vào ngày hội Narayama.
Đứa bé trên
lưng Matsu khóc thét lên như phải bỏng. Khi ấy cô ta lắc đứa bé càng
mạnh hơn và hát:
Ôi, cái tội,
cái nợ!
Đừng khóc nữa
quỷ con.
Hai tai kín
như bưng,
Ta nào đâu
nghe thấy.
Tao sẽ cho một
gậy,
Nếu mi chẳng
câm mồm.
Bài ca nói rằng:
này bé con, mày có khóc bao nhiêu cũng chẳng ai nghe thấy, cũng chẳng ai đến
giúp. Cứ khóc đi, cứ gào đi, tai tao bịt chặt rồi. Nếu mi chẳng câm mồm! Mày sẽ
biết tay tao! tiếp theo là một cái véo của bà vú.
Suốt cả cuộc
đời dài đằng đẵng chưa lần nào bà Rin rung trẻ như kiểu mụ vú điếc. Còn con bé Matsu mới
chỉ đến đây ngày hôm qua, mà hôm nay đã hát bài hát này rồi. “Nó là đứa tàn
nhẫn”, bà Rin thầm nhận xét. Bởi vậy nên bà và Tama mới nhìn nhau.
Đứa bé càng
khóc dữ hơn. Tama không chịu nổi, chạy đến giật con bé khỏi tayMatsu ,
nhưng đứa trẻ vẫn tiếp tục khóc. Tama vạch quần áo đứa bé ngay trước mặt bà
Rin, chị ối lên một tiếng: trên mông đứa nhỏ tím bầm những vết cấu. Họ đứng thừ
người ra nhìn nhau.
Từ ngày Matsu về
đây, Kesakichi trở nên hiền lành hẳn, nó không hỗn láo với bà Rin nữa, nhưng
bây giờ trong bữa ăn nó hay hỏi:
- Bà ơi, thế
bao giờ bà sẽ vào núi?
- Năm mới đến,
bà sẽ đi ngay. - Bà Rin nhếch mép cay đắng.
- Càng nhanh
càng tốt, - Kesakichi nói liến láu.
- Càng chậm
càng tốt, - Tama ngắt lời nó và cười bò ra, hai câu nói liến láu liên tiếp nhau
đâm ra rất buồn cười. Bà Rin cũng bật cười theo.
Từ ngày trong
nhà có thêm hai người đàn bà, bà Rin không phải mó tay vào việc gì nữa. Bà vẫn
còn đủ sức để lao động nên khi không có việc gì làm, bà không biết đứng đâu,
ngồi đâu. Bà dường như thấy thiêu thiếu cái gì. Bà khổ sở vì cảnh ăn không ngồi
rồi. Song bà tự an ủi mình, với ý nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa bà sẽ vào núi
Narayama. Bà chỉ nghĩ ngợi về việc ấy. “Mọi người gọi mình là mụ phù thủy,
nhưng mình sẽ lên núi, chứ không phải như lão Mata ở “Nhà tiền”. Mình đã dự trữ
bao nhiêu đồ thiết đãi, dễ làm cả bữa cỗ cũng đủ. Nào là gạo, nào là nấm, nào
là cá khô, mình đã chuẩn bị đủ rồi, cả nhà sẽ được một bữa no nê. Mình cũng đã
nấu rượu sakê để đãi mọi người. Dân làng vẫn chưa ai biết mình có một bình rượu
đầy. Sau hôm mình rời về núi, con cháu của mình sẽ tề tựu đông đủ để ăn uống.
Chúng nó sẽ ngạc nhiên: “Ôi, bà ta đã để dành được nhiều thế này kia!” Còn mình
khi ấy sẽ ngồi trong núi trên chiếc chiếu mới và lòng mình sẽ được thanh thản”.
Gió thổi dữ
dội suốt cả ngày, suốt đêm cho đến sáng không lúc nào ngớt. Lúc tảng sáng đột
nhiên vang lên tiếng kêu thất thanh: “Hãy xin lỗi thần Narayama đi!”
Cả làng xôn
xao, nháo nhác. Vừa nghe thấy tiếng kêu, bà Rin vội vã chui ra khỏi chăn, chạy
ra đường. Tay bà cầm một chiếc gậy. Cả Tama cũng lao ra. Sau lưng chị
buộc chặt đứa bé con, còn tay nắm chặt một chiếc gậy to.
- Ở đâu? - bà
Rin kêu to.
Tama, người
tái nhợt, chạy vụt lên trước không kịp nói: mọi người đều cắm đầu chạy thục
mạng.
Kẻ trộm hóa ra
là lão Mưa. Lão ta bí mật lẻn vào nhà Thông Cụt và ăn trộm một bao đỗ. Người ta
bắt được lão ngay tại chỗ, họ nhét lão vào một cái bao và đánh cho một trận nhừ
tử.
Ở làng, người
ta xem việc ăn trộm thức ăn là tội nặng nhất. Kẻ ăn trộm bị đánh đập rất tàn
nhẫn và vơ vét toàn bộ lương ăn dự trữ trong nhà. Tiếng kêu “Hãy xin lỗi thần
Narayama đi!” là tín hiệu của những cuộc trừng phạt như vậy. Người ta tước đọat
của kẻ trộm tất cả những gì ăn được và chia nhau, nhưng chỉ có những người kịp
chạy đến đúng lúc mới được chia phần. Phải chạy thật nhanh vì có thể sẽ phải
đánh nhau với tên trộm, nếu nó kháng cự. Phải chạy chân đất vì những ai đi dép
chạy đến cũng sẽ bị mọi người nhét vào bao tải và đánh cho một trận. Khi ấy mọi
người đều tức giận điên cuồng vì ai cũng hiểu rất rõ thế nào là cái cảnh suốt
cả mùa đông không có lấy một củ khoai, hạt lúa.
- Nhà chúng nó
ăn trộm đã thành nết, - người ta xì xầm. - Phải triệt cho tiệt giống chúng nó
đi, chẳng có đêm nằm không ai chợp được mắt.
Gia đình nhà
Mưa có mười hai người.
Ngay hôm ấy
không ai làm việc; người ta không thể lắng dịu ngay được.
Người ta đánh
lão Mưa đến nỗi lão không còn sức để lết đi nữa. Bao tải đỗ lão ta đánh cắp ở
nhà Thông cụt được khiêng đến bãi Hội. Cả gia đình kẻ đi ăn trộm bị bắt ngồi
xung quanh. Họ kêu khóc thảm thiết nhưng chẳng ích gì. Sau đó người ta “lục
soát” ngôi nhà của tên trộm. Những người đàn ông khoẻ mạnh nhất sục sạo khắp
nhà và lôi ra sân tất cả những thứ ăn được. Mọi người dụi mắt kinh ngạc: làm
cách nào mà lão Mưa cất giấu được nhiều đến ngần này. Từ dưới mái hiên, người
ta lôi ra dễ đến cả một núi khoai tây. Không ai có thể trồng được ngần ấy khoai
tây trên cánh đồng của mình. Để trồng được bấy nhiêu khoai, phải có rất nhiều
khoai giống, mà dân làng thì ăn khoai suốt cả mùa đông, nên sang xuân còn lại
chẳng là bao. Đôi khi thậm chí còn không đủ cho mùa đông. Trong làng ai đào
được bao nhiêu khoai người ta đều biết cả. Lão Mưa không thể trồng được lấy một
phần mười chỗ khoai lão ta giấu dưới mái hiên. Rõ ràng lão đã trộm khoai ở vườn
nhà khác.
Người nhà Mưa
đã hai lần phải cầu xin thần Narayama tha thứ. Lần thứ hai, sau khi bị tước hết
lương thực dự trữ vì tội trộm cắp, họ đã sống lần hồi qua được mùa đông bằng
cây củ trong rừng. Tuy nhiên, người ta đồn rằng họ đã giấu sẵn đồ ăn trong núi
nên mới sống nổi.
Không khí nhà
bà Rin cũng buồn rầu. Tatsuhei nằm duỗi thẳng chân, hai tay khoanh sau gáy.
“Làm thế nào để nhà mình qua được mùa đông này?” - anh nghĩ. Tai họa của nhà
Mưa cũng đang treo lơ lửng trên ngôi nhà của anh. Giờ đây anh nhận thấy điều đó
đặc biệt rõ ràng. Chỉ còn một ít lương ăn dự trữ, mà anh thì không quen trộm
cắp. Nhà Mưa có mười hai người, nhà anh chỉ có tám, nhưng người ăn khoẻ lại
nhiều hơn nhà Mưa, vì thế nên cũng túng bấn chẳng kém.
Bà Rin ngồi
bên Tatsuhei. Bà cũng lo lắng cho mùa đông tới. Năm nào cũng vẫn thế, nhung năm
nay gia đình nhà bà đông đúc hơn, bọn trẻ lớn thêm, thành thử sống qua được mùa
đông này là việc khó khăn hơn trước nhiều.Matsu làm bà hết sức kinh ngạc.
Bà Rin đóan:
“Phải rồi, nó bị đuổi khỏi nhà mẹ chẳng qua chỉ vì ăn khoẻ quá, và thế là nó
bám lấy thằng Kesakichi”. Hầu như chẳng bao giờ Matsu để ý đến chuyện
trong nhà còn cái ăn hay không. Có lần khi nấu đỗ, nó vừa nếm vừa nói:
- Người ta bảo
rằng lúc nấu càng nếm nhiều đỗ càng nở ra.
Bà Rin và Tama
quay ngoắt lại nhìn nó. Matsu đổ thêm nước vào nồi.
Tatsuhei cũng
thấy khó chịu.
- Matsu !
Thế nếu không nếm thì trong nồi sẽ không có hạt đỗ nào hay sao?
- Gì cơ ạ? - Matsu ngạc
nhiên một cách bình thản. Nó chẳng hiểu gì.
- Kesakichi!
Tạt tai cho nó một cái, - Tatsuhei bảo.
Khi ấy Matsu mới
thôi không nếm đỗ nữa.
Tatsuhei và bà
Rin lo nghĩ cho mùa đông. Tama cũng nghĩ ngợi. Chị quyết định “Nhà mình ăn uống
chằng tính tóan gì cả. Từ giờ phải phân chia cho từng ngày mới được”.
- Hôm nay tôi
làm được một việc lớn. - Kesakichi tự hào nói.
Quả thật hôm
nay nó đã lao động cật lực. Nó là người đầu tiên trong nhà chạy đến nơi có sự
biến, lục sóat nhà kẻ trộm và được chia rất nhiều khoai tây.
Matsu ngồi
cúi đầu ra phía trước, cái bụng cứ phưỡn ra, trông như một con ếch. Hôm nay nó
cũng có vẻ đăm chiêu.
Chợt nhớ phải
giã đậu, Tama vào nhà kho bê ra một chiếc cối đá và bắt đầu ngồi giã chan chát.
Bột đậu màu nâu vãi tung toé ra xung quanh chiếc cối. Nhìn chị, Kesakichi cất
giọng hát:
Muốn ăn vụng đỗ
Thì tẩm nước
vào
Có ông bố mù
Làm sao thấy
được.
Người ta
thường rang đậu để ăn. Khi rang, đậu nổ lép bép trong chảo, nên ông bố mù lòa
có thể đoán ra bọn trẻ ăn vụng đỗ. Nhưng nếu tẩm nước trước khi rang, đậu sẽ
không kêu lép bép và khi đó có thể giấu bố ních đầy một bụng. Bọn trẻ thường
cảm thấy đói cồn cào hơn những người già. Vì vậy người ta không phải chỉ hát về
người cha mù lòa, mà về các cụ già nói chung; con mắt người già nom chẳng rõ,
làm sao thấy được bọn trẻ lén lút lấy đậu ăn.
- Ôi dào! -
người con cả của nhà Tiền bước vào. Anh ta vẫn chưa hết cơn giận dữ. - Anh xem,
khoai tây chỉ rặt những củ bé choắt.
Rõ ràng khoai
tây bị đào non.
- Tôi cứ nghĩ
năm nay mình trồng ít! Ai ngờ bị nó đào trộm. Thành thử coi như mình chỉ lấy
lại được chỗ khoai bị mất, mà có khi còn thiếu nữa.
Tatsuhei cũng
nghĩ như thế. Ai cũng cho rằng ruộng của họ bị mất trộm nhiều hơn số khoai họ
được nhận lại.
- Cái lũ độc
ác này cứ phải triệt cho hết, kẻo đêm đến chúng lại vét sạch của mình. Phải làm
thế nào chứ không thì ngủ chẳng yên được với chúng. Cứ giết mẹ cả nhà nó đi,
thế là xong.
- Nói thì dễ
lắm! Nhà họ có những mười hai người, - Tatsuhei nói.
- Thì sao nào?
Đào một cái hố thật to mà chôn cả lũ, - Kesakichi đùa.
Tama ngừng giã
đỗ và cũng nói đùa theo:
- Cả một đống
người như thế thì vùi vào đâu cho vừa?
- Chẳng có gì
đáng cười đâu! Cả làng này không ai làm việc nữa. Ai cũng chỉ ngồi nghĩ xem
phải làm gì. - Con trai nhà Tiền tức giận nói và bỏ đi. Ngoài sân lũ quạ kêu
lên quạ quạ.
- Ấy đấy! Vừa
mới nói đến là quạ đã kêu liền. Mong sao đêm nay đừng có ai chết. - Bà Rin lo
lắng và cũng bước ra sân theo anh con trai nhà Tiền.
Trên ngọn núi,
phía sau làng là nghĩa địa. Ở cái làng nghèo đói của họ không chỉ những người
già, mà cả những người trẻ cũng chết. Mỗi khi chôn cất ai, người ta bày một mâm
cơm ngoài nghĩa địa. Thức ăn lập tức bị lũ quạ xâu xé hết. Cũng vì vậy mà người
ta nói bầy quạ mừng khi có người chết. Chúng thường kêu lên quạ quạ mỗi khi
đánh hơi thấy sắp có đám ma.
Sau khi con
trai nhà Tiền đi khỏi, không ai nói một lời nào. Họ nghĩ: không biết nhà Mưa
đêm nay có ai đi không, vì trong làng lúc này đang bao trùm một không khí chết
chóc. Mọi người bất giác co rúm người lại. Chỉ có tiếng Tama giã đỗ vang lên
thì thụp.
- Còn mẹ, đầu
năm nay mẹ có vào núi không? - đột nhiên Tatsuhei đang nằm dài trên chiếc chiếu
cất tiếng hỏi.
Bà Rin thở
phào nhẹ nhõm. Rốt cuộc Tatsuhei đã dám nói ra những lời này. Nên bà vội đáp
lại:
- Cũng phải
vào thôi! Bà ngoại anh ở làng bên đã vào rồi, cả bà nội anh cũng đã vào. Bây
giờ đến lượt tôi.
- Đừng mẹ ạ, -
Tama ngừng giã đỗ nói. - Khi nào cái con chuột nhắt ấy, cái đứa chắt ấy sinh
ra, con sẽ mang nó ném xuống vực. Lúc ấy người ta sẽ không thể hát về mẹ như
hát về mụ Ghin ngày xưa được.
- Thế à! Tự
tôi sẽ vứt bỏ nó. Đừng có tưởng! - Kesakichi nói. Nó muốn tỏ cho thấy rằng việc
ném đứa trẻ đi đối với nó chẳng có khó khăn gì. - Tôi đã chẳng nói với cô rằng
tôi sẽ ném nó đi sao. - Nó nhắc Matsu .
- Tôi xin anh!
- Matsu nói.
Mọi người liếc
nhìn cái bụng ễnh ra của nó.
Tiếng đậu bị
xay trong cối nghe râm ran như tiếng sấm xa xa.
Cả nhà lại im
lặng. Kesakichi cất tiếng hát rõ to. Vạt áo kimono buộc túm lại đằng sau, hai
tay áo chật xắn lên tận vai, nó ngồi vắt chân chữ ngũ và gân cổ lên hát:
Cha ơi cha,
nhìn xem,
Cây cối khô
héo cả.
Ôm chặt lấy cổ
con,
Phải đi thôi,
cha ạ.
Kesakichi biết
rất nhiều bài dân ca. Thậm chí bà Rin còn cho rằng nó hát hay tuyệt, nhưng bài
này nó hát sai cả lời. Bà lấy làm tiếc khi thấy Kesakichi làm hỏng mất bài dân
ca cổ.
- Kesa, làm gì
có bài hát nào như thế, - bà nói. - Núi rừng cháy mịt mù, Cây cối khô héo cả,
phải hát như thế chứ.
- Nhưng ở nhà
bác Tiền bác ấy hát như vậy.
- Ông ấy ngốc
lắm! Thời xưa, lâu lắm rồi, có một trận cháy rừng, tất cả mọi người đều chạy
đến xem đám cháy. Đúng thế không, Tatsuhei? - bà Rin liếc sang con trai. Anh
nằm ngửa, mặt che một tấm giẻ.
Bất giác bà
thấy thương xót anh. Nào là một mùa đông gian khổ đang chờ đợi, nào là nỗi đau
xót phải đưa bà lên núi. Hẳn là nó day dứt nhiều lắm trước khi quyết định nói
ra những lời hôm nay: “Còn mẹ đến đầu năm nay có vào núi không?”
Bà ngồi xích
lại chỗ Tatsuhei và khe khẽ nhấc chiếc giẻ trên mặt anh. Đôi mắt Tatsuhei long
lanh. Bà né người và lui ra xa. “Mắt nó long lanh. Hay là nó khóc? Biết làm sao
bây giờ? Nó yếu lòng quá! - bà nghĩ. - Con ơi, hãy nhìn mẹ khi mẹ còn đang
sống!” - Bà lẩm bẩm và cứ nhìn xéo về phía người con trai.
Tama dừng tay
chạy vội ra ngoài: chị ra suối rửa mặt. Tối nay đã hai lần chị chạy từ nhà ra
suối.
Bà Rin nghĩ
bụng: “Cả cô ấy cũng khóc? Người đâu mà! Chúng nó yếu đuối quá. Nhẽ ra thằng
Tatsuhei phải cứng cỏi hơn. Nhà này té ra toàn là người dễ mủi lòng”.
Kesakichi lại
cất tiếng hát:
Núi rừng cháy
mịt mù
Cây cối khô
héo cả
Ôm chặt lấy cổ
con
Phải đi thôi,
cha ạ.
Bây giờ nó đã
hát đúng lời. Cả điệu hát nó cũng ngân nga cho thật đúng. Những đọan nói về cây
cối héo khô được người ta hát lên giống như khi hát những bài ca của người hành
khất. Kesakichi hát đoạn ấy thật tuyệt, như thể nó đang nức nở khóc.
Khi nó ngân
hết câu hát cuối cùng, bà Rin chợt khen ngợi:
- Chà, giỏi
quá! Cháu hát hay lắm.
Ba hôm sau,
đang nửa đêm, cạnh nhà họ bỗng có tiếng chân rậm rịch: có một đoàn người kéo
nhau lên núi. Sáng hôm sau cả làng đều biết gia đình nhà Mưa đã biến mất.
“Chúng ta sẽ
chẳng bao giờ nhắc đến họ nữa” - mọi người nghĩ bụng, rồi những lời đồn đại lập
tức chấm dứt.
Sang tháng
chạp, trời trở lạnh. Những cơn lạnh đột ngột ập đến vào quãng giữa tháng, ấy là
tính theo âm lịch.
“Mối trắng
bay!” - Bọn trẻ con reo mừng, và bà Rin nói với vẻ tin tưởng: “Khi nào mình vào
núi, nhất định sẽ có tuyết rơi”. Người làng bảo rằng trước khi tuyết rơi, mối
trắng thường bay thành vòng tròn.
Matsu đã
gần đến ngày ở cữ. Cứ nhìn dáng đi và hơi thở ngắt quãng của nó cũng cảm thấy
được điều đó.
Khi chỉ còn
bốn ngày nữa là sang năm mới, sáng sớm, chờ cho Tatsuhei tỉnh giấc, bà Rin gọi
anh ra sân, ghé vào tai nói thầm:
- Đêm nay mẹ
sẽ mời những ai đã từng cõng người già lên núi. Con đi nói cho mọi người biết
nhé!
Bà Rin quyết
định đến ngày kia sẽ rời vào núi Narayama. Do đó đêm nay bà sẽ thết đãi mọi
người.
- Hãy còn sớm
mẹ ạ. Qua năm mới mẹ con mình sẽ đi. - Tatsuhei bối rối nói. Anh cứ nghĩ sang
năm mới hai mẹ con mới lên núi, nên câu nói của bà mẹ làm anh bị bất ngờ.
- Còn đợi gì
nữa! Ra đi cho sớm sủa còn hơn, chẳng có rồi đứa chắt nó ra đời.
Tatsuhei không
trả lời. Anh không muốn nói gì nữa.
- Con đi báo
ngay cho mọi người, kẻo họ đi rừng hết lại không gặp được.
Bà Rin nói như
ra lệnh. Tatsuhei không thể không nghe theo. Những lời của bà buông ra nặng nề:
- Nghe thấy
chưa? Đi đi! Nếu không, ngày kia mẹ sẽ đi một mình.
Đêm hôm ấy,
những người làng đã từng lên núi Narayama tụ tập ở nhà họ. Người ta uống rượu
sake và căn dặn những người sắp ra đi. Buổi dặn dò diễn ra theo đúng thông lệ:
mỗi người khách chỉ đọc lên một lời thề nguyện. Có tám người đến nhà bà Rin:
bảy người đàn ông và một người đàn bà. Chị vừa mới lên núi năm ngoái. Thường
chỉ có đàn ông làm việc đưa người lên núi. Phụ nữ rất ít khi tham gia vào việc
này. Thậm chí nếu trong nhà không có đàn ông, người ta phải nhờ đến hàng xóm.
Ai lên núi sớm hơn những người khác được coi là bậc anh cả. Anh ta được phân
làm người chủ trì buổi lễ và được quyền nói đầu tiên. Cả rượu sake anh ta cũng
được uống trước mọi người. Những người còn lại lần lượt được uống sake và nói
theo thứ tự thời gian họ vào núi. Đêm hôm đó Teru “Điên” được làm bậc anh cả.
Thật ra Teru là người hiền lành, song có một người tổ tiên của anh tính tình điên
khùng, nên cả dòng họ ấy bị mang biệt hiệu này, và nó trở thành cái tên thứ hai
của nhà ấy.
Mặc dù ở ngay
trong ngôi nhà của họ, bà Rin và Tatsuhei được ngồi ở chỗ danh dự. Khách khứa
ngồi thành một dãy ở phía bên trái. Một chiếc bình lớn đặt trước mặt bà Rin và
Tatsuhei. Đó là chiếc bình đựng rượu sake chưa lọc. Bà Rin làm bình rượu đó
dành riêng cho đêm nay.
Teru là người
đầu tiên đứng dậy nghiêng mình truớc bà Rin và Tatsuhei, tiếp theo anh, những
người còn lại khẽ cúi đầu.
- Đường lên
núi Narayama là con đường cay đắng. Xin cám ơn vì anh sẽ ra đi. - Teru nói với
Tatsuhei.
Theo lệ, bà
Rin và Tatsuhei phải im lặng.
Teru cầm bát
lên và uống vài hớp rượu sake. Sau đó, anh chuyển bát rượu cho người khách tiếp
theo. Sau khi chuyền tay nhau một vòng, bát rượu được đưa lại cho Teru.
Teru quay sang
bà Rin nói bằng một giọng đều đều như đọc sách:
- Khi vào núi
hãy giữ lời nguyền. Lời nguyền như sau: “Hãy câm lặng khi lên núi”.
Teru nâng bát
rượu sake lên miệng, nhấp một hớp rồi đưa cho người bên cạnh. Bà Rin và
Tatsuhei đã biết tất cả lời khuyên bảo mà những người khách hôm nay phải đọc
lên, nhưng vẫn phải tuân theo tục lệ: lắng nghe từ đầu chí cuối, lắng nghe và
thề nguyện, nên hai mẹ con ngồi nghe họ hết sức chăm chú.
Bát rượu được
chuyển một vòng cho khách khứa và được đặt trước mặt người khách thứ hai sau
Teru.
Người khách
thứ hai cũng nói bằng một giọng đều đều như Teru:
- Khi vào núi
hãy giữ lời nguyền. Lời nguyền như sau: “Hãy lặng lẽ rời khỏi nhà sao cho đừng
ai biết”.
Anh ta nâng
bát lên miệng và hớp một ngụm sake. Chiếc bát được chuyền cho tất cả mọi người
và được đặt trước mặt người khách thứ ba.
Người khách
thứ ba cũng nói bằng một giọng đều đều như Teru:
- Khi vào núi
hãy giữ lời nguyền. Lời nguyền như sau: “Lúc quay ra đừng nhìn lại đằng sau”.
Anh ta nâng
bát lên môi và nhấp một ngụm. Bát rượu được chuyền cho tất cả khách khứa và
được đặt trước mặt người khách thứ tư.
- Anh sẽ đi
theo con đường mòn dưới chân ngọn núi sau làng. Vòng qua ngọn núi ấy sẽ đến
ngọn núi thứ hai. Ở đó có những bụi cây khiraghi rậm rạp. Luồn qua những bụi
cây ấy sẽ đến ngọn núi thứ ba. Sau đó còn phải vào đến ngọn núi thứ tư. Từ đây
có thể nhìn thấy núi Narayama. Trước ngọn núi có một cái vực. Anh hãy đi men
theo một lối, sao cho núi ở về bên tay trái, còn vực nằm bên phải. Đi được hai
dặm**, qua bẩy khúc quẹo, anh sẽ ra đến hẻm núi Nawatani. Vượt qua hẻm núi ấy,
trước mặt anh sẽ là con đường lên núi Narayama. Ở đó không có đường mòn. Anh
hãy len lỏi qua những cây sồi nara mà leo lên, thần núi Narayama chờ anh ở đấy.
Người khách
thứ tư dứt lời, bát rượu được chuyền tay một vòng, nghi lễ kết thúc. Tất cả im
lặng. Ngoài bốn người này, không ai được nói gì nữa. Bát rượu lại được chuyền
đi một vòng nữa. Những người khách lặng lẽ uống rượu sake và lần lượt ra về.
Teru là người ra về sau cùng. Khi mọi người đã đi hết, anh ta đứng dậy và ra
hiệu cho Tatsuhei đi ra ngoài cửa.
- Đến đấy nếu
không muốn trèo lên núi thì có thể quay về ngay từ khe Nawatani, - anh ta vừa
thì thào vừa dè dặt nhìn quanh. “Anh ta nói gì thế nhỉ?”, Tatsuhei suy nghĩ.
Anh thấy lời khuyên của Teru thật kỳ quặc. Bà Rin thì mong muốn vào tận núi, mà
anh ta lại nhủ quay về từ khe Nawatani.
- Ấy cũng là
tôi nói thế thôi. Không ai nghe thấy chúng ta đâu.
Khi mọi người
đã về hết, bà Rin và Tatsuhei chui vào chăn nằm, nhưng bà Rin không muốn ngủ:
đêm mai là bà đã rời lên núi Narayama.
Trời rạng
sáng, vào quãng quá giờ sửu bà nghe thấy có tiếng ai khóc ngoài bờ rào.
Một người đàn
ông đang khóc. Tiếng bước chân tiến đến gần ngôi nhà của họ. Nghe thấy cả Bài
ca của bà vú điếc, người ta cố gào át tiếng khóc nấc lên:
Ôi, cái tội,
cái nợ!
Mang người
chẳng dễ đâu.
Chân và lưng
đều đau,
Cái chân không
muốn bước.
Bà Rin nghển
đầu lên khỏi giường lắng tai nghe. Lão Mata nhà Tiền đang khóc.
“Thật là ngu
xuẩn!” - bà nghĩ.
Một lát sau
lại nghe có tiếng bước chân. Kế đến có người cào cào vào cửa.
“Ai đấy?” Bà
Rin ngạc nhiên, bước ra hiên và mở hé cửa vừa có người cào. Trăng sáng vằng
vặc. Mata ngồi xổm ngòai hiên. Cả người lão run rẩy, hai tay bưng lấy mặt.
Có tiếng dép
dẫm lẹp bẹp, một người đàn ông lao đến. Đó là người con lớn của Mata. Gã cầm
trong tay một sợi dây thừng to tướng. Gã hằn học nhìn ông già.
- Tatsuhei!
Tatsuhei! - Bà Rin kêu lên. Vừa lúc ấy Tatsuhei từ trong nhà chạy ra: có lẽ anh
cũng không ngủ. Anh nhìn gã con trai nhà Tiền, nhìn sợi dây trong tay gã và hỏi:
- Có chuyện gì
thế?
- Anh thấy
đấy, lão già giựt đứt dây và bỏ chạy trốn. - Con trai lão Mata bực bội nhìn
người cha.
“Thằng khốn
nạn! - Tatsuhei thầm trách gã. - Nó làm cái trò gì thế không biết?!”
Bởi vì rung
lắc mạnh,
Sợi dây đứt
tung ra.
Và đứt luôn
sợi chỉ,
Nối tình nghĩa
ruột rà.
Bà Rin nhớ đến
một bài ca, và cho rằng việc giựt đứt cả dây thì thật là quá đáng. Còn tồi tệ
hơn cả việc giẫy giụa, chống cự.
- Mata! - Bà
nhẹ nhàng trách móc, - Làm sao ông lại thế? Giật đứt cả dây ra! Còn đang sống
mà ông đã dứt tình với con cái, với thánh thần.
- Khoan hãy đi
hôm nay, - Tatsuhei khuyên con trai Mata, và xốc ông lão lên lưng, cõng lão trở
lại nhà Tiền.
Đêm hôm sau bà
Rin thúc giục Tatsuhei còn đang do dự lên đường vào núi. Ngay từ lúc sẩm tối,
bà còn đi vo gạo sẵn cho con cháu ở nhà, nấu cơm, dặn dò Tama chỗ hái nấm và
bắt cá, và sau khi tin rằng cả nhà đã ngủ yên, bà khẽ mở cánh cửa dẫn ra sân
sau. Ở đó bà ngồi vào cái địu mà Tatsuhei đeo trên lưng. Trời lặng gió nhưng
đêm rất lạnh, mây đen che kín cả vầng trăng, Tatsuhei cứ dò từng bước đi trong
đêm như thể người mù. Khi bà Rin và Tatsuhei đi khỏi, Tama chui ra khỏi chăn,
chị mở cửa bước ra khỏi nhà. Ngồi xổm bên gốc cây cụt, đặt hai tay lên gốc cây,
chị đăm đăm nhìn vào bóng đêm dõi theo những người ra đi.
Tatsuhei đi
vòng qua quả núi sau làng và ra đến chổ rặng cây khiraghi.
Những cành cây
khiraghi xòa trên con đường mòn như những chiếc ô. Nơi đây tối âm u, tưởng như
đang bước vào một ngôi nhà. Trước kia Tatsuhei đã từng đến đây, nhưng anh chưa
bao giờ bước đến rặng cây khiraghi: không thể vào đó được, vì đây là con đường
vào núi Narayama. Anh thường đi vòng sang bên trái hoặc bên phải con đường mòn,
song giờ đây anh tiến thẳng đến rặng cây. Anh đi qua quả núi thứ hai, rồi quả
núi thứ ba và nhìn thấy hồ nước. Trời đã hưng hửng sáng. Đến khi anh vòng qua
được hồ nước, trời đã gần như rạng hẳn. Anh nhìn thấy ba bậc đá mà từ đó bắt
đầu con đường dốc đứng dẫn lên quả núi thứ tư. Ngọn núi khá cao và càng lên gần
đến đỉnh càng dốc.
Lên đến đỉnh
núi, Tatsuhei kinh ngạc mở to mắt: trước mặt anh núi Narayama đứng sừng sững,
dường như đang chờ đợi hai mẹ con. Narayama bị ngăn cách với ngọn núi anh đang
đứng bằng một vực sâu, giống như con đường dẫn xuống địa ngục. Tiếp theo, anh
lại phải leo xuống một quãng đường mòn ven sườn núi. Phía bên phải vách núi sâu
hun hút, bên trái là một bức tường đá cao dựng đứng. Vực sâu thăm thẳm nằm lọt
giữa bốn bề núi cao. Tatsuhei cố gắng bước đi cho vững hơn. Anh nhớ rằng đi
vòng qua cái vực này phải đi hết hai dặm đường. Anh bước từng bước thận trọng.
Khi nhìn thấy núi Narayama, anh cảm thấy mình là kẻ hầu hạ của vị thần linh
sống trên đỉnh núi ấy và dường như đang bước đi theo lệnh của Ngài. Cuối cùng,
anh đã đến được khe Nawatani và bắt đầu len lỏi qua các thân cây, leo lên núi
như lời mọi người dặn dò. Con đường mòn biến mất từ lúc nào. Trên núi chỉ có
những cây sồi nara mọc. Tatsuhei hiểu rằng rốt cục anh đã đến được núi
Narayama. Bây giờ cần phải câm lặng. Bà Rin không hé răng nói nửa lời kể từ khi
họ rời khỏi nhà. Mỗi khi Tatsuhei bắt chuyện, bà đều không trả lời. Tatsuhei
trèo lên mỗi lúc một cao, xung quanh chỉ rặt những cây nara . Đỉnh núi đây rồi.
Anh nhìn thấy một tảng đá to ở phía trước, và khi đi ngang qua, đột nhiên anh
nhận thấy có người ngồi bên chân hòn đá. Tatsuhei giật mình lùi lại: một xác
người co ro dưới chân tảng đá, hai tay chắp lại tựa như đang tụng niệm.
Tatsuhei đứng chết lặng, không dám đi tiếp nữa. Bà Rin với tay qua vai anh xua
xua ra hiệu bảo anh hãy đi tiếp. Tatsuhei bước đi. Anh lại nhìn thấy một tảng
đá, bên dưới có một đống xương trắng hếu: hai ống chân nằm cạnh nhau, còn chiếc
sọ lăn lóc bên cạnh và quay mặt sang hướng khác. Bộ xương còn lại co quắp tựa
vào tảng đá, hai ống tay văng rời ra. Hình như có người cố tình rắc tung bộ
xương ra.
Bà Rin lại ra
hiệu bảo anh đi lên. Dưới mỗi tảng đá có một hài cốt người chết. Cũng có cả xác
người nằm dưới những gốc cây. Có những xác còn mới nguyên, trông như người còn
sống. Lại một lần nữa Tatsuhei đứng sững như hóa đá: một xác chết động đậy. Anh
chăm chú nhìn thật kỹ và nhận ra người này đã chết. “Nhưng rõ ràng ông ta vừa
cựa quậy!” - Tatsuhei nghĩ và cảm thấy hai chân cứng như gỗ. Xác người lại động
đậy. Ngực xác chết hơi rung rung: một con quạ đang rúc ở đó. Chiếc áo kimono
màu đen nên Tatsuhei không nhận ra ngay con quạ đậu trên đó. Anh lấy chân hất
một hòn đá nhưng con quạ không thèm cất cánh. Tatsuhei đành đi qua bên xác
chết. Khi ấy con quạ mới bay lên. Nó nhẹ nhàng vỗ cánh, nom bình thản đến phát
sợ. Tatsuhei không hiểu sao chợt quay đầu lại. Còn một con quạ nữa đậu trên xác
chết. “Ôi, có những hai con ở đó...” Tatsuhei nhìn thấy một cái đầu quạ đen
thui phía dưới con quạ thứ hai. Xác chết ngồi duỗi thẳng hai chân, còn lồng
ngực đã bị lũ quạ ăn hết và làm tổ ở đó. Tatsuhei kinh hoàng và ghê rợn nghĩ:
có lẽ vẫn còn nữa. Anh tưởng đã lên đến đỉnh núi, nhưng đường vẫn dẫn lên cao
mãi. Lũ quạ ngày một nhiều hơn. Chúng uể oải đi đi lại lại trên bãi đá nên
tưởng như những tảng đá đang động đậy. Trong không trung vang lên tiếng sột
sọat như tiếng chân người bước trên cỏ khô.
“Ở đây bao
nhiêu là quạ!” Lũ quạ không giống như lòai chim. Chúng đi lại uể oải, lười
biếng, còn cái nhìn thì giống như lũ mèo đen, và điều ấy làm cho anh ghê sợ.
Ngày càng gặp nhiều xác người hơn. Cây cối đã biến hết, chỉ rặt những tảng đá
nằm la liệt khắp nơi. Xương rải trắng xóa chẳng khác gì tuyết phủ. Tatsuhei
bước đi, cắm cúi nhìn xuống đất, dùng chân gạt những khúc xương. Xương trắng
làm anh hoa mắt; anh trượt chân và suýt ngã. “Có lẽ khi họ còn sống, mình cũng
biết vài người trong số này”. - anh nghĩ. Đột nhiên một chiếc bát gỗ đập vào
mắt anh. “Chà! Có người chu đáo thế này. Mang theo cả chiếc bát gỗ”. Anh bỗng
thấy buồn vì đã không cầm theo một chiếc. Một con quạ đậu trên tảng đá, mắt
nhìn sục sạo. Anh nhặt một hòn đá ném vào nó. Con quạ bay vụt lên. Theo sau nó,
cả một bầy quạ ào ào bay lên.
“Bay đi à! Vậy
là chúng mày không dám tấn công người sống”, - anh nhận ra và cảm thấy yên tâm
hơn. Đường lên phía trên vẫn chưa thấy hết. Trèo thêm một chút nữa, anh nhìn
thấy một tảng đá “trống”. Bà Rin vỗ vỗ lên vai anh và thúc hai chân vào sườn,
ra hiệu để anh tháo chiếc địu xuống. Tatsuhei đặt địu xuống đất. Bà Rin chui ra
khỏi chiếc địu, gỡ chiếc chiếu trên người ra và trải nó dưới chân tảng đá. Sau
đó bà cởi cái bọc đeo ở thắt lưng, buộc nó vào cái địu. Tatsuhei giận dữ nhìn
bà và đặt cái bọc lên chiếu. Bà Rin rút trong tay nải ra một nắm cơm để lên
chiếu, và lại định buộc cái bọc vào cái địu. Tatsuhei giằng lấy cái địu, còn
cái bọc anh đặt xuống chiếu.
Bà Rin đứng
thẳng trên chiếc chiếu, hai tay chắp trước ngực, khủyu tay chìa sang hai bên,
mắt đăm đăm nhìn xuống đất. Bà thắt lưng bằng một sợi thừng nhỏ, thay cho chiếc
obi***. Tatsuhei nhìn khuôn mặt như hóa đá của bà và nhận thấy nét mặt bà thay
đổi, nó như phảng phất bóng dáng của cái chết.
Bà Rin nắm lấy
tay của Tatsuhei và xoay người anh về phía họ vừa từ đó đi tới. Tatsuhei thấy
người nóng bừng. Cả người anh đẫm mồ hôi nhớp nháp như thể vừa trèo vào một
thùng nước nóng. Trên đầu anh hơi nước tỏa ra ngùn ngụt. Bà Rin nắm chặt tay
Tatsuhei và đẩy nhẹ vào lưng anh.
Tatsuhei lê
bước đi xuống núi. Anh buớc đi không ngoảnh lại theo như tục lệ khi rời khỏi
núi.
Anh đi được
mươi bước. Chiếc địu rỗng lắc lư sau lưng anh. Những giọt nước mắt to như hạt
đỗ lăn dài trên má anh. Anh đi xuống núi, lảo đảo như người say rượu. Vấp phải
một xác người, anh ngã xòai ra. Tay anh quờ phải mặt người chết. Một mảng thịt
trên mặt bong ra để lộ ra vệt xương màu xám. Khi bò dậy, Tatsuhei trông thấy
một sợi dây nhỏ trên cổ xác chết. “Mình chẳng đời nào dám làm thế”. - anh nghĩ.
Xuống được gần nửa đường, anh chợt thấy trước mắt có vật gì ánh lên trăng
trắng. Anh dừng lại. Có những hạt gì nho nhỏ màu trắng xoay tròn giữa các thân
cây.
Đó là tuyết.
“A, a, a!” -
Tatsuhei reo lên và ngước nhìn tuyết rơi. Những bông tuyết xốp mềm, xoay tròn
và nhẹ nhàng đáp xuống đất. Tất cả đều đúng như bà Rin tiên đóan. Bà cứ nhắc đi
nhắc lại “Khi nào tôi vào núi, nhất định sẽ có tuyết rơi." Tatsuhei đột
ngột quay lại và vội leo ngược lên núi. Anh quên phắt những lời thề nguyện. Anh
muốn nói với bà Rin rằng tuyết đã rơi. Chỉ cần nhìn thấy bà và nói với bà rằng
tuyết đã rơi. Dù chỉ vài lời “Mẹ ơi, tuyết rơi thật rồi!” Anh vừa leo vừa bò,
như một con khỉ, theo con đường cấm lên phía trên.
Khi anh lên
được đến tảng đá nơi bà Rin ngồi, xung quanh đã trắng xóa. Tatsuhei vội ngước
lên nhìn bà Rin đang ngồi dựa lưng vào tảng đá. Việc anh quay trở lại và vi
phạm lời nguyền không ngoảnh lại đằng sau, đã là quá lắm, anh lại còn định nói
chuyện với mẹ để vi phạm lời nguyền câm lặng. Điều đó khác nào tội lỗi. Nhưng
anh lại muốn nói với bà Rin rằng quả thật tuyết đã rơi như bà hằng mong đợi.
Chỉ nói những lời ấy và quay về.
Tatsuhei thận
trọng thò đầu ra khỏi một tảng đá. Bà Rin ngồi ngay phía trước anh. Đầu và lưng
bà được che bởi chiếc chiếu. Còn trên mái tóc ở trán, trên ngực và trên đầu gối
bà, tuyết đã rơi đầy. Bà đang lẩm nhẩm khấn, mắt nhìn chăm chú vào một điểm như
thôi miên.
- Mẹ ơi! Tuyết
rơi thật rồi! - Tatsuhei kêu to lên.
Bà Rin khẽ giơ
tay lên xua xua như muốn bảo anh “đi đi!”
- Mẹ ơi! Mẹ có
lạnh lắm không?
Bà Rin lắc
đầu. Lúc ấy Tatsuhei mới để ý thấy quanh đấy không có một con quạ nào. “Có lẽ
chúng đã bay về làng, hoặc chui hết vào tổ, vì tuyết đã rơi, - anh nghĩ, - Thật
may mắn là tuyết đã bắt đầu rơi. Thà ngồi dưới tuyết còn hơn là giữa gió rét.
Có thể mẹ sẽ thiếp đi được.”
- Mẹ ơi! Mẹ
hạnh phúc quá, tuyết rơi rồi kìa, - Tatsuhei kêu lên và đọc thêm câu ca:
Bà đi vào núi
Gặp lúc tuyết
rơi.
Bà Rin gật gật
đầu và xua tay về phía có tiếng Tatsuhei, ý bảo anh về đi.
- Mẹ ơi! Tuyết
rơi thật rồi, - Tatsuhei kêu lên một lần nữa và lao xuống núi như một con thỏ.
Anh chạy hết tốc lực, chỉ sợ có người trông thấy anh đã vi phạm lời nguyền. Cứ
thế anh chạy một mạch đến tảng đá nhô trên bờ vực Nawatani và qua làn tuyết
rơi, anh nhìn thấy ở phía dưới con trai Nhà Tiền đang tháo chiếc địu. Ông già
Mata ngồi trong đó. Ông bị buộc chặt bằng một sợi thừng to, như một kẻ tội phạm.
“Ôi!” -
Tatsuhei bất giác thở dài và đứng chết lặng. Người con trai đang định ném bố
xuống vực. Tatsuhei tận mắt nhìn thấy gã đang chuẩn bị ném Mata xuống cái vực
sâu thăm thẳm như đường xuống địa ngục, bị núi cao vây bọc kín xung quanh!
Bấy giờ
Tatsuhei mới chợt nhớ đến những lời Teru nói với anh đêm qua: “Nếu không muốn
trèo lên núi thì có thể quay về, ngay từ khe Nawatani”. “Ra là anh ta định nói
đến chuyện này!” - Tatsuhei nghĩ.
Đêm hôm qua
Mata bỏ trốn, nên hôm nay người ta trói chặt ông, lôi đến đây đặt ông xuống đất
như một xác chết, như một tải khoai tây, và bây giờ muốn ném ông xuống vực.
Song hình như sợi dây buộc hơi lỏng ra. Mata thò tay qua lỗ dây nắm chặt lấy cổ
áo của con trai. Gã con trai cố gỡ những ngón tay của ông ra, nhưng Mata dùng
tay kia túm chặt lấy vai anh ta. Hai chân Mata treo lơ lửng trên miệng vực.
Mata và con
lão lặng lẽ vật lộn nhau trước mắt Tatsuhei tựa hồ như đang đùa. Cuối cùng
người con giơ chân đạp mạnh vào bụng cha. Mata bay chúi đầu xuống vực, lộn hai
vòng và lăn tròn theo sườn dốc đứng xuống phía dưới.
Tatsuhei cúi
đầu nhìn xuống vực, và đúng lúc ấy từ dưới đáy vực, như một cuộn gió xóay, như
một đám mây đen, đàn quạ bay ào lên.
“Trời ơi,
quạ!” - Tatsuhei co rúm người lại vì sợ hãi. Bầy chim quái dị kêu nháo nhác,
lượn tròn trên đầu anh. Tổ của chúng ở đâu đó dưới khe. Khi tuyết rơi, chúng tụ
tập về đấy và bây giờ chúng bay ra. Có lẽ Mata đã rơi trúng vào lũ quạ.
Bay liệng một
hồi, bầy quạ dần dần rúc hết xuống vực.
“Chúng đã đánh
hơi thấy con mồi! - Tatsuhei rùng mình. - Chắc là Mata đã chết ngay khi vừa lăn
xuống”. Anh đảo mắt tìm gã con trai của Mata. Với chiếc địu trống rỗng sau
lưng, anh ta lao như bay xuống núi. Có lẽ cả anh ta cũng khiếp sợ khi trông
thấy bầy quạ.
“Ngữ này sẽ
chẳng mời ai uống rượu sake hôm chia tay đâu,” - Tatsuhei thầm nghĩ và nhìn
theo người con cả của Mata đang cong người lên như một con sói.
Hoa tuyết như
những bông mẫu đơn xốp vẫn rơi đều đều. Khi Tatsuhei về đến làng, mặt trời đã
lặn, trời đã tối hẳn.
“Có lẽ con bé
út vắng bà sẽ buồn lắm. - Tatsuhei nghĩ: - Nhất định nó sẽ hỏi: “Bao giờ bà mới
về?”. Và anh cảm thấy buồn rầu: biết nói với nó thế nào?
Về đến nhà,
anh không vào nhà ngay mà ghé mắt nhìn qua khe cửa. Đứa con trai nhỏ đang đùa
con bé, nó hát cho em nghe bài hát:
Chúng ta bỏ
mặc bà
Ngồi một mình
trong núi.
Có một con
còng già
Bò về trong
đêm tối.
Bọn trẻ nhắc
đến bà khi anh không có nhà. Anh nghĩ: vậy là chúng đã biết. Bằng một giọng đều
đều, bọn trẻ hát đi hát lại một bài hát: bài hát về con còng.
Nó khóc than
bên cửa
Ta không mở
đâu mà,
Chẳng phải
tiếng còng già
Chim khóc trên
cây đấy.
Thời xưa người
ta bỏ những người già trên rặng núi ngay sau làng. Có lần một bà cụ già ban đêm
bò được về nhà. “Kìa, bà ấy lại bò về như con còng kìa”, - người nhà kêu lên,
họ cài cửa lại cho thật chặt và không cho bà vào, còn đứa bé thì tưởng có con
còng bò đến cửa thật. Suốt đêm bà cụ khóc thảm thiết ngoài cửa. “Ôi, con còng
đang khóc” - đứa bé nói. “Không phải còng đâu, con chim đang khóc ở trên cây
đấy”, - người lớn dỗ dành nó. Người ta đánh lừa đứa bé: vì đằng nào nó cũng
chẳng hiểu gì...
Tatsuhei đứng
ngòai bậu cửa lắng nghe bài hát về con còng. Anh nghĩ: khi bọn trẻ chỉ hát đi
hát lại mỗi bài này thì có nghĩa là chúng đã biết rằng bà sẽ không trở về. Vì
vậy, anh cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Anh ném chiếc địu xuống, và rũ sạch
tuyết trên người. Anh định đẩy cửa vào, song vừa lúc ấy Matsu từ trong nhà kho
bước ra. Quanh cái bụng to tướng của nó thắt một chiếc obi kẻ sọc hẹp, chiếc
obi mà hôm qua bà Rin còn mang trên người. Còn Kesakichi ngồi vắt chân chữ ngũ
trong nhà kho, trên vai nó chòang chiếc áo kimono lót bông của bà nội. Chiếc áo
kimono này đêm qua bà Rin đã gấp cẩn thận để cất lại. Bên cạnh Kesakichi có một
cái bát, có lẽ nó uống nốt chỗ rượu sake còn lại sau lễ tiễn đưa. Tay dụi đôi
mắt mờ đục vì say rượu, đầu nghiêng nghiêng sang bên, nó lặp đi lặp lại với vẻ
ngạc nhiên sung sướng: “May quá! Tuyết rơi rồi. Thế là bà gặp may! Tuyết rơi
thật rồi!”
Tatsuhei đưa
mắt tìm Tama nhưng không thấy chị đâu.
Anh thở dài.
Nếu ở trên ấy, bà Rin vẫn còn sống và ngồi dưới trời tuyết bên tảng đá, thì có
lẽ bà đang nhớ lại bài ca về chiếc áo kimono lót bông.
Chiếc áo kimono lót
bông
Con không thể
choàng lên vai mẹ
Dù núi cao
lạnh lẽo đêm đông
Dù tuyết rơi
khi mẹ lên đường.
-----------------
Chú thích
* Ngày giỗ
chung những người chết.
chú thích của
người đánh máy: Tiếng Nhật là Obon.
** Phiên âm
tiếng Nhật là ri bằng 3.9 ki-lô-mét.
*** Thắt lưng
bằng vải buộc bên ngoài áo kimono.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét