16
Buntruc vừa mở mắt ra lần đầu thì bắt gặp ngay hai con mắt
đen láy của Anna long lanh sau những giọt nước mắt và trong nét cười.
Anh đã bất tỉnh và mê sảng ba tuần liền. Đã ba tuần liền,
anh đi lang thang trong một thế giới khác, hư ảo, không sờ thấy được. Đến chiều
ngày hai mươi tháng Chạp anh mới tỉnh lại. Anh đăm đăm nhìn mãi Anna bằng cặp
mắt nghiêm nghị, mung lung như qua một lớp sương mù, cố nhớ lại tất cả những
chuyện có dính dáng tới Anna, nhưng chỉ hồi tưởng được một phần. Trí nhớ của
anh đã kém đi nhiều, không chịu tuân theo ý muốn của anh nữa, và vẫn còn cố
chôn giấu rất nhiều điều ở một nơi nào sâu kín.
- Cho tôi uống nước… - Vẫn như trước, tiếng nói của chính
anh cứ vẳng tới tai anh như từ một nơi xa xôi nào, nhưng anh thấy thế lại lấy
làm thích thú. Buntruc mỉm cười.
Anna vội chạy bổ đến với anh. Một nụ cười dè dặt, cố ghìm
lại, làm cho toàn thân Anna như sáng bừng lên.
- Để em cầm cho anh uống. - Buntruc đờ đẫn vươn tay về phía cái ca, nhưng Anna gạt tay anh ra.
- Để em cầm cho anh uống. - Buntruc đờ đẫn vươn tay về phía cái ca, nhưng Anna gạt tay anh ra.
Buntruc phải cố gắng đến run cả người mới ngẩng được đầu
lên, uống vài ngụm rồi mệt quá, lại nằm vật xuống gối. Anh nhìn sang bên cạnh
giờ lâu, muốn nói không biết câu gì, nhưng cuối cùng sự mệt mỏi lại chiếm phần
thắng, và Buntruc lại thiu thiu.
Và cũng như lần đầu, lúc tỉnh dậy điều anh nhìn thấy trước
tiên vẫn là cặp mắt hốt hoảng của Anna chằm chằm nhìn mình, rồi sau đó anh mới
nhìn thấy cái ánh sáng vàng như nghệ của ngọn đèn và cái vòng tròn màu trắng
chiếu từ ngọn đèn lên khoảng trần nhà ghép bằng ván mộc.
- Anna, lại đây em.
Anna bước tới, nắm lấy tay anh. Buntruc nắm lại tay Anna một
cách yếu ớt để trả lời.
- Anh thấy trong người thế nào?
- Lưỡi của người khác, đầu óc của người khác, hai chân cũng
vậy, còn tuổi thì như đã hai trăm. - Anh cố rặn ra nói từng tiếng, lặng đi một
lát rồi hỏi. - Tôi bị thương hàn à?
- Vâng, thương hàn.
Buntruc đưa mắt nhìn khắp căn phòng, thều thào hỏi:
- Đây là đâu thế?
Anna hiểu ra câu hỏi, mỉm cười:
- Chúng ta đang ở Sarysin!
- Thế còn em… tại sao lại ở đây?
- Chỉ có một mình em ở lại với anh. - Rồi tựa như để bào
chữa cho mình hoặc cố tránh không muốn đả động tới một ý nghĩ mà hai người chưa
nói ra, Anna vội nói tiếp. - Không thể nào bỏ mặc anh cho người khác trông nom
được. Đồng chí Abramxon và các đồng chí khác trong đảng ủy có bảo em trông nom
cho anh… Anh xem đấy, thế là bất ngờ em có dịp được săn sóc cho anh.
Anh đưa mắt và khẽ động đậy bàn tay cám ơn Anna.
- Krutogorov đâu?
- Qua Voronez đi Lugansk rồi.
- Georgkian?
- Ôi anh tưởng tượng, được không… bị thương hàn chết mất
rồi.
- Chao ôi!
Hai người lặng đi một lát như để tưởng nhớ người đã khuất.
- Em đã lo cho anh quá. Vì anh ốm quá nặng. - Anna khẽ nói.
- Còn Bogovoi?
- Tất cả các đồng chí, em chẳng còn gặp ai nữa. Một số đã đi
Kamenskaia. Nhưng thôi, anh hãy nghe em, anh nói quá nhiều có hại không? Mà anh
có muốn ăn sữa không?
Buntruc lắc đầu ra ý không muốn. Anh phải cố gắng lắm mới
điều khiển nổi cái lưỡi để hỏi thêm:
- Abramxon đâu?
- Đã đi Voronez từ tuần trước rồi.
Buntruc cựa quậy rất khó khăn, đầu óc anh quay lộn, máu dồn
lên hai con mắt đến là nhức. Cảm thấy trên trán mình có một bàn tay mát mát,
anh mở mắt ra. Một câu hỏi làm tình làm tội anh: trong lúc mê man chẳng biết gì
như thế, ai đã giúp mình trong lúc ỉa đái bẩn thỉu? Chẳng nhẽ chính là Anna? Má
anh hơi ửng đỏ, anh hỏi:
- Chỉ có một mình em trông nom cho tôi thôi à?
- Vâng, một mình em.
Buntruc quay mặt vào trong tường lẩm bẩm:
- Nhục nhã cho chúng nó… Cái bọn khốn kiếp! Mặc cho một mình
em chịu đựng.
Di chứng của bệnh thương hàn đã ảnh hưởng đến thính giác:
Buntruc trở nên nghễnh ngãng. Bác sĩ do Ban chấp hành Đảng bộ Sarysin cử đến
bảo Anna rằng chỉ khi nào bệnh khỏi hẳn mới có thể bắt đầu chữa tai cho anh
được. Buntruc lấy lại sức khỏe rất chậm chạp. Anh trở nên phàm ăn một cách lạ
lùng nhưng Anna rất nghiêm khắc giữ đúng mức ăn qui định. Chỉ vì thế mà giữa
hai người đã xảy ra những sự va chạm.
- Cho tôi ít sữa nữa đi. - Buntruc cố nài.
- Không thể thêm được nữa.
- Tôi van em đấy, lấy ra đi Anna! Sao lại thế, em muốn tôi
chết đói à?
- Anh Ilia, tất nhiên tự anh cũng biết rằng em không thể nào
cho anh ăn quá mức qui định được.
Buntruc giận quá không nói gì nữa, chỉ quay mặt vào tường
thở dài, giờ lâu cứ im như thóc; Anna rất thương Buntruc, rất đau khổ, nhưng
vẫn phải cương quyết không nhượng bộ. Một lát sau anh quay lại van lơn, mặt mày
nhăn nhó, vì thế nom càng đáng thương:
- Không cho tôi được ít bắp cải muối à? Thôi, em Anna yêu
quý, cho tôi ăn đi! Em cũng phải nể tôi một chút chứ! Có hại ấy à? Bọn bác sĩ
nói xằng đấy thôi?
Trước thái độ cương quyết từ chối của Anna, có lần Buntruc
nói rất tệ, xúc phạm cả Anna:
- Cô không có quyền làm tình làm tội tôi như thế? Tôi sẽ tự
gọi lấy bà chủ nhà, sẽ xin bà ấy vậy. Cô là một người phụ nữ không có lương
tâm, một con người đáng ghét! Thật đấy, tôi đã bắt đầu căm ghét cô rồi.
- Em làm con sen con đòi, chịu cực chịu khổ để hầu hạ anh,
anh đền bù lại như thế là tốt nhất rồi phải không? - Anna không nhịn được nữa.
- Tôi có xin cô ở lại với tôi đâu? Cô trách mắng tôi về
chuyện nầy thì thật là tội. Cô lợi dụng ưu thế của cô. Thôi cũng được… Không
cần cho tôi ăn gì nữa! Cứ mặc cho tôi chết… Lòng thương của cô quả là vĩ đại!
Môi Anna đã run lên, nhưng Anna vẫn nhẫn nhục, không nói gì
nữa. Anna tha thứ cho Buntruc, cố chịu đựng hết thảy.
Chỉ một lần, sau một trận đấu khẩu đặc biệt gay gắt vì Anna
từ chối không cho Buntruc ăn thêm một miếng bánh nướng, Buntruc quay ngoắt đi,
Anna cảm thấy tim mình thắt lại vì kịp nhìn thấy một giọt nước mắt long lanh
trong mắt anh:
- Anh thật là con nít! - Anna kêu lên.
Nói xong Anna chạy vào bếp, mang ra cả một đĩa bánh đầy.
- Thôi anh ăn đi, ăn nữa đi, Ilia, anh yêu quí! Thôi được
rồi, anh đừng bực mình nữa nhé! Anh cầm lấy miếng này đi, vừa chín tới đấy! -
Anna run run nhét miếng bánh vào tay Buntruc.
Buntruc cảm thấy rất đau khổ, đã định thôi không ăn nữa,
nhưng cuối cùng không nhịn được, bèn chùi nước mắt, ngồi dậy cầm lấy chiếc
bánh. Một nụ cười nhận lỗi thoáng hiện trên khuôn mặt gầy rộc, lổm xổm bộ râu
mềm loăn xoăn. Anh vừa đưa mắt vẻ như xin lỗi, vừa nói:
- Tôi còn tệ hơn cả đứa con nít nữa là khác… Em xem: chỉ
thiếu chút nữa là tôi khóc òa lên…
Anna nhìn cái cổ ngẩng ra một cách lạ lùng, nhìn bộ ngực hom
hem sâu hõm giữa hai tà áo sơ-mi mở phanh, nhìn hai bàn tay chỉ có da bọc xương
của Buntruc, rồi một niềm yêu thương thắm thiết chưa từng cảm thấy bao giờ bất
thần làm rung động cả tâm hồn Anna, và lần đầu tiên Anna đặt lên cái trán vàng
khô của Buntruc một cái hôn giản dị và âu yếm.
Mãi hai tuần sau Buntruc mới có thể đi lại trong phòng mà
không cần đến sự giúp đỡ của người khác, nhưng hai chân khẳng khiu như cây sậy
chỉ muốn gãy gập xuống. Buntruc tập đi lần thứ hai.
- Xem này, Anna, tôi đi được đây này! - Buntruc thử đi nhanh
một cách thoải mái, nhưng hai chân không đương nồi sức nặng của thân thể, sàn
nhà dưới hai bàn chân như muốn trượt đi đâu mất.
Buntruc nhìn thấy chỗ nào gần nhất có cái gì vịn được là
phải nắm ngay lấy, miệng cười toe ra như ông già, làn da trên hai gò má xanh
bóng chỗ thì căng ra, chỗ thì nhăn nhúm lại. Anh cười một thôi một hồi, tiếng
cười già nua run run, cuối cùng cười mãi mệt lử, lại nằm vật ra giường.
Chỗ hai người ở rất gần bến tàu. Đứng trong cửa sổ nhìn ra
có thể trông thấy mặt sông Vonga trải rộng, đầy tuyết, khu rừng xám xám hình
bán nguyệt rộng bát ngát bên kia sông và những nét mềm mại của cánh đồng gợn
sóng đằng xa. Anna đứng rất lâu bên cửa sổ suy nghĩ về cuộc sống kỳ dị của
mình, một cuộc sống vừa trải qua một bước ngoặt lớn. Bệnh tật của Buntruc đã
làm cho hai người trở nên thân thiết lạ lùng.
Đầu tiên, khi mới đưa Buntruc vượt được một chặng đường vừa
dài vừa gian khổ đến được Sarysin, Anna đã cảm thấy nặng nề, cay đắng đến phát
khóc. Lần đầu tiên trong đời Anna phải nhìn thẳng vào mặt trái của sự tiếp xúc
với một người thân yêu một cách sát sạt và trần truồng như thế. Nàng nghiến
răng thay đồ lót cho Buntruc, chải chấy trên cái đầu nóng như lửa, vần cái thân
nặng như đá và rùng mình lén nhìn với cả một niềm kinh tởm cái thân hình đàn
ông trần truồng và gầy rộc của anh. Nhìn cái vỏ đùm bên ngoài một sinh mệnh yêu
quí lúc này chỉ còn thoi thóp chút hơi nóng. Ruột gan Anna nôn nao cả lên, Anna
thấy tởm lợm quá, nhưng sự bẩn thỉu bên ngoài không làm hoen ố chút nào cái
tình cảm vẫn còn giữ được rất sâu sắc, rất bền vững của Anna. Theo mệnh lệnh
không thể cưỡng lại được của tình cảm ấy, Anna đã học được cách vượt qua đau
khổ và do dự. Và Anna đã vượt qua. Cuối cùng chỉ còn lòng thương và nguồn tình
yêu nằm ở một chỗ rất sâu trong lòng thấm dần ra ngoài rồi bật lên sôi sục.
Có một lần tự nhiên Buntruc hỏi:
- Sau tất cả những chuyện vừa qua em thấy tôi đáng ghét lắm…
có phải không?
- Đó là một sự thử thách.
- Thử thách gì? Sức chịu đựng à?
- Không, tình cảm.
Buntruc quay đi và mãi không thể giữ nổi cho môi mình khỏi
run.
Hai người không nói thêm gì về chuyện ấy nữa. Bất cứ lời nào
cũng thừa và nhạt nhẽo.
Đến giữa tháng Giêng hai người từ Sarysin đi Voronez.
17
Chiều ngày mười sáu tháng giêng, Buntruc và Anna về đến
Voronez. Hai người ở lại đây hai ngày rồi lại đi Minlerovo vì hôm ra đi bỗng có
tin Ủy ban quân sự cách mạng sông Đông đã chuyển đến đây cùng với các đơn vị
trung thành với nó phải rút khỏi Kamenskaia dưới áp lực của quân Kaledin.
Minlerovo rất đông người, quang cảnh bận bịu túi bụi.
Buntruc ở lại đấy vài tiếng đồng hồ, rồi vừa thấy có chuyến xe lửa là đi
Glubokaia ngay. Ngày hôm sau anh nhận quyền chỉ huy đội súng máy và sáng ngày
hôm sau nữa đã có mặt trong trận chiến đấu chống chi đội của Chernechev.
Sau khi Chernechev bị đánh bại, hai người bất ngờ phải chia
tay nhau. Một buổi sáng, Anna ở bộ tư lệnh về, vẻ mặt sôi nổi nhưng hơi buồn.
- Anh có biết không, đồng chí Abramxon có mặt ở đây đấy.
Đồng chí rất muốn gặp anh. Ngoài ra còn một tin nữa, hôm nay em phải lên đường
rồi.
- Đi đâu bây giờ? - Buntruc ngạc nhiên.
- Đồng chí Abramxon, em và vài đồng chí nữa sẽ đi Lugansk
làm công tác tuyên truyền.
- Cô bỏ chi đội à? - Buntruc hỏi giọng lạnh nhạt.
Anna vừa cười vừa áp khuôn mặt nóng bừng bừng vào má anh:
- Anh có thú nhận như thế này không: anh buồn không phải vì
em rời bỏ chi đội mà vì em rời bỏ anh? Nhưng cũng chỉ một thời gian thôi. Em
tin rằng trong công tác tuyên truyền em sẽ là một người có ích hơn là gần anh.
Có lẽ em làm công tác tuyên truyền thì hợp với chuyên môn hơn là làm xạ thủ
súng máy đấy… - Nói đến đây Anna đảo con mắt lên một cách tinh quái, - Dù em đã
được học tập công việc súng máy ấy dưới sự chỉ đạo của một vị chỉ huy giàu kinh
nghiệm như Buntruc.
Chẳng mấy chốc Abramxon cũng tới. Vẫn là con người sôi sục
nhiệt tình, thích hành động và không lúc nào chịu ngồi yên một chỗ như xưa. Vẫn
đám tóc trắng lấp loáng trên cái đầu bọ hung, đen như bôi nhựa chưng. Buntruc
thực tình cảm thấy sung sướng được gặp anh.
- Khỏi hẳn rồi à? Tuyệt lắm! Bọn mình mang Anna đi đây. -
Rồi anh nheo mắt ra ý đã biết hết mọi chuyện giữa hai người. - Cậu không phản
đối chứ? Cậu không phản đối chứ? Phải, phải… Phải, phải… Tuyệt lắm! Mình đặt
câu hỏi như thế vì hình như ở Sarysin hai cô cậu đã thân với nhau rồi thì phải.
- Tôi cũng chẳng giấu là cũng có lấy làm tiếc vì phải chia
tay với Anna. - Buntruc nhăn nhó gượng cười.
- Lấy làm tiếc à? Như thế cũng đã là nhiều rồi đấy… Anna, cô
đã nghe thấy chưa.
Abramxon đi đi lại lại trong phòng, tiện tay nhặt từ cái
rương lên một cuốn sách đầy bụi của Garin Mikhailovsky(1) rồi như chợt nhớ ra
điều gì, anh bắt đầu chia tay ra về.
- Cô sắp xong chưa, Anna?
- Đồng chí đi trước đi. Tôi xong ngay đây. - Anna trả lời
sau cái bình phong.
Anna thay đồ lót xong bước ra với chiếc áo quân phục cổ chui
màu ka-ki của lính có thắt dây lưng, hai túi ngực phồng phồng, và vẫn cái váy
đen vá vài chỗ nhưng sạch bong. Bộ tóc rất nặng vừa mới gội bồng lên, thòi cả
ra ngoài cái khăn bịt đầu. Anna mặc áo ca-pôt vào và vừa thắt dây lưng vừa hỏi
(cái vẻ hào hứng vừa nãy lúc này đã tan biến đâu mất, giọng Anna khàn đi, nghe
như van lơn):
- Hôm nay anh sẽ tham gia trận tấn công à?
- Tất nhiên là có rồi! Em cũng biết rằng anh chẳng chịu bó
tay ngồi yên.
- Em van anh… Anh hãy nghe em, phải cẩn thận mới được! Anh
sẽ vì em mà làm như thế chứ? Đồng ý nhé? Em để lại thêm cho anh một đôi bít tất
len đấy. Anh cố giữ đừng để bị cảm lạnh, đừng để chân bị ngâm nước đấy. Đến Lugansk
em sẽ viết thư về cho anh.
Mặt Anna không hiểu sao tự nhiên bạc màu đi. Lúc chia tay,
Anna thú nhận.
- Anh xem đây, em rất đau buồn vì phải xa anh. Đầu tiên khi
đồng chí Abramxon rủ em đi Lugansk, em rất phấn khởi, nhưng bây giờ em lại cảm
thấy rằng không có anh, ở đấy cũng như không có người. Chẳng cần nói nhiều,
tình cảm lúc này là không cần thiết, chỉ bó chân bó cẳng… Nhưng thôi, dù sao
cũng tạm biệt anh!
Hai người chia tay nhau một cách gần như lạnh nhạt, nhưng
Buntruc hiểu nguyên nhân của điều đó đúng như đáng phải hiểu: Anna sợ mất đi
cái vốn quyết tâm còn lại.
Buntruc ra tiễn chân Anna, Anna cắm đầu cắm cổ bỏ đi, hai
vai đưa đi đưa lại một cách hối hả. Buntruc đã định gọi Anna, nhưng anh nhận
thấy rằng lúc chia tay, trong hai con mắt mờ đi nhìn hiêng hiếng của Anna có
một ánh ướt ướt, vì thế anh cố tự chủ, làm vẻ sảng khoái kêu lên.
- Anh mong rằng chúng mình sẽ lại gặp nhau ở Rostov ! Giữ sức khỏe nhé,
Anna!
Anna quay đầu lại một cái rồi rảo bước hơn.
Sau khi Anna đi rồi, Buntruc cảm thấy mình cô quạnh khủng
khiếp. Buntruc từ ngoài phố quay vào trong phòng, nhưng lại lập tức nhảy phắt
từ trong ấy ra như phải bỏng… Trong đó mỗi đồ vật đều nhắc nhở sự có mặt của
Anna, cái gì cũng còn lưu chút hơi thừa của Anna: này chiếc khăn tay bỏ quên, này
cái túi dết của lính bộ binh, này cái ca bằng đồng, tất cả các thứ đó đều đã
được bàn tay của Anna đụng đến.
Buntruc đi lang thang trong trấn đến tối, trong lòng có một
cảm giác canh cánh chưa từng cảm thấy bao giờ. Anh thấy như trong người mình
vừa bị cắt đi mất một cái gì và mình không thể nào quen với trạng thái mới này
được. Anh ngơ ngác nhìn vào mặt những chiến sĩ Cô-dắc và Xích vệ nhận ra được
vài người và nhiều người cũng nhận ra anh.
Khi đến một chỗ, có một chiến sĩ Cô-dắc giữ anh lại, chiến
sĩ này đã ở cùng một đơn vị với Buntruc trong cuộc chiến tranh chống Đức.
Anh ta lôi Buntruc về chỗ anh ta ở, mời Buntruc đánh bài.
Một nhóm Xích vệ thuộc chi đội Petrov và vài chàng thuỷ binh mới được điều tới
đây đang ngồi quanh một chiếc bàn chơi bài tính điểm. Họ đập quân bài đen đét
giữa một làn khói thuốc lá mù mịt. Họ vò loạt soạt những tờ giấy bạc Kerensky,
văng tục, la hét một cách hết sức vô tư lự. Buntruc đang cần có không khí để
thở, vội bỏ ra ngoài.
Buntruc được cứu thoát khỏi tâm trạng của anh nhờ trận tấn
công mà một giờ sau anh phải tham gia.
--------------
Chú thích:
(1) (1852 - 1906), một tác giả tiến bộ người Nga (ND)
18
Sau khi Kaledin chết đi, trấn Novocherkask trao chính quyền
cho viên tướng Nadarov, ataman viễn chinh của Quân khu sông Đông, ngày hai mươi
chín tháng Giêng, bọn đại biểu Cơ-rúc họp và cử hắn làm ataman nhiệm mệnh của
Quân khu. Đến họp Cơ-rúc chỉ có một phần nhỏ không đáng kể của số đại biểu,
phần lớn đại diện cho các trấn hạ du thuộc các khu miền Nam . Cơ-rúc lần nầy lấy tên là
“Cơ-rúc nhỏ”. Có được sự ủng hộ của Cơ-rúc, Nadarov tuyên bố động viên tất cả
các tráng đinh từ mười tám đến năm mươi, nhưng người Cô-dắc cực chẳng đã mới
cầm vũ khí dù có những lời hăm doạ và dù có những đội vũ trang được phái đến
các trấn để lấy quân.
Hôm Cơ-rúc nhỏ ở Novocherkask bắt đầu làm việc, trung đoàn
Cô-dắc sông Đông số 6 của tên tướng Krasnosekov ở mặt trận Rumani kéo về theo
đội hình hành quân, dưới quyền chỉ huy của tên trung tá Tachin. Ngay từ
Ekaterinoslav, trung đoàn này đã phải vừa chiến đấu vừa hành quân để chọc thủng
vòng vây Bolsevich.
Nó đã bị đánh mạnh ở Piachikhatca, Mezevaia, Medvedvyi
Kurgan và nhiều nơi khác, nhưng vẫn về được tới nơi, quân số gần trọn vẹn, với
toàn bộ sĩ quan.
Trung đoàn này đã được đón tiếp rất long trọng. Sau lễ cầu kinh
ở quảng trường Nhà thờ lớn, Nadarov khen ngợi các binh sĩ Cô-dắc đã giữ kỷ
luật, đảm bảo trật tự rất tốt và đã mang vũ khí về bảo vệ sông Đông.
Chẳng bao lâu trung đoàn được điều ra mặt trận, đóng ở gần
trấn Xulin, nhưng hai ngày sau Novocherkask đã nhận được những tin chẳng lành:
do ảnh hưởng của tuyên truyền cổ động Bolsevich, trung đoàn đã tự động rời bỏ
mặt trận, từ chối không chịu bảo vệ chính quyền Quân khu.
Cơ-rúc hoạt động một cách uể oải. Mọi người đều đã cảm thấy
trước kết cục của cuộc đấu tranh chống lại quân Bolsevich.
Nadarov vốn là một viên tướng cương nghị và sôi nổi, nhưng
suốt thời gian cuộc họp, hắn cứ chống tay ngồi yên, một bàn tay đặt lên trán,
như đang đau khổ suy nghĩ về một vấn đề gì.
Thế là mấy tia hi vọng cuối cùng cũng tan nốt thành mây
khói.
Những trận chiến đấu đã diễn ra ầm ầm gần Chikhoreskaia. Đã
có phong thanh là thiếu úy Cô-dắc Artomonov chỉ huy Hồng quân đang từ Sarysin
tiến về phía Rostov .
Lenin ra lệnh cho mặt trận miền Nam
chiếm Rostov
ngày hai mươi ba tháng Hai.
Sáng ngày hai mươi hai chi đội của tên đại úy Chernov tiến
vào Rostov . Hắn
đã vừa bị Xivéc đánh lui vừa bị những người dân Cô-dắc trấn Glubovskaia bắn từ
hậu phương.
Chỉ còn lại một đường hành lang mỏng manh, vì thế Kornilov
hiểu rằng nếu ở lại Rostov
thì không phải không nguy hiểm, nên hắn đã ra lệnh rút lui về trấn Olginskaia.
Suốt ngày hôm ấy, anh em công nhân ở Temerich nã súng vào nhà ga và vào các đội
tuần tiễu của bọn sĩ quan. Trước khi trời hoàng hôn, từ trong thành phố Rostov quân của Kornilov
tiến ra với đội hình hành quân dày đặc.
Nó vươn dài qua sông Đông như một con trăn đen béo núc rồi
ngoằn ngoèo trườn về phía Arxai. Những đại đội chỉ còn lại rất ít quân tiến rất
vất vả trên lớp tuyết vừa ẩm vừa xốp. Loáng thoáng những chiếc áo ca-pôt đính
khuy bóng nhoáng của bọn học sinh trung học và những chiếc áo ca-pôt của bọn
học sinh trường thực nghiệm, nhưng bọn sĩ quan bộ binh vẫn chiếm đa số. Các
trung đội do những tên đại tá và đại úy chỉ huy. Đi trong hàng là bọn Yunke và
sĩ quan, cấp bậc từ chuẩn úy tới đại tá. Dân chạy nạn lốc nhốc đi sau cơ man
nào xe vận tải. Họ là những nhân vật danh tiếng, đã có tuổi, mặc những chiếc áo
bành tô kiểu thành thị, đi giày cao su. Bọn phụ nữ vặn vẹo trên những đôi giầy
cao gót, chạy lon ton bên những chiếc xe, chốc chốc lại sút chân xuống lớp
tuyết sâu.
Tên đại úy Evgeni Litnhitki đi trong một đại đội của trung
đoàn Kornilov. Cùng hàng với hắn có gã thượng úy Starobensky, một tên sĩ quan
tại ngũ rất chững chạc, trung uý Bogachev của trung đoàn “grenada”(1)
Panagorisky mang tên Suvorov và tên đại tá Lovichev một viên sĩ quan đơn vị
chiến đấu già sóc, miệng móm sạch không còn chiếc răng nào, người đầy lông đỏ
như một con cáo già.
Bóng tối sau lúc hoàng hôn mỗi lúc một dầy. Trời rét ngọt.
Một ngọn gió ẩm ẩm mằn mặn thổi dai dẳng từ cửa sông Đông tới.
Evgeni nhìn vào mặt những tên đang vượt đại đội của hắn,
nhưng hai chân vẫn dẫm không sai bước, rất quen thuộc trên lớp tuyết đã bị
nghiền vụn. Đi bên lề đường có đại úy Nezenchev chỉ huy trung đoàn Kornilov và
đại tá Kutepov trước kia là trung đoàn trưởng trung đoàn ngự lâm Preobrazensky.
Thằng cha này mở phanh áo ca-pôt mũ cát-két hất ngược ra sau gáy.
- Ngài trung đoàn trưởng! - Lão trung tá Lovichev hất rất lẹ
khẩu súng trường lên vai, gọi tên Nezenchev.
Kutepov quay mặt lại, một khuôn mặt dài như mặt bò với vầng
trán rộng, hai con mắt đen rất xa tinh mũi và bộ râu xén vòng như hình cái
xẻng. Nghe tiếng gọi, Nezenchev đưa mắt nhìn qua vai Kutepov.
- Ngài bảo đại đội một tăng thêm tốc độ hành tiến cho! Vì đi
như thế này mà chết cóng thì cũng chẳng có gì lạ. Hai chân chúng tôi sũng nước
cả mà lại hành quân với tốc độ như thế này…
- Chẳng còn ra thể thống gì nữa! - Starobensky cất cái giọng
oang oang như tiếng kẻng, hắn vốn hay to tiếng.
Nezenchev cứ đi qua, không trả lời. Hắn đang tranh cãi không
biết vấn đề gì với tên Kutepov. Một lát sau tướng Alekseev vượt đại đội của
Evgeni. Gã xà ích đánh một cặp ngựa huyền béo núc, đuôi tết. Dưới vó ngựa,
tuyết bắn tung từng đám ra chung quanh.
Gió làm cho mặt Alekseev đỏ rực lên với hai hàng ria và cặp
lông mày đựng đứng trắng lóa. Lão kéo chiếc mũ cát-két xuống tận tai, tay trái
đưa lên túm lấy cổ áo vì lạnh. Bọn sĩ quan mỉm cười đưa mắt nhìn theo khuôn mặt
mà tất cả mọi người đều quen.
Con đường bị dẫm nát dưới hàng ngàn bước chân. Thỉnh thoảng
lại có những váng nước vàng vàng loang ra. Hành quân đến là cực, chân bước trơn
như mỡ, nước thấm qua cả ủng. Evgeni vừa đi vừa lắng nghe những mẩu chuyện nói
lao xao phía trước. Một tên sĩ quan mặc áo da trắng, đội chiếc mũ lông Cô-dắc
của lính, nói giọng nam trung.
- Ngài thấy không, trung úy? Rodianko, chủ tịch Duma Quốc
gia, già như thế mà cũng phải đi bộ.
- Nước Nga đang đi con đường Gôngôta(2) - Một gã cố nói đùa,
vừa nói vừa ho sặc sụa và nhổ ra một bãi đờm.
- Gôngôta… con đường này chỉ khác một điều không có đá giăm
mà có tuyết, hơn nữa tuyết ẩm cộng với cái lạnh quỷ quái này.
- Các ngài có biết bọn mình sẽ nghỉ đêm ở đâu không?
- Ở Ekaterinoda.
- Bên Phổ chúng tôi cũng đã có lần hành quân thế này.
- Không biết vùng Kuban sẽ
đón tiếp chúng ta như thế nào đây? Thế nào nhỉ? Tất nhiên tình hình ở đấy cũng
có khác.
- Ngài có thuốc lá hút không nhỉ? - Tên trung úy Golovachev
hỏi Evgeni.
Hắn tháo găng tay vải thô không có ngón, tiếp lấy điếu
thuốc, cảm ơn rồi hỉ mũi và chùi ngón tay vào tà áo ca-pôt như một tên lính:
- Ngài trung úy, ngài đã tập quen được những thói bình dân
ấy rồi à? - Lão đại tá Lovichrep mỉm cười hóm hỉnh.
- Không muốn tập quen cũng không được. Còn ngài… hay là ngài
còn tích trữ được một tá khăn tay?
Lovichev không trả lời. Những que băng nhỏ xanh xanh rủ
xuống trên hàng ria hoa râm, đỏ như râu ngô. Thỉnh thoảng lão lại sịt mũi, nhăn
mặt vì cái lạnh lọt vào trong tà áo ca-pôt bị gió thốc lên.
“Thành phần tinh hoa của nước Nga”. - Evgeni nghĩ thầm,
trong lòng hắn đau nhói khi hắn nhìn những hàng quân và phần đầu của đội hình
hành quân bị cắt ra từng đoạn đang tiến ngoằn ngoèo trên đường.
Vài tên phi ngựa qua, trong số đó có cả Kornilov. Hắn cưỡi
một con ngựa cao giống Donesk, cái áo lót lông ngắn xanh lá cây nhạt có hai cái
túi chéo hai bên cùng với chiếc mũ lông trắng nhấp nhô rất lâu trên đầu các
hàng quân. Các tiểu đoàn sĩ quan tiễn đưa hắn bằng những tiếng “hu-ra” gầm lên
dồn dập.
- Tất cả những chuyện này kể ra cũng chẳng sao, nhưng lại
còn gia đình… - Lovichev húng hắng ho theo kiểu người già rồi liếc nhìn Evgeni
như tìm kiếm sự đồng tình. - Gia đình tôi còn ở lại Smolensk … - Lão nhắc lại. - Còn có vợ tôi và
một đứa con gái, chưa đến tuổi lấy chồng. Nó vừa tròn mười bảy hôm Nô-en… Ngài
thấy thế nào, đại úy?
- Vâ-â-âng…
- Ngài cũng có gia đình chứ? Ở Novocherkask à?
- Không, tôi là dân Quân khu sông Đông. Tôi còn có ông cụ
thân sinh.
- Tôi không được biết hai mẹ con nó hiện nay thế nào… ở đấy
không có tôi thì sẽ ra sao đây.- Lovichev nói tiếp.
Starobensky ngắt lời lão, giọng bực bội:
- Ai mà chẳng có gia đình để lại? Thưa ngài trung tá, tôi
không hiểu ngài sụt sịt như thế để làm gì? Người đâu mà kỳ quặc! Còn chưa kịp
rời khỏi Rostov …
- Starobensky! Ngài Piot Petrovich! Ngài đã dự trận chiến
đấu ở gần Taranroc có phải không? - Cách mấy hàng phía sau có người hỏi với
lên.
Starobensky quay lại, mặt đầy vẻ bực bội, một nụ cười rầu rĩ
trên môi.
- À Ngài Vladimir Georgievich, may mắn sao ngài lại ở cùng
trung đội với chúng tôi! Mới điều động à? Ngài ở đấy có chuyện không vừa ý với
ai thế? Ái chà… phải, chuyện ấy cũng dễ hiểu thôi… Ngài hỏi về chuyện Taranroc
à? Vâng, tôi có tham gia… nhưng có chuyện gì thế? Hoàn toàn đúng là như thế…
cậu ấy bị giết rồi.
Evgeni thẫn thờ mặc cho những lời trao đổi vẳng đến tai
mình. Hắn còn đang hồi tưởng lần hắn ở Yagonoie ra đi, về bố, về Acxinhia. Nỗi
buồn nhớ bất thần ập tới tim hắn làm hắn cảm thấy như tắc thở. Hắn vừa uể oải
cất bước vừa nhìn những cây súng trường lắp lưỡi lê ngả nghiêng phía trước,
nhìn những cái đầu đội mũ lông, mũ cát-két hay mũ ba tai ngật ngưỡng theo nhịp
chân, bụng bảo dạ: “Trong lúc này, mỗi người trong năm nghìn tay súng này, năm
nghìn kẻ bị xua đuổi này đều đang sôi sục căm thù, đang phẫn nộ đến cùng cực
như mình. Bọn khốn kiếp, chúng nó dồn mình ra khỏi nước Nga và còn đang muốn dẫm
chết mình ở đây. Nhưng cứ chờ xem! Rồi Kornilov sẽ lại đưa chúng ta tiến vào
Moskva!”. Trong giờ phút này hắn hồi tưởng lại chuyện Kornilov đến Moskva và
hân hoan sống lại ngày hôm ấy trong ký ức.
Ở một chỗ nào đó gần đấy, phía sau, có lẽ ở cuối đại đội, có
một đại đội pháo đang tiến. Tiếng ngựa hí, tiếng những cỗ xe pháo chạy long
sòng sọc, và cả mùi mồ hôi ngựa đưa từ phía đó lên. Ngửi thấy cái mùi thân
thuộc và ngây ngất đó, Evgeni vội quay đầu lại. Một tên chuẩn úy còn trẻ cưỡi
ngựa đi đầu nhìn hắn mỉm cười như với một người quen.
* * *
Tập đoàn quân tình nguyện đã tập trung ở khu vực trấn
Olginskaia trước ngày mười một tháng Ba. Kornilov chần chừ chưa tiến quân vì
hắn còn chờ tên ataman viễn chinh của
Quân khu sông Đông là tướng Popop tới Olginskaia. Popop vốn đã rút lui khỏi
Novocherkask về những cánh đồng cỏ ở bên kia sông Đông với chi đội của hắn gồm
1.600 tay gươm, 5 khẩu pháo và 40 khẩu súng máy nặng.
Sáng ngày mười ba, Popop đi ngựa đến Olginskaia, cùng đi có
viên trưởng ban tham mưu của hắn là tên đại tá Sidorin và vài viên sĩ quan
Cô-dắc hộ vệ.
Đến cái bãi cạnh ngôi nhà Kornilov ở, hắn cho ngựa đứng lại
rồi bám chặt lấy mũi yên và nặng nề đưa một chân qua yên ngựa.
Gã liên lạc vội chạy tới đỡ hắn xuống. Tên Cô-dắc này còn
trẻ, có bộ mặt ngăm ngăm, món tóc đen xõa trước trán và hai con mắt sắc như mắt
con te te. Popop quẳng dây cương cho hắn rồi từ tốn bước lên thềm. Sidorin và
mấy tên sĩ quan kia xuống ngựa, đi theo vào.
Bọn lính hầu dắt những con ngựa qua cửa hàng rào vào trong
sân.
Trong khi tên lính hầu có tuổi, khoèo chân, đeo những túi
thóc lên cổ ngựa, thì tên tóc đen, mắt như con te te kia, đã kịp lân la làm
quen với người đầy tớ gái của chủ nhà, một cô gái má đỏ hây hây, đầu chít một
chiếc khăn đan đỏm dáng, cặp chân không bít tất thọc trong đôi ủng cao su cao
ống. Hắn rỉ tai cô ả không biết câu gì làm cô ả phá lên cười rồi lạch bạch chạy
qua mặt hắn về phía nhà kho, hai chân vừa đi vừa trượt trên những vũng nước.
Popop bước vào trong nhà. Hắn đã có tuổi, coi vẻ oai phong
lẫm lẫm. Vào đến phòng ngoài, hắn cởi áo ca-pôt trao cho một tên lính hầu rất
nhanh nhẹn, treo cái roi ngựa lên mắc áo rồi sỉ mũi ầm ầm.
Tên lính hầu đưa hắn và Sidorin vào trong phòng họp. Sidorin
vừa đi vừa vuốt tóc.
Các viên tướng được mời tới họp hội nghị đều đã tụ tập đầy
đủ.
Kornilov đã ngồi vào bàn, hai khuỷu tay tì lên tấm bản đồ mở
rộng. Alekseev ngồi ngay ngắn bên phải hắn, mặt mới cạo, tóc bạc phơ, người
những xương cùng xẩu. Denikin long lanh cặp mắt thông minh nhìn cứ như chọc vào
người ta, đang nói không biết những gì với Romanovsky. Lucomsky vuốt râu thủng
thẳng đi đi lại lại trong phòng, nom mặt hắn hơi có chút giống Denikin, Markov
đứng bên khung cửa sổ trông ra sân, nhìn những tên lính hầu Cô-dắc đi đi lại
lại bên mấy con ngựa và cười đùa với cô người làm.
Sau khi chào hỏi xong, hai nhân vật mới đến ngồi vào bàn.
Alekseev hỏi vài câu không có ý nghĩa gì lắm về đường đi và
cuộc rút lui khỏi Novocherkask. Kutepov bước vào, cùng đi với hắn có vài viên
sĩ quan tại ngũ được Kornilov mời đến họp.
Popop ngồi xuống, vẻ mặt bình thản đầy tự tin. Kornilov nhìn
thẳng vào mặt hắn hỏi:
- Tướng quân làm ơn cho biết quân số chi đội ngài có bao
nhiêu?
- Một ngàn rưởi tay gươm, một đại đội pháo, bốn mươi khẩu
súng máy nặng có đủ xạ thủ.
- Tất nhiên ngài đã được biết các hoàn cảnh bắt buộc Tập
đoàn quân tình nguyện rút khỏi Rostov .
Hôm qua chúng tôi có họp một cuộc hội nghị. Đã thông qua quyết định đi Kuban , hướng tiến quân là Ekaterinoda. Hiện đang có những
chi đội tình nguyện hoạt động chung quanh thành phố đó. Chúng ta sẽ tiến quân
theo đường này… - Kornilov di chiếc bút chì chưa gọt nhọn trên bản đồ, nói
giọng hấp tấp hơn. - Vừa đi vừa thu hút dân Cô-dắc Kuban và đánh tan các đại
đội Xích vệ tìm cách gây trở ngại cho cuộc tiến quân của chúng tôi, các chi đội
này đều nhỏ bé, thiếu tổ chức và không có sức chiến đấu.- hắn nhìn vào hai con
mắt của Popop.- Ngài hãy đem chi đội của ngài liên hợp với Tập đoàn quân tình
nguyện và cùng với chúng tôi tiến tới Krasnodar. Phân tán lực lượng là điều
không có lợi cho chúng ta.
- Tôi không thể làm như thế được! - Popop tuyên bố đốp luôn,
như đinh đóng cột.
Alekseev hơi ngả người sang phía hắn.
- Xin ngài cho phép hỏi vì sao thế?
- Vì tôi không thể nào bỏ lãnh thổ Quân khu sông Đông để đi
tới một vùng nào đó ở Kuban . Chúng tôi sẽ chặn
địch ở vùng phía bắc sông Đông, chúng tôi sẽ ở lại trong khu qua mùa đông(3) để
chờ các sự kiện xảy ra. Chúng ta chưa phải lo đến những hành động tích cực của
quân địch vì không phải ngày một ngày hai mà băng tan ra. Không riêng pháo binh
mà cả kỵ binh cũng không thể nào vượt qua sông Đông. Mà trong khu vực qua mùa
đông, rơm rạ và lúa mì đã được chuẩn bị hoàn toàn đầy đủ. Chúng tôi có thể phát
triển hoạt động du kích bất cứ lúc nào và về bất cứ hướng nào.
Với vẻ tự tin rất nặng đồng cân, Popop kể những lý lẽ cự tuyệt
lời đề nghị của Kornilov.
Hắn lấy lại hơi xong, thấy Kornilov có vẻ muốn nói gì thêm,
bèn lắc đầu một cách gàn bướng:
- Tôi xin phép nói nốt… Ngoài các điều đó ra còn có một yếu
tố khác đặc biệt quan trọng mà ban chỉ huy chúng tôi phải tính tới là tinh thần
binh sĩ Cô-dắc của chúng tôi. - Hắn giơ một bàn tay trắng hếu, béo múp, ngón
tay trỏ đeo một chiếc nhẫn vàng ăn lẳn vào trong thịt, đưa mắt nhìn tất cả mọi
người một lượt rồi hơi cất cao giọng nói tiếp. - Nếu chúng tôi chuyển hướng
tiến quân sang Kuban, chi đội sẽ có thể đứng trước nguy cơ tan rã. Có thể là
binh sĩ Cô-dắc sẽ không chịu đi. Không thể quên một hoàn cảnh là thành phần
thường bị và kiên định nhất của tôi là binh sĩ Cô-dắc, mà tinh thần chúng nó
thì hoàn toàn không được vững vàng như các đơn vị của các ngài đâu. Chúng nó
chỉ là những con người không có ý thức. Chúng nó sẽ không đi, có thế thôi. Còn
như mạo hiểm để có thể mất toàn bộ chi đội thì đó là việc tôi không thể nào làm
được. - Popop nói rành rọt từng tiếng rồi lại ngắt lời Kornilov. - Xin ngài thứ
lỗi cho, tôi đã trình bày để ngài rõ quyết định ấy. Tất nhiên phân tán lực
lượng là điều không có lợi cho chúng ta, nhưng tình hình đã phát triển đến nước
này thì chỉ còn có thể có một lối thoát mà thôi. Xuất phát từ những sự cân nhắc
mà tôi vừa nói lên, tôi cho rằng Tập đoàn quân tình nguyện đừng đi Kuban nữa thì hợp lý hơn. Tinh thần dân Cô-dắc Kuban đã gây cho tôi một mối lo ngại không phải là nhỏ.
Các ngài hãy cùng với chi đội sông Đông tiến về các đồng cỏ bên kia sông Đông,
ở đấy Tập đoàn quân có thể lợi dụng thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức, bổ sung
quân số cho tới mùa xuân bằng những cán bộ tình nguyện mới ở nước Nga tới…
- Không! - Kornilov kêu lên. Mới hôm qua hắn còn ngả theo ý
kiến tiến quân tới các đồng cỏ bên kia sông Đông và khăng khăng bác bỏ ý kiến
ngược lại của Alekseev. - Tiến quân tới khu vực qua mùa đông thì chẳng có nghĩa
gì cả. Chúng tôi có khoảng sáu ngàn quân…
- Nếu nói đến vấn đề cung cấp lương thực thì thưa quan lớn,
tôi dám đảm bảo với ngài rằng khu vực qua mùa đông sẽ không để chúng ta phải
mong mỏi một điều gì hơn nữa. Ngoài ra ở đấy ngài sẽ còn có thể lấy một số ngựa
của các trại chủ chăn nuôi tư để biến một phần Tập đoàn quân của ngài thành kỵ
binh. Ngài sẽ có những cơ may mới để tiến hành vận động chiến ở vùng đồng nội.
Các ngài đang cần phải có kỵ binh, mà binh chủng này Tập đoàn quân tình nguyện
lại chẳng có nhiều gì cho lắm.
Kornilov đưa mắt nhìn Alekseev. Hôm nay hắn có thái độ đặc
biệt săn đón ân cần đối với Alekseev. Rất có thể là hắn đang hoang mang về vấn
đề chọn hướng tiến quân và đang tìm kiếm sự ủng hộ của một kẻ có uy tín.
Alekseev rất chăm chú lắng nghe.
Viên tướng già này vốn quen giải quyết mọi vấn đề một cách
ngắn gọn, đến nơi đến chốn và rành rọt. Hắn trình bày các ưu điểm của hướng
tiến quân về Ekaterinoda bằng vài câu cô đọng rồi kết luận:
- Tiến quân theo hướng này chúng ta sẽ có thể phá vòng vây
Bolsevich một cách dễ dàng nhất và có thể tập họp các chi đội hiện đang hoạt
động ở gần Ekaterinoda.
- Nhưng nếu không thành công thì sao, thưa ngài Mikhail
Vasilievich? - Lucomsky hỏi thêm một cách dè dặt.
Alekseev nhai nhai cặp môi, đưa bàn tay lên bản đồ.
- Ngay trong trường hợp giả thiết là không thành công, chúng
ta vẫn còn có khả năng tiến thẳng tới Kavkaz và cho Tập đoàn quân phân tán
chiến đấu.
Romanovsky ủng hộ ý kiến của Alekseev. Markov nói chen vào
vài câu có phần nóng nảy. Đã gần như không còn có gì cãi lại được các lý lẽ
chắc nịch của Alekseev, song những lời phát biểu của Lucomsky đã làm cho cán
cân trở lại thăng bằng.
- Tôi ủng hộ kiến nghị của tướng quân Popop. - Hắn tuyên bố
rồi thủng thẳng lựa lời. - Việc hành quân về Kuban
sẽ kèm theo với những khó khăn rất lớn, các khó khăn ấy chúng ta không thể ngồi
đây mà tính trước được đâu. Trước hết chúng ta sẽ phải vượt qua đường sắt hai
lần…
Tất cả những kẻ có mặt trong hội nghị đều trố mắt nhìn theo
hướng ngón tay Lucomsky, Lucomsky kiên quyết nói tiếp:
- Bọn Bolsevich sẽ không bỏ lỡ cơ hội đón tiếp chúng ta một
cách xứng đáng, chúng nó sẽ điều những đoàn xe lửa thiết giáp tới. Chúng ta lại
có một đoàn xe tải nặng nề và hàng lô thương binh. Tất cả những thứ đó chúng ta
sẽ không thể bỏ lại được và sẽ là một gánh nặng hết sức lớn lao đối với Tập
đoàn quân, trở ngại không cho chúng ta đẩy nhanh tốc độ hành tiến. Ngoài ra tôi
không hiểu vì sao lại có ý tin tưởng rằng dân Cô-dắc Kuban
sẽ có thái độ hữu nghị đối với chúng ta? Theo gương dân Cô-dắc sông Đông hình
như họ cũng đang ngả theo chính quyền Bolsevich rồi thì phải. Trước những tin
đồn như thế, chúng ta phải cực kỳ thận trọng, và phải có một mức độ hoài nghi
rất lớn, một sự hoài nghi lành mạnh. Dân Kuban cũng đang mắc cái chứng đau mắt
hột Bolsevich mà quân đội Nga trước kia đã truyền lại… Họ có thể có thái độ thù
nghịch đối với chúng ta. Để kết luận, cần phải nói dứt khoát rằng ý kiến của
tôi là tiến về phía đông, về vùng đồng cỏ, và từ đó uy hiếp bọn Bolsevich sau
khi tích lũy được lực lượng.
Được đa số các tướng lĩnh dưới quyền ủng hộ, Kornilov quyết
định tiến về phía tây Velikoniazirskaia, vừa hành quân vừa bổ sung ngựa cho
thành phần không chiến đấu của Tập đoàn quân rồi từ đấy quay sang Kuban. Hắn
tuyên bố kết thúc hội nghị, trao đổi vài câu với Popop rồi chia tay với viên
tướng này một cách lạnh nhạt và trở về phòng riêng. Alekseev bước ra theo hắn.
Đại tá Sidorin trưởng ban tham mưu chi đội sông Đông bước ra
thềm, đinh thúc ngựa lách cách. Hắn cất cái giọng oang oang, gọi bọn lính hầu
một cách thích thú:
- Ngựa đâu?
Một gã trung úy Cô-dắc còn trẻ, có bộ râu màu nhạt, xốc gươm
bước qua những vùng nước, đi tới bên thềm. Hắn dừng lại trước bậc cuối cùng khẽ
hỏi:
- Tình hình thế nào, thưa ngài đại tá?
- Khá lắm! - Sidorin khẽ trả lời, coi bộ hết sức cao hứng. -
Ông lão nhà chúng ta đã từ chối không đi Kuban .
Chúng ta sẽ ra đi ngay.
- Ngài đã sẵn sàng chưa, Itvarin?
- Bẩm xong rồi, chúng nó đang dắt ngựa tới!
Mấy tên lính hầu lên ngựa rồi dắt ngựa tới. Gã có cái bờm
tóc đen và hai con mắt đen như mắt te te liếc nhìn thằng bạn của nó.
- Con bé có hay không hử? - Nó vừa hỏi vừa phì cười.
Tên có tuổi trả lời với một nụ cười dè dặt:
- Cũng như cái vảy hắc lào trên con ngựa thôi.
- Song nhỡ nó gọi cậu thì sao?
- Thôi đi, đồ ngu xuẩn. Hôm nay là ngày ăn chay cơ mà!
Itvarin, gã sĩ quan trước kia cùng đơn vị với Grigori
Melekhov nhảy lên con ngựa mông xuôi, trán hói, mũi trắng của hắn, rồi ra lệnh
cho bọn lính hầu:
- Ra phố.
Popop và Sidorin chào từ biệt một viên tướng nào đó rồi bước
xuống thềm. Một tên lính hầu giữ ngựa, giúp cái chân của ông tướng tìm thấy bàn
đạp. Popop vung cái roi ngựa xấu xí kiểu Cô-dắc, cho con ngựa chạy nước kiệu
nhỏ. Mấy gã lính hầu, Sidorin và bọn sĩ quan rướn người trên bàn đạp, hơi ngả
về phía trước, cho ngựa chạy theo.
Tập đoàn quân tình nguyện hành quân hai chặng thì tới trấn
Metrechinskaia. Đến đấy Kornilov nhận được những tin tình báo bổ sung về khu
vực qua mùa đông. Thấy các tin đó không có lợi, hắn bèn triệu tập bọn chỉ huy
các đơn vị chiến đấu tuyên bố quyết định đã được thông qua về việc tiến quân đi
Kuban .
Một tên sĩ quan liên lạc được phái đến chỗ Popop mang theo
bản kiến nghị thứ hai về việc liên hợp. Tên sĩ quan liên lạc này về đến khu vực
Staro-Ivanovsky thì đuổi kịp tập đoàn quân. Câu trả lời của Popop mà hắn mang
về vẫn như cũ: Popop cự tuyệt kiến nghị đó một cách lễ phép nhưng lạnh nhạt.
Hắn viết rằng hắn không thể thay đổi quyết định và tạm thời hắn cứ ở lại khu Xansky.
-------------
Chú thích:
(1) Dịch nghĩa là trung đoàn ném lựu đạn, thường dùng để
chỉ những đơn vị ưu tú (ND)
(2) Một ngọn núi nhỏ ở Jeruzalem, nơi Giêsu bị đóng đinh
câu rút. (ND)
(3) Mùa hè những người Cô-dắc chăn nuôi đuổi bò ngựa đi ăn
rong đến mùa đông lại dồn về một nơi nhất định để qua vụ rét (ND)
19
Buntruc cũng ra đi cùng với chi đội của Golubov tiến công vu
hồi đánh chiếm Novocherkask. Ngày hai mươi ba tháng Hai, chi đội ra khỏi
Sarnaia, tiến qua trấn Badorskaia, và đến đêm đã tới Melikhovskaia. Hôm sau,
chi đội rời khỏi trấn này lúc trời vừa rạng.
Golubov cho chi đội hành quân cấp tốc. Anh luôn luôn có mặt
trên đầu hàng quân với cái thân hình vạm vỡ, và nóng nẩy quất ngọn roi xuống
mông ngựa như mưa. Đến đêm thì tiến qua Besergenevskaia. Anh em kỵ binh chỉ cho
ngựa nghỉ ngơi qua quít rồi lại tiếp tục chuyển quân dưới bầu trời xám xịt,
không có ánh sao. Lớp băng mỏng phủ trên con đường đất lạo xạo dưới những vó
ngựa.
Đến gần Krivianskaia, chi đội bị lạc đường, nhưng lại lập
tức tìm được đúng hướng. Đoàn quân tiến vào Krivianskaia thì trời bắt đầu hửng.
Trong trấn còn chưa có ai ra đường. Gần một cái bãi nhỏ, có một ông lão đang
đập băng trong cái máng ngựa bên bờ giếng, Golubov cho ngựa tới gần ông cụ. Chi
đội dừng lại.
- Chào cụ.
Người dân Cô-dắc từ từ đưa bàn tay đi chiếc găng không có
ngón lên chiếc mũ lông, trả lời bằng một giọng hằn học:
- Chào ông.
- Thế nào cụ, anh em Cô-dắc trấn cụ đã lên Novocherkask rồi
à? Vùng cụ vừa có động viên phải không?
Ông cụ vội nhấc cái rìu lên, bước vào trong cổng, không trả
lời.
- Tiến! - Golubov hô lên rồi vừa văng tục vừa bỏ đi.
Hôm ấy Cơ-rúc nhỏ của quân khu sắp sửa chạy về trấn
Conxlachinovskaia. Tên ataman viễn chinh mới của Quân khu sông Đông là tướng
Popop đã chỉ huy các lực lượng vũ trang rút khỏi Novocherkask và chuyển các của
cải của quân khu đi. Sáng hôm ấy nhận được tin Golubov đang từ Melikhovskaia
tiến về hướng Bétxétghê-nhépskaia. Cơ-rúc bèn phái viên đại úy Cô-dắc Xivôtôbôp
đến đàm phán với Golubov về các điều kiện đầu hàng của Novocherkask. Các chiến
sĩ kỵ binh của Golubov tiến theo Sivolobov đột nhập vào Novocherkask không gặp
phải một sự chống cự nào cả. Trên con ngựa mồ hôi sủi lên như bọt xà phòng,
Golubov đích thân phi tới ngôi nhà của Cơ-rúc cùng với một toán Cô-dắc rất
đông. Vài anh chàng vô công rồi nghề tò mò đứng túm tụm ở cửa ra vào. Một tên
lính hầu đứng chờ Nadarov với con ngựa yên cương sẵn sàng.
Buntruc nhảy trên ngựa xuống, vớ lấy một khẩu trung liên.
Anh cùng với Golubov và những anh em Cô-dắc còn lại chạy vào trong trụ sở của Cơ-rúc.
Nghe tiếng cửa mở đánh rầm, bọn đại biểu ngồi đông trong căn phòng rộng thênh
thang đều quay đầu lại, mặt tên nào tên nấy trắng bệch ra.
- Đứng cả dậy! - Golubov ra lệnh, giọng gay gắt như trong
khi duyệt binh. Hô xong anh tiến thẳng tới cái bàn của đoàn chủ tịch, chung
quanh có anh em Cô-dắc hộ vệ. Golubov đi quá vội nên vừa đi vừa vấp Bọn ủy viên
Cơ-rúc nghe tiếng quát oai vệ xô vội ghế ầm ầm, đứng cả dậy. Một mình Nadarov
vẫn ngồi yên.
- Sao các anh lại dám làm đứt quãng cuộc họp của Cơ-rúc? -
Hắn tức tối quát lên, giọng oang oang.
- Chúng mày đã bị bắt! Câm ngay! - Golubov đỏ mặt tía tai
chạy đến chỗ Nadarov, giật đứt chiếc lon vai trên cái áo quân phục cấp tướng
của hắn rồi rít lên, giọng phá ra. - Đứng dậy! Tao bảo mày đứng dậy! Tao bảo
mày đứng dậy? Giải nó đi! Tao đang nói với đứa nào đó hử?! Cái thằng lon vàng này!
Buntruc bố trí một khẩu súng máy nặng ở cửa. Các ủy viên
Cơ-rúc đứng lốc nhốc một lũ như đàn cừu. Anh em Cô-dắc lôi qua trước mặt
Buntruc tên Nadarov, tên chủ tịch Cơ-rúc Volosynov sợ tái xanh tái tím và vài
tên nữa.
Golubov bước ra theo, mặt chỗ tím chỗ đỏ, gươm va lách cách.
Một tên ủy viên Cơ-rúc nắm lấy tay áo Golubov.
- Bẩm ngài đại tá, bẩm quan lớn, chúng tôi đi đâu bây giờ ạ?
- Thưa chúng tôi được tự do chứ ạ? - Một tên khác nhô đầu
qua vai anh, hỏi.
- Cút mẹ chúng mày đi! - Golubov vung tay quát lên, rồi đến
khi đã đi tới ngang chỗ Buntruc, anh lại quay nhìn bọn ủy viên Cơ-rúc, dậm chân
hét lên. - Xéo ngay… Tao hơi đâu coi được chúng mày! Mau lên!
Cái giọng khàn khàn thô bạo của anh còn dội lên rất lâu
trong căn phòng.
Buntruc về nghỉ một đêm ở nhà với mẹ. Hôm sau, ở
Novocherkask vừa có tin Xivéc đã chiếm được Rostov là anh lên xin phép ngay
Golubov và sáng hôm sau cưỡi ngựa đi Rostov.
Anh làm việc ở bộ tư lệnh của Xivéc hai ngày. Đồng chí này
anh đã quen từ hồi còn làm biên tập tờ “Sự thật trong chiến hào”. Anh đến thăm Ủy
ban quân sự cách mạng, nhưng cả Abramxon lẫn Anna đều không có ở đấy. Ở bộ tư
lệnh của Xivéc có tổ chức một tòa án cách mạng, tòa án này lên án nghiêm khắc và
xử tội những tên Bạch vệ bị bắt. Do nhu cầu của tòa án, Buntruc làm việc ở đây
một ngày, tham gia vài cuộc vây bắt và hôm sau lại đến Ủy ban quân sự cách
mạng. Giữa lúc chẳng còn hy vọng gì nữa, Buntruc vừa lên thang gác đã nghe thấy
giọng nói quen thuộc của Anna. Máu dồn lên tim anh trong lúc anh chậm bước, đi
vào căn phòng thứ hai, nơi vang ra giọng nói của những người nào đó cùng với
tiếng cười của Anna.
Khói thuốc lá bốc mù mịt trong căn phòng trước kia dùng làm
trụ sở của bộ tư lệnh. Ở góc phòng có một người ngồi viết sau một chiếc bàn của
phụ nữ. Người ấy mặc một chiếc áo ca-pôt đã đứt hết khuy, đầu đội một chiếc mũ
lông của bộ binh tuột cả tai. Một đám vừa binh lính vừa thường dân mặc áo lông
ngắn và áo bành tô đứng quanh anh ta. Họ chia thành từng nhóm, hút thuốc,
chuyện gẫu với nhau.
Anna đứng bên cửa sổ, lưng quay về phía cửa ra vào. Abramxon
ngồi trên bậu cửa sổ, mười ngón tay đan vào nhau giữ lấy đầu gối bên chân co
lại. Một chàng Xích vệ cao lớn mặt nom như người Ladvia đứng nghiêng đầu bên
cạnh Abramxon. Anh ta giơ thẳng ngón tay út, đưa điếu thuốc lá sang bên, kể
không biết chuyện gì, có lẽ khá buồn cười: Anna ngửa cổ ra cười lanh lảnh,
Abramxon cười đến nhăn cả mặt, những người đứng gần đấy đều mỉm cười lắng nghe.
Khuôn mặt rộng bè bè của anh chàng Xích vệ có những nét rành rọt như đẽo bằng
rìu trên đó hiện lên rất sống một vẻ thông minh, sâu sắc nhưng có phần ác ác.
Buntruc đặt tay lên vai Anna:
- Chào em, Anna!
Anna quay lại, đỏ bừng mặt từ má xuống tới xương đòn gánh,
vài giọt nước mắt long lanh trong khóe mắt.
- Anh ở đâu đến thế? Đồng chí Abramxon xem đây này? Anh ấy
đây này, cứ như đồng một hào mới ấy, thế mà đồng chí cứ lo cho anh ấy!
Anna không ngước nhìn lên, cứ thế nói một thôi một hồi, rồi
cảm thấy không giấu nổi vẻ bối rối của mình, Anna đi ra cửa.
Buntruc nắm lấy bàn tay nóng hổi của Abramxon, trao đổi với
anh ta vài câu, nhưng trong khi đó anh cứ cảm thấy rằng trên mặt mình đang có
một nét cười ngớ ngẩn, tràn trề hạnh phúc, bèn không trả lời câu hỏi nào đó của
Abramxon (thậm chí anh không nắm được ý nghĩa của câu hỏi đó), bước tới chỗ
Anna. Lúc này đã trấn tĩnh lại được, Anna đón Buntruc bằng một nụ cười có phần
bực bội vì sự ngượng ngùng của mình.
- Nào, chào anh lần nữa nhé? Anh thế nào? Có khỏe không? Anh
đến đây bao giờ thế? Từ Novocherkask đến đây à? Anh đã ở trong chi đội của
Golubov à? Hay quá… Nào, thế tình hình như thế nào?
Trong khi anh trả lời các câu hỏi của Anna, hai con mắt
cương nghị của anh cứ nhìn Anna đăm đăm không chớp. Anna nhìn lại Buntruc nhưng
không chịu được mãi, phải liếc sang chỗ khác.
- Chúng ta ra phố một lát đi anh. - Anna đề nghị
Abramxon gọi với theo hai người.
- Hai cô cậu đi có chóng về không? Này đồng chí Buntruc có
công việc bàn với đồng chí đấy. Chúng mình đang định dùng đồng chí vào một công
tác đấy.
- Tôi đi một tiếng sẽ về.
Ra đến ngoài phố, Anna âu yếm nhìn thẳng vào mắt Buntruc,
rồi vung tay bực bội.
- Anh Ilia ạ, anh Ilia ạ, lúc nãy em có vẻ ngượng như thế
thật là khỉ quá. Cứ như một đứa con gái nhỏ ấy! Nguyên nhân thứ nhất là anh đến
bất thần quá, hai nữa là hoàn cảnh nửa dơi nửa chuột của chúng ta. Anh với em
thật ra là thế nào với nhau nhỉ? Có phải là một cặp “vị hôn phu vị hôn thê” như
trong tình ca hay không? Anh có biết không, ở Lugansk có lần đồng chí Abramxon
đã hỏi em: “Anna cùng sống với Buntruc đấy à?”. Em không nhận, nhưng đồng chí
ấy nhận xét rất tinh nên không thể không nhìn thấy một điều đập vào mắt như thế
được. Đồng chí ấy chẳng nói gì cả, nhưng em nhìn vào mắt thì thấy rằng đồng chí
ấy không tin.
- Em hãy kể về em đi: vừa qua em làm gì và như thế nào?
- Ồ, ở đấy chúng em đã đẩy mạnh được công tác! Tổ chức được
cả một đội hai trăm mười một tay súng. Làm công tác tổ chức và công tác chính
trị… nhưng tất cả các chuyện đó thì làm sao mà kể trong hai ba câu được? Anh
đến bất ngờ như thế làm em còn chưa trở lại bình tĩnh đây này. Anh ở đâu… Anh
ngủ ở đâu thế? - Anna không kể nữa mà lại hỏi thêm.
- Ở đây, ở một nhà đồng chí.
Buntruc luống cuống vì anh đã nói dối, mấy đêm nay anh đều
ngủ ở trụ sở bộ tư lệnh của Xivéc.
- Ngay hôm nay anh sẽ chuyển đến nhà em mà ở. Anh còn nhớ
chỗ em ở không? Trước kia anh đã có lần đưa em về nhà rồi mà.
- Anh sẽ tìm thấy. Nhưng… anh có làm phiền gia đình em
không?
- Thôi đủ rồi, anh chẳng làm phiền ai đâu mà sợ, và dứt
khoát anh không được nói đến chuyện ấy nữa đấy.
Đến chiều Buntruc nhét tất cả đồ đạc quần áo của anh vào một
chiếc ba-lô bộ binh to tướng, và đến cái ngõ ở ngoại ô, chỗ Anna ở.
Một bà già ra đón anh ở ngưỡng cửa một căn nhà ngang nhỏ
bằng gạch. Khuôn mặt của bà có những nét hao hao như Anna: Cũng cái ánh đen láy
đến xanh biếc trong con mắt, cũng cái mũi hơi quặp, chỉ khác có làn da nhăn
nheo xám ngắt và cái miệng móm mém của người già.
- Đồng chí là Buntruc à? - Bà cụ hỏi.
- Vâng.
- Xin mời đồng chí vào. Con bé nhà tôi có cho tôi biết về
đồng chí.
Cụ dẫn Buntruc vào một căn phòng nhỏ, chỉ chỗ để đồ đạc rồi
đưa ngón tay co lại vì tê thấp chỉ chung quanh:
- Đồng chí sẽ ở phòng này. Cái giường này để đồng chí nằm
đấy.
Bà cụ nói bằng một giọng Do Thái khá rõ. Ngoài cụ ra, trong
nhà còn có một cô gái còn nhỏ, gầy gò, mắt cũng sâu như mắt Anna. Được một lát
thì Anna về, làm trong nhà ồn ào, rộn ràng lên.
- Nhà ta chưa có ai đến hả mẹ? Anh Buntruc chưa đến à?
Bà mẹ trả lời Anna không biết những gì bằng tiếng Do Thái.
Anna đi tới cửa phòng anh, chân bước rắn rỏi, lướt thướt.
- Em vào được không anh?
- Được được. - Buntruc, đang ngồi trên chiếc ghế dựa, đứng
dậy ra đón Anna.
- Thế nào anh? Anh thu xếp xong nơi ăn chốn ở rồi chứ?
Anna nhìn Buntruc bằng cặp mắt tươi cười, có vẻ vừa ý.
- Anh đã ăn gì chưa? Ta ra ngoài kia đi.
Anna nắm lấy tay áo quân phục của Buntruc, dắt anh ra phòng
ngoài và nói:
- Mẹ ơi, anh ấy là đồng chí của con đấy. - Anna mỉm cười. -
Mẹ đừng làm anh ấy giận nhé.
- Mày làm sao vậy, sao lại có chuyện như thế được? Đồng chí
ấy là khách của nhà ta mà.
Đêm hôm ấy, khắp thành phố Rostov có những phát súng nổ lốp bốp như
những quả xiêm gai chín. Thỉnh thoảng có khẩu súng máy sủa lên một hồi rồi tất
cả lại lặng đi. Và trời đêm, một đêm trang nghiêm, tối đen như mực của tháng
Hai lại trút bầu không khí lặng tờ xuống các dãy phố. Buntruc và Anna ngồi rất
lâu trong căn phòng khắc khổ nhưng gọn gàng sạch sẽ của anh.
- Trước kia em ở căn phòng này với em gái của em đấy. - Anna
nói. - Anh thấy không, chúng em sống giản dị như người tu kín ấy. Không có những
bức tranh rẻ tiền, không có những tấm ảnh, chẳng có gì thường thấy trong phòng
một cô học sinh trung học.
- Thế cả nhà sống bằng gì? - Giữa câu chuyện Buntruc hỏi,
Anna trả lời không khỏi cảm thấy kiêu hãnh:
- Em làm việc ở nhà máy Axinolov và dạy học.
- Nhưng bây giờ?
- Mẹ may vá. Có hai mẹ con thì cũng chẳng cần gì nhiều.
Buntruc kể tỉ mỉ về trận đánh chiếm Novocherkask, các trận
chiến đấu ở gần Zverovo và Kamenskaia. Anna cũng cho anh biết các cảm tưởng của
Anna về công tác ở Lugansk và Taranroc.
Đến mười một giờ, bà mẹ vừa tắt đèn trong phòng bà thì Anna
ra ngoài.
20
Đến tháng ba, Buntruc được cử đến công tác tại tòa án cách
mạng thuộc Ủy ban quân sự cách mạng sông Đông. Người chánh án cao lênh khênh,
mắt đùng đục, người gày võ vì công tác và những đêm không ngủ, kéo Buntruc ra
cửa sổ căn phòng của anh ta rồi vừa nói vừa nhìn chiếc đồng hồ đeo tay (anh ta
sắp phải đến dự phiên toà).
- Đồng chí vào đảng từ năm nào? À hà, tốt lắm. Thế này này,
đồng chí sẽ làm đội trưởng chấp pháp ở chỗ chúng tôi. Đêm qua chúng tôi đã cho
thằng đội trưởng chấp pháp cũ của chúng tôi về với “bộ tham mưu của
Dukhonin”(1) rồi… vì tội ăn hối lộ. Nó thật sự là một thằng mắc cái chứng cuồng
thích hành hạ người, một thằng bậy bạ, một thằng khốn nạn tồi tệ, chúng ta
không cần đến những đứa như thế. Đây là một công tác bẩn thỉu, nhưng ngay trong
đó chúng ta cũng phải giữ trọn vẹn ý thức về trách nhiệm của mình trước đảng.
Đồng chí hãy hiểu ý tôi muốn nói, là phải… - Anh ta nhấn mạnh. - giữ lấy tính
người. Do nhu cầu của chúng ta cần phải tiêu diệt thể xác của bọn phản cách
mạng, nhưng không được biến việc đó thành một trò xiếc. Đồng chí hiểu ý tôi
chứ? Được, thế thì tốt lắm. Thôi, đồng chí đi mà nhận lấy công việc.
Ngay đêm ấy, Buntruc chỉ huy một đội Xích vệ mười sáu người
đem bắn sáu người bị tòa án kết án tử hình vào lúc nửa đêm ở một nơi cách thành
phố ba vec-xta. Trong số đó có hai gã Cô-dắc người trấn Nilovskaia, còn lại đều
là dân Rostov .
Hầu như ngày nào người ta cũng đem một chiếc xe cam-nhông
chở những kẻ bị tuyên án ra ngoài thành phố vào lúc nửa đêm, đào qua quít những
cái huyệt. Cả bọn tù tử hình cũng tham gia việc đào huyệt với một bộ phận Xích
vệ. Buntruc tập hợp các chiến sĩ Xích vệ rồi hô bằng một giọng trầm như tiếng
gang:
- Nhắm trúng kẻ thù của cách mạng. - rồi vung khẩu Nagan, -
bắn!
Chỉ một tuần sau anh đã gầy rộc, đen sạm đi, cứ như bị trát
một lớp đất. Mắt Buntruc sâu hoắm xuống, hai hàng mi lúc nào cũng giật giật như
lên cơn thần kinh không che nổi cái ánh đau khổ trong cặp mắt.
Chỉ đến đêm Anna mới được thấy mặt Buntruc. Anna làm việc ở Ủy
ban quân sự cách mạng, mãi khuya mới về nhà, nhưng bao giờ Anna cũng cố chờ để
được nghe thấy tiếng gõ đứt quãng vào cửa sổ báo tin Buntrúc đã về.
Một lần Buntruc về nhà vào lúc quá nửa đêm như mọi ngày.
Anna mở cửa cho anh rồi hỏi:
- Anh ăn tối nhé?
Buntruc không trả lời. Anh lảo đảo như người say rượu, trở
về phòng của anh và cứ nguyên ca-pôt, ủng, mũ như thế nằm vật ra giường. Anna
đến gần, nhìn vào mặt Buntruc: hai con mắt anh nhắm nghiền, nước bọt phì ra qua
những cái răng chắc khoẻ nhe ra, những sợi tóc lơ thơ còn lại sau đợt thương
hàn bết lại trên trán thành từng món ướt đẫm.
Anna ngồi xuống bên cạnh anh, trong tim cứ như bị niềm
thương hại và khổ tâm cấu xé. Anna hỏi thầm thì:
- Anh đau khổ lắm à, anh Ilia?
Buntruc nắm chặt lấy bàn tay của Anna, quay mặt vào tường,
răng nghiến ken két, rồi không nói một lời nào, cứ thế thiếp đi, nhưng trong
khi ngủ anh líu nhíu lẩm bẩm những gì không biết, vẻ như van lơn, có lúc lại cố
nhảy chồm dậy. Anna nhìn thấy thế, hết cả hồn vía, một niềm kinh hoàng bản năng
làm Anna run bắn người lên: Buntruc ngủ mà hai con mắt cứ trợn ngược, mí mắt
không nhắm hẳn cho thấy hai khoảng lòng trắng vàng khè sáng bóng như bị viêm.
- Anh phải bỏ công tác này đi thôi! - Sáng hôm sau Anna nói
với Buntruc giọng van lơn. - Anh ra mặt trận đi còn hơn. Trông anh chẳng còn ra
hồn người nữa, anh Ilia ạ! Anh đến bỏ xác trong công tác này mất.
- Thôi im đi! - Buntruc vừa quát lên vừa hấp háy hai con mắt
trắng dã như mắt người điên.
- Anh đừng kêu lên như thế. Em có xúc phạm gì đến anh đâu?
Bỗng nhiên Buntruc có vẻ như đờ đẫn, tựa hồ tất cả sự điên
cuồng tích lũy trong lòng anh đã được dốc ra hết trong tiếng kêu vừa nãy.
Anh nhìn hai bàn tay mình một cách mệt mỏi rồi nói:
- Tiêu diệt các thứ rác rưởi trong nhân loại là một công
việc bẩn thỉu. Em có thấy không, bắn giết người là một điều có hại cho sức khoẻ
cũng như cho tinh thần… Thế mà em… - Lần đầu tiên trước mặt Anna, Buntruc văng
tục một câu gớm ghiếc đến như thế. - Chịu đi làm những việc bẩn thỉu thì chỉ có
những đứa ngu xuẩn và những loài thú vật, hoặc những thằng cuồng tín. Có phải
thế không? Ai mà chẳng muốn dạo chơi vườn hoa, nhưng mẹ khỉ, trước khi trồng
hoa trồng cây thì phải dọn cho sạch những cái gì bẩn thỉu mới được! Phải bón
phân mới được! Phải chịu bẩn thỉu mới được! - Tuy Anna quay mặt đi, không nói
gì cả, nhưng Buntruc vẫn giật giọng. - Phải diệt cho hết những của rác rưởi,
thế mà người ta lại khinh ghét công việc ấy! - Lúc này Buntruc đã quát lên và
đấm tay thình thịch xuống bàn, hai con mắt đỏ máu nháy lia lịa.
Bà mẹ của Anna ghé mắt nhìn vào trong phòng. Buntruc chợt
nhớ ra, bèn nói khẽ hơn:
- Anh không thể bỏ công tác này mà đi được đâu! Ở đây anh đã
nhìn thấy, đã cảm thấy cụ thể rằng anh đang làm một việc có ích! Anh vun vén
các thứ rác rưởi bẩn thỉu! Anh bón cho mảnh đất này trở nên mầu mỡ hơn! Phì
nhiêu hơn! Đến một lúc nào đó sẽ có những con người sung sướng đi trên mảnh đất
này… Có lẽ con anh, đứa con chưa lọt lòng của anh sẽ được sống như thế… -
Buntruc cười, tiếng cười rin rít chẳng có gì vui vẻ. - Những đồ sâu bọ… chấy
rận ấy… hai bàn tay này đã diệt bao nhiêu rồi… Chấy rận, cái loài ký sinh trùng
hút máu người ấy… hai bàn tay này đã giết hàng chục… - Buntruc giơ ra hai bàn
tay nắm chắc, lông lá đen sì nom như hai cái chân đầy móng nhọn của một con
chim ưng. Anh buông phịch bàn tay xuống đầu gối, khẽ nói. - Rồi tất cả sẽ bị
quét sạch hết! Phải cháy bùng lên, làm cho bật những tia lửa ra, không để cho
bốc khói nữa… Chỉ có điều là quả thật anh đã mệt mỏi… Chỉ thiếu chút nữa là anh
đã bỏ ra mặt trận rồi… em nói đúng đấy…
Anna lẳng lặng nghe Buntruc nói rồi khẽ bảo:
- Anh nên ra mặt trận hay kiếm công tác nào khác mà làm thì
hơn… Anh đi chỗ khác đi, anh Ilia ạ, nếu không anh… sẽ phát điên cho mà xem.
Buntruc quay lưng về phía Anna, gõ ngón tay lên cửa sổ.
- Không, anh còn cứng rắn lắm. Em đừng tưởng là có những con
người bằng gang thép. Tất cả chúng ta đều được đúc bằng cùng một thứ nguyên
liệu. Trên đời này chẳng có kẻ nào ra trận mà không thấy sợ, chẳng có kẻ nào
giết người mà không cảm thấy… không thấy tâm linh mình bị sứt mẻ. Nhưng không
phải là chúng ta đau lòng vì những thằng đeo lon đâu. Chúng nó cũng là những kẻ
có ý thức như anh và em. Nhưng hôm qua, trong số chín tên, anh đã phải đem bắn
ba người dân Cô-dắc… ba người dân lao động… Lúc bắt đầu cởi trói cho một gã… -
Giọng Buntruc trầm hẳn xuống, nghe khó hiểu hơn, mỗi lúc như vẳng tới từ một
nơi xa hơn, - anh sờ vào bàn tay gã thì thấy như một cái đế giầy… thô ráp… đầy
chai sần… như một bàn tay đen sì nứt nẻ… sứt sẹo… sần sùi… Nhưng thôi, anh phải
đi đây, - Buntruc ngừng phắt câu chuyện và lén đưa tay lên vuốt chỗ cổ họng
nghẹn tắc như đang bị một cái vòng thòng lọng bện bằng những sợi lông siết
chặt, nhưng cố giấu không để cho Anna trông thấy.
Buntruc đi ủng vào, uống một cốc sữa rồi lại ra đi. Ra đến
hành lang thì Anna đuổi kịp anh. Anna giữ rất lâu bàn tay nặng chịch của
Buntruc trong hai bàn tay mình, đưa lên áp vào một bên má nóng rực của mình rồi
bỏ chạy vào trong sân.
* * *
Trời đã ấm dần. Mùa xuân, đã từ biển Azov đến gõ cửa nhánh
sông Đông. Đến cuối tháng ba, đã thấy có những chi đội Xích vệ Ukraina bị bọn
Gia-đa-mac(2) và quân Đức đánh đuổi chạy đến Rostov . Trong thành phố bắt đầu xảy ra những
vụ giết người, cướp bóc, tịch thu càn bậy. Ủy ban quân sự cách mạng đã phải
tước vũ khí một số chi đội đã hoàn toàn mất kỷ luật. Việc này sẽ không thể làm
được nếu không có xung đột, không có nổ súng. Dân chúng Cô-dắc ở gần
Novocherkask đã sôi sục. Đến tháng ba, các mối mâu thuẫn trong các trấn giữa
dân Cô-dắc và những người từ nơi khác đến đã nổ bùng ra như những chồi non trên
các cây tiêu huyền. Có nơi đã xảy ra những vụ bạo động, và đã phát hiện những
âm mưu phản cách mạng. Nhưng ở Rostov
vẫn hừng hực một cuộc sống sôi nổi, chiều chiều từng đoàn bộ binh, thủy binh,
công nhân vẫn đi lượn trên đại lộ Công viên lớn. Người ta họp mít tinh, người
ta cắn hạt dưa, người ta khạc nhổ xuống những cái rãnh chảy hai bên hè phố,
người ta chòng ghẹo đàn bà con gái. Vẫn như xưa, người ta làm việc, ăn uống,
ngủ nghê, yêu nhau, ghét nhau, chết, đẻ con, thở làn gió mặn mặn từ ngoài biển
thổi vào, người ta vẫn sống với một tâm hồn bị dằn vặt vì những dục vọng lớn
nhỏ. Những ngày mang hạt giống giông bão đã ập tới ngưỡng cửa Rostov . Mùi đất đen tan hết tuyết đã xông lên
nồng nặc, hơi máu tanh của các trận chiến đấu sắp diễn ra đã phảng phất đâu
đây.
Một ngày đẹp trời tràn trề ánh nắng. Buntruc về nhà sớm hơn
mọi hôm. Anh rất ngạc nhiên thấy Anna có nhà.
- Bao giờ em cũng về muộn cơ mà, sao hôm nay lại về sớm thế
này?
- Em hơi mệt.
Anna bước theo Buntruc vào phòng của anh. Buntruc vừa cởi áo
ngoài vừa nói, một nụ cười sung sướng run run trên môi:
- Anna ạ, từ hôm nay anh sẽ không làm việc ở tòa án nữa.
- Sao thế anh? Vậy thì anh được phái đi đâu?
- Về Ủy ban quân sự cách mạng. Hôm nay anh đã nói chuyện với
Krivoslykov. Đồng chí ấy hứa sẽ phái anh tới một nơi nào đó trong khu.
Hai người cùng ăn tối. Buntruc đi ngủ. Trong lòng hồi hộp
nên mãi không chợp mắt, Buntruc hết hút thuốc lại cựa quậy trên cái đệm cứng và
thở dài khoái trá. Anh rất sung sướng được đi khỏi tòa án vì anh đã cảm thấy
rằng chỉ thêm vài bữa là mình sẽ không chịu được nữa và sẽ bị quị. Buntruc hút
hết điếu thuốc thứ tư thì chợt nghe thấy tiếng cánh cửa khẽ rít. Anh ngửng đầu
lên, nhìn thấy Anna.
Chân không, trên mình có độc chiếc áo lót, Anna nhẹ nhàng lướt
qua ngưỡng cửa, rón rén bước tới bên giường Buntruc. Qua khe cửa chớp ánh trăng
mờ mờ xanh đổ xuống một bên vai bầu bầu của Anna.
Anna cúi xuống, đặt một bàn tay nóng hổi lên môi Buntruc.
- Nằm lui vào trong anh. Đừng nói gì nhé…
Anna nằm xuống bên cạnh Buntruc, vội vã gạt mớ tóc rất nặng
xoã trước trán như một chùm nho, cặp mắt đen phớt ánh xanh xanh rực lên sau một
làn khói mờ. Anna khẽ nói, giọng hơi mất tự nhiên và có phần thô bạo:
- Không hôm nay thì ngày mai em cũng đến mất anh thôi… Em
muốn có bao nhiêu sức lực đều đem tất cả ra yêu anh! - Anna run bắn người trước
quyết tâm của chính mình. - Nào, mau lên anh!
Buntruc hôn Anna nhưng với cả một nỗi kinh hoàng, một niềm
tủi thẹn tràn ngập trong ý thức, Buntruc bỗng cảm thấy mình bất lực.
Đầu anh lắc đi lắc lại, hai gò má nóng bừng đau khổ, Anna
nằm trằn người, giận dữ đẩy Buntruc ra, rồi thở hổn hển, khẽ hỏi giọng đầy vẻ
kinh tởm và khinh bỉ:
- Anh… bất lực à? Hay là anh… có bệnh? Chao ôi, thật là gớm
ghiếc! Buông em ra!
Buntruc nắm chặt quá làm những ngón tay Anna khe kêu răng
rắc, anh nhìn thẳng vào hai con mắt giương to, đen mà đục, đầy vẻ căm ghét của
Anna, và dướn dướn đầu lên như người bại liệt, lắp bắp hỏi:
- Vì sao vậy? Vì sao mà em kết tội anh? Phải, sức lực của
anh đã bị thiêu đốt hết cả rồi! Bây giờ thì ngay đến việc đó cũng không làm nổi
nữa… Nhưng anh không có bệnh đâu… em phải hiểu, em phải hiểu như vậy! Tinh lực
của anh đã cùng kiệt rồi… Chao ôi…
Buntruc khẽ gầm lên, nhảy từ trên giường xuống, châm thuốc
hút. Anh gù lưng, đứng rũ bên cửa sổ giờ lâu như người vừa bị một trận đòn hội
chợ.
Anna lặng lẽ đứng dậy ôm lấy Buntruc và bình tĩnh hôn lên
trán anh, như một người mẹ.
Nhưng một tuần sau, Anna đã rúc khuôn mặt đỏ như gấc vào
trong vòng tay của Buntruc thú nhận:
- Em cứ tưởng trước kia tinh lực của anh đã bị đem dùng phí
hoài hết rồi… Không ngờ chính công tác đã hút hết sức lực của anh.
Sau lần ấy, trong một thời gian khá dài, Buntruc được hưởng
không những sự âu yếm thắm thiết của một người yêu mà cả sự chăm nom, thương
mến, ấm áp, và chu đáo của một người mẹ.
Buntruc không bị điều xuống dưới tỉnh công tác. Do Pochenkov
cố nài, anh được ở lại Rostov .
Trong thời gian đó Ủy ban quân sự cách mạng sông Đông đang ngập đầu trong công
việc, chuẩn bị đại hội đại biểu Xôviết Quân khu, chuẩn bị cho trận giáp chiến
với lực lượng phản cách mạng đang sống lại bên kia sông Đông.
--------------
Chú thích:
(1) Tức là “về khu sáu”, về với ông bà ông vải: Bộ tham
mưu của Dukhonin đã bị tiêu diệt ngày 29-11 (12-12) Năm 1917 (ND)
(2) Một loại kỵ binh đặc biệt của bọn phản động thổ phỉ ở
Ukraina trong thời kỳ Nội chiến (ND).
21
Ếch nhái kêu lên inh ỏi đủ các giọng sau rặng liễu bên bờ
sông.
Mặt trời đã lặn sau ngọn gò. Khí lạnh trước lúc hoàng hôn đã
trải ra khắp thôn Setrakov. Những căn nhà in những cái bóng xiên xiên rất lớn
xuống con đường khô ráo. Từ ngoài đồng cỏ, đàn gia súc làm bốc lên một làn bụi
mù trên con đường về thôn. Mấy người đàn bà Cô-dắc ở bãi chăn nuôi về, vừa vung
roi đuổi những con bò, vừa bàn tán huyên thuyên về những chuyện xảy ra. Trong các
ngõ, những đám trẻ chân đất, mặt bắt đầu rám nắng, chơi nhảy cừu. Các cụ già
ngồi chững chạc trên những bức tường đất đắp quanh các sân nhà. Toàn thôn đã
gieo hạt giống xong. Chỉ còn vài nơi đang gieo nốt kê và hướng dương.
Bên cạnh một ngôi nhà ở đầu thôn có vài người đàn ông Cô-dắc
ngồi chơi trên những cây sồi hạ xuống chất ở đấy. Chủ nhà là một gã pháo thủ rỗ
hoa. Anh ta đang kể một câu chuyện gì đó xảy ra trong cuộc chiến tranh chống
Đức. Hai người khác ngồi yên lắng nghe: ông cụ láng giềng và con rể ông cụ là
một gã Cô-dắc còn trẻ tóc xoăn. Người vợ của chủ nhà bước trên thềm xuống, cao,
đẹp, đẫy đà như một ả quý tộc. Chị ta xách một cái thùng đi ra sân nuôi bò với
cái dáng đi duyên dáng, đàng hoàng, thoải mái, đặc biệt của người đàn bà
Cô-dắc. Vài món tóc xõa dưới chiếc khăn bịt đầu bằng vải trắng hồ lơ (chị vừa
xếp những miếng phân ngựa khô vào trong lò để sửa soạn sớm mai nhóm lửa). Cặp
chân không đi bít tất trong đôi ủng ngắn mũi nhọn nhẹ nhàng dẫm lên những đám
cỏ non xanh rờn mọc um tùm trong sân.
Tiếng dòng sữa chảy róc rách trên thành chiếc thùng vẳng đến
tai ba người Cô-dắc ngồi trên mấy cây sồi. Chị chủ nhà vắt sữa xong mấy con bò
lại quay vào trong. Chị hơi nghiêng người, tay trái cong cong như cổ con thiên
nga xách thùng sữa đầy.
- Anh Sema, anh chạy đi tìm con bò non về nhá! - Lên đến
ngưỡng cửa chị gọi với ra, giọng véo von như hát.
- Thế thằng Michiasca đâu? - Người chủ nhà hỏi.
- Dịch tả dịch hạch nào biết được, nó chạy đi đâu rồi ấy.
Chủ nhà thong thả đứng dậy, bước ra chỗ đầu nhà. Ông già và
gã con rể cũng sắp sửa ra về. Bỗng có tiếng chủ nhà gọi từ chỗ góc nhà:
- Cụ xem kìa, cụ Dorovey Gavnich! Cụ lại đây mà xem!
Ông già và gã con rể đi tới chỗ người Cô-dắc. Người ấy chỉ
như một quãng bóng màu đỏ. Sau đám bụi là những hàng bộ binh, xe vận tải kỵ
binh.
- Quân đội, có phải không? - Ông già đưa tay lên che hai
hàng lông mày bạc phơ, ngạc nhiên nheo mắt hỏi.
- Quân nào thế nhỉ, họ là những người nào thế nhỉ?- Chủ nhà
lo lắng hỏi.
Người vợ cũng bước từ trong cổng ra, trên vai khoác thêm một
chiếc áo ngoài. Chị nhìn ra đồng cỏ rồi hốt hoảng ái chà một tiếng:
- Người gì thế nhỉ? Lạy chúa Giêsu cứu thế, đông ơi là đông!
- Xem ra chẳng phải là người tốt đâu…
Ông già dẫm chân đứng lại một lát rồi bỏ về nhà và quát gã
con rể bằng một giọng bực bội:
- Vào sân đi, có gì mà nhìn!
Đàn bà trẻ con chạy ra đầu ngõ, bọn đàn ông đi với nhau
thành từng đám. Ngoài đồng cỏ, cách cái thôn chừng một vec-xta một đoàn quân
đang tiến dài trên con đường. Gió đưa tới các ngôi nhà tiếng người lao xao,
tiếng ngựa hí, tiếng bánh xe lăn.
- Không phải người Cô-dắc đâu… Không phải người của chúng ta
đâu. - Người đàn bà Cô-dắc nói với chồng.
Người chồng chún vai:
- Đã đành không phải là người Cô-dắc rồi. Hay là quân Đức?
- Không, người Nga đấy… Xem kìa, chúng nó có mảnh giẻ đỏ kìa!
- Chà, té ra là…
Một gã lính cũ của trung đoàn Atamansky bước tới. Gã mặc áo
lông, đi đôi ủng dạ, xem ra đang bị sốt rét: mặt gã vàng như màu cát, cứ như
người mắc chứng hoàng đản. Gã nhấc cái mũ lông lồm xồm lên và nói:
- Xem kìa, cờ của chúng nó là cờ gì thế? Quân Bolsevich đấy.
- Đích thị chúng nó rồi.
Vài người cưỡi ngựa tách rời đoàn quân, cho ngựa phi nước
đại tới các thôn. Bọn đàn ông Cô-dắc đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ bắt đầu giải
tán, bọn con gái và trẻ con bỏ chạy tán loạn. Chỉ năm phút sau các ngõ đã chết
lặng. Đám người cưỡi ngựa tiến vào trong ngõ.
Họ đánh ngựa bạt mạng, phi tới chỗ mấy cây sồi, chỗ ba người
Cô-dắc mới ngồi trước đây mười lăm phút. Người chủ nhà vẫn đứng ở cổng. Người
đi đầu có vẻ là chỉ huy. Hắn cưỡi một con ngựa nâu sẫm, đội chiếc mũ lông kiểu
Kuban, khoác một cái băng lụa đỏ rất to bên ngoài chiếc áo sơmi màu cứt ngựa có
thắt dây lưng quân đội.
Hắn cho ngựa tiến tới trước cổng:
- Chào bác chủ nhà! Mở hộ cổng ra cái…
Bộ mặt rỗ của người lính pháo binh tái đi. Anh ta vội bỏ
chiếc mũ cát két trên đầu xuống.
- Nhưng các ông là ai cơ chứ?
- Mở cổng ra! - Người lính đội mũ Kuban
quát lên.
Con ngựa nâu sẫm liếc hai con mắt hung hãn, nhai nhai cái
hàm thiếc trong cái mõm sùi bọt, đá chân trước vào hàng rào. Người Cô-dắc ra mở
cửa xép, bọn người cưỡi ngựa lần lượt tiến vào trong sân.
Người đội mũ Kuban nhảy rất
lẹ trên ngựa xuống, bước nhanh lên thềm với hai chân chữ bát. Trong khi những
người kia còn đang xuống ngựa, hắn đã ngồi chĩnh chện trên thềm và đã kịp lấy
hộp thuốc lá. Hắn châm thuốc hút và mời chủ nhà. Người này từ chối.
- Bác không hút à?
- Thôi, cám ơn.
- Bà con ở đây là người Cựu giáo à?
- Không, Chính giáo… Nhưng các ông là ai cơ chứ? - Người
Cô-dắc hỏi, mắt đăm chiêu.
- Chúng tôi ấy à? Các chiến sĩ Xích vệ của Tập đoàn quân xã
hội chủ nghĩa số hai.
Những người còn lại xuống ngựa, dắt ngựa bằng dây cương bước
tới bên thềm và buộc ngựa vào lan can. Một gã thân hình cò hương, có món tóc xõa
trước trán dài như bờm ngựa, bước về phía sân nhốt cừu, gươm vướng cả vào chân.
Làm như chính mình là chủ nhà, gã mở toang cánh cửa, khom người chui vào dưới
mái nhà kho, nắm sừng lôi từ trong đó ra một con cừu thiến rất to, có cái khấu
đuôi rất bự.
- Petrichenko, lại giúp mình một tay! - Gã kêu lên giọng kim
the thé.
Một người lính nhỏ bé chạy bổ đến với cái áo ca-pôt kiểu Áo
ngẵn cũn. Người Cô-dắc chủ nhà vuốt râu giương mắt nhìn, chẳng nói chẳng rằng,
cứ như đang đứng trong sân nhà người khác. Mãi đến khi con cừu đã bị lưỡi gươm
cứa đứt họng, bốn cái chân khẳng khiu chỏng gọng lên trời, anh ta mới a hà một
tiếng, bước lên thềm.
Người lính đội mũ Kuban đi
theo chủ nhà vào trong nhà. Cùng đi còn có hai gã nữa, một gã người Trung Quốc,
một gã người Nga, nét mặt như dân Kamchatca.
- Bác chủ nhà ạ, bác đừng bực mình nhé! - Người đội mũ Kuban vừa bước qua ngưỡng cửa vừa nói to, giọng suồng sã.
- Chúng tôi sẽ trả giá hậu cho.
Hắn vỗ tay vào túi quần, cười sằng sặc từng đợt rồi bất thần
bặt tiếng cười, nhìn chằm chằm người vợ chủ nhà. Chị ta mím môi đứng bên bếp
lò, nhìn hắn bằng cặp mắt đầy kinh hoàng.
Người lính Kuban quay về
phía người Trung Quốc, đảo mắt nhìn quanh có ý nghi ngại rồi nói:
- Này, cậu đi với bác, với nhà bác này nhé. - Hắn giơ ngón
tay chỉ người chủ nhà. - Cậu đi với bác ấy, để bác ấy lấy rơm cho ngựa ăn…
- Bác để lại cho ít rơm nhá. Hiểu không? Chúng tôi sẽ trả
giá hậu cho. Xích vệ không ăn cướp đâu. Thôi, đi đi bác chủ nhà, đi đi chứ? -
Giọng nói của người Kuban rung lên như tiếng
kim khí.
Người dân Cô-dắc bị người Trung Quốc và người lính kia đi
kèm, phải ra khỏi nhà, nhưng vừa đi vừa ngoái đầu lại. Anh ta mới bước trên
thềm xuống đã nghe thấy giọng mếu máo của vợ, bèn chạy trở vào phòng ngoài, đẩy
tung cửa. Cái móc nhỏ bật ngay khỏi lỗ. Gã đội mũ Kuban
đang nắm lấy tay người vợ béo núng nính, phía trên khuỷu tay, cố lôi chị ta vào
căn phòng trong tranh tối tranh sáng.
Người đàn bà Cô-dắc đẩy ngực gã ra, chống cự lại. Gã định ôm
ngang lưng, bế xốc chị ta lên thì vừa lúc ấy cánh cửa mở toang.
Người Cô-dắc bước nhanh tới, lấy thân mình che cho vợ. Giọng
anh ta kiên quyết và rất bình tĩnh.
- Anh đến nhà tôi, tôi coi như khách… nhưng tại sao anh lại
làm nhục đàn bà con gái nhà người ta? Anh làm trò gì thế hử? Bỏ cái trò ấy đi!
Gươm dao súng ống của anh tôi không sợ đâu! Cần gì cứ lấy, muốn cướp thì cướp,
nhưng không được xúc phạm đến đàn bà con gái nhà người ta! Trừ phi dẫm lên xác
thằng này… Còn em, Nhiusca… - Anh ta quay sang nói với vợ, cánh mũi rung rung.
- ra ngay ngoài kia, sang bên nhà cụ Dorovey ấy. Không ở đây làm gì cả?
Gã Kuban sửa lại cái băng đeo đạn trên áo sơ-mi, mỉm cười
gượng gạo:
- Bác làm gì mà nóng thế, bác chủ nhà? Đùa một chút cũng
không được hay sao? Tôi vốn là thằng vua cù của đại đội đấy… Bác không biết à?
Tôi cố ý đùa đấy thôi. Tôi định trêu cho bác gái ấy bực mình một chút, thế mà
bác ấy đã làm ầm ĩ lên rồi… Nhưng bác đã lấy rơm cho chưa? Không có rơm à? Bên
láng giềng có không vậy?
Rồi gã huýt sáo, vung mạnh roi, bước ra ngoài. Chẳng mấy
chốc toàn chi đội đã kéo đến thôn này. Tất cả khoảng tám trăm tay súng và tay
gươm. Các chiến sĩ Xích vệ được sắp xếp cho nghỉ đêm ở ngoài thôn. Xem ra người
chỉ huy đội không muốn cho họ vào ngủ trong thôn vì cũng chẳng tin tưởng gì
những con người tứ chiếng, quân hồi vô phèng dưới quyền mình.
Chi đội Chraxponsky thuộc Tập đoàn quân xã hội chủ nghĩa số
hai bị đánh tả tơi trong những trận chiến đấu với bọn Gaiđamac và những đơn vị
quân Đức tiến qua Ukraina, phải mở đường máu chạy về vùng sông Đông. Họ xuống
xe lửa ở nhà ga Sevtukhopca, nhưng vì trước mặt lại có quân Đức nên phải hành
quân qua khu du mục của trấn Migulinskaia với mục đích đánh xuyên lên phía Bắc
tới tỉnh Voronez. Do ảnh hưởng của các phần tử côn đồ tội phạm nhan nhản trong
chi đội, chi đội đã mất tinh thần, biến chất. Xích vệ tiến đến đâu hoành hành
càn bậy đến đấy. Ngày mười bảy tháng Tư họ bố trí nghỉ đêm ở gần thôn Setrakov.
Tuy các cán bộ chỉ huy có đe nạt và ngăn cấm, nhưng binh sĩ vẫn kéo đàn kéo lũ
mò vào trong thôn, cắt tiết cừu nhà người ta, cưỡng dâm hai người đàn bà Cô-dắc
ở đầu thôn, vô cớ nổ súng trên bãi giữa thôn làm một người trong chi đội bị thương.
Đến đêm các vọng tiêu đều bí tỉ (chiếc xe vận tải nào cũng có chở rượu theo).
Trong khi đó ba người Cô-dắc cưỡi ngựa đã được dân chúng phái đi đem tin báo
động tới các thôn lân cận.
Ngay đêm ấy, thừa lúc tối trời, dân Cô-dắc thắng ngựa, đeo
gươm súng, vội vã tổ chức những đội cựu chiến binh và bô lão, kéo đến Setrakov
dưới sự chỉ huy của những tên sĩ quan sống trong các thôn, không có sĩ quan thì
chánh, phó quản cũng được. Họ đến nấp trong các khe và sau ngọn gò, bao vây chi
đội Xích vệ. Đêm ấy đã có những đám chừng nửa đại đội kéo đến từ Migulinskaia,
Kolodetnyi, Bogomolov. Dân chúng ở thượng Tria, Napolov, Kalinov, Ayai, Kolodet
cũng nổi dậy.
Trên trời hai chòm sao Đại tiểu hùng tinh đã mờ hẳn. Trời
vừa hửng, các toán Cô-dắc cưỡi ngựa đã hò hét vang trời đổ từ bốn phía tới xung
phong vào chi đội Xích vệ. Một khẩu súng trường nổ loạn lên một hồi rồi cũng
lắng đi. Cuộc chém giết diễn ra một cách lặng lẽ.
Một giờ sau mọi việc đã được giải quyết xong xuôi: chi đội
hoàn toàn bị tiêu diệt, hơn hai trăm người bị chém và bắn chết, gần năm trăm bị
bắt làm tù binh. Hai đại đội pháo, mỗi đại đội bốn khẩu đội, hai mươi sáu khẩu
súng máy nặng, một nghìn khẩu súng trường, một số đạn rất lớn bị lọt vào tay
dân Cô-dắc.
Chỉ một ngày sau, toàn Quân khu đã như nở hoa với lá cờ nhỏ
màu đỏ của những tên liên lạc hỏa tốc phi ngựa trên khắp các nẻo đường lớn nhỏ.
Các trấn và các thôn đều náo động. Người ta lật đổ các Xô viết và vội vã bầu
bọn ataman lên. Các đại đội của trấn Kazanskaia và trấn Vosenskaia kéo đến
Migulinskaia bị muộn.
Trong những ngày sau hai mươi tháng Tư, các trấn vùng trên
của Quân khu sông Đông tuyên bố tách rời ra. Họ thành lập một quân khu riêng,
đặt tên là Quân khu Đông Thượng. Vosenskaia được chọn làm trung tâm của Quân
khu. Trấn nầy vốn đông dân, về diện tích và dân số chỉ thua có trấn
Mikhailovskaia. Nhiều thôn cũ được vội vã ghép lại thành những trấn mới. Đã
thành lập những trấn Sumilinskaia, Karginskaia, Bokovskaia. Thế là Quân khu
Đông Thượng đã lôi kéo được mười hai trấn Cô-dắc và một quận thuộc Ukraina để
tổ chức một đời sống tách rời trung ương. Nhập vào Quân khu Đông Thượng có
những trấn dưới đây trước kia thuộc Quân khu sông Đông: Kazanskaia,
Migulinskaia, Sumilinskaia, Elanskaia, Karginskaia, Bokovskaia và quân
Ponomarievskaia; trước kia thuộc Quân khu Ust-Medvedisky có Ust-Khopeskaia,
Kraxnovskaia, Slasevskaia, Fedor-Seerskaia. Dakha Akimovich Alferov, một viên
tướng Cô-dắc người trấn Elanskaia, đã từng tốt nghiệp học viện quân sự, được
nhất trí bầu làm ataman Quân khu.
Về tên Alferov này, người ta nói rằng hắn chỉ xuất thân từ
đám sĩ quan Cô-dắc gia thế đã xuống dốc mà làm nên được chính là nhờ vợ, một
người đàn bà cương nghị và thông minh. Người ta nói rằng mụ đã xách tai thằng
chồng vô tài bất tướng, không để hắn thở một phút nào, cho đến khi quá tam ba
bận, hắn thi lần thứ tư trúng tuyển được vào học viện quân sự mới thôi.
Trong những ngày gần đây, kể ra người ta cũng có bàn ra tán
vào về tên Alferov này, nhưng cũng ít thôi, vì đầu óc còn đang bận suy nghĩ về
việc khác.
22
Nước lũ vừa bắt đầu rút, lớp đất bùn nâu nâu đã lộ trần trên
bãi cỏ và bên cạnh những dãy hàng rào quanh các vườn rau. Trên lớp đất đó, lau
vụn, những cành cây nhỏ, cỏ, lá cây năm ngoái và đủ các thứ rác rưởi bị làn
nước cuốn theo tụ lại thành một đường viền. Những cây liễu trong cánh rừng ngập
nước ven sông Đông hơi xanh xanh, hoa liễu rủ xuống từng chùm. Những cái lộc
trên các cây tiêu huyền có vẻ sắp bung ra đến nơi. Ở sát cạnh những ngôi nhà
trong thôn, những mầm liễu đỏ ngả đầu xuống làn nước vây quanh. Những cái chồi
liễu vàng hoe, lồm xồm như những con vịt non chưa mọc đủ lông đã ngoi lên khỏi
mặt nước để được ngả nghiêng dưới làn gió.
Lúc trời bình minh, ngỗng trời, nhạn, vịt trời bay từng đàn
đến các vườn rau kiếm mồi. Sáng sáng, những con cốc trắng kêu lanh lảnh như
tiếng đồng trong những khoảng đất trũng trên đồng cỏ.
Ngay đến giữa trưa vẫn còn có thể thấy những con mòng két ức
trắng lóa được sóng nước vuốt ve vỗ về trên mặt sông Đông mênh mông bị gió xới
xồm lên.
Năm ấy đến là lắm chim mùa. Những lúc vừng đông đỏ rực như
rượu nho bắt đầu làm mặt nước tràn lan màu máu, những người Cô-dắc đánh lưới
chèo thuyền len lỏi đến các chỗ đặt lưới, nhiều khi nhìn thấy những con thiên
nga đang nghỉ ở một chỗ nào đó trên khúc sông được những khu rừng che chở.
Nhưng điều làm cho bà con trong thôn cảm thấy lạ lùng nhất là cái tin
Khristonhia và ông già Matvey Kasulin kể lại: hôm ấy hai người vào khu rừng cấm
để kiếm mỗi người hai cây sồi nhỏ cần cho công việc trong nhà. Trong khi len
lỏi qua một khoảng rừng rậm, họ đã làm cho một con dê rừng hoảng sợ nhảy chồm
từ dưới khe lên cùng với một con dê con. Con dê gầy guộc có bộ lông màu vàng
nâu nâu nhảy ra từ những cái khe mọc đầy cỏ tarta và mận gai. Nó đứng trên một
mô đất giương mắt nhìn hai người đẵn gỗ trong vài giây, hai cặp chân thon nhọn
thay nhau dẫm xuống đất có vẻ bồn chồn lo sợ, còn con dê con thì cứ đứng sát
vào mẹ. Khi nghe thấy tiếng thở phào ngạc nhiên của Khristonhia, nó chạy ngay
vào trong đám sồi non. Hai người dân Cô-dắc chỉ loáng thấy trong nháy mắt những
cái móng xanh xám, bóng như vỏ ngao và màu lông lạc đà của cái đuôi ngắn cũn.
- Con gì thế nhỉ? - Lão Matvey Kasulin quẳng rìu xuống hỏi.
Với một niềm hân hoan không gì giải thích nổi, Khristonhia
gầm lên, vang cả khu rừng thần bí và câm tiếng:
- Con dê chứ còn con gì nữa? Con dê rừng, nom nó sao mà đáng
yêu thế! Chúng tôi đã trông thấy những con như thế ở vùng núi Karpat rồi đấy!
- Tội nghiệp, như thế là chiến tranh đã xua chúng nó đến
vùng đồng cỏ chúng ta à?
Khristonhia chỉ còn có thể đồng ý.
- Đúng là như thế rồi. Nhưng bố có trông thấy con dê con
không nhỉ! Mẹ khỉ. Cái con cho - o - ó đẻ, đẹp đến là đẹp! Y như một đứa con
nít ấy.
Suốt đường về, hai người cứ bàn tán mãi về con thú mà chưa
từng có ai trông thấy ở Quân khu bao giờ. Cuối cùng lão Matvey có ý nghi ngờ.
- Này, sao lại là con dê nhỉ?
- Con dê thật đấy mà. Đích thị đấy, dê hẳn đi chứ lị, không
dê thì còn gì nữa?
- Mà có lẽ… Nhưng nếu là dê thì sao lại không có sừng?
- Nhưng tại sao cụ cứ bắt nó phải có sừng?
- Đâu phải là tôi muốn thế. Tôi hỏi là nếu nó thuộc giống dê
thì tại sao hình dáng lại không đúng là dê? Anh đã trông thấy con dê nào không
có sừng bao giờ chưa? Đấy, có thế thôi. Hay có lẽ nó là con cừu rừng chăng?
- Cu Matvey ạ, xem ra cụ lẩm cẩm mất rồi! - Khristonhia phát
cáu.- Cụ cứ đến nhà Melekhov mà xem. Thằng Griska nhà ấy có cái roi ngựa làm
bằng chân dê rừng đấy. Cụ đã chịu chưa nào?
Ngay hôm ấy, lão Matvey đã phải đến nhà Melekhov. Cái cán
chiếc roi ngựa của Grigori đích xác được bọc rất khéo bằng da chân dê rừng. Cả
cái móng nhỏ xíu ở đầu cũng còn giữ được nguyên vẹn, ngoài ra còn thấy đóng
thêm một miếng đồng hình móng ngựa, làm rất tinh xảo.
Đến tuần chay thứ sáu, hôm thứ tư, Miska Kosevoi dậy từ sáng
sớm rà soát lại những cái lưới đánh cá thả ở gần khu rừng. Trời mới hửng anh đã
ra khỏi nhà. Khí lạnh buổi sáng làm cho mặt đất như rúm ró dưới lớp băng mỏng,
bùn cũng rắn lại. Miska mặc áo bông ngắn, đi đôi ủng ngắn mũi nhọn, ống quần đi
ngựa rộng lồng vào trong đôi bít tất trắng, chiếc cát-két hất ra sau gáy. Chiếc
mái chèo dài vác trên vai, anh vừa đi vừa hít bầu không khí nặc mùi hơi nước
nhạt thếch, ngây ngất vì tiết trời lạnh buốt. Anh xô thuyền ra, đứng trên
thuyền đẩy mạnh mái chèo, con thuyền lập tức lướt băng đi.
Miska soát xong rất nhanh những cái lưới. Anh nhặt hết cá
trong cái lưới cuối cùng, đặt lưới, sửa lại cánh lưới rồi nhẹ nhàng cho con
thuyền rời đi và quyết định hút điếu thuốc. Trời đã hơi sáng ra. Đằng đông như
có ai vẩy máu lên bầu trời ảm đạm màu lá cây. Màu máu đỏ phai dần, chảy lan ra
trên đường chân trời rồi như phủ thêm một lớp rỉ vàng óng. Miska nhìn theo vài
con cốc trắng thẫn thờ vỗ cánh bay, châm thuốc hút. Làn khói thuốc mỏng manh
tan dần, bám vào những bụi cây rồi bay tạt sang bên cạnh. Anh nhìn kỹ số cá
đánh được thấy có ba con cá quả, một con cá chép chừng tám phun-tơ và một mớ cá
nhỏ, bèn nghĩ bụng:
- Phải bán bớt một phần mới được. Mụ lác Lukeska sẽ nhận
ngay, mình sẽ đổi lấy lê khô. Bà cụ nhà mình sẽ đem nấu mứt hết.
Miska vừa hút thuốc vừa cho con thuyền lướt vào bến. Có một
người đang ngồi bên những dãy hàng rào, chỗ anh cho thuyền vào bờ.
“Không biết ai thế nhỉ?” - Miska nghĩ thầm vừa lái chèo rất
khéo cho thuyền tạt vào bờ.
Người ngồi bên dãy hàng rào là “Bồi”.
Anh chàng hút một điếu thuốc to tổ bố cuộn bằng giấy báo.
Hai con mắt sắc như mắt con chồn hôi long lanh một ánh âm thầm, bộ râu rễ tre
xám như màu khói mọc lồm xồm hai bên má.
- Cậu làm gì thế? - Miska hỏi to.
Tiếng anh rền trên mặt nước như quả bóng.
- Cậu cho thuyền lại đây.
- Cậu định câu cá à?
- Mình thì câu với kiếc cái gì?
“Bồi” ho sặc sụa, khạc liền mấy bãi rồi miễn cưỡng đứng dậy.
Chiếc áo ca-pôt không đúng khổ người lõng thõng trên vai anh
như cái áo choàng không tay trùm lên một thằng bù nhìn giữ dưa. Cái mũ cát-két
tuột vành che cả hai cái tai nhọn hoắt. “Bồi” mới mò về thôn chưa được bao lâu
với cái thành tích “bất hảo” là Xích vệ. Khi bọn Cô-dắc hỏi anh đã ở đâu sau
khi giải ngũ, “Bồi” chỉ đánh trống lảng, và lái sang những câu chuyện vô tội
vạ. Nhưng với Kotliarov và Miska Kosevoi thì “Bồi” thú nhận là đã ruổi rong bốn
tháng trời khắp vùng Ukraina trong một đội Xích vệ, rồi bị bọn Gaiđamac bắt làm
tù binh nhưng trốn được. Sau đó anh tìm đến chỗ Xivéc, cùng với Xivéc tung
hoành một thời gian chung quanh Rostov
rồi cuối cùng tự mình ký cho mình tờ giấy phép về nhà chữa bệnh và bồi dưỡng
sức khoẻ.
“Bồi” bỏ chiếc mũ cát-két xuống, vuốt mái tóc cứng như lông
nhím, vừa đưa mắt nhìn quanh, vừa bước tới chỗ con thuyền và nói giọng khàn
khàn:
- Tình hình hỏng bét rồi… hỏng bét cả rồi… Thôi cậu đừng câu
kiếc gì nữa! Nếu không câu mãi, câu mãi, rồi cuối cùng cái gì cũng quên mất hết
thôi…
- Cậu biết được tin gì mới kể cho mình nghe với!
Miska đưa bàn tay lầy nhầy nặc mùi cá tanh nắm lấy bàn tay
nhỏ bé xương xẩu của Bồi, mỉm cười vồn vã. Từ lâu hai người đã chơi thân với
nhau.
- Hôm qua Xích vệ vừa bị chúng nó đánh tơi bời ở gần
Migulinskaia. Người anh em ạ, bắt đầu gay go rồi đấy! Bị chúng nó vặt lông rồi!
- Đội Xích vệ nào? Từ đâu đến Migulinskaia?
- Họ đang kéo qua trấn, bọn Cô-dắc cho họ một trận không còn
mảnh giáp… Tù binh bị giải lốc nhốc về Kargin! Ở đấy tòa án quân sự dã chiến đã
đang tuyên án lung tung. Hôm nay thôn ta có bắt lính đấy. Cậu xem, từ sáng
chuông đã gióng inh ỏi rồi.
Miska buộc thuyền, dốc chỗ cá vào cái túi thường đựng thóc
cho ngựa ăn, rồi bước những bước rất dài, mái chèo đưa đi đưa lại theo nhịp
bước chân. “Bồi” khép tà áo ca-pôt, vung mạnh hai tay, cố chạy lon ton vượt lên
trước Miska, y như một con ngựa non.
- Cậu Kotliarov cho mình biết đấy. Cậu ấy vừa thay phiên cho
mình xong. Nhà máy xay chạy ầm ầm suốt đêm, rối tinh rối mù. Thật đấy,
Kotliarov đã được nghe chính lão chủ nói như thế. Có một thằng sĩ quan nào đó
vừa đi ngựa từ Vosenskaia đến gặp lão Sergey Platonovich.
- Làm thế nào bây giờ? - Một vẻ bối rối thoáng hiện trên mặt
Miska, khuôn mặt mất vẻ hồng hào nhưng đã trở nên rắn rỏi qua mấy năm chiến
tranh. Anh liếc nhìn “Bồi” rồi hỏi lại.- Làm thế nào bây giờ đây?
- Phải bỏ thôn mà đi ít lâu thôi.
- Đi đâu?
- Đi Kamenskaia.
- Nhưng ở đấy cũng là bọn Cô-dắc.
- Đi về phía bên tả một chút.
- Đi đâu?
- Đi Oblivy!
- Làm thế nào mà đi được?
- Nếu muốn đi thì sẽ đi được! Còn nếu không muốn thì cứ ở
lại, mặc mẹ cậu! – “Bồi” bất thần phát khùng lên. - Hết “đi thế nào” lại “đi
đâu”, mình làm thế quái nào biết được? Quay đầu tứ phía thì sẽ tự tìm ra chỗ mà
chui! Mũi đâu mà không biết đánh hơi?
- Cậu đừng có điên khùng lên như thế! Cậu cũng biết đấy,
cưỡi con ngựa cuồng thì đi đâu được? Còn Kotliarov thì anh ấy bảo sao?
- Thằng Kotliarov của cậu thì còn phải lay cho nó chuyển mới
được.
- Cậu đừng làm ầm lên như thế… Người đàn bà kia đang nhìn
đấy.
Hai người lo lắng liếc nhìn người đàn bà còn trẻ, con dâu
lão Apdeit “Vua nói phét” đang đuổi những con bò từ trong sân gia súc ra. Khi
đến ngã tư thứ nhất, Miska quay trở lại.
- Cậu đi đâu thế? – “Bồi” ngạc nhiên hỏi.
Miska không quay đầu lại, chỉ khẽ nói.
- Mình nhấc mấy cái lưới lên đã.
- Nhấc lên làm gì?
- Dù sao cũng không để mất được.
- Thế là chúng mình chuồn cả à? – “Bồi” sung sướng nói.
Miska vung mái chèo, nói từ xa:
- Cậu tới nhà Kotliarov đi, mình đem những cái lưới về nhà
rồi sẽ đến đấy ngay.
Kotliarov đã kịp báo tin cho mấy chàng Cô-dắc gần gũi nhất
biết. Thằng con trai anh đã chạy sang nhà Melekhov kéo Grigori sang.
Khristonhia như tự đánh hơi thấy việc chẳng lành, không cần
ai gọi cũng đến. Chẳng mấy chốc Miska đã trở về, cuộc bàn bạc bắt đầu.
Mọi người hấp tấp cướp lời nhau cùng nói một lúc, trong lòng
thấp thỏm chờ tiếng chuông báo động.
- Lập tức chuồn ngay thôi! Phải khăn gói lên đường ngay hôm
nay mới được? – “Bồi” nóng nảy nói sôi nổi.
- Nhưng cậu cũng phải nói cho mình biết rõ vì sao chúng mình
phải đi mới được chứ? - Khristonhia hỏi.
- Lại còn vì sao nữa? Chúng nó sắp bắt lính đến nơi rồi, cậu
muốn bị tóm cổ đi hay sao?
- Mình sẽ không đi lính, có thế thôi.
- Chúng nó sẽ lôi cổ cậu đi!
- Đâu có bắt ngay được. Mình không phải là con bò non cho
chúng nó xỏ mũi lôi đi đâu!
Kotliarov vừa đuổi được chị vợ mắt lác xệch ra khỏi nhà, anh
lầu bầu giọng bực bội:
- Bắt thì chúng nó sẽ bắt đấy… “Bồi” nói đúng đấy. Chỉ có
điều là đi đâu bây giờ? Vấn đề gay go là ở chỗ đó.
- Mình cũng đã bảo cậu ấy rồi! - Miska Kosevoi thở dài.
- Nhưng các cậu làm sao thế? Chẳng nhẽ mình cần phải chuồn
đi hơn tất cả các cậu hay sao? Mình sẽ đi một mình thôi! Không cần phải đánh
hơi thăm dò thăm giếc nữa! Hết “như thế nào” lại “tại làm sao”… Các cậu sẽ bị
chúng nó hành hạ cho một trận, rồi còn bị tống vào tù về tội theo Bolsevich nữa
là khác! Các cậu tưởng chuyện đùa đấy phỏng? Các cậu thấy đấy, thời buổi đang
như thế này… ở đây tất cả đều hỏng mẹ nó rồi còn gì!
Grigori cứ tập trung tinh thần xoay xoay trong tay một cái
đinh rỉ vặn trên tường xuống, một cơn điên tiết đang âm ỉ trong lòng chàng.
Chàng lạnh lùng ngắt lời “Bồi”:
- Cậu đừng có vội! Chuyện của cậu không giống chúng mình:
chẳng cần nhìn trước, cũng chẳng cần ngó sau, cuốn gói là đi được ngay. Còn bọn
mình thì phải suy nghĩ cho chín mới được. Mình còn có vợ và hai đứa con nhỏ…
Thuốc súng mình ngửi không phải chỉ như cậu? - Hai con mắt đen láy của Grigori
bỗng nhiên nháy nháy, hung dữ hẳn lên. Chàng nhe những cái nanh sát sin sít như
một con thú dữ, quát lên. - Cậu có thể muốn nói gì cũng được. Vì trước là thằng
“Bồi” thì sau cũng vẫn chỉ là thằng “Bồi” mà thôi! Trên vai cậu ngoài cái áo
khoác còn có gì nữa đâu…
- Cậu làm gì mà mở mồm quát tháo như vậy hử? Lại giở cái
thói sĩ quan ra có phải không? Đừng có thét lác như thế! Thằng nầy thì nhổ vào
mặt cho! – “Bồi” cũng quát lên.
Trong cơn phẫn nộ, khuôn mặt lồm xồm lông nhím của “Bồi”
nhợt hẳn đi, hai con mắt ti hí và hung hãn của anh long lanh sắc ngọt một cách
man rợ, ngay đến đám tóc xám như khói trên đầu cũng tựa như động đậy.
Grigori đã đổ lên đầu “Bồi” toàn bộ niềm tức tối vì sự yên
tĩnh của mình bị phá rối, vì niềm xao xuyến mà chàng cảm thấy khi nghe thấy
Kotliarov nói rằng các chi đội Xích vệ đã đột nhập vào Quân khu. Những tiếng
“Bồi” quát trả đã làm chàng hoàn toàn mất tự chủ. Chàng nhảy chồm lên như vừa
bị đánh đau, bước tới sát trước mặt “Bồi” lúc này đang ngọ nguậy trên chiếc ghế
đẩu, và phải vất vả lắm mới giữ nổi bàn tay ngứa ngáy chỉ muốn đánh đấm.
- Câm đi, đồ sâu bọ! Đồ bẩn thỉu tồi tệ! Mày chỉ là một mẩu
người! Mày ra lệnh cho ai hử? Xéo ngay, câm ngay! Xéo ngay cho chỗ này khỏi vì
mày mà thối hoăng lên? Liệu hồn đừng có léo nhéo nữa, nếu không tao cho về với
ông bà ông vải bây giờ…
- Thôi đi, Grigori! Sao lại làm như thế? - Miska gạt nắm tay
của Grigori ra khỏi cái mũi nhăn nhúm của “Bồi”.
- Những cái thói Cô-dắc cũ rích ấy phải vứt bỏ di… Thế mà
không biết ngượng à? Đáng xấu hổ lắm, Melekhov ạ! Xấu quá lắm!
“Bồi” đứng dậy, anh húng hắng ho một cách khó chịu, đi ra
cửa.
Nhưng vừa đến ngưỡng cửa thì anh chàng không nhịn được nữa,
lại quay mặt vào, nhìn thấy nụ cười tức tối của Grigori bèn chọc luôn cho một
câu:
- Thế mà cũng tham gia Xích vệ. Đồ hiến binh! Những thằng
như thế này chúng ta đã từng cho ăn kẹo đạn rồi!
Cả Grigori cũng không nhịn được nữa. Chàng xô “Bồi” ra phòng
ngoài, đá vào gót đôi ủng bộ binh mòn vẹt của “Bồi” và doạ bằng một giọng không
báo trước một điều gì tốt lành:
- Cút ngay! Tao bẻ gãy cẳng bao giờ!
- Sao lại làm như thế? Sao lại thế, đến là trẻ con.-
Kotliarov lắc đầu tỏ ý không đồng tình, anh liếc nhìn Grigori một cách khó
chịu.
Miska cắn môi không nói gì cả, có lẽ anh chàng cố ghìm một
lời gay gắt chỉ muốn bật ra.
- Nhưng tại sao nó cứ can thiệp vào việc của người khác? Tại
sao nó lại sừng sộ như thế? - Grigori không phải là không cảm thấy ngượng nhưng
vẫn cố bào chữa.
Khristonhia nhìn chàng có vẻ đồng tình. Grigori bắt gặp cặp
mắt đó, mỉm một nụ cười giản dị, ngây thơ như con nít:
- Thiếu chút nữa thì mình cho nó một trận bò lê bò càng! Ở
ngoài ấy chỉ thiếu chút nữa… tát cho một cái là đổ máu mồm máu mũi.
- Nào, các cậu thấy thế nào? Cũng cần phải làm gì chứ?
Trước câu hỏi và con mắt nhìn chằm chằm của Miska, Kotliarov
miễn cưỡng trả lời.
- Còn sao nữa, Miska? Grigori cậu ấy nói cũng có phần đúng:
làm thế nào mà dứt ra để chuồn ngay đi được? Bọn mình còn có gia đình… Mà cậu
cũng chờ đã! - Nhận thấy Miska có cử chỉ nóng nảy, anh vội nói. - Nhưng có thể
cũng chẳng có chuyện gì đâu… làm thế nào mà biết trước được? Chúng nó đánh tan
được một chi đội ở gần Setrakov, nhưng các chi đội khác đâu có chui đầu vào cả…
Chúng ta hãy chờ ít bữa đã. Cũng nói thêm là mình còn vợ con, quần áo rách tươm
cả rồi, bột bánh cũng hết sạch… làm thế nào mà thu xếp để bỏ đi được? Để vợ con
ở lại sinh sống bằng gì bây giờ?
Miska tức giận rung rung hai hàng lông mày, nhưng mắt cứ dán
xuống cái nền đất:
- Anh không muốn đi à?
- Mình muốn chờ xem sao đã. Lúc nào đi cũng còn kịp, chẳng
sợ muộn đâu… Ý anh như thế nào, anh Grigori Pancheleevich, và cậu nữa,
Khristonhia?
- Có lẽ như thế… Nán lại ít lâu đã.
Bất ngờ được cả Kotliarov lẫn Khristonhia đều ủng hộ,
Grigori phấn khởi hẳn lên:
- Phải, tất nhiên tôi muốn nói cũng là như thế. Chính vì thế
mà tôi đã cãi nhau với cậu “Bồi” đấy. Chuyện này đâu có giống như kéo nhau đi
chặt cây, có phải không? Đâu phải chỉ loáng cái là mọi mặt đều sẵn sàng? Cần
phải cân nhắc, đắn đo, tôi muốn nói…
Coong-coong-coong-coong! Những tiếng chuông đổ từ trên gác
chuông nhà thờ xuống tràn ngập bãi thôn cùng các phố, các ngõ, ngân vang rất
lâu trên làn nước lũ nâu nâu, trên các mũi đá phấn chưa khô, truyền đến khu
rừng thì tan vụn ra từng mảnh trước khi lặn hẳn. Rồi lại tiếp luôn một đợt nữa,
nhưng lần này dồn dập, nghe mà nôn nao xao xuyến; coong - coong - coong -
coong!
- Ấy đấy chúng nó gọi tập hợp rồi đấy! - Khristonhia nháy
mắt liền mấy cái. - Mình sẽ ra ngay lấy cái thuyền. Men theo bờ bên này chuồn
thẳng vào rừng. Thế là không còn trông thấy mình đâu nữa?
- Nào, bây giờ thế nào đây? - Miska đứng dậy, vẻ nặng nề như
một ông già.
- Chúng mình chưa đi ngay được. - Grigori trả lời thay cho
tất cả.
Lông mày của Miska lại rung rung lần nữa. Anh đưa tay lên
gạt khỏi trán cái bờm tóc vàng óng rất nặng gồm rất nhiều món loăn xoăn đan vào
nhau.
- Thôi tạm biệt… Xem ra con đường của chúng ta đã chia hai
ngả rồi!
Kotliarov mỉm cười như xin lỗi:
- Miska ạ, cậu còn trẻ, còn sôi nổi nóng nảy… Cậu tưởng
chúng mình sẽ không còn đi với nhau nữa à? Còn cùng đi với nhau chứ! Phải biết
hy vọng mới được!
Miska từ biệt rồi bỏ đi… Anh đi qua sân sang sân đập lúa nhà
bên cạnh. “Bồi” đang ngồi co ro bên cái rãnh. Tựa như đã biết trước rằng thế
nào Miska cũng ra đây. “Bồi” vừa đứng dậy đón Miska vừa hỏi:
- Thế nào!
- Họ từ chối không đi.
- Mình đã biết trước rồi mà. Mấy thằng nhát như cáy… Còn
thằng Grigori… thằng bạn của cậu ấy, nó chỉ là một thằng đốn mạt! Nó có yêu ai
bao giờ đâu. Nó làm nhục mình, thằng khốn kiếp! Nó lấy làm hãnh diện vì khoẻ
hơn mình. Mình không có khẩu súng “nục” nếu không đã bắn chết mẹ… - Giọng “Bồi”
thều thào như người ốm.
Miska đi bên cạnh liếc nhìn bộ râu tua tủa như lông nhím của
“Bồi” bụng bảo dạ: “Nó có thể giết thật đấy, cái con chồn hôi này?”.
Hai người đi rảo bước, mỗi tiếng chuông lại quất lên họ như
một ngọn roi.
- Tạt qua nhà mình lấy ít thức ăn rồi chuồn thôi! Chúng mình
sẽ đi bộ, mình để con ngựa lại. Cậu sẽ không mang gì đi chứ?
- Bao nhiêu gia tài điền sản đều trên người mình cả rồi. -
“Bồi” xệch mép. - Cung điện chẳng có, điền sản thì không… còn được nửa tháng
tiền lương lại chưa lĩnh. Thôi để cho cái lão bụng phệ Sergey Plantonich nó vớ
bở. Thằng cha thấy mình không đến thanh toán tiền công có lẽ sướng rung cả rốn.
Nhà thờ đã ngừng gióng chuông. Không còn một tiếng động nào
làm vẩn bầu không khí mơ màng, ngái ngủ của buổi sáng. Vài con gà mái bới tung
một đống tro ở bên đường, dăm con bò non tản ra ăn cỏ bên dãy hàng rào. Miska
quay đầu lại: bọn đàn ông Cô-dắc đang hối hả ra bãi họp việc làng. Vài người
bước ra khỏi nhà, vừa đi vừa cài khuy áo vét-tông hoặc áo quân phục. Một người
phi ngựa qua bãi họp. Dân chúng đứng túm tụm bên cạnh trường học, khăn tay và
váy đàn bà trắng lóa, những cái lưng của bọn đàn ông đứng sát vào nhau thành
một đám đen ngòm.
Một người đàn bà quẩy đôi thùng không qua đường được ngay(1)
bèn nói giọng bực bội:
- Có đi đi không, tôi lại vượt qua trước bây giờ?
Miska chào, người ấy long lanh cặp mắt tươi cười dưới hai
hàng lông mày rất dài và hỏi:
- Đàn ông đàn ang ra họp việc làng cả rồi mà bây giờ hai anh
mới ở đâu về thế? Sao anh không ra ngoài ấy, anh Mikhail!
- Ở nhà có chút việc.
Hai người đã về gần tới ngõ nhà Miska. Đã có thể nhìn thấy
cái mái căn nhà nhỏ xíu của Miska, cái tổ bạch đầu ông bị gió lay lắt lẻo trên
cái tổ có buộc một nhánh anh đào khô. Trên đỉnh ngọn gò, cái cối xay quay thẫn
thờ, mảnh vải buồm trên một cái cánh bị gió xé rách đập phần phật, tấm tôn trên
cái mái nhọn, cũng kêu lạch phạch.
Mặt trời không chói, nhưng rất ấm. Một làn gió nhẹ mát rượi
thổi từ ngoài sông vào. Ngay đầu ngõ là nhà Arkhiv Bogatyrev, một lão già to
lớn, theo Cựu giáo, trước kia có đi lính trong một đại đội pháo ngự lâm. Vài
người đàn bà đang trát bùn đất sét và quét vôi ngôi nhà tròn rất to để sửa soạn
cho lễ Phục sinh. Một người đang nhào bùn với phân bò. Chị chàng sắn váy rất
cao, vừa dẫm bùn vừa đi vòng tròn, cặp chân đầy đặn trắng hếu nhấc lên đặt
xuống rất khó khăn, trên bắp chân có hai cái vòng đỏ hỏn, đó là vết nịt hằn.
Dưới cái váy nhấc cao bằng những đầu ngón tay, hai cái nịt rất to được kéo lên
quá đầu gối, ăn hẳn vào trong thịt.
Cô ả vốn là một tay rất làm đỏm, mặt trời còn rất thấp mà đã
lấy chiếc khăn bịt đầu chùm kín mặt. Hai người kia là con dâu nhà Arkhiv và đều
còn trẻ. Cả hai đứng trên hai cái thang quét vôi phần dưới cái mái lợp lau rất
đẹp. Tay áo sắn lên đến khuỷu, hai cô ả đưa đi
đưa lại hai cái chổi làm bằng sơ vỏ cây bồ đề, vôi bắn lấm tấm cả hai khuôn mặt
che kín đến mắt. Cả ba cùng hát rất nhịp nhàng, rất ăn giọng. Maria, người con
dâu cả, đã góa chồng, vẫn công khai đến với Miska Kosevoi. Mặt Maria đầy tàn
hương, nhưng người rất dễ coi, giọng hát thì trầm và mạnh gần như giọng đàn
ông, toàn thôn đều khét tiếng. Maria cất tiếng hát:
Trên đời này còn ai
đau khổ…
Hai ả kia hát hòa theo, cả ba giọng quyện vào nhau uyển
chuyển thành một lời than vãn ngây thơ, đầy đau khổ của một người đàn bà:
Hơn chồng em ngoài bãi
sa trường
Mà trong lòng canh
cánh nhớ thưong…
Miska và “Bồi” đi sát dãy hàng rào lắng nghe tiếng hát chốc
chốc lại pha lẫn với tiếng ngựa hí vang ngoài đồng cỏ vọng vào:
Bỗng một hôm phong thư
đóng dấu.
Báo tin chàng đã hy
sinh.
Ôi chúng giết anh yêu,
anh quý,
Bên bụi cây còn lại
mình anh…
Maria quay lại nhìn Miska đi qua, cặp mắt xám long lanh một
ánh ấm áp dưới chiếc khăn bịt đầu, nụ cười làm bừng sáng cả khuôn mặt lấm tấm
những điểm vôi trắng. Maria cất một giọng trầm thắm thiết, phát từ trong ức ra:
Gió thổi rối cả làn
tóc đẹp,
Làn tóc xoăn, làn tóc
nâu nâu
Nhưng cặp mắt nhỏ màu
hạt dẻ
Bị quạ đen mổ mất còn
đâu…
Miska mỉm cười âu yếm với Maria. Anh chàng bao giờ cũng như
thế đối với phụ nữ. Rồi anh bảo ả Pelageya lấy chồng ở rể đang nhào đất:
- Xắn cao lên một chút, kẻo cách cái hàng rào nhòm thấy thế
nào được?
Pelageya nheo mắt trả lời:
- Muốn nhòm thì thế này cũng nhòm được rồi.
Maria nghiêng nghiêng người trên cái thang, đưa mắt nhìn
quanh rồi kéo dài giọng hỏi:
- Đi đâu thế, anh yêu của em?
- Đi kiếm con cá.
- Thôi đừng đi xa làm gì, vào nhà kho hú hí với nhau nốt
buổi sáng đi.
- Đồ mất dạy, bố chồng cô đang đứng kia kìa!
Maria tặc lưỡi một cái, phá lên cười, rồi vẩy cái chổi đẫm
nước vôi xuống Miska, làm cái áo vét và chiếc mũ cát-két của anh đều lốm đốm
trắng.
- Này, để “Bồi” lại cho chúng em mượn cái, ít nhất cũng giúp
được việc thu dọn nhà cửa! - Ả con dâu út nhe hai hàm răng trắng như đường ra
mời, gọi với theo.
Maria khẽ nói không biết câu gì rồi cả ba cùng cười như nắc
nẻ.
- Con chó cái, cái của lẳng lơ đĩ thoã! – “Bồi” cau mày rảo
bước hơn, nhưng Miska mỉm một nụ cười thẫn thờ, âu yếm, nói chữa lại.
- Không lẳng lơ đĩ thõa đâu, yêu đời đấy thôi. Mình ra đi
cũng để lại một người yêu. “Tạm biệt em yêu, tha thứ cho anh!”. - Miska vừa đọc
lại một lời bài ca vừa bước ra cửa hàng rào nhà mình.
---------------
Chú thích:
(1)Theo phong tục Cô-dắc, đàn ông sẽ gặp chuyện xúi quẩy
nếu bị đàn bà đi cắt ngang đường trước mặt mình (ND)
23
Sau khi Miska đi rồi, mấy anh chàng Cô-dắc còn ngồi lại một
lát nhưng không ai nói gì nữa. Tiếng chuông báo động vẫn dội xuống ầm ầm trên
thôn xóm, mấy vuông cửa sổ nhỏ trong nhà rung cả lên.
Kotliarov nhìn qua cửa sổ. Dưới ánh nắng ban mai, nhà kho in
một cái bóng mờ mờ trên mặt đất. Sương rơi lấm tấm hoa râu trên lớp cỏ loăn
xoăn như lông cừu. Ngay qua lớp kính, bầu trời vẫn hiện lên mênh mông, xanh
ngắt. Kotliarov đưa mắt nhìn cái đầu rối như bòng bong đang rũ xuống của
Khristonhia và nói:
- Hay chưa biết chừng mọi việc chỉ đến đây là kết thúc. Bọn
ở Migulinskaia đánh tan chi đội Xích vệ rồi không giở thêm trò gì nữa đâu…
- Đâu có chuyện như thế… - Grigori ngọ nguậy, - đã ngồi lên
lưng cọp rồi thì còn xuống sao được nữa! Thế nào, chúng ta ra họp việc làng
chứ?
Kotliarov với tay lấy chiếc mũ cát-két, hỏi để cố đánh tan
mối nghi ngờ của mình:
- Thế nào các cậu, hay đích thực chúng mình đã biến thành
những thanh sắt rỉ rồi? Tuy Miska có nóng nảy, nhưng cậu ấy suy nghĩ xác đáng
đấy… Cậu ấy trách chúng mình.
Không ai trả lời anh. Ba người lặng lẽ ra bãi họp.
Kotliarov vừa đi vừa suy nghĩ rất lung, hai con mặt cứ dán
xuống chân. Anh bị dày vò đau khổ vì thấy mình đã làm trái lương tâm, đã không
theo đúng con đường mà ý thức của mình đã chỉ ra. Lẽ phải thuộc về phía “Bồi”
và Miska: đáng là phải ra đi ngay chứ không trù trừ như thế. Những lý lẽ mà anh
cố nặn trong óc ra để tự bào chữa đều không có gì vững vàng và một giọng nói
châm biếm, chín chắn từ trong đáy lòng ra đã dẫm nát ngay các lý lẽ đó như vó
ngựa dẫm lên váng băng phủ trên vũng nước. Điều duy nhất mà Kotliarov quyết
định như đinh đóng cột là sẽ chạy sang bên Bolsevich ngay trong trận đầu. Quyết
tâm ấy đã chín muồi trong lòng anh ngay trên đường ra bãi họp, nhưng cả Grigori
lẫn Khritonhia đều không được Kotliarov cho biết về điều đó, vì anh đã mơ hồ
hiểu rằng hai người có những cảm xúc khác mình và ở một nơi rất sâu trong ý
thức anh dè chừng về phía họ. Cả ba đều bác bỏ ý kiến của “Bồi”, đều không ra
đi, bằng cách viện cớ gia đình, nhưng đồng thời cả ba đều biết rằng cái lý lẽ
ấy không nặng đồng cân, và không thể bào chữa cho mình được. Trong lúc này từng
người một đều cảm thấy hổ thẹn, mỗi người theo một kiểu khác nhau, trước mặt
hai người kia, như mình đã làm một việc xấu xa, đáng nhục. Ba người ngậm tăm
giờ lâu. Nhưng khi tới trước cửa nhà Mokhov, Kotliarov không chịu nổi cái không
khí chết lặng quá khó chịu ấy nữa, bèn nói như lên án bản thân mình và hai bạn.
- Chẳng cần giấu giếm làm gì: ở mặt trận về còn là những
thằng Bolsevich, nhưng bây giờ đã trở thành những kẻ trùm chăn rồi! Mặc ai đánh
nhau thay mình thì đánh, còn mình thì cứ ở nhà với vợ.
- Tôi đã nện nhau chán rồi, bây giờ để người khác thử nếm
mùi,- Grigori quay lại nói.
- Sao thế, chúng nó… giở trò cướp bóc mà chúng mình lại phải
đi theo chúng nó hay sao? Xích vệ gì mà lại như thế? Hiếp đàn bà, cướp phá của
người khác. Trong chuyện này phải nhìn cho rõ mới được. Nếu mù quáng thì sẽ đâm
đầu vào góc tường ngay.
- Thế chính mắt cậu được nhìn thấy những chuyện như thế à,
Khristonhia? - Kotliarov hỏi giọng gay gắt.
- Thiên hạ nói như thế.
- A… a… thiên hạ…
- Thôi đi! Bọn mình nói ở đây chúng nó nghe được rồi đấy.
Bãi họp như nở hoa với những nẹp quần và mũ cát-két Cô-dắc,
thỉnh thoảng mới thấy một chiếc mũ lông đen lổm xổm. Chỉ thấy toàn những lão
già cùng những gã Cô-dắc ở tuổi ra trận hoặc trẻ hơn một chút. Những người già
nhất chống gậy đứng lên hàng đầu, các bồi thẩm danh dự, các ủy viên hội đồng
nhà thờ, những người đỡ đầu các trường học, lão trùm trưởng. Ông già Melekhov
đang đứng cạnh lão thông gia Miron Grigorievich. Cụ Grisaka chống chiếc gậy có
rất nhiều mấu đứng trước mặt hai người trong chiếc áo lễ phục màu xám có đeo
huân chương. Đứng cùng hàng với hai nhà thông gia có lão Apdeit “Vua nói phét”
mặt đỏ như quả táo. Matvey Kasulin, Ackhip Bogatyrev, lão Atepin “cha cha” với
chiếc mũ cát-két Cô-dắc. Xa chút nữa là những bộ mặt quen thuộc đứng sát nhau
thành một hàng rào hình bán nguyệt: Egor Sinilin râu ria xồm xoàm, Yakov “Móng
lừa”, Andrey Kasulin, Nicolai Kosevoi, gã Borsev lêu đêu như cây sào, Anikey,
Marchin Samin, tên chủ nhà máy xay lùn choằn choằn. Gromov, Yakov, Koloveydin,
Merkulov, Fedot Bodosov, Ivan Tomilin, Epichan Marsaev, Dakha Korolev, gã
Anchip, con trai lão Apdeit “Vua nói phét”, một gã nhỏ bé mũi hếch.
Trong khi đi ngang qua bãi, Grigori trông thấy Petro, anh
chàng, đứng ở bên kia vòng người. Petro mặc một chiếc sơ-mi nhà binh có đeo hai
cái dây huân chương thánh Gioóc màu da cam và đen, hắn đang pha trò với gã cụt
tay Aleksey Samin. Bên trái hắn là thằng Mitka nhà Korsunov với hai con mắt
xanh lè. Mitka hút nhờ lửa điếu thuốc của Prokho Zykov. Prokho trợn tròn cặp
mắt bò, chúm môi giúp Mitka thổi lửa. Bọn Cô-dắc trẻ tuổi đứng túm tụm ở phía
sau. Giữa vòng người có kê một chiếc bàn ngật ngưỡng, cả bốn chân bàn đều lún
xuống chất đất mềm chưa khô. Viên chủ tịch Ủy ban cách mạng thôn Naza ngồi sau
chiếc bàn, bên cạnh hắn có một tên trung úy mà Grigori không quen mặt đứng tì
một tay lên mặt bàn. Hắn đội một chiếc mũ màu cứt ngựa có dính phù hiệu, mặc
chiếc áo ngắn có đeo lon và cái quần đi ngựa hẹp ống màu kaki.
Viên chủ tịch Ủy ban cách mạng nói với hắn không biết những
gì, vẻ mặt như ngượng ngùng. Viên trung úy hơi khom lưng, ghé cái tai vểnh rất
to vào sát chòm râu của Naza, chú ý nghe. Bãi họp chìm trong một tiếng rào rào
khe khẽ như tổ ong. Dân chúng Cô-dắc chuyện gẫu, pha trò với nhau, nhưng mặt ai
cũng có vẻ căng thẳng.
Một người chờ mãi không chịu được nữa đã kêu lên bằng một
giọng rất trẻ:
- Bắt đầu đi thôi! Còn chờ gì nữa? Mọi người đã đến gần đủ
rồi!
Tên sĩ quan thung dung đứng thẳng dậy, bỏ mũ cát-két xuống
và bắt đầu nói một cách giản dị như trong gia đình:
- Kính thưa các cụ bô lão và anh em Cô-dắc cựu chiến binh!
Các cụ và anh em đã được nghe tin ở thôn Setrakov vừa xảy ra chuyện gì chưa?
- Ai đấy? Dân ở đâu thế? - Khristonhia hỏi giọng ồm ồm.
- Người trấn Vosenskaia, vùng Chernaia tên là Sondatov thì
phải… - Có người trả lời.
- Ở Setrakov, - Viên trung úy nói tiếp, - có một chi đội
Xích vệ kéo đến. Quân Đức đã chiếm được Ukraina và trong khi tiến về Quân khu
sông Đông đã đánh bật chúng ra khỏi đường sắt. Chúng định tràn qua khu du mục
của trấn Migulinskaia. Sau khi chiếm đóng thôn, chúng bắt đầu cướp bóc bà con
Cô-dắc, cưỡng dâm chị em phụ nữ Cô-dắc, bắt bớ trái phép và giở những trò khác
nữa. Khi các thôn chung quanh được biết tin về những việc xảy ra, anh em Cô-dắc
đã cầm vũ khí tấn công bọn ăn cướp. Chi đội của chúng đã bị tiêu diệt một nửa,
còn một nửa bị bắt làm tù binh. Bà con ở Migulinskaia đã thu được một số chiến
lợi phẩm rất lớn. Hai trấn Migulinskaia và Kazanskaia đã vứt bỏ gông xiềng của
chính quyền Xô viết trên cổ mình. Bất kể già trẻ lớn bé, người Cô-dắc đã vùng
lên bảo vệ sông Đông êm đềm. Ở Vosenskaia, Ủy ban quân sự cách mạng đã bị tống
cổ đi rồi, ataman trấn đã được bầu lên. Phần lớn các thôn đều đã như thế.
Khi viên trung úy nói đến đây, các bô lão đã nhôn nhao nhưng
họ vẫn cố giữ không nói to.
- Đâu đâu cũng đã tổ chức đội ngũ. Bà con ta ở đây cũng cần
phải tổ chức các anh em ở mặt trận về thành một chi đội để bảo vệ trấn nhà,
chống một cuộc xâm nhập mới của những đám cướp dã man đó. Chúng ta phải lập lại
chế độ cũ của chúng ta. Chúng ta không cần đến chính quyền của bọn đỏ, nó chỉ
đem lại sự dâm loạn thối tha chứ chẳng làm gì có tự do! Chúng ta không thể nào
cho phép bọn mu-gích làm nhục vợ con chị em chúng ta, phỉ báng đức tin chính
giáo của chúng ta, xúc phạm đến các giáo đường thiêng liêng của chúng ta, cướp
bóc gia tài điền sản của chúng ta… Có phải thế không, thưa các cụ bô lão?
Bãi họp rung lên dưới những tiếng hô đồng thanh: “Đúng lắ...
ắm!”. Tên trung úy bắt đầu đọc một bản kêu gọi quay rô-nê-ô. Viên chủ tịch bỏ
quên không biết tờ giấy gì bèn đứng dậy bước ra khỏi bàn. Đám người lắng nghe,
không ai hé răng một lời nào. Bọn cựu chiến binh ở phía sau thẫn thờ chuyện gẫu
với nhau.
Tên sĩ quan vừa bắt đầu đọc, Grigori đã rời khỏi đám đông,
từ từ đi về phía góc nhà lão cố đạo Visarion để về nhà. Miron Grigorievich nhìn
thấy chàng bỏ đi, bèn hích khuỷu tay vào sườn ông Panteley Prokofievich.
- Ông xem kìa! Cậu hai nhà ông bỏ đi rồi kìa?
Ông Panteley Prokofievich khập khiễng bước ra khỏi đám đông,
cất tiếng gọi, giọng nửa như van lơn, nửa như ra lệnh.
- Grigori!
Grigori không bước thêm nữa, nhưng chỉ đứng nghiêng nghiêng
người mà không nhìn lại.
- Quay lại đi con!
- Sao lại bỏ đi! Quay lại đây! - Có những tiếng gọi vang lên
cùng với những khuôn mặt quay về phía Grigori, san sát như một bức tường.
- Trước kia đã từng là sĩ quan cơ đấy!
- Có gì mà cũng lên cái mặt!
- Chính thằng ấy đã đi theo chúng nó rồi đấy!
- Nó cũng đã từng uống máu bà con Cô-dắc…
- Đồ Đỏ!
Grigori nghe thấy rõ tất cả những tiếng hò la đó. Chàng
nghiến răng đứng nghe, có vẻ đang tự đấu tranh với chính mình, và mọi người có
cảm tưởng như chàng sắp sửa bỏ đi không ngoái cổ lại nữa.
Ông Panteley Prokofievich và Petro thở dài nhẹ nhõm khi thấy
Grigori lảo đảo quay lại với đám người, nhưng mắt cứ dán xuống đất. Các bô lão
vui hẳn lên, lão Miron Grigorievich nhà Korsunov được bầu ngay tại chỗ làm
ataman thôn một cách nhanh chóng lạ lùng. Lão bước ra giữa vòng người, những
điểm tàn hương lấm tấm trên khuôn mặt trắng bệch của lão xám ngoét đi trong khi
lão nhận ở tay tên ataman cũ cái “na-xê-ca”, tức là cái gậy đầu bịt đồng tượng
trưng cho chức quyền ataman. Từ trước đến nay lão đã từng được làm ataman bao
giờ đâu. Lúc được lựa chọn, lão còn giả dạng từ chối, viện cớ trình độ văn hoá
thấp mà không xứng đáng được hưởng vinh dự đó. Nhưng các bô lão đã nhao nhao
kêu lên hoan nghênh lão:
- Cứ nhận lấy cái na-xê-ca đi! Đừng từ chối nữa, ông
Grigorievich!
- Ông là ông chủ hộ vững nhất thôn này đấy. Nhưng chớ có đem
tiền nong tài sản của thôn đi tiêu hết đấy!
- Cẩn thận đấy, chớ có đem tiền quĩ của thôn đi uống rượu
hết sạch như lão Semion đấy.
- Chà-chà… lão này rồi cũng đem đi uống rượu hết cho mà xem!
- Nhà lão còn có cái để mà bắt đền!
- Nếu thế chúng ta sẽ lột da lão như lột da cừu!
Việc bầu bán được làm xong nhanh như chớp, nhanh một cách
chưa từng thấy, cũng như các diễn biến của cái tình thế nửa chiến tranh, vì thế
Miron Grigorievich đã nhận lời, không cần mọi người nài ép quá nhiều. Việc bầu
ataman lần này khác hẳn trước kia. Xưa kia, viên ataman trấn thường triệu tập
các trưởng xóm tới, bầu ra những ứng cử viên, nhưng hôm nay thì chỉ vung tay
một cái: “Ai bầu cho ông Korsunov, xin mời bước sang bên phải”. Tất cả đám
người đều chạy ùa sang bên phải, riêng một mình gã thợ chữa giầy ủng Zinovi,
vốn có tư thù với lão Korsunov, là cứ đứng nguyên chỗ cũ, như gốc cây cháy ngoài
bãi cỏ hoang ven sông.
Mồ hôi mồ kê đầm đìa. Miron Grigorievich còn chưa kịp hấp
háy con mắt thì người ta đã dúi vào tay lão cái gậy ataman. Người ta réo vào
tai lão từ xa và ở ngay bên tai lão:
- Sửa soạn khao đi!
- Cả thôn đều bầu cho ông đấy.
- Phải đổ rượu ra ăn mừng một chầu ra trò mới được!
- Bế tung ông ataman lên nào!
Nhưng viên trung úy đã cắt đứt ngay những tiếng hò la để
khéo léo lái cuộc họp sang giải quyết những vấn đề thực tế. Hắn nêu vấn đề bầu
đội trưởng chi đội, và có lẽ ở Vosenskaia hắn đã từng nghe nói đến Grigori, nên
hắn nói có ý nịnh Grigori cũng như dân trong thôn:
- Tôi hy vọng có được một người chỉ huy là sĩ quan. Như vậy
trong chiến đấu sẽ dễ dành được thắng lợi hơn, đồng thời sẽ giảm bớt được tổn
thất. Nhưng trong thôn bà con đây thì không thiếu gì anh hùng. Thưa bà con tôi
không dám ép bà con theo ý kiến của tôi, mà chỉ xin lấy tư cách cá nhân đề cử
với bà con thiếu úy Melekhov.
- Melekhov nào cơ chứ
- Chúng tôi có những hai Melekhov cơ.
Viên sĩ quan liếc mắt nhìn qua đám người rồi nhìn chằm chằm
vào Grigori đang cúi gầm mặt đứng phía sau, mỉm cười kêu lên:
- Grigori Melekhov! Bà con trong thôn ta ý kiến ra sao?
- Đúng đấy!
- Xin nhận lời cho!
- Grigori Panteleevich? Tay
ấy cừ lắm đấy!
- Bước ra giữa đi! Ra đi!
- Các cụ bô lão muốn xem mặt anh cái?
Bị đẩy sau lưng, Grigori đỏ mặt bước vào giữa vòng người,
hai con mắt gườm gườm nhìn quanh như con thú bị vây bắt.
- Anh hãy chỉ huy con cái chúng tôi! - Lão Matvey Kasulin
chống mạnh cái gậy xuống đất và làm nhanh dấu phép. - Anh hãy chỉ huy và lãnh
đạo chúng nó, để cho dưới quyền anh, chúng nó có bầy có đội như đàn ngỗng có
được con đầu đàn tốt. Anh hãy che chở chúng nó như con ngỗng đầu đàn canh gác,
che chở cho lũ ngỗng con khỏi bị thú dữ và con người làm hại! Anh còn có thể
được thưởng bốn huân chương nữa đấy, cầu Chúa che chở cho anh!
- Ông Panteley Prokofievich, con trai ông thật ra con trai!
- Nó có cái đầu đáng giá ngàn vàng đấy! Nó khôn ngoan ranh
ma lắm, cái thằng chó đẻ!
- Này con quỷ thọt kia, ít nhất cũng mang một phần tư thùng
ra đây!
- Ha-ha-ha! Chúng ta sẽ uống một chầu ăn mừng!
- Thưa các cụ bô lão! Xin yên lặng một chút! Hay là chúng ta
không cần hỏi ý kiến nữa, cứ chỉ định lấy hai ba bản danh sách có được không?
Nếu để tự nguyện thì mỗi người đều có thể đi cũng được mà không đi cũng được…
- Đi ba năm?
- Năm năm?
- Hãy lấy tình nguyện!
- Hãy cứ tự mày mày đi, có ai… giữ mày đâu?
Tên trung úy đang nói không biết những gì với lão ataman thì
có bốn lão già ở đầu trên thôn bước tới gần hắn. Trong bọn có một lão loắt
choắt, mõm không có cái răng nào, biệt hiệu là “Cái nấm còi”. Lão vốn nổi tiếng
vì suốt đời chỉ thích thưa kiện. Lão đã đánh xe ra tòa nhiều lần đến nỗi con
ngựa cái lông trắng duy nhất trong nhà lão đã thuộc làu con đường lên đó. Lão
tu rượu bí tỉ xong, nằm vật lên cái xe, kêu the thé bằng cái giọng cao như
giọng con nít: “Lên tòa”, thế là con ngựa tự động cất bước chạy đúng đường lên
trấn… “Cái nấm còi” sửa lại cái mũ nhỏ, bước tới gần viên trung uý.
Ba lão kia đến đứng bên cạnh. Trong ba lão này có một lão là
Gerasim Bondyrev, một nhà có của ăn của để được tất cả mọi người kính trọng.
Bất chấp các đức tính cần thiết của một người mồm mép, “Cái nấm còi” kéo áo
viên trung úy nói trước:
- Bẩm quan lớn!
- Cụ cần gì thế, thưa cụ bô lão? - Tên trung úy ân cần cúi
xuống, ghé cái tai rất to, dái tai rất dầy.
- Bẩm quan lớn, xem ra quan lớn còn chưa biết được nhiều về
cái thằng cùng thôn với chúng tôi mà quan lớn vẫn chỉ định làm đội trưởng. Vì
thế bô lão chúng tôi khiếu nại về quyết định ấy của quan lớn, mà chúng tôi thì có
quyền làm như thế. Chúng tôi không công nhận nó!
- Không công nhận như thế nào? Có vấn đề gì thế?
- Vấn đề là chúng tôi làm thế nào tin được nó, khi chính nó
đã tham gia Xích vệ, đã làm chỉ huy bên chúng nó, nó bị thương nên mới ở bên ấy
về nhà được hai tháng nay!
Tên trung úy đỏ mặt. Máu dồn lên làm hai tai hắn như căng
mọng ra.
- Nhưng không thể như thế được! Tôi chưa từng nghe nói như
thế bao giờ… Chưa có ai nói đến tai tôi về chuyện ấy…
- Đúng đấy, nó có đi theo bọn Bolsevich thật, - Gerasim
Bonđyrev chứng thực lời “Cái nấm còi”, giọng nghiêm khằc. - Chúng tôi không tín
nhiệm nó đâu!
- Phải thay nó đi mới được! Ngài có biết bọn thanh niên
Cô-dắc chúng nó bảo sao không? Chúng nó bảo: “Thằng ấy sẽ phản bội chúng ta
trong trận đầu cho mà xem!”.
- Thưa các cụ bô lão! - Tên trung úy kiễng chân kêu lên.
Thằng cha giảo quyệt tránh bọn Cô-dắc vừa ở mặt trận về mà chỉ nói với bọn bô
lão. - Thưa các cụ bô lão! Chúng ta vừa chọn thiếu úy Grigori Melekhov làm
người chỉ huy chi đội, nhưng làm như thế có vướng vấp gì không? Vừa đây có
người cho tôi biết rằng hồi mùa đông chính anh ta còn đứng trong hàng ngũ Xích
vệ. Các cụ có thể tín nhiệm anh ta, trao con cháu các cụ cho anh ta được không?
Còn anh em cựu chiến binh, anh em có thể yên tâm đi theo một người chỉ huy như
thế được không?
Bọn Cô-dắc ngớ người ra, lặng đi một lát. Rồi bất thần những
tiếng la thét cùng dậy lên và không làm thế nào hiểu được một lời nào trong tất
cả những tiếng hò hét đó. Mãi đến khi người ta gào đã chán, tất cả lại lặng đi,
lão Bogatyrev lông mày sâu róm mới bước vào giữa vòng người. Lão bỏ mũ chào tất
cả mọi người rồi đưa mắt nhìn quanh:
- Với cái đầu óc hồ đồ của tôi, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ
không trao cho anh Grigori Panteleevich trách nhiệm ấy được. Quả thật anh ta có
mắc cái lỗi ấy, mọi người chúng ta đều được nghe nói như thế. Thôi cứ để cho
anh ta lập công chuộc tội, xứng đáng với sự tín nhiệm của mọi người, rồi khi đó
hẵng hay. Anh ta vốn là một tay chiến đấu giỏi, chúng ta đều biết… Nhưng khi có
sương mù thì làm thế nào trông thấy được mặt trời: hiện nay chúng ta không nhìn
thấy công lao của anh ta, mắt chúng ta đều bị che phủ bởi cái việc anh ta đã
đứng trong hàng ngũ bọn Bolsevich.
- Cứ cho nó làm lính trơn! - Gã Andrey Kasulin kêu lên một
cách nóng nảy. Gã còn ít tuổi.
- Bầu Petro Melekhov lên chỉ huy vậy?
- Cứ cho thằng Griska đi trong hàng đã!
- Bầu nó lên thì mất mạng!
- Nhưng thằng này có thiết gì đâu! Việc mẹ gì các anh vời
đến thằng này làm cái gì? - Grigori đang đứng ở phía sau tức quá đỏ mặt vung
tay nhắc lại. - Chính thằng này có tự xin làm đâu? Tôi cần đến các anh làm cái
quái quỉ gì! - Rồi chàng thọc tay vào hai túi quần rất sâu, gù lưng xuống, bỏ
về nhà, chân bước dài như con giang.
Nhưng sau lưng chàng vẫn còn những tiếng la thét theo:
- Này, này! Lên mặt vừa vừa chứ!
- Thối như cứt ấy! Đừng có hếch cái mũi quặp của mày lên như
thế!
- Ô hô-hô!
- Đấy cái máu Thổ Nhĩ kỳ nhà nó lại sục lên rồi!
- Có lẽ nó sẽ không chịu im đâu. Ngoài mặt trận nó còn chẳng
chịu im trước mặt bọn sĩ quan nữa là! Bây giờ, làm thế nào…
- Quay lại đi!
- Ha-ha-ha-ha!
- Xích nó lại! Hà! Phì! Lêu-lêu-lêu-lêu!
- Sao các cậu lại sợ nó như thế? Lập tòa án của chúng ta đem
nó ra mà xử!
Một lúc sau mới lấy lại được trật tự. Có kẻ tranh cãi với
nhau hăng quá đi đến xô đẩy nhau, có kẻ bị đánh bật cả máu mồm máu mũi, và
trong đám trẻ có một thằng bất thần bị thêm một cái u dưới con mắt. Sau khi tất
cả đã trở lại yên tĩnh, mọi người bắt tay vào việc bầu đội trưởng. Petro
Melekhov được bầu, mặt hắn đỏ như quả bồ quân vì hãnh diện. Nhưng đến lúc này
tên trung úy chợt vấp phải một sự trở ngại bất ngờ xuất hiện như một cái hàng
rào quá cao trước mõm một con ngựa chạy đương hăng: đến lúc phải ghi tên những
kẻ tình nguyện đi lính thì chẳng có ai tình nguyện. Trước tất cả những sự việc
vừa xảy ra, bọn Cô-dắc ở mặt trận về đều tỏ ra rất dè dặt. Họ nghi ngại, không
muốn ghi tên, mà chỉ pha trò:
- Anikey này, sao cậu không lên ghi tên đi!
Anikey lầu bầu:
- Mình còn quá ít tuổi… Râu ria chưa có gì cả…
- Này đừng bông với lơn nữa. Anh làm sao thế, muốn làm trò
cho mọi người cười phải không? - Lão Kasulin quát vào tai hắn.
Anikey xua lão đi như xua một con muỗi vo ve quấy rầy:
- Bảo thằng Andrey nhà lão lên mà ghi.
- Nó ghi tên rồi!
- Prokho Zykov? - Trên bàn có tiếng gọi to.
- Có tôi…
- Anh ghi tên chứ?
- Tôi không biết…
- Họ ghi tên cậu rồi đấy!
Mitka Korsulov bước tới gần cái bàn, mặt nghiêm trang. Nó
nói giọng nhát gừng:
- Ghi tên tôi vào.
- Nào, có còn ai muốn ghi tên nữa không? Bodovskov Fedot…
- Anh thế nào?
- Thưa các cụ bô lão, tôi mắc bệnh sa ruột! - Fedot khiêm
tốn đưa cặp mắt xếch như mắt dân Kalmys nhìn xuống đất, lúng búng trả lời.
Bọn cựu chiến binh ôm lưng nhau phá lên cười. Những tay khỏe
pha trò nhất thi nhau nói tếu:
- Cứ mang cả vợ cậu đi… Nếu lên cơn sa ruột, nó sẽ chữa cho.
- À - khà- khà- khà! - Bọn đứng phía sau cười lăn cười lộn,
chúng ho sặc sụa, lấp loáng những hàm răng và những cặp mắt long lanh vì cười.
Từ đầu đằng kia, một câu pha trò khác bay tạt sang như một
con bạc má:
- Bọn mình sẽ cho cậu một chân nấu bếp! Hễ súp nấu tồi chúng
tớ sẽ tọng cho cậu đến khi cái bệnh sa ruột ấy chui ra đầu đằng kia mới thôi.
- Rút lui cùng với những thằng như thế này thì đừng hòng
chạy nhanh được.
Bọn bô lão phát khùng, chửi rầm lên:
- Thôi đủ rồi! Đủ rồi! Bọn chúng nó có gì mà phởn quá thế?
- Thật kiếm được đúng lúc mà nói xằng nói bậy!
- Này các anh kia, cũng phải biết xấu hổ chứ! - Một lão cố
khuyên. - Còn có Chúa nữa chứ! Còn có Chúa nữa chứ! Chúa không cho phép làm như
thế đâu. Ngoài kia người ta đang hy sinh tính mạng mà các anh… Còn có Chúa nữa
chứ!
- Tomilin Ivan, - Tên trung uý quay lại nhìn quanh.
- Tôi là pháo thủ. - Tomilin trả lời.
- Anh ghi tên chứ? Pháo thủ chúng tôi cũng cần.
- Thế thì ghi đi… ừ-ừ!
Dakha Korolev, Anikey cùng vài anh chàng nữa bèn đem gã pháo
thủ ra làm trò cười.
- Bọn mình sẽ lấy một gốc liễu đục cho cậu một khẩu pháo. Bí
ngô sẽ là đạn pháo, còn khoai tây sẽ thay đạn ghém.
Sáu mươi gã Cô-dắc đã bị ghi tên giữa những lời bông lơn và
những tiếng cười. Khristonhia bước ra cuối cùng. Anh chàng đi tới trước cái
bàn, nói rành rọt:
- Có lẽ ghi cả tên tôi vào đi. Nhưng tôi nói trước là sẽ
không đánh nhau đâu.
- Thế thì ghi tên làm gì? - Tên trung úy hỏi giọng bực bội.
- Thử xem như thế nào, thưa ngài sĩ quan. Tôi muốn ngó xem
như thế nào cái.
- Ghi tên hắn vào. - Tên trung úy nhún vai.
Cuộc họp tan thì đã gần giữa trưa. Mọi người quyết định ngày
mai sẽ lên đường ngay để chi viện cho dân Migulinskaia.
Sáng hôm sau, trong số sáu mươi gã Cô-dắc ghi tên tình
nguyện, chỉ vỏn vẹn có chừng bốn mươi gã đến tập hợp trên bãi thôn. Petro đưa
mắt nhìn qua bọn Cô-dắc một lượt. Hôm nay hắn mặc áo ca-pôt, đi ủng cao, nom
rất diện. Nhiều người mới đính lại những chiếc lon vai mang số hiệu trung đoàn
cũ, có người không đeo lon. Những cái túi đựng đồ dã chiến độn phồng cả yên
ngựa. Bánh khô, đồ lót và những viên đạn giữ lại từ hồi còn ở mặt trận được
buộc vào những dây đai sau yên và đựng trong túi dết. Không phải ai cũng có
súng trường, phần lớn chỉ đeo gươm.
Một đám đàn bà, con gái, trẻ con, người già ra bãi tụ tập
đưa tiễn các thầy quyền. Petro vênh vang trên con ngựa đứng ngoài hàng quân,
cho nửa đại đội tập hợp thành đội hình. Hắn nhìn một lượt những con ngựa đủ các
màu lông, những chàng cưỡi ngựa, người thì mặc áo ca-pôt, người thì áo vải bạt,
rồi ra lệnh lên đường. Cái chi đội nhỏ cho ngựa đi bước một lên gò, bọn Cô-dắc
âm thầm ngoái nhìn lại thôn xóm, ở hàng cuối có người nổ phát súng. Lên đến
đỉnh gò Petro lồng đôi găng vào tay, sửa lại hàng ria màu lúa mạch, kéo cương
cho con ngựa giậm nhanh bốn chân đi ngang. Hắn đưa tay trái lên giữ chiếc mũ
cát-két, mỉm cười cất tiếng hô:
- Đại đô ô-ội theo lệnh tôi! Nước kiệu… tiến!
Bọn Cô-dắc dướn người trên bàn đạp, vung roi cho ngựa chạy
nước kiệu. Gió quật vào mặt, thổi tung đuôi ngựa, bờm ngựa. Trời đe dọa có mưa
nhỏ. Mọi người bắt đầu pha trò, chuyện gẫu với nhau.
Con ngựa cao đúng tiêu chuẩn màu huyền của Khristonhia vấp
chân, chủ nó vung roi quất tới tấp và chửi rầm lên. Con ngựa cúi cong cái cổ,
phóng vụt lên nước đại, vượt ra khỏi hàng quân.
Cho tới trấn Karginskaia, tinh thần bọn Cô-dắc luôn luôn giữ
được vui vẻ. Mọi người ra đi, trong lòng hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ chẳng có
chiến tranh gì cả, và việc xảy ra ở Migulinskaia chỉ là một cuộc đột nhập ngẫu
nhiên của người Bolsevich vào vùng đất của dân Cô-dắc.
24
Trời sắp hoàng hôn thì đoàn ngựa đến Karginskaia. Trong trấn
không còn có ai là cựu chiến binh nữa, họ đã đi Migulinskaia cả rồi.
Petro cho đội quân của hắn xuống ngựa trên cái bãi nhỏ bên
cạnh cửa hiệu của lão lái buôn Levotkin, rồi đi đến nhà viên ataman trấn. Một
viên sĩ quan cao lớn, da ngăm ngăm, vẻ người đầy sức mạnh, ra tiếp hắn. Viên sĩ
quan này mặc một chiếc áo sơmi vừa dài vừa rộng không đeo lon, lưng thắt một
chiếc dây da kiểu Kavkaz, cái quần đi ngựa Cô-dắc có nẹp, lồng vào trong đôi
bít tất len trắng. Một cái píp thõng xuống bên mép cặp môi mỏng dính. Hai con
mắt màu nâu có tia nhìn cứ gườm gườm, hiêng hiếng. Hắn đứng lại trên thềm, vừa
hút thuốc vừa nhìn Petro bước tới. Cái thân hình đồ sộ của hắn với bắp thịt rắn
chắc như đúc bằng gang hằn rõ dưới áo sơ- mi, trên ngực và hai cánh tay, tất cả
thể hiện một sức mạnh khác người.
- Ngài là ngài ataman trấn?
Viên sĩ quan hà một hơi khói dưới bộ ria chẩy xệ, trả lời
bằng giọng nam trung:
- Vâng, tôi là ataman trấn. Không biết tôi có vinh dự hầu
chuyện ai đây.
Petro tự giới thiệu. Viên ataman bắt tay hắn và hơi nghiêng
đầu:
- Likhovidov Fedor Mitrievich.
Fedor Likhovidov là một tên Cô-dắc thôn Guxino -
Likhovidovsky, một con người hoàn toàn không thuộc loại bình thường. Hắn đã học
qua trường Yunke, vừa tốt nghiệp xong là biệt tăm một thời gian dài. Vài năm
sau hắn đột nhiên về thôn. Được chính quyền cấp trên cho phép, hắn tuyển mộ một
đội tình nguyện gồm những tên Cô-dắc đã hết hạn lính trở về. Trong khu vực trấn
Karginskaia hiện nay, hắn đã tuyển được một đại đội toàn thằng bạt mạng, trời
đánh thánh vật để cùng với hắn sang Ba-tư. Hắn ở bên ấy một năm cùng với đội
quân của hắn, làm cận vệ cho tên quốc vương Ba-tư. Trong những ngày cách mạng
Ba-tư, hắn cùng quốc vương Ba-tư chạy trốn, mất hết quân, rồi đùng một cái lại
xuất hiện ở Kargin. Hắn có đưa về một số những tên Cô-dắc cũ, ba con ngựa Ả rập
thuần giống trong chuồng ngựa của tên vua Ba-tư, và cơ man nào của cải: những
tấm thảm quí, những đồ trang sức hiếm lạ, những tấm lụa màu sắc hết sức lộng
lẫy. Hắn chơi bời một tháng, móc trong cáỉ túi chiếc quần đi ngựa của hắn ra
tiêu một số tiền vàng Ba-tư không phải là nhỏ. Hắn cưỡi một con ngựa tuyệt đẹp
lông trắng như tuyết, chân rất thon, cổ cong như cổ con thiên nga, rong chơi
qua các thôn. Hắn thường cứ ngồi trên yên ngựa, tiến qua ngưỡng cửa vào hiệu
của lão Levotki, mua thứ hàng gì đó, trả tiền, rồi cứ thế ra thẳng cửa bên kia.
Fedor Likhovidov xuất hiện bất ngờ như thế nào thì lại biệt tích biệt tăm cũng
bất ngờ như thế. Cùng biến đi với hắn có cả thằng bạn đường nối khố là tên hầu
cận Panteliuska, một thằng Cô-dắc thôn Guxinov, khiêu vũ rất giỏi. Cả mấy con
ngựa cùng tất cả những gì hắn mang từ Ba-tư về cũng biến theo hắn hết.
Nửa năm sau, Likhovidov xuất hiện ở Anbani. Từ Duracho ở bên
ấy, hắn gởi về Kargin cho những kẻ quen biết những tấm bưu thiếp chụp những
phong cảnh núi non xanh biếc của xứ Anbani với những cái tên rất lạ. Sau đó hắn
rời sang Ý, chu du khắp miền Balkan, có mặt ở Rumani, ở Tây Âu và thiếu chút
nữa thì sang tới Tây ban nha.
Một làn khói bí mật bao trùm lên cái tên Fedor Likhovidov.
Trong các thôn xóm truyền lan những lời bàn tán và những giả thuyết hết sức
khác nhau về hành tung của hắn. Người ta chỉ biết rõ một điều là hắn rất gần
gũi với các giới trong hoàng tộc, kết giao với những tên quan lại chóp bu ở
Petrograd, có chân trong “Hội liên hiệp nhân dân Nga”(1) giữ trách nhiệm khá
quan trọng trong tổ chức đó, nhưng về những nhiệm vụ mà hắn làm ở nước ngoài
thì chẳng ai biết.
Sau khi lại ở nước ngoài về, Fedor Likhovidov đến ở Penza một thời gian dài và
ở ngay nhà viên tướng tỉnh trưởng. Được xem tấm ảnh của hắn, những người quen
biết hắn ở Kargin cứ lắc đầu tặc lưỡi thán phục: “Ái chà chà!”, “Cuộc đời của
Fedor Mitrievich lên dốc đến ghê!”, “Đi lại với những nhân vật như thế này cơ
à?”. Trên bức ảnh có thể thấy Likhovidov đưa tay đỡ tỉnh trưởng phu nhân bước
lên chiếc xe ngựa nhẹ bốn bánh, một nụ cười trên khuôn mặt gãy mũi, đen như dân
Serbi. Bản thân tỉnh trưởng đại nhân âu yếm mỉm cười với hắn như với một người
thân. Gã xà ích lưng cánh phản duỗi hai bàn tay khẽ giật cương, và mấy con ngựa
cắn hàm thiếc, sắp sửa phi vụt lên. Likhovidov đưa một tay lên vành chiếc mũ
lông xồm một cách rất nịnh đầm, còn tay kia thì đỡ khuỷu tay tỉnh trưởng phu
nhân, nhẹ nhàng như đỡ một cái tách.
Sau vài năm mất hút, mãi đến cuối năm 1917, Likhovidov mới
lại mò về Kargin, lập cơ sở ở đấy, có vẻ như muốn sinh cơ lập nghiệp lâu dài.
Hắn đem về một người vợ không biết là dân Ukraina hay dân Ba Lan và một đứa con
nhỏ. Hắn ở một căn nhà nhỏ bốn buồng trên quảng trường đã một mùa đông không
hiểu để mưu đồ những kế hoạch bí mật gì. Suốt mùa đông (mà mùa đông năm ấy rét
ra rét, chẳng có vẻ khí hậu vùng sông Đông chút nào), bao nhiêu cửa sổ nhà hắn
đều mở toang làm bà con Cô-dắc đều lấy làm lạ: hắn rèn luyện sức chịu đựng cho
bản thân và cho vợ con.
Mùa xuân năm 1918, sau việc xảy ra ở gần Setrakov, hắn được
bầu làm ataman. Thế là các khả năng vô hạn của Likhovidov tìm được đầy đủ đất
dụng võ. Hai bàn tay sắt của hắn đã nắm chặt lấy trấn này, chặt đến nỗi chỉ một
tuần sau, ngay bọn bô lão cũng phải lắc đầu thán phục. Hắn nghiêm khắc lên lớp
bọn Cô-dắc, và sau lần hắn phát biểu tại hội nghị dân chúng toàn trấn
(Likhovidov nói năng rất giỏi, ông trời đã không quên phú cho hắn cả sức khoẻ
lẫn óc thông minh), bọn bô lão đã rống lên như một đàn toàn bò mộng: “Bẩm quan
lớn hay lắm! Xin quan lớn cứ thế làm cho!”, “Đúng lắm!”.
Tên ataman mới đã thẳng tay sử dụng quyền lực của hắn. Hôm
trước ở Karginskaia vừa nhận được tin về trận chiến đấu ờ gần Setrakov thì hôm
sau trong trấn có bao nhiêu cựu chiến binh đều bị điều đến. Dân ngụ cư (chiếm
một phần ba dân số các điểm dân cư trong trấn) đầu tiên không muốn đi, những
tên cựu chiến binh bộ binh khác thì phản đối, nhưng khi ra hội nghị đại biểu
dân chúng Likhovidov đã kiên quyết giữ vững ý kiến, vì thế bọn bô lão đã ký một
bản kiến nghị yêu cầu trục xuất tất cả những người “mu-gích” không tham gia bảo
vệ sông Đông. Thế là ngay hôm sau hàng chục chiếc xe chở đầy lính đã kéo về
hướng Napolov và làng Cherneskaia trong tiếng accordeon và tiếng hát. Trong số
dân ngụ cư chỉ có vài người lính bộ binh trẻ theo Vaxiki Storozenko (trước kia
chiến đấu trong trung đoàn súng máy số 1), chạy sang hàng ngũ Xích vệ.
Chỉ nhìn dáng điệu, tên ataman đã biết ngay Petro là một sĩ
quan ngoi lên từ những cấp dưới. Hắn không mời Petro vào trong phòng mà cứ thế
đứng nói, giọng có vẻ thân mật suồng sã.
- Không, ông bạn thân mến ạ, ngài chẳng còn có việc gì mà
làm ở Migulinskaia nữa đâu. Không có ngài, mọi việc cũng đã xong xuôi cả rồi:
tối qua chúng tôi đã nhận được điện. Ngài hãy cho anh em trở về và chờ lệnh. Nhưng
các ngài phải lắc cho bọn Cô-dắc động lên mới được! Một thôn lớn như thế mà chỉ
phái đi có bốn chục chiến binh à? Những cái thằng khốn nạn ấy, ngài cứ xạc cho
chúng nó một trận cẩn thận! Phải biết rằng đây chính là chuyện sống còn của
chúng nó! Chúc ngài khỏe mạnh, mọi sự tốt lành!
Hắn quay vào trong nhà, đế đôi ủng ngắn hạng thường đập lộp
cộp, cái thân hình vạm vỡ của hắn di động nhẹ nhàng một cách rất bất ngờ. Petro
trở về chỗ bọn Cô-dắc đang chờ trên quảng trường.
Mọi người nhao nhao hỏi hắn:
- Thế nào hử?
- Ở đằng ấy tình hình như thế nào?
- Chúng ta đi Migulin chứ?
Petro không giấu vẻ vui mừng, hắn cười mát trả lời:
- Đánh nước mã hồi thôi! Không có bọn mình đâu cũng đã vào
đó cả rồi!
Bọn Cô-dắc mỉm cười lốc nhốc kéo nhau về chỗ buộc ngựa bên
hàng rào. Khristonhia thậm chí thở dài như vừa trút được gánh nặng trên vai.
Hắn vỗ vai Tomilin và nói:
- Thế là được về nhà rồi, cậu pháo thủ ạ!
- Lúc này bọn đàn bà ở nhà đã bắt đầu nhớ anh em mình rồi
đấy!
- Chúng ta lên đường ngay thôi.
Mọi người bàn qua loa với nhau rồi quyết định không ở lại
nghỉ đêm mà lên ngựa về ngay. Thế là họ quân hồi vô phèng, kéo nhau từng đám ra
khỏi trấn. Lúc ở nhà lên Karginskaia, họ còn có thái độ miễn cưỡng, ít khi chịu
cho ngựa chạy nước kiệu. Nhưng trên đường về họ đã thúc ngựa bạt mạng, cho chạy
chết thôi. Thỉnh thoảng lại phi nước đại một chặng. Mặt đất rắn lại vì không có
mưa rên siết dưới vó ngựa. Sau những đường sống gò đằng xa, một ánh chớp xanh
lè lóe lên ở một chỗ nào đó bên kia sông Đông.
Mọi người về tới thôn lúc nửa đêm. Trong khi cho ngựa chạy
trên dốc xuống, Anikey giương khẩu súng trường Áo của hắn nã một phát, một loạt
đạn nổ ra như sấm báo tin anh em đã trở về. Để trả lời, những con chó trong
thôn sủa lên oăng oẳng, một con ngựa không biết của anh chàng nào, đánh hơi
thấy đã gần về tới nhà, run bắn lên hí một tràng dài. Mọi người tản ra mỗi
người một ngả vào trong thôn.
Lúc chia tay với Petro, Marchin Samin thở dài nhẹ nhõm:
- Chuyện đánh đấm thế là xong rồi! May đến là may!
Petro mỉm cười trong bóng tối, cho ngựa chạy về sân nhà.
Ông Panteley Prokofievich ra tiếp lấy con ngựa. Ông tháo yên
cho nó rồi dắt vào tầu ngựa. Hai bố con cùng đi vào trong nhà.
- Thôi không đi đánh nhau nữa à?
- Vâng.
- Chà, ơn Chúa! Chỉ mong sao suốt đời không phải nghe nói
tới những chuyện ấy nữa.
Daria đang ngủ mê mệt cũng trở dậy. Ả ra dọn bữa tối cho
chồng ăn. Grigori ở nhà trong bước ra, quần áo phong phanh. Chàng vừa gãi gãi
bộ ngực đầy lông đen, vừa nheo mắt một cách châm biếm vừa hỏi anh:
- Quân ta đại thắng chứ?
- Tao đang tiêu diệt nốt cái món súp củ cải còn lại đây.
- Không lo, nó chẳng đi đâu mà sợ. Gì chứ món súp này thì
nhất định chúng ta sẽ trị được nó, nhất là khi có tôi xông tới chi viện.
Cho tới lễ Phục sinh vẫn chẳng thấy ai đả động gì đến chuyện
chiến tranh. Nhưng hôm thứ bảy tuần thánh có một tên sĩ quan đặc phái từ
Vosenskaia phi ngựa tới thôn. Hắn quẳng con ngựa mồ hôi đầm đìa ở cổng nhà
Korsunov, chạy lên thềm, gươm đập lách cách vào ngưỡng cửa.
- Có tin tức gì thế! - Miron Grigorievich chạy ra đón hắn ở
ngưỡng cửa.
- Tôi cần gặp ông ataman. Có phải ông không?
- Tôi đây.
- Ông cho anh em Cô-dắc sửa soạn vũ trang ngay. Pochenkov
đang dẫn bọn Xích vệ tiến qua làng Nagolinskaia. Mệnh lệnh đây. - Hắn lật lần
lót mũ đẫm mồ hôi, lấy ra một chiếc phong bì đựng công văn.
Cụ Grisaka cũng đeo kính ra tiếp chuyện. Mitka từ sân gia
súc chạy vào. Mọi người cùng đọc bản mệnh lệnh của tên ataman quân khu. Tên sĩ
quan đặc phái dựa vào dãy lan can chạm trổ, đưa tay áo lên chùi những đám bụi
trên khuôn mặt dãi dầu nắng gió.
Ngày thứ nhất lễ Phục sinh, sau khi ăn bữa chấm dứt tuần
chay, bọn Cô-dắc bắt đầu rời khỏi thôn lên đường. Mệnh lệnh của tên tướng
Alferov rất nghiêm. Hắn dọa ai không đi sẽ bị tước danh hiệu Cô-dắc, vì thế
trong trận đi đánh Pochenkov, không chỉ có bốn mươi người như lần đầu mà có một
trăm tám mươi. Trong số đó có cả những tên bô lão muốn được dịp ra tay cho quân
Đỏ một trận.
Lão Matvey Kasulin có cái mũi bị khí trời quá lạnh làm hỏng
cũng lên ngựa ra đi cùng với thằng con. Lão Apdeit “Vua nói phét” nghênh ngáo
trên hàng đầu với con ngựa cái hạng bét. Suốt chặng đường, lão đã mua vui cho
bọn Cô-dắc bằng những câu chuyện bịa quái đản nhất. Lão Macxaev cùng vài lão
già râu tóc bạc phơ khác cũng tham gia. Bọn trẻ ra đi một cách miễn cưỡng,
nhưng mấy lão già lại rất hăng hái.
Grigori Melekhov cưỡi ngựa đi hàng cuối, mũ áo mưa trùm bên
ngoài mũ cát-két. Mưa rơi đều đều như được rây từ trên bầu trời u ám xuống đất.
Những đám mây đen trôi trên cánh đồng xanh rờn.
Một con đại bàng bay chập chờn rất cao, ngay bên dưới những
đám mây. Nó vươn rộng đôi cánh, thỉnh thoảng mới vỗ vỗ vài cái, rồi khi bị một
luồng gió cuốn đi, nó nghiêng nghiêng mình, tạt dần về hướng đông mỗi lúc một
xa, mỗi lúc một nhỏ, bộ lông nâu nâu ánh lên bệch bệch.
Khắp đồng cỏ tràn ngập một màu xanh ướt át. Chỉ vài chỗ nổi
bật lên những đám ngải cứu năm ngoái, những bụi hoàng thử lang đỏ tía, và trên
ngọn gò thấy xám xám vài nấm kurgan xưa kia dùng làm địa điểm canh gác.
Trong khi đi theo đoạn đường dốc xuống Karginskaia, đoàn
Cô-dắc gặp một thằng bé đánh bò đi ăn rong. Nó vung cái roi, hai bàn chân không
giầy vừa đi vừa trượt. Nhìn thấy đoàn người ngựa, nó đứng lại chăm chú nhìn
những người cưỡi ngựa và những con ngựa buộc đuôi bùn lấm bê bết.
- Em người đâu ta? - Ivan Tomilin hỏi nó.
- Kargin. - Thằng bé mỉm cười dưới cái áo trùm đầu, trả lời
rất lanh lợi.
- Các chú các bác Cô-dắc chỗ em đã ra đi chưa?
- Ra đi rồi. Đi đánh đuổi bọn Xích vệ rồi. Thế các bác có
thuốc lá cho cháu cuốn một điếu không? Bác có không bác?
- Cháu xin thuốc lá à? - Grigori ghìm ngựa lại hỏi.
Thằng bé Cô-dắc bước tới gần chàng. Cái quần đi ngựa của nó
xắn lên, ướt đẫm, nẹp quần đỏ lóe. Grigori thọc tay vào túi lấy túi thuốc. Nó
mạnh dạn nhìn vào mắt chàng và nói bằng một giọng nam cao rất lưu loát:
- Các bác cứ xuống dốc là thấy ngay những người bị giết đấy.
Hôm qua bọn tù binh đỏ bị giải đi Vosenskaia, các bác Cô-dắc chỗ cháu đã giết
sạch… Bác ạ, lúc ấy cháu đang chăn bò gần kurgan Pextranyi. Cháu đứng ở đấy,
bọn tù binh bị chém như thế nào, cháu nhìn thấy rõ cả. Chao ôi, sợ chết khiếp được!
Các bác ấy vừa vung gươm lên là họ gào rú, họ chạy tán loạn… Sau đó cháu có lại
xem… Một người bị chém sả vai vẫn còn thở lấy thở để, quả tim đầm đìa những máu
ở giữa ngực vẫn còn đập, cái gan thì xanh lè lè… Thật là khủng khiếp! - Nó nhắc
lại và rất lấy làm lạ vì mấy người Cô-dắc nghe câu chuyện nó kể chẳng có vẻ
khiếp sợ gì cả, hay ít nhất nó cũng kết luận như thế khi nhìn ba khuôn mặt gan
lì và lãnh đạm của Grigori, Khristonhia và Tomilin.
Nó hút một hơi, rồi vuốt cái cổ ướt đẫm của con ngựa
Grigori, nói: “Cám ơn bác!” và chạy về với mấy con bò.
Bên cạnh đường, xác của các chiến sĩ Xích vệ bị chém chết
nằm ngổn ngang trên một bờ dốc không sâu lắm được nước mưa xuân rửa sạch, bên
trên chỉ được phủ bằng một lớp đất mỏng. Còn có thể nhìn thấy một bộ mặt xanh
sẫm như đúc bằng thiếc, với cặp môi đầy máu đọng. Một cái chân thòi lên đen sì
trong cái ống quần vải bông màu lam.
- Chúng nó tởm lợm không muốn dọn dẹp chôn cất… Lũ khốn
kiếp!- Khristonhia lầu bầu, giọng âm thầm rồi bất thình lình hắn quất một roi
cho con ngựa chạy xuống dốc, đuổi theo Grigori.
- Thôi thế là ngay trên vùng đất sông Đông đã được thấy đổ
máu rồi - Tomilin mỉm cười, một bên má giật giật.
---------------
Chú thích:
(1) “Hội liên hiệp nhân dân Nga” - một tổ chức bảo hoàng
tàn bạo của nước Nga thời Nga hoàng, cổ động bài Do thái, tổ chức những vụ giết
hại dân Do-thái, ám sát các đối thủ chính trị của chúng, được Chính phủ Nga
hoàng trợ cấp những món tiền rất lớn (Chú thích của bản tiếng Nga).
25
Một xạ thủ súng máy ở chỗ Buntruc là dân Cô-dắc thôn
Tatarsky, tên là Maxim Griatnov. Từ ngày bị mất con ngựa trong trận chiến đấu
với quân Kutepov, hắn bắt đầu rượu chè không còn chừng mực gì nữa và lao đầu
vào cờ bạc. Con ngựa của Maxim có bộ lông đỏ như lông bò, sống lưng có một dải
trắng như bạc. Hắn đang cưỡi thì con ngựa bị bắn chết. Hắn bèn tháo lấy bộ yên,
khiểng đi bốn vec-ta. Đến khi thấy mình khó lòng sống sót trước trận tấn công
hung dữ của quân Trắng, hắn đành giựt đứt cái đai ngựa rất đẹp tháo lấy bộ dây
hàm thiếc, rồi tự ý rút khỏi trận chiến đấu. Về tới Rostov mới lại thấy mặt Maxim. Nhưng chẳng
bao lâu hắn chơi bài tính điểm bị thua phải gán thanh gươm bằng bạc tước được
trên thây một tên đại uý bị hắn chém chết, nướng thêm mấy thứ đồ thắng ngựa còn
lại trong tay, rồi đến cái quần đi ngựa cùng đôi ủng bằng da hoẵng hắn cũng cho
đi nốt, và cuối cùng đầu không khăn đít không khố, hắn mò tới đội súng máy của
Buntruc. Buntruc lấy quần áo cho hắn mặc, lên lớp cho hắn một trận và chưa biết
chừng Maxim dần dần cũng có thể hối cải. Nhưng trong trận chiến đấu vừa mở màn
trên con đường tiến vào Rostov ,
hắn đã bị một viên đạn bắn thủng đầu. Một con mắt màu xanh da trời của Maxim
rơi tuột xuống áo sơ-mi, máu tuôn ra như suối từ trong cái sọ mở hoác ra như
một cái vỏ đồ hộp. Thế là trên đời này tựa như chưa từng bao giờ có anh chàng
Cô-dắc Giratnov người trấn Vosenskaia với cái quá khứ ăn cắp ngựa và mới gần
đây còn là một con sâu rượu đau khổ
Buntruc nhìn cái thân hình của Maxim quằn quại trong cơn
ngoắc ngoải rồi lau rất kỹ những chỗ máu trên nòng súng máy phọt ra từ lỗ đạn
trên đầu Maxim.
Vừa lúc đó phải rút lui ngay. Buntruc kéo khẩu súng máy đi.
Maxim nằm lại đấy và lạnh dần trên mảnh đất nóng rực, với
cái lưng đen thui phơi ra dưới nắng và cái áo sơ-mi kéo ngược lên đầu (lúc hấp
hối, hắn đau quá, cứ kéo ngược cái áo lên).
Trung đội Xích vệ gồm toàn những chàng bộ binh vừa ở mặt
trận Thổ Nhĩ Kỳ về. Họ lui đến ngã tư đầu tiên thì chiếm lĩnh trận địa.
Một anh chàng đội chiếc mũ lông cháy gần hết, hở cả trán,
giúp Buntruc bố trí khẩu súng máy, những người khác dựng đại khái như một cái ụ
chiến đấu chặn ngang cái ngõ.
- Thấy chúng nó kia rồi! - Một anh chàng râu ria xồm xoàm
mỉm cười nhìn đoạn đường gờ hình vòng cung rất gần sau ngọn gò.
- Bây giờ thì chúng mình sẽ cho bọn nó ăn một trận mưa đạn!
- Bẻ gãy đi thôi, Xamara! - Vài người gọi một chiến sĩ còn
trẻ, rất vạm vỡ, đang tháo một mảnh ván trên dãy hàng rào.
- Chúng nó kia rồi! Đang xông tới đấy! - Anh chàng đội mũ hở
trán leo lên mái một kho rượu quan sát rồi kêu lên.
Anna nằm xuống bên cạnh Buntruc. Anh em Xích vệ bố trí dầy
đặc sau công sự tạm thời.
Giữa lúc ấy, có chừng chín mười chiến sĩ Xích vệ chạy theo
cái ngõ bên cạnh, tới bức tường ngôi nhà góc phố, nom cứ như những con gà gô
chạy theo bờ ruộng. Một người kịp hô:
- Chúng nó phi ngựa tới đấy! Bắn đi!
Trong nháy mắt, chỗ ngã tư đã vắng tanh, bốn bề lặng như tờ.
Một phút sau có một tên Cô-dắc phi ngựa tới, kéo theo cả một
đám bụi mù. Hắn đội mũ cát-két buộc băng trắng, khẩu các-bin kẹp cạnh sườn. Hắn
kéo ngoặt dây cương mạnh quá, làm con ngựa khuỵu hai chân sau. Buntruc kịp bắn
theo một phát Nagan. Tên Cô-dắc ôm cổ ngựa, phi trở lại. Các chiến sĩ bộ binh
có mặt bên cạnh khẩu súng máy có vẻ do dự. Hai người chạy dọc theo dãy hàng rào
rồi nằm xuống bên cạnh một cái cổng.
Rõ ràng là mọi người đã dao động và sắp sửa bỏ chạy đến nơi.
Không khí chết lặng và căng thẳng đến cực độ, những cặp mắt
hốt hoảng không thể hứa hẹn một tinh thần kiên định… Sau này Buntruc chỉ còn
nhớ một điều cụ thể nhất, rõ ràng nhất là hình ảnh Anna nhảy chồm lên, khẩu
súng trường cầm ngang tay, chiếc khăn trật ra sau đầu, làn tóc bay tán loạn,
khuôn mặt nhợt nhạt, xúc động đến lạ hẳn đi. Anna quay mặt lại, chỉ tay về phía
ngôi nhà có bọn Cô-dắc đang núp sau đó và hô lên bằng một giọng ngắc ra, nghe
cũng không nhận ra được ngữa: “Theo tôi!”, hô xong Anna xông lên, chân bước
chập chững, chốc chốc lại vấp.
Buntruc chồm dậy, miệng anh méo đi trong một tiếng hô không
rõ tiếng gì. Anh chộp lấy khẩu súng trường của người chiến sĩ bộ binh nằm bên
cạnh, chạy bổ theo Anna. Anh thở hổn hển, cảm thấy hai chân run một cách khủng
khiếp, mặt xạm đi trong cố gắng ghê gớm và bất lực để gào lên, gọi Anna quay
trở lại. Phía sau nghe có tiếng thở hổn hển của vài người chạy theo. Từng đường
gân thớ thịt trên cơ thể anh đã cảm thấy trước một cái gì khủng khiếp, không
sao cứu vãn được, một kết cục rùng rợn đang ập tới. Trong nháy mắt đó, anh đã
hiểu rằng hành động của Anna là vô nghĩa lý, là mất trí, và chỉ đưa tới chỗ
chết chứ không thể nào lôi kéo được người khác.
Mới chạy đến góc phố thì có một toán Cô-dắc phi ngựa xông
thẳng tới. Chúng bắn một loạt đạn. Đạn kêu víu víu. Anna kêu lên một tiếng thảm
thương như một con thỏ, rồi ngồi phịch xuống đất, hai tay vươn ra, mắt như
người hóa rồ. Buntruc không nhìn thấy bọn Cô-dắc quay ngựa bỏ chạy, không nhìn
thấy các chiến sĩ bộ binh trong số mười tám người lúc nãy bố trí bên cạnh khẩu
súng máy bị lôi cuốn theo nhiệt tình của Anna đang xông lên truy kích. Trước
mặt anh chỉ thấy có Anna, một mình Anna, chỉ thấy Anna đang giãy dụa dưới chân
mình. Tuy không còn cảm thấy hai tay mình nữa, Buntruc vẫn lật được Anna nằm
nghiêng, và cố bế Anna lên để đưa đến một chỗ nào đó. Anh nhìn thấy một dòng
máu chảy đầm đìa ở dưới sườn trái và những miếng rách của cái áo ngắn màu lam
lủng lẳng lầy nhầy quanh vết thương, biết ngay rằng đây là một vết thương do
đạn đum đum (1), biết rằng Anna sắp chết và cái chết đó anh đã nhìn thấy trong
hai con mắt ngầu đục của Anna.
Có người đẩy Buntruc ra. Anna được khiêng tới một ngôi nhà
gần đấy, đặt vào một chỗ mát dưới cái hiên nhà kho.
Người chiến sĩ bộ binh đội mũ hở trán nhét những nắm bông
vào vết thương, đến khi thấy những nắm bông ấy trương lên, đen sịt những máu
lại vứt đi. Buntruc đã trấn tĩnh lại được, anh cởi khuy cổ cái áo trong của
Anna, rồi xé một mảnh áo sơ-mi của mình, vo tròn lại ấn lên vết thương. Anh
thấy máu trong vết thương sủi lên, hơi thở phì ra qua lỗ hổng, anh thấy mặt
Anna trắng bệch ra, sạm lại, cặp môi thâm tím run rẩy lập bập trong cơn đau
đớn. Miệng Anna thở lấy thở để, nhưng phổi vẫn bị ngạt vì hơi thở phì ra cả đằng
miệng lẫn qua vết thương. Buntruc không còn ngượng gì nữa, anh xé cái áo lót
của Anna, lột trần cái thân hình đầm đìa mồ hôi trước khi lọt vào tay Thần
chết. Cuối cùng đại khái cũng dùng nút gạt bịt được miệng vết thương. Vài phút
sau Anna tỉnh lại. Cặp mắt sâu hoắm mở ra nhìn Buntruc giữa hai cái quầng thâm
đen vì máu chảy bên trong, rồi hai hàng mi lại run run nhắm lại.
- Nước! Nóng quá! - Anna gào lên rồi vừa giãy giụa, vừa nức
nở. - Em muốn sống! Ilia-a-a! Anh yêu! A-a- a!
Buntruc gắn cặp môi sưng mọng của anh lên hai cái má nóng
chảy như lửa của Anna và đổ nước trong cái ca lên ngực Anna. Nước chảy vào đầy
hai chỗ hõm ở xương đòn gánh, nhưng lại ráo hoảnh ngay. Ngọn lửa của cái chết
đang thiêu đốt Anna. Buntruc đổ đến bao nhiêu nước, Anna vẫn vùng vẫy, trườn ra
khỏi tay anh.
- Nóng quá! Lửa đâu thế này?
Sau khi đã kiệt sức, người có phần lạnh đi, Anna nói rành
rọt.
- Anh Buntruc, tại sao thế nhỉ? Chao ôi, anh thấy không, tất
cả sao mà đơn giản! Anh quả là kỳ quặc… Đơn giản một cách khủng khiếp. Anh Ilia…
Anh yêu của em, thể nào anh cũng nói với mẹ nhé… Anh có biết… - Anna hé mở hai
con mắt nheo nheo như muốn cười rồi cố nén cả cái đau lẫn cái sợ, nói líu nhíu
khó hiểu, tựa như vừa nói vừa bị nghẹn vì cái gì. - Đầu tiên chỉ có cảm giác…
Bị va mạnh và bị cháy bỏng… Bây giờ thì khắp người em nóng rực… Em cảm thấy em
sắp chết rồi… - Anna thấy Buntruc xua tay một cách đau khổ như muốn bảo không
phải thế, bèn nhăn mặt. - Thôi đi anh! Chao ôi, tức thở quá!
Những lúc bớt đau, Anna nói luôn miệng, nói rất nhiều như cố
thổ lộ cho hết những điều đè nặng trong lòng mình. Buntruc rất đỗi kinh hoàng
khi thấy mặt Anna sáng bừng lên, hai bên thái dương trở nên trong bóng, vàng
ệch. Anh đưa mắt nhìn xuống hai tay Anna lúc này đã buông thõng hai bên sườn,
không còn sức sống nữa, thấy những móng tay đã biến thành màu hồng hồng xanh
xanh như những quả mận chín dở.
- Nước… Lên ngực… Nóng quá!
Buntruc chạy bổ vào trong nhà lấy nước. Lúc quay ra thì
không còn nghe thấy tiếng Anna rên khò khè dưới mái nhà kho nữa. Mặt trời đã
xuống thấp chiếu lên cái miệng méo xệch trong cơn giãy chết cuối cùng, lên bàn
tay còn ấm áp chặn vào vết thương, nom cứ như cái mô hình nặn bằng sáp ong chứ
không phải tay thật. Buntruc từ từ ôm lấy vai Anna, nâng Anna dậy, nhìn một
phút cái mũi có phần nhọn thêm ra và những điểm tàn hương nhỏ đã đen lại ở chỗ
tinh mũi, cố vót vát chút ánh sáng còn ngưng đọng trong đồng tử của cặp mắt he
hé dưới hai hàng lông mày đen vươn rộng một cách phóng khoáng. Đầu Anna lật
ngửa ra bất lực, rũ xuống mỗi lúc một thấp trên cái cổ thon nhỏ của một người
con gái với mạch máu hằn lên xanh xanh đã đập nhịp cuối cùng.
Buntruc áp đôi môi anh lên một bên mi mắt tím quầng chưa
nhắm nghiền hẳn, gọi thất thanh:
- Em ơi! Anna ơi! - Gọi xong anh đứng dậy, quay ngoắt bỏ đi,
người rướn thẳng một cách rất không tự nhiên, hai tay áp chặt vào đùi không
động đậy.
---------------
Chú thích:
(1) Một thứ đạn súng, đầu có rãnh khía hoặc khoang rỗng,
dễ vỡ hoặc biến dạng khi vào trong cơ thể, làm vết thương nặng hơn. “Đum đum”
(Dum - Dum) là tên gọi một địa điểm ở ngoại ô thành phố Calcutta ( Ấn Độ), nơi chế tạo loại đạn này
theo đơn đặt hàng của Anh, sau đó thành tên gọi của tất cả những đạn súng có
đầu nổ được.
26
Mấy ngày nay, Buntruc cứ như sống trong cơn mê của một người
mắc bệnh thương hàn. Anh đi lại, làm việc này việc nọ, ăn, ngủ, nhưng lúc nào
cũng như trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê ngây ngất, say sưa. Hai con mắt
anh sưng lên, đầy vẻ điên dại, cứ nhìn cái thế giới trải rộng chung quanh mình
nhưng chẳng hiểu gì cả. Gặp những người quen biết, anh không nhận ra họ nữa.
Nom anh như một người đang say bí tỉ hoặc vừa thoát khỏi một trận ốm liệt
giường và đã hoàn toàn kiệt sức. Sau khi Anna qua đời, các giác quan của
Buntrúc bị mất tác dụng một thời gian: anh chẳng mong muốn gì mà cũng chẳng
nghĩ tới điều gì nữa.
- Ăn đi, Buntruc! - Các đồng chí khác bảo anh ăn, thế là
ngồi vào ăn, quai hàm thẫn thờ đưa đi đưa lại một cách mệt mỏi, hai con mắt
nhìn đăm đăm vào một điểm.
Mọi người theo dõi Buntruc, bàn nên đưa anh vào bệnh viện.
- Anh ốm đấy à? - Hôm sau có một chiến sĩ súng máy hỏi anh.
- Không.
- Thế thì anh làm sao vậy? Nhớ Anna à?
- Không.
- Thôi được, chúng ta cùng hút điếu thuốc nhé. Người anh em
ạ, bây giờ Anna không còn sống lại được nữa đâu. Thương nhớ chỉ hoài công.
Đến giờ đi ngủ người ta bảo anh:
- Cậu đi ngủ đi. Đến giờ rồi đấy.
Thế là Buntruc nằm vào giường.
Anh đã sống bốn ngày liền trong cái trạng thái nhất thời
chơi vơi ngoài thực tế như thế. Đến ngày thứ năm thì Krivoslykov bắt gặp anh ở
ngoài phố, bèn nắm lấy tay áo anh và bảo:
- Chà tóm được cậu đây rồi, mình đi tìm cậu mãi. -
Krivoslykov chưa được biết về những chuyện xảy ra với Buntruc. Anh mỉm cười lo
lắng, thân mật vỗ vai Buntruc. - Cậu làm sao thế này? Vừa có tí tửu phải không?
Cậu đã được nghe nói về chuyện một đại đội viễn chinh sắp được phái lên các
quân khu miền Bắc chưa? Còn sao nữa, một Ủy ban năm người vừa được bầu ra.
Fedor sẽ lãnh đạo. Chỉ còn hy vọng vào bà con Cô-dắc miền Bắc nữa thôi. Nếu
không tất cả sẽ hỏng bét. Tình hình đang gay go lắm! Cậu sẽ đi chứ? Bọn mình
đang cần một số đồng chí làm công tác cổ động. Cậu sẽ đi chứ?
- Đi. - Buntruc trả lời gọn lỏn.
- Thế thì tốt lắm. Ngày mai chúng mình sẽ lên đường. Cậu cứ
tới chỗ cụ Orlov, ông cụ sẽ dẫn đường cho chúng mình đấy.
Vẫn trong trạng thái hồn vía lên chín từng mây, Buntruc làm
các việc chuẩn bị lên đường, và hôm sau, tức là ngày mồng một tháng Năm, anh ra
đi cùng với đội viễn chinh.
Dạo này, chính quyền Xô viết vùng sông Đông đang lâm vào
tình thế rõ ràng bị đe doạ nghiêm trọng. Các đơn vị chiếm đóng của quân Đức
tiến từ Ukraina sang, các trấn và các khu miền dưới hoàn toàn bị tràn ngập dưới
làn sóng bạo động phản cách mạng. Popop lượn đi lượn lại trong khu vực qua mùa
đông và từ đấy uy hiếp Novocherkask. Đại đội đại biểu Xô viết quân khu họp ở
Rostov từ mồng mười đến mười ba tháng Tư đã bị gián đoạn đến mấy lần, vì dân
Cherkask dấy loạn đang tiến về phía Rostov và đã chiếm được vùng ngoại ô. Chỉ ở
miền Bắc, trong hai quân khu Khopesky và Ust-Medvedisky là còn vài căn cứ cách
mạng tương đối có tinh thần, và chính các căn cứ ấy đã tự nhiên thu hút
Potchenkov cùng những người đã mất niềm tin vào sự ủng hộ của dân Cô-dắc vùng
dưới. Công tác động viên vào quân đội đã thất bại, vì thế theo sáng kiến của
Laguchin, Potchenkov vừa được bầu làm chủ tịch Xô viết các ủy viên nhân dân
sông Đông, đã quyết định tiến về phía bắc, để động viên trên đó ba bốn trung
đoàn gồm các binh sĩ Cô-dắc mới ở mặt trận về, và đưa các trung đoàn ấy đi đánh
quân Đức cùng lực lượng phản cách mạng ở vùng dưới.
Một Ủy ban động viên đặc biệt gồm năm người do Potchenkov
lãnh đạo đã được bầu ra. Ngày hai mươi chín tháng Tư đã trích công quỹ lấy mười
triệu đồng vừa tiền rúp, vừa vàng, vừa giấy bạc Nicolai để dùng cho các nhu cầu
của việc động viên. Một đội vũ trang đã được tổ chức vội vã để bảo vệ các hòm
tiền, đội này chủ yếu gồm những anh em Cô-dắc trước kia thuộc đội cảnh bị địa
phương Kamenskaia. Ngoài ra còn lấy thêm vài cán bộ cổ động người Cô-dắc. Ngày
mồng một tháng Năm, ngay dưới làn đạn máy bay Đức, đội viễn chinh lên đường về
hướng Kamenskaia.
Các con đường đều bị tắc vì những đoàn xe chở các chi đội
Xích vệ rút lui khỏi Ukraina. Quân phiến loạn Cô-dắc phá cầu cống, gây ra những
vụ đổ tầu. Sáng nào trên con đường Novocherkask – Kamenskaia cũng thấy máy bay
Đức xuất hiện. Những chiếc máy bay lượn vòng như những đàn diều hâu, rồi là
xuống, nã vài tràng súng máy ngắn ngủi. Các chiến sĩ Xích vệ chạy tản ra khỏi
các đoàn xe, nổ súng loạn lên từng hồi. Ở bất cứ ga nào, mùi than xỉ cũng hoà
lẫn với cái mùi khe khé của chiến tranh và chết chóc. Những chiếc máy bay đã
ngóc cổ lao lên những độ cao khó tưởng tượng, nhưng các xạ thủ vẫn ra sức bắn
cho vơi các hòm kẽm đựng đạn. Nếu đi qua các đoàn tầu nhà binh thì ủng sẽ thụt
đến mắt cá trong vỏ đạn. Cát bị lớp vỏ đạn phủ kín như những khe núi trong tháng
Mười một dưới lớp lá sồi vàng óng. Mọi vật đều ghi dấu một sự phá hoại không
còn mức độ nào nữa: Trên các sườn đồi ngổn ngang những toa xe bị đốt, bị phá vỡ
đen như than. Trên các cột điện tín, dây thép đứt cuốn loằng ngoằng quanh những
chiếc bình bằng sứ trắng như đường. Nhiều ngôi nhà đã bị phá hủy, các bảng tín
hiệu dọc các tuyến đường sắt đều biến đi đâu mất như sau một trận bão lớn…
Đội viễn chinh đã len lỏi tiến theo hướng Minlerovo được năm
ngày. Đến sáng ngày thứ sáu, Potchenkov triệu tập các ủy viên đến toa của anh.
- Không còn có thể đi như thế này được nữa đâu! Phải bỏ tất
cả đồ đạc của chúng ta lại để xuống xe hành quân thôi.
- Cậu nói gì thế? - Laguchin ngạc nhiên kêu lên. - Hành quân
trên đường thì trước khi mò được tới Ust-Medvedskaia, quân Trắng đã dẫm qua xác
chúng ta rồi.
- Còn khá xa đấy, - Mrykhin ngập ngừng.
Krivoslykov vừa đuổi kịp đội viễn chinh chưa được bao lâu.
Anh chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi thu lu trong chiếc áo ca-pôt đính những chiếc
quân hiệu bạc màu. Anh đang lên cơn sốt rét, uống ký ninh đến ù cả tai, đầu
nóng bừng bừng, cứ gù gù cái lưng ngồi trên một túi đường, mắt mờ đi dưới lớp
màng của bệnh sốt rét.
- Krivoslykov? - Potchenkov gọi nhưng mắt vẫn không rời tấm
bản đồ.
- Cậu cần gì thế?
- Cậu không nghe thấy chúng mình đang nói về chuyện gì à?
Phải xuống tầu đi bộ thôi, nếu không bị chúng nó đuổi kịp thì sẽ mất mạng. Cậu
thấy thế nào hử? Cậu được học hành nhiều hơn bọn mình, bây giờ cậu hãy nói đi.
- Kể ra đi bộ cũng được - Krivoslykov nói thủng thẳng từng
tiếng, nhưng bỗng nhiên hai hàm răng anh đập vào nhau lách cách, cứ như răng
chó sói, toàn thân run bần bật trong cơn sốt rét đang phát lên đến cực độ. -
Cũng được đấy nếu đồ đạc mang theo ít hơn.
Potchenkov mở rộng tấm bản đồ bên cạnh cửa sổ. Mrykhin giữ
hai góc. Dưới ngọn gió thổi từ phía trời tây u ám, tấm bản đồ đập lạch phạch
rồi bay đánh soạt khỏi tay hai người.
- Chúng ta sẽ đi như thế nào, cậu xem nhé! - Ngón tay vàng
khè vì khói thuốc của Potchenkov đưa chéo qua tấm bản đồ. - Cậu có thấy tỉ lệ
không? Chừng trăm rưởi vec-xta quá lắm hai trăm là cùng. Thế đấy!
- Giải quyết như thế mà đúng đấy, mẹ khỉ! - Laguchin đồng ý.
- Cậu thấy thế nào, Mikhail?
Krivoslykov nhún vai có vẻ bực bội.
- Mình không phản đối.
- Mình sẽ ra bảo ngay anh em Cô-dắc xuống tầu. Không nên để
mất thì giờ làm gì.
Mrykhin đưa mắt nhìn mọi người một lượt có vẻ chờ đợi. Anh
chàng thấy không có ai phản đối, bèn nhảy ra khỏi toa xe.
Trong buổi sáng âm u mưa dầm rả rích đó, đoàn xe nhà binh
chở đội quân viễn chinh của Potchenkov dừng lại ở một nơi cách Belaya Katliva
không xa mấy. Buntruc nằm trọng toa xe của anh, áo ca-pôt trùm kín đầu. Anh em
Cô-dắc nấu nước trà ngay trong toa, người nọ đem người kia ra pha trò và cùng
cười khà khà.
Vanca Bondyrov, anh chàng vua cù hay chế giễu người khác,
dân trấn Migulinskaia, đang trêu bạn, một chàng súng máy.
- Íchnát nầy, cậu là dân tỉnh nào thế nhỉ? - Vanca hỏi,
giọng vốn đã khàn lại càng khê đặc vì khói thuốc lá.
- Tambobskaia, - Ichnát vốn tính hiền lành, hắn trả lời bằng
một giọng trầm rất dịu dàng.
- Có lẽ cậu ở thôn Morsansky phải không?
- Không, thôn Satsky.
- À -à-à cái dân Sátsky nhà cậu toàn là những tay gan dạ ra
phết: đánh nhau thì bảy mình chọi một địch cũng chẳng sợ. Có phải hồi vua Nga
lên ngôi thôn cậu đã dùng dưa chuột chọc tiết bò, phải không?
- Thôi, cậu hãy bỏ cái chuyện ấy đi!
- À phải, mình quên khuấy đi mất, cái chuyện ấy không phải
đã xảy ra ở thôn cậu đâu. Hình như ở thôn cậu bà con đã đem những cái bánh
tráng xếp thành một tòa nhà thờ rồi đặt lên những hạt đậu Hà Lan để đẩy cho lăn
xuống dốc phải không? Có cái chuyện như thế không nhỉ?
Vừa lúc ấy ấm trà bắt đầu sôi, vì thế Ichnat tạm thời thoát
được những lời bông phèng của Bondyrev. Nhưng mọi người vừa ngồi vào ăn sáng,
Vanca đã lại giở trò:
- Ichnát này, hình như cậu ít ăn thịt lợn thì phải. Cậu
không thích thịt lợn có phải không?
- Không, ăn cũng chẳng sao.
- Thế thì cho cậu cái b… lợn nầy. Ngon tuyệt đấy!
Mọi người cười rộ. Có anh chàng bị nghẹn ho sặc sụa. Trong
toa xe náo lên một lát, đế ủng đập xuống sàn tầu ầm ầm. Một phút sau mới nghe thấy
cái giọng hổn hển vì tức tối của Ichnát:
- Của cậu, cậu ăn đi, đồ quỷ! Sao cậu lại đem cái con b...
của cậu ra đây?
- B… mình đâu, b… lợn đấy.
- Cũng chỉ là của bẩn thỉu cả thôi!
Mặt Bondyrev vẫn phớt lạnh, hắn kéo dài cái giọng khàn đặc:
- Bẩn thỉu ấy à? Đầu óc cậu để ở đâu thế? Ngày lễ Phục sinh
người ta đem nó ra phong chức thánh đấy. Nhưng cậu cứ nói thật đi, cậu sợ phạm
kiêng kỵ ngày ăn chay à?
Bondyrev có một người bạn đồng hương là một chàng Cô-dắc đẹp
trai râu tóc màu hạt dẻ nhạt, đã từng được thưởng cả bốn hạng huân chương thánh
Gioóc. Anh ta thấy thế bèn khuyên:
- Thôi bỏ chuyện ấy đi, Ivan! Cậu làm như thế thì lúc choảng
nhau với bọn mu-gích sẽ xúi quẩy đấy. Nó ăn b… lợn vào rồi đầu óc sẽ chỉ còn
nghĩ tới chuyện đi mò như con lợn đực thôi. Nhưng cái của này cậu rước ở đâu về
thế hử?
Buntruc vẫn nằm, hai con mắt nhắm nghiền. Câu chuyện trao
đổi giữa mọi người không lọt vào tai anh, vì anh đang sống với nỗi đau khổ vừa
đổ lên đầu anh trong thời gian gần đây, nó không hề nguôi đi mà thậm chí như ngày
một tăng thêm. Tuy nhắm mắt, nhưng anh vẫn thấy mung lung hiện ra một cánh đồng
cỏ đầy tuyết quay lộn, với những cánh rừng nhấp nhô nâu nâu trên chân trời đằng
xa. Anh cảm thấy như có luồng gió lạnh và nhìn thấy Anna bên cạnh mình với cặp
mắt đen nhánh, những nét kiên định nhưng dịu dàng của cái miệng đáng yêu, những
điểm tàn hương nhỏ li ti ở chỗ tinh mũi, một vết nhăn tư lự ngang trán… Buntruc
không nghe thấy những lời thốt ra từ miệng Anna, những lời đó rất khó nghe, khó
hiểu vì bị át bởi những tiếng nói tiếng cười của những người nào đó, nhưng nhìn
những cái ánh long lanh trong cặp đồng tử, nhìn hai hàng mi cong rung rung, anh
đoán rằng Anna đang nói… Nhưng đây là một Anna khác hẳn mọi khi: da mặt xanh
xanh vàng vàng, những dòng nước mắt đọng lại trên má, cái mũi nhọn hoắt ra và
cặp môi méo đi vì đau khổ nom thật đáng sợ. Buntruc cúi xuống hôn hai con mắt
đờ đẫn sâu hoắm, đen ngòm… Anh rên lên một tiếng nhưng đưa ngay tay trái lên bị
chặt miệng mình để khỏi òa lên khóc. Những ngày qua không hề làm cho hình ảnh
Anna phai nhòa hay mờ đục. Khuôn mặt Anna, thân hình, dáng đi cử chỉ, những sự
thay đổi trong đường môi, ánh mắt và nét lông mày phóng khoáng của Anna, tất cả
vẫn họp lại thành một Anna trọn vẹn và sống động. Buntruc nhớ lại những lời nói
đầy tình cảm lãng mạn của Anna, nhớ lại tất cả những gì mình đã trải qua cùng
với Anna.
Thấy có lệnh xuống tàu, anh em bèn gọi Buntruc. Anh đứng
dậy, thẫn thờ thu dọn đồ đạc rồi rời khỏi toa xe. Sau đó anh giúp việc dỡ hàng
và vẫn thẫn thờ như thế ngồi lên chiếc xe ngựa để lại lên đường.
Mưa lâm râm. Những đám cỏ cằn cỗi hai bên đường đều ướt đẫm.
Đồng cỏ. Gió tự do hoành hành trên các đường sống đồi cũng như dưới những cái
khe. Các thôn trại liên tiếp hiện ra, cái xa, cái gần.
Những đám khói trên các đầu máy xe lửa và các khối kiến trúc
chữ nhật đỏ đỏ của nhà ga đã bị để lại phía sau. Hơn bốn chục chiếc xe ngựa
thuê ở Belaya Kalitva nối đuôi nhau chạy trên đường cái.
Những con ngựa không chạy nhanh được. Lòng đường vừa đất sét
vừa đất đen bị thấm nước mưa rất khó đi. Bùn bám vào các bánh xe từng đám nom
như những túm bông đen. Từng đoàn thợ mỏ của khu Belokalitvensky đi phía trước
và phía sau đội viễn chinh. Họ chạy về phía đông để trốn tránh bạo quyền của
dân Cô-dắc, đem thêm bầu đoàn thê tử và chút đồ đạc nghèo nàn.
Khi đội viễn chinh tiến đến gần nhà ga tránh xe Gratri, hai
chi đội Xích vệ của Romanovsky và Sadelko đuổi theo kịp. Cả hai đều bị đánh
thất điên bát đảo. Mặt các chiến sĩ đều đen xạm, tiều tụy vì những trận chiến
đấu, những đêm không ngủ và những sự thiếu thốn. Sadelko lại gần Potchenkov.
Khuôn mặt đẹp trai của anh với hàng ria tỉa theo kiểu ănglê, cái mũi thanh
thanh, nom hốc hác hẳn đi. Buntruc đi qua, thấy Sadelko cau mày nói bằng một
giọng vừa bực bội vừa mệt mỏi:
- Anh nói gì với tôi vậy? Chẳng nhẽ tôi không hiểu rõ những
anh em dưới quyền tôi hay sao? Tình hình nguy khốn lắm, lại còn quân Đức nữa
chứ, mẹ cái bọn khốn kiếp! Thế này thì bao giờ mới mộ đủ quân?
Sau câu chuyện trao đổi với Sadelko, Potchenkov trở nên nhăn
nhó khổ sở và tựa như có phần hoang mang. Anh đuổi theo chiếc xe của anh, xao
xuyến nói không biết những gì với Krivoslykov.
Buntruc nhìn theo hai người thấy Krivoslykov chống khuỷu tay
nhổm lên, nói liến thoắng một tràng, vừa nói vừa đưa bàn tay chém lia lịa trong
không khí. Pochenkov lại vui hẳn lên, anh nhảy lên xe ngựa, khung xe kêu răng
rắc dưới cái thân hình chàng pháo thủ nặng tới sáu pút. Người đánh xe ra roi
quất hai con ngựa, bùn bắn vung từng nắm sang hai bên.
- Cứ quất đi!
Pochenkov nheo mắt kêu lên, tà áo da mở phanh đón gió.
27
Trong vài ngày đội viễn chinh tiến sâu vào lòng quân khu
Donesky, cố tới được trấn Krasnokurskaia. Nhân dân các làng Ukraina bao giờ
cũng đón tiếp họ với một thái độ niềm nở mến khách. Người ta vui lòng bán cho
lương thực, rơm rạ và cho ở nhờ, nhưng hễ đả động tới chuyện thuê ngựa đi
Krasnokurskaia là dân Ukraina tỏ vẻ nghi ngại, đưa tay lên gãi gáy rồi từ chối
thẳng thừng.
- Chúng tôi sẽ trả nhiều tiền, có gì mà bác làm bộ làm tịch
thế? - Potchenkov hỏi một người Ukraina.
- Đâu có nhưng đối với tôi cuộc đời không phải không đáng
một đồng xu nhỏ.
- Cuộc đời bác mặc bác, không can gì đến chúng tôi. Cứ cho
chúng tôi thuê ngựa và xe đi.
- Không, không được đâu.
- Sao lại không được?
- Bác tới chỗ bọn Cô-dắc có phải không?
- Phải, nhưng sao cơ chứ.
- Đến đấy sẽ có thể xảy ra chuyện nọ chuyện kia. Chẳng nhẽ
tôi không biết lo thân hay sao? Bị chúng nó giết mất ngựa thì tôi sẽ biết làm
thế nào? Không đâu bác ạ, tôi chẳng đi đâu!
Càng tới gần khu du mục Krasnokurskaia, Potchenkov cùng
những người khác càng lo. Mọi người đã cảm thấy sự chuyển biến trong tinh thần
dân chúng. Những làng đầu tiên còn đón tiếp nồng hậu, nhưng càng vào sâu, người
ta càng có thái độ rõ ràng là không thân thiện và có ý đề phòng. Họ chỉ để lại
lương thực một cách miễn cưỡng, tránh không trả lời những câu hỏi. Không còn
thấy thanh niên trong làng tới vây quanh các xe của đội viễn chinh như những
cái thắt lưng hoa nữa. Người ta đứng trong cửa sổ gườm gườm nhìn ra như quân
thù quân hằn rồi vội vã quay vào trong nhà.
- Bà con ở đây có phải là con chiến của Chúa hay không hử? -
Những chàng Cô-dắc trong đội viễn chính phẫn nộ hỏi. - Làm gì mà cứ nhìn người
ta như loài cú vọ thế hử?
Đến khi tới một làng thuộc quận Nagolinskaia, anh chàng
Vanca Bondyrev điên tiết trước thái độ tiếp đón lạnh nhạt, đã ném mạnh cái mũ
của hắn xuống đất rồi quát lên bằng một giọng khàn khàn, nhưng mắt vẫn lấm lét
nhìn quanh xem có cấp trên đi qua không.
- Các người là người hay là quỷ hử? Sao cứ câm như hến thế,
mẹ các người ra! Người ta đổ máu bảo vệ quyền lợi cho các người mà các người
cũng chẳng mở mắt nhìn người ta! Cái kiểu đối với nhau xưa kia nhục nhã lắm
rồi! Bây giờ là đồng chí với nhau, là bình đẳng, không còn phân chia Cô-dắc và
khô-khon(1) nữa đâu, không còn có gì phân biệt nữa đâu. Thôi mang gà mang trứng
ra đây mau lên, chúng tôi sẽ trả tất cả bằng giấy bạc Nicolai!
Năm sáu người Ukraina nghe Bondyrev quát lác cứ gục đầu đứng
yên, như những con ngựa bị thắng vào ách cày. Chẳng ai hé răng nửa lời để hưởng
ứng những câu nói sôi nổi của anh chàng.
- Cái lũ chết tiệt, các người đã là khô-khon thì sẽ vẫn là
khô-khon thôi! Đồ quỷ dữ, thôi mặc cho các người tan xương làm trăm mảnh! Dịch
tả dịch hạch bắt các người đi, đồ tư sản bụng phệ! - Bondyrev nhặt cái mũ lên
rồi lại ném nó xuống, lòng khinh bỉ đến cực độ làm mặt anh chàng đỏ như gấc. -
Ở chỗ các ngài giữa mùa đông cũng chẳng xin nổi của các người một nắm tuyết
đâu!
- Thôi đừng oăng oẳng lên nữa! - Những người Ukraina chỉ nói
thế với anh ta rồi bỏ đi mỗi người một ngả.
Cũng ở làng này, một bà già Ukraina hỏi một chàng Cô-dắc
Xích vệ:
- Có đúng là các bác sẽ cướp sạch, giết sạch mọi người có
phải không?
Chàng Cô-dắc nhà ta trả lời, mắt không chớp:
- Đúng đấy. Nhưng không phải ai cũng giết tuốt đâu, mà chỉ
giết bọn bô lão thôi.
- Chao ôi, lạy Chúa tôi! Nhưng tại sao các bác lại phải làm
như thế?
- Chúng tôi đem họ đi nấu cháo ăn mà lỵ: thịt cừu bây giờ
dai như giẻ rách ấy, chẳng đậm đà chút nào. Quẳng một lão già vào nồi là có
váng mỡ nổi lên ngay…
- Có lẽ bác chỉ nói đùa đấy thôi?
- Nó nói láo đấy, bà cụ à! Nó đùa dai đấy! - Mrykhin nói xen
vào câu chuyện.
Nói xong anh nghiêm khắc quát cho anh chàng đùa tếu kia một
trận:
- Cậu phải biết nên nói đùa như thế nào và nói đùa với ai
mới được! Với những câu nói đùa như thế cậu có thể bị Potchenkov cho ăn mấy cái
bợp tai đấy! Tại sao cậu lại gây chuyện như vậy! Rồi bà cụ sẽ đi nói vung ra là
chúng ta giết bọn bô lão cho mà xem.
Potchenkov rút ngắn các thời gian nghỉ đêm và đóng quân.
Trong lòng bồn chồn như lửa đốt, anh lao đầu về phía trươc. Một ngày trước khi
tới khu du mục của trấn Krasnokurskaia, anh nói chuyện rất lâu với Laguchin,
cho biết các ý nghĩ của anh:
- Ivan ạ, chúng ta không nên đi xa đâu. Đến được trấn
Ust-Khope là chúng ta bắt tay vào việc ngay! Chúng ta sẽ tuyên bố tuyển quân
chúng ta sẽ phát cho mỗi người tiền lương là một trăm rúp, nhưng phải mang ngựa
và trang bị cùng đi, không thể tiêu phí tiền của nhân dân được. Từ Ust-Khope,
chúng ta sẽ tiến ngược lên, qua trấn Bukanovskaia của cậu, tới các trấn
Slasevskaia, Fedorseevskaia, Kumulgenskaia, Gladunovskaia, Xkurisenskaia. Đến
Mikhailovskaia thì đã có một sư rồi. Liệu chúng ta có mộ được không nhỉ?
- Mộ thì sẽ mộ được, nếu như tất cả các mặt còn yên ổn.
- Cậu cũng cho rằng cả trên đó đã bắt đầu có chuyện rồi hay
sao?
- Làm thế nào mà biết được? - Laguchin vuốt vuốt chòm râu
thưa thớt, nói giọng the thé như than vãn. - Chúng ta hơi muộn mất rồi… Fedor
ạ, mình chỉ sợ chúng ta lên đó sẽ không kịp. Bọn sĩ quan đang giở cái trò của
chúng nó trên đó rồi. Phải quàng lên mới được.
- Phải quàng lên thật đấy. Nhưng cậu đừng lo sợ! Chúng ta
không có quyền sợ,- Mắt Potchenkov trở nên nghiêm khắc. - Lãnh đạo anh em đi
theo mình thì sao lại có thể sợ được. Chúng ta sẽ tới kịp! Chúng ta sẽ xông qua
hết! Hai tuần nữa mình sẽ choảng cả quân Trắng lẫn quân Đức cho mà xem! Quỷ dữ
bắt chúng nó đi, chúng ta sẽ tống cổ chúng nó ra khỏi vùng đất sòng Đông! - Rồi
anh nín lặng một lát, hút lấy hút để hết một điếu thuốc và nói lên ý nghĩ thầm
kín của mình. - Nếu chúng ta chậm thì sẽ chết cả chúng ta lẫn chính quyền Xô
viết vùng sông Đông. Chao ôi, đừng có muộn mới được! Nếu cuộc dấy loạn của bọn
sĩ quan lan tới đó trước chúng ta thì tất cả sẽ đi đứt!
Hôm sau đội viễn chinh tiến vào địa hạt trấn Krasnokurs
trước khi trời hoàng hôn. Lúc còn chưa tới thôn Alekseevsky, Potchenkov cùng
với Laguchin và Krivoslykov ngồi trên một trong những chiếc xe đi đầu, bỗng
thấy một đàn bò đi trên đồng cỏ.
- Chúng ta hỏi người chăn bò đi, - Laguchin gợi ý.
- Hai cậu đi đi. - Krivoslykov tán thành.
Laguchin và Potchenkov nhảy trên xe xuống, đi tới chỗ đàn bò.
Bãi chăn nuôi đã bị nắng làm cháy thui, lớp cỏ nâu bóng đã
thấp lè tè lại bị vó ngựa dẫm nát, chỉ ven đường có những cây sơn giới nở hoa
vàng vàng từng bụi nhỏ và lúa yến mạch dại rất to hạt rạt rào như những cái
chổi lồm xồm. Potchenkov vò trong tay một nhánh hoa ngải cứu rất già, bước tới
trước mặt người chăn bò.
- Chào cụ, cụ có khỏe không?
- Ơn Chúa.
- Cụ chăn bò à?
- Vâng, tôi chăn.
Ông lão đưa đi đưa lại cây gậy rất to, nhìn gườm gườm dưới
hai hàng lông mày rậm rì bạc như nước.
- Thế nào, công việc làm ăn của cụ như thế nào? - Potchenkov
hỏi một câu lấy lệ.
- Được Chúa cứu giúp nên cũng khá.
- Vùng bà con ta đây có chuyện gì mới không cụ?
- Chẳng nghe thấy có chuyện gì mới cả. Nhưng các bác là ai
thế?
- Chúng tôi là con nhà lính, bây giờ về nhà đây.
- Các bác người đâu ta?
- Là dân trấn Ust-Khopeskaia.
- Cái thằng Potchenkov có đi với các bác không?
- Có đi với chúng tôi.
Ông lão chăn bò xem ra đã hết hồn hết vía mặt cắt không còn
hột máu.
- Có gì mà sợ thế cụ?
- Sợ hẳn đi chứ, nhưng các bác đây hãy làm phúc làm đức…
người ta bảo rằng các bác giết tất cả những người theo Chính giáo cơ mà.
- Chỉ bậy! Kẻ nào phao đồn những tin nhảm như thế?
- Hôm kia họp đại hội toàn thôn, ông ataman đã nói như thế
đấy. Không biết ông ấy chỉ nghe đồn hay có nhận được giấy tờ chính thức cho
biết rằng Pochenkov đem bọn Kalmys đi, gặp ai cũng giết sạch.
- Vùng bà con ta đây đã bầu ataman rồi à? - Laguchin đưa
nhanh mắt nhìn Pochenkov.
Potchenkov cắn cắn một sợi cỏ trong những cái răng vàng khè.
- Hôm nọ đã bầu ataman và đóng cửa Xô viết rồi.
Laguchin còn định hỏi thêm một câu gì nữa, nhưng ngay gần
đấy có một con bò mộng trán hói rất khỏe nhảy một con bò cái, làm con bò cái
khuỵu cả chân.
- Gãy xương nó mất rồi, đồ chết tiệt! - Ông lão chăn bò quát
lên rồi chạy vùng tới chỗ đàn bò, nhanh nhẹn một cách không ngờ đối với một
người có tuổi như thế. Cụ vừa chạy vừa la. - Đè gãy xương con bò cái rồi! Gãy
xương nó mất rồi! Xéo ngay! Xéo ngay, con hói này!
Pochenkov khoát rộng hai tay, bước về xe. Laguchin vốn là
một người quen chăm lo công việc làm ăn, anh đứng lại nhìn con bò cái non lẻo
khẻo như thế mà bị con bò mộng nhảy khuỵu chân xuống đất bất giác thoáng có ý
nghĩ: “Nó bị nhảy gãy xương mất rồi! Hình như gãy xương mất rồi? Chà, con quỷ
dữ?”.
Mãi đến khi thấy con bò cái được lôi từ bên dưới con bò mộng
ra, xương sống không bị hư hại gì, anh mới quay ra xe. “Chúng ta sẽ làm thế nào
bây giờ? Chẳng nhẽ bên kia sông Đông cũng lại bầu bọn ataman rồi hay sao?” -
Anh thầm tự hỏi như thế, nhưng sự chú ý của anh lại bị đánh lạc ngay trong giây
phút bởi một con bò giống rất dẹp. Con bò giống cúi cái đầu rộng bè bè, ngửi ngửi
một con bò đen có bộ vú rất to rất nẩy. Yếm nó xệ xuống tới tận đầu gối, thân
nó rất mập, rất chắc, trường và thẳng như sợi dây đàn. Bốn cái chân ngắn cũn
của nó cắm chắc xuống chất đất mềm như bốn cái cột. Laguchin bất giác đứng ngắm
một lát con bò giống, mắt nhìn như vuốt ve bộ lông đỏ đốm trắng của nó. Qua một
mớ ý nghĩ đầy ưu tư, Laguchin thở dài, bụng bảo dạ: “Trấn mình mà có được một
con như thế này nhỉ! Những con bò giống vùng mình nhỏ quá”. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ
thoáng qua rất nhanh trong óc. Khi về tới xe, nhìn thấy những khuôn mặt rầu rĩ
của anh em Cô-dắc, Laguchin lại đắn đo cân nhắc con đường hành quân sắp phải
trải qua.
Krivoslykov đang bị bệnh sốt rét làm tình làm tội. Anh chàng
mơ mộng và cũng có lúc làm thơ ấy nói với Potchenkov:
- Chúng ta chạy trốn làn sóng phản cách mạng, cố vượt lên
trước nó, nhưng nó đã tràn qua chúng ta rồi. Rõ ràng là không thể nào đuổi vượt
nó được nữa. Nó ào lên nhanh quá, cứ như sóng biển chảy dồn vào chỗ trũng ấy.
Trong số các thành viên của Ủy ban, có lẽ chỉ một Potchenkov
đã tính tới toàn bộ tính chất phức tạp của hoàn cảnh mới. Anh ngồi ngả người về
phía trước, chốc chốc lại quát người đánh xe:
- Nhanh lên!
Trong những chiếc xe phía sau có những tiếng hát cất lên rồi
lặng di. Từ phía đó những tiếng cười, tiếng kêu dội lên như sấm, át cả tiếng
bánh xe.
Các tin tức mà ông lão chăn bò cho biết đã được chứng thực.
Trên đường hành quân, đội viễn chinh gặp một gã Cô-dắc cựu chiến binh đánh xe
cùng với vợ tới thôn Svetnikov. Gã đeo đầy đủ cả lon lẫn quân hiệu, Potchenkov
hỏi gã vài câu, rồi mặt anh càng xạm đi.
Đoàn xe đã qua thôn Alekseevsky. Mưa lâm râm. Trời trở nên u
ám. Chỉ đằng đông còn thấy một màu trời xanh nước biển trong một kẽ mây với
những tia nắng chiếu chếch chếch qua đó.
Anh em vừa từ trên gò kéo xuống Rubaskin, một làng của người
Tavria, thì thấy có những người từ trong đó bỏ chạy về hướng ngược lại, có cả
vài chiếc xe phi ra như bay.
- Họ bỏ chạy. Họ sợ chúng ta… - Laguchin nhìn các anh em
khác, nói có vẻ hoảng hốt.
Potchenkov quát lên:
- Gọi họ lại! Gọi to lên cho họ trở về, mẹ khỉ!
Anh em Cô-dắc vừa đánh ngựa cho xe chạy nhanh hơn, vừa quay
những chiếc mũ trên đầu. Có người gọi oang oang:
- Nà-ày! Bà con chạy đâu thế? Hượm đã nào!
Những chiếc xe của đội viễn chinh phóng vào trong làng. Gió
lốc xoáy tràn trong căn phố rộng không một bóng người. Trong một cái sân có một
bà già người Ukraina vừa kêu la inh ỏi, vừa ném mấy chiếc gối lên một cái xe.
Người chồng nắm dây hàm thiếc con ngựa, đầu không mũ, chân không giầy.
Ở Rubaskin, mọi người được biết rằng tay tiền trạm được
Potchenkov phái đi đã bị một đội trinh sát Cô-dắc bắt rồi lôi ra sau ngọn gò.
Rõ ràng là Cô-dắc không còn xa nữa. Sau một cuộc hội ý chớp nhoáng, mọi người
quyết định quay ngược trở lại. Đầu tiên Pochenkov còn cố giữ ý kiến tiếp tục
tiến về phía trước, nhưng sau ai cũng do dự.
Krivoslykov chẳng nói chẳng rằng, người anh bắt đầu run bắn
lên trong một cơn sốt rét.
- Hay là chúng ta cứ tiến thêm? - Potchenkov hỏi Buntruc lúc
này cũng có mặt trong cuộc họp.
Buntruc thẫn thờ nhún vai. Đối với anh bây giờ thì dứt khoát
đằng nào cũng thế cả, tiến cũng được, thoái cũng được, miễn là có di động, miễn
là chạy trốn nỗi u sầu luôn luôn bám sát gót anh.
Potchenkov đi đi lại lại bên cạnh chiếc xe, trình bày những
cái lợi của việc tiến về hướng Ust-Medved. Nhưng một cán bộ cổ động Cô-dắc đã
ngắt lời anh một cách gay gắt.
- Anh điên mất rồi! Anh định đưa chúng tôi đi đâu hử? Đi đến
chỗ bọn phản cách mạng à? Người anh em ạ, anh đừng có đùa dai!
- Chúng ta quay trở lại thôi! Chúng tôi không muốn chết đâu!
Cái gì thế kia? Anh đã thấy chưa? - Anh ta chỉ lên ngọn gò.
Mọi người đều nhìn về hướng đó: trên một cái kurgan nhỏ thấy
hiện lên rành rọt hình ba người cưỡi ngựa.
- Trinh sát của chúng nó đấy! - Laguchin kêu lên.
- Lại còn đằng kia nữa!
Một số người cưỡi ngựa khác thấp thoáng trên ngọn gò. Chúng
túm tụm lại từng đám, tản ra, biến mất sau ngọn gò rồi lại xuất hiện.
Potchenkov ra lệnh lên đường quay trở lại. Đoàn quân tiến
qua thôn Alekseevsky. Rõ ràng là nhân dân ở đấy đã bị quân Cô-dắc cảnh cáo. Vừa
nhìn thấy đoàn xe của đội viễn chinh tiến lại gần, họ đã bắt đầu lẩn trốn và bỏ
chạy.
Trời đã hoàng hôn. Mưa vẫn dầm dề, lạnh buốt, đến là khó
chịu. Anh em ướt như chuột lột, họ đi bên cạnh những chiếc xe, người run cầm
cập, súng luôn luôn sẵn sàng. Con đường vòng tránh một dốc núi dài, trườn xuống
một vùng đất trũng, chạy theo cái khe một đoạn rồi lại leo ngoằn ngoèo lên gò.
Những đội trinh sát Cô-dắc khi ẩn khi hiện trên đường sống gò. Đội viễn chinh
hết sức căng thẳng, mà của đáng tội tinh thần anh em không thế cũng đã căng
thẳng rồi.
Khi tới gần một cái khe cắt ngang vùng đất trũng, Potchenkov
nhảy trên xe xuống, ra lệnh gọn lỏn cho anh em: “Sẵn sàng chiến đấu!”
Anh mở chốt an toàn khẩu súng trường kỵ binh, đi bên cạnh
xe. Dưới khe có một cái đập, nước mưa xuân bị giữ lại nom xanh ngắt. Đất bùn
gần làn nước lỗ chỗ những vết chân của đàn gia súc ra đấy uống nước. Cái đập đã
có chỗ lở, trên đó mọc đầy cỏ dại và thỏ ti. Bên dưới, chỗ sát mặt nước, thấy
lơ thơ những khóm hương bồ tiều tụy, mưa rơi ràn rạt trên những đám lá bàng tử
nhọn hoắt.
Potchenkov trù tính sẽ gặp quân Cô-dắc mai phục ở chỗ này,
nhưng bộ phận trinh sát được phái đi sục sạo phía trước chẳng phát hiện thấy gì
cả.
- Fedor ạ, bây giờ cậu không cần phải phòng bị làm gì. -
Krivoslykov gọi Pochenkov về đến chiếc xe khẽ nói. - Chúng nó không tấn công
bây giờ đâu. Đến đêm mới giở trò cho mà xem.
- Mình cũng nghĩ như thế đấy.
--------------
Chú thích:
(1) Tên người Cô-dắc dùng để gọi dân Ukraina đến ở vùng
này một cách khinh bỉ (ND)
28
Về phía tây, mây đen kéo đến mù mịt. Trời đã tối. Chớp
nhoáng nhoàng ở một nơi rất xa, rất xa trên dải đất ven sông Đông, loé lên
những vầng sáng màu da cam rung rung như cánh một con chim bị bắn chưa chết
hẳn. Phía đó còn lờ mờ chút ráng chiều, nhưng lại bị dải mây che mất một phần.
Như một cái tách đựng tịch mịch đầy đến miệng, đồng cỏ còn giấu trong những nếp
khe chút ánh sáng u uất sót lại của ngày vừa qua. Trong buổi chiều tà nầy có
một cái gì nhắc nhở tiết trời mùa thu. Cả những ngọn cỏ chưa nở hoa cũng đã toả
ra một mùi không sao hình dung được của sự thối rữa.
Potchenkov vừa đi vừa hít hít những mùi thoang thoảng hết
sức đa dạng của cỏ hoa. Chốc chốc anh dừng chân để miết đế ủng, gạt những đám
bùn bám vào, rồi lại đứng thẳng lên, nặng nề và mệt mỏi lê cái thân hình hộ
pháp trong chiếc áo da ấm mở phanh kêu loạt soạt Mọi người tới được thôn
Kalusnhikov quận Poliakovo - Nagoliskaia thì đêm đã khuya. Anh em Cô-dắc trong
đội bỏ mặc những chiếc xe, tản ra vào nghỉ đêm trong các nhà. Potchenkov lo
lắng ra lệnh đặt những vọng tiêu, nhưng các chiến Cô-dắc chỉ tập hợp một cách
miễn cưỡng. Ba người cưỡng lệnh không đi.
- Tổ chức tòa án đồng chí đem chúng nó ra xử! Không chấp
hành mệnh lệnh chiến đấu thì xử bắn! - Krivoslykov nổi nóng lên.
Sau cả một ngày canh cánh. Potchenkov cũng đâm ra bực bội,
anh khoát tay đau khổ:
- Trên đường hành quân chúng nó cũng mất tinh thần rồi.
Không tổ chức phòng ngự được nữa đâu. Chúng ta sẽ nguy mất. Misatca ạ.
Laguchin xoay hết cách nầy đến cách khác mới tập hợp được
vài người, phái đi tuần bên ngoài thôn:
- Các cậu chớ có ngủ nhé! Nếu không sẽ bị chúng nó cho vào
rọ đấy!- Potchenkov đi kiểm tra một lượt các nhà và dặn các chiến sĩ gần gụi
nhất với anh.
Suốt đêm anh cứ gục đầu xuống hai tay ngồi bên bàn, hơi thở
khò khè nghe rất nặng nề. Lúc trời sắp hửng, anh vừa gục cái đầu to tướng xuống
mặt bàn, thiếp đi một lát thì Rober Fradenbrude đã từ nhà bên sang đánh thức
anh. Mọi người bắt đầu sửa soạn lên đường trời đã rạng. Potchenkov bước từ
trong nhà ra. Vợ người chủ nhà đã vắt sữa xong, chị trở vào đến phòng ngoài thì
gặp Pochenkov.
- Trên đồi có những người cưỡi ngựa. - Chị nói một cách dửng
dưng.
- Ở đâu thế?
- Bên ngoài thôn ấy.
Potchenkov nhảy ra ngoài sân: trên ngọn đồi, sau đám mây
trắng đeo lững lờ phía trên cái thôn và dải rừng liễu, hiện ra nhiều đội
Cô-dắc. Chúng nó di động khi thì nước kiệu, khi thì nước đại nhỏ, bao vây cái
thôn, vòng vây mỗi lúc một chặt.
Chẳng mấy chốc các chiến sĩ Cô-dắc trong chi đội đã kéo đến
chỗ cái xe đỗ trong sân nhà Potchenkov ở.
Vasili Mironikov, anh chàng lực lưỡng có cái bờm tóc trước
trán, người trấn Migulinskaia bước vào, gọi Potchenkov ra một chỗ và cúi đầu
nói:
- Có chuyện như thế này, đồng chí Potchenkov ạ… Vừa nãy có
mấy thằng đại diện của chúng nó tới đây. - Anh ta khoát tay chỉ về phía ngọn
đồi. - Bảo truyền đạt với đồng chí rằng chúng ta phải hạ vũ khí lập tức đầu
hàng ngay. Nếu không chúng sẽ tấn công.
- Mày? Đồ chó đẻ! Mày mở mồm ra nói với tao cái gì thế hử?
Potchenkov nắm lấy cổ áo ca-pôt của Mironikov rồi lại đẩy
mạnh anh ta ra và chạy tới chỗ cái xe, nắm lấy nòng khẩu súng trường, quát các
chiến sĩ Cô-dắc bằng một giọng khàn khàn thô bạo:
- Đầu hàng à? Còn có thể có chuyện gì mà nói với bọn phản
cách mạng? Chúng ta sẽ chiến đấu chống lại chúng nó! Theo tôi! Tản khai!
Mọi người ở trong sân lốc nhốc ùa ra lề thôn. Potchenkov vừa
hổn hển chạy tới mấy ngôi nhà cuối thôn thì một trong năm ủy viên là Mrykhin
đuổi kịp anh.
- Thật là nhục, Potchenkov! Chúng ta đánh nhau với cả anh em
nhà để làm đổ máu nhau hay sao? Thôi đi! Bàn bạc thỏa thuận với nhau thì xong
thôi!
Chỉ thấy có một phần không đáng kể trong đội theo mình, cái
đầu óc tỉnh táo của Pochenkov đã giúp anh tính tới thất bại không thể tránh
khỏi nếu hai bên đánh nhau. Anh lặng lẽ tháo quy-lát khẩu súng trường, quẳng đi
rồi uể oải hất chiếc mũ cát-két.
- Thôi không bố trí nữa, anh em ạ! Quay trở lại, về thôn…
Mọi người quay trở lại. Toàn đội tập hợp trong ba ngôi nhà
sát vách. Chẳng mấy chốc đã thấy bọn Cô-dắc xuất hiện trong thôn.
Một đội chừng bốn mươi tên cưỡi ngựa tiến từ trên ngọn đồi
xuống.
Theo lời mời của bọn bô lão ở Milinchinskaia, Potchenkov ra
ngoài thôn để đàm phán về các điều kiện đầu hàng. Chủ lực của địch vẫn vây kín
thôn, không rời vị trí. Buntruc đuổi kịp Pochenkov ở ngõ dành cho gia súc ra
đồng, anh giữ Potchenkov lại:
- Chúng ta đầu hàng à?
- Sức chỉ đủ bẻ cái cọng rơm… Thế nào? Cậu định làm như thế
nào?
- Anh muốn chết phải không? - Buntruc run bắn lên.
Rồi không thèm để ý đến bọn bô lão cùng đi với Potchenkov,
Buntruc quát lên bằng một giọng khàn khàn, thất thanh:
- Bảo chúng nó rằng chúng ta không trao vũ khí đâu! – Nói
xong anh quay ngoắt đi và vừa vung khẩu súng Nagan nắm chắc trong tay, vừa trở
về.
Về đến chỗ anh em, Buntruc cố thuyết phục các chiến sĩ
Cô-dắc chiến đấu phá vòng vây xông ra đường sắt, nhưng tinh thần phần lớn rõ
ràng chỉ muốn giảng hòa. Người thì quay đi chỗ khác, người thì trả lời rõ ràng
với anh bằng một giọng hằn học.
- Này Anhica, anh muốn đánh thì đi mà đánh, còn chúng tôi
thì quyết không đánh nhau với chính anh em mình đâu!
- Dù không còn có vũ khí, chúng ta vẫn tin được ở họ.
- Giữa những ngày lễ Phục sinh thiêng liêng như thế nầy mà
chúng ta còn đổ máu hay sao?
Buntruc quay về chiếc xe của anh đỗ bên một căn nhà thóc,
trải chiếc áo ca-pôt xuống gầm xe, nằm xuống nhưng tay vẫn nắm chắc cái cán
gạch khía của khẩu Nagan. Đầu tiên anh đã nghĩ tới chuyện bỏ chạy, nhưng anh
vốn ghét cái lối bỏ đi lén lút, cái thói đào ngũ, vì thế anh thầm gạt bỏ ý định
đó, và chờ Potchenkov trở về.
Chừng ba giờ sau Potchenkov trở về. Một đám rất đông những
tên Cô-dắc lạ mặt cùng vào thôn với anh, một số cưỡi ngựa, một số cầm dây cương
dắt ngựa theo, số còn lại đi chân không có ngựa. Chúng vây quanh Potchenkov và
tên thượng úy Spiridonov, trước kia ở cùng một đại đội pháo với Pochenkov, nay
chỉ huy đội hỗn hợp vây bắt đội viễn chinh của Pochenkov. Pochenkov ngẩng cao
đầu, rồi cố giữ cho thẳng, nom cứ như một người quá chén. Spiridonov mỉm nụ
cười giảo quyệt, nói không biết câu gì với Potchenkov. Sau lưng hắn có tên
Cô-dắc cưỡi ngựa ôm trước ngực một lá cờ trắng rất lớn, cán bào qua quít.
Bọn Cô-dắc mới đến đứng đầy trong các căn phố và các ngôi
nhà có đoàn xe của đội viễn chinh đỗ. Lập tức có những tiếng người nhao nhao
như vỡ chợ. Nhiều tên mới đến trước kia ở cùng đơn vị, với những anh em Cô-dắc
trong đội Potchenkov. Vang lên những tiếng gọi nhau vui vẻ, tiếng cười ròn rã.
- Chà, anh bạn đồng học. May mắn thế nào lại gặp nhau ở đây?
- Ơ hay quá, hay quá, Prokho đấy à?
- Ơn Chúa.
- Chỉ thiếu chút nữa là mình với cậu lại choảng nhau. Cậu
còn nhớ chúng mình cùng truy kích quân Áo ở gần Lvov thế nào không nhỉ?
- Này ông bạn đỡ đầu Danilo! Ông bạn đỡ đầu ạ! Chúa phục
sinh rồi!
- Đúng là sống lại rồi! - Có những tiếng hôn nhau chùn chụt:
hai anh chàng Cô-dắc vuốt râu vuốt ria, vỗ vai nhau bồm bộp rồi cùng nhìn nhau
mà cười.
Ngay cạnh đấy lại là một câu chuyện khác:
- Chúng mình đã không kịp ăn “rê-vây-ông”.
- Nhưng các cậu là Bolsevich thì “rê-vây-ông”, “rê-vây-bà”
cái gì.
- Có sao đâu, Bolsevich thì Bolsevich, nhưng chúng tớ vẫn
tin Chúa.
- Xì, chỉ nói láo!
- Thế cậu có đeo thánh giá không?
- Thánh giá đây chứ đâu? - Thế là một anh chàng Xích vệ lực
lưỡng, mặt to bè bè, chẩu môi mở cúc cổ chiếc áo quân phục cổ chui, moi trong
bộ ngực đồng đen lông lá lồm xồm ra một cây thánh giá bằng đồng đã rỉ xanh.
Bọn bô lão cầm rìu cầm nạng trong các đội vây bắt “tên phiến
loạn Pochenkov” ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau:
- Nhưng sao chúng tôi lại nghe nói các anh bỏ đạo Chúa cả
rồi?
- Hình như các anh đã bán linh hồn cho quỉ dữ Xa-tăng rồi cơ
mà!
- Lại có tin các anh cướp phá các nhà thờ, giết hết các cha
cố…
- Nói láo tuốt!- Anh chàng Xích vệ mặt to như cái mẹt quả
quyết cãi lại. - Chúng nó nhồi sọ cho bà con những chuyện tầm bậy đấy.
- Trước khi rời khỏi Rostov
tôi còn đến nhà thờ dự lễ ban thánh thể cơ mà!
- Bác làm ơn nói thật rõ cho chúng tôi nghe nào! - Một lão
già nhỏ bé, hom hem vui vẻ vỗ tay đen đét. Lão cầm một ngọn giáo cưa đôi cho
vừa tay.
Ngoài phố và trong các nhà, câu chuyện mỗi lúc một ồn ào sôi
nổi. Nhưng nửa giờ sau có vài tên Cô-dắc, trong số đó có một tên quản người
trấn Bokovskaia, lách qua đám người đang đứng ộn lại thành một khối, bước ra
phố.
- Những ai thuộc chi đội Potchenkov chuẩn bị tập hợp điểm
danh! - Chúng hô to.
Tên thượng úy Spiridonov, sơ-mi màu cứt ngựa, lon màu cứt
ngựa, bỏ chiếc mũ cát-két đính cái quân hiệu bạc trắng như miếng đường quay mặt
ra bốn phía hô lên:
- Tất cả những ai thuộc chi đội Potchenkov sang bên trái
tôi, đứng cạnh hàng rào! Những người khác đều đứng sang bên phải. Chúng tôi là
những đồng đội cũ của anh em ngoài mặt trận, chúng tôi đã cùng với các đại biểu
của anh em quyết định rằng anh em phải trao tất cả vũ khí cho chúng tôi vì dân
chúng sẽ sợ nếu anh em còn có vũ khí trong tay. Anh em hãy xếp súng trường và
các thứ vũ khí khác lên các xe của anh em, chúng ta cùng bảo vệ số vũ khí đó.
Chúng tôi sẽ đưa chi đội của anh em đến trấn Krasnokurskaia và tại đấy anh em
sẽ tới Xô viết nhận lại toàn bộ vũ khí.
Cả một niềm xao xuyến phẫn nộ bắt đầu sục sôi trong lòng các
anh em Cô-dắc Xích vệ. Rồi có những tiếng la thét vang lên trong sân. Korotov,
một chiến sĩ người trấn Kumsa kêu lên:
- Chúng ta không đầu hàng!
Những tiếng ầm ầm như giông bão dậy lên khắp dãy phố, trong
các sân nhà chật ních những người.
Bọn Cô-dắc mới đến chạy ùa sang phải, ở giữa phố chỉ còn lại
từng tốp rời rạc các chiến sĩ phờ phạc rã rời của đội quân Potchenkov. Với
chiếc áo ca-pôt khoác trên vai, Krivoslykov hớt hải nhìn quanh như con thú bị
vây bắt. Môi Laguchin xệch ngang một bên. Mọi người xôn xao, đầy lo lắng và nghi
ngại.
Buntruc kiên quyết không chịu trao vũ khí. Anh cầm ngang cây
súng trường, bước nhanh đến trước mặt:
- Chúng ta sẽ không nộp vũ khí! Anh nghe rõ không?
- Bây giờ thì muộn mất rồi…- Potchenkov khẽ nói, hai tay anh
nắm chặt bản danh sách đơn vị cứ giật giật.
Bản danh sách ấy được chuyển sang tay tên Spiridonov. Hắn
đọc qua một lượt rồi hỏi:
- Ở đây có một trăm hai mươi tám người… Số còn lại ở đâu?
- Ở lại trên đường.
- À ra vậy… Thôi được. Anh ra lệnh cho họ hạ vũ khí đi.
Potchenkov là người đầu tiên tháo dây súng, rồi vừa trao cả
khẩu Nagan lẫn bao súng, vừa nói lúng búng:
- Bỏ gươm và súng lên xe.
Mọi người bắt đầu bị tước vũ khí. Các chiến sĩ Xích vệ thẫn
thờ bỏ vũ khí. Có người ném súng ngắn qua hàng rào, có người chạy tản vào các
sân nhà, tìm chỗ giấu.
- Chúng tôi sẽ khám tất cả những ai không chịu trao vũ khí!
Spiridonov quát lên. Hắn sung sướng ngoác miệng ra cười, Một
bộ phận Xích vệ do Buntruc lãnh đạo không chịu trao súng, bọn địch phải dùng vũ
lực mới tước được.
Một chiến sĩ Xích vệ phi ngựa ra ngoài thôn cùng với chiếc
bàn đế khẩu súng máy làm tất cả hoảng lên một mẻ. Thừa lúc nhốn nháo, vài người
lẩn trốn. Nhưng Spiridonov lập tức thành lập một đội áp giải, vây quanh tất cả
những người còn ở lại với Potchenkov, lục soát và định điểm danh. Anh em tù
binh miễn cưỡng trả lời, một số kêu rầm lên.
- Kiểm tra làm cái gì, tất cả có mặt ở đây rồi!
- Hãy giải chúng tôi đến Krasnokurskaia đi!
- Các đồng chí! Chấm dứt cái chuyện này đi thôi!
Sau khi đã niêm phong các hòm tiền và cử một đội hộ tống
thật mạnh áp tải đi Karginskaia. Spiridonov bắt anh em tù binh tập hợp thành
hàng, rồi ra lệnh, cả giọng nói lẫn cách xưng hô đều thay đổi ngay:
- Thành hàng hai! Bên trái… quay! Hàng bên trái đi trước, đi
đều bước! Chúng mày câm cái mồm!
Những lời ta thán bắt đầu truyền lan trong các hàng Xích vệ.
Họ từ từ cất bước, kẻ trước người sau, chẳng mấy chốc hàng ngũ đã rối loạn và
mọi người bắt đầu đi túm tụm từng đám.
Lúc bị dồn vào cái thế phải khuyên anh em trao vũ khí, có lẽ
Potchenkov vẫn còn đặt hy vọng vào một kết cục tốt đẹp. Nhưng đoàn tù binh vừa
bị dồn ra khỏi thôn, bọn Cô-dắc áp giải họ đã bắt đầu cho ngựa dồn hích những
người đi ngoài cùng. Buntruc đi ở bên trái. Một lão già Cô-dắc có bộ râu đỏ như
lửa và cái vòng tay cũ đen xỉn vô duyên vô cớ quất cho anh một roi, đầu roi in
hằn một con lươn bên má Buntruc. Buntruc nắm chặt hai tay quay lại, nhưng một
ngọn roi thứ hai quất mạnh gấp bội đã bắt anh phải lẩn sâu vào giữa đám người.
Anh bất giác làm như thế do sự thúc đẩy của một thứ linh tính tự vệ như của loài
thú vật. Bị lèn như nêm giữa những thân hình của các đồng chí đi chen chúc xung
quanh, lần đầu tiên từ ngày Anna qua đời, môi anh rúm ró trong một nụ cười mỉa
mai đầy bực bội, và anh cứ thầm lấy làm lạ trước cái lòng tham sống mãnh liệt
và dai như đỉa trong tất cả mọi người.
Anh em tù binh bắt đầu bị đánh túi bụi. Trước những kẻ thù
tay không còn tấc sắt, bọn bô lão càng trở nên man rợ. Chúng thúc ngựa xông tới
dồn ép họ, chúng cúi rạp người trên yên, đánh họ bằng roi ngựa và bằng sống
gươm, người nào bị đánh cũng tự nhiên chui lẩn vào giữa đám, vì thế mọi người
xô đẩy nhau, kêu la ầm ĩ.
Một chiếc sĩ Xích vệ cao lớn, hùng dũng, người vùng hạ du,
vùng hai tay nắm tay quát lên:
- Chúng mày muốn giết thì cứ giết ngay đi! Sao lại làm nhục
người ta như thế?
- Lời chúng mày hứa đâu cả rồi? - Krivoslykov gầm lên.
Bọn bô lão dần dần bớt làm dữ. Khi một người tù binh hỏi: “Các
anh giải chúng tôi đi đâu bây giờ?”, một gã cựu chiến binh còn trẻ đi áp giải
có lẽ thương hại các chiến sĩ Bolsevich, khẽ trả lời:
- Mệnh lệnh là đến thôn Ponomariev. Anh em đừng sợ! Chúng
tôi sẽ không làm điều gì tồi tệ với anh em đâu.
Đoàn người đã bị dồn tới thôn Ponomariev.
Spiridonov cùng hai tên Cô-dắc đứng ở cửa một hiệu tạp hóa
nhỏ. Hắn cho từng người vào, người nào hắn cũng hỏi:
- Họ tên? Quê quán? - Hắn ghi những câu trả lời lên một cuốn
sổ dã chiến nhem nhuốc.
Đến lượt Buntruc.
- Họ? - Spiridonov đặt mũi bút chì xuống tờ giấy, đưa nhanh
mắt nhìn người chiến sĩ Xích vệ có bộ mặt âm thầm và vầng trán rất rộng. Nhưng
hắn thấy anh ta chúm môi sắp sửa nhổ một bãi nước bọt bèn né hẳn sang bên cạnh
và quát lên. - Vào đi, quân khốn kiếp! Mày sẽ chết không tên tuổi!
Noi gương Buntruc, anh chàng Íchnat người Tambob cũng không
trả lời. Một người thứ ba cũng muốn chết ẩn danh, cứ lừng lững bước qua ngưỡng
cửa.
Spiridonov tự tay khóa cửa rồi đặt gác.
Trong khi bọn Cô-dắc đem các đồ đạc, thức ăn và vũ khí lấy
được trên các xe của đội viễn chinh chia nhau ngay bên cạnh cửa hiệu tạp hoá,
trong một ngôi nhà bên cạnh họp tòa án quân sự dã chiến tổ chức quàng quấy gồm
đại diện của các thôn tham gia vây bắt Pochenkov.
Chánh án là Vasili Popop, một tên đại úy Cô-dắc vạm vỡ, lông
mày vàng khè, quê ở trấn Bokovskaia. Hắn ngồi sau một chiếc bàn, dưới tấm gương
treo đầy những chiếc khăn mặt, hai khuỷu tay dang rộng, mũ cát-két hất ra sau
cái gáy phẳng dẹt. Hắn đưa cặp mắt dâm đãng, vừa hồn hậu lại vừa nghiêm nhìn
khắp mặt bọn Cô-dắc thẩm phán có ý thăm dò. Chúng bắt đầu nghị tội.
- Thưa các cụ bô lão, chúng ta xử chúng nó như thế nào đây?
- Popop nhắc lại câu hỏi:
Rồi hắn cúi xuống thì thào không biết nói gì với tên thượng úy
Sênhin ngồi bên. Tên này gật đầu đồng ý. Đồng tử hai con mắt của Popop co hẹp
lại, những ánh vui vẻ bên khóe mắt biến ngay đâu mất, và hai con mắt khác hiện
ra sau hai hàng mi thưa với những ánh long lanh, lạnh lẽo và khắc nghiệt.
- Đối với những thằng phản bội quê hương xứ sở, cướp phá nhà
của chúng ta, giết hại dân Cô-dắc chúng ta, chúng ta sẽ xử chúng nó như thế
nào?
Fevralov, một lão già cựu giáo người trấn Miliuchinskaia
nhảy chồm lên như một chiếc lò xo.
- Xử bắn! Bắn hết! - Lão lắc đầu lia lịa như bị ma làm, đưa
cặp mắt cuồng tín lác xệch nhìn tất cả mọi người, lão nuốt nước bọt đánh ực rồi
gào lên. - Chúng nó, những thằng bán Chúa ấy thì không thể nào thương hại được!
Trong đám chúng nó có những thằng Do-thái đấy! Phải giết! Phải giết!… Phải đóng
đanh câu rút chúng nó! Phải ném chúng nó vào lửa!
Chòm râu thưa nhưng thô cứng của lão rung lên, bộ tóc bạc
lấm tấm đỏ xù lên. Lão ngồi xuống rồi mà vẫn còn thở hổn hển, mặt đỏ như gạch,
nước bọt sủi đầy mép.
- Xử chúng nó phát vãng. Như thế có được không? - Diachenko
một thẩm phán ngập ngừng đề nghị.
- Xử bắn!
- Tử hình!
- Tôi tán thành ý kiến đó!
- Đem tất cả ra hành quyết trước nhân dân!
- Cỏ dại phải nhổ cho sạch đồng!
- Giết chúng nó đi!
- Xử bắn, tất nhiên rồi! Có gì phải nói thêm nữa! -
Spiridonov nói giọng tức tối.
Cứ sau mỗi tiếng kêu như thế, hai bên mép tên đại uý Popop
lại trở nên thô bạo thêm, lại mất thêm cái vẻ hồn hậu lúc đầu của một con người
sống phè phỡn, thỏa mãn vì bản thân mình và vì những người chung quanh. Hai cái
mép đó trễ xuống, hằn cứng lại thành những nét tàn nhẫn.
- Xử bắn! Ghi vào! - Hắn vừa ra lệnh cho tên thư ký vừa nhìn
qua vai tên này.
- Thế còn hai thằng Potchenkov và Krivoslykov, đối với những
đứa thù địch như thế chỉ xử bắn thôi à? Đối với chúng nó như thế nhẹ quá đấy! -
Một lão Cô-dắc đã nhiều tuổi nhưng người còn chắc nịch, tức tối gào lên. Lão
ngồi bên cửa sổ và cứ luôn tay vặn cao thêm cái bấc đèn lúc nào cũng dọa tắt.
- Chúng nó là hai thằng đầu sỏ thì treo cổ! - Popop trả lời
gọn lỏn rồi nhắc lại với tên thư ký - Viết đi: “Bản phán quyết. Chúng tôi,
những người ký tên dưới đây…”
Tên thư ký, cũng là Popop, vốn có họ xa với tên đại úy. Hắn
cúi cái đầu có bộ tóc trắng nhợt chải mượt, đưa ngòi bút viết loạt soạt.
- Có lẽ không đủ dầu đâu… - Một tên thở dài có ý lo ngại.
Ngọn đèn chập chờn, bấc đèn bốc khói mù mịt. Trong bầu không khí chết lặng, vo
vo có một tiếng con ruồi bị vướng vào đám mạng nhện trên trần nhà, ngoài ra chỉ
có tiếng thở khò khè nặng nề của một tên thẩm phám.
BẢN PHÁN QUYẾT
Ngày 27 tháng Tư (mồng 10 tháng Năm) năm 1918, các vị thẩm
phán được bầu ra của các trấn Karginovskaia, Bokovskaia và Krasnokurskaia.
(Thôn): Đại diện
- Vaxilevsky: Marsaev Stepan.
- Bokovsky: Krugilin Nicolai.
- Fomin Kumov: Fedor.
- Thượng Yablonovsky: Kurchin Aleksan.
- Hạ Dulensky: Xinhép Lev.
- Ilinsky: Volotkov Semion.
- Konkovsky: Popop Mikhail.
- Thượng Dulensky: Rodin Yakov.
- Savoschianov: Florov Alex.
Trấn Miliuchinskaia: Fevralev Maxim.
Thôn Ponomariev: Diachenko Ivan.
- Elanchiev: Krivô Nicolai
- Malakhov: Emelianov Luca
- Novo-Demchevgeni: Konovalov Matvey
- Popop: Popop Mikhail
- Astakhov: Segonkov Vasili
- Orlov: Trekunov Fedor
- Klimo-Fedorovsky: Trucarin Fedor
do V.S. Popop làm chánh án
PHÁN QUYẾT NHƯ SAU:
1. Tất cả những tên cướp bóc và lừa dối nhân dân lao động có
tên trong bản danh sách dưới đây, tổng cộng tám mươi tên, đều bị tuyên án tử
hình, với hình thức xử bắn, nhưng trong số đó có hai tên Pochenkov và
Krivoslykov là đầu sỏ trong đám này thì án tử hình được chấp hành bằng hình
thức treo cổ.
2. Tên Cô-dắc Anton Kalitvenchev người thôn Mikhailovsky
được tha bổng vì chứng cớ không đầy đủ.
3. Đối với những tên Konstantin Melnikov, Gavrila Melnikov,
Vasili Melnikov, Arsenov và Versunin bỏ trốn khỏi đội Potchenkov và bị bắt ở
trấn Krasnokurskaia đều tuyên án theo điểm một của bản phán quyết này (tử
hình).
4. Bản án sẽ được chấp hành ngày mai 28 tháng Tư (11 tháng
Năm) hồi sáu giờ sáng.
5. Chỉ định thượng úy Sênhin đảm nhiệm việc canh gác các
phạm nhân. 11 giờ tối nay mỗi thôn phải cử hai người Cô-dắc vũ trang bằng súng
trường tới chịu quyền điều khiển của thượng úy Sênhin. Các vị thẩm phán sẽ chịu
trách nhiệm nếu điểm nầy không được chấp hành. Đội canh gác của các thôn chịu
trách nhiệm chấp hành bản án. Mỗi thôn cử đến pháp trường năm người Cô-dắc.
Đã ký tên vào nguyên bản:
Chánh án tòa án quân sự
V.S. Popop
Thư ký A.F. Popop.
DANH SÁCH
Các tên trong đội Potchenkov bị tòa án quân sự dã chiến
tuyên án tử hình ngày 27 tháng Tư theo lịch cũ năm 1918.
1. Fedor Potchenkov, trấn Ust-Khopeskaia - treo cổ
2. Krivoslykov, trấn Elanskaia Mikhail – treo cổ
3. Avram Kakurin, trấn Kazanskaia - xử bắn
4. Ivan Laguchin, trấn Bukanovskaia - xử bắn
5. Aleksey Ivan Orlov, thành phố Nizegrod - xử bắn
6. Efilm Mikhail Barchen, trấn Nizegrodskaia - xử bắn
7. Grigori Fechisov, trấn Ust-Bukhtrianskaia - xử bắn
8. Gavrin Tkachev, trấn Migulinskaia - xử bắn
9. Pavel Agafonov, trấn Migulinskaia - xử bắn
10. Kalinin ,
trấn Luganskaia - xử bắn
11. Konstatin Mrykhin, trấn Migulinskaia - xử bắn
12. Andrey Konovalov, trấn Migulinskaia - xử bắn
13. Konstatin Kirsta, thành phố Poltava - xử bắn
14. Pavel Potnakov, trấn Cotovskaia - xử bắn
15. Ivan Bondyrev, trấn Migulinskaia - xử bắn
16. Timofey Kolychev, trấn Migulinskaia - xử bắn
17. Alexandr Bubnov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn
18. Dimitri Volodarov, trấn Filim Trenb - xử bắn
19. Georgi Karpasin, trấn Chernysevskaia - xử bắn
20. Ilia Kalmykov, trấn Filim-Trenb - xử bắn
21. Xvey Rybnikov, trấn Migulinskaia - xử bắn
22. Polikav Gurov, trấn Migulinskaia - xử bắn
23. Ichnat Demliakov, trấn Migulinskaia - xử bắn
24. Ivan Krachev, trấn Migulinskaia - xử bắn
25. Nikifo Frolovsky, trấn Rostov - xử bắn
26. Alexandr Gonovalov, trấn Rostov - xử bắn
27. Petr Vichilanchev, trấn Migulinskaia - xử bắn
28. Ivan Zotov, trấn Kirkaia - xử bắn
29. Evdokim Babkin, trấn Migulinskaia - xử bắn
30 Petr Svinchev, trấn Mikhailovskaia - xử bắn
31. Inariôn Chelobittrikov, trấn Dobrinskaia - xử bắn
32. Klimenchi Dronov, trấn Kazanskaia - xử bắn
33. Ivan Avilov, trấn Lovlinskaia - xử bắn
34. Matvey Sarmatov, trấn Kazanskaia - xử bắn
35. Georgi Pupkov, trấn Hạ Cumôliaskaia - xử bắn
36. Mikhail Fevralev, trấn Chernovskaia - xử bắn
37. Vasili Panteleymonov, thành phố Kherson - xử bắn
38. Porfori Liubukhin, trấn Kazanskaia - xử bắn
39. Dimitri Samov, trấn Kletkaia - xử bắn
40. Xafon Saronov, trấn Filonovskaia - xử bắn
41. Ivan Gubarép, trấn Migulinskaia - xử bắn
42. Fedor Abacumov, trấn Migulinskaia - xử bắn
43. Kutma Gorskov, trấn Luganskaia - xử bắn
44. Ivan Itvarin, trấn Gundorovskaia - xử bắn
45. Miron Kalinovchev, trấn Gundorovskaia - xử bắn
46. Ivan Faraphorov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn
47. Sergey Gorbunov, trấn Cotopskaia - xử bắn
48. Petr Alaev, trấn Hạ Trirskaia - xử bắn
49. Prokovi Orlov, trấn Migulinskaia - xử bắn
50. Nikita Sein, trấn Luganskaia - xử bắn
51. Alexandr Laxcusky, trấn Thợ cả ở RPTX - xử bắn
52. Mikhaiin Poliakov, trấn Rostov - xử bắn
53. Dimitri Rogachev, trấn Radorskaia - xử bắn
54. Rober Frasenbrud, trấn Rostov - xử bắn
55. Ivan Xilend, trấn Rostov
- xử bắn
56. Konstatin Efilmôp, thành phố Xamara - xử bắn
57. Mikhail Obchinnikov, trấn Chernysevskaia - xử bắn
57 Ivan Picalov, thành phố Xamara - xử bắn
59. Mikhail Koretkov, trấn Lovlinskaia - xử bắn
60. Ivan Corotkov, trấn Kumsaskaia - xử bắn
61. Piot Biriukov, trấn Rostov - xử bắn
62. Ivan Cabakov, trấn Khu mới Radorskaia - xử bắn
63. Tikhol Molivinov, trấn Lukovskaia - xử bắn
64. Andrey Svechev, trấn Migulinskaia - xử bắn
65. Stepan Anhikin, trấn Migulinskaia - xử bắn
66. Kutma Dutkin, trấn Kremenskaia - xử bắn
67. Petrt Kabanov,, trấn Baklanovskaia - xử bắn
68. Sergey Selivanov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn
69. Archen Ivanchenko, trấn Rostov - xử bắn
70. Nicôlai Konovalov, trấn Migulinskaia - xử bắn
71. Dimitri Konovalov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn
72. Fios Luxikov, trấn Krasnokurskaia - xử bắn
73. Vasili Mironikov, trấn Migulinskaia - xử bắn
74. Ivan Volokhov, trấn Migulinskaia - xử bắn
75. Lakov Gordeev, trấn Migulinskaia - xử bắn
Trong bọn có ba tên không cung khai họ tên quê quán.
Sau khi sao lại xong bản danh sách những người bị kết án,
tên thư ký đánh hai cái dấu chấm rất xa nhau vào cuối bản phán quyết rồi nhét
cây bút vào tay tên ngồi gần nhất:
- Ký vào.
Lão Konovalov nằm rạp xuống tờ giấy với một nụ cười như nhận
lỗi. Lão mặc một chiếc áo đại lễ phục cổ đứng bằng dạ Đức màu xám với hai cái
ve áo đỏ lòm. Những ngón tay thô kệch, cồm cộm những chai, đen như hắc ín của
lão không sao cong lại được, cứ trùng trục bóp chặt lấy cây bút học sinh bị gặm
nham nhở.
- Tôi phải cái chữ nghĩa kém quá… - Lão vừa nói vừa ráng hết
sức viết nguệch ngoạc một chữ “K” đầu họ.
Sau lão đến lượt Rodin. Lão nầy cũng nhận lấy cây bút một
cách thiếu tin tưởng, mặt mày nhăn nhó, mồ hôi mồ kê đầm đìa vì bao nhiêu gân
sức đều dồn ra cả. Một tên nữa ngoáy ngoáy mãi cái bút trước khi ký, hắn ký
nhăng cuội lấy một chữ rồi mới rút cái lưỡi thè lè ra ngoài từ lúc bắt đầu cầm
bút. Popop ký loáng một nét xong cái họ của hắn, chữ ký rất phóng khoáng, rồi
đứng dậy, rút khăn tay lau khuôn mặt ướt đẫm.
- Phải có bản danh sách kèm theo bản phán quyết, - Hắn vừa
nói vừa ngáp.
- Ở thế giới bên kia Kaledin sẽ cảm ơn chúng ta, - Sênhin
vừa nhìn tên thư ký thấm tờ giấy đẫm mực bên bức tường quét vôi trắng vừa mỉm
cười một nụ cười rất trẻ.
Không một tên nào trả lời câu pha trò đó. Mọi người âm thầm
bước ra khỏi ngôi nhà.
- Lạy Chúa tôi… - Một người vừa bước ra vừa thở dài trong
căn phòng ngoài tối om.
29
Đêm ấy, dưới những ngôi sao vàng nhợt lấm tấm khắp trời như
màu sữa, mọi người gần như không sao ngủ được trong cái cửa hiệu nhỏ bé chật
ních những người. Những lời trao đổi chỉ ngắn ngủi, không thể nào kéo lại được.
Ai nấy đều như nghẹt thở vì bầu không khí ngột ngạt và những nỗi lo lắng canh
cánh.
Từ tối đã có một đồng chí Xích vệ xin ra sân:
- Mở hộ cửa, đồng chí ơi! Tôi cần phải ra ngoài, phải ra
ngoài để đi giải!
Chân không, đầu tóc rối như bòng bong, chiếc áo sơ-mi lót
bằng vải thô tuột ra ngoài chiếc quần đi ngựa, anh ta áp khuôn mặt đen sạm vào
lỗ khoá, nhắc lại:
- Mở hộ ra đi, đồng chí ơi!
- Con sói độc là đồng chí của mày. - Cuối cùng có một thằng
gác trả lời!
- Mở hộ cái, người anh em! - Người hỏi xin bèn đổi cách xưng
hô.
Tên gác đặt khẩu súng trường xuống, lắng nghe trong bóng tối
tiếng vỗ cánh ràn rạt của những con vịt trời bay đi ăn đêm. Nó hút hết điếu
thuốc rồi ghé miệng vào lỗ khoá:
- Cứ bĩnh ra quần cũng được, ông bạn thân mến ạ. Một đêm
cũng chẳng bục được quần đâu, rồi sáng mai người ta sẽ mở cửa mời cậu lên thiên
đàng với cái quần ẩm ấy.
- Chúng ta nguy mất rồi! - Anh Xích vệ rời khỏi chỗ cửa
phòng, nói một cách tuyệt vọng.
Mọi người ngồi kề vai nhau. Pochenkov ngồi trong một góc
phòng dốc tất cả các túi ra, rồi vừa lầu bầu chửi một thôi một hồi, vừa xé vụn
một đồng giấy bạc. Xong xuôi với chuyện số tiền còn lại anh cởi giầy tất rồi
đặt tay lên vai Krivoslykov nằm bên cạnh và nói:
- Hai năm rõ mười là bọn mình đã bị chúng nó lừa rồi. Chúng
nó đã đánh lừa mình, mẹ chúng nó chứ! Bực thật, Mikhail ạ! Hồi còn nhỏ, mình
thường xách khẩu súng cổ lỗ của ông cụ nhà mình sang bên kia sông Đông đi săn.
Vào trong rừng thì cứ như chui dưới một cái lều vải xanh rờn ấy… Ra đến chỗ
dòng sông uốn khúc là sẽ thấy những con vịt trời sà xuống. Lần nào không bắn
kịp là mình tức đến phát khóc lên được. Và lần này mình lại cảm thấy tức cũng
như thế: mình đã lỡ mất cơ hội. Nếu bọn mình ra khỏi Rostov sớm hơn được ba ngày thì đã không đến
nỗi vác xác đến đây chịu chết. Tất cả bọn phản cách mạng đã bị chúng ta đánh
cho thất điên bát đảo rồi!
Krivoslykov ngồi trong bóng tối nhe răng cười một cách đau
khổ và nói:
- Quỷ dữ bắt chúng nó đi, cứ mặc cho chúng nó giết. Bây giờ
chết thì cũng chẳng có gì đáng sợ… Mình chỉ sợ một điều là sang đến thế giới
bên kia, chúng mình không còn nhận ra nhau nữa Fedor ạ, sang đến thế giới bên
kia, mình với cậu gặp nhau sẽ như người dưng nước lã… Thật là khủng khiếp!
- Thôi đi! - Potchenkov bực bội nói to rồi đặt cả hai bàn
tay vừa to vừa nặng lên vai người bạn nằm bên. - Vấn đề đâu phải ở chỗ đó.
Laguchin kể cho một đồng chí nào đó nghe về thôn anh, về
chuyện ông nội anh thường gọi đùa anh là “Cái nêm” vì đầu anh dài và chính ông cụ
đã có lần dùng roi ngựa đánh anh về tội ăn cắp dưa của người khác.
Đêm ấy, mọi người nói với nhau toàn những chuyện phiến đoạn,
không đầu không đũa.
Buntruc ngồi ngay gần cánh cửa, anh hé môi hít lấy ít để
từng chút gió lọt qua kẽ cửa. Trong khi hồi tưởng lại những chuyện đã qua, anh
thoáng nghĩ đến mẹ, rồi như bị một mũi kim nóng bỏng châm vào tim, anh cố xua
ngay những ý nghĩ về bà cụ để chuyển sang những hồi ức về Anna, về những ngày
gần đây… Các hồi ức ấy đã làm anh nhẹ nhõm hẳn đi, trong lòng tràn ngập một
hạnh phúc lâng lâng. Những ý nghĩ về cái chết không làm anh sợ hãi chút nào.
Không như những người khác, mỗi khi nghĩ rằng tính mạng của
mình sắp bị kẻ khác cướp đi, anh không hề cảm thấy một cơn run bất giác chạy
rân rân suốt dọc xương sống, không hề thấy một sự đau khổ day dứt nào. Anh sẵn
sàng tiếp nhận cái chết, như sắp sửa về tới một nơi nghỉ ngơi chẳng có gì là
vui thú sau một chặng đường đầy đắng cay và vất vả, khi mà cái mệt mỏi đã choán
hết tất cả, khi toàn thân đau như dần, cho nên không còn gì có thể làm cho mình
xao xuyến nữa.
Ngay gần bên Buntruc, anh em bàn tán về đàn bà, về tình yêu,
về những niềm vui lớn nhỏ vương vấn trong tâm khảm từng người, câu chuyện khi
vui khi buồn.
Người ta kể về gia đình, về bố mẹ, về những người thân
thuộc. Người ta bàn tán về chuyện năm nay lúa tốt: những con quạ đen có thể lẩn
vào trong những đám lúa mạch mà không bị trông thấy.
Người ta than phiền là không có vodka và mất tự do, người ta
chửi Potchenkov. Song hàng ngàn cái cánh đen ngòm của giấc ngủ đã trùm lên tất
cả. Bị làm tình làm tội cả về thể xác lẫn tinh thần, mọi người thiếp dần đi,
ngủ ngồi cũng có, ngủ nằm cũng có, ngủ đứng cũng có.
Mãi đến lúc trời sắp rạng mới có một người không biết mê hay
tỉnh òa lên khóc, tiếng khóc nghe sao mà ghê rợn, đúng là tiếng khóc của những
con người thô lỗ đã lớn tuổi, đã quên mất cái vị mặn của nước mắt từ thời thơ
ấu. Ngay lập tức nhiều người cũng kêu lên xua tan bầu không khí yên lặng mơ
màng:
- Có câm đi không, đồ khốn kiếp!
- Thật là đàn bà!
- Tao vặn hết răng bây giờ, câm ngay!
- Làm bố trẻ con rồi mà còn chảy nước mắt!
- Anh em còn đang ngủ mà nó… chẳng biết xấu nữa!
Anh chàng vừa khóc hỉ mũi, sụt sịt thêm vài tiếng rồi nín
bặt.
Tất cả lại hoàn toàn chết lặng. Góc nào cũng lốm đốm những
ánh thuốc lá, nhưng chẳng ai nói gì nữa. Nồng nặc mùi mồ hôi đàn ông, mùi những
thân hình đầy sức khỏe chen chúc nhau, và cái mũi nhạt thếch nhưng ngây ngất
của cả một đêm sương.
Gà trong thôn đã gáy sáng. Có những tiếng chân bước và tiếng
sắt đập vào nhau xoang xoảng.
- Ai? - Một tên gác khẽ hỏi:
Từ xa có tiếng húng hắng ho rồi một giọng rất trẻ vui vẻ trả
lời:
- Anh em mình đây. Bọn mình đi đào hố chôn bọn đồng đảng của
Potchenkov đây.
Trong hiệu tạp hóa lập tức nhốn nháo hẳn lên…
30
Đội Cô-dắc thôn Tatarsky dưới quyền chỉ huy của tên thiếu úy
Petro Melekhov đến thôn Ponomariev ngày mười một tháng năm lúc trời vừa rạng.
Bọn Cô-dắc vùng sông Tria đang lăng xăng chạy tới chạy lui
trong thôn. Chúng dắt ngựa đi uống nước, kéo đàn kéo lũ ra đầu thôn. Petro cho
chi đội của hắn đứng lại giữa thôn, ra lệnh xuống ngựa. Vài gã Cô-dắc bước tới
trước mặt hắn.
- Các bạn đồng hương từ đâu đến đấy? - Một gã hỏi.
- Từ thôn Tatarsky.
- Các cậu đã muộn mất một chút… Không có các cậu bọn mình
cũng tóm cổ được thằng Potchenkov rồi.
- Thế chúng nó đâu cả rồi? Đã giải đi chưa?
- Còn kia kìa! - Gã Cô-dắc khoát tay chỉ cái mái thoai thoải
của hiệu tạp hóa, phá lên cười. - Lốc nhốc một lũ như đàn gà trong chuồng ấy.
Khristonhia, Grigori Melekhov và vài người nữa bước tới.
- Nhưng bây giờ sẽ giải chúng nó đi đâu? - Khristonhia hỏi…
- Cho về với ông bà ông vải.
- Sao lại thế… Cậu nói bậy nói bạ cái gì thế? - Grigori nắm
lấy tà áo ca-pôt của gã Cô-dắc.
- Bẩm quan lớn, ngài còn nói bậy nói bạ cừ hơn tôi nhiều! -
Gã Cô-dắc trả lời ngạo nghễ rồi khẽ giật áo khỏi những ngón tay nắm rất chắc
của Grigori. - Xem đấy, người ta đã sửa soạn phương tiện giao thông cho chúng
nó rồi đấy. - Gã giơ tay chỉ cái giá treo cổ dựng giữa hai cây liễu khẳng khiu.
- Cho ngựa phân tán vào các nhà! - Petro ra lệnh.
Mây đen che kín bầu trời. Mưa rơi thưa thớt rất vang. Đàn
ông đàn bà Cô-dắc lũ lượt kéo nhau ra đầu thôn. Dân chúng Ponomariev đã được
báo tin là đến sáu giờ sẽ chấp hành án tử hình. Họ vui vẻ đến nơi như để xem
một trò vui hiếm có. Đàn bà con gái Cô-dắc đều quần lành áo tốt như ngày hội,
nhiều người còn đưa cả con đi. Đám người vây quanh bãi chăn công cộng, họ chen
chúc quanh cái giá treo cổ và cái hố dài, sâu chừng một ác-sin. Bọn trẻ con dẫm
loạn trên cái ụ đất sét ẩm đắp ở một bên hố. Bọn đàn ông đứng túm tụm một chỗ,
bàn tán sôi nổi về cuộc hành quyết sắp diễn ra. Bọn đàn bà xì xào một cách chua
xót.
Tên đại úy Popop bước tới. Hắn ngủ đã đẫy giấc, mặt mày
nghiêm nghị, điếu thuốc nhai nhai trong miệng cho thấy những cái răng thô chắc.
Hắn ra lệnh cho bọn Cô-dắc trong đội canh gác giọng khàn khàn:
- Đuổi hết dân chúng ra khỏi cái hố! Bảo Spiridorov giải tốp
thứ nhất ra!
Hắn xem đồng hồ lùi sang một bên nhìn đám dân chúng bị bọn
canh gác dồn đuổi, lùi khỏi chỗ hành hình, cuối cùng vây lấy pháp trường thành
một hình bán nguyệt sặc sỡ.
Spiridonov cùng một nhóm Cô-dắc đi nhanh đến tiệm tạp hóa.
Đến giữa đường hắn gặp Petro Melekhov.
- Thôn ngài có ai tình nguyện không?
- Tình nguyện làm gì cơ chứ?
- Chấp hành bản án.
- Không có và không thể có đâu? - Petro trả lời gay gắt và
đi vòng qua chỗ Spiridonov đứng ngáng đường.
Nhưng vẫn có những kẻ tình nguyện: Mitka Korsunov vuốt những
sợi tóc mượt xõa xuống dưới cái lưỡi trai mũ cát-két, ngật ngưỡng bước tới
trước mặt Petro. Hắn nheo hai con mắt long lanh, xanh như lá lau và nói;
- Tôi sẽ bắn. Sao lại bảo “không”. Tôi nhận lời, - nói đến
đây hắn đưa mắt nhìn xuống, mỉm cười. - Nhưng cho tôi đạn. Tôi chỉ còn một kẹp
thôi.
Tự nguyện xung vào đội xử bắn có nó, gã Andrey Kasulin với
bộ mặt nhọt nhạt hết sức hung hãn và gã Fedot Bodovskov mặt như dân Kalmys.
Những tiếng thì thầm và xôn xao cố ghìm nén lan ra trong đám
người rất đông đứng xen vai thích cánh khi tốp thứ nhất những người bị kết án
bắt đầu rời khỏi tiệm tạp hoá.
Potchenkov đi đầu, chân không, với chiếc quần đi ngựa bằng
dạ đen rộng thùng thình và cái áo da ngắn mở phanh. Anh đặt hai bàn chân vừa to
vừa trắng xuống bùn một cách vững vàng, chợt trượt chân một cái, bèn hơi giơ
tay trái ra để lấy lại thăng bằng.
Krivoslykov lê bước khó khăn bên cạnh Pochenkov, mặt nhợt
nhạt như xác chết. Hai con mắt anh long lanh ráo hoảnh, miệng giật giật một
cách đau khổ. Anh hất hất vai để sửa lại chiếc áo ca-pôt khoác trên lưng, có vẻ
như đang lên một cơn lạnh khủng khiếp. Không hiểu sao hai người không bị lột áo
ngoài trong khi các anh em khác chỉ còn có áo lót. Buntruc bước thình thịch,
Laguchin chạy lon ton bên cạnh anh. Cả hai đều đi chân không. Chiếc quần lót
của Laguchin bị rách hở một bắp chân với làn da vàng ệch, lông mọc lơ thơ. Anh
vừa đi vừa ngượng nghịu xốc bên ống quần rách, môi run lập bập.
Buntruc ngó qua đầu mấy tên áp giải, nhìn về phía trời xa
mây xám mịt mùng. Hai con mắt tỉnh táo và lạnh lùng của anh hấp háy một cách
căng thẳng như chờ đợi điều gì, anh luồn bàn tay to bè bè vào cổ chiếc sơ-mi mở
phanh, gãi bộ ngực lông lá rậm rì, mặt có vẻ như đang chờ cái gì rất thú vị
nhưng không thể nào thực hiện được…
Một số người còn giữ được trên nét mặt một vẻ tựa như phớt
lạnh. Orlov người chiến sĩ Bolsevich râu tóc bạc phơ hiên ngang nhổ xuống chân
bọn Cô-dắc. Song cũng có hai ba người cho thấy tất cả nỗi đau buồn âm ỉ trong
con mắt và một sự kinh hoàng không bờ bến trên những khuôn mặt méo xệch, làm
những tên áp giải cũng phải quay đi không dám nhìn mỗi khi bắt gặp con mắt của
họ.
Đoàn người đi khá nhanh. Krivoslykov chốc chốc lại trượt
chân, Pochenkov phải đỡ anh. Họ đi mỗi lúc một gần tới đám đông.
Những chiếc khăn bịt đầu trắng trắng hiện lên lốm đốm giữa
cả một cái biển những mũ cát-két xanh xanh đỏ đỏ. Potchenkov gườm gườm nhìn đám
người, vặc một câu hết sức tục tĩu, nhưng bỗng nhiên anh bắt gặp cặp mắt
Laguchin liếc nhìn mình bèn hỏi:
- Cậu nhìn gì thế?
- Có mấy hôm nay mà tóc cậu bạc phơ… Bọn chó má chúng nó đã
cắn xé cậu xơ xác như thế này rồi…
- Tất nhiên tóc phải bạc ra chứ còn gì nữa, - Potchenkov thở
một cách nặng nề, anh lau mồ hôi trên vừng trán hẹp, nhắc lại. - Gặp chuyện thú
vị thế này thì tóc phải bạc ra chớ còn gì nữa. Con chó sói mất tự do, lông nó
còn trắng ra, huống chi mình lại là con người.
Hai người không nói thêm gì nữa. Đã tiến tới sát đám đông. Ở
bên phải, anh em đã nhìn thấy màu đất sét vàng vàng của cái rãnh đào làm huyệt.
Spiridonov ra lệnh:
- Đứng lại!
Potchenkov tiến ngay thêm một bước, đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn
một lượt mấy hàng đầu của đám dân chúng: phần lớn là những kẻ râu bạc phơ hoặc
đã hoa râm. Bọn cựu chiến binh đứng lui cả về phía sau: lương tâm chúng cũng có
cắn rứt. Hai hàng ria chảy xễ của Pochenkov rung rung, anh nói giọng âm thầm
nhưng rõ ràng:
- Thưa các cụ bô lão! Xin các cụ cho phép tôi và Krivoslykov
được xem anh em đồng chí của chúng tôi tiếp nhận cái chết như thế nào, rồi sẽ
treo cổ hai chúng tôi lên sau cũng được. Trong lúc này chúng tôi muốn nhìn thấy
anh em đồng chí của mình lần cuối cùng và khuyến khích nâng đỡ những người tinh
thần yếu đuối.
Tất cả lặng đi, nghe thấy cả tiếng những giọt mưa rơi xuống
những chiếc mũ cát-két.
Tên đại úy Popop đứng phía sau mỉm cười, nhe hai hàm răng
vàng khè vì khói thuốc lá. Hắn không phản đối. Bọn bô lão hò hét loạn lên:
- Chúng tôi cho phép!
- Cho hai đứa sống thêm vài phút!
- Lôi chúng nó ra khỏi cái hố!
Krivoslykov và Potchenkov bước tới chỗ đám người, bọn bô lão
lánh ra, dành một lối đi nhỏ trước mặt hai người. Hai người đứng lại ở một chỗ
không xa lắm và bị lèn như nêm giữa những con người đứng quanh từ phía với hàng
trăm cặp mắt nhìn chằm chằm đầy vẻ thăm dò. Hai người nhìn bọn Cô-dắc lúng túng
bắt anh em Xích vệ đứng quay lưng vào cái hố. Potchenkov nhìn thấy rất rõ.
Krivoslykov cứ phải kiễng chân vươn cái cổ ngẳng chưa cạo
râu ra nhìn.
Buntruc đứng ở cuối hàng bên trái. Anh gù gù lưng, thở nặng
nề, mắt dán xuống đất, mãi chẳng thấy ngửng đầu lên. Bên cạnh Buntruc, Laguchin
khom người cố kéo vạt áo sơ-mi xuống che chỗ quần rách. Người thứ ba là anh
chàng Ichnát người trấn Tambobskaia, rồi đến Vanca Bondyrev thay đổi đến không
nhận ra được nữa vì có vẻ như già đi ít nhất hai mươi tuổi. Potchenkov đăm đăm
nhìn người thứ năm: anh nhận ra rất khó khăn Matvey Sarcmatov, chàng Cô-dắc
trấn Kazanskaia đã cùng anh chia xẻ mọi vui buồn từ hồi ở Kamenskaia. Thêm hai
người nữa bước tới miệng hố rồi quay lưng lại. Petro Luxikov cười một cách rất
khiêu khích, rất ngang ngược, thét lên chửi những lời rất tục tĩu và giơ nắm
tay bẩn thỉu lên đe đám dân chúng lúc này đã lặng đi. Koretkov thì cứ ngậm tăm.
Người cuối cùng thì bọn kia phải xốc tay lôi đi. Anh ta ưỡn người ra, hai bàn
chân không có sức sống thõng xuống kéo trên mặt đất, hai tay bám chắc lấy những
tên Cô-dắc đang lôi mình đi, anh ta lắc đi lắc lại khuôn mặt đầm đìa nước mắt,
vừa cố giằng ra, vừa kêu lên khàn khàn:
- Tha cho tôi, anh em ơi! Tha cho tôi, hãy vì Chúa mà tha
cho tôi!
- Anh em ơi! Anh em thân mến ơi! Anh em làm gì thế này? Tôi
đã được thưởng bốn huân chương trong trận chiến tranh chống Đức!
- Tôi còn mấy đứa con nhỏ! Lạy chúa tôi, tôi làm gì nên tội?
Lạy Chúa tôi, sao mà anh em lại thế?
Một gã Cô-dắc cao lớn trước kia ở trung đoàn Atamansky đưa
đầu gối huých vào ngực anh ta, đẩy anh ta tới miệng hố. Mãi lúc này Potchenkov
mới nhận ra người vừa giằng nhau với bọn kia và bất giác thất kinh: đó là một
trong những chiến sĩ Xích vệ gan dạ nhất, người trấn Migulinskaia, tuyên thệ
vào lính năm 1910, đã được thưởng huân chương thánh Gioóc cả bốn hạng. Bọn kia
xốc anh ta đứng lên, nhưng anh ta lại ngã lăn ra, bò lết dưới chân bọn Cô-dắc,
và vừa áp cặp môi khô nẻ vào những chiếc ủng của chúng, những chiếc ủng đá vào
mặt mình, vừa khẩn khoản van lơn bằng một giọng khàn khàn nghe đến là khủng
khiếp:
- Anh em đừng giết tôi! Hãy rủ lòng thương lấy tôi! Tôi còn
ba đứa, còn ba đứa con nhỏ… một đứa con gái nhỏ… Các anh em ruột thịt của tôi
ơi!
Anh ta ôm lấy đầu gối tên lính trung đoàn Atamansky, nhưng
tên này vùng ra, nhảy lui lại rồi vung chân đá cái đế ủng đóng cá sắt vào tai
anh ta. Như từ trong một cái ống, máu ở tai bên kia tóe ra, chảy lênh láng
xuống cái cổ áo trắng.
- Lôi nó đứng dậy! - Spiridonov điên tiết quát lên.
Cuối cùng bọn Cô-dắc cũng đại khái lôi được anh dậy, đỡ cho
đứng thẳng rồi bỏ chạy ra chỗ khác. Trong hàng trước mặt, những tên tình nguyện
làm đao phủ đã giương súng sẵn sàng. Đám dân chúng ồ lên một tiếng rồi nín
lặng. Có người đàn bà rú lên một tiếng rùng rợn…
Buntruc còn muốn nhìn lại gần nữa màn mây mù xám xịt trên
trời và mảnh đất sầu thảm trên đó anh đã rong ruổi hai mươi chín năm ròng.
Nhưng anh vừa ngửng đầu lên thì thấy cách mình năm mươi bước có một hàng những
tên Cô-dắc đứng sát nhau và một thằng to lớn có hai con mắt xanh lè nheo nheo
và món tóc xõa dưới lưỡi trai xuống vừng trán hẹp trắng, đang ngả người về phía
trước, mím chặt môi, nhằm vào anh, vào Buntruc, vào đúng ngực. Trước khi phát
súng nổ, một tiếng rú kéo dài xé mang tai Buntruc. Anh kịp quay đầu nhìn thấy
một người đàn bà còn trẻ, mặt đầy tàn hương, nhảy ra khỏi đám người để vùng
chạy về thôn, một tay áp chặt đứa con vào ngực, còn tay kia bịt mắt nó.
Sau khi loạt súng nổ loạn xạ, khi tám người đứng trên miệng
hố đã ngã vật xuống, những tên vừa nổ súng chạy tới bên cái hố.
Mitka Korsunov nhìn thấy người chiến sĩ Xích vệ vừa bị hắn
bắn còn cố vùng lên, tự cắn vào vai mình, bèn bồi thêm cho anh ta một phát và
khẽ bảo Andrey Kasulin:
- Cậu xem cái thằng quỷ sứ này, nó cắn vào vai nó đến chảy
máu và chết như một con sói, không một tiếng kêu.
Thêm mười người bị kết án nữa bị báng súng thúc vào lưng
phải đi tới miệng hố…
Sau loạt súng thứ hai bọn đàn bà đều kêu thét lên, len ra
khỏi đám đông, xô nhau dắt con bỏ chạy. Có cả những tên đàn ông cũng bắt đầu bỏ
về. Cái cảnh giết chóc đáng kinh tởm ấy, tiếng kêu rên của những người ngắc
ngoải, tiếng la thét của những người chờ chết, tất cả cái cảnh tượng thê thảm
và gớm ghiếc ấy đã làm cho người ta không thể nào ở lại được nữa. Những kẻ còn
nán lại chỉ là những tên cựu chiến binh đã chứng kiến quá nhiều chết chóc cùng
những tên bô lão hung hăng điên cuồng nhất.
Những nhóm chiến sĩ Xích vệ khác bị dẫn tới, chân không,
quần áo ngoài bị lột hết. Bọn đao phủ tình nguyện cũng được thay thế.
Những loạt súng nổ lên ầm ầm, những phát súng lẻ đì đẹt khô
khan.
Những người chưa chết bị bắn thêm cho chết hẳn. Trong giờ
nghỉ, đống xác chết đầu tiên được đổ đất lấp quàng quấy.
Potchenkov và Krivoslykov đi đến chỗ những người đang chờ
lượt, định tìm lời khuyến khích, những lời nói không còn ý nghĩa như ngày
thường nữa rồi. Trong giây phút này, khi mà chỉ một phút nữa tính mạng của họ
sẽ bị đứt đoạn như cái lá gãy cuống trên cây, thì con người chịu quyền chi phối
của những cái gì khác.
Grigori Melekhov đang len qua đám người bắt đầu tan tác,
định về thôn thì bất ngờ chạm trán với Potchenkov. Hai người mặt giáp mặt.
Potchenkov lùi một bước, nheo mắt hỏi:
- Cả cậu cũng ở đây à, Melekhov?
Grigori đứng lại, mặt tái xám đi.
- Có ở đây! Như anh thấy đấy…
- Tôi thấy… - Potchenkov nhếch mép cười, nhìn thẳng vào bộ
mặt nhợt nhạt của Grigori với cả một lòng căm hờn bất thần nổ bùng ra.
- Sao thế, bắn vào anh em mình à? Thay lòng đổi dạ rồi à? Té
ra cậu là con người như thế đấy…- Potchenkov tiến sát tới trước mặt Grigori,
khẽ nói. - Làm cho cả bên này lẫn bên kia à? Chà, cái thằng!
Grigori nắm lấy tay áo Potchenkov, vừa thở hổn hển vừa hỏi:
- Anh còn nhớ trận chiến đấu ở gần Glubokaia không? Có còn
nhớ cuộc bắn giết bọn sĩ quan không… Họ đã bị giết chính là theo lệnh của anh.
Có đúng không? Bây giờ thì phải chịu lấy hậu quả! Thôi đừng đau khổ làm gì! Thế
là không còn giở được trò gì nữa nhé, ông chủ tịch Ủy ban quân sự cách mạng
sông Đông ạ! Đồ khốn kiếp, mày đã đem người Cô-dắc bán rẻ cho bọn Do thái! Đã
hiểu chưa? Còn muốn nói gì nữa không?
Grigori như hóa điên hóa ngộ, Khristonhia ôm lấy chàng lôi
ra chỗ khác.
- Đi lấy ngựa thôi. Đi đi! Mình với cậu chẳng ở đây làm gì
nữa. Lạy Chúa tôi, cũng là con người, sao lại làm như thế…
Hai người đã bỏ đi, nhưng chợt nghe thấy tiếng Potchenkov
nói, bèn đứng lại. Đứng giữa những tên cựu chiến binh và bô lão vây kín chung
quanh, Potchenkov thốt lên sang sảng, giọng đầy nhiệt tình:
- Các người tăm tối… các người mù quáng! Các người mù cả
rồi! Bọn sĩ quan đã lừa dối các người, chúng nó đã bắt các người giết hại anh
em ruột thịt của mình! Các người tưởng rằng giết được chúng tôi là mọi việc đều
chấm dứt phải không? Không đâu! Hôm nay các người chiếm được phần thắng, nhưng
chỉ ngày mai người ta sẽ đem các người ra xử bắn thôi! Chính quyền Xô viết sẽ được
thành lập trên khắp nước Nga. Các người hãy nhớ lấy lời tôi nói! Các người đang
làm đổ máu đồng bào mình một cách vô ích! Các người thật là một bọn ngu xuẩn!
- Đối với những thằng như chúng mày thì chúng tao phải làm
như thế mới được! - Một lão già nhảy chồm lên.
- Này ông bô ơi, bắn sao được tất cả mọi người? - Pochenkov
mỉm cười. - Không thể treo cổ được hết nhân dân Nga đâu. Liệu liệu mà giữ lấy
cái đầu! Sau nầy các người hối lại thì đã quá muộn!
- Mày chớ có dọa chúng tao?
- Tôi không dọa đâu. Tôi chỉ vạch cho các người thấy con
đường phải đi thôi.
- Này Potchenkov, chính anh mới là thằng mù! Moskva đã làm
cho hai con mắt anh mù mất rồi.
Không chờ nghe hết những lời qua tiếng lại, Grigori gần như
chạy tế về cái sân buộc con ngựa đang cuống lên vì nghe thấy những tiếng súng
nổ. Grigori và Khristonhia, buộc chặt đai bụng ngựa, cho phi nước đại ra khỏi
thôn, vượt qua ngọn gò, không ngoái đầu lại nữa.
Trong khi đó ở Ponomariev, khói đạn vẫn cứ tuôn ra theo từng
phát súng: những người Cô-dắc ở Vosenskaia, Karginskaia, Bokovskaia,
Krasnokurskaia, Miliuchinskaia bắn giết những người Cô-dắc ở Kazanskaia,
Migulinskaia, Radorcskaia, Kumsakaia, Baklanovskaia.
Cái hố đã đầy đến miệng. Bọn Cô-dắc lấp đất lên rồi lấy chân
giậm. Hai tên sĩ quan đeo mặt nạ đen nắm lấy Potchenkov và Krivoslykov, đẩy đến
trước cái giá treo cổ.
Potchenkov dũng cảm và kiêu hãnh ngửng cao đầu, bước lên
chiếc ghế đẩu, cởi khuy áo sơ-mi, phanh cái cổ ngăm ngăm to đần đẫn, rồi tự tay
lồng cái vòng thòng lọng có bôi xà phòng vào cổ, không một bắp thịt nào trên
người anh run. Krivoslykov bị chúng kéo đi, một tên sĩ quan đỡ anh leo lên
chiếc ghế đẩu, và anh cũng tự tay lồng cái vòng thòng lọng.
- Xin cho phép tôi nói một lời trước khi chết! - Pochenkov
đề nghị.
- Cứ nói đi!
- Xin mời! - Bọn cựu chiến binh kêu lên.
Potchenkov khoát tay chỉ đám người đã thưa nhiều:
- Các người hãy trông, những người muốn ở lại xem chúng tôi
chết còn được bao nhiêu? Lương tâm cắn rứt mà! Chúng tôi đã vì nhân dân lao
động, vì quyền lợi của nhân dân lao động mà chiến đấu với bè lũ tướng tá chó
má, không ngại hy sinh tính mạng, thế mà bây giờ sắp phải chết dưới bàn tay các
người đây! Nhưng chúng tôi không nguyền rủa các người! Các người là những kẻ bị
lừa dối một cách cay đắng? Cho đến khi chính quyền cách mạng được thiết lập,
các người sẽ thấy rõ chân lý ở về bên nào. Các người đã đem những con người ưu
tú nhất cả vùng sông Đông vùi dưới cái hố nầy…
Những tiếng lao xao mỗi lúc một to, những lời Pochenkov nói
không rõ nữa. Một tên sĩ quan lợi dụng tình thế đó đạp một cái rất lẹ chiếc ghế
đẩu dưới chân Pochenkov bắn ra. Cả cái thân hình hộ pháp nặng như đá của anh
ngả nghiêng rồi rơi thõng xuống, nhưng hai chân văn còn chạm đất. Cái vòng
thòng lọng thít vào cổ làm Pochenkov tức thở, bắt anh phải dướn người lên. Anh
ấn mười ngón chân to tướng của hai bàn chân không giầy không tất lên lớp đất ẩm
đã bị dẫm nát, cố kiễng lên để hít lấy chút không khí, rồi đưa cặp mắt lồi hẳn
ra ngoài nhìn đám người đứng im thin thít, khẽ nói:
- Chúng nó còn chưa học được cách treo cổ người ta… Nầy
Spiridop, nếu tao treo cổ mầy, thì chân mầy không chạm tới đất đâu.
Rớt rãi chảy ra đầm đìa từ miệng Pochenkov. Hai tên sĩ quan
đeo mặt nạ và mấy gã Cô-dắc đứng gần đấy bấn cả lên, hì hục mãi mới nâng được
cái thân hình nặng chịch và đã hoàn toàn kiệt sức của Pochenkov lên chiếc ghế
đẩu.
Krivoslykov cũng không được chúng để cho nói hết lời: chiếc
ghế đẩu văng ra khỏi chân anh, đập vào một cái xẻng không biết có tên nào ném
lại đấy. Cái thân hình khô đứt, không chút mỡ thừa của anh đung đưa rất lâu,
hết co rúm lại như con tôm, đầu gối chạm vào cằm, lại duỗi thẳng ra trong cơn
giãy chết. Trong lúc Krivoslykov còn co giật, cái lưỡi đen sịt thè lè sang một
bên mép còn ngọ nguậy thì chiếc ghế dưới chân Pochenkov lại bị đá bật ra lần
thứ hai. Cái thân hình nặng nề của anh lại rơi thõng xuống, đường chỉ trên vai
bục ra, và đầu ngón chân anh lại chạm đất. Đám Cô-dắc đồng thanh khẽ kêu lên.
Một số vừa làm dấn phép vừa bỏ đi. Tất cả số còn lại đều bối rối hoảng hốt đến
nỗi cứ đứng đực ra một lát như bị mạ ám, và cứ nhìn bộ mặt xạm lại như màu gang
của Pochenkov với một tâm trạng không phải không khiếp hãi.
Có người chợt nghĩ ra một cách là lấy xẻng bới, bèn vội vã
xúc đi những cục đất dưới chân Pochenkov, và sau mỗi nhát xẻng, người anh chàng
thõng xuống thẳng hơn, cổ anh càng vươn ra dài hơn, và cái đầu có bộ tóc hơi
xoăn của anh càng ngật ra sau lưng. Sợi chão khó nhọc lắm mới chịu nổi cái
trọng lượng sáu pút. Cái giá kêu răng rắc, hơi đưa đi đưa lại và theo nhịp lắc
đều đặn của cái giá, Pochenkov từ từ quay ra tứ phía, tựa như muốn giơ cho bọn
sát nhân xem bộ mặt tím đen và bộ ngực đầm đìa những dòng nước dãi và nước mắt
nóng hổi của mình.
31
Mãi đến thứ hai Miska Kosevoi và “Bồi” mới ra khỏi trấn
Karginskaia. Sương mù sủi ngầu trên đồng cỏ, cuộn lên trong các khe núi, luồn
xuống các vùng đất trũng, phủ kín những chỗ nhô ra từ các vách dốc đứng. Những
nấm kurgan hiện lên mờ mờ sau làn sương mù. Cun cút kêu ríu rít trong đám cỏ
non. Mặt trăng bập bềnh trôi trên bầu trời cao ngất như đoá hoa sen đã nở hết
trong một cái đầm mọc đầy cỏ lác và bàng tử.
Hai người đi đến khi trời rạng. Chòm sao Đại tiểu hùng tinh
đã mờ đi. Sương bắt đầu rơi. Đã gần tới thôn Hạ Yablonovsky. Nhưng giữa lúc ấy,
khi chỉ còn cách cái thôn nầy ba vec-xta, bọn Cô-dắc đã đuổi kịp hai người trên
đường xuống đồi. Sáu tên cưỡi ngựa đã lần theo vết chân, đuổi theo. Miska và
“Bồi” đã chạy lao sang bên cạnh đường nhưng cỏ quá thấp, trăng lại sáng… Thế là
hai người bị chúng tóm được và giải trở về. Cả đám đi chừng một trăm xa-gien
chẳng nói chẳng rằng. Sau đó đùng lên một phát súng… “Bồi” loạng choạng, đi mỗi
lúc một nghiêng sang một bên, như con ngựa sợ cái bóng của nó. Rồi “Bồi” không
ngã mà chỉ như nằm xuống một cách vụng về, mặt rúc vào một đám ngải cứu xanh
xanh xám xám.
Miska đi thêm chừng năm phút, không còn cảm thấy cơ thể mình
nữa, hai tai ù lên, như có tiếng chuông, chân bước trên mặt đất khô mà cứ như
thụt xuống bùn. Cuối cùng Miska hỏi:
- Sao chưa bắn đi, lũ chó đẻ? Còn làm khổ người ta gì nữa?
- Đi đi đi đi. Nhưng im cái mồm! - Một Cô-dắc nói giọng nhẹ
nhàng. - Thằng mu-gích đã bị khử rồi, nhưng cậu thì chúng tớ thương. Trong cuộc
chiến tranh chống Đức cậu ở trung đoàn Mười hai à?
- Phải. Mười hai.
- Cậu sẽ lại về trung đoàn Mười hai thôi. Cậu còn trẻ. Mới
lầm lỡ một chút, chưa tai vạ gì lắm. Bọn mình sẽ chữa cho!
Ba ngày sau tòa án quân sự dã chiến trấn Karginskaia đã
“chữa” cho Miska thật. Hồi ấy tòa án chỉ có hai hình thức trừng phạt là xử bắn
và đánh bằng roi. Đối với những người bị tuyên án bắn thì ban đêm bọn Cô-dắc
lôi họ ra ngoài trấn, tới sau nấm kurgan Pertranuri, còn những người được coi
là còn có hy vọng cải tạo thì chúng trừng trị bằng cách lấy roi quật trước công
chúng trên bãi họp.
Hôm chủ nhật ấy, từ lúc sáng sớm, dân chúng vừa thấy một
chiếc ghế dài được kê ra giữa bãi là họ bắt đầu đổ tới. Không những trên bãi
đông nghịt mà người ta còn đứng đầy các quầy hàng, trên những tấm ván kê bên
các nhà kho, trên nóc các ngôi nhà và các cửa hiệu.
Kẻ đầu tiên bị đánh đòn là Alexandrov, con trai lão cố đạo ở
Grachevskaia. Anh chàng nổi tiếng là một tay Bolsevich rất hăng, luận tội đáng
bị xử bắn, nhưng bố lại là một lão cố đạo tốt, được mọi người kính trọng, vì
thế tòa án chỉ quyết định đánh thằng con hai chục roi thôi. Người ta lột quần
Alexandrov, rồi đặt anh chàng không quần không khố như thế nằm sấp trên chiếc
ghế dài, hai tay bị trói bên dưới chiếc ghế. Một gã Cô-dắc ngồi lên chân
Alexandrov, hai gã nữa cầm hai bó nhánh liễu đứng hai bên. Bị đánh xong,
Alexandrov phủ bụi bẩn trên người, kéo quần lên vái tứ phương, rồi mừng rơn vì
thấy mình không bị đem xử bắn lại cúi đầu chào lấy chào để và cám ơn:
- Xin cám ơn các cụ bô lão!
- Mặc quần lại cho cẩn thận đi! - Một người trả lời.
Tiếng cười rộ lên khắp cái bãi họp, đến nỗi mấy anh chàng bị
bắt ngồi ngay gần đấy, trong một nhà kho, cũng phải cười.
Chiều theo lời tuyên án. Miska bị nện hai mươi roi. Nhưng
cái đau vì bị làm nhục còn rát hơn cái đau vì ăn roi nhiều. Nhân dân cả trấn,
già trẻ lớn bé đều giương mắt nhìn mình. Miska xốc chiếc quần đi ngựa, thiếu
chút nữa thì òa lên khóc. Anh bảo gã Cô-dắc vừa đánh mình:
- Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa.
- Nhưng sao vậy?
- Đầu làm đít chịu. Nhục nhã suốt một đời.
- Không sao, cái nhục không phải là khó, nó không làm cay
mắt đâu. - Gã Cô-dắc kia an ủi Miska rồi như muốn làm vui lòng người bị trừng
phạt, gã nói thêm. - Kể ra cậu cũng là một thằng cứng rắn đấy chứ: đã hai lần
mình quật thẳng tay, định bắt cậu phải kêu lên… Nhưng sau mình cũng thấy rằng
một thằng thế này thì không thể nào bắt nó kêu được. Hôm nọ bọn mình quật một
thằng, con ông cụ bĩnh cả ra quần. Cái thằng đến là yếu bụng yếu dạ.
Ngay hôm sau, chiếu theo lời tuyên án, Miska bị tống ra mặt
trận.
Sau đó hai ngày, xác “Bồi” mới được chôn cất. Hai gã Cô-dắc
bị tên ataman phái đi đào một cái huyệt nông toen hoẻn rồi thõng chân xuống
huyệt ngồi nghỉ, hút thuốc rất lâu.
- Đất chỗ này rắn khiếp. - một gã nói.
- Rắn như thép ấy! Xưa nay có cày bao giờ đâu, lâu ngày lại
càng rắn.
- Phải… cái thằng này được một chỗ thật là đắc địa, ngay
trên đỉnh… Gió lồng lộng, khô ráo, quang đãng… Chắc hẳn cũng lâu mới rữa đấy.
“Bồi” nằm áp mặt xuống lớp cỏ. Hai gã đưa mắt nhìn anh rồi
đứng dậy:
- Lột ủng nó chứ?
- Còn sao nữa, đôi ủng của nó còn tốt đấy.
Hai gã đặt “Bồi” xuống huyệt theo đúng nghi thức của đạo
Thiên chúa: đầu quay về hướng tây, rồi lấp chất đất đen chắc quánh lên.
- Dẫm thêm cho chặt nhé? - Gã còn trẻ thấy đắp đã được ngang
huyệt bèn hỏi.
- Chẳng cần, thế này cũng được rồi, - Gã kia thở dài. - Khi
nào các thiên sứ thổi kèn báo ngày phán xét cuối cùng, nó sẽ đứng dậy nhanh
hơn.
Nửa tháng sau cỏ xa tiền và ngải cứu non đã mọc trên nấm mồ
nhỏ xíu. Yến mạch dại đã kết bông trên đó, sơn giới cũng nở những đám hoa vàng
xum xuê ngay bên cạnh. Cỏ sông Đông rủ những đám lá mung lung như khói thuốc
lá. Bạc hà, đại tái và châu quả toả hương thơm phức. Chẳng bao lâu từ cái thôn
gần đấy có một ông cụ đến bới một cái hố trên đầu ngôi mộ, trồng một cái cột
bằng gỗ sồi mới bào và đặt lên đó một cái bàn thờ nhỏ có mái. Bên dưới cái mái
che hình tam giác thấy hiện ra trong bóng tối nét mặt hiền hậu đầy đau khổ của
Đức mẹ và trên thành gỗ của cái mái có dòng chữ đen kẻ không trau chuốt lắm
bằng chữ Slavơ:
Năm loạn lạc con người
đồi trụy,
Anh em nhà chớ xử án
nhau.
Ông cụ không còn nữa nhưng cái miếu nhỏ vẫn còn lại trên
đồng cỏ. Cái vẻ đau thương của nó mãi mãi còn đập vào mắt những người đi bộ hay
cưỡi ngựa qua, gây trong lòng họ một nỗi buồn man mác.
Và sau đó, đến tháng Năm, có mấy con gà nước đến đánh nhau
bên cái miếu, dẫm phẳng một khoảng ngải cứu xanh lơ, làm nát cả đám cỏ mao rất
dày đang chín bông: chúng đánh nhau để tranh nhau con mái, vì quyền sống, vì ái
tình, vì sự sinh con đẻ cái. Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng gần cái miếu ấy, dưới
một nấm đất, dưới một bụi ngải cứu già lờm xờm, một con gà nước cái đẻ chín quả
trứng màu xanh lốm đốm, đẻ xong nó đem cả hơi ấm của mình ra ấp và xòe đôi cánh
bóng nhoáng bảo vệ chín quả trứng ấy.
-----------------
Tiếp p6a:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét