Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016

Nhà Giả Kim - Paulo Coelho (Chương 31 - Chương 40)

Nhà Giả Kim

Tác giả: Paulo Coelho
Dịch giả: Lê Chu Cầu
NXB Lao Động - 2002

31

Trong thời gian này đoàn đi cả ngày lẫn đêm. Những người Beduin ăn mặc kín từ đầu đến chân thường xuyên xuất hiện đưa tin tức mới, và người phu lạc đà quen cậu cho biết các bộ lạc đã bắt đầu đánh nhau rồi. May mắn lắm đoàn mới có thể an toàn đến được ốc đảo.
Lũ vật kiệt sức còn người càng lặng lẽ hơn. Đêm khuya thanh vắng là đáng sợ nhất vì chỉ một tiếng kêu của lạc đà - trước đây vốn là chuyện bình thường - cũng khiến tất cả hoảng sợ, bởi đó có thể là dấu hiệu tập kích.
Người phu nọ có vẻ như chẳng bận tâm gì lắm trước sự đe dọa của chiến tranh.
“Tôi vẫn sống như từ trước tới giờ”, ông ta nói với cậu trong lúc thưởng thức một đĩa chà là vào một đêm không đốt lửa và không trăng. “Nghĩa là khi ăn tôi không làm gì khác hơn là ăn. Khi chạy tôi không làm gì khác ngoài chạy. Rồi nếu có phải đánh nhau thì cái ngày tôi chết cũng đẹp như mọi ngày khác. Tôi không sống trong quá khứ hay tương lai. Tôi chỉ có hiện tại và chỉ quan tâm tới hiện tại. Nếu ta lúc nào cũng ở trong hiện tại được thì ta là người hạnh phúc. Như thế ta sẽ thấy rằng sa mạc này vẫn đang sống, rằng bầu trời vẫn đầy sao và người ta đánh nhau vì đó là đặc trưng của con người. Như thế cuộc đời sẽ thành một ngày hội lớn, một buổi lễ lớn vì đời bao giờ cũng chỉ là khoảng khắc ta hiện đang sống”. 
Hai đêm sau, khi họ dọn chỗ ngủ thì cậu nhìn lên ngôi sao đã dẫn đường họ. Cậu ngạc nhiên thấy chân trời có vẻ thấp hơn trước vì trên bầu trời có tới hàng trăm vì sao.
“Phía đó là ốc đảo đấy”, người phu nói.
“Thế sao mình không đi ngay lại đó?” 
“Vì mình cần phải ngủ”.

32 

Cậu mở mắt khi mặt trời ló dạng ở chân trời. Đêm trước nơi đó còn lấp lánh ánh sao, giờ đây là một hàng cây chà là dài ngút mắt .
“Chúng ta đến nơi rồi”, chàng người Anh nói và thấy nhẹ cả người. Anh ta cũng mới vừa thức giấc. 
Cậu không nói gì. Cậu đã học được sự nín lặng của sa mạc và hài lòng với việc ngắm hàng chà là nơi chân trời kia. Cậu còn phải đi xa nữa mới tới được Kim Tự Tháp và một ngày nào đó buổi sáng hôm nay sẽ chỉ còn là kỉ niệm. Nhưng lúc này đây nó là khoảnh khắc của hiện tại, là ngày hội mà người phu lạc đà đã nói. Cậu thưởng thức nó, nhớ lại những bài học của quá khứ và những ước mơ cho tương lai. Một ngày kia cả nghìn cây chà là này sẽ chỉ là kỉ niệm, nhưng giờ đây, với cậu, chúng là bóng mát, là nước và nơi tránh chiến tranh. Hôm qua, tiếng kêu của con lạc đà có thể gây nguy hiểm, thì giờ đây rừng chà là có thể báo hiệu sự kì diệu. 
“Thế giới nói bằng nhiều thứ ngôn ngữ”, cậu nghĩ.

33 

“Đoàn lữ hành tới cũng hối hả như thời gian trôi”, nhà luyện kim đan thầm nghĩ khi nhìn cả trăm người và thú vật tới được ốc đảo. Dân chúng lớn tiếng hò reo chạy về phía đoàn người mới tới. Bụi bay mù trời. Lũ trẻ reo hò, nhảy như choi choi khi thấy đoàn người lạ. Nhà luyện kim đan thấy tù trưởng ốc đảo lại chào trưởng đoàn lữ hành và hai người trò chuyện hồi lâu. 
Nhưng nhà luyện kim đan không quan tâm mấy đến những điều ấy. Ông đã từng thấy nhiều người đến rồi đi, trong khi ốc đảo và sa mạc vẫn là ốc đảo và sa mạc. Ông đã thấy vua chúa và kẻ ăn xin đi qua biển cát này, cái biển cát thường xuyên thay hình đổi dạng vì gió thổi nhưng vẫn mãi mãi là cái biển cát mà ông đã biết từ khi còn nhỏ. Tuy vậy, tự đáy lòng mình, ông không thể nào không cảm thấy vui trước hạnh phúc của mỗi người lũ khách, sau bao ngày chỉ có cát vàng với trờ xanh nay đuợc thấy chà là xanh tươi hiện ra trước mắt. 
“Có thể Thượng đế tạo ra sa mạc chỉ để cho con người biết quí trọng cây chà là”, ông nghĩ. 
Rồi ông quyết định tập trung vào những chuyện cụ thể hơn. Ông biết trong đoàn này có một người mà ông cần truyền lại một phần bí mật của ông. Đã có điềm báo cho ông biết trước. Ông chưa biết người ấy nhưng đôi mắt già dặn của ông sẽ nhận ra ngay một khi ông nhìn thấy tận mặt. Ông mong rằng người này cũng sẽ ham học hỏi như người học trò trước của ông.
“Ta không biết tại sao cứ phải mật truyền những điều này”, ông ngẫm nghĩ, “khi mà chúng chẳng bí mật gì lắm, vì chính Thượng đế đã phơi bày mọi bí mật của Người một cách hào phóng cho mọi tạo vật”. 
Ông chỉ có một lí giải duy nhất: những điều này cân phải truyền miệng vì chúng hình thành từ cuộc sống trong sạch, tích cực và lối sống như thế khó diễn đạt qua hình ảnh hoặc chữ viết. Con người vốn quá dễ bị lôi cuốn bình hình ảnh và sách vở mà sao nhãng ngôn ngữ của thế giới.

34 

Đoàn người mới tới được đưa ngay đến ra mắt tù trưởng của El Fayum. Cậu chăn cừu không dám tin ở mắt mình: ốc đảo không phải là một cái giếng với dăm ba cây chà là bao quanh - như cậu đã đọc trước kia trong một quyển sách sử - mà lớn hơn nhiều so với không ít làng ở Tây Ban Nha. Ốc đảo có ba trăm giếng nước và rất nhiều lều đủ màu sặc sỡ xen giữa năm vạn cây chà là. 
“Cứ như trong truyện Nghìn lẻ một đêm”, chàng người Anh nhận xét. Anh ta nôn nóng muốn đi tìm nhà luyện kim đan ngay. 
Chẳng mấy chốc họ bị một đám trẻ bao quanh; chúng tò mò nhìn đoàn người lạ và lũ vật. Còn cánh đàn ông hỏi họ có thấy đánh nhau gì chưa, trong khi các bà các cô tranh nhau mua vải vóc và đá quí do khách thương thồ đến. Sự yên ắng của sa mạc giờ đã như thể xa vời lắm, vì những người lữ hành nói không ngừng; họ cười, họ hò hét khác nào mới được từ thế giới bên kia trở về với thế giới loài người. Họ sung sướng và hết hẳn lo âu. 
Ở Sa mạc thì họ phải hết sức cảnh giác, chứ bây giờ - người phu lạc đà giải thích cho cậu biết - ốc đảo luôn luôn được coi là vùng đất trung lập, vì đa số dân ốc đảo là phụ nữ và trẻ em. Hai bên chiến tuyến đều có ốc đảo nên các bộ lạc chỉ đánh nhau ngoài sa mạc, dùng ốc đảo làm nơi tạm lánh. 
Trưởng đoàn khá vất vả mới tụ tập mọi người trong đoàn lại được để phổ biến chỉ dẫn. Đoàn sẽ ở lại ốc đảo cho đến khi cuộc xung đột giữa các bộ lạc chấm dứt. Là khách, họ phải ở chung lều với người ốc đảo và sẽ được nhường chỗ tốt nhất. Lòng hiếu khách đòi hỏi phải như thế. Rồi ông yêu cầu mọi người, kể cả đội gác của ông, trao vũ khí cho những người được tù trưởng chỉ định.
“Đây là luật lệ khi có xung đột”, ông giải thích. “Ốc đảo không được chứa chấp đội quân nào, dù chỉ là một chiến sĩ lẻ loi”. 
Cậu ngạc nhiên khi chàng người Anh móc túi lấy ra một khẩu súng lục mạ kền, trao cho những người đi gom vũ khí. 
“Anh cần súng lục để làm gì?” cậu hỏi.
“Có thế tôi mới dám đi chung với người lạ”, anh ta đáp và thấy sung sướng vì đã tới được đích mình tìm kiếm. 
Còn cậu lại nghĩ về kho tàng. Giấc mơ của cậu càng sắp thành sự thật bao nhiêu thì mọi sự lại rối rắm bấy nhiêu. Hình như cái nguyên lí mà ông vua già gọi là “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, không còn giá trị nữa. Trên đường đến với giấc mơ, lòng can đảm và sự kiên trì của cậu đã thường xuyên bị thử thách. Thành ra cậu không thể khinh suất hay sốt ruột được. Nếu cứ xông bừa tới trước thì cậu sẽ không nhìn thấy được dấu hiệu Chúa báo dọc đuờng. 
“Điềm Chúa báo dọc đường”, cậu nghĩ rồi sửng sốt trước ý nghĩ của mình. Cho tới nay cậu vẫn cho điềm là cái gì đó rất tự nhiên, giống như ăn, ngủ, theo đuổi chút tình yêu hay tìm công ăn việc làm. Cậu chưa hề nghĩ rằng đó có thể là thứ ngôn ngữ Chúa dùng để bảo cậu phải làm gì.
“Đừng nôn nóng”, cậu lại tự nhắc mình. “Hãy làm như người phu kia nói: lúc cần ăn thì ăn, lúc phải đi thì đi”.

Ngày đầu tiên ai cũng ngủ nhiều vì quá mệt, kể cả chàng người Anh. Cậu ngủ trong một lều khác, với năm anh chàng trai trạc tuổi cậu. Họ là những thanh niên sa mạc nên thích nghe chuyện các thành phố lớn. 
Cậu kể về đời chăn cừu của mình và vừa định thuật lại kinh nghiệm sống trong cửa hàng pha lê thì chàng người Anh bước vào lều. 
“Tôi tìm cậu khắp nơi”, anh ta nói rồi kéo cậu ra ngoài. “Cậu phải giúp tôi tìm cho ra nhà luyện kim đan ở đâu”.
Mới đầu hai người muốn tự đi tìm lấy. Một nhà luyện kim đan nhất định phải sống khác với những người dân ốc đảo, và trong lều của ông lò luyện hẳn không lúc nào tắt. Họ chạy quanh tìm để rồi thấy rằng ốc đảo lớn hơn họ tưởng nhiều. Có đến cả hàng trăm lều. 
“Thế là mình mất gần nguyên ngày rồi”, chàng người Anh than thở rồi cùng với cậu ngồi nghỉ cạnh một cái giếng. 
“Có lẽ mình nên hỏi thì hơn”, cậu nói. 
Anh kia còn ngần ngừ vì không muốn tiết lộ chuyện có nhà luyện kim đan ở ngay ốc đảo này với người khác. Cuối cùng anh ta cũng đồng ý và nhờ câu hỏi hộ vì cậu sõi tiếng Arập hơn. Cậu bèn lại gần một người đàn bà đang đi lại giếng để lấy nước vào cái túi da dê. 
“Chào bà. Tôi muốn được biết nhà kuyện kim đan trong ốc đảo này ở đâu”, cậu lựa lời hỏi. 
Bà nọ đáp rằng chưa hề nghe ai nói có nhà luyện kim đan bao giờ. Rồi bà hấp tấp bỏ đi. Song trước đó bà còn lưu ý cậu không bao giờ được trò chuyện với những nguời đàn bà mặc trang phục màu đen vì họ là những người đã có chồng. Cậu phải tôn trọng phon tục tập quán ốc đảo. 
Chàng người Anh rất thất vọng. Chả lẽ chuyến đi xa này của anh công cốc hay sao? Cậu cũng buồn: nói cho cùng thì người bạn đồng hành của cậu cũng đang đi tìm con đuờng mà số phận định cho mình. Và như thế thì, như nhà vua già từng nói, đương nhiên cả vũ trụ sẽ góp sức để người đi tìm con đường ấy đạt được điều mình muốn. Nhà vua thì không thể nào nhầm được. 
“Tôi chưa từng nghe nói về một nhà luyện kim đan bao giờ”, cậu nói, “nếu có thì tôi sẵn lòng giúp anh ngay”.
Mắt anh chàng kia chợt sáng lên.
“Phải rồi! Chắc là ở đây không ai biết nhà luyện kim đan nghĩa là gì! Cậu hãy hỏi thăm về một ông chữa được mọi thứ bệnh”.
Có thêm nhiều người đàn bà trùm áo màu đen ra giếng lấy nước, nhưng cậu không hỏi họ dù chàng người Anh ra sức hối thúc. Mãi sau mới có một người đàn ông đi tới. 
“Ông có biết người nào chữa lành bệnh cho dân làng này không?”.
“Allah chữa lành cho mọi thứ bệnh tật”, ông nọ đáp, rõ ràng giật mình hoảng sợ trước hai người lạ. “Hóa ra mấy người đi tìm thầy phù thủy”. Rồi sau khi đã niệm đôi ba câu kinh Koran ông ta vội vàng bỏ đi.
Một người đàn ông khác tới giếng. Ông này lớn tuổi hơn, chỉ xách một cái chậu nhỏ. 
Cậu cũng hỏi y như trước.
“Mấy người muốn gặp ông ta để làm gì?”, người Arập này hỏi lại. 
“Vì anh bạn tôi đã đi nhiều tháng ròng để được gặp ông ấy”.
“Nếu ông ta sống trong ốc đảo này thì nhất định phải là người rất quyền thế”, người nọ nói sau vài phút ngẫm nghĩ. “Ngay cả các tộc trưởng khi cần cũng không triệu được ông ta đến. Ông ta chỉ đến nếu tự ý muốn thôi. Mấy người hãy chờ cho cuộc xung đột chấm dứt rồi cùng với đoàn lữ hành rời khỏi nơi này. Đừng can thiệp vào cuộc sống ở ốc đảo”, nói rồi ông ta bỏ đi. 
Nhưng chàng người Anh lại mừng rỡ. Thế là họ đã có chút manh mối rồi. Cuối cùng một cô gái không mặc màu đen ra giếng, vác trên vai một bình bằng đất nung. Cô cũng đeo khăn choàng nhưng để hở mặt. cậu lại gần cô để hỏi thăm về nhà luyện kim đan. 

Thời gian như chợt ngừng trôi và tâm linh vũ trụ quyền uy vô hạn như hiện ra trước mặt cậu. Khi nhìn vào đôi mắt đen của cô, nhìn đôi môi chưa biết nên cười hay nên nín lặng kia, cậu hiểu - như mọi người trên trái đất đều có thể hiểu bằng trái tim mình - cái phần quan trọng và thông tuệ nhất của thứ ngôn ngữ vũ trụ này. Cái phần đó gọi là tình yêu, là thứ lực hiện hữu trước cả loài người, thậm chí trước cả sa mạc này và nó sẽ mãi mãi tái hiện với cùng một mãnh lực ở bất cứ nơi nào có hai đôi mắt gặp nhau như hai cắp mắt nọ đang nhìn nhau trước giếng. Đôi môi kia đã chọn nụ cười và đó chính là cái dấu hiệu, cái điềm cậu đã chờ đợi từ lâu, đã tìm ở nơi lũ cừu, trong sách vở, tìm trong pha lê và trong sự yên ắng của sa mạc mà không tự biết. 
Trong nụ cười kia vũ trụ đã hiển hiện ra một cách trong sáng nhất, không cần một diễn dịch nào, như nó không ngừng tiếp tục xoay vần. Cậu chợt hiểu ngay rằng cô gái đứng kia sẽ là người bạn đời của mình và chính cô cũng biết như thế mà không cần phải nói ra. Đó là điều cậu chắc chắn hơn mọi thứ trên thế gian này, dù rằng bố mẹ và ông bà cậu vẫn bảo trước hết phải tỏ tình, mới đến hứa hôn, rồi tìm hiểu cặn kẽ và dành dụm đủ tiền để cưới. Nghĩ như thế thì chẳng bao giờ hiểu được ngôn ngữ vũ trụ vì một khi đã ngụp lặn trong đó thì ai cũng hiểu ra rằng trên thế giới luôn luôn có một người chờ đợi mình, dù là giữa sa mạc hay trong thành phố lớn. và khi hai người gặp nhau và mắt họ nhìn nhau thì cả quá khứ lẫn tương lai đều không quan trọng nữa, chỉ còn có khoảng khắc này và niềm tin tuyệt đối rằng mọi sự dưới bầu trời này đều do một bàn tay ghi sẵn; chính bàn tay này làm nẩy mầm tình yêu và chọn sẵn một kẻ tâm đầu ý hợp cho mỗi người chăm lo làm lụng, nghỉ ngơi và tìm kiếm kho tàng dưới gầm trời này. nếu không như thế thì mơ ước của con người thật là vô nghĩa. 
Maktub”, cậu thầm nghĩ. 

Chàng người Anh đứng lên, lắc tay cậu. 
“Này, cậu hỏi đi chứ!”. 
Cậu lại gần cô gái. Cô lại cười. Cậu cũng cười. 
“Cô tên gì?”, cậu hỏi.
“Em tên là Fatima”, cô đáp và ngượng ngùng nhìn xuống đất. 
“Ở đất nước tôi cũng có một số các bà, các cô mang tên như cô vậy”. 
“Đó là tên con gái Đức Tiên Tri”, Fatima đáp. “Các chiến binh của đất nước em đã đem cái tên này đến nước anh đấy”.
Người con gái nhỏ nhắn nói về các chiến binh với vẻ tự hào. Anh chàng người Anh đứng cạnh cậu đâm ra sốt ruột. Cậu bèn hỏi cô về con người chữa lành mọi thứ bệnh tật. 
“Đó là một người thấu hiểu mọi bí mật của thế giới. Ông ta trò chuyện với các Dschinn - tức là quỉ thần - của sa mạc”, cô cho biết. Cô gái chỉ về hướng Nam, nơi trú ngụ của nhân vật lạ lùng kia. 
Cô lấy nước đầy bình rồi quay đi. Chàng người Anh bỏ đi tìm nhà luyện kim đan ngay tức thì, còn cậu vẫn ngồi lại hồi lâu bên giống và nhận ra rằng trước đây ít lâu chính luồng gió Levante đã đem mùi thơm của cô gái này đến với mình, và cậu đã yêu dù không hề biết về cô, và nhờ tình yêu ấy cậu sẽ có đủ năng lực tìm ra mọi kho tàng của thế giới này.

35 

Hôm sau cậu lại ra giếng chờ cô gái. Cậu ngạc nhiên khi gặp chàng người Anh ở đấy; lần đầu tiên anh ta ngắm nhìn sa mạc. 
“Tôi đã chờ ông ta suốt từ xế trưa cho đến chiều tối”, anh kể. “Mãi khi sao mọc ông ta mới xuất hiện. Tôi trình bày về điều mình đang tìm kiếm. Nghe xong, ông ta hỏi tôi đã từng biến chì thành vàng chưa. Tôi thưa rằng đó chính là điều tôi muốn học ở ông. Ông bảo tôi cứ thử đi. Tất cả những gì ông khuyên tôi là: anh hãy cứ thử đi!” 
Cậu im lặng. Thế là chàng người Anh đã đi xa vạn dặm để rốt cuộc được khuyên điều chính anh ta đã biết. Nhưng rồi cậu chợt nhớ chính mình cũng từng như thế, khi trả cho ông vua già sáu con cừu. 
“Thế thì anh nên thử đi”, cậu nói.
“Tôi cũng đang định thử ngay đây”.
Anh ta đi được một lúc thì Fatima đến lấy nước. 
“Anh có điều quan trọng cần nói với em. Anh muốn được lấy em làm vợ. Anh yêu em”.
Nước trong bình của cô gái sóng sánh.
“Ngày ngày anh sẽ ra đây chờ em. Cuộc xung đột thật là tai hại vì anh đã vượt sa mạc để đi tìm một kho tàng ở Kim Tự Tháp. Nhưng bây giờ lại hóa may vì nhờ nó mà anh được ở gần em”.
“Một ngày kia cuộc xung đột sẽ chấm dứt”, cô gái nói.
Cậu nhìn về phía rừng chà là. Cậu từng đi chăn cừu; ở đây không thiếu chi cừu, và với cậu thì Fatima quan trọng hơn kho tàng. 
“Các chiến binh đi tìm kiếm kho tàng đem về đây”, cô gái nói, như thể đoán được ý cậu. “Và phụ nữ sa mạc chúng em tự hào về các chiến binh của mình”.
Cô gái lấy nước đầy bình rồi ra về. Giờ đây ngày ngày cậu ra giếng đợi Fatima. Cậu kể cô nghe về quãng đời chăn cừu của mình, về ông vua già và về những ngày làm việc trong cửa hàng pha lê. Hai người ngày một thân thiết nhau hơn. Mỗi ngày, ngoài mười lăm phút được ở bên cô, cậu cảm thấy thời gian trôi quá chậm. Sau gần một tháng ở ốc đảo, trưởng đoàn họp cả đoàn lại.
“Chúng ta không biết khi nào mới hết đánh nhau và lại đi tiếp được. Có thể còn đánh nhau lâu, cả năm chưa biết chừng, vì cả hai bên đều không thiếu chiến binh khỏe mạnh và dũng cảm, tinh thần chiến đấu cao. Đây không phải là cuộc đấu tranh giữa tốt và xấu, mà chỉ nhằm tranh giành quyền lực. Như thế, khi đã nổ ra đánh nhau thì thường kéo dài rất lâu, vì Allah không thiên về một bên nào nhất định”.
Sau đó họ giải tán. Xế trưa hôm đó gặp lại Fatima cậu kể cô nghe về buổi họp của đoàn. 
“Hôm chúng mình gặp nhau lần thứ hai”, Fatima nói, “anh đã thổ lộ tình yêu của anh. Rồi anh đã cho em biết nhiều điều rất hay ho, chẳng hạn như ngôn ngữ và tâm linh vũ trụ. Qua đó em dần dà trở thành một phần của anh
Cậu lắng nghe và thấy giọng nói của cô dễ thương hơn tiếng gió rì rào qua rừng chà là. 
“Em đã chờ anh ở cái giếng này nhiều năm dài. Em không còn nhớ quá khứ của mình, quên luôn cả truyền thống và những gì đàn ông chờ đợi trong cách cư xử của phụ nữ vùng sa mạc chúng em. Từ thuở nhỏ em đã mơ sa mạc sẽ đem đến cho em món quà quí nhất đời mình. Món quà đó là anh”.
Cậu muốn nắm tay cô nhưng cô bận giữ quai bình.
“Anh đã kể về giấc mộng của anh, về nhà vua già và về kho báu. Anh cũng đã kể về điềm, về dấu hiệu. Thành ra em không còn thấy lo âu gì nữa, vì chính những điềm ấy, những dấu hiệu ấy đã đưa anh đến đây. Còn em là một phần giấc mộng của anh, một phần của vận mệnh anh - theo cách anh gọi. Vì thế mà em muốn anh tiếp tục đi tìm kho báu của mình. Nếu anh phải đợi đến khi hết đánh nhau thì cũng tốt, nhưng nếu không thể đợi được thì anh cứ đi, để làm tròn sứ mệnh tiền định của mình. Các đồi cát thay đổi theo gió nhưng sa mạc không thay đổi bao giờ. Tình yêu của hai chúng ta cũng sẽ như thế”.
Maktub”, cô nói thêm. “Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có một ngày anh trở về thôi”.
Sau lần gặp gỡ này cậu buồn bã ra về, lòng nhớ đến nhiều người đã từng quen biết. Những người chăn cừu đã có gia đình thường khó thuyết phục được các bà vợ lí do tại sao họ phải nay đây mai đó. Tình yêu đòi hỏi người ta phải ở gần người mình yêu. 
Hôm sau cậu nói với Fatima về điều này. 
“Sa mạc đem đàn ông của chúng em đi nhưng không phải lúc nào cũng đưa họ trở về”, cô nói. “Chúng em đành chấp nhận. Nhưng họ vẫn tiếp tục sống trong những áng mây không đem lại mưa, trong những con vật náu mình giữa các tảng đá và trong làn nước tuôn đầy từ các giếng. Họ trở thành bộ phận của toàn thể, họ nhập vào tâm linh vũ trụ. Cũng có một số trở về được; điều này đem lại niềm vui và thêm hi vọng cho những người đàn bà đang mong mỏi rằng một ngày kia chồng con họ cũng sẽ trở về. Trước đây em ganh tị với những người đàn bà này, nhưng giờ đây em cũng có một người để mà chờ đợi. Em là một cô gái sa mạc và rất tự hào về điều này. Chồng em cần phải đi lại tự do như làn gió làm biến dạng các đồi cát. Và em cũng mong được thấy chồng em nhập vào trong những áng mây, trong những con thú và trong làn nước giếng”. 

Cậu đi tìm chàng người Anh vì cậu muốn kể cho anh ta về Fatima. Cậu ngạc nhiên thấy anh ta đã dựng một cái lò nhỏ cạnh lều. Cái lò luyện trông thật quái dị, phía trên đặt một cái bình trong suốt. Trong lúc đốt lò bằng cành khô mắt anh ta nhìn ta sa mạc; đôi mắt như long lanh hơn những ngày chỉ chúi mũi vào sách. 
“Đây là bước đầu”, anh ta cắt nghĩa. “Tôi phải tách lưu huỳnh ra. Để thành công tôi không được phép sợ sẽ thất bại nữa. Chính nỗi sợ này đã cản trở tôi thử đạt đến “Đại công trình”. Bây giờ tôi mới bắt đầu với một công đoạn mà lẽ ra tôi đã có thể làm từ mười năm trước rồi. Song ít ra tôi cũng mừng vì đã không đợi thêm hai mươi năm nữa”. 
Anh ta cời lửa rồi lại nhìn ra sa mạc. Cậu ngồi một lúc với anh ta cho đến khi sa mạc rực đỏ vì ráng chiều. Rồi cậu tha thiết muốn đi vào sa mạc xem thử sự tĩnh lặng có trả lời những câu hỏi của cậu được không. 
Cậu đi không mục đích nhất định song mắt luôn trông chừng rừng chà là để khỏi lạc. Cậu lắng nghe tiếng gió và cảm nhận sỏi đá dưới chân mình. Thỉnh thoảng cậu lại thấy một vỏ sò và hiểu ra rằng sa mạc này xa xưa từng là biển. Rồi cậu ngồi xuống một tảng đá, nhìn như bị thôi miên vào chân trời trải dài trước mắt. Cậu không hiểu được tại sao yêu mà lại không có quyền đòi hỏi được sỡ hữu; nhưng vì Fatima là một cô gái sa mạc nên chỉ có sa mạc mới giúp cậu hiểu được thôi. 
Cậu ngồi im lặng hồi lâu không nghĩ ngợi gì cho đến khi cảm thấy có gì động đậy phía trên đầu. Cậu nhìn lên, thấy hai con chim bồ cắt đang bay lượn. 
Cậu nhìn đôi chim và những hình mà đường bay của chúng vẽ nên. Những đường ấy có vẻ không theo một trật tự nào, nhưng nhất định chúng phải có ý nghĩa; chỉ có điều cậu không giải thích được nghĩa đó thôi. Thành ra cậu muốn dõi theo đường bay của chim; biết đâu cậu có thể rút ra từ đó một thông điệp. Biết đâu sa mạc có thể giải thích cho cậu về loại tình yêu không cần được sở hữu. 
Chợt cậu thấy mệt mỏi. Trái tim cậu van cậu đừng ngủ gật mà phải hết sức chú tâm. 
“Bây giờ mình thả hồn vào ngôn ngữ vũ trụ và thấy mọi chuyện trên thế giới đều có ý nghĩa, kể cả đường bay của chim”, cậu nghĩ. Cậu thầm cám ơn nỗi may mắn mà tình yêu của một người con gái đã đem đến cho mình. “Khi yêu thì tất cả lại càng có thêm ý nghĩa”. 
Chợt một con chim đâm bổ xuống tấn công con kia. Trong cái động tác vụt qua ấy cậu chợt thấy một ảo ảnh: có một đạo quân vung gươm xông vào ốc đảo. Cái ảo ảnh kia chỉ xuất hiện trong chớp mắt rồi vụt biến, nhưng cậu hết sức lo sợ. Cậu đã được nghe về ảo giác và cũng đã từng thấy đôi lần; đó là những ước mơ mờ ảo biến thành cảnh như thật trên mặt cát nóng bỏng của sa mạc. Nhưng cậu đâu hề ước mơ có một đạo quân tấn công vào ốc đảo. 
Cậu muốn quên đi chuyện này bằng cách tập trung nhìn vào sa mạc lấp loáng ánh hồng và vào những tảng đá. Nhưng thâm tâm cậu vẫn thấy gì đó bất an. 
“Phải luôn chú ý tới điềm báo”, ông vua già bảo thế. Cậu nhớ tới Fatima, nhớ tới ảo giác mới đây và linh cảm rằng nó sắp xảy ra thật. 
Phải cố gắng lắm cậu mới thoát ra khỏi tình trạng như bị mê hoặc kia, đứng lên đi về phía hàng chà là. Một lần nữa cậu lại nhận thấy sự vật có nhiều cách tự diễn đạt. Lần này sa mạc trông có vẻ an toàn, còn ốc đảo như trở nên một nơi bất ổn. 
Người phu lạc đà ngồi dưới một gốc chà là, cũng đang ngắm nhìn mặt trời lặn. Ông ta thấy cậu bước ra từ sau một đụn cát. 
“Một đạo quân đang trên đường tới đây. Tôi vừa có một ảo giác”, cậu nói. 
“Sa mạc đáp ứng ước mơ của con người bằng cách tạo ra ảo giác”, người phu trầm tĩnh đáp. 
Nhưng cậu kể ông ta nghe về đôi chim, rằng cậu đã dõi theo đường bay của chúng khi cậu thả hồn vào tâm linh vũ trụ. Nghe thế người phu không nói gì nữa. Ông thấu hiểu rất rõ điều cậu vừa kể. Ông biết mỗi sự vật trên thế gian này đều có thể kể được nhiều điều về mọi sự vật khác. Khi ông mở một quyển sách hoặc xem chỉ tay cho người, bói bài hay quan sát đường chim bay hoặc bất cứ làm gì khác thì mỗi việc như thế đều có thể liên hệ đến điều ông vừa ứng nghiệm. Thật ra sự vật không nói lên điều gì cả, mà chính do con người chú tâm vào sự vật nên đã phát hiện ra những khả năng thâm nhập vào Tâm linh vũ trụ. 
Trong sa mạc có nhiều người đàn ông sống bằn cách thâm nhập vào Tâm linh vũ trụ. Họ xưng là thầy bói, rất được giới phụ nữ và các cụ già nể vì. Các chiến binh rất ít khi tìm đến họ vì khi biết trước sẽ bỏ mình trong trận đánh thì khó lòng ra trận được. Người chiến binh đam mê chiến trận, giống như kẻ phiêu lưu say mê những chân trời mới lạ; tương lai đã do Allah định sẵn rồi và mọi chuyện xảy ra cũng đều vì ích lợi của con người thôi. Do đó người chiến binh chỉ sống với hiện tại vì hiện tại đầy rẫy bất ngờ buộc họ phải quan tâm đến bao điều: lưỡi gươm của đối phương chém chỗ nào, vị trí của ngựa và phải đỡ nhát chém thế nào để thoát chết. 
Người phu không phải là chiến binh và ông đã từng đi xem vài thầy bói. Có người đoán đúng, có người không. Cho tới cái lần người thầy bói cao tuổi nhất và được vì nể nhất hỏi ông tại sao lại quan tâm đến tương lai như thế. 
“Để bắt tay ngay thực hiện một số việc và phòng ngừa những việc mà tôi không muốn xảy ra”, người phu đáp. 
“Thế thì đó không còn là tương lai của ông nữa”, thầy bói nói. 
“Có thể vì tôi muốn biết về tương lai để chuẩn bị trước, hầu sẵn sàng chờ đón nó”. 
“Nếu là những điều lành thì ông sẽ được ngạc nhiên một cách thú vị”, thầy bói đáp. “Còn nếu là điều dữ thì ông sẽ đau khổ khá lâu trước khi nó xảy ra”. 
“Tôi muốn biết về tương lai vì tôi là con người và mọi người đều sống vì tương lai”, người phu nói với thầy bói. 
Nghe thế thầy bói im lặng. Thầy có thể bói que, rải que trên nền đất rồi giải đoán. Nhưng hôm ấy thầy không bói que. 
“Tôi kiếm sống bằng cách đoán hậu vận”, thầy nói. “Tôi biết thuật bói que và biết phải sử dụng que thế nào để nhập được vào nơi ghi chép mọi sự trên đời này. Ở đó tôi có thể thấy được quá khứ, phát hiện những gì đã bị lãng quên và giải đoán những dấu hiệu của hiện tại. Khi khách tìm đến tôi thì tôi không biết được tương lai họ mà chỉ ước đoán thôi. Vì tương lai thuộc về Thượng Đế và Người chỉ khải thị trong những hoàn cảnh hết sức khác thường. Bằng cách nào mà tôi đoán tương lai? Chính là qua dấu hiệu của hiện tại. Bí ẩn nằm ngay trong hiện tại; nếu anh chú ý quan sát hiện tại thì anh có thể cải thiện được nó. Và khi anh đã làm cho hiện tại được tốt hơn. Vậy đừng nên nghĩ đến tương lai mà hãy sống từng ngày của đời mình theo giới luật của Thượng Đế và luôn tin tưởng rằng Người cưu mang chúng ta là con cái của Người. Mỗi một ngày tự nó đã hàm chứa vĩnh cửu rồi”. 
Người phu muốn biết trong hoàn cảnh hết sức khác thường nào mới được Thượng Đế khải thị tương lai. 
“Khi nào được Người ban cho ơn phước đó. Song rất hạn hữu, vì một lí do thôi: tương lai tuy đã được định sẵn nhưng vẫn còn có thể thay đổi được”. 

Thượng Đế đã khải thị cho cậu chăn cừu một khoảnh khắc của tương lai vì Người muốn dùng cậu làm sứ giả đưa tin. 
“Cậu hãy đến gặp các tộc trưởng”, người phu nói, “để báo về các chiến binh đang tiến lại ốc đảo này”. 
“Họ sẽ cười nhạo tôi mất”. 
“Họ là người của sa mạc nên biết phải xử sự với điềm báo như thế nào”.
“Vậy thì họ đã biết hết cả rồi chứ”. 
“Họ không bận tâm đến chuyện ấy đâu, vì họ cho rằng Allah sẽ gửi đến một sứ giả đưa tin nếu Người có điều gì cần cho họ biết. Điều này thường vẫn xảy ra. Lần này người đưa tin là cậu đấy”. 
Cậu nghĩ đến Fatima và quyết định đi tìm các tộc trưởng ngay tức thì. 

36 

“Tôi đem điềm của sa mạc đến đây”, cậu nói với người đứng canh cửa một cái lều trắng to tướng nằm chính giữa ốc đảo, “nên muốn thưa chuyện với các tộc trưởng”. 
Người gác không trả lời mà đi vào trong lều. Mãi sau hắn mới trở ra với một người Arập trẻ khoác áo hai màu trắng vàng. Cậu kể cho người Arập trẻ điều mình đã thấy. Anh ta yêu cầu cậu chờ rồi lại quay vào trong lều. 
Trời bắt đầu tối. Nhiều khách thương và dân ốc đảo vào ra cái lều ấy. Các đống lửa nối nhau tắt và ốc đảo lại yên ắng như sa mạc. Chỉ chiếc lều trắng to này là còn ánh đèn. Suốt thời gian đứng chờ cậu nghĩ đến Fatima và vẫn chưa hiểu rõ lắm những điều cô nói lúc xế trưa. 
Sau hàng giờ chờ đợi, người canh bảo cậu vào lều. Cậu choáng ngợp trước những gì mắt mình thấy. Làm sao có thể tưởng tượng nổi ngay giữa sa mạc lại có một cái lều tráng lệ đến thế. Nền phủ thảm quí mà đôi chân cậu chưa từng được đặt chân lên, trần treo loại đèn cắm nến bằng đồng thau trạm chổ. Phía trong lều, các tộc trưởng ngồi thành vòng cung trên nệm lụa thêu rất công phu, tay cũng tì trên nệm thêu như thế. Người hầu ra vào, kẻ bưng khay bạc đầy trà và những món thơm ngon, người lo tiếp than cho các ống điếu đừng tắt. Một mùi thơm dễ chịu lan khắp lều. 
Có tất cả tám tộc trưởng, song cậu nhận ra ngay người quan trọng nhất: đó là ông già Arập khoác áo trắng vàng ngồi giữa. Đứng cạnh ông là người Arập trẻ hồi nãy.
“Ai là người lạ đã kể về điềm báo?”, một tộc trưởng nhìn cậu hỏi .
“Chính tôi đây”, cậu đáp rồi thuật lại những gì đã thấy.
“Cớ sao sa mạc lại báo cho một người lạ như cậu biết điều này, chứ không báo cho chúng ta là những kẻ đã sống ở đây từ bao đời rồi?”, một tộc trưởng khác hỏi.
“Vì mắt tôi còn lạ lẫm với sa mạc nên tôi còn nhận ra những điềm mà các đôi mắt quá quen không thấy được nữa”, cậu đáp. 
“Và cũng vì tôi biết tâm linh vũ trụ”, cậu thầm nghĩ nhưng chỉ để bụng vì người Arập hẳn không tin chuyện này. 
“Ốc đảo là vùng trung lập”, tộc trưởng thứ ba nói. “Sẽ không ai dám tấn công nó cả”. 
“Tôi chỉ thuật lại những gì mình thấy. Nếu các ông không muốn tin thì thôi”.
Căn lều lặng như tờ một lúc, rồi các tộc trưởng tranh luận sôi nổi. Họ nói một thứ thổ ngữ Arập mà cậu không hiểu; nhưng khi cậu định ra khỏi lều thì bị người canh giữ lại. Lúc này cậu bắt đầu sợ. Có gì đó không ổn rồi. Cậu ân hận đã nghe lời người phu lạc đà. 
Chợt ông già ngồi giữa hơi hé miệng cười khiến cậu thấy yên tâm. Ông không tham gia cuộc tranh luận của những người kia và đến lúc này cũng chưa nói tiếng nào. Còn cậu, vì lúc này đã quen với thứ Ngôn ngữ Vũ trụ, nhận ra rằng từ ông toát ra một vẻ an bình. Trực giác cho cậu thấy mình đến đây là đúng. 
Cuộc tranh luận chấm dứt, ai nấy chăm chú lắng nghe phản ứng của ông già. Ông nhìn cậu; lúc này vẻ mặt ông lạnh lùng và khó gần.
“Hai nghìn năm trước ở một đất nước xa xôi có một chàng trai bị ném xuống giếng rồi bị bán làm nô lệ, vì hắn tin vào giấc mộng”, ông già nói. “Các khách thương nước ta đã mua rồi đem hắn đến Ai Cập. Mỗi người trong chúng ta đều biết ai tin vào giấc mộng thì cũng có thể giải mộng được”. 
“Không phải lúc nào cũng giải được đâu”, cậu liên tưởng đến bà già Digan.
“Vì Pharaoh mơ thấy bò gầy và bò mập mà hắn lại giải được giấc mơ ấy nên đã cứu dân Ai Cập thoát khỏi nạn đói. Tên hắn là Josef. Hắn cũng ở trên một đất nước lạ, giống như cậu vậy và lúc ấy có lẽ cũng trạc tuổi cậu”. 
Ông ngừng nói, đôi mắt vẫn lạnh lùng. 
“Chúng ta luôn sống theo truyền thống. Thuở đó truyền thống đã cứu dân Ai Cập khỏi nạn đói và khiến họ trở thành dân tộc giàu có nhất thế gian. Truyền thống dạy đàn ông chúng ta cách vượt sa mạc và tổ chức hôn lễ cho con cái như thế nào. Truyền thống cũng dạy rằng ốc đảo là nơi trung lập, vì phe nào cũng có ốc đảo và chúng không được ai che chở cả”. 
Trong khi ông nói thì không ai xen một lời nào. 
“Nhưng truyền thống cũng dạy chúng ta phải tin vào thông điệp của sa mạc. Mọi điều chúng ta biết đều là do học được từ sa mạc cả”. 
Ông ra hiệu và mọi người đứng cả dậy. Buổi họp chấm dứt. Các ống điếu Nargileh được dụi tắt và đám người canh đứng vào vị trí. Cậu dợm đi ra thì ông già nói: 
“Sáng mai chúng ta sẽ phạm vào lời thề rằng trong ốc đảo không ai được mang vũ khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ chờ đón quân địch. Khi mặt trời lặn thì mọi người nộp khí giới lại cho ta. Cứ mười kẻ địch bị giết thì cậu được thưởng một đồng tiền vàng. Tuy nhiên, vũ khí không được phép đem ra từ nơi cất giấu mà không được sử dụng. Chúng đồng bóng chẳng khác sa mạc, nếu đem ra mà không dùng đến thì lần sau có thể chúng sẽ không chịu để ta sử dụng nữa đâu. Do đó, nếu ngày mai không cần tới chúng thì ít nhất cũng phải có một cái dành cho cậu đó”.

37 

Khi cậu ra khỏi lều họp thì ốc đảo chỉ còn ánh trăng soi sáng. cậu đi thêm hai mươi phút nữa mới về tới lều của mình. Những chuyện xảy ra mới đây khiến cậu hoảng sợ. Cậu đã nhập vào tâm linh vũ trụ và có thể sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Ván bài đắt quá. Nhưng từ ngày bán đi bầy cừu để theo đuổi chính vận mệnh mình lúc nào cậu cũng đánh cuộc với giá cao. Người phu lạc đà đã nói sao nhỉ: chết vào ngày mai thì cũng chẳng khác chết vào bất cứ một ngày nào khác. Mỗi ngày là để ta sống hoặc để từ giã cõi đời. Mọi sự tùy vào một chữ thôi: “Maktub”.
Cậu bình thản đi, lòng không ân hận gì. Nếu ngày mai cậu chết thì cũng chính bởi vì Thượng đế không thích thay đổi tương lai. Dù cậu có chết thì cũng là chết sau khi đã vượt eo biển, để làm việc trong cửa hàng pha lê, đã được biết sự yên ắng của sa mạc và đôi mắt Fatima. Đã từ lâu, từ khi rời nhà đi, mỗi một ngày cậu đều đã sống hết mình. Nếu ngày mai có chết thì mắt cậu đã được thấy rất nhiều, hơn hẳn những người chăn cừu khác và cậu rất hãnh diện về điều này. Chợt có tiếng vó ngựa và cậu bị một làn gió cực mạnh hất ngã xuống đất. Quanh cậu bụi tung mù mịt, che khuất cả mặt trăng. Trước mặt cậu một con ngựa khổng lồ cất cao hai vó trước, hí vang khiếp đảm. Khi đã bớt bụi thì hình ảnh cậu nhìn thấy khiến cậu sợ choáng người, chưa bao giờ sợ đến thế: một kỵ sĩ mặt toàn đen ngồi trên mình ngựa, một con chim ưng đậu trên vai trái. Người ấy đội khăn xếp, che kín mặt chỉ hở hai mắt, giống như những “sứ giả của sa mạc” nhưng oai phong hơn nhiều. 
Người kỵ sĩ đầy bí mật kia rút từ yên ngựa một thanh kiếm cong; thép lấp lánh dưới ánh trăng. 
“Kẻ nào đã cả gan giải đoán đường bay của chim bồ cắt?” 
Tiếng người ấy như sấm dậy, vang vọng giữa năm vạn gốc chà là của ốc đảo El Fayum.
“Tôi đấy”, cậu đáp và liên tưởng tới tượng thánh Santiago de Compostela trên mình ngựa phóng qua đầu lũ ngoại đạo. Khác chăng là giờ đây kẻ ngoại đạo kia như tượng thánh trên mình ngựa, còn cậu nằm lăn dưới đất. “Tôi đấy”, cậu đáp rồi cúi đầu để tránh nhát kiếm. “Nhiều mạng người sẽ được Tâm linh vũ trụ cứu thoát; đó là điều mà ông đã không ngờ tới”. 
Nhưng lưỡi kiếm không chém xả xuống cậu mà cánh tay người lạ chỉ hạ xuống từ từ cho đến khi mũi kiếm chạm vào trán cậu. Kiếm sắc làm trán cậu rỉ máu. Kỵ sĩ bất động. Cậu cũng bất động. Cậu không nghĩ đến chạy trốn mà thấy trong lòng rạo rực một niềm vui kì lạ: mình sẽ chết vì đã quyết tâm theo vận mệnh của mình. Và vì Fatima. Thế có nghĩa là các điềm báo không sai. Hiện cậu đối mặt với kẻ thù và chẳng việc gì phải bận tâm về cái chết vì Tâm linh vũ trụ đang chờ đón mình. Cậu sẽ nhanh chóng trở thành một phần của linh hồn ấy. Và ngày mai kẻ thù kia cũng sẽ thành một phần của nó nốt. 
Người lạ vẫn dí kiếm trên trán cậu. 
“Tại sao mi lại giải đoán đường bay của chim?” 
“Tôi chỉ đọc những gì chim muốn báo thôi. Chim muốn cứu ốc đảo còn các người sẽ phải chết. Ốc đảo đông hơn lũ các người”. 
Mũi kiếm vẫn không rời trán cậu. 
“Mi là ai mà táo gan muốn thay đổi số phận đã được Allah quyết định?” 
“Allah tạo dựng các đạo quân cũng như người sinh ra lũ chim kia. Người đã dạy tôi ngôn ngữ của loài chim. Mọi điều đều do một bàn tay viết nên cả”, cậu nói, dùng từ ngữ của người phu lạc đà. 
Người lạ thu kiếm về. Cậu thấy nhẹ cả người nhưng vẫn không có ý bỏ chạy. 
“Đừng có đoán mò”, người lạ nói. “Điều gì đã được bàn tay nọ ghi sẵn rồi thì không cản được đâu”. 
“Tôi chỉ trông thấy một đạo quân chứ không biết được trận đánh kết thúc thế nào”, cậu đáp.
Người lạ có vẻ hài lòng với câu trả lời, song vẫn lăm lăm thanh kiếm trong tay. 
“Một người lạ như mi đến xứ lạ này để làm gì?” 
“Tôi đi theo vận mệnh của mình. Nhưng ông không thể hiểu được đâu”. 
Kỵ sĩ tra kiếm vào vỏ; con chim ưng trên vai ông ta bỗng kêu lên nghe rất lạ. Cậu thấy bớt căng thẳng.
“Ta muốn thử lòng can đảm của cậu đó thôi”, người lạ nói. “Vì can đảm là điều thiết yếu để hiểu được Ngôn ngữ vũ trụ”. 
Cậu ngạc nhiên. Người lạ này nói về những điều mà rất ít người biết. 
“Không được phép sao nhãng, dù đã tiến rất xa”, ông ta nói tiếp. “Phải yêu quí sa mạc, nhưng không bao giờ được tin nó tuyệt đối, vì sa mạc luôn thử thách con người: nó sẽ giết những kẻ nào lơ là, không cân nhắc từng bước đi một”. 
Những điều ông ta nói khiến cậu liên tưởng đến vị vua già. 
“Nếu đạo quân ấy đến đây thật và khi mặt trời lặn mà đầu cậu vẫn chưa rụng thì hãy tìm ta”, người lạ nói. 
Bàn tay mới đây vung kiếm giờ vung một cái roi. Con ngựa bạch lại tung hai vó trước làm cát bụi bay mù. 
“Ông ở chỗ nào?” cậu gọi với theo khi kị sĩ phóng ngựa đi. Bàn tay cầm roi chỉ về hướng Nam. 
Thế là cậu đã gặp nhà luyện kim đan.

38

Sáng hôm sau có hai nghìn người trang bị vũ khí tản ra trong rừng chà là ở El-Fayum. Trước khi mặt trời đứng bóng, 500 địch quân xuất hiện ở chân trời. Chúng tiến vào ốc đảo từ hướng Bắc, vũ khí giấu dưới áo khoác trắng, trông chẳng khác gì một đoàn thám hiểm vô hại. Khi đã tới gần ngôi lều trắng lớn ở trung tâm El-Fayum chúng mới tấn công bằng gươm cong và súng. Nhưng lều trống trơ.
Người dân ốc đảo bao vây đạo quân này và chỉ trong nửa giờ 499 cái xác nằm la liệt. Trẻ con đã được tập trung đưa về cuối rừng chà là nên chúng không trông thấy gì hết. Các bà các cô ở trong lều cầu nguyện cho chồng con mình nên cũng chẳng trông thấy gì luôn. Nếu không có những cái xác nằm la liệt kia thì thật chẳng khác một ngày bình thường nào.
Chỉ có một tên chưa bị giết, đó là viên chỉ huy đạo binh kia. Xế trưa, hắn bị điệu ra trước các tộc trưởng. Họ hỏi tại sao hắn lại vi phạm truyền thống. Viên chỉ huy trả lời rằng người của hắn bị đói khát và kiệt sức sau nhiều ngày giao tranh, nên chúng muốn chiếm ốc đảo để tiếp tục cuộc chiến.
Vị tộc trưởng nói rằng các chiến binh bị giết là điều đáng tiếc nhưng không ai được phép vi phạm truyền thống. Trong sa mạc chỉ có các đồi cát là được phép thay đổi mỗi khi trời trở gió.
Rồi viên chỉ huy bị kết án tử hình và phải chịu một cái chết nhục nhã; hắn không được hưởng ân huệ xử bắn hay chém đầu mà bị treo cổ dưới một gốc cây chà là đã chết. Xác hắn đung đưa trong gió.
Tù trưởng ốc đảo cho gọi cậu đến và ban thưởng năm mươi đồng tiền vàng. Ông nhắc lại câu chuyện về Josef ở Ai Cập và yêu cầu cậu ở lại ốc đảo làm cố vấn.

39 

Khi mặt trời lặn và sao trời vừa ló dạng - không tỏ vì hôm ấy trăng tròn - cậu đi về hướng Nam. Ở đó chỉ một cái lều duy nhất và những người Arập đi ngang đều bảo cậu rằng chỗ này chỉ toàn là Dschinn - quỉ thần - thôi. Nhưng cậu vẫn ngồi đợi trên một tảng đá. 
Mãi khi mặt trăng đã lên cao nhà luyện kim đan mới xuất hiện. Ông đeo lủng lẳng trên vai hai con chim bồ cắt đã chết. 
“Cháu ở đây này”, cậu lên tiếng. 
“Cậu không nên ở lại ốc đảo này”, nhà luyện kim đan nói. “Hay là vận mệnh cậu đã xui khiến cậu tới đây?” 
“Vì có đánh nhau giữa các bộ tộc, thành ra cháu không thể đi tiếp qua sa mạc đuợc”. 
Nhà luyện kim đan xuống ngựa, ra hiệu cho cậu theo ông vào trong lều. Nó giống mọi lều khác ở ốc đảo, không kể lều của các tộc trưởng sang trọng như trong truyền thần thoại. Cậu đưa mắt tìm lò luyện, bình và nồi nấu nhưng không thấy gì cả. Chỉ có sách xếp chồng lên nhau, một cái bếp và những tấm thảm đầy hình vẽ kì quái. 
“Ngồi đây, ta đi nấu trà”, nhà luyện kim đan nói. “Rồi mình thưởng thức thịt chim bồ cắt”. 
Cậu ngờ ngợ rằng đó là hai con chim mình thấy hôm qua nhưng không nói gì. Nhà luyện kim đan nhóm lửa, rồi chỉ một lúc sau căn lều nức mùi thịt chiên. Dễ chịu hơn mùi thơm của ống điếu nhiều. 
“Vì lí do gì ông muốn gặp cháu?”, cậu hỏi. 
“Vì điềm báo. Gió đã báo cho ta là cậu tới đây, và cậu cần được giúp đỡ”. 
“Không phải cháu đâu mà là anh chàng người Anh cơ. Anh ta đã tìm ông mãi”.
“Hắn còn phải làm cho xong một số điều khác đã, trước khi gặp được ta. Nhưng hắn đã đi đúng hướng rồi đấy. Hắn đã bắt đầu tìm hiểu sa mạc”. 
“Thế còn cháu?” 
“Khi người nào muốn điều gì thì cả vũ trụ sẽ chung sức lại để người ấy đạt được điều mơ ước”, nhà luyện kim đan nói. Ông lập lại những lời của nhà vua già. Cậu hiểu ngay. Lại thêm một nguời đón gặp và dẫn mình đến gần với vận mệnh của mình. 
“Ông sẽ chỉ dạy cháu chứ?” 
“Không. Vì cậu đã biết hết những gì cần biết. Ta sẽ chỉ cho cậu phương hướng của kho tàng thôi”. 
“Nhưng mà đang có đánh nhau”, cậu nhắc lại.
“Ta biết chuyện gì đang xảy ra trên sa mạc”.
“Cháu đã tìm thấy kho báu rồi vì hiện cháu có một con lạc đà, cộng thêm số tiền từ hồi làm ở hiệu pha lê và năm mươi đồng tiền vàng. Cháu sẽ là một người có của ở đất nước mình”. 
“Nhưng chẳng thứ nào ở Kim Tự Tháp cả”.
“Cháu có Fatima. Nàng là kho báu quí nhất của cháu”.
“Nhưng cô bé ấy cũng có ở Kim Tự Tháp đâu”. 
Hai người ăn thịt chim trong lặng lẽ. Nhà luyện kim đan mở một cái chai rồi rót một chất lỏng màu đỏ vào li của cậu. Rượu vang! Và là thứ rượu tuyệt nhất của cậu từng uống. 
“Đạo cấm uống rượu mà!” 
“Những thứ vào miệng con người không độc hại, xấu xa”, nhà luyện kim đan đáp. “Xấu xa độc hại là những gì từ miệng họ tuôn ra
Rượu làm cậu hưng phấn nhưng nhà luyện kim đan khiến cậu băn khoăn. Họ ngồi trước lều ngắm trăng. Trăng sáng làm ánh sao nhạt hẳn.
“Uống nữa đi”, nhà luyện kim đan nói khi thấy cậu vui vẻ hẳn lên. “Rồi hãy ngủ yên tối nay, như một chiến binh trước ngày ra trận. Đừng quên rằng trái tim cậu ở đâu thì kho báu cũng ở đó; cũng như phải tìm cho ra kho tàng thì những gì cậu học được trên đường mới thật có ý nghĩa. Ngày mai cậu hãy bán lạc đà đi, mua một con ngựa. Lạc đà khó lường lắm: chúng đi cả nghìn bước chẳng có dấu hiệu mệt mỏi nào cả, nhưng thình lình khuỵu xuống rồi chết đứ đừ. Ngựa thì mệt từ từ, thành ra người ta luôn luôn lường trước được có thể thúc ép chúng tới mức nào và chừng nào chúng sẽ chết”.

40 

Chiều tối hôm sau cậu đi ngựa đến lều của nhà luyện kim đan. Cậu đợi một lúc thì ông cũng vừa xong để đi; con chim ưng đậu trên vai trái. 
“Hãy chỉ cho ta sự sống trên sa mạc”, nhà luyện kim đan nói, “chỉ những ai tìm được sự sống thì mới có thể tìm thấy kho tàng”. 
Họ cưỡi ngựa qua những đồi cát loáng ánh trăng. 
“Chẳng biết mình có tìm ra sự sống không, vì nói cho đúng thì mình đâu đã rành sa mạc”, cậu nghĩ. 
Cậu muốn quay sang nói với ông như thế nhưng lại ngại. Lát sau họ tới chỗ tảng đá mà hôm trước cậu đã trông thấy hai con chim bồ cắt, nhưng giờ đây chỉ có gió và tĩnh lặng.
“Cháu không biết cách tìm sự sống trên sa mạc”, cậu nói, “tất nhiên cháu biết là có sự sống nhưng không biết tìm ở đâu”. 
“Sự sống lôi cuốn sự sống”, nhà luyện kim đan gợi ý. 
Và thế là cậu hiểu. Cậu thả lỏng ngay cương ngựa, để nó tự đi qua các tảng đá. Nhà luyện kim đan im lặng đi theo. Con ngựa của cậu chạy lòng vòng gần nửa tiếng. Họ không còn nhìn thấy rừng chà là nữa, chỉ còn mặt trăng to tướng trên bầu trời và những tảng đá lấp lánh ánh trăng bạc. Chợt cậu thấy con ngựa đứng lại ở một nơi mình chưa hề tới bao giờ. 
“Chỗ này có sự sống”, cậu nói với nhà luyện kim đan. “Tuy cháu không biết ngôn ngữ của sa mạc nhưng con ngựa của cháu biết ngôn ngữ của sự sống”.
Họ xuống ngựa. Nhà luyện kim đan vẫn không nói gì. Ông vừa từ từ đi tới vừa quan sát các tảng đá. Chợt ông dừng lại, thận trọng cúi xuống. Một cái hốc nằm giữa các tảng đá. Ông thò tay vào, mới đầu chỉ là bàn tay sau cả cánh tay, tới tận vai. Có gì đó động đậy trong hốc và đôi mắt ông - cậu chỉ thấy được đôi mắt do chúng không bị khăn che - nheo lại vì cố gắng và căng thẳng, như thể ông đang giằng co với một vật gì đó trong hốc. Rồi ông rút tay ra thật nhanh khiến cậu giật mình. Ông đứng dậy, tay nắm chặt đuôi một con rắn.
Cậu vội nhảy lùi lại. Con rắn không ngừng ngọ nguậy, thở phì phì làm tan sự yên ắng của sa mạc. Đó là một con rắn hổ, nọc của nó giết chết nguời chỉ trong vài phút. 
“Coi chừng nọc độc”, cậu nói. Có vẻ như ông đã bị rắn cắn nhưng vẫn tỏ ra bình thản. 
“Nhà luyện kim đan đã hai trăm tuổi rồi”, chàng người Anh đã nói thế. Vậy thì ông hẳn phải biết làm gì với rắn trong sa mạc. 
Cậu nhìn ông đi lại chỗ con ngựa, rút thanh kiếm cong hình bán nguyệt vạch một vòng tròn trên sa mạc rồi thả con rắn vào giữa. Con vật tức thì nằm yên. 
“Đừng sợ, nó không ra được đâu. Cậu đã tìm ra sự sống trong sa mạc, đó là cái điềm ta cần”.
“Điều ấy có gì là quan trọng ạ?” 
“Vì Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc”.
Cậu không muốn nghe gì về Kim Tự Tháp cả. Ngay từ tối hôm trước tâm hồn cậu đã nặng trĩu vì buồn. Đi tìm kho báu nghĩa là rời xa Fatima. 
“Ta sẽ đi cùng với cậu qua sa mạc”, nhà luyện kim đan nói.
“Nhưng cháu lại muốn ở lại ốc đảo”, cậu đáp. “Cháu đã gặp Fatima và với cháu thì cô còn quí hơn cả kho báu”. 
“Fatima là một cô gái sa mạc”, nhà luyện kim đan nói. “Cô biết rằng đàn ông phải đi thì mới có thể trở về. Cô đã tìm thấy kho báu của mình: đó chính là cậu. Bây giờ cô chờ đợi rằng cậu cũng sẽ tìm được kho tàng của cậu”. 
“Nếu cháu quyết định ở lại thì sao?” 
“Thì cậu sẽ trở thành cố vấn của ốc đảo. Cậu có đủ vàng để tậu nhiều cừu và lạc đà. Cậu sẽ cưới Fatima và năm đầu hai người sẽ rất hạnh phúc. Cậu sẽ tập yêu thích sa mạc và từng cây một của cả năm vạn cây chà là. Cậu sẽ nhìn thấy chúng lớn lên, qua đó thấy một thế giới không ngừng biến dịch, và cậu sẽ càng ngày càng hiểu rõ ngôn ngữ của điềm, của dấu hiệu hơn vì sa mạc là người thầy giỏi nhất. Năm thứ hai cậu sẽ nhớ lại rằng ở đâu đó có một kho báu. Các điềm sẽ không ngừng nhắc tới và cậu sẽ cố lờ đi. Cậu chỉ đem hiểu biết của mình phục vụ ốc đảo và cư dân ở đấy. Các tộc trưởng sẽ biết ơn cậu. Bầy lạc đà của cậu sẽ đem lại cho cậu sự giàu có và quyền lực. Năm thứ ba các điềm sẽ lại tiếp tục nhắc nhở cậu đem về kho tàng và vận mệnh của cậu. Và đêm đêm cậu sẽ lang thang trong sa mạc, khiến Fatima buồn khổ vì cho rằng chính cô đã cản bước chân cậu. Nhưng cậu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cậu sẽ nhớ lại rằng cô không hề yêu cầu cậu ở lại ốc đảo, vì một người con gái sa mạc như cô biết mình phải chờ đợi chồng trở về. Vì thế mà cậu sẽ không trách cứ cô. Nhưng nhiều đêm cậu sẽ lang thang giữa các hàng cây chà là, nghĩ giá như hồi đó mình đi tiếp và vững tin hơn vào tình yêu của Fatima. Chính sự lo lắng của cậu rằng sẽ không bao giờ trở về được đã giữ chân cậu lại ốc đảo này. Và điềm sẽ báo cho cậu biết rằng kho tàng của cậu từ nay sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn. Năm thứ tư, vì cậu cứ lờ đi, các điềm sẽ không xuất hiện lại với cậu nữa. Các tộc trưởng sẽ nhận thấy thế và sẽ không dùng cậu làm cố vấn nữa. Khi đó thì cậu sẽ là một thương nhân giàu có với nhiều lạc đà và hàng hóa. Nhưng cho đến cuối đời cậu sẽ mãi lang thang trên sa mạc, luôn quẩn quanh các gốc chà là, vì biết rõ rằng mình đã không đi theo vận mệnh và giờ thì mọi sự đã quá trễ. Cậu phải hiểu rằng tình yêu không bao giờ ngăn cản ai theo đuổi vận mệnh của mình cả. Nếu để cho chuyện ấy xảy ra thì đó không phải là tình yêu đúng nghĩa, tình yêu của ngôn ngữ vũ trụ”. 
Nhà luyện kim đan xóa vòng tròn vạch trên cát hồi nãy; thế là con rắn vội vàng chui tọt vào giữa các tảng đá. Cậu nghĩ tới người bán hàng pha lê mơ được hành hương đến Mekka, đến chàng người Anh khổ công tìm một nhà luyện kim đan. Cậu cũng nghĩ tới người con gái với lòng tin mãnh liệt vào sa mạc và quả nhiên một ngày nọ sa mạc đã đem đến cho cô một người trai biết yêu cô. 
Họ lên ngựa; lần này cậu chạy theo sau nhà luyện kim đan. Gió đưa đến những âm thanh của ốc đảo và cậu lắng tìm giọng nói của Fatima. Vì có đánh nhau nên ngày hôm ấy cậu đã không ra giếng. Để rồi tối nay, lúc quan sát con rắn nằm yên trong cái vòng tròn nọ, người kị sĩ lạ lùng mang con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho báu, về người đàn bà sa mạc và về vận mệnh của cậu. 
“Cháu sẽ đi cùng với ông”, cậu nói và liền thấy lòng thanh thản. “Sáng mai mình sẽ lên đường trước khi mặt trời mọc”, ông chỉ nói có thế.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét