Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2016

Nhà Giả Kim - Paulo Coelho (Chương 41 - hết)

Nhà Giả Kim

Tác giả: Paulo Coelho
Dịch giả: Lê Chu Cầu
NXB Lao Động - 2002

41 

Suốt đêm cậu không ngủ được. Hai giờ trước khi mặt trời mọc cậu đánh thức một anh chàng ngủ trong lều, yêu cầu anh ta chỉ cho cậu chỗ ở của Fatima. Hai người cùng đi đến lều của cô. Để trả ơn, cậu cho anh chàng tiền đủ mua một con cừu.
Rồi cậu nhờ anh chàng vào đánh thức cô, nói rằng cậu chờ ở ngoài. Anh chàng Arập đáp ứng lời yêu cầu và được trả thêm tiền cho một con cừu nữa.
“Bây giờ bạn đi được rồi, để chúng tôi nói chuyện riêng”, cậu nói. Anh chàng Arập quay về lều ngủ tiếp, lấy làm hãnh diện đã giúp được cho cố vấn của ốc đảo và sung sướng vì được tiền mua cừu. 
Fatima ra khỏi lều. Hai người đi giữa những hàng cây chà là. Cậu biết như thế này là phạm vào phong tục ốc đảo nhưng lúc này cậu chẳng quan tâm nữa. 
“Anh sắp lên đường”, cậu nói. “Anh muốn em biết rằng anh sẽ trở lại. Anh yêu em, vì …”.
“Anh đừng nói thêm nữa”, Fatima ngắt lời. “Người ta yêu vì yêu. Cần gì phải có lí do”. 
Nhưng cậu vẫn nói tiếp: 
“Anh đã có một giấc mơ, sau đó anh gặp được một vị vua già, rồi anh bán hàng pha lê và vượt sa mạc. Các bộ lạc đánh nhau nên anh mới đến giếng nước để hỏi về một nhà luyện kim đan. Anh yêu em vì cả vũ trụ đã góp sức để anh đến tận đây và gặp được em”. 
Họ ôm nhau. Đó là lần đầu tiên. 
“Nhất định anh sẽ trở về”, cậu lặp lại. 
“Trước đây em luôn nhìn sa mạc mà lòng mong ngóng. Giờ đây em sẽ vẫn ngắm nhìn sa mạc mà lòng đầy hi vọng. Một ngày nọ bố em đã ra đi nhưng rồi ông đã trở về với mẹ em, và từ đó bao giờ ông cũng trở về”. 
Rồi hai người không nói gì nữa. Họ đi dưới những gốc chà là thêm một lúc nữa rồi cậu đưa cô về lại lều. 
“Anh sẽ trở về, y như bố em luôn trở về với mẹ em vậy”. 
Cậu thấy mắt Fatima ứa lệ. 
“Em khóc kìa”.
“Em sinh ra ở sa mạc”, cô che mặt đáp, “nhưng em cũng là đàn bà chứ”. 
Fatima biến vào trong lều. Mặt trời rồi sẽ mọc và khi một ngày mới bắt đầu cô sẽ làm những việc cô vẫn làm từ nhiều năm nay. Tuy vậy tất cả đã thay đổi rồi. Cậu sẽ không có mặt ở ốc đảo và ốc đảo cũng không còn giống như vài ngày trước. Nó hết là nơi có năm vạn cây chà là và ba trăm giếng chào đón những kẻ hành hương sau một chuyến viễn du. Với cô, từ nay ốc đảo sẽ trở thành hiu quạnh. 
Từ này sa mạc sẽ trở thành quan trọng hơn ốc đảo. Cô sẽ ngắm nhìn nó và đoán xem cậu đi theo ngôi sao nào trên đường tìm kho báu. Cô sẽ gửi những nụ hôn của mình cho gió, hi vọng rằng nó sẽ mơn man gương mặt cậu và kể cậu nghe rằng cô vẫn sống, vẫn chờ cậu như một người đàn bà chờ người chồng can đảm ra đi tìm kiếm kho tàng. Từ hôm nay sa mạc sẽ chỉ mang một ý nghĩa: hi vọng cậu sẽ trở về.

42 

“Đừng nghĩ tới những gì đã bỏ lại phía sau”, nhà luyện kim đan nói khi họ cưỡi ngựa đi trên sa mạc. “Mọi sự đã được ghi khắc vào Tâm linh vũ trụ và sẽ tồn tại vĩnh viễn”. 
“Con người mơ được trở về hơn là ra đi”, cậu nói và đã thấy quen lại với sự yên ắng của sa mạc. 
“Nếu những gì ta tìm thấy là thật, là vàng ròng thì chúng sẽ không bao giờ hư hao và bất cứ lúc nào ta quay về thì chúng vẫn còn nguyên vẹn đó; còn nếu chúng chỉ là thoáng qua như ánh sao băng thì khi trở về ta sẽ chẳng tìm thấy gì nữa cả. Nhưng dẫu sao cậu cũng đã sống được cái phút thoáng qua ấy và bấy nhiêu đã là quí rồi”. 
Ông dùng thuật ngữ của giới giả kim nhưng cậu hiểu ông muốn ám chỉ Fatima. 
Song không nghĩ đến những gì cậu đã bỏ lại phía sau thì thật là khó. Cảnh vật đơn điệu của sa mạc khiến cậu nghĩ vẩn vơ. Cậu như thể vẫn còn thấy trước mắt rừng chà là, giếng nước và khuôn mặt người con gái mình yêu, anh chàng người Anh bên lò thí nghiệm và người phu lạc đà với những tư tưởng cao siêu bậc thầy mà không tự biết. 
“Có thể nhà luyện kim đan chưa từng yêu bao giờ”, cậu nghĩ. 
Ông cưỡi ngựa chạy phía trước, con chim ưng đậu trên vai. Con chim hiểu rõ ngôn ngữ của sa mạc nên mỗi khi họ dừng chân thì nó đều bay đi tìm mồi để săn. Ngày đầu nó tha về một con thỏ, hôm sau hai con chim. 
Đêm đến họ chỉ trùm chăn chứ không đốt lửa. Đêm sa mạc lạnh và trăng càng khuyết thì càng tối. Suốt một tuần lễ liền họ ít trò chuyện, chỉ trao đổi về những cách phòng xa cần thiết để tránh lạc vào trận địa giữa các bộ tộc. Cuộc xung đột vẫn còn tiếp diễn; hẳn là cách chỗ họ không xa vì thỉnh thoảng gió tanh mùi máu. Và gió nhắc nhở cậu nhớ đến ngôn ngữ của dấu hiệu, luôn luôn chỉ ra cho cậu những gì mắt cậu không thấy được. 
Vào ngày thứ bảy, nhà luyện kim đan quyết định dừng lại nghỉ sớm hơn thường lệ. Con chim ưng lại bay đi săn; ông đưa bình nước mời cậu. 
“Cậu sắp đến đích rồi đó”, nhà luyện kim đan nói. “Tôi chúc mừng cậu đã đi theo con đường tiền định của mình”. 
“Trên đường đi ông chẳng chỉ bảo cháu điều gì cả. Cháu cứ nghĩ rằng ông sẽ dạy cho cháu những điều ông biết. Cách đây không lâu cháu cùng đi trên sa mạc với một người có nhiều sách về thuật luyện kim đan, nhưng cháu chẳng học được gì từ những quyển sách ấy”. 
“Chỉ có một cách học thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Đó là thông qua hành động. Tất cả những gì cần biết cậu đã học được trên đường đi rồi. Nhưng còn thiếu một điều”. 
Cậu muốn biết đó là điều gì nhưng ông mãi nhìn đăm đăm về phía chân trời, tìm bóng dáng con chim ưng. 
“Tại sao người ta gọi ông là nhà luyện kim đan?” 
“Vì đó là nghề của ta”.
“Khi những nhà luyện kim đan khác thử luyện vàng mà không thành công thì họ sai ở chỗ nào?” 
“Tại vì họ chỉ chủ tâm tìm vàng thôi”, người bạn đồng hành của cậu đáp. “Họ tìm kho báu vốn nằm ở cuối con đường tiền định nhưng lại không chịu đi trọn con đường đó”.
“Cháu còn phải học thêm điều gì nữa?”, cậu hỏi.
Nhưng ông vẫn tiếp tục nhìn về phía chân trời. Rồi con chim ưng quay về với mồi nó vừa săn được. Họ đào một cái hố, đốt lửa trong ấy để khỏi bị trông thấy. 
“Ta là nhà luyện kim đan chỉ bởi vì ta là nhà luyện kim đan, thế thôi”, ông nói trong khi chuẩn bị bữa ăn. “Ta học môn này từ ông của ta, ông lại học từ ông thân và cứ thế cho đến thời tạo thiên lập địa. Vào thời đó “Đại công trình” có thể viết được vừa một phiến ngọc lục bảo. Nhưng rồi con người không thèm chú ý vào những điều đơn giản mà lại lo viết luận văn, chú giải và triết lý. Rồi họ cho rằng đã đi đúng đường hơn người khác. Nhưng đến nay phiến ngọc lục bảo vẫn còn nguyên giá trị”. 
“Trên phiến ngọc ấy viết gì?”, cậu muốn biết. 
Nhà luyện kim đan bèn vẽ lên cát lối chừng năm phút. Nhìn ông vẽ cậu nghĩ đến nhà vua già và bãi chợ nơi hai người gặp nhau; cậu có cảm tưởng như từ đó đến nay đã nhiều năm qua rồi. 
“Trên phiến ngọc viết những điều đó đấy”, nhà luyện kim đan nói khi đã vẽ xong. 
Cậu thử đọc nhưng thất vọng. 
“Đây là loại mật ngữ mà cháu đã thấy trong các sách của anh chàng người Anh”. 
“Không phải đâu”, nhà luyện kim đan đáp. “Nó cũng giống như đường bay của hai con chim bồ cắt, không thể dùng lí trí để hiểu được. Phiến ngọc lục bảo dẫn đường thẳng tới Tâm linh vũ trụ. Những bậc trí giả đã nhận biết rằng thế giới này chỉ là phiên bản của thiên đường. Sự hiện hữu của thế giới này chỉ là bằng cớ bảo đảm rằng có một thế giới toàn mỹ. Thượng Đế tạo dựng ra muôn loài để con người thông qua thế giới vật chất mà nghiệm được những định luật của thế giới tâm linh. Khi ta nói thông qua hành động là hàm ý như thế đấy”. 
“Cháu có cần phải hiểu phiến ngọc đó không?” cậu hỏi.
“Có thể cần. Nếu như cậu làm việc trong phòng thí nghiệm của nhà luyện kim đan thì đó sẽ là cơ hội tốt để tìm ra cách hay nhất hiểu được phiến ngọc. Nhưng hiện cậu đang ở trên sa mạc. Hãy trầm tư suy nghĩ, rồi sa mạc sẽ chỉ cho cậu hiểu thế giới. Nói cho đúng thì mọi thứ trên mặt đất đều chỉ cho cậu được. Cậu không cần phải hiểu hết mọi điều về sa mạc mà chỉ cần nghiền ngẫm về một hạt cát thôi và cậu sẽ thấy trong đó mọi sự mầu nhiệm của công trình tạo hóa”.
“Làm cách nào để cháu có thể thâm nhập vào thế giới của sa mạc?”.
“Hãy lắng nghe trái tim mình. Nó biết hết mọi điều vì nó từ Tâm linh vũ trụ mà ra và một ngày kia sẽ trở về đó”.

43 

Họ lại lặng lẽ tiếp tục đi trong sa mạc hai ngày nữa. Nhà luyện kim đan càng lúc càng thận trọng hơn vì họ đang đến gần vùng giao tranh ác liệt nhất. Trong khi đi đường cậu thử lắng nghe tiếng nói của trái tim mình. 
Quả tim cậu không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn: trước kia nó quen được đi hoài đi mãi, bây giờ nó chỉ muốn mau đến đích. Có lúc trái tim cậu kể lể hàng giờ liền về nỗi nhớ nhung của nó; lúc khác nó lại xúc động trước cảnh mặt trời mọc trên sa mạc đến nỗi làm cậu phải khóc thầm. Tim cậu đập nhanh khi nó kể về kho báu, đập chậm hẳn khi cậu mơ màng lặng nhìn chân trời vô tận trên sa mạc. Nhưng nó không bao giờ câm nín, kể cả khi cậu và nhà luyện kim đan không nói với nhau một lời nào. 
“Tại sao ta phải lắng nghe trái tim mình nhỉ?” cậu hỏi khi hai người dừng lại nghỉ đêm. 
“Bởi vì trái tim cậu ở đâu thì kho báu cậu tìm cũng ở đó”.
“Nhưng mà tim cháu rạo rực”, cậu đáp. “Nó mơ, nó xúc động và nó say mê một cô gái sa mạc. Nó đòi hỏi cháu đủ chuyện, khiến nhiều đêm cháu không ngủ được khi nghĩ đến nàng”. 
“Tốt lắm. Như thế là tim cậu đang sống hết mình. Hãy lắng nghe những gì nó nói”.
Ba ngày tiếp theo hai người gặp một số chiến binh có vũ trang và thấy một số khác đàng xa phía chân trời. Tim cậu bắt đầu nói về nỗi lo sợ. Nó kể chuyện nghe được từ Tâm linh vũ trụ về những người đi tìm mà không hề thấy kho báu. Đôi khi nó khiến cậu hoảng sợ khi nghĩ rằng có thể mình không tìm thấy kho tàng hoặc sẽ chết trong sa mạc. Lúc khác cái trái tim kia lại bảo cậu rằng nó hài lòng lắm vì nó đã tìm thấy tình yêu và nhiều đồng tiền vàng rồi. 
“Trái tim cháu giở chứng rồi”, cậu nói với nhà luyện kim đan khi họ dừng lại cho ngựa nghỉ. “Nó không muốn cháu đi tiếp nữa”. 
“Điều đó đúng thôi”, ông đáp. “Đó là bằng cớ cho thấy rằng trái tim cậu rất sống động. Đương nhiên ai mà chẳng sợ khi đem tất cả gì mình có được ra đổi lấy một giấc mơ”. 
“Thế thì tại sao cháu phải lắng nghe nó chứ?” 
“Vì cậu chẳng bao giờ bắt nó im lặng được nữa. Ngay cả khi cậu làm như không thèm nghe nó nói thì nó vẫn luôn luôn ở trong con người cậu, nhắc đi nhắc lại những điều cậu nghĩ về cuộc đời và thế giới”. 
“Ngay cả khi nó lừa cháu hay sao?” 
“Bị lừa bịp cũng giống như bị một cú đánh bất ngờ thôi. Nhưng nếu cậu hiểu rõ trái tim mình thì sẽ không xảy ra điều gì bất trắc đâu, vì cậu biết rõ nó mơ ước gì và biết phải ứng xử thế nào. Không ai trốn tránh được trái tim mình; thành ra nên lắng nghe nó nói là hay hơn cả. Như thế cậu sẽ không bao giờ bị đánh bất ngờ”. 
Cậu tiếp tục lắng nghe trái tim mình trên đường qua sa mạc, hiểu dần những mẹo vặt của nó và chấp nhận nó là như thế. Cậu thôi không lo sợ nữa, cũng không còn muốn quay về ốc đảo, vì một xế trưa nọ tim cậu bảo rằng nó mãn nguyện rồi. “Dù đôi lúc tôi có phàn nàn”, nó nói, “thì cũng chỉ bởi vì tôi là trái tim người, mà tim người đều thế cả. Người ta sợ theo đuổi một giấc mơ vĩ đại vì cảm thấy không xứng đáng được hưởng hoặc sẽ không thể nào đạt nổi. Chỉ cần nghĩ rằng những người thân yêu nhất của mình sẽ ra đi vĩnh viễn, rằng những khoảnh khắc lẽ ra tươi đẹp mà rốt cuộc lại chẳng tươi đẹp tí nào, rằng có những kho tàng lẽ ra tìm được mà lại mãi mãi chôn vùi trong cát, là chúng tôi - trái tim con người - đủ kinh hoàng rồi. Khi những điều này xảy ra thật thì chúng tôi đau khổ lắm”. 
“Trái tim cháu sợ sẽ phải đau khổ”, cậu đã nói với nhà luyện kim đan như thế vào một đêm hai người nhìn lên bầu trời không trăng. 
“Hãy bảo nó rằng sợ phải đau khổ còn đau đớn hơn là chính sự đau khổ, và chưa từng có trái tim nào phải chịu đau khổ khi tìm cách thực hiện giấc mơ, vì mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế và sự vĩnh hằng”. 
“Mỗi phút giây tìm kiếm là một khoảnh khắc gặp gỡ Thượng Đế”, cậu nói với trái tim mình. “Khi ta thành tâm đi tìm kho tàng thì mỗi một ngày đều chan hòa niềm vui, vì mỗi một giờ qua đi đều sẽ đem ta gần lại kho tàng hơn. Khi thành tâm đi tìm kho tàng, ta phát hiện trên đường nhiều điều mà ta sẽ không bao giờ thấy được nếu ta không đủ can đảm thử làm những việc xem ra một kẻ chăn cừu không thể làm nổi”. 
Thế là trái tim cậu thanh thản được suốt buổi xế trưa. Đêm ấy cậu ngủ ngon giấc và khi thức dậy trái tim kể cho cậu về Tâm linh vũ trụ, rằng kẻ nào hạnh phúc cũng đều có Thượng Đế trong lòng và có thể tìm thấy hạnh phúc trong từng hạt cát sa mạc như nhà luyện kim đan đã nói, vì hạt cát là một khoảnh khắc của sự sáng chế mà vũ trụ cần hàng triệu năm để tạo ra nó. 
“Ai ai trên trái đất cũng đều có một kho báu chờ đợi mình”, trái tim nói. “Chúng tôi, trái tim loài người, ít khi nói về những kho báu này vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa. Chúng tôi chỉ nói về chúng tôi với trẻ con thôi. Rồi chúng tôi để cuộc đời đi theo số mệnh. Song tiếc thay rất ít người đi theo con đường tiền định, con đường dẫn đến vận mệnh của họ, dẫn đến hạnh phúc. Phần lớn người ta nhìn thế giới như một nơi đầy đe dọa, chính vì thế mà thế giới trở thành nơi đe dọa thật. 
“Bởi thế mà chúng tôi, trái tim người, càng ngày càng nói khẽ hơn. Chúng tôi không im hẳn nhưng mong rằng người ta không nghe thấy, vì chúng tôi không muốn người ta phải đau khổ do không nghe lời trái tim mình”. 
“Tại sao trái tim người không giục giã họ theo đuổi ước mơ?”, cậu hỏi nhà luyện kim đan. 
“Vì như thế thì trái tim sẽ đau khổ vô cùng mà chúng lại không muốn đau khổ”.
Từ lúc đó cậu hiểu trái tim mình. Cậu yêu cầu nó đừng bao giờ ngừng trò chuyện với mình và khi nào cậu đi chệch khỏi ước mơ thì nó phải co thắt lại để cảnh báo cậu. Cậu thề sẽ nghe theo mỗi khi được cảnh báo. 
Đêm hôm ấy cậu kể hết những điều này cho người luyện kim đan nghe. Ông hiểu trái tim cậu đã hướng về Tâm linh vũ trụ. 
“Cháu phải làm gì bây giờ?” cậu hỏi.
“Đi tiếp về hướng Kim Tự Tháp”, ông đáp. “Và tiếp tục lưu ý đến các dấu hiệu. Tim cậu đã sẵn sàng chỉ cho cậu chỗ chôn kho báu rồi đấy”.
“Có phải đó là điều cháu cần biết nữa không?”
“Không”, ông đáp. “Điều cậu cần biết nữa là như thế này: trước khi cậu đạt được ước mơ thì Tâm linh vũ trụ sẽ thử thách mọi điều cậu học được trên đường đi. Tâm linh vũ trụ làm thế không phải vì ác ý mà vì muốn khi đạt được ước mơ chúng ta đồng thời cũng nắm vững những bài học đã lĩnh hội khi đi theo ước mơ. Đó chính là thời điểm mà đa số bỏ cuộc, nói theo ngôn ngữ sa mạc là “chết khát đúng vào lúc cây chà là xuất hiện ở chân trời”. Mọi cuộc tìm tòi đều khởi đầu như câu “thánh nhân đãi kẻ khù khờ” và kết thúc với sự thử thách gay go kẻ chiến thắng”. 
Cậu nhớ đến một câu châm ngôn của đất nước mình, nói rằng giờ tối nhất trong đêm lại chính là ngay trước lúc rạng đông.

44 

Ngày hôm sau có dấu hiệu báo nguy đầu tiên. Ba chiến binh tiến lại gần hỏi hai người làm gì ở đấy. 
“Tôi đem chim ưng đi săn”, nhà luyện kim đan đáp. 
“Chúng tôi phải khám xem hai người có vũ trang không”, một chiến binh nói. 
Nhà luyện kim đan chậm rãi xuống ngựa. Cậu cũng xuống theo. “Anh đem theo nhiều tiền thế này để làm gì?”, một người lính hỏi cậu trong lúc khám cái bị.
“Tôi cần tiền để đi đến Kim Tự Tháp”, cậu đáp. 
Người chiến binh khám nhà luyện kim đan tìm thấy một bình pha lê nhỏ đựng một chất lỏng và một quả trứng bằng thủy tinh màu vàng, nhỉnh hơn quả trứng gà. 
“Cái gì thế này?” hắn hỏi.
“Đó là viên Đá tạo vàng và Thuốc trường sinh. Công trình của các nhà luyện kim đan đấy. Ai uống thuốc này thì sẽ không bao giờ ốm đau nữa và một mảnh vụn của viên đá có thể biến mọi thứ kim loại thành vàng”. 
Các chiến binh Arập cười ngất vì thấy câu trả lời quá khôi hài; nhà luyện kim đan cũng cười theo. Rồi họ cho phép hai người được giữ tất cả hành lí tiếp tục cuộc hành trình. 
“Ông điên à?” cậu hỏi nhà luyện kim đan sau khi đi được một quãng. “Sao ông lại trả lời thế?” 
“Để chỉ cho cậu một bài học đơn giản ở đời”, ông đáp. “Đó là: kho tàng sờ sờ ngay trước mắt mà ta không hề biết. Vì sao? Vì con người không tin rằng có kho tàng thật”. 
Họ lại tiếp tục đi. Mỗi một ngày qua là một ngày trái tim cậu thanh thản hơn. Nó không đòi được biết về quá khứ hoặc tương lai nữa, mà thỏa mãn với việc để hết tâm trí ngắm nhìn sa mạc và cùng với cậu cà kê về tâm linh vũ trụ. Cậu với trái tim trở thành bạn thân và không bên nào nỡ lừa dối bên nào nữa. 
Mỗi khi trái tim trò chuyện với cậu là để kích thích, thêm sức cho cậu vì những ngày dài thầm lặng trong sa mạc khiến cậu mệt mỏi. Nó cho cậu biết về chỗ mạnh của cậu: đã dũng cảm xa rời bầy cừu để đi theo vận mệnh và làm việc hết mình ở cửa hàng pha lê. 
Nó còn cho cậu biết thêm những chuyện mà cậu chưa hề quan tâm: về những lần cậu thoát hiểm mà không biết. Trái tim cậu bảo rằng có một lần nó đã giấu khẩu súng cậu lén lấy của ông bố vì e cậu có thể tự gây thương tật. Nó nhắc cậu nhớ lại cái ngày cậu bị bệnh, ói mửa ngay giữa đồng trống rồi ngủ thiếp đi. Cách đó không xa hai tên cướp đường chờ sẵn, định bụng hễ cậu tới là chúng sẽ cướp bầy cừu rồi giết cậu. Nhưng chờ mãi không thấy cậu tới chúng bèn bỏ đi vì nghĩ rằng cậu đã chọn đường khác rồi. 
“Lúc nào trái tim cũng giúp mình sao?” cậu hỏi nhà luyện kim đan.
“Chỉ những trái tim của những người muốn đi theo vận mệnh của mình thôi. Nhưng chúng cũng giúp đỡ trẻ em, người già và cả người say nữa”. 
“Thế nghĩa là cháu sẽ không bao giờ gặp nguy hiểm sao?” 
“Thế chỉ có nghĩa là trái tim làm tất cả những gì nó có thể làm được thôi”, nhà luyện kim đan đáp.
Một buổi xế trưa họ đi ngang khu lều trại của một bộ tộc tham chiến. Ở mỗi góc trại đều có những người lính vũ trang choàng áo màu trắng trông rất đẹp. Họ ngồi hút Nargileh và bàn tán về chiến trận. Chẳng ai buồn để ý đến cậu và nhà luyện kim đan cả. 
“Chẳng có gì nguy hiểm”, cậu nói sau khi họ đã đi qua khu lều được một quãng. 
Nhà luyện kim đan nổi giận: 
“Hãy tin tưởng ở trái tim mình nhưng đừng bao giờ quên rằng mình hiện đang ở sa mạc. Khi xảy ra đánh nhau thì ngay cả Tâm linh vũ trụ cũng còn nghe tiếng thét trên trận địa và không ai tránh được hết những hậu quả của mọi chuyện xảy ra dưới bầu trời này” 
“Tất cả đều là một”, cậu nghĩ. 
Rồi, như thể sa mạc muốn chứng minh rằng nhà luyện kim đan nói đúng, hai kị sĩ xuất hiện phía sau họ. 
“Mấy người không thể đi tiếp được nữa”, một kị sĩ nói. “Mấy người đang ở trong vùng có giao tranh”. 
“Tôi không đi xa đâu”, nhà luyện kim đan đáp, nhìn thẳng vào mắt các kị sĩ. Họ lặng thinh một lúc rồi đồng ý để hai người đi tiếp. 
Cậu hào hứng theo dõi cuộc đối thoại. 
“Ông chế ngự được họ chỉ bằng cái nhìn!” cậu thán phục.
“Đôi mắt cho thấy sức mạnh của tâm hồn”, ông đáp.
“Đúng vậy”, cậu thầm nghĩ. Cậu vừa nhận thấy ở khu lều kia một trong số những người vũ trang nhìn chòng chọc theo họ. Vì khoảng cách quá xa nên cậu không nhìn được rõ mặt hắn song cậu chắc chắn hắn đang nhìn họ. 
Sau khi đã vượt qua rặng núi trải dài theo chân trời nhà luyện kim đan mới nói rằng chỉ còn hai ngày nữa thôi là đến Kim Tự Tháp. 
“Nếu chúng ta sắp phải chia tay đến nơi thì ông hãy dạy cháu thuật luyện kim đan đi”, cậu nói.
“Cậu đã nắm vững thuật ấy rồi mà. Đó là: nhập vào Tâm linh vũ trụ và phát hiện kho báu dành riêng cho mình”.
“Cháu không nói đến chuyện ấy; chuyện luyện chì thành vàng cơ”.
Nhà luyện kim đan chợt lặng im như sa mạc và chỉ trả lời cậu sau khi họ dừng lại để dùng bữa.
Mọi sự trong vũ trụ đều tiến hóa”, ông nói. “Với bậc hiền giả thì vàng là thứ kim loại tiến hóa đến mức cao nhất. Đừng hỏi tại sao vì ta không biết thật. Ta chỉ biết truyền thống luôn luôn đúng. Chỉ vì người ta không hiểu lời bậc hiền giả. Cho nên vàng, thay vì là biểu tượng của tiến hóa, trở thành nguyên nhân gây ra xung đột”. 
“Sự vật tự biểu lộ bằng nhiều thứ ngôn ngữ”, cậu ngắt lời ông. “Chẳng hạn có một lúc đối với cháu tiếng lạc đà kêu không là gì khác hơn tiếng lạc đà kêu cả, rồi thì nó trở thành dấu hiệu của sự nguy hiểm, sau đó lại chỉ là tiếng kêu như trước”. 
Cậu không nói tiếp nữa; có lẽ nhà luyện kim đan đã biết cả rồi. 
“Ta biết những nhà luyện kim đan chân chính”, ông nói tiếp. “Họ tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cố gắng để tiến hóa, giống như vàng. Họ tìm ra được loại “Đá tạo vàng” vì họ hiểu rằng khi một vật tiến hóa thì mọi vật quanh nó cũng tiến hóa theo. Người khác tìm ra “Đá tạo vàng” do tình cờ; họ vốn có tài sẵn và tâm hồn họ lĩnh hội nhanh hơn kẻ khác. Số người này hiếm chứ không nhiều đâu. Rồi có những kẻ chỉ quan tâm đến vàng thôi. Họ chẳng bao giờ tìm ra được điều bí mật cả vì họ quên rằng chì, đồng, sắt cũng phải đi trọn con đường tiền định của chúng. Thành ra ai mà can thiệp vào vận mệnh của sự vật khác sẽ không bao giờ phát hiện được chính vận mệnh của mình”. 
Những lời này vang lên như một lời nguyền. Ông cúi nhặt một vỏ sò trên mặt cát: 
“Sa mạc này xưa kia là biển”.
“Cháu cũng nhận thấy thế”, cậu đáp. 
Nhà luyện kim đan bảo cậu úp vỏ sò vào tai. Hồi nhỏ cậu đã từng nhiều lần làm như thế và được nghe tiếng của biển. 
“Biển sống trong vỏ sò này vì số phận của nó là như vậy. Nó sẽ không bao giờ rời khỏi vỏ sò cho đến khi sa mạc được phủ đầy nước”. 
Họ lên ngựa, đi về hướng Kim Tự Tháp Ai Cập. 

Khi trái tim cậu lên tiếng báo nguy thì mặt trời đang lặn. Họ đang đứng giữa những đồi cát khổng lồ. Cậu nhìn nhà luyện kim đan xem ông có cảm thấy điều gì không, song xem ra ông không hề biết có hiểm nguy. Năm phút sau cậu thấy có hai kị sĩ đợi họ phía trước, bóng màu sẫm in trên nền trời. Cậu chưa kịp nói gì với nhà luyện kim đan thì từ hai kị sĩ giờ đã thành mười, rồi thành trăm, rồi thì trùng điệp khắp đồi cát. 
Các chiến binh này khoác áo màu xanh, chít vòng màu đen quanh khăn xếp. Khăn che mặt cũng màu xanh, chỉ để hở đôi mắt. 
Tuy xa nhưng vẫn thấy được mắt họ toát ra sức mạnh và chết chóc.

45 

Họ dẫn hai người đến một doanh trại gần đó. Một người lính đẩy cậu và nhà luyện kim đan vào một cái lều trông khác những lều cậu từng biết ở ốc đảo. Trong lều người chỉ huy đang họp bàn với ban tham mưu. 
“Bọn này là gián điệp”, một người nói.
“Chúng tôi chỉ là khách lữ hành thôi”, nhà luyện kim đan đáp. 
“Ba ngày trước có kẻ trông thấy bọn mi ở khu trại địch, trò chuyện với một tay lính ở đó”. 
“Tôi chỉ là một người vượt sa mạc và biết xem sao trời tìm phương hướng”, ông đáp. “Tôi chẳng biết gì về các đạo quân hay sự chuyển quân của các bộ tộc. Tôi chỉ làm người dẫn đường cho bạn tôi đây thôi”. 
“Ai là bạn mi?” Viên chỉ huy hỏi. 
“Một nhà luyện kim đan”, ông đáp. “Anh ta hiểu được sức mạnh của thiên nhiên và muốn biểu dương cho mấy người thấy năng lực phi thường của mình”. 
Cậu im lặng lắng nghe mà lòng đầy sợ hãi. 
“Gã ngoại quốc này đến đây với ý đồ gì?” Một người khác hỏi “Anh ta mang tiền đến tặng bộ tộc của mấy người”, nhà luyện kim đan đáp trước khi cậu kịp mở miệng. Rồi ông ta chụp cái bị của cậu, lấy số tiền vàng đưa cho viên chỉ huy. 
Viên chỉ huy Arập này cầm lấy tiền song không nói một lời. Đủ để hắn mua nhiều súng ống. 
“Nhà luyện kim đan là nhà gì?” hắn muốn biết. 
“Là một người hiểu được thiên nhiên và thế giới. Nếu muốn, anh ta có thể chỉ dùng sức gió mà tàn phá được doanh trại này”. 
Đám người kia phá lên cười. Họ còn lạ gì sự tàn phá của chiến tranh và biết rằng gió không thể nào giết nổi ai. Tuy vậy tim họ vẫn thót lại. Vì là người sa mạc nên họ vẫn sợ các thầy phù thủy. 
“Tôi muốn được tận mắt thấy gã làm chuyện đó”, viên chỉ huy nói. 
“Anh ta cần ba ngày”, nhà luyện kim đan đáp. “Anh ta sẽ biến thành gió để chứng tỏ năng lực của mình. Nếu như anh ta không làm được thì chúng tôi xin cúi đầu dâng mạng sống cho bộ tộc các người”. 
“Bọn mi không thể dâng cái đã nằm sẵn trong tay ta”, viên chỉ huy khinh miệt đáp, tuy nhiên hắn vẫn đồng ý cho họ thời hạn ba ngày. 
Cậu hoảng vía như bị tê liệt, khiến nhà luyện kim đan phải nắm tay dìu cậu ra khỏi lều. 
“Đừng để họ thấy cậu sợ”, ông nói. “Bọn họ là những kẻ dũng cảm nên rất khinh những ai hèn nhát”. 
Nhưng cậu không thốt nên lời. Mãi sau khi đã đi lại một lúc trong khu trại cậu mới mở miệng nổi. Những người Arập thấy không cần giam giữ họ mà chỉ cần tịch thu ngựa là đủ. Thế là một lần nữa thế giới lại cho thấy ngôn ngữ đa dạng của nó: mới đó là sa mạc còn là mênh mông, thoắt giờ đây đã thành một bức tường không vượt qua nổi. 
“Ông đã đưa cho họ hết mọi của cải mà cháu đã suốt đời dành dụm”, cậu tức giận nói. 
“Ừ, nhưng cậu cần chúng làm gì nữa nếu sắp phải chết?” nhà luyện kim đan đáp. “Tiền của cậu cho chúng ta sống thêm ba ngày nữa. Không phải lúc nào tiền cũng cứu được mạng người đâu”. 
Nhưng vì cậu quá sợ nên không thể nghe lọt tai những lời sáng suốt kia. Cậu không biết phải biến thành gió như thế nào vì cậu có phải nhà luyện kim đan đâu. Nhà luyện kim đan xin một người lính chút ít trà, rưới lên cổ tay cậu, miệng lẩm bẩm những lời cậu không hiểu, song cậu thấy trong lòng tràn dâng cảm giác yên bình.
“Đừng để nỗi sợ áp chế mình”, giọng ông dịu dàng khác thường. “Bằng không cậu không thể trò chuyện với tim mình được đâu”. 
“Nhưng cháu không biết phải biến thành gió như thế nào”.
“Người nào sống trọn đường đời của mình, người đó biết tất cả những gì cần biết. Chỉ có một điều khiến không thể nào đạt được ước mơ: đó là sợ rằng sẽ thất bại”. 
“Cháu không sợ thất bại, mà chỉ không biết phải biến thành gió như thế nào thôi”. 
“Thế thì cậu phải học. Mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào đó”.
“Nếu cháu không làm được thì sao?” 
“Thì cậu sẽ chết trong lúc cố sống theo vận mệnh mình. Như thế vẫn hay hơn là phải chết như hàng triệu người không hề biết vận mệnh họ là gì. Nhưng đừng lo”, nhà luyện kim đan nói tiếp. “Khi đứng ở ngưỡng cửa cõi chết người ta thường cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống”. 

Ngày đầu tiên trôi qua. Một trận đánh lớn diễn ra gần đó và nhiều người bị thương được đưa về khu trại. Những người tử trận được thay bằng lính mới và dòng đời vẫn tiếp tục. 
“Cái chết chẳng làm thay đổi gì hết”, cậu nghĩ.
“Làm gì mà chết vội thế”, một người lính nói với cái xác của bạn gã. “Đợi thanh bình rồi chết cũng được cơ mà. Nhưng mà trước sau gì thì bạn cũng chết thôi”. 
Chiều tối cậu đi tìm nhà luyện kim đan. Ông đang định đưa chim ưng đi săn. 
“Cháu vẫn chưa biết phải biến thành gió như thế nào”.
“Hãy nhớ lại những gì ta đã nói: thế giới chỉ là phần thấy được của Thượng Đế. Thuật luyện kim đan có nhiệm vụ chuyển sự toàn mĩ của tâm linh sang thế giới vật chất”.
“Ông làm gì bây giờ?” 
“Cho chim ưng ăn”.
“Nếu cháu không biến nổi thành gió thì cả ba chúng ta đều sẽ phải chết”, cậu nói. “Cho nó ăn làm gì nữa”. 
“Chỉ có cậu sẽ chết thôi”, nhà luyện kim đan đáp. “Còn ta biết phải biến thành gió như thế nào chứ”.

46 

Ngày thứ hai cậu leo lên đỉnh một khối đá gần khu trại. Lính gác để cậu đi; họ đã nghe nói về một phù thủy có khả năng biến thành gió nên không muốn đến gần cậu. Hơn nữa sa mạc như một bức tường thành không thể vượt nổi. 
Cậu ngồi đó mãi cho đến chiều, nhìn ra sa mạc và lắng nghe trái tim mình. Cả sa mạc cũng lắng nghe nỗi sợ của cậu. Trái tim cậu và sa mạc vốn nói cùng một thứ ngôn ngữ.

47 

Sang ngày thứ ba viên chỉ huy triệu tập các sĩ quan của mình. Hắn gọi nhà luyện kim đan đến rồi nói: 
“Chúng ta ra xem gã kia biến thành gió như thế nào”. 
“Rồi khắc biết”, nhà luyện kim đan đáp.
Cậu dẫn họ đến khối đá hôm qua, yêu cầu mọi người ngồi đó.
“Phải đợi khá lâu đấy”, cậu nói.
“Đâu có gì vội”, viên chỉ huy đáp. “Chúng ta là dân sa mạc mà”.

48 

Cậu nhìn quanh mình. Xa xa phía chân trời kia là núi, đồi cát, đá tảng và các bụi cây leo. Ở một nơi như không thể nào có nổi sự sống mà cây cỏ vẫn cố bám vào đó để sống. Sa mạc này cậu đã đi qua nhiều tháng ròng, thế mà chỉ biết có một phần rất nhỏ của nó. Trong thời gian này cậu đã gặp một người Anh, thấy nhiều đoàn lữ hành, một ốc đảo với năm chục nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước; cậu cũng đã chứng kiến cuộc xung đột giữa các bộ tộc. 
“Sao bữa nay bạn còn đến đây?” sa mạc hỏi cậu. “Hôm qua chẳng lẽ mình nhìn nhau chưa đủ à?” 
“Bạn giữ người tôi yêu ở một nơi nào đó”, cậu đáp. “Cho nên nhìn ngắm biển cát trải dài vô tận của bạn cũng là ngắm nhìn nàng. Tôi muốn quay về với nàng nên cần bạn giúp tôi biến thành gió”. 
“Yêu nghĩa là gì?” sa mạc hỏi.
“Yêu giống như khi chim ưng bay trên biển cát của bạn. Bởi vì đối với chim thì bạn là một cánh đồng xanh màu mỡ và nó chẳng bao giờ quay về mà không săn được gì. Nó rành rẽ các tảng đá, các đồi cát, núi non của bạn, còn bạn thì hào phóng đối với nó”. 
“Nó cướp đoạt của tôi thì có”, sa mạc đáp. “Tôi nuôi những con mồi của nó nhiều năm ròng, cho chúng uống số nước ít ỏi tôi có được rồi tôi lại chỉ cho nó con mồi ở đâu. Một ngày kia, khi tôi đang vui sướng thấy con mồi của nó chập chững đi trên bãi cát của tôi thì nó từ trên bầu trời cao bổ xuống, cướp đi công trình tôi đã nuôi”. 
“Nhưng bạn nuôi những con mồi cũng chính vì mục đích ấy thôi”, cậu đáp. “Để nuôi chim ưng, rồi chim ưng nuôi người. Và cuối cùng, đến một ngày nào đó con người nuôi lại bãi cát của bạn để các con mồi lại lớn lên. Đó chính là sự vận động của vũ trụ”.
“Yêu là thế à?” 
“Phải, yêu là thế đấy. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, rồi đến lượt người biến thành sa mạc. Nó biến chì thành vàng rồi đưa vàng trở về với lòng đất”. 
“Tôi chẳng hiểu bạn nói gì cả”, sa mạc nói. 
“Nhưng ít ra bạn cũng hiểu được rằng ở một nơi nào đó giữa các đồi cát của bạn có một cô gái đang mong đợi tôi. Chính vì thế mà tôi phải biến thành gió”. 
Sa mạc làm thinh một lúc rồi mới nói với cậu: 
“Tôi sẽ cho bạn cát để gió thổi, nhưng một mình tôi thì chẳng làm gì được đâu. Bạn phải yêu cầu gió mới giúp được”. 

Một làn gió nhè nhẹ nổi lên. Những người Arập quay nhìn cậu; họ không hiểu thứ tiếng cậu nói đó. Nhà luyện kim đan mỉm cười. Gió mơn man khuôn mặt cậu. Nó nghe được những gì cậu nói với sa mạc, vì gió biết hết mọi chuyện. Nó đi khắp thế giới nhưng không có chỗ nào là khởi điểm, cũng không có nơi nào để gió dừng lại vĩnh viễn. 
“Giúp tôi với”, cậu nói. “Mới gần đây bạn đã đem đến cho tôi giọng nói của người tôi yêu”. 
“Ai dạy bạn nói tiếng nói của sa mạc và gió?” 
“Trái tim tôi đấy”, cậu đáp. 
Gió có rất nhiều tên. Ở vùng này người Arập gọi nó là Sirocco và tin rằng nó mang theo hơi ẩm từ vùng đất ngập nước, nơi cư trú của người da đen; ở vùng đất xa xôi quê hương của cậu người ta gọi nó là Levante, vì cho rằng nó mang theo cát sa mạc và tiếng thét xung trận của người Mauren; còn ở những vùng xa nữa, phía sau những đồng cỏ cậu vẫn thả cừu, thì người ta cho rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng đúng ra gió chẳng đến từ một nơi nào cả, cũng chẳng đi đâu hết; vì thế mà nó mạnh hơn cả sa mạc. Một ngày nào đó có thể sẽ có người trồng được cây trên sa mạc, thậm chí nuôi được cừu ở đó nữa, nhưng sẽ không ai khống chế được gió. 
“Bạn không thể thành gió được, vì thể chất chúng mình khác nhau hoàn toàn”, gió nói. 
“Không đúng”, cậu đáp. “Trên đường đi, tôi đã học được những bí mật của thuật luyện kim đan. Trong người tôi tập hợp đủ cả gió, sa mạc, đại dương, sao trời và mọi thứ trong vũ trụ. Chúng ta đều cùng do một bàn tay tạo ra và có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, có thể đến khắp mọi ngóc ngách, vượt biển cả, thổi bay lớp cát che phủ kho báu của tôi và đem đến đây tiếng nói của người con gái tôi yêu”. 
“Mấy hôm trước tôi có nghe bạn trò chuyện với nhà luyện kim đan”, gió nói. “Ông bảo mỗi sự vật đều có vận mệnh riêng. Con người không thể biến thành gió được”. 
“Bạn hãy dạy tôi cách biến thành gió một vài khoảnh khắc thôi; như thế bạn và tôi có thể chuyện trò về khả năng vô hạn của người và gió”, cậu nói. 
Gió thêm hiếu kì; đó là điều chưa từng có. Nó muốn chuyện trò tiếp về những chuyện ấy nhưng không biết phải biến người thành gió ra sao. Thế mà nó vốn làm được khối chuyện cơ đấy! Tạo nên sa mạc này, đánh chìm tàu này, đốn ngã biết bao khu rừng này, thổi qua các thành phố lớn đầy âm nhạc và những âm thanh lạ này. Nó nghĩ rằng mình làm được hết rồi, thế mà một gã trai bảo rằng vẫn còn bao chuyện khác nữa gió có thể làm được. 
“Cái đó gọi là tình yêu”, cậu nói khi thấy gió sắp xiêu lòng. “Khi yêu, người ta có thể tạo dựng nên tất cả. Khi yêu thì không cần phải hiểu chuyện gì đang xảy ra vì mọi sự diễn ra trong chính mình. Khi yêu thì ngay cả người cũng có thể biến thành gió được. Tất nhiên phải được gió giúp sức”. 
Gió vốn rất tự cao nên không hài lòng khi nghe cậu nói. Nó bèn thổi mạnh hơn làm cát bay mù. Nhưng rồi nó phải thừa nhận rằng tuy vẫn đi khắp thế giới thật nhưng cũng không biết làm thế nào để biến được người thành gió, và cũng chẳng biết gì về tình yêu cả. “Trên đường vòng quanh thế giới tôi thường được nghe người ta nhìn lên trời, nói về tình yêu”, gió điên tiết nhìn nhận khả năng hạn chế của mình. “Có lẽ bạn nên hỏi trời xanh kia xem sao”.
“Được, bạn hãy giúp tôi bằng cách tung đầy cát vào không khí, che khuất mặt trời để tôi nhìn thấy mặt trời mà không sợ mù mắt”, cậu đáp. 
Gió bèn phùng má thổi. Một đám mây cát che kín bầu trời và mặt trời trông chỉ như cái đĩa vàng. 
Ở doanh trại người ta không nhìn thấy gì nữa cả. Những người dân sa mạc đã quá quen với thứ gió mà họ gọi là Samum này. Đối với họ thì nó còn ghê gớm hơn bão tố trên biển cả, dù họ không biết biển là gì. Ngựa hí vang, khí giới phủ đầy cát. 
Trên mỏm khối đá, một viên sĩ quan quay sang nói với viên chỉ huy: 
“Có lẽ mình nên chấm dứt thôi!” 
Họ không còn có thể nhìn thấy cậu nữa. Mặt họ che bằng khăn màu xanh chỉ để lộ những cặp mắt kinh hoàng. 
“Chấm dứt thôi”, một người khác nói. 
“Tôi muốn được chứng kiến sự vĩ đại của Allah”, giọng viên chỉ huy đầy thành kính. “Tôi muốn được thấy người biến thành gió như thế nào”. 
Nhưng hắn ghi nhớ tên hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi lặng gió hắn sẽ cách chức họ vì đàn ông sa mạc không được phép biết sợ là gì. 

“Gió bảo tôi rằng bạn biết về tình yêu”, cậu nói với mặt trời. “Nếu đúng thế thì bạn cũng phải biết về Tâm linh vũ trụ vốn được hình thành từ tình yêu”. 
“Từ trên cao này”, mặt trời đáp, “tôi có thể trông thấy Tâm linh vũ trụ. Chúng tôi vẫn cùng hợp lực làm cho cây cỏ lớn lên, khiến cừu biết tìm bóng mát. Từ chỗ này của tôi - xa mặt đất lắm nhé - tôi học được cách yêu. Tôi biết rằng chỉ cần mình xích lại gần mặt đất một chút xíu thôi cũng đủ khiến mọi vật bị hủy diệt và Tâm linh vũ trụ cũng không tồn tại được nữa. Cho nên hai chúng tôi thân ái nhìn ngắm nhau; tôi cống hiến ánh sáng và hơi ấm còn nó cho tôi lẽ sống”. 
“Vậy là bạn biết về tình yêu rồi”, cậu nói.
“Tôi biết rõ cả Tâm linh vũ trụ vì chúng tôi trò chuyện cùng nhau rất nhiều suốt cuộc hành trình bất tận trong vũ trụ. Tâm linh vũ trụ bảo rằng khó khăn lớn nhất của nó là cho tới nay chỉ có thú vật và cây cỏ hiểu được tất cả là một, rằng thật ra sắt chẳng cần gì phải giống như đồng hay đồng giống như vàng. Mỗi loại cứ làm tròn nhiệm vụ của mình thì tất cả sẽ cùng làm thành một bản giao hưởng của hòa bình - nếu như bàn tay đã viết tất cả những điều này ngừng lại vào ngày Sáng Thế thứ năm. Nhưng mà còn ngày Sáng Thế thứ sáu nữa”, mặt trời nói. 
“Bạn sáng suốt lắm, bởi vì bạn quan sát sự vật từ xa”, cậu nói. “Nhưng bạn không biết về tình yêu. Nếu không có ngày thứ sáu thì sẽ không có con người, đồng sẽ mãi là đồng, chì chỉ là chì. Đúng là mọi thứ có vận mệnh của nó và sẽ có một ngày vận mệnh hoàn thành. Rồi mỗi sự vật chuyển hóa thành tốt hơn, mang vận mệnh mới cho đến khi Tâm linh vũ trụ chỉ còn là một tổng thể duy nhất”. 
Mặt trời trầm ngâm một lúc rồi chiếu sáng hơn nữa. Gió rất thú vị với cuộc trò chuyện nên ra sức thổi mạnh hơn để mặt trời khỏi làm mù mắt cậu. 
“Chính vì thế mà có thuật luyện kim đan”, cậu nói. “Để rồi ai cũng mơ ước tìm kiếm kho báu của mình, rồi muốn được khá hơn kiếp trước. Chì sẽ giữ vai trò của nó cho đến khi thế giới không cần chì nữa, thế là chì sẽ phải biến thành vàng. Đó chính là việc của các nhà luyện kim đan. Họ cho thấy khi chúng ta ra sức tự hoàn thiện thì mọi sự vật quanh ta cũng hoàn mĩ theo”. 
“Vậy tại sao bạn bảo tôi không biết về tình yêu?” Mặt trời hỏi cậu. 
“Vì tình yêu không tĩnh tại như sa mạc, cũng không lang thang cùng khắp thế giới như gió, cũng không phải đứng từ xa nhìn sự vật như bạn vậy. Tình yêu là sức mạnh làm chuyển biến và nâng tâm linh vũ trụ lên cao hơn nữa. Lần đầu tiên, khi nhập vào tâm linh vũ trụ, tôi tưởng nó là tuyệt mĩ rồi. Về sau tôi mới biết nó là phản ảnh của tạo vật, nghĩa là cũng mang trong nó chiến tranh và đam mê. Chúng ta nuôi dưỡng tâm linh vũ trụ, và thế giới của chúng ta trở nên tốt hay xấu hơn tùy theo bản thân chúng ta tốt hay xấu hơn. Ở điểm này mới thấy được vai trò sức mạnh của tình yêu, vì khi yêu chúng ta cố trở nên tốt hơn”.
“Bạn muốn gì ở tôi?” mặt trời hỏi.
“Tôi muốn bạn giúp tôi biến thành gió”, cậu đáp.
“Thiên nhiên công nhận tôi là tạo vật, sáng suốt nhất trong muôn loài”, mặt trời đáp. “Nhưng tôi không biết cách biến bạn thành gió”.
“Vậy tôi phải hỏi ai?” 
Mặt trời ngẫm nghĩ một lúc. Ngọn gió kia đang lắng nghe và nhất định sẽ đi rêu rao cùng khắp rằng khả năng của mặt trời cũng hạn chế thôi. Mặt trời không dễ thoát khỏi cái anh chàng nói thứ ngôn ngữ vũ trụ này. 
“Bạn hãy hỏi bàn tay đã ghi chép lên mọi sự”, mặt trời đáp. 
Gió reo mừng thổi mạnh hơn bao giờ hết, cuốn tung các mái lều, giật đứt dây buộngựa. Trên đỉnh tảng đá những người Arập ôm chặt lấy nhau để khỏi bị thổi bay đi. Cậu hướng lòng mình về cái bàn tay đã ghi chép mọi sự. Cậu cảm thấy vũ trụ nín lặng nên cũng nín lặng luôn. Tình yêu trào dâng từ trái tim cậu; lần đầu tiên trong đời cậu lẩm nhẩm một bài kinh không lời, không có cầu xin. Cậu không cám ơn vì lũ cừu đã tìm ra đồng cỏ mượt, không cầu xin bán được nhiều hàng pha lê hơn nữa, hay cầu xin để người con gái cậu yêu chờ đợi cậu trở về. Trong sự yên ắng cậu hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời cũng đang cố hiểu những dấu hiệu được vẽ lên từ bàn tay nọ để tìm ra con đường của mình và để hiểu những gì đã khắc trên phiến ngọc. Cậu biết rằng những dấu hiệu này rải rác trên mặt đất và khắp vũ trụ; nhìn bề ngoài thì chúng chẳng cho thấy một ý nghĩa nào cả nên sa mạc, gió, mặt trời và con người không biết những dấu hiệu ấy được tạo ra để làm gì. Chỉ có bàn tay nọ biết căn nguyên của mọi điều và chỉ riêng nó làm được những phép lạ như thành gió. Bởi bàn tay đó thấu hiểu rằng có một lực siêu phàm đã xoay vần vũ trụ tới mức sáu ngày sáng thế chuyển hóa thành Công trình vĩ đại. Cậu nhập vào tâm linh vũ trụ và nhận biết rằng nó là một phần linh hồn Hóa công và linh hồn Hóa công là linh hồn của chính cậu. Như thế tự cậu cũng có thể làm được phép lạ.

49 

Ngày hôm ấy ngọn gió Samum thổi dữ dội chưa từng thấy. Nhiều đời sau người Arập sẽ còn kể về huyền thoại một chàng trai đã không khiếp nhược trước viên chiến tướng sa mạc và đã hoá thành gió, phá hầu như tan hoang cả một doanh trại. 
Khi lặng gió mọi người nhìn về phía cậu ngồi, nhưng cậu không còn ở chỗ cũ nữa mà đang đứng cạnh môt người lính canh bị cát vùi lấp, tuốt phía bên kia doanh trại. Mọi người khiếp đảm trước trò quỷ thuật này. Nhưng vẫn có hai người cười, đó là nhà luyện kim đan vì ông đã tìm ra được một học trò xuất sắc và viên chỉ huy, vì hắn đã được chứng kiến quyền năng tuyệt vời của Thượng Đế. 
Hôm sau, viên chỉ huy từ giã nhà luyện kim đan và cậu rồi cho một đoàn lính tháp tùng hai người tới bất kì nơi nào họ muốn.

50 

Sau khi đã đi suốt ngày, chiếu tối họ tới được một tu viện Côptic. Nhà luyện kim đan bảo đoàn tháp tùng quay về rồi xuống ngựa. 
“Từ đây cậu có thể tự mình đi tiếp được rồi đấy”, ông nói. “Chỉ cần ba tiếng nữa là tới Kim Tự Tháp”. 
“Cám ơn ông đã dạy cháu ngôn ngữ vũ trụ”, cậu đáp. 
“Ta chỉ gợi cho cậu nhớ lại những gì cậu đã biết từ trước thôi”. 
Nhà luyện kim đan gõ cổng tu viện. Một tu sĩ mặc toàn đen ra mở cửa. Họ nói với nhau mấy câu bằng tiếng Côptic rồi nhà luyện kim đan bảo cậu vào. 
“Ta vừa mới yêu cầu tu sĩ nọ cho phép sử dụng cái bếp một lúc”, ông nói. 
Họ đi vào bếp. Nhà luyện kim đan nhóm lửa còn tu sĩ nọ lo mang chì đến để nhà luyện kim đan nấy chảy trong một thùng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà luyện kim đan móc túi ra quả trứng lạ lùng bằng thủy tinh màu vàng. Ông cạo một chút, mảnh như sợi tóc, lấy sáp bọc lại rồi bỏ vào thùng. Chất lỏng biến thành đỏ như máu. Rồi ông bưng thùng khỏi bếp, để nguội. Trong khi chờ đợi ông trò chuyện với người tu sĩ về cuộc xung đột giữa các bộ lạc. 
“Sẽ còn kéo dài lâu”, ông nói. 
Người tu sĩ tỏ vẻ bực dọc. Từ lâu nay các đoàn lữ hành đã phải nằm ở Gizeh chờ cuộc xung đột kết thúc. 
“Nhưng rồi đâu cũng sẽ vào đấy, như ý Thượng Đế muốn cả thôi”, tu sĩ nói. 
“Đúng thế”, nhà luyện kim đan đáp. 
Khi thùng nguội, người tu sĩ và cậu nhìn vào mà kinh ngạc. Chì đã khô lại dưới đáy thùng hình tròn, song không phải là chì nữa mà là vàng. 
“Một ngày nào đó cháu cũng sẽ làm được như vậy chứ?” cậu hỏi.
“Đó là vận mệnh của ta chứ không phải của cậu”, nhà luyện kim đan đáp. “Ta làm chỉ để cho cậu thấy rằng có thể làm được”. 
Rồi ông chia chỗ vàng đó làm bốn phần. 
“Để cám ơn thầy”, ông nói và đưa tu sĩ một phần. 
“Thế là quá nhiều so với những gì tôi đã làm”, tu sĩ nói. 
“Thầy chớ nói thế nữa, kẻo Đời nghe thấy thì lần tới thầy sẽ được ít hơn đấy”. 
Rồi ông quay sang cậu. 
“Phần này để đền cậu số tiền đã trả cho viên tư lệnh”. 
Cậu muốn nói rằng như thế là quá nhiều so với số tiền nọ song lại thôi, vì vừa được nghe những gì nhà luyện kim đan nói với người tu sĩ. 
“Phần này tôi giữ”, ông nói và cất đi. “Vì tôi còn phải vượt sa mạc và vùng có chiến sự để về nhà”. 
Phần thứ tư ông đưa cho tu sĩ.
“Phần này để phòng khi cậu nhỏ đây cần đến”. 
“Nhưng mà cháu sắp tìm thấy kho báu rồi còn gì”, cậu đáp.
“Ta tin rằng cậu sẽ tìm thấy”, nhà luyện kim đan nói.
“Vậy phần cháu thêm làm gì nữa?” 
“Vì cậu đã hai lần mất sạch: một lần bị gã lưu manh bịp, một lần trả cho viên chỉ huy nọ. Ta là một lão già Arập mê tín, tin vào châm ngôn nước mình. Châm ngôn đó như thế này: “Những gì đã xảy đến với anh một lần có thể không bao giờ xảy ra nữa; nhưng những gì đã xảy ra hai lần thì nhất định sẽ thêm lần thứ ba”. 
Rồi họ lại lên ngựa.

51 

“Trước khi chia tay ta muốn kể cho cậu nghe một câu chuyện về giấc mơ”, nhà luyện kim đan nói. 
Cậu bèn cho ngựa chạy sát lại gần. 
“Ở La Mã cổ đại, vào thời hoàng đế Tiberius, có một ông già kia có hai người con trai. Một người con đi lính và phải đi đến những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là thi sĩ và cả La Mã yêu thích những bài thơ tuyệt vời của anh ta. Một đêm kia ông bố nằm mộng thấy thiên thần hiện đến bảo rằng những câu nói của một trong hai người con ông được cả thế giới biết và được truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Người cha thức giấc, thầm cảm tạ Thượng Đế và khóc vì sung sướng bởi cuộc đời quá hào phóng đã cho ông biết những điều mà mọi người cha đều tự hào. 
Không lâu sau đó ông chết vì muốn cứu một đứa trẻ khỏi bị xe ngựa cán. Vì ông sống ngay thẳng, đàng hoàng nên được lên ngay thiên đường. Ở đây ông gặp thiên thần báo mộng cho ông. 
“Ông là một người tốt”, thiên thần nói. “Ông sống thương yêu người, ông chết vì làm việc phải. Do đó ta sẽ thỏa mãn bất cứ điều gì ông ước muốn”. 
“Cuộc đời cũng đã rất ưu đãi tôi”, ông già đáp. “Ngày nọ, ngài đến với tôi trong giấc mơ thì tôi thấy mọi công lao của mình đã được đền bù vì thơ của con tôi sẽ còn được truyền tụng hàng trăm năm sau nữa. Cá nhân tôi không mong muốn gì cả, nhưng người cha nào chẳng tự hào về đứa con mình đã nuôi dạy. Thành ra tôi muốn rằng, trong một tương lai xa, được nghe những câu nói của con tôi”. Thiên thần bèn vuốt vai ông và hai người bước vào tương lai xa. Cả nghìn người đứng quanh họ ở một quãng trường rộng lớn, nói với nhau bằng một thứ tiếng lạ. Ông già khóc vì sung sướng.
“Tôi biết mà! Thơ của con tôi hay và trở thành bất tử mà”, ông xúc động nói với thiên thần. “Tôi rất muốn biết người ta đọc bài thơ nào của nó ở chốn này”. 
Thiên thần âu yếm nắm tay ông già rồi hai người cùng ngồi xuống một trong những ghế dài trên quãng trường. 
“Thơ của con trai ông rất được yêu chuộng ở La Mã xưa”, thiên thần đáp. “Nhưng sau triều đại của Tiberius thì thơ của con ông cũng bị rơi vào lãng quên. Những lời mà người ta đang nói đây là của anh con trai đi lính cơ”. 
Ông già sửng sốt nhìn thiên thần. 
“Anh con trai đó phục vụ ở một nơi xa và lên đến chức tư lệnh. Anh ta cũng là một người tốt và chính trực. Một ngày nọ người hầu của anh ốm nằm chờ chết. Người con ông nghe nói có một tu sĩ Do Thái chữa được bệnh tật nên đi hết ngày này sang ngày khác để tìm tu sĩ đó. Trên đường đi anh được biết người mình tìm đó là con của Thượng Đế. Anh gặp những người đã được tu sĩ nọ chữa lành bệnh và họ dạy anh những điều tu sĩ kia đã truyền dạy. Rồi, tuy là một chiến binh La Mã, anh đã cải đạo. Không lâu sau đó anh gặp nhà tu sĩ. Anh kể ông nghe về bệnh tình của người hầu. Nhà tu sĩ tỏ ý sẵn sàng đi đến nhà anh. Nhưng con trai ông là một người mộ đạo nên khi nhìn vào mặt nhà tu sĩ anh biết chính đó là con Thượng Đế. Và đây là những lời con trai ông lúc ấy đã nói với tu sĩ và sẽ đời đời được truyền tụng: 
“Lạy Chúa, con không xứng đáng để được đón Người vào nhà. Xin Chúa hãy phán truyền cho một tiếng thì kẻ đầy tớ của con sẽ khỏi bệnh ngay”. [Tân ước, Lukas 7:2-6]
“Bất kể giàu hay nghèo, sang hay hèn, ai cũng đều có một vai trò chính trong lịch sử thế giới. Có điều phần nhiều người ta không biết đó thôi”, nhà luyện kim đan nói rồi thúc ngựa đi. 
Cậu mỉm cười. Làm sao cậu ngờ nổi rằng cuộc đời một kẻ chăn cừu lại có thể được xem là quan trọng nhường ấy. 
“Vĩnh biệt!” nhà luyện kim đan nói.
“Vĩnh biệt!” Cậu đáp.

52

Cậu đi suốt hai tiếng rưỡi trên sa mạc, cố lắng nghe trái tim mình, vì nó sẽ cho cậu biết chính xác kho tàng chôn giấu chỗ nào.
“Kho tàng của cậu ở đâu thì trái tim cậu cũng ở đó”, nhà luyện kim đan đã bảo cậu thế. 
Nhưng tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể về một gã chăn cừu đã rời bỏ đàn cừu của mình để theo một giấc mộng mà gã đã mơ thấy hai lần. Nó nói về vận mệnh và về những người cũng đã từng lên đường đi tìm những vùng đất xa xôi và đàn bà đẹp, đương đầu với những người đương thời cùng những thế giới quan và định kiến của họ. Suốt dọc đường nó kể về những chuyến viễn du, những khám phá lớn, những sách vở và những biến chuyển lớn lao. 
Chỉ vào lúc cậu định leo lên một đồi cát, đúng ngay giây phút đó, không hơn không kém một giây, tim cậu mới thì thào: 
“Hãy ghi nhớ nơi mà cậu sẽ khóc. Tôi cũng sẽ có mặt ở đó và đó cũng là nơi chôn giấu kho báu của cậu đấy”. 
Cậu từ từ leo lên đồi cát. Trăng lại tròn vành vạnh giữa bầu trời đầy sao. Cậu đã rời ốc đảo được đúng một tháng. Đồi cát chỗ sáng chỗ tối dưới ánh trăng trông như mặt biển gợn sóng làm cậu nhớ lại cái lần mình buông cương để ngựa đi tìm dấu hiệu mà nhà luyện kim đan đòi hỏi. Ánh trăng soi trên sa mạc im ắng và soi cả những chuyến viễn du của những người đi tìm kho báu. Lát sau, khi cậu leo lên được đỉnh đồi cát thì tim cậu rộn lên mừng rỡ. Kim Tự Tháp Ai Cập nằm kia, đồ sộ và hùng vĩ trên mặt sa mạc loáng ánh trăng tròn. 
Cậu quì xuống và khóc vì ngợp trong hạnh phúc. Cậu tạ ơn Thượng Đế đã khiến cậu tin vào vận mệnh mình cũng như đã khiến cậu gặp được vị vua già, chủ cửa hàng pha lê, anh chàng người Anh và nhà luyện kim đan. Nhất là đã khiến cậu gặp được cô gái sa mạc và cô đã cho cậu biết rằng tình yêu không bao giờ cản trở người trai theo đuổi vận mệnh mình. 
Các Kim Tự Tháp hùng vĩ có từ hàng nghìn năm trước như nhìn xuống cậu. Nếu muốn cậu có thể quay về ốc đảo ngay bây giờ, lấy Fatima và sống cuộc đời của người chăn cừu bình thường. Ngay cả nhà luyện kim đan cũng sống trong sa mạc, dù ông biết thứ ngôn ngữ vũ trụ và biến được chì thành vàng. Cậu chẳng cần phải chứng tỏ với một ai kiến thức và tài sản của mình. Trên bước đường thực hiện vận mệnh mình cậu đã học được mọi điều cần thiết và đã được sống như cậu hằng mơ tưởng. 
Bây giờ thì cậu đã tới được nơi chôn giấu kho báu rồi. Nhưng một việc chỉ được coi là hoàn tất khi nào đạt mục tiêu. Cậu đã khóc trên đồi cát này. Nhìn xuống mặt cát cậu thấy một con bọ hung đang bới chỗ nước mắt cậu vừa rơi xuống. Trong những ngày ở sa mạc cậu học được rằng ở Ai Cập bọ hung là dấu hiệu của Thượng Đế. Thế là thêm một điềm báo nữa! Cậu bắt đầu đào, vừa đào vừa nhớ tới điều người bán hàng pha lê từng nói: ai cũng có thể xây được Kim Tự Tháp trong vườn của mình. Bây giờ thì cậu thấy có bỏ cả đời để chồng đá lên nhau cũng chẳng bao giờ thành nổi một Kim Tự Tháp được. 

Cậu đào suốt đêm chỉ một chỗ đó mà chẳng tìm thấy gì. Kim Tự Tháp hàng nghìn năm kia lặng lẽ nhìn xuống cậu. Nhưng cậu không bỏ cuộc; cậu tiếp tục vừa đào vừa phải cản ngọn gió cứ lùa cát vào lại lỗ trũng. Hai tay cậu mỏi nhừ, tấy lên nhưng cậu tin vào trái tim mình. Nó đã bảo cậu phải đào chỗ những giọt nước mắt rơi xuống. 
Rồi cậu chợt nghe có tiếng chân trong lúc đang moi đá. Có mấy bóng người đang lại gần. Họ quay lưng về phía ánh trăng nên cậu không thấy được mặt mũi lẫn mắt họ. 
“Mày làm trò gì đấy?” một cái bóng hỏi. 
Cậu không đáp và thấy sợ, sợ mất kho báu.
“Bọn ta chạy loạn vì các bộ lạc đánh nhau, nên rất cần tiền”, một bóng khác nói. “Mày giấu gì ở đấy?” 
“Tôi chẳng giấu gì cả”, cậu đáp. 
Nhưng một cái bóng khác túm lấy cậu, kéo ra khỏi hố. Một tên khác lục túi cậu, thấy thỏi vàng. 
“Nó có vàng trong người”, gã đó kêu. 
Ánh trăng rọi vào mặt gã và cậu nhìn thấy thần Chết trong đôi mắt gã.
“Chắc là nó còn giấu trong cát nhiều vàng nữa”, một gã khác nói. 
Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng rút cục vẫn chẳng thấy gì hết. Thế là chúng xúm lại tẩn cậu, mãi cho đến khi mặt trời ló dạng. Quần áo cậu rách bươm và cậu cảm thấy mình gần kề cái chết. 
“Đằng nào mình cũng sẽ chết thì tiền còn quí báu gì nữa?” cậu nghĩ và nhớ lại nhà luyện kim đan đã từng nói: “Ít khi tiền cứu được người ta khỏi chết”.
Thế là cậu thú thực: 
“Tôi tìm kho báu”, rồi với đôi môi dập nát và sưng vù cậu kể cho bọn kia rằng đã hai lần mơ thấy một kho tàng giấu gần Kim Tự Tháp này. 
Gã có vẻ là đầu sỏ im lặng một lúc rồi bảo đồng bọn: 
“Thả nó ra. Nó hết sạch rồi. Chỗ vàng này chắc là nó lấy cắp được”. 
Cậu úp mặt xuống cát.
“Thôi bọn mình đi”, tay đầu sỏ nói. 
Rồi gã quay sang cậu: 
“Mày không chết được đâu. Mày sẽ còn phải sống để nhớ rằng đừng nên xuẩn ngốc thế. Hai năm trước, ngay chính chỗ này, tao cũng đã nhiều lần mơ rằng tao phải đi Tây Ban Nha, tìm một ngôi nhà thờ làng đã sụp lở mà lũ chăn cừu thường đưa cừu vào đó làm chỗ trú chân. Trong phòng thay áo lễ có mọc một cây dâu, dưới rễ nó chôn giấu một kho vàng. Tao đâu có ngu để chỉ vì một giấc mơ mà vượt sa mạc”.
Rồi chúng bỏ đi. 
Cậu lảo đảo đứng dậy, nhìn về phía Kim Tự Tháp. 
Tháp mỉm cười với cậu, cậu cười lại. Tim cậu tràn ngập niềm vui. Giờ thì cậu tìm thấy kho báu rồi.

Bạt

Cậu tên là Santiago. Cậu đến ngôi nhà nhỏ hoang phế kia khi trời vừa nhá nhem tối. Cây dâu mọc trong cái phòng thay áo lễ trước kia vẫn còn đó. Qua cái mái đã sập một nửa người ta vẫn có thể thấy được sao trời. Cậu nhớ lại cách đây không lâu mình và lũ cừu đã ở đây một đêm rất yên bình - không kể giấc mộng. Bây giờ không có bầy cừu bên cậu nữa; trong tay cậu là một cái xẻng. 
Cậu nhìn lên trời một lúc, rồi lấy từ túi ra một chai vang, nhâm nhi. Cậu nhớ lại cái đêm nhìn trăng trong sa mạc, uống vang với nhà luyện kim đan; nhớ lại những chặng đường đã trải qua và cái phương cách lạ thường Chúa chọn để chỉ cho cậu kho tàng. Nếu không tin vào điều cậu hai lầnmơ thì cậu sẽ không bao giờ gặp bà lão Digan, nhà vua già, gã bịp và những người khác trên con đường dài rong ruổi. 
“Danh sách những người và việc mình đã gặp thì dài lắm. Nhưng đã có dấu hiệu chỉ mình hướng đi thì mình không thể nhầm lẫn được”, cậu tự nhủ. 
Rồi cậu thiếp đi mà không hay. Khi mở mắt thì mặt trời đã lên cao. Cậu bắt đầu đào bới dưới gốc cây dâu.
“Ông đúng là một lão phù thủy”, cậu thầm nghĩ. “Ông biết trước cả rồi. Thậm chí ông đã để lại cả vàng cho cháu để cháu có tiền đi đường, trở lại ngôi nhà thờ này. Người tu sĩ Côptic đã cười khi thấy cháu quay lại tu viện với quần áo rách bươm. Chẳng lẽ ông không thể miễn cho cháu những khốn khổ đó được à?” 
“Không”, cậu nghe gió đáp. “Nếu ta cảnh báo cậu thì cậu sẽ chẳng bao giờ thấy được Kim Tự Tháp. Mà chúng đẹp biết bao, phải thế không?” 
Đó là tiếng nhà luyện kim đan. Cậu cười, đào tiếp. Sau nữa giờ lưỡi xẻng chạm phải vật gì cứng. Một giờ sau cậu đứng trước một cái hòm đầy tiền vàng cổ Tây Ban Nha. Có cả đá quí, mặt nạ vàng đính lông trắng, đỏ và cả những pho tượng cẩn ngọc. Đó là những thứ cướp bóc được trong thời kì xâm lược mà đất nước này đã quên từ lâu và những kẻ đi xâm lược cũng không kể lại cho con cháu họ. 
Cậu moi bị lấy ra hai viên Urim và Thummim mà cậu chỉ dùng có mỗi một lần, vào một buổi sáng nọ ở bãi chợ. Đời cậu và con đường cậu trải qua đều rải đầy dấu hiệu. Cậu bỏ hai viên đá vào hòm. Chúng cũng là một phần của kho tàng vì chúng gợi cậu nhớ đến nhà vua già mà cậu hẳn sẽ không bao giờ gặp lại nữa. 
“Đúng là cuộc đời rất hào phóng với người nào chịu theo đuổi vận mệnh mình”, cậu nghĩ. 
Rồi cậu nhớ rằng phải đến Tarifa để trả bà lão Digan một phần mười kho báu. “Sao họ tinh ranh thế nhỉ? Có lẽ vì họ đi nhiều”, cậu nghĩ. 
Gió lại thổi, gió Levante từ châu Phi. Lần này gió không mang lại mùi sa mạc hay mối đe dọa xâm lược của người Mauren, mà mang đến một mùi thơm cậu rất quen, và một nụ hôn nhẹ nhàng chạm trên môi cậu. 
Cậu mỉm cười. Lần đầu tiên cô ấy hôn mình. 
“Fatima, anh đến với em đây”, cậu nói.
                               
                                                      Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét