Đại Tá Ễnh ương
Người dịch: Nguyễn Đình Chí, Linh Tâm
Anh Quốc có một tòa giáo đường không bao giờ thấy cần phải mở một cuộc vận động lạc quyên trên qui mô toàn quốc.
* * *
Khi ông Đại tá thức giấc, ông thấy mình bị trói vào
một chiếc cọc nơi cuộc phục kích đã xảy ra. Ông có cảm giác tê dại
ở một chân. Điều cuối cùng ông có thể nhớ lại là chiếc lưỡi lê cắm
phập vào bắp đùi mình. Tất tật những điều ông biết giờ đây là
những con kiến bò lên ống chân trong một cuộc hành quân vô tận tiến
về vết thương.
Thà cứ bị bất tỉnh lại tốt hơn, ông nghĩ.
Rồi có ai đó gỡ những nút buộc và ông ngã đập đầu
xuống bùn. Sẽ còn tốt hơn nữa nếu được chết đi, ông kết luận. Ông
Đại tá bằng cách nào đó đã quỳ được bằng đầu gối và bò tới cái
cọc bên cạnh ông. Bị trói vào đó là một anh hạ sĩ chắc đã chết
được mấy tiếng đồng hồ. Kiến đang bò vào miệng anh ta. Ông Đại tá
xé một miếng vài từ chiếc áo của anh lính, giặt nó trong một vũng
nước lớn gần đó và lau rửa vết thương ở chân mình một cách tốt
nhất có thể, rồi băng chặt nó lại.
Đó là ngày mười bẩy tháng hai năm 1943, cái ngày sẽ
khắc sâu trong tâm trí ông Đại tá suốt quãng đời còn lại.
Cùng buổi sáng ngày hôm đó người Nhật nhận được
lệnh: sẽ di chuyển những tù binh quân Đồng minh mới bị bắt vào lúc
rạng đông. Rất nhiều người sẽ chết trong cuộc đi bộ này và số người
bị chết trước khi cuộc di chuyển bắt đầu lại còn nhiều hơn. Đại tá
Richard Moore quyết định không để mình bị tính vào trong số người đó.
Hai mươi chín ngày sau, một trăm mười bảy trong quân
số ban đầu bảy trăm ba mươi hai quân Đồng minh đến được Tonchan. Bất cứ
người đàn ông nào trước đó chưa trải qua Roma thì không thể sẵn sàng
với một trải nghiệm là Tonchan. Trại tù nhân chiến tranh nằm ở phía
bắc, cách thủ đô của Singapore khoảng ba trăm dặm và được canh gác
cẩn mật, nó giấu mình trong khu rừng rậm xích đạo sâu thẳm nhất, tù
nhân không thể có cơ hội trốn thoát. Bất cứ ai tính chuyện đào tẩu
đều không thể hy vọng sống sót trong rừng rậm quá một vài ngày, còn
những người bị phát hiện thì số phận ngắn ngủi hơn rất nhiều.
Khi ông Đại tá tới nơi, Thiếu tá Sakata, sĩ quan chỉ
huy trại tù, thông báo rằng ông là sĩ quan cao cấp và do đó sẽ chịu
trách nhiệm về sức khỏe của toàn bộ số tù binh Đồng minh.
Đại tá Moore nhìn xuống viên sĩ quan Nhật. Sakata
chắc phải thấp hơn ông đến ba mươi phân, nhưng sau cuộc hành quân hai
mươi tám ngày, viên sĩ quan Anh không nặng cân hơn tên Thiếu tá là mấy.
Hành động đầu tiên của Morore sau khi rời văn phòng
của viên sĩ quan chỉ huy là tập hợp tất cả các sĩ quan quân Đồng
minh lại. Ông nhận thấy có một bộ phận khá lớn lẫn lộn cả người
Anh, Australia, New Zealand và Mỹ, thế nhưng có rất ít người khỏe
mạnh. Họ đang chết dần mỗi ngày vì bệnh sốt rét, bệnh kiết lỵ và
đói. Ông bỗng nhiên hiểu ý nghĩa câu thành ngữ “chết như ruồi” là
thế nào.
Từ các sĩ quan dưới quyền mình, ông Đại tá còn
biết được, trong quãng thời gian hai năm trước, tù binh đã được lệnh
xây dựng những căn lều bằng tre cho các sĩ quan Nhật trước khi họ
được phép xây dựng một bệnh viện dành cho chính những người của họ
và chỉ mới gần đây thôi, những túp lều cho chính bản thân họ. Nhiều
tù nhân đã chết trong vòng hai năm qua, không phải vì đau ốm mà vì sự
tàn bạo thường nhật của một số lính Nhật. Thiếu tá Sakata được
biết tới vì đôi cánh tay gày gò của mình, giống như là “đôi đũa”.
Tuy vậy, ông ta không phải là một kẻ hung ác. Nhưng người chỉ huy thứ
hai của ông ta, Trung úy Takasaki (biệt danh người Nhà Đám), và Trung
sĩ Ayut (biệt danh Con Lợn) thì khác hẳn, những người của ông cảnh
báo với ông bằng mọi giá hãy tránh xa họ.
Ông Đại tá chỉ mất có vài ngày để khám phá ra tại
sao lại như thế.
Ông quyết định nhiệm vụ đầu tiên của mình là cố
gắng nâng cao tinh thần đã bị suy sụp của các tù binh Đồng minh. Vì
không có cha tuyên úy nào trong số những sĩ quan bị bắt, ông phải
khởi đầu mỗi ngày bằng cách thực hiện một buổi lễ cầu nguyện
ngắn. Khi buổi lễ kết thúc những người đàn ông sẽ bắt tay vào làm
việc tại đường xe lửa chạy song song với trại tù. Một ngày gian khổ
bao gồm việc đặt đường ray cho quân Nhật ra trận được sớm hơn, để đến
lượt mình, chúng có thể giết và bắt được thêm nhiều lính quân Đồng
minh. Bất cứ tù nhân nào bị nghi ngờ làm đình trệ công việc này đều
bị xem là có tội phá hoại và bị giết chết không cần xét xử. Và
Trung úy Takasaki
coi việc nghỉ năm phút không theo quy định là phá hoại.
Vào bữa ăn trưa, các tù nhân được phép nghỉ hai mươi
phút để chia sẻ một bát cơm - thường là lẫn với giòi - và, nếu họ
may mắn, thì có được một cốc nước. Dù những người đàn ông quay trở
về trại mỗi đêm đã kiệt sức, ông Đại tá vẫn lo lắng tổ chức cho
các đội phải làm vệ sinh sạch sẽ cho các túp lều và nhà xí của
họ.
Chỉ sau có vài tháng, ông Đại tá đã có thể tổ
chức một trận đá bóng giữa đội Anh và đội Mỹ, và tiếp sau thành
công đó, ông thậm chí còn lập nên một liên đoàn trại tù. Nhưng ông
còn vui sướng hơn khi có những anh chàng đến tham dự những bài học
Karate do hạ sĩ Hawke hướng dẫn. Đó là một người Australia cao lớn,
có đai đen, tính tình chu đáo, cẩn thận và anh ta cũng chơi được cả
kèn harmonica. Cái vật dụng nhỏ bé đó vẫn sống sót sau cuộc hành
quân xuyên qua những khu rừng rậm, nhưng mỗi người đều cho rằng nó sẽ
sớm bị phát hiện và bị tịch thu.
Mỗi ngày Moore lại hồi sinh quyết tâm của ông không
cho người Nhật một giây phút nào tin rằng quân Đồng minh sẽ bị đánh
bại, bất chấp thực tế là trong khi ở Tonchan, ông đã sụt mất mười
kilo nữa, và mất đi ít nhất một người dưới quyền chỉ huy của ông
mỗi ngày.
Những việc làm của ông Đại tá làm viên chỉ huy trại
tù ngạc nhiên, bởi vì theo truyền thống của người Nhật, bất cứ
người lính nào để mình bị bắt sống, đều phải bị đối xử như một
kẻ đào ngũ, nhưng điều này lại không phải là cản trở quan trọng đối
với công việc của ông Đại tá.
- Ông giống như là con Ễnh ương Anh quốc, - Thiếu tá
Sakata nói vào một buổi tối khi theo dõi ông Đại tá đẽo thanh xà
ngang cột gôn môn cricket từ cây tre. Đó là một trong rất ít dịp mà
ông Đại tá nở nụ cười.
Những vấn đề thực sự của ông tiếp tục dội xuống
từ Trung úy Takasaki và những tên tay sai, những người coi tù nhân quân
Đồng minh chỉ là những kẻ phản bội. Takasaki luôn luôn đối xử thận
trọng với cá nhân ông Đại tá, nhưng không hề kiềm chế như vậy với
các tù nhân khác, và kết quả là những bữa ăn của lính tù Đồng minh
thường kết thúc bằng việc khẩu phần đạm bạc của họ bị tịch thu, ăn
một báng súng vào bụng, hoặc thậm chí bị trói vào một gốc cây
nhiều ngày liền.
Bất cứ khi nào ông Đại tá chính thức đưa ra lời
phàn nàn với chỉ huy trại, Thiếu tá Sakata đều lắng nghe một cách
cảm thông và thậm chí còn cố gắng gạt bỏ những người phạm tội
chính. Giây phút hạnh phúc nhất của Moore
tại Tonchan là chứng kiến Anh Nhà Đám và Con Lợn lên tàu đi mặt
trận. Không ai cố gắng phá hỏng cuộc ra đi đó. Viên chỉ huy thay thế
Trung sĩ Akida và Hạ sĩ Sushi vào chỗ họ. Các tù nhân thân mật gọi
họ là “Thịt Lợn Xào Chua Ngọt”. Tuy nhiên, Bộ chỉ huy tối cao Nhật
gửi tới một Nhân vật số Hai mới, Trung úy Osawa, người này nhanh
chóng được biết đến như là “Con Quỷ” bởi vì hắn hành xử rất tàn
bạo và so với hắn Anh Nhà Đám và Con Lợn chỉ như là những tay tổ
chức các ngày lễ thánh cho nhà thờ.
Ngày tháng qua đi, sự tôn trọng nhau giữa ông Đại tá
và viên chỉ huy Nhật cứ lớn dần. Sakata thậm chí còn thú thật với
người tù Anh quốc rằng ông ta đã yêu cầu được ra mặt trận để thực
sự được tham chiến.
- Và nếu, - ông Thiếu tá nói thêm, - Bộ chỉ huy tối
cao thỏa mãn yêu cầu của tôi, sẽ chỉ có hai Sĩ quan không chuyên
nghiệp mà tôi mong muốn đi cùng với tôi.
Đại tá Moore biết viên Thiếu tá nghĩ đến Thịt Lợn
Xào Chua Ngọt, và ông thấy sợ cho những người lính của mình, nếu ba
người Nhật duy nhất mà ông có thể làm việc, sẽ ra mặt trận và để
Trung úy Osawa chỉ huy trại tù.
* * *
Đại tá Moore
đoán chắc có một điều cực kỳ hệ trọng đã xảy ra khiến Thiếu tá
Sakata phải đích thân đến căn lều của ông, bởi vì ông ta chưa làm vậy
bao giờ. ông Đại tá đặt bát cơm của mình xuống bàn và bảo ba viên
sĩ quan quân Đồng minh, những người đang chia sẻ bữa ăn sáng cùng ông,
ra chờ bên ngoài.
Viên Thiếu tá đứng nghiêm và giơ tay chào.
Ông Đại tá đứng thẳng người lên hết tầm một mét
tám mươi, đáp lại và nhìn chăm chăm xuống đôi mắt của Sakata.
- Chiến tranh đã kết thúc, - viên sĩ quan Nhật nói.
Trong một thoáng, Moore lo sợ điều tệ hại nhất. - Nước Nhật đã đầu
hàng vô điều kiện. Ngài, thưa ngài, - Sakata nói khẽ khàng, - giờ đây
nắm quyền chỉ huy trại tù.
Ông Đại tá lập tức ra lệnh bắt giữ tất cả các sĩ
quan Nhật trong khu vực của viên chỉ huy trại. Trong khi các mệnh lệnh
của ông đang được thực hiện, bản thân ông trực tiếp đi truy tìm Con
Quỷ. Moore đi
ngang qua sân tập của lính và hướng về phía khu vực của sĩ quan, xác
định căn lều của tên sĩ quan chỉ huy số Hai. Ông bước lên các bậc
thang và mở tung cánh cửa phòng Osawa. Một cảnh tượng đập vào mắt vị
chỉ huy mới khiến ông sẽ không bao giờ quên. Đại tá đã đọc về nghi
lễ hara-kiri nhưng thực sự không biết những động tác cuối cùng là
gì. Trung úy Osawa chắc đã tự chém mình một trăm nhát trước khi
chết. Máu me, mùi hôi thối tanh tưởi và cảnh tượng của thân hình bị
băm vằm sau đó làm cho một binh sĩ Nepal phát ốm. Chỉ có cái đầu
còn lại ở đó để khẳng định những cái còn lại đã từng thuộc về
một con người.
Đại tá ra lệnh chôn cất Osawa bên ngoài cánh cổng
của trại tù.
Sự đầu hàng của Nhật Bản được đánh dấu bằng việc
ký kết trên boong tàu chiến Mỹ US Missouri trong vịnh Tokyo . Tất cả mọi người trong trại tù
binh chiến tranh lắng nghe buổi tường thuật lễ ký kết từ chiếc đài
phát thanh duy nhất của trại tù. Đại tá Moore lúc này yêu cầu một cuộc tổng
diễu hành trên sân trại tù. Lần đầu tiên sau hai năm rưỡi ông mặc lại
bộ quân phục, nó làm ông trông giống như một diễn viên kịch câm lưu
động đã tình cờ hiện diện trong một bữa tiệc sang trọng. Đại tá,
đại diện cho quân Đồng minh, nhận lá cờ đầu hàng của Nhật Bản từ
tay Thiếu tá Sakata, rồi buộc những kẻ thua trận phải kéo những lá
cờ Mỹ và cờ Anh trong tiếng nhạc của cả hai bài hát quốc ca được
Trung sĩ Hawke lần lượt chơi bằng chiếc kèn harmonica.
Sau đó Đại tá tổ chức một buổi lễ Tạ ơn ngắn với
sự có mặt của tất cả những người lính quân Đồng minh và Nhật Bản.
Khi quyền chỉ huy đã được trao, tuần nọ nối tiếp
tuần kia vô nghĩa, Đại tá Moore
chờ đợi lệnh trên cho phép ông trở về nhà. Nhiều người trong số lính
dưới quyền ông đã nhận được lệnh khỏi hành chuyến đi mười ngàn dặm
trở về nước Anh qua Bangkok và Calcuta, thế nhưng không hề có mệnh
lệnh nào như vậy cho Đại tá và ông cứ thế đợi chờ nhận giấy tờ
hồi hương trong vô vọng.
Thế rồi, tháng giêng năm 1946, một sĩ quan trẻ của
Binh đoàn Cận vệ đến trại tù với lệnh gặp ông Đại tá. Anh ta được
đưa đến văn phòng của chỉ huy và giơ tay chào trước khi bắt tay.
Richard Moore nhìn chằm chặp anh Đại úy trẻ, người mà xét theo nước
da khỏe mạnh, rõ ràng là đã đến vùng Viễn Đông khá lâu sau khi người
Nhật đầu hàng. Anh Đại úy đưa cho ông Đại tá một bức thư.
- Rốt cuộc thì cũng được về nhà, - người lớn tuổi
hơn thốt lên hớn hở, nhưng sau khi xé bì thư, ông được biết là sẽ
phải mất nhiều năm nữa ông mới hy vọng được đổi những mảnh ruộng nho
nhỏ của Tonchan lấy những cánh đồng xanh ở quân Lincohnshire.
Bức thư yêu cầu ông Đại tá đi Tokyo và đại diện cho
Anh quốc trong Tòa án chiến tranh sắp tới, diễn ra ở thủ đô nước
Nhật. Đại úy Ross từ Binh đoàn Coldstream Guards sẽ tiếp nhận quyền
chỉ huy của ông ở Tonchan.
Tòa án này bao gồm mười hai sĩ quan dưới sự chủ
tọa của Tướng Matthew Tomkins. Đại tá Moore sẽ là người đại diện duy nhất
của nước Anh và sẽ báo cáo trực tiếp lên Thủ tướng, “ngay khi nào
anh thấy phù hợp”. Những chi tiết cụ thể sẽ được cung cấp cho ông khi
nào ông tới Tokyo .
Bức thư kết thúc: “Nếu vì bất cứ lý do nào anh cần đến sự giúp đỡ
của tôi trong những suy tính, cân nhắc của mình, đừng ngại tiếp xúc
trực tiếp với tôi”. Tiếp đến là chữ ký của Clement Attlee.
Các sĩ quan quân đội không có thói quen bất tuân mệnh
lệnh của Thủ tướng, thế nên ông Đại tá đành cam chịu ở lại Nhật
Bản một thời gian nữa.
Phải mất mấy tháng để thành lập tòa án và trong
quãng thời gian này, Đại tá Moore tiếp tục giám sát các binh sĩ Anh
trở về quê hương bản quán. Công việc giấy tờ vô tận và một vài
người dưới quyền chỉ huy của ông yếu đuối bạc nhược đến mức ông
thấy cần thiết phải bồi dưỡng cho họ về tinh thần cũng như thể chất
trước khi có thể đưa họ lên tàu trở về quê hương. Một số người đã
chết từ rất lâu trước khi tuyên bố đầu hàng được phê chuẩn.
Trong thời gian chờ đợi này, Đại tá Moore sử dụng
Thiếu tá Sakata và hai sĩ quan không chuyên nghiệp, những người mà ông
đã đặt rất nhiều tin tưởng, Trung sĩ Akida và Hạ sĩ Sushi, là sĩ
quan liên lạc của ông. Quyền chỉ huy bỗng nhiên thay đổi không làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ của hai viên sĩ quan cao cấp, cho dù Sakata thú
nhận với Đại tá rằng ông ta mong muốn mình đã bị giết chết trong
cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc để không còn phải chứng kiến sự
nhục nhã của đất nước mình. Đại tá thấy những người Nhật vẫn giữ
được tính kỷ luật cao trong khi chờ biết về số phận của mình, và
hầu hết trong số họ cho rằng cái chết là hậu quả tự nhiên của việc
thất trận.
Tòa án chiến tranh họp phiên toàn thể tại Tokyo vào ngày mười
chín tháng tư năm 1946. Tướng Tomkins tiếp quản tầng năm của Tòa án
Đế chế trong khu Ginza của thành phố Tokyo .
Đó là một trong số rất ít những tòa nhà còn lại nguyên vẹn, thoát
khỏi sự phá hoại sau cuộc chiến. Tomkins là một người mập lùn, nóng
tính, được các quân nhân dưới quyền miêu tả như một “Anh cạo giấy từ
Lầu Năm Góc”, tới Tokyo chỉ một tuần trước khi ông ta bắt đầu cuộc
bàn bạc kỹ lưỡng đầu tiên. Những tiếng lách cách, lách cách dồn
dập là những âm thanh duy nhất mà vị Tướng này được nghe - những sĩ
quan dưới quyền ông ta thừa nhận với Đại tá Moore - vọng đến từ
chiếc máy chữ trong văn phòng của người thư ký của ông ta. Tuy nhiên,
khi động đến những người bị đem ra xét xử thì viên Tướng lại không
nghi ngờ gì về tội ác nằm ở đâu và người có tội phải bị trừng
phạt ra làm sao.
- Cứ treo cổ từng thằng con hoang da vàng, ti hi mắt
lươn cho tôi, - Là một trong những câu nói cửa miệng của Tomkins.
Ngồi quanh chiếc bàn trong gian phòng xử án cổ kính,
hội đồng xét xử gồm mười hai người, đưa ra những thảo luận kỹ
lưỡng. Điều đã rõ ràng từ phiên họp đầu tiên là ông Tướng không có
ý định xem xét “những tình tiết giảm nhẹ hình phạt”, “lý lịch trong
quá khứ” hay là “những nền tảng nhân đạo”. Khi Đại tá lắng nghe
những quan điểm của Tomkins, ông bắt đầu lo sợ cho cuộc sống của bất
cứ người vô tội nào, thành viên của các lực lượng vũ trang, được đem
ra đặt trước mặt viên Tướng.
Đại tá nhanh chóng nhận ra bốn người Mỹ trong tòa
án, những người giống như ông, không phải lúc nào cũng nhất trí với
những phán xử ào ào của viên Tướng. Hai người là luật sư và hai
người kia, thời gian gần đây đã từng nhận những nhiệm vụ chiến đấu
trực tiếp. Năm người bắt đầu làm việc chung với nhau để kháng nghị
lại những quyết định mang tính thành kiến nhất của viên Tướng. Trong
mấy tuần lễ sau, họ đã có thể thuyết phục được một hai người khác
quanh bàn cùng làm giảm hình phát treo cổ thành tù chung thân cho mấy
người Nhật, những người này đã bị kết án với tội ác mà họ có lẽ
đã không phạm phải.
Khi mỗi vụ án như thế được đem ra thảo luận, viên
Tướng Tomkins cho năm người thấy rõ sự khinh rẻ của ông ta đối với
quan điểm của họ. “Đéo mẹ mấy gã thông cảm với bọn Nhật lùn,” Ông
ta thường bảo, và không phải lúc nào cũng nhẹ nhàng. Khi viên Tướng
vẫn còn nắm quyền chỉ huy nhóm xét xử mười hai người, thì những
thành công của Đại tá là rất ít.
Đến khi quyết định số phận của những người chỉ huy
trại Tù binh Chiến tranh ở Tonchan, viên Tướng yêu cầu treo cổ tập thể
tất cả các sĩ quan Nhật có liên quan, thậm chí không cần đến một sự
giả bộ xét xử công bằng. Ông ta không hề tỏ ra ngạc nhiên khi năm
thành viên xét xử, như thường lệ đưa ra tiếng nói phản kháng của họ.
Đại tá Moore
phát biểu rất mạnh mẽ về việc bản thân đã là tù nhân ở Tonchan và
xin bào chữa cho Thiếu tá Sakata, Trung sĩ Akida và Hạ sĩ Sushi. Ông
cố gẳng giải thích tại sao việc treo cổ họ, về bản chất của chính
hành động đó, thì cũng man rợ như bất cứ sự tàn bạo nào mà người
Nhật đã thực hiện. Ông kiên quyết đòi bản án của họ nên được giảm
hình phạt xuống thành tù chung thân. Viên Tướng ngáp ngắn ngáp dài
trong lúc ông Đại tá nói. Và khi kết thúc, ông không hề nỗ lực chứng
minh mình đúng, mà chỉ đơn giản kêu gọi hãy bỏ phiếu. Với sự kinh
ngạc của viên Tướng, kết quả là sáu đều; một luật sư người Mỹ,
trước đó đã theo phía viên Tướng, giơ tay lên nhập với năm người của
Đại tá. Không chần chừ, viên Tướng đưa ra lá phiếu quyết định của
mình, ủng hộ giá treo cổ. Tomkins liếc xéo Moore qua bàn và nói:
- Tôi nghĩ, đã tới giờ ăn trưa, thưa quý vị. Tôi không
biết các vị thế nào, chứ còn tôi thì sắp chết đói rồi đây. Và
không ai có thể nói rằng lần này chúng ta đã không cho mấy gã con
hoang da vàng bé xíu một phiên tòa công bằng nhé.
Đại tá Moore
đứng lên, không đưa ra ý kiến gì, rời khỏi văn phòng.
Ông chạy xuống cầu thang Tòa án và lệnh cho anh lái
xe chở ông đến Đại bản doanh Quân đội Anh tại trung tâm thành phố càng
nhanh càng tốt. Đoạn đường thì gần nhưng họ đi mất khá thời gian bởi
vì các vụ đánh lộn, các nhóm người luôn xúm xít, tụ tập trên các
đường phố ngày cũng như đêm. Khi Đại tá tới được văn phòng của mình,
ông nhờ người thư ký đăng ký một cuộc gọi về nước Anh. Trong lúc cô
thư ký đang thực hiện mệnh lệnh của ông, More đến bên chiếc tủ xanh
lá cây và lật tìm qua mấy tập hồ sơ, cho đến khi ông lấy được tập
hồ sơ đề “Cá nhân”. Ông mở nó ra và nhặt ra một bức thư. Ông muốn
chắc chắn rằng ông đã nhớ chính xác cái câu nói đó…
“Nếu vì bất kỳ một lý do nào mà anh cần sự giúp
đỡ của tôi trong những việc suy xét, cân nhắc, đừng ngại liên lạc
trực tiếp với tôi”.
- Ông ấy đang đi đến bên điện thoại, thưa ngài, - cô thư
ký lo lắng nói. Đại tá bước tới bên điện thoại và chờ đợi. Ông tự
thấy mình đứng nghiêm chào khi nghe thấy giọng nói nhẹ nhàng, rất
học thức.
- Có phải ông đấy không, Đại tá.
Richard Mooore mất chưa tới mười phút để giải thích
vấn đề ông đang gặp phải và nhận được quyền lực mà ông cần.
Ngay khi kết thúc cuộc nói chuyện, ông quay trở lại
hành dinh tòa án. Ông bước thẳng vào phòng họp ngay lúc Tướng Tomkins
đang sửa soạn ngồi xuống ghế để bắt đầu tiến trình làm việc buổi
chiều.
Đại tá là người đầu tiên đứng lên khi viên Tướng
tuyên bố phiên tòa bắt đầu làm việc.
- Tôi tự hỏi liệu tôi có được phép mở đầu bằng một
lời phát biểu? - Ông đề nghị.
- Cứ tự nhiên, - Tomkins nói. - Nhưng mà ngắn gọn thôi.
Chúng ta còn vô số những gã Nhật để mà làm việc đấy.
Đại tá Moore
nhìn quanh bàn vào mười một người kia.
- Thưa các vị, - ông bắt đầu. - Tôi xin từ chức với tư
cách là người đại diện của Anh Quốc trong ủy ban này.
Tướng Tomkins không kiềm chế một nụ cười.
- Tôi làm việc này, - Đại tá tiếp tục nói, - một
cách miễn cưỡng, nhưng đã được sự ủng hộ của Thủ tướng của chúng
tôi, tôi vừa nói chuyện với ông ấy cách đây mấy phút. - Đến đoạn thông
tin này thì nụ cười của Tomkins được thay thế bằng cái nhăn mặt. - Tôi
sẽ trở về nước Anh để tường trình một bản báo cáo đầy đủ cho ông
Attlee và Nội các Anh Quốc về cung cách làm việc mà tòa án này
được điều khiển.
- Này, nghe này, cậu trai, - viên Tướng bắt đầu. - Anh
không thể…
- Tôi có thể, thưa ngài, và tôi sẽ làm vậy. Không
giống như ngài, tôi không muốn để cho máu của những người lính vô tội
dính trên hai bàn tay tôi trong suốt quãng đời còn lại của mình.
- Này, nghe này, cậu trai, - viên Tướng lặp lại. -
Chúng ta, ít nhất, hãy nói cho thấu tỏ việc này đã, trước khi cậu
có thể làm điều gì mà cậu sẽ hối hận.
Không có nghỉ giải lao trong thời gian còn lại của
ngày hôm đó, và vào chiều tối, hình phạt cho Thiếu tá Sakata, Trung
sĩ Akida và hạ sĩ Sushi đã giảm nhẹ thành chung thân.
Sau một tháng, viên Tướng Tomkins được triệu hồi về
Lầu Năm Góc, thay thế là một lính thủy đánh bộ người Mỹ nổi danh,
ông ta đã được khen thưởng trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất.
Trong những tuần lễ sau cuộc bổ nhiệm mới, án tử
hình đối với hai trăm hai mươi chín tù nhân chiến tranh Nhật Bản đều
được thuyên giảm.
Đại tá Moore trở về Lincolnshire vào ngày mười
một tháng mười một, năm 1948, biết đủ sự thật của chiến tranh và những
thói đạo đức giả của hòa bình.
Gần hai năm sau, Richard Moore nhận thánh chức và trở
thành giám mục một giáo xứ tại một xóm nhỏ buồn tẻ, đó là
Weddlebeach, tỉnh Suffolk .
Ông thích thú với công việc của mình, và mặc dù hiếm khi nào nhắc
đến những kinh nghiệm trận mạc với những giáo dân của mình, ông
thường nghĩ về những năm tháng ở Nhật Bản.
- Những người tạo lập hòa bình đã được ban phước
lành bởi vì họ sẽ… - Đức cha bắt đầu bài giảng đạo từ bục giảng
kinh một buổi sáng ngày lễ Palm, ngày chủ nhật trước lễ Phục Sinh
đầu những năm 1960, thế nhưng Đức cha không thể kết thúc được câu nói.
Những giáo dân của ngài lo lắng nhìn lên, chỉ thấy
một nụ cười tươi tắn hiện ra rạng rỡ trên khuôn mặt Đức cha khi ngài
chăm chăm nhìn xuống một người đang ngồi ở hàng ghế thứ ba.
Người đàn ông mà cha đang nhìn cúi đầu lúng túng và
Đức cha lại nhanh chóng tiếp tục buổi giảng đạo.
Khi buổi lễ kết thúc, Richard Moore đứng đợi ở cửa
Đông để có thể chắc chắn rằng đôi mắt của ông đã không đánh lừa ông,
khi họ gặp lại nhau, mặt đối mặt, lần đầu tiên sau mười lăm năm, cả
hai người đàn ông cùng cúi đầu chào và sau đó bắt tay nhau.
Trong bữa ăn trưa hôm đó ở nhà xứ, ông linh mục vui
mừng được biết rằng “Đôi đũa” Sakata đã được phóng thích khỏi nhà
tù chỉ sau năm năm, sau hiệp định của quân Đồng minh với Chính phủ
mới được thành lập của Nhật Bản, nhằm thả tất cả các tù nhân,
những người chưa phạm tội giết người. Khi ông Đại tá hỏi thăm về
“Thịt Lợn Xào Chua Ngọt”, ông Thiếu tá thú nhận là ông đã mất liên
lạc với Trung sĩ Akida (Ngọt), nhưng Hạ sĩ Sushi (Chua) và ông đang
cùng làm việc cho một công ty điện tử.
- Và bất cứ khi nào chúng tôi gặp nhau, - ông ta quả
quyết với cha xứ, - chúng tôi lại nói chuyện về người đàn ông đáng
kính đã cứu vớt cuộc đời chúng tôi, “con ễnh ương Anh Quốc”.
* * *
Năm tháng qua đi, ông linh mục và người bạn Nhật Bản
của mình tiến bước trong nghề nghiệp mà họ đã chọn lựa và thường
xuyên trao đổi thư từ, năm 1971, Ari Sakata được bổ nhiệm phụ trách một
nhà máy điện tử lớn ở Osaka, và mười tám tháng sau, Richard Moore
trở thành Đức cha vô cùng đáng kính Moore, Trưởng tu viện Giáo đường
Lincoln Cathedral.
- Tôi đọc trong tờ Thời báo London rằng giáo đường của anh đang lạc
quyên cho một cái mái mới, - Sakata viết từ quê hương của ông ta năm
1975.
- Việc đó không có gì khác thường, - vị Giáo chủ
giải thích trong bức thư trả lời. - Không có một giáo đường nào ở
nước Anh mà không bị hư hại do mục nát hay bom đạn. Điều thứ nhất, tôi
e là vô phương cứu chữa; còn điều thứ hai, ít nhất cũng có một cơ
hội.
Vài tuần lễ sau, vị Giáo chủ nhận được một tờ séc
trị giá mười ngàn bảng từ một công ty điện tử nổi tiếng của Nhật
Bản.
Vào năm 1979 khi Đức cha tôn kính Richard Moore được cử
giữ chức Giám mục Taunton ,
ông giám đốc điều hành mới của công ty điện tử lớn nhất Nhật Bản
đã bay sang để dự lễ phong chức.
- Tôi thấy anh có thêm một vấn đề nữa về mái nhà, -
Ari Sakata nhận xét khi ông ta nhìn lên những giàn giáo bao quanh bục
giảng kinh. - Lần này sẽ tốn kém bao nhiêu đây?
- Ít nhất là hai mươi lăm ngàn bảng mỗi năm, - vị Giáo
chủ trả lời không cần suy nghĩ. - Chỉ để chắc chắn cái mái không đổ
sụp xuống đầu giáo đoàn trong các bài giảng kinh nghiêm khắc của tôi. -
Ông thở dài khi đi ngang qua những bằng chứng của công việc tái xây
dựng khắp nơi xung quanh. - Ngay khi tôi nhận xong chức vụ mới, tôi dự
định phát động một cuộc lạc quyên xứng đáng để đảm bảo chắc chắn
người kế tục tôi sẽ không bao giờ lại phải lo lắng về cái mái nữa.
Ông giám đốc điều hành gật đầu. Một tuần lễ sau,
một tấm séc trị giá hai mươi lăm ngàn bảng được đặt trên bàn của vị
linh mục.
Đức Giám mục đã cố gắng rất nhiều để biểu lộ
lòng biết ơn của mình. Ông biết mình không bao giờ cho phép “Đôi đũa”
cảm thấy rằng với sự rộng lượng, hào phóng của ông ta, ông ta có
thể làm những điều sai trái, bởi vì điều này xúc phạm đến người
bạn của ông và chắc chắn tình bạn của họ sẽ kết thúc. Bức thư này
nối tiếp bức thư kia được thảo ra, nhằm bảo đảm rằng phiên bản cuối
cùng của bức thư dài viết tay có thể được những quan chức Bộ Ngoại
giao phụ trách bộ phận Nhật Bản thông qua. Cuối cùng bức thư đã được
gửi đi.
Năm tháng qua đi, Richard Moore trở nên e ngại khi viết
thư cho người bạn cũ nhiều hơn một lần trong năm, bởi vì mỗi bức thư
lại là sự gợi ý một tấm séc lớn hơn. Và vào cuối năm 1986, khi
viết thư gửi đi, ông không hề nhắc nhở tới quyết định của Trưởng Tu
viện và Tăng hội chỉ định năm 1988 là năm lạc quyên của giáo đường
này. Ông cũng không nói tới tình trạng sức khỏe suy sụp của chính
mình, sợ quý ông Nhật Bản có thể cảm thấy có trách nhiệm. Bác sỹ
đã cảnh báo rằng ông sẽ không thể mong đợi sẽ hồi phục hoàn toàn
vì những gì ông đã trải qua ở Tonchan.
Đức Giám mục bắt đầu thành lập ủy ban lạc quyên
của mình vào tháng giêng năm 1987. Hoàng tử xứ Wales trở thành mạnh
thường quân đỡ đầu và ngài Quận trưởng đại diện cho Nữ hoàng làm
chủ tịch. Trong bài phát biểu khai mạc với các thành viên ủy ban lạc
quyên, Đức Giám mục hướng dẫn cho họ phải quyên góp được không dưới
ba triệu bảng trong năm 1988. Một vài nét e ngại thoáng hiện trên
nhiều khuôn mặt quanh bàn.
Ngày mười một tháng tám năm 1987, Đức Giám mục Taunton đang làm trọng
tài cho một trận đấu cricket thì bỗng nhiên bị ngã gục vì một cú
đột quỵ. “Hãy lo liệu để những tờ tuyên truyền lạc quyên được in ấn
kịp thời cho buổi họp sắp tới”, là những lời cuối cùng của ông với
người đội trưởng đội bóng địa phương.
Buổi lễ tưởng nhớ Giám mục Moore
được tổ chức tại Giáo đường Taunton và do
Đức Tổng Giám mục Canterbury
cử hành. Không thể tìm được một chỗ trống nào trong ngôi nhà thờ
ngày hôm đó, và quả nhiên người tụ tập trong mỗi hàng ghế, đến mức
cửa Tây được để ngỏ. Những người đến muộn phải lắng nghe bài phát
biểu của Đức Tổng Giám mục phát chuyển tiếp qua loa đặt quanh quảng
trường.
Những người ghé xem tình cờ chắc hẳn ngạc nhiên bởi
sự có mặt của vài quý ông Nhật Bản đứng tuổi đang đứng đây đó quanh
giáo đoàn.
Khi buổi lễ kết thúc, Đức Tổng Giám mục tổ chức
một buổi gặp riêng tại phòng áo lễ của giáo đường với ông chủ tịch
của công ty điện tử lớn nhất thế giới.
- Chắc ông là ông Sakata, - Đức Tổng Giám mục nói,
nồng nhiệt bắt tay một người đàn ông vừa từ nhóm nhỏ người Nhật
đang đứng đợi bước lên. - Cảm ơn ông đã không quản ngại viết thư và cho
tôi được biết là ông sẽ tới. Tôi rất vui mừng được gặp ông. Đức Giám
mục luôn nói về ông với một tấm lòng cực kỳ cảm mến và với tư
cách là một người bạn thân - “Đôi đũa”, nếu tôi nhớ chính xác.
Ông Sakata cúi thấp đầu.
- Và tôi cũng được biết ông ấy luôn luôn tự coi bản
thân mình mắc nợ cá nhân ông vì lòng rộng rãi hào hiệp như thế trong
biết bao nhiêu năm tháng.
- Không, không, không phải tôi, - ông cựu Thiếu tá trả
lời. - Tôi chỉ đại diện cho một người có quyền cao hơn, cũng giống như
người bạn thân Giám mục quá cố của tôi thôi.
Đức Tổng Giám mục tỏ ra bối rối.
- Ngài thấy đấy, thưa ngài, - Ông Sakata nói tiếp, - Tôi
chỉ là tổng giám đốc của công ty. Tôi xin phép có vinh dự được giới
thiệu vị Chủ tịch.
Ông Sakata lùi ra sau một bước để cho một người bước
lên trước. Anh ta thậm chí còn nhỏ bé hơn, ban đầu Đức Tổng Giám mục
đã nghĩ đó là một nhân viên trong đám tùy tùng của Sakata.
Vị Tổng Giám đốc cúi thấp người và vẫn không nói
câu nào, đưa một chiếc phong bì cho Đức Tổng Giám mục.
- Tôi xin phép được mở nó ra? - người lãnh đạo nhà
thờ nói, không biết tục lệ Nhật Bản là phải chờ cho đến khi nào
người cho đã đi khỏi.
Người nhỏ bé lại cúi đầu.
Đức Tổng Giám mục mở chiếc phong bì ra, và lấy ra
một tờ séc ba triệu bảng.
- Đức Giám mục quá cố chắc hẳn là một người bạn
rất thân thiết của ông, - là tất cả những gì Ngài có thể nghĩ được
để nói ra.
- Không, thưa ngài,- vị Chủ tịch trả lời. - Tôi không
có được cái đặc ân đó.
- Vậy thì chắc ông ta đã làm một việc gì đó rất
khác thường để có thể xứng đáng với một cử chỉ hào phóng đến như
vậy.
- Hơn bốn mươi năm về trước, ông ấy đã có một hành
động đáng kính và giờ đây tôi cố gắng trả nợ một cách không xứng
đáng.
- Vậy thì chắc chắn ông ta còn nhớ ngài, - Đức Tổng
Giám mục nói.
- Có thể ông ta còn nhớ tới tôi, nhưng nếu vậy thì
chỉ như là nửa “Chua” của “Thịt Lợn Xào Chua Ngọt”.
* * *
Ở Anh Quốc có một tòa giáo đường chưa bao giờ thấy
cần thiết phát động một cuộc vận động lạc quyên toàn quốc.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét