Phần II – 1
Gia phả nhà Sergey Platonovich còn ghi được những ông tổ xa
xưa. Dưới triều hoàng đế Petr đệ nhất (đọc
là Pi-ốt, 1672 - 1725. Hoàng đế nước Nga, đã đánh bại quân Thụy-Điển ở Poltava,
xây dựng thủ đô mới Peterburg, áp dụng văn minh phương Tây vào nước Nga, và làm
cho nước Nga trở thành một cường quốc lớn ở châu Âu), có
lần một chiếc thuyền chở lương khô và thuốc súng của Nga hoàng xuôi theo sông
Đông ra biển Azop. Trên thượng lưu sông Đông, gần cửa nhánh Khop, có thị trấn
Trigonac, dân ở đây chuyên đầu trộm đuôi cướp. Bọn Cô-dắc trong thị trấn đã lợi
dụng đêm tối đánh úp chiếc thuyền, chém cổ tên lính gác đang ngủ gà ngủ gật,
cướp hết lương khô và thuốc súng, còn thuyền thì họ đánh chìm xuống sông.
Theo lệnh Nga hoàng, quân đội ở Voronez đã kéo đến đốt trụi
thị trấn “cường đạo” Trigonac ấy, và trong khi chiến đấu đã giết không chùn tay
những tên Cô-dắc tham gia đánh cướp chiếc thuyền.
Đại úy Yakirka cùng bốn mươi gã Cô-dắc bị bắt. Quan quân đã
đóng những chiếc giá trên bè, treo cổ tất cả, rồi thả cho trôi xuống hạ lưu,
hòng dùng những chiếc đu ấy để răn đe các trấn đang sôi sục muốn làm loạn ở
miền dưới.
Mười năm sau, một số người Cô-dắc mới di cư đến và cả những
người sống sót sau vụ tàn sát, lại đến sinh cơ lập nghiệp ở ngay chỗ xưa kia
những ngôi nhà của thị trấn Trigonac đã chìm trong khói lửa.
Trấn nầy lại mỗi ngày một lớn mạnh và đã đắp được một dãy
luỹ chiến đấu vây quanh thị trấn. Cũng từ hồi ấy, một tên thám tử là lão
mu-gích Mokhov Nhikiska nhận sắc lệnh của chính quỷền Nga hoàng từ Voronez đến
đây làm tai mắt cho hoàng triều. Lão buôn bán trăm thứ đồ lặt vặt cần dùng
trong đời sống hàng ngày của người Cô-dắc như cán dao, thuốc lá, đá lửa. Lão
mua bán cả những đồ ăn cắp và mỗi năm lão lại đi Voronez hai lần, ngoài miệng
thì nói là để cất hàng, nhưng thật ra chỉ để báo cáo, chẳng hạn tình hình trong
trấn tạm thời vẫn yên tĩnh, dân Cô-dắc chưa âm mưu phạm thêm một tội ác nào.
Dòng họ những tên lái buôn Mokhov chính là bắt nguồn từ lão
Mokhov Nhikiska nầy. Họ đã sinh cơ lập nghiệp vững vàng trên mảnh đất Cô-dắc
nầy. Hạt giống của họ đã bay đến trấn nầy, đã bám rễ ở đây như loài cỏ dại “móng
ngựa”, rồi không ai có tài nào nhổ hết. Con cháu nhà Mokhov đã gìn giữ như một
vật thiêng liêng tờ chứng chỉ gần mục nát mà tỉnh trưởng Voronez đã trao cho
ông tổ của họ, khi lão được phái đến cái trấn làm loạn nầy. Tờ chứng chỉ ấy đã
được cất trong một cái tráp gỗ đặt trên ổ tượng thánh. Chưa biết chừng nó còn
giữ được đến ngày nay, nếu mồ ma ông nội Sergey Platonovich, nó không bị đốt ra
tro cùng với cái tráp trong một đám cháy lớn. Lão già này máu mê cờ bạc, của
chìm của nổi có bao nhiêu nướng sạch rồi bị phá sản. Sau đó lão cũng xây đựng
lại được cơ nghiệp, nhưng thần lửa đã thiêu hết, thành thử đến đời Sergey
Platonovich, tay này đã phải làm lại từ đầu. Sau khi chôn xong thằng bố bán
thân bất toại, lão đã bắt tay vào kinh doanh với độc một đồng rúp cóc gặm. Đầu
tiên lão lang thang qua các thôn mua lông lợn và lông gà vịt. Sau năm năm sống
cơ cực, năm năm lừa gạt, bòn mót từng đồng xu nhỏ của bà con Cô-dắc các thôn
lân cận, gã buôn lông lợn Seriogia (Tên dùng để gọi Sergey một cách thân mật) đã
nghiễm nhiên biến thành “ông” Sergey Platonovich, hầu như chỉ một sớm một
chiều. Lão mở ngay ở trấn một quán hàng tạp hóa nhỏ, lấy con gái lão cố đạo dở
điên dở dại, đào mỏ được một món hồi môn không phải là nhỏ, rồi khai trương một
cửa hàng vải, Sergey Platonovich bước vào nghề buôn vải thật là đúng lúc. Vùng
tả ngạn sông Đông toàn là đất khô cằn, nếu không là cát thì cũng là đất sét rắn
như đá. Vì thế, theo lệnh chính quyền quân khu, người Cô-dắc các trấn bên ấy đã
phải di cư sang hữu ngạn từng thôn một. Trấn Kratnokuskaia mới thành lập đã lớn
lên vùn vụt, nhà cửa mọc như nấm. Sát bên những khu đất cũ của bọn địa chủ, hai
bên các sông Tria, Chernaia và Florovka, những thôn mới thi nhau mọc lên ở
những khe, những khoảng đất trũng trên đồng cỏ, cho mãi tới rìa các làng của
người Ukraina: Bà con các nơi ấy thường phải đi hàng năm chục vec-xta hoặc xa
hơn nữa mới mua được hàng, thế mà nay lại thấy ngay một cửa hiệu với những cái
giá bằng gỗ thông mới tinh, xếp đầy các thứ vải vóc tơ lụa thơm phức. Vì thế
nên việc buôn bán của Sergey Platonovich mỗi ngày một kéo rộng ra như một chiếc
accordeon. Ngoài các thứ hàng vải vóc lão còn buôn tất cả các thứ cần thiết cho
cuộc sống đơn giản ở nông thôn: đồ da, muối, dầu hỏa, hàng tạp hóa. Thời gian
gần đây, lão còn cung cấp cả máy móc nông nghiệp. Những chiếc máy gặt, máy cày,
máy quạt thóc, máy sàng thóc đã từ nhà máy Arsaisky đến xếp hàng ngay ngắn bên
cửa hiệu hai cánh màu xanh lá cây, mùa hè rất mát. Làm thế nào mà đếm được xem
trong hầu bao người ta có bao nhiêu tiền, nhưng chắc chắn là công việc buôn bán
đã đem lại cho con người thừa tài xoay xở Sergey Platonovich những món lời
không phải nhỏ. Ba năm sau, lão mở thêm một nơi thu mua và chứa lúa mì, rồi một
năm sau, khi mụ vợ thứ nhất của lão qua đời, lão lại bắt tay vào xây một nhà
máy xay chạy bằng hơi nước.
Trong bàn tay ngăm ngăm, đầy những lông thưa nhưng đen bóng,
Sergey Platonovich đã nắm rất chặt thôn Tatarsky cùng các thôn lân cận. Chẳng
có nhà nào không phải ký tên trên mảnh giấy màu xanh lá cây, viền hoa màu da
cam nhận thực còn chịu của Sergey Platonovich một món tiền mua máy gặt hoặc tư
trang cho con gái về nhà chồng (sắp đến ngày con gái mình phải về nhà người ta
rồi mà kho thu mua Paramonovsky lại dìm giá lúa mì quá hạ, thành thử cũng đành
tặc lưỡi: “Ông Sergey Platonovich, ông cho tôi mua chịu vậy!”). Nhưng thiếu gì
những chuyện khác nữa… Nhà máy xay có chín công nhân, cửa hiệu thuê bảy người,
thêm kẻ hầu người hạ trong nhà bốn người nữa, hai chục miệng ăn ấy đều trông
mong vào sự ban ơn của lão lái buôn. Mụ vợ trước để lại cho lão hai đứa con:
đứa con gái tên là Lida và thằng con trai tên là Vladimir , kém chị nó hai tuổi, bị bệnh tràng
nhạc, người héo hon phờ phạc. Anna Ivanovna, người vợ kế mũi hỉn, khô quắt,
chẳng đẻ đái gì cả. Tâm trạng một người đàn bà mãi không có đứa con nào để có
chỗ dốc hết lòng yêu thương của mình, cùng cái tính cáu kỉnh bực bội mà mụ tích
luỹ đã lâu năm (sắp ba mươi tư tuổi mụ mới về làm vợ Sergey Platonovich), tất
cả những cái ấy hai đứa con chồng đã phải chịu đựng hết. Tính tình nóng nảy của
mẹ kế đã ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục hai đứa trẻ. Còn người bố thì
quan tâm đến con cũng chẳng hơn gì mức lão để ý tới anh coi ngựa Nikita hay chị
nấu bếp.
Công việc làm ăn và các chuyến đi nơi này nơi nọ đã choán
hết thời gian nhàn rỗi của lão: khi thì Moskva, khi thì Nhitnhi, khi thì
Uriupinskaia, khi thì chợ phiên ở các trấn. Thế là hai đứa trẻ cứ lớn lên chẳng
có ai chăm nom dạy dỗ. Mụ Anna Ivanovna vốn thờ ơ ghẻ lạnh, nên cũng chẳng tìm
cách đi sâu vào những điều thầm kín trong tâm hồn con trẻ, hơn nữa công việc
trong nhà lại bề bộn, nên mụ càng không có tâm trí nào làm việc ấy. Vì thế hai
chị em Lida chẳng giống nhau chút nào cả, tính tình mỗi đứa một khác, chẳng có
vẻ gì là cùng một bố mẹ sinh ra. Vladimir càng lớn lên càng cô độc, ủ rũ, mắt
nhìn quằm quặm, vẻ mặt nghiêm nghị như ông cụ non, Lida thì luôn luôn lởn vởn
chỗ bọn hầu phòng, nấu bếp, mấy ả phóng đãng, nếm đủ mùi đời, vì thế đã sớm để
ý tới mặt trái của cuộc sống. Mấy ả đàn bà ấy đã gây cho Lida một tính tò mò
không lành mạnh, ngay từ khi nó còn là một cô bé rụt rè và ngượng nghịu. Thế là
Lida đã lớn lên tự do, chẳng bị ai ngăn giữ, cứ như một bụi sao hoa mọc hoang
trong rừng.
Năm tháng thủng thẳng trôi qua.
Như bao giờ cũng vậy, người già thì ngày càng già, con con
trẻ thì cứ lớn lên mơn mởn như cỏ xanh.
Rồi một hôm trong khi uống trà buổi tối, Sergey Platonovich
đã vô cùng ngạc nhiên khi lão để ý nhìn con gái lão. (Hồi ấy, Lida đã tốt
nghiệp trung học, và đã kịp trở thành một cô gái khá xinh). Lão nhìn con, cái
tách đựng nước trà màu hổ phách cứ nảy bần bật trong tay: “Sao nó giống mồ ma
mẹ nó thế. Lạy Chúa tôi, giống như lột ấy!”.
- Lida, nào, quay lại cho bố ngắm cái!
Lão đâu có biết rằng ngay từ nhỏ, con gái lão đã giống mẹ nó
như đúc.
Vladimir Mokhov là một học sinh lớp năm, gầy gò, có khuôn
mặt vàng ệch của một đứa bé bệnh hoạn. Nó đang đi trong sân nhà máy xay. Nó mới
cùng chị nó về đây nghỉ hè chưa được mấy ngày.
Cũng như mọi lần, Vladimir
vừa về nhà là tới thăm ngay nhà máy xay để nhìn ngang nhìn dọc, láng cháng giữa
những người bê bết bột mì, nghe tiếng những cái trục cán, những bánh răng quay
ầm ầm đều đặn, những cu-roa chạy loạt xoạt. Nó phổng mũi trước những lời xì xào
cung kính của mấy người Cô-dắc đến làm phu khuân vác:
- Cậu chủ, sẽ hưởng thừa tự của ông chủ đấy…
Nó đi rón rén, tránh những đống phân bò và những cái xe tải
để rải rác khắp sân. Vladimir
đã ra tới cửa hàng rào mới nhớ rằng nó còn chưa xem phòng máy. Nó bèn quay trở
lại.
Gần một cái phuy đỏ đựng dầu hoả đặt cạnh cửa phòng máy, ba
người đang xắn quần móng lợn lên đến đầu gối, nhào một bãi đất sét tròn rất to:
anh thợ máy cán Timofey, anh thợ cân biệt hiệu là “Bồi” (Một cây trong bộ bài tây, còn gọi là “Trếch”) và
anh phụ thợ cán Davydka, một anh chàng còn trẻ có hàm răng trắng lóa.
- A-a-a, cậu chủ? – “Bồi” chào Vladimir bằng giọng chế nhạo.
- Chào các anh.
- Chào cậu cậu Vladimir Sergeevich!
- Các anh làm gì đấy?
- Nhào bùn chứ còn làm gì nữa. - Davydka cười nhạt bực bội
cố rút chân ra khỏi chất bùn đặc sệt nhớp nháp, sặc mùi phân bò - Ông cụ nhà
cậu tiếc một đồng rúp, không chịu thuê vài mụ đàn bà, lại bắt chúng tôi phải
làm. Thật là thần giữ của! - Davydka nói thêm, hai chân vẫn dẫm ộp oạp.
- Sao lại thần giữ của?
- Còn gì nữa? Hà tiện vắt cổ chày ra nước. Ỉa ra rồi lại ăn
vào được, - Davydka giải thích gọn lỏn rồi lại mỉm cười.
“Bồi” và Timofey cũng cười đồng tình. Vladimir cảm thấy bị xúc phạm đau nhói như
kim châm. Nó nhìn Davydka bằng cặp mắt lạnh như tiền.
- Sao vậy, như thế là anh không vừa ý có phải không?
- Cậu đứng vào đây, nhào một lát rồi sẽ biết. Có thằng ngu
xuẩn nào mà lại vừa ý được? Phải đưa ông cụ nhà cậu tới đây, lắc cho cái bụng
của ông ấy nhỏ bớt đi mới được!
Davydka nặng nề đi vòng tròn, người lắc lư, chân nhấc lên
rất cao. Lúc nầy nụ cười của anh ta đã vui vẻ và chẳng còn chút gì ác ý nữa.
- Được - Nó nói tách bạch từng tiếng, - Tôi sẽ nói lại với
cha tôi rằng các anh bất mãn với công việc.
Nó liếc nhìn vào mặt Davydka và, bất giác kinh ngạc trước
tác động của lời mình vừa nói: Davydka dành môi ra cười gượng gạo nom đến là
thảm hại, còn mặt hai người kia thì nhăn như bị. Cả ba lầm lì nhào đống đất sét
nhão trong một lát, chẳng ai nói gì thêm.
Cuối cùng Davydka không dán mắt xuống hai bàn chân nhớp nhúa
của mình nữa, anh ta ngước nhìn lên và nói bằng một giọng van lơn, nhưng đầy vẻ
bực bội.
- Tôi chỉ nói đùa một câu thôi mà, cậu Vladimir ạ… Thật đấy, chỉ nói cho vui thôi…
- Tôi sẽ thưa lại với cha tôi những lời anh vừa nói.
- Cậu Vladimir! Cậu Vladimir Sergeevich! - Davydka hốt hoảng
kêu lên rồi nhảy ra khỏi đống bùn, làm cho ống quần tụt cả xuống hai cẳng chân
lấm bê bết đến đầu gối.
- Cậu đừng nói với ông chủ nhé. Tôi chỉ nói đùa thôi mà… Tôi
ngu xuẩn quá, xin cậu thứ lỗi cho tôi… Thật đấy, tôi chẳng có ý bậy bạ gì đâu?
Chỉ nói đùa thôi mà…
- Thôi được Tôi sẽ không nói nữa! - Vladimir cau mày quát lên rồi đi về phía cửa
hàng rào.
Thế là ý nghĩ thương hại Davydka đã chiếm phần thắng. Vladimir đi bên dãy hàng
rào sơn trắng, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Từ trong căn lò rèn dựng ở góc sân
nhà máy xay vang ra những tiếng búa đập rộn rã: một nhát trên sắt, trầm và chắc
hai nhát trên cái đe dội tiếng, kèm theo tiếng búa nảy.
- Cậu dây vào nó làm gì hử? - Vladimir đi đã khá xa còn nghe thấy cái giọng
trầm cố nén thấp của “Bồi”. - Không dây vào thì việc gì phải ngửi thối.
“Thằng chó chết nầy, nó lại dám cắn càn, - Vladimir tức sôi lên, nghĩ thầm. - Mình sẽ
nói hay không nói bây giờ”.
Nó ngoái cổ lại, thấy Davydka vẫn nhe hai hàm răng trắng
nhởn ra cười như mọi khi, bèn quyết định: “Mình sẽ nói!”.
Trên cái bãi bên cạnh cửa hiệu có chiếc xe tải thắng một con
ngựa, con ngựa bị buộc vào một cái cột. Một bầy trẻ đang đuổi đàn chim sẻ lông
xám xám ríu rít trên mái nhà kho để các đồ chữa cháy.
Từ trên sân thượng vẳng xuống cái giọng nam trung sang sảng
của gã sinh viên Boiarykin. Ngoài ra còn có một giọng rè rè, khàn khàn, không
biết của ai.
Boiarykin lắc lắc cái đầu cạo nhẵn thín, xám ngoét, nói với
gã giáo viên Balanda ngồi bên cạnh hắn, gã nầy còn trẻ mà đã râu ria xồm xoàm:
- Tôi vốn là con một gia đình nông dân Cô-dắc do đó đã có
sẵn một lòng căm ghét hoàn toàn tự nhiên đối với tất cả các giai cấp được hưởng
đặc quyền đặc lợi, nhưng trong khi đọc cuốn sách của ông ta, thì ông thử tưởng
tượng xem, tôi đã thương hại một cách lạ lùng các tầng lớp đang chết dần chết
mòn nầy. Bản thân tôi đã hầu như biến thành một anh chàng quý tốc và địa chủ,
tôi hân hoan đi sâu nghiên cứu lý tưởng của người phụ nữ thuộc tầng lớp ấy, tôi
ủng hộ các quyền lợi của họ. Tóm lại là chẳng làm thế quái nào hiểu được nữa!
Đấy, ông bạn thân mến ạ, thiên tài là như thế đấy! Ngay đến niềm tin cũng có
thể thay đổi được.
Balanda mân mê cái ngù của chiếc dây lưng lụa, chỉ mỉm một
nụ cười nhạo báng, mắt gã cứ đăm đăm nhìn những đường hoa đỏ thêu bằng sợi len
dưới gấu áo sơ-mi của gã. Linda ngả người nằm thuồn thuỗn trên chiếc ghế bành.
Xem ra cô nàng không cảm thấy chút hứng thú gì đối với câu chuyện giữa hai gã.
Vẫn với cặp mắt lúc nào cũng như đang mất một vật gì, đang tìm kiếm một vật gì,
Lida chán ngán nhìn cái đầu xám ngoét, sẹo ngang sẹo dọc của Boiarykin.
- Con có việc gì đấy?
- Con vừa ở nhà máy xay về… - Nó bắt đầu nói, giọng hơi ngần
ngại, nhưng chợt nhớ tới nụ cười nhạo báng với hàm răng trắng nhởn của Davydka,
bèn vừa nhìn cái bụng căng tròn của bố dưới chiếc ghi-lê bằng tusso, vừa kiên
quyết nói tiếp - Con nghe thấy thằng Davydka nói rằng…
Sergey Platonovich chăm chú nghe rồi nói:
- Ta sẽ đuổi cổ nó. Thôi con ra ngoài đi. - Rồi lão è è
trong họng, cúi xuống nhặt con dao.
Tối tối, giới trí thức trong thôn thường tụ tập ở nhà Sergey
Platonovich: Boiarykin, một sinh viên trường Đại học kỹ thuật Moskva; gã giáo
viên ho lao Balanda, một anh chàng gầy nhom, luôn luôn bị cái thói tự ái làm
tình làm tội, ả nhân tình cùng ở với gã là nữ giáo viên Marfa Gerasimovna,
người tròn xoay, tuổi không còn ít nữa nhưng chẳng có vẻ gì là già, cái váy lót
bao giờ cũng mặc thòi ra ngoài, nom hết sức khó coi; chủ sự nhà dây thép, một
thằng cha cổ quái, vợ chẳng có, con thì không, người hôi như tổ cú luôn luôn
nặc mùi xi đóng dấu và mùi nước hoa rẻ tiền. Viên trung úy kỵ binh trẻ tuổi
Epghênhi Litnhitki ở cái trại gần đây với bố là một địa chủ quý tộc, năm thì
mười họa cũng có tạt vào chơi.
Chiều chiều họ lên sân thượng uống trà và kéo dài những câu
chuyện vô vị. Mỗi khi cái chuỗi những lời tán gẫu thẫn thờ đứt quãng, một người
nào đó trong đám khách khứa lại ra lên dây cót cái máy hát đắt tiền nạm đá quý
của chủ nhà.
Họa hoằn lắm, nhân những ngày lễ lớn, Sergey Platonovich
cũng muốn làm ra vẻ một chút để che mắt thế gian: lão mời khách đến ăn, cho họ
uống những thứ rượu quý, cho ăn trứng cá chiên tươi đặc biệt đặt mua trong dịp
này ở Bataisk cùng những đồ nhắm ngon nhất.
Ngày thường thì lão sống rất bủn xỉn. Chỉ có một thứ duy
nhất mà Sergey Platonovich không tiếc đối với lão là sách. Lão thích đọc sách
và điều gì lão cũng muốn tìm hiểu bằng bộ óc bám dai như cỏ dại của lão.
Người chung vốn buôn bán với Sergey Platonovich là Emelian
Konstatinovich Atepin, một người tóc vàng, có chòm râu nhọn hoắt và cặp mắt
lươn ti hí. Ít khi Atepin đến nhà Mokhov. Hắn lấy một mụ nữ tu đã bỏ nhà tu kín
Ust-Medvedisk. Hai vợ chồng ăn ở với nhau mười lăm năm trời, đẻ được tám đứa
con. Phần nhiều hắn chỉ ru rú xó nhà. Atepin đã từ một tên thư ký trung đoàn
leo lên một địa vị nào đó trong xã hội, vì thế hắn đã đem về gia đình cả một
lối sống mốc meo, khúm núm, xu nịnh. Có mặt bố, những đứa con chỉ dám đi rón
rén, nói thầm thì. Sáng sáng, lau rửa xong, chúng nó lại vào đứng xếp hàng
trong phòng ăn, bên dưới chiếc đồng hồ treo tường đen sì, to lù lù như một cái
quan tài. Người mẹ đứng sau đàn con. Từ trong phòng ngủ vừa vẳng ra tiếng húng
hắng ho là tất cả đều bắt đầu lao nhao nguyện kinh bằng đủ mọi giọng, nhưng
giọng nào cũng giả dối: “Lạy Chúa, cầu Chúa cứu vớt con chiên của Chúa…”, rồi “Lạy
cha”.
Vợ con Atepin vừa nguyện kinh xong thì hắn cũng vừa kịp mặc
xong quần áo. Hắn nheo cặp mắt lá răm bước ra phòng ăn, rồi giơ bàn tay mũm mĩm
không đeo găng, làm cứ như một ông tổng giám mục. Bầy trẻ lần lượt tới hôn tay
bố. Atepin hôn qua má vợ, rồi nói với âm “tr” phát âm rất sai.
- Bà Polotka, đã pha “chà” chưa?
- Tôi pha rồi đấy, ông Emelian Konstatinovich ạ.
- Cho đặc đặc vào nhé!
Hắn giữ sổ sách kế toán của cửa hiệu. Dưới những chữ “Thu”
và “Chi” viết đậm nét, trong sổ nào cũng đầy những chữ và con số viết rất bay
bướm, những chữ và con số của một viên thư ký. Lão đọc tờ “Tin tức thị trường”,
mắt chẳng sao mà cũng kẹp vào cái mũi sần sùi một cặp kính không gọng. Đối với
người làm hắn nói năng rất lịch sự
- Bác Ivan Petrovich, bác để giúp cho cái ông người Tavria (Tavria xưa nay là Krym)
này ít vải chúc bâu nhé.
Vợ hắn gọi hắn là ông Emelian Konstatinovich, các con hắn
gọi hắn là cha yêu, còn người làm trong cửa hiệu thì gọi hắn là Chacha (Biệt hiệu nầy chế giễu cái
tật của Atepin nói trệch âm “tr” thành âm “ch”)
Hai lão cố đạo là cha Visarion và trưởng giáo Pankrati thì
có thù cũ nên không đi lại chơi bời với Sergey Platonovich. Nhưng trong cuộc
sống hai người cũng chẳng ăn ý gì với nhau. Cha Pankrati vốn tính ngang ngạnh,
hay thưa kiện và hay xúi nguyên giục bị, chia rẽ những người sống gần mình. Cha
Visarion tính tình lại hồ hởi nên không thích và lảng tránh trưởng giáo vì lão
thấy trưởng giáo quá kiêu ngạo và chỉ hay kiếm chuyện. Cha Visarion góa vợ,
sống với một mụ quản gia người Ukraina. Lão bị giang mai nên nói cứ ồm ồm giọng
mũi.
Trừ gã giáo viên Balanda, tất cả mọi người đều có nhà riêng
trong thôn. Ngay trên bãi, ngôi nhà to lù lù sơn xanh da trời của Mokhov đứng
vênh vang với cái mái tôn bóng nhoáng. Trước mặt, ngay giữa bãi, cửa hiệu của
lão nằm dài ngang ngạnh với cái cửa thông suốt và tấm biển treo đã bạc màu: “HÃNG
BUÔN MOKHOV S.P VÀ ATEPIN E.C”
Sát cạnh cửa hiệu là dãy nhà kho có hầm vừa dài vừa thấp.
Cách đó chừng hai mươi xa-gien là bức tường bao bằng gạch ôm quanh nhà thờ như
một cái nhẫn, cùng ngôi nhà thờ có cái mái hình cầu nom chẳng khác gì một củ
hành khổng lồ màu xanh lá cây đã quá già.
Bên kia nhà thờ là ngôi nhà trường quét vôi trắng, trang
nghiêm với cái dáng của một công thự. Ngoài ra còn có hai ngôi nhà đẹp: ngôi
nhà màu xanh da trời có dãy hàng rào sơn cùng màu của cha Pankrati, còn ngôi
nhà màu nâu (cho khỏi giống) có dãy tường bao chạm trổi và một cái ban-công rất
rộng là của cha Visarion. Ngôi nhà nhỏ của Atepin, xây hai tầng, cầu kỳ nhưng
dơ dáng, nằm từ góc phố này đến góc phố kia. Sau ngôi nhà này là nhà bưu điện,
những cái mái rơm hay mái tôn trên những căn nhà của bà con Cô-dắc, cái lưng
xuôi xuôi của nhà máy xay với những con gà trống bằng sắt tây gỉ trên mái.
Mọi người sống tự cách biệt với toàn thế giới bên ngoài, cửa
ngoài cửa trong đều cài then đóng kín. Tối tối, nếu không đi thăm ai, người ta
lại chốt cửa, thả những con chó xích, và trong cái thôn chết lặng chỉ còn nghe
thấy tiếng mõ cầm canh của tuần phiên.
2
Đến cuối tháng tám, Mitka Korsunov lại ngẫu nhiên được gặp
Lida, con gái lão Mokhov bên bờ sông Đông. Nó vừa ở bên kia sông về còn đang
cho thuyền tiến vào sát một gốc cây cụt thì thấy một chiếc thuyền nhỏ sơn màu
nhẹ nhàng rẽ nước lướt tới. Con thuyền bơi từ đằng chân núi về phía bến đò. Gã
sinh viên Boiarykin cầm chèo. Mồ hôi lóng lánh trên cái đầu trần của gã, những
đường gân xanh nổi lên cả trên trán lẫn hai bên thái dương.
Mitka đã không nhận ra ngay Lida. Chiếc mũ rơm in một cái
bóng xanh xanh xám xám xuống tới mắt Lida. Hai bàn tay rám nắng của Lida áp vào
ngực một bó hoa súng vàng vàng.
- Anh Korsunov! - Lida nhìn thấy Mitka, bèn khẽ gật đầu. -
Anh đã nói dối tôi phải không?
- Có gì mà nói dối?
- Anh có nhớ không, anh đã hứa đi câu với tôi cơ mà?
Boiarykin quẳng mái chèo xuống, rướn thẳng lưng. Con thuyền
lao bừa vào bờ, mũi thuyền siết ràn rạt vào lớp đá phấn ven bờ và húc mũi lên
đất.
- Anh nhớ ra chưa nào? - Lida mỉm cười nhảy ra khỏi thuyền.
- Chẳng còn lúc nào mà đi được nữa. Công việc bận quá, -
Mitka vừa chống chế, vừa nhìn cô gái đi về phía mình. Nó cảm thấy nghẹt thở.
- Không? Không thể thế này được! Cô Elizaveta Sergeyeevna ạ,
tôi xin kiếu thôi. Nầy chèo, nầy lái, trả lại cô đây, tôi không làm đầy tớ cho
cô nữa đâu! Cô thử nghĩ mà xem, người ta đã phải vượt một chặng dài như thế nào
trên cái dòng nước đáng nguyền rủa nầy rồi. Chèo đến thành chai, đến bật máu
tay tôi ra rồi còn gì. Chốc chốc lại một anh chàng!
Boiarykin giậm rắn rỏi hai bàn chân không trên lớp đá phấn
vụn nhọn như gai, rồi đưa cái đỉnh mũ sinh viên nhăn nhúm lên lau trán.
Lida chẳng buồn trả lời gã, cứ đi thẳng tới gần Mitka. Mitka
nắm một cách vụng về bàn tay Lida chìa ra.
- Thế bao giờ chúng ta đi câu cá nào? - Lida ngửa đầu ra, dim
mắt hỏi.
- Ngày mai cũng được. Lúa đã đập xong, bây giờ đi được rồi.
- Anh lại đánh lừa tôi phải không?
- Không, không đâu!
- Anh đến sớm chứ?
- Trước lúc trời rạng.
- Tôi sẽ chờ đây.
- Tôi sẽ đến, thật đấy, thế nào tôi cũng đến!
- Anh chưa quên phải gõ vào cửa sổ nào chứ!
- Tôi sẽ tìm ra, - Mitka mỉm cười.
- Có lẽ không bao lâu nữa tôi không còn ở đây nữa. Tôi cũng
muốn thử đi câu một cái.
Mitka lặng thinh quay quay chiếc chìa khóa thuyền han rỉ và
cứ nhìn trân trân cặp môi của Lida.
- Chuyện sắp xong chưa nào? - Boiarykin vừa hỏi vừa xem một
cái vỏ trai lằn vằn trong tay gã.
- Chúng mình đi ngay bây giờ đây.
Lida nín lặng một lát, rồi không hiểu sao tự nhiên mỉm cười
và hỏi:
- Nhà anh vừa có đám cưới ai thì phải?
- Em gái tôi vừa lấy chồng.
- Lấy ai thế? - Hỏi xong, chưa chờ Mitka trả lời, Lida đã
mỉm một nụ cười ỡm ờ, khó hiểu. - Thế nào anh cũng đến nhé!
Cũng như hôm ấy, trong lần đầu tiên, trên sân thượng của nhà
Mokhov, nụ cười của Linda lại làm cho Mitka ngứa ngáy như xát phải lá han.
Mitka đưa mắt tiễn cô gái ra tới thuyền. Boiarykin dạng chân
đẩy thuyền ra. Lida nhìn qua đầu Boiarykin, mỉm cười gật đầu chào Mitka. Lúc
nầy anh chàng vẫn nghịch nghịch chiếc chìa khóa.
Ra khỏi bờ chừng năm xa-gien, Boiarykin khẽ hỏi:
- Thằng cha nào thế?
- Người quen.
- Bạn lòng phải không?
Mitka cố nghe thấy hai người nói chuyện với nhau, nhưng đến
câu trả lời của Lida thì tiếng chốt mái chèo rít đã làm cho nó không nghe rõ.
Nó chỉ thấy Boiarykin gò người đẩy mái chèo rồi ngả ra sau phá lên cười. Lida
ngồi quay lưng lại nên Mitka không nhìn thấy mặt Lida ra sao. Một cái dải mũ
màu tím ngát thõng xuống, gió thổi rất nhẹ làm cái dải rung rung khẽ đập vào
bên vai xuôi xuôi để trần. Mắt Mitka mờ đi, nhưng cái dải tím vẫn cứ như chọc
vào mắt nó.
Mitka rất ít khi đi câu nên chưa bao giờ người ta thấy nó
sửa soạn sốt sắng như chiều hôm ấy. Nó bẻ vài miếng phân khô rồi ra vườn rau
nấu ít cháo đặc bằng lúa mạch. Dây câu đã ẩm mục, nó thay ngay.
Mikhey đứng xem Mitka sửa soạn. Hắn hỏi:
- Cậu Mitka cho tôi đi với. Một mình không câu được đâu.
- Một mình vẫn câu được.
Mikhey thở dài:
- Lâu lắm cậu cháu mình chưa đi câu với nhau. Chưa biết
chừng lần này có thể câu được con cá chép đến nửa pút đấy. (Một pút bằng 16,38kg)
Cháo trong chiếc nồi gang bốc lên thành một cột hơi nóng
hổi, làm Mitka nhăn mặt. Nó chẳng nói chẳng rằng, sửa soạn xong vào nhà trong.
Cụ Grisaka đang ngồi bên cửa sổ đọc sách Phúc âm (Một trong hai phần của Kinh
thánh, ghi những lời nói và việc làm của Giêsu), một cái kính
gọng đồng mắt tròn chồm chỗm trên mũi cụ.
- Ông ơi! - Mitka tựa vai vào cái đà ngang trên cửa sổ gọi.
Cụ Grisaka nhìn ngước lên qua phía trên mắt kính.
- Cái gì hử?
- Sáng mai gà gáy xong đợt đầu thì ông gọi cháu nhé.
- Mới bảnh mắt như vậy mày đã định đi đâu hử?
- Cháu đi câu!
Ông cụ thích ăn cá lắm nhưng vẫn vờ như không bằng lòng:
- Bố mày bảo ngày mai còn phải đập đay cơ mà. Không chơi bời
nghịch ngợm gì cả? Hừ, kiếm được một buổi đi câu!
Mitka có ngay mẹo đối phó. Nó rời vai khỏi mi cửa:
- Cháu đi hay không thì cũng thế thôi. Chỉ muốn có con cá để
ông xơi. Nhưng nếu phải đập đay thì cháu chẳng đi nữa vậy.
- Hượm cái đã. Mày định đi đâu bây giờ hử? - Cụ Grisaka
hoảng lên, vội bỏ kính xuống. - Tao sẽ bảo với thằng Miron, mày cứ đi cũng
được. Nấu món cá ám, chén cái cũng thú, ngày mai lại vừa đúng là thứ tư (Ngày kiêng ăn thịt).
Thôi được, tao sẽ gọi mày dậy. Đi đi, đi đi, đồ ngu xuẩn! Làm gì mà nhăn nhăn
nhở nhở như thế hử?
Mới nửa đêm cụ Grisaka đã mò mẫm lần xuống những bậc thềm.
Một tay cụ xốc cái quần bằng vải thô, còn tay kia chống nạng dò đường. Cụ qua
sân ra nhà thóc, chập chờn như một bóng ma run rẩy. Mitka đang ngáy o o trên
một tấm chăn đắp chân trên xe. Cụ lấy nạng chọc nó. Trong nhà thóc nặc mùi lúa
mới đập, mùi cứt chuột và mùi mạng nhện lưu cữu, chua chua, của những nơi không
có người ở.
Mitka nằm trên chăn, bên cạnh vựa thóc. Đánh thức được thằng
này đâu phải chuyện chóng vánh. Đầu tiên cụ Grisaka còn khẽ lấy nạng chọc nó,
gọi nhỏ:
- Nào thằng Mitka của ông! Mitka! Nầy, cái thằng chết tiệt,
Mitka!
Mitka co chân, ngáy càng dữ hơn. Ông cụ bực mình lấy cái đầu
nạng tròn ngoáy trên bụng nó, rồi ngoáy xuống như một mũi khoan.
Mitka ối chà một tiếng nắm lấy đầu nạng, tỉnh dậy:
- Ngủ gì mà mê mệt? Ngủ thế nầy không sợ có ngày tai họa à!
- Ông cụ chửi.
- Khẽ chứ nào, khẽ chứ nào, ông đừng làm rầm lên nữa, -
Mitka vừa khẽ nói, giọng còn ngái ngủ, vừa sờ soạng dưới đất tìm đôi ủng.
Mitka ra tới bãi. Gà trong thôn đã gáy đợt hai. Nó đi dọc
theo dãy phố, qua nhà cha Visarion thì nghe thấy trong chuồng gà, con gà trống
đã vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy ồm ồm như giọng của một lão đại tư tế.
Những con gà mái cũng hoảng sợ khẽ cục cục rộn cả lên.
Gã tuần phiên đang rúc mũi vào cái cổ áo lông cừu ấm áp, ngủ
gà ngủ gật ngay trên bậc thềm thấp nhất của cửa hiệu. Mitka đi tới bên hàng rào
nhà Mokhov, đặt cần câu và cái túi đựng các đồ đi câu khác xuống đất, rồi cố
rón chân cho mấy con chó khỏi nghe thấy, bước lên thềm. Nó đặt tay lên quả đấm
cửa lạnh ngắt, thấy cửa đã đóng chặt, bèn leo qua lan can, tới bên cửa sổ. Hai
cánh cửa sổ nửa khép nửa mở. Qua khe cửa đen ngòm thoảng cái mùi ngầy ngậy toát
ra từ tấm thân ấm ấm của một cô gái đang ngủ và một mùi nước hoa ngọt ngọt là
lạ.
- Cô Elizaveta Sergeyeevna!
Mitka có cảm tưởng như nó gọi to lắm. Nó chờ một lát. Vẫn
lặng như tờ. “Sao thế nhỉ, sao lại nhầm cửa sổ được nhỉ? Nếu chính lão chủ hiệu
nằm ở đây thì sao? Thế thì bỏ mẹ… Lão sẽ cho mình ăn đạn mất”. - Mitka ấn vào
quả đấm trên cánh cửa sổ!
- Cô Elizaveta Sergeyeevna, dậy đi câu đi. - Và nghĩ thầm - “Nhầm
cửa sổ thì tha hồ mà câu!”.
- Có dậy đi không nào? - Mitka tức giận nói rồị ngó cổ vào
trong phòng.
- Gì thế? Ai đấy? - Trong bóng tối có tiếng người hoảng hốt
khẽ trả lời.
- Cô có đi câu cá không? Tôi đây, Korsunov đây.
- Á-à-à tôi dậy ngay đây.
Trong phòng bắt đầu có tiếng loạt soạt: Giọng Lida ngái ngủ,
ấm áp hình như thoáng có mùi bạc hà. Mitka nhìn thấy một cái gì trắng trắng
loạt soạt đi lại trong phòng.
“Chà vào nằm với nó nốt buổi sáng thì khoái nhỉ… Câu với
kiếc làm cái gì… Ra ngồi ngoài ấy, cóng bỏ mẹ…”. Mitka hít hít cái hơi trong
căn phòng ngủ, trong óc thoáng những ý nghĩ không rõ rệt.
Trong khung cửa sổ thấy hiện ra một khuôn mặt tươi cười, đầu
bịt một khăn choàng trắng.
- Tôi ra qua cửa sổ, anh đỡ tôi một tay.
- Cô cứ trèo qua đi. - Mitka đỡ Lida.
Lida tỳ vào tay Mitka và nhìn sát vào mắt Mitka.
- Anh xem tôi có nhanh không nào?
- Không sao cả. Còn kịp chán.
Hai người đi ra sông Đông. Lida đưa bàn tay hồng hồng lên
dụi cặp mắt mòng mọng và nói:
- Tôi ngủ say quá. Đáng lẽ phải ngủ thêm một lát mới phải.
Chúng ta đi sớm quá đấy.
- Đi thế này là vừa đấy.
Hai người xuống sông Đông theo cái ngõ đầu tiên trên bãi.
Ban đêm không biết có nước từ đầu dồn về mà con thuyền hôm qua buộc vào gốc cây
khô, hôm nay đã tròng trành, chung quanh toàn là nước.
- Phải cởi giày ra thôi, - Lida đưa mắt ước lượng khoảng
phải lội ra tới con thuyền và thở dài.
- Hay tôi bế cô ra nhé? - Mitka đề nghị.
- Như vậy không tiện đâu… Để tôi cởi giầy thì hơn.
- Như thế tiện hơn chứ.
- Không nên đâu - Lida ngập ngừng, đỏ mặt.
Mitka đưa luôn tay trái ra ôm lấy hai chân Lida phía trên
đầu gối, nhẹ nhàng bế bổng Lida lên, rồi lội xuống nước, bì bõm đi ra con
thuyền. Lida miễn cưỡng ôm lấy cái cổ rám nắng, chắc nịch của Mitka, khẽ cười
khúc khích.
Bờ sông có tảng đá trên đó những người đàn bà trong thôn
thường dùng chày đập quần áo giặt. Nếu Mitka không vấp phải tảng đá ấy thì đã
chẳng có cái hôn chớp nhoáng bất ngờ nầy. Lida ối chà một tiếng, áp chặt vào
cặp môi khô nẻ của Mitka. Lúc ấy Mitka đang đứng cách mạn thuyền sơn xám có hai
bước. Nước tràn vào trong ủng, hai chân lạnh cóng.
Mitka tháo dây buộc thuyền, ra sức đẩy con thuyền rời khỏi
gốc cây cụt rồi nhảy lên trong lúc con thuyền đang trôi ra. Nó chèo đứng bằng
một mái chèo ngắn. Nước sau đuôi thuyền lọc ọc như nức nờ. Mũi thuyền hơi ngổng
lên, nhẹ nhàng rẽ làn nước, hướng về phía bờ bên kia. Cái cần câu nảy bần bật,
kêu lạch xạch.
- Anh định cho thuyền đến đâu? - Lida ngoái nhìn lại rồi
hỏi.
- Sang bờ bên kia.
Con thuyền đến đậu ở một khoảng bờ cát dốc. Mitka chẳng nói
chẳng rằng, bế thốc luôn Lida vào một bụi sơn trà ven sông. Lida cắn vào mặt
Mitka, cào cấu nó, hai lần nghẹn ngào kêu lên, nhưng rồi cảm thấy chân tay mình
rã rời, đành bực tức khóc òa lên, nhưng chẳng có giọt nước mắt nào…
Hai người trở về lúc khoảng chín giờ. Một làn sương vàng
hồng hồng phủ khắp trời. Gió như khiêu vũ trên sông Đông, làm mặt nước sờm cả
lên. Con thuyền chồm qua những làn sóng cuộn ngang trước mặt. Những dòng nước
giá lạnh chảy xối lên từ dưới đáy sông bắn tóe vào khuôn mặt nhợt nhạt của
Lida, rồi chảy ròng ròng xuống, đọng lại trên hai hàng mi, trên những món tóc
tuột ra ngoài chiếc khăn bịt đầu.
Lida mệt mỏi nheo nheo cặp mắt trống rỗng, mấy ngón tay khẽ
bẻ cuống một đóa hoa mang theo lên thuyền. Mitka không nhìn Lida, cứ cắm cúi
chèo, một con cá chép nhỏ và một con cá diếc nằm sóng soài dưới chân nó. Trong
lúc giãy chết, miệng hai con cá đờ ra, những con mắt lồi ra trong vành mắt vàng
da cam. Trên mặt Mitka thoáng một vẻ ngượng ngùng của kẻ có tội, niềm thoả mãn
trong lòng nó xen lẫn một nỗi lo lắng…
- Tôi đưa Lida về bến Semenovaya nhé. Từ đấy về nhà Lida gần
hơn. - Mitka vừa nói vừa quay thuyền cho trôi theo dòng.
- Cũng được, - Lida khẽ nhận lời.
Trên bờ sông không một bóng người. Những dãy hàng rào quanh
các vườn rau ven sông đầy bột cá phấn, nom khô héo tiều tụy dưới những làn gió
nung nấu, và cứ làm không khí nồng nặc cái mùi củi cháy. Những đóa hướng dương
chín rũ, bị chim sẻ mổ nham nhở, nặng nề trĩu đầu xuống đất, để rơi những hạt
long ra. Bãi cỏ hoang ven sông hiện ra xanh ngắt như ngọc bích với lớp chồi mới
nhú sau lần cắt cỏ vừa qua. Xa xa mấy con ngựa non nô rỡn, làn gió nồm nam đưa
tới bờ sông tiếng nhạc buộc trên cổ ngựa rền lanh lảnh như tiếng cười.
Lida bước trên thuyền xuống, Mitka đưa cho Lida một con cá:
- Cá câu được Lida cầm lấy này. Nào?
Lida sợ hãi chớp chớp hai hàng mi, nhưng cũng nhận.
- Thôi, tôi về đây.
- Lida về nhé…
Lida ra về, một lòng bàn tay quay ra ngoài xách con cá xâu
bằng một nhành liễu nhỏ, nom thật thảm hại. Cái vẻ tự tin và vui cười mới đây
đã bỏ lại cả trong bụi sơn trà rồi.
- Lida?
Lida quay lại, trong cặp lông mày gãy khúc có thể thấy cả
một tâm trạng vừa tức giận vừa ngạc nhiên.
- Lại đây cái đã.
Khi Lida đã bước tới gần hơn, Mitka vừa nói vừa bực mình vì
bối rối:
- Lúc nãy chúng mình không chú ý… ấy, đằng sau váy… có một
vết nhỏ rất nhỏ thôi…
Mặt Lida đỏ bừng, đỏ lan xuống tận xương đòn gánh.
Mitka nín lặng một lát rồi khuyên:
- Đi vòng ra sau nhà về vậy.
- Nhưng dù sao vẫn phải đi qua bãi. Tôi đã định mặc một cái
váy đen cơ đấy, - Lida khẽ nói, rồi buồn rầu nhìn vào mặt Mitka và bất giác cảm
thấy căm ghét nó lạ.
- Để tôi lấy lá bôi xanh đi nhé? - Mitka góp ý một cách giản
đơn, nhưng nó ngạc nhiên thấy nước mắt Lida trào ra.
Cái tin “Con gái Sergey Platonovich đã bị Mitka Korsunov
chơi chán chê” được truyền đi khắp thôn như cơn gió xào xạc trong rừng.
Chuyện ấy được bọn đàn bà bàn ra tán vào trong ngõ lúc trời
rạng, khi họ đuổi đàn bò ra đồng, dưới cái bóng dài nghêu chìm trong làn bụi
xám của cái cần kéo nước giếng, khi họ đổ nước trong thùng ra, hay bên bờ sông,
quanh những phiến đá tự nhiên, khi họ đập quần áo đem giặt.
- Con không có mẹ thì thế thôi.
- Lão ấy bận tối mắt tối mũi, còn con mẹ kế thì cứ lờ đi như
chẳng hay biết gì cả…
- Hôm kia lão phu tuần Davydka “Tay
thiếu ngón” có kể lại rằng: “Nửa đêm tôi nhìn ra thì thấy có kẻ leo lên khung
cửa sổ cuối cùng. Chà, tôi cứ ngỡ có trộm vào nhà Platonovich. Tất nhiên tôi đã
chạy tới. Ai thế nầy? Cảnh sát đây, lại đây mau? Té ra vớ đúng ngay cu cậu đúng
cái thằng Mitka”.
- Các cô ấy bây giờ thì vẫy tay một cái là theo ngay…
- Thằng Mitka có viết thư cho thằng Mikiska nhà tôi. Nó
viết: “Mình sẽ xin cưới”.
- Bảo nó vắt mũi cho sạch đã!
- Người ta nói rằng thằng ấy cưỡng dâm con bé?
- Thôi đi ông bạn đỡ đầu ơi!
Như những vết nhựa chưng đặc xịt quệt trên một cái cửa gỗ
mới, những lời bàn tán truyền lan trong ngõ ngoài đường như thế đã bôi tro trát
trấu lên thanh danh cô gái.
Những lời ấy đã đổ xuống cái đầu hói của Sergey Platonovich,
dúi nó xuống bùn đen. Hai ngày hai đêm liền lão không dám vác mặt ra cửa hàng,
cũng không tới nhà máy xay. Người đầy tớ gái ở tầng dưới chỉ trông thấy lão lúc
sắp ăn trưa.
Đến ngày thứ ba người ta thắng con ngựa xám đốm hoa vào
chiếc xe thi cho Sergey Platonovich lên trấn. Gặp bà con Cô-dắc trên đường, lão
gật cái đầu kiêu ngạo như không cho phép người ta lại gần. Theo sau cái xe thi,
một chiếc xe nhẹ kiểu Viên sơn véc-ni bóng nhoáng lạo xạo chạy trong sân ra.
Anh đánh xe Emelian cầm lại cho thuận những đoạn dây cương bằng lụa màu lam.
Trong miệng anh ta, cái tẩu cong đẫm nước bọt làm cháy cả chòm râu hoa râm. Cặp
ngựa huyền lồng lên, bắt đầu chạy lộp cộp theo dọc phố. Sau cái lưng rất phẳng
của Emelian, người ta nhìn thấy khuôn mặt nhợt nhạt của Lida. Một chiếc va-li
nhẹ xách trong tay, Lida mỉm một nụ cười chẳng có gì vui vẻ, vẫy găng tay chào
từ biệt Vladimir
và mẹ kế.
Ông Panteley Prokofievich khập khiễng đi trong cửa hiệu ra
cũng muốn biết có chuyện gì xảy ra, bèn hỏi anh đầy tớ Nikita:
- Cô tiểu thư của ông chủ đi đâu thế anh?
Nikita cũng chiếu cố cái nhược điểm đơn giản của con người
là tính tò mò, bèn trả lời:
- Lên học trên Moskva, vào đại học đấy.
Ngay hôm sau đã xảy ra một chuyện mà người ta còn kể đi kể
lại mãi ven sông Đông, dưới bóng những cái cần kéo nước giếng, cũng như trong
cái ngõ dành cho gia súc ra đồng… Lúc trời sắp tối, (đàn bò đã được đuổi từ đồng
cỏ về thôn), Mitka đến nhà Sergey Platonovich (anh chàng cố ý đến muộn để khỏi
có người trông thấy), đâu phải là đến chơi suông mà là để hỏi lấy cô Elizaveta,
con gái nhà người ta.
Trước hôm ấy, Mitka có gặp Lida bốn lần, chỉ bốn lần là cùng
thôi. Trong lần cuối, giữa hai người đã có một cuộc trao đổi như thế nầy:
- Lida về làm vợ tôi nhé, thế nào?
- Chuyện ngớ ngẩn!
- Tôi sẽ thương Lida, sẽ chiều Lida… Việc nhà đã có đủ người
làm, Lida sẽ chỉ ngồi bên cửa sổ đọc sách thôi.
- Anh xuẩn lắm.
Mitka giận lắm không nói gì nữa. Tối hôm ấy, nó về nhà rất
sớm.
Sáng hôm sau, Miron Grigorievich rất ngạc nhiên khi thấy
thằng con đến nói với ông:
- Cha đi hỏi vợ cho con đi.
- Mày vội quá đấy.
- Con nói thật đấy, không đùa đâu.
- Mày không nhịn được nữa à?
- Đâu phải chuyện ấy…
- Thế thì mày mê đứa nào, mê con Marfuska dở người có phải
không?
- Cha đánh mối đến nhà Sergey Platonovich cho con.
Miron Grigorievich đặt rất cẩn thận con dao cắt da xuống
chiếc ghế dài (ông đang chữa một đoạn đai mông ngựa) rồi phá lên cười:
- Con ạ, hôm nay cha thấy mày nhộn quá đấy.
Chẳng khác gì một con bò mộng húc tường, Mitka vẫn khăng
khăng không nghe. Người bố nổi xung:
- Đồ ngu xuẩn! Nhà Mokhov vốn liếng có tới hơn mười vạn; họ
là một nhà buôn, còn mày là cái thớ gì? Xéo ngay cho khuất mắt tao, đừng có giở
cái trò ngớ ngẩn như thế nữa, nếu không sẵn có cái đai mông ngựa này, tạo lại
cho luôn chú rể một trận bây giờ!
- Nhà ta cũng có mười bốn đôi bò, cơ ngơi đường hoàng như
thế này, dù sao Sergey Platonovich cũng chỉ là một lão mu-gích, còn nhà ta lại
là người Cô-dắc.
- Xéo ngay! - Miron Grigorievich ra lệnh gọn lỏn, ông vốn
không thích nhiều lời.
Mitka chỉ tìm được sự đồng tình ở cụ Grisaka. Ông cụ khập
khiễng đi đến trước mặt con trai và chống nạnh cái nạng xuống đất.
- Miron!
- Có việc gì thế cha?
- Sao mày lại phản đối hử? Nếu con bé ấy đã hợp với thằng
Mitka…
- Cha ạ, cha cũng quá là trẻ con, thật thế đấy! Thằng Mitka
đã ngu xuẩn, mà cha cũng thật là kỳ quặc…
- Câm ngay cái mồm! - Cụ Grisaka đập nạng xuống sàn. - Chẳng
nhẽ nhà ta không môn đăng hộ đối với nhà nó hay sao? Nó phải lấy làm vinh dự
được con trai một người Cô-dắc đến hỏi con gái nó mới phải. Nó phải gả ngay con
bé cùng với mọi thứ hồi môn mới đúng. Nhà ta là những người mà toàn khu đều
biết tiếng. Đâu phải là phường khố rách áo ôm, ít nhất cũng có người ăn người ở
hẳn hoi! Chẳng thế thì còn gì? Thôi đi đi, Miron, không nói gì nữa? Bảo nó đem
cái nhà máy xay làm của hồi môn đi. Đi hỏi đi.
Miron Grigorievich phì một cái rồi bỏ ra sân. Còn Mitka thì
quyết định chờ đến tối sẽ tự đi hỏi vợ lấy. Nó đã biết cái tính cố chấp không
thể lay chuyển của bố, cứ như một cây dâu da đã mọc rễ sâu: muốn uốn một chút
thì còn được, chứ tìm cách bẻ thì đừng hòng.
Trước khi tới cái cổng lớn, Mitka còn vừa đi vừa huýt sáo.
Nhưng vừa đến đấy thì nó bỗng thấy ngài ngại. Nó đứng lại một lát rồi đi qua
cái sân. Lên đến thềm, nó hỏi một chị đầy tớ gái mặc chiếc tạp dề hồ bột kêu
loạt soạt:
- Ông chủ có nhà không chị?
- Ông nhà đang uống trà. Anh chờ một lát.
Mitka ngồi đợi. Nó hút hết điếu thuốc, dính nước bọt vào đầu
ngón tay bóp tắt rồi dí nát mẩu còn lại trên sàn. Sergey Platonovich bước ra,
lão vừa đi vừa phủi những miếng bích qui vụn trên áo gi-lê. Trông thấy Mitka,
lão cau mày:
- Anh vào trong này.
Mitka đi trước vào căn phòng làm việc mát rượi, nặc mùi sách
và mùi thuốc lá, và nó bỗng cảm thấy rằng tất cả cái vốn dũng khí tích sẵn từ
nhà chỉ đủ cho nó đi tới ngưỡng cửa căn phòng làm việc nầy thôi.
Sergey Platonovich bước tới bên cạnh cái bàn, rồi xoay mình
trên hai gót giày rít như hai cái trục.
- Nào nói đi? - Lão chắp tay sau lưng, những ngón tay lão
cào lên tấm ván của cái bàn viết.
- Tôi định đến hỏi xem… - Mitka cảm thấy như nó bị chìm
trong cái chất lầy nhầy lạnh như tiền của cặp mắt đang xoắn vào nó như lưỡi
khoan. Nó so vai như bị lạnh, - Có lẽ ông có thể gả Elizaveta cho tôi?
Quyết tâm liều mạng, lòng căm tức và khiếp hãi làm hiện ra
trên khuôn mặt đầy vẻ bối rối của Mitka vài giọt mồ hôi lấm tấm như những giọt
sương ngày hạn hán.
Hàng lông mày bên trái của Sergey Platonovich run lên. Lão
nhe nanh, môi trên cong lật lên, để lộ mặt trong môi đỏ tía. Rồi lão vươn cổ
ngả hẳn về phía trước:
- Cái gì? Cái gì hư-ứ-ừ? Đồ đểu cáng! Cút ngay! Mày thì đáng
bị xách cổ lên ông ataman? Đồ chó đẻ? Đồ bẩn thỉu!
Càng thấy lão kia hét to, Mitka càng cảm thấy mình thêm can
đảm. Nó theo dõi những đợt máu xanh tím dồn lên cổ Sergey Platonovich.
- Xin ông đừng bực mình… Tôi chỉ muốn bù đắp việc mình đã
làm sai.
Sergey Platonovich long hai con mắt mọng những máu và nước
mắt, lão ném một cái gạt tàn thuốc lá đúc nguyên tảng bằng gang xuống trước mặt
Mitka. Khối gang đập xuống đất, bật lên trúng xương bánh chè chân trái của
Mitka. Nhưng Mitka dũng cảm chịu đau, đẩy mạnh cánh cửa. Vừa tức vừa đau, Mitka
càng liều mạng, nó nhe nanh quát lớn:
- Ông Sergey Platonovich, ông muốn thế nào tùy ông, còn tôi
đến đây chỉ vì thực lòng… Con gái ông đã như thế thì còn ai muốn vời đến nữa?
Tôi chỉ muốn che đậy cho cái danh dự… Một miếng ăn thừa thì thử hỏi còn ai
thèm. Có họa là chó.
Sergey Platonovich vo tròn một chiếc khăn tay, tự bịt lấy
miệng, rồi chạy theo sát gót Mitka. Lão chặn đường ra cổng lớn, còn Mitka thì
chạy ra sân. Gã đánh xe Emelian đang đứng ở đấy. Sergey Platonovich đưa mắt cho
Emilian. Trong khi Mitka đang loay hoay với cái then cài rất chắc trên cửa xép
hàng rào thì từ trong một góc nhà kho bốn con chó vừa được tháo xích xồ ra.
Thấy người lạ, chúng lao thẳng qua cái sân quét sạch như lau.
Năm 1910, Sergey Platonovich mua được ở chợ phiên Nhigiơnhi
về hai con chó con, một con đực, một con cái. Cả hai đều mõm to, lông đen và
quăn, mới một năm đã lớn như thổi, bằng con bê đầy năm. Đầu tiên hai con chó
chỉ xé váy những người đàn bà đi qua nhà Mokhov, nhưng sau chúng đã biết vật họ
xuống đất mà cắn đùi. Mãi khi chúng cắn chết con bê của cha Pankrati và một đôi
lợn sữa giống quý của Atepin, Sergey Platonovich mới ra lệnh xích lại. Hai con
chó chỉ được thả ban đêm, ngoài ra mỗi năm một lần, đến mùa xuân, lại được cho
nhảy nhau.
Mitka chưa kịp quay mặt lại thì đã bị con đầu tiên tên là
Baian chồm hai chân lên vai, cắn chặt lấy cái áo bông ngắn. Bốn con chó thi
nhau cắn xé, con lôi bên nầy, con kéo bên kia, tất cả quay lộn thành một đống
đen xì. Mitka dùng tay chống cự, cố giữ cho mình khỏi ngã. Nó thoáng thấy
Emilian đóng sập cái cánh cửa sơn, bỏ đi vào trong bếp, những tàn lửa trên cái
píp của hắn bắn vung ra chung quanh.
Trên một góc thềm, Sergey Platonovich đứng tựa lưng vào ống
máng, nắm chặt hai bàn tay nhỏ bé trắng hếu, đầy những sợi lông cứng đen nhánh.
Mitka lảo đảo, cố mở chốt cửa. Hai chân đẫm máu của nó lôi theo sau đàn chó cắn
nhặng xị, mùi chó vừa nóng vừa hôi xông lên nồng nặc, Mitka bóp họng con Baian
đến chết, còn mấy con kia thì những người qua đường phải vất vả lắm mới xua
được vào nhà để cứu Mitka.
3
Natalia sống hoà hợp ngay với gia đình Melekhov. Miron
Grigorievich thật biết dạy con. Tuy giàu có, và ngoài các con ra trong nhà còn
có người làm, nhưng ông vẫn bắt các con ông phải lao động cho quen công quen
việc. Natalia hay lam hay làm nên được mẹ chồng quý mến. Daria thích làm dáng
làm đỏm nên bà Ilinhitna ghét ngầm con dâu trưởng. Còn Natalia thì mới vài ngày
đầu, bà đã yêu quý nàng ngay.
- Cứ ngủ nữa đi, cứ ngủ nữa đi, con yêu của mẹ? Mày làm gì
mà dậy sớm thế? - Bà vừa lê cặp chân to đần đẫn đi lại trong bếp, vừa âu yếm
khẽ bảo con dâu. - Lại vào trong nhà đi, cứ ngủ đến sáng đi, không có mày công
việc vẫn làm xong cơ mà!
Natalia đã dậy từ tảng sáng để giúp công việc bếp núc. Nàng
nghe nói thế lại vào nhà trong ngủ thêm.
Ông Panteley Prokofievich vốn rất nghiêm khắc đối với gia
đình, thế mà ông cũng thường bảo vợ:
- Bà mày có nghe thấy không, đừng gọi con Natalia dậy nhé.
Ban ngày nó tối mắt tối mũi như thế là đủ rồi. Lại còn phải sắp sửa đi cày với
thằng Griska nữa. Còn cái con Daria, con Daria thì phải quật cho nó mới xong.
Đàn bà gì mà ườn thây ườn xác, hư thân mất nết… Hết đánh má hồng lại tô lông
mày, cái con chó đẻ.
- Năm đầu hãy cho chúng nó hú hí với nhau đã, - Bà Ilinhitna
thở dài nhớ lại cuộc đời lao động cực nhọc của mình.
Grigori cũng dần dần có phần quen quen với cuộc sống mới của
chàng, cuộc sống của một kẻ có vợ.
Nhưng sau chừng ba tuần, chàng vừa bực bội vừa hoảng sợ nhận
thấy rằng trong thâm tâm, mình vẫn chưa cắt đứt được hẳn với Acxinhia, và trong
lòng vẫn còn sót một cái gì như một cái gai. Mà nỗi đau khổ ấy thì không phải
ngày một ngày hai mà gạt bỏ được. Grigori đã từng đinh ninh rằng trong hoàn
cảnh có vợ, được sống thỏa mãn, mình sẽ gạt bỏ được hết dễ như trở bàn tay: tất
cả rồi cũng sẽ quên đi… Nhưng đến nay chàng lại thấy là không thể nào quên được
và mỗi khi nhớ lại thì vết thương lại rỉ máu. Ngay từ hồi còn chưa cưởi, có lần
Petro đã hỏi Grigori trong lúc đập lúa trên sân:
- Griska à, mầy định sẽ như thế nào với con Acxinhia?
- Sao cơ chứ?
- Có lẽ bỏ thì thương?
- Tôi bỏ thì lại có người nhặt chứ sao? - Hôm ấy Grigori còn
cười mà nói thế.
- Nhưng mày phải cẩn thận đấy. - Petro nhay nhay một đám ria
nhai đã nát nhừ. - Nếu không mày lấy vợ thật không đúng lúc.
- Ăn no béo mầm, việc gì chẳng quên. - Grigori pha trò.
Nhưng rồi tình hình đâu có diễn ra như thế. Đêm đêm, trong
khi Grigori làm nhiệm vụ người chồng âu yếm vuốt ve vợ, trong khi chàng cố
truyền cho Natalia cái lửa tình ngùn ngụt của tuổi trẻ, thì lại chỉ gặp thấy về
phía Natalia một thái độ lạnh lùng, vâng chịu ngượng ngùng. Việc vợ chồng đi
lại với nhau, Natalia làm rất miễn cưỡng, vì ngay từ khi lọt lòng, nàng đã được
mẹ truyền cho một dòng máu thờ ơ hờ hững, chảy như rất chậm. Nhớ lại cái kiểu
yêu đương đến cuồng dại của Acxinhia, Grigori thở dài:
- Natalia à, chắc hẳn ông cụ nhà em đã làm bà cụ nhà em thụ
thai ra em trên băng… Em băng giá quá chừng.
Còn Acxinhia thì mỗi lần gặp Grigori, nàng đều mỉm một nụ
cười ỡm ờ, tròng con mắt đục đi, giọng nói dính như keo:
- Chào anh, anh Griska yêu quý! Lấy cô vợ trẻ như thế, nâng
niu chìu chuộng nhau thế nào?
- Vẫn sống như thường thôi. - Grigori trả lời qua loa cho
xong chuyện, và chỉ mong mau chóng thoát khỏi ánh mắt ve vuốt của Acxinhia.
Stepan thì hình như đã làm lành với vợ. Anh ta đã bớt la cà
ở quán rượu và một buổi chiều, trong khi quạt thóc trên sân đập lúa, lần đầu
tiên sau chuyện lục đục vừa qua, Stepan bảo vợ:
- Acxiutca à, ta thử hát một bài đi!
Hai vợ chồng ngồi dựa lưng vào đống lúa mạch mới đập xong
còn đầy bụi. Stepan cất giọng hát một bài của lính, Acxinhia hòa theo bằng một
giọng rất cao, rất mạnh, phát ra từ trong ức. Hai người hát rất ăn giọng, cứ
như đang sống lại tuần trăng mật.
Lại có lần, trong khi ráng chiều phủ khắp cánh đồng một làn
ánh sáng đỏ tía, Stepan đi làm đồng về ngồi lắc lư trên chiếc xe tải, kéo dài
giọng hát một bài cổ, giọng hát trường và buồn, như con đường trên cánh đồng cỏ
hoang vu đầy cỏ dại, không một bóng người. Acxinhia ngả hẳn đầu lên bộ ngực nở
nang của chồng, hát tiếp. Hai con ngựa kéo chiếc xe chạy cót két, gọng xe lắc
sang bên nầy rồi lại lắc sang bên kia. Từ xa, mấy cụ già trong thôn lắng nghe
bài hát:
- Stepan kiếm được cô vợ đến là tốt giọng.
- Nghe mà xem… họ hát ăn giọng quá!
- Cả giọng của Stepan cũng tốt nhỉ, sang sảng như tiếng
chuông ấy!
Mấy cụ già ngồi trên những bức tường đất đắp quanh nhà đưa
tiễn ánh chiều đỏ rực, mung lung sương khói nói vọng với nhau qua đường phố:
- Họ đang hát bài của trung đoàn Nizovsky đấy.
- Ông bạn đồng ngũ ạ, bài nầy được soạn ở Gruzia.
- Mồ ma bác Kiriuska thích bài nầy lắm!
Chiều nào Grigori cũng nghe thấy hai vợ chồng nhà Astakhov
cùng hát với nhau (sân đập lúa nhà Grigori nằm sát sân đập lúa nhà Stepan). Mỗi
lần đập lúa, chàng lại nhìn thấy Acxinhia với cái vẻ tự tin, hình như hạnh phúc
như xưa. Ít nhất là chàng có cảm tưởng như thế.
Stepan không chào hỏi những người trong nhà Melekhov nữa.
Anh ta vác cái chàng nạng đi đi lại lại trong sân, cặp vai rộng nhưng xuôi khẽ
động đậy, và thỉnh thoảng lại nói đùa với vợ một câu.
Acxinhia cười, cặp mắt đen láy long lanh dưới khăn bịt đầu.
Grigori nhắm mắt lại vẫn thấy cái váy màu xanh lá cây của Acxinhia gợn sóng
trước mắt. Một sức mạnh vô hình cứ xoay cổ của Grigori, làm cho chàng chốc chốc
lại quay đầu nhìn sang sân nhà Stepan.
Chàng không biết rằng tuy Natalia đang giúp ông Panteley
Prokofievich xếp các bó lúa, nhưng lần nào nàng cũng bắt gặp cái nhìn không tự
chủ của chồng bằng cặp mắt vừa buồn vừa ghen.
Grigori cũng không thấy rằng trong khi đuổi mấy con ngựa
chạy vòng tròn, Petro hếch mũi nhìn mình với một nụ cười châm biếm kín đáo.
Giữa những tiếng ầm ì trầm trầm (tiếng rên siết của mảnh đất
bị hành hạ dưới những quả lăn bằng đá), đầu óc Grigori rối bời với những ý nghĩ
mung lung. Chàng cố tìm cách nắm những mảnh ý nghĩ vụn vặt trơn tuồn tuột lẩn
trốn ý thức, nhưng không tài nào năm nổi.
Từ những sân đập lúa ở gần cũng như ở xa, tiếng đập lúa,
tiếng trẻ chăn bò đuổi đàn bò, tiếng roi quất đen đét, tiếng hòm quạt thóc kêu
phành phạch, vẳng tới rồi lại tan đi trên bãi cỏ hoang ven sông.
Thôn xóm béo đẫy ra trong ngày mùa nằm đê mê dưới cái nắng
tháng chín mát rượi trải ra trên sông Đông như con rắn thuỷ tinh nằm vắt ngang
đường. Trong mỗi căn hộ nằm giữa những dãy hàng rào, dưới mỗi mái nhà đều có
một cuộc sống riêng quay tít như con thò lò, một cuộc sống sôi nổi, đầy đắng
cay ngọt bùi, tách biệt với các cuộc sống khác: cụ Grisaka bị lạnh, đang đau
khổ vì đau răng; Sergey Platonovich quỵ xuống sau cái nhục vừa qua, đang đưa
hai tay lên vo chòm râu chải tẽ sang hai bên, và cứ nghiến răng, khóc thầm một
mình; Stepan vẫn mang nặng trong lòng mối thù với Grigori, đêm đêm lại vò nát
cái chăn đã rách bươm trong hai bàn tay rắn như thép; Natalia chạy vào nhà kho,
lăn mình xuống đống phân khô, nằm co quắp, khóc nức nở vì hạnh phúc của mình bị
người ta phá hoại; Khristonhia đi chợ phiên, đem số tiền bán con bê ăn nhậu
sạch, đang bị lương tâm dày vò; Grigori đau khổ vì những dự cảm trong khi các
thèm khát của chàng chưa được thoả mãn, và vì vết thương lòng lại mở miệng,
đang thở dài thườn thượt; Acxinhia vừa vuốt ve đi lại với Stepan vừa tưới nước
mắt lên lòng căm thù không sao nguôi được đối với chồng. Chàng thợ cán bột
Davydka bị đuổi khỏi nhà máy xay ngồi thâu đêm trong căn nhà đắp bằng đất trộn
rơm của “Bồi”. “Bồi” long lanh hai con mắt đầy căm hờn nói:
- Khô-ô-ông, khô-ô-ông thể như thế được. Chẳng bao lâu nữa
người ta sẽ cắt mạch máu của chúng nó. Đối với chúng nó thì một cuộc cách mạng
còn chưa đủ. Chúng nó sẽ phải nếm lại cái năm một nghìn chín trăm linh năm lần
nữa (Ý muốn
nói cuộc cách mạng tư sản thất bại ở nước Nga năm 1905), lúc
đó chúng ta sẽ tính sổ? Chúng ta sẽ tính
sổ! – “Bồi” giơ một ngón tay đầy sẹo lên dọa rồi nhún vai sửa lại cái áo
vét-tông khoác trên lưng.
Nhưng thời gian vẫn trôi qua trên thôn xóm, hết ngày lại
đêm, hết tuần nầy qua tuần khác. Hết tháng nọ qua tháng kia. Gió vẫn thổi, trời
dông bão vẫn làm những ngọn núi ầm ầm tiếng sấm, và sông Đông in hình bầu trời
thu xanh trong suốt vẫn thờ ơ trôi ra biển.
4
Đến cuối tháng mười, vào một ngày chủ nhật, Fedot Bodovskov
đánh xe lên trấn.
Hắn mang ra chợ bốn đôi vịt béo căng nhốt trong một cái
lồng, bán được hết rồi vào hiệu mua cho vợ ít vải hoa rất diêm dúa. Hắn đã tì
chân vào vành bánh xe, siết chặt đoạn dây buộc dưới cổ ngựa, sắp sửa ra về, thì
vừa lúc ấy có một người dân vùng khác, không phải là trong trấn, bước tới:
- Chào bác! - Người ấy đưa những ngón tay ngăm ngăm lên vành
chiếc mũ dạ đen chào Fedot.
- Chào bác! - Fedot nheo cặp mắt xếch như mắt người Kalmys,
nói lí nhí qua kẽ răng, chờ xem có chuyện gì.
- Bác ở đâu đến thế?
- Tôi ở dưới thôn lên, không phải người ở đây đâu.
- Thế bác ở thôn nào vậy?
- Thôn Tatarsky.
Người lạ kia lấy trong túi bên ra một cái hộp thuốc lá bằng
bạc, nắp hộp có chạm hình một chiếc thuyền nhỏ. Anh ta mời Fedot hút điếu thuốc
và hỏi tiếp:
- Thôn ta có to không bác?
- Cám ơn bác, tôi vừa hút xong. Thôn chúng tôi ấy à! Một
thôn khá đấy. Có lẽ chừng ba trăm hộ.
- Có nhà thờ không?
- Còn sao nữa, phải có chứ.
- Có thợ rèn không?
- Lò rèn ấy à? Lò rèn cũng có đấy.
- Thế nhà máy xay đã có xưởng nguội chưa?
Con ngựa không chịu đứng yên, Fedot phải giữ chặt dây cương.
Hắn nhìn một cách không thân thiện cái mũ dạ đen cùng những vết nhăn trên khuôn
mặt trắng bệch của người lạ, các vết nhăn nầy đều hướng cả vào chòm râu đen
ngăn ngắn.
- Bác cần gì mà hỏi thế?
- Tôi chuyển đến ở thôn bác đây. Tôi vừa ở chỗ ông ataman
trấn ra. Bác về xe không à?
- Vâng, xe không.
- Bác cho tôi về cùng nhé. Nhưng tôi không phải chỉ đi một
mình đâu, còn cả nhà tôi và hai chiếc hòm chừng tám pút.
- Về cùng cũng được thôi.
Tiền xe ngã giá là hai rúp. Fedot đánh xe đến nhà mụ làm
bánh mì vòng Frotka, nơi người đi nhờ xe của hắn thuê phòng, đón một người đàn
bà tóc vàng, gầy yếu lên xe, rồi khiêng hai chiếc hòm đánh đai sắt đặt lên phía
sau xe.
Ra khỏi trấn. Fedot chặc lưỡi, vung đoạn dây cương bện bằng
lông đánh con ngựa nhỏ nhưng chạy rất khỏe. Chốc chốc hắn lại quay cái đầu méo
mó trên cái gáy phẳng đứng để nhìn lại: hắn không cưỡng nổi tính tò mò. Hai
người khách đi xe của hắn ngồi khiêm tốn phía sau, chẳng nói chẳng rằng. Đầu
tiên Fedot xin đốt điếu thuốc rồi hỏi.
- Hai bác từ đâu về ở thôn chúng tôi thế?
- Từ Rostov.
- Cố cựu ở đấy à?
- Bác bảo sao?
- Tôi hỏi bác ở sinh quán ở đấy à?
- À, phải phải, tôi vốn người ở đấy, ở Rostov .
Fedot ngẩng hai gò má màu đồng thau, nhìn kỹ những đám cỏ
dại mọc xa tít trên đồng cỏ: con đường của các Ghết-man kéo dài tới chỗ ngoặc,
và trên sống đồi, trong đám cỏ khô nâu nâu, cách con đường chừng nửa vec-xta,
cặp mắt giàu kinh nghiệm, tinh như mắt người Kalmys đã nhận ra những cái đầu
nhỏ xíu của vài con vịt trời đang di động rất khó thấy.
- Tiếc là không mang súng, nếu không chúng ta đã tạt vào đấy
kiếm vài chú vịt trời. Bác trông nó đang đi kia kìa… - Fedot thở dài giơ tay
chỉ.
- Tôi chẳng thấy gì cả. - Người khách đi xe thú nhận, hai
con mắt anh ta hấp háy như mắt người thong manh.
Fedot đưa mắt theo dõi mấy con vịt trời sà xuống một cái
khe, rồi quay lại nhìn người thuê xe. Khách là một người tầm thước, xương
xương, có hai con mắt linh lợi long lanh rất gần chỗ tinh mũi lồi lên. Trong
khi nói chuyện, anh ta rất hay cười. Người vợ quấn một chiếc khăn choàng đan
tay, ngủ gà ngủ gật. Fedot không trông thấy mặt người đàn bà.
- Vì sao mà hai bác phải đến ở thôn chúng tôi?
- Tôi làm thợ nguội, muốn đến mở một cửa hiệu thợ nguội. Tôi
còn làm cả đồ mộc.
Fedot nhìn hai bàn tay to bè bè của người khách đi xe, có ý
nghi ngại. Người kia bắt gặp ánh mắt của Fedot bèn nói thêm:
- Tôi cũng làm thêm đại lý cho hãng “Singer” cung cấp máy
khâu.
- Thế tên bác là gì? - Fedot hỏi.
- Họ của tôi là Stokman.
- Có lẽ bác không phải là người Nga?
- Không, tôi là người Nga đấy. Nhưng ông nội tôi gốc ở Latvia .
Chỉ một lát sau, Fedot đã được biết rằng anh thợ nguội
Stokman Yosif Davidovich trước kia làm việc ở nhà máy “Acxai”, sau đó đến một
nơi nào đó ở Kuban, rồi vào làm tại xưởng sửa chữa đường sắt Đông Nam. Ngoài ra
Fedot vốn tính tò mò còn hỏi được thêm rất nhiều chi tiết về cuộc đời của anh
ta.
Xe chạy tới rừng cấm thì câu chuyện cạn dần. Con ngựa chạy
đã toát mồ hôi, Fedot cho nó uống nước ở một cái giếng bên cạnh đường Xe lắc
trên chặng đường bắt đầu làm Fedot thần ra, hắn ngủ gà ngủ gật. Từ đây về đến
thôn còn chừng năm vec-xta.
Fedot cuộn dây cương, thõng chân, ngả người ra cho thoải
mái. Nhưng hắn đã không được chợp mắt.
- Vùng ta sinh sống như thế nào hả bác? - Stokman bị lắc rất
ghê, cứ nảy chồm chồm trên ghế, nhưng anh ta vẫn hỏi.
- Chúng tôi vẫn sống, vẫn có bánh mì ăn.
- Bà con Cô-dắc nói chung có vừa ý với cuộc sống không?
- Có người vừa ý, có người thì không. Làm thế nào mà tất cả
mọi người đều vừa ý được?
- Đúng đấy, đúng đấy… - Người thợ nguội tỏ vẻ đồng ý. Anh ta
nín lặng một lát rồi lại đưa ra những câu hỏi như có hàm một ý ngầm gì đó - Bác
bảo mọi người đều no đủ à?
- Cuộc sống cũng khá sung túc.
- Nhưng có lẽ công việc nhà binh cũng là một gánh nặng đấy
nhỉ? Có phải không?
- Công việc nhà binh ấy à? Chúng tôi đã quen rồi. Còn sống
thì còn nằm trong quân số.
- Tai hại nhất là người Cô-dắc phải tự trang bị lấy tất cả.
- Còn sao nữa, mẹ chúng nó chứ! - Fedot bắt đầu hăng lên.
Hắn liếc nhìn có ý nghi ngại người đàn bà lúc này đã quay đầu sang bên.- Với
cái bọn quan lớn như thế thì thật là tai họa… Hồi tôi đi lính, phải bán mấy con
bò đi sắm một con ngựa. Nhưng họ mang đi khám xong lại bảo là không đủ tiêu
chuẩn.
- Bảo là không đủ tiêu chuẩn à? - Người thợ nguội vờ ngạc
nhiên.
- Hoàn toàn đúng thế đấy. Họ bảo chân có khuyết tật. Tôi cố
nài: “Xin các ngài cứ nhận cho. Bốn chân nó có gì khác một con ngựa thi giật
giải. Chỉ có điều là nước kiệu chạy nom giống con gà trống… Nó có cái nước kiệu
kiểu gà trống mà lại”. Nhưng họ vẫn không nhận. Thế là hết nghiệp!
Câu chuyện nói mỗi lúc một thêm rôm rả. Mải mê với câu
chuyện, Fedot vui vẻ nhảy từ trên xe xuống, sẵn sàng kể về bà con trong thôn,
hết chửi lão ataman thôn về chuyện chia bãi cỏ không công bằng, lại khen hết
lời lối làm ăn ngăn nắp ở Ba Lan, nơi trung đoàn của Fedot đóng trong thời gian
hắn ở đơn vị. Fedot đi bên cạnh xe. Hai con mắt sắc như dao nheo lại rất nhỏ
của người thợ nguội nhìn khắp người hắn. Anh ta hút một thứ thuốc lá nhẹ bằng
một cái bót xương trên có những cái vòng nhỏ, một nụ cười luôn nở trên môi.
Nhưng chéo ngang vầng trán hơi dốc, da rất trắng, có một vết nhăn hằn sâu, vết
nhăn này di động chậm chạp, nặng nề, cứ như bị đẩy lên đẩy xuống từ bên trong
bởi những ý nghĩ gì thầm kín.
Xe về tới thôn trước khi trời hoàng hôn.
Theo lời khuyên của Fedot, Stokman xuống xe trước nhà mụ góa
Lukeska Popopa và thuê của mụ hai gian phòng.
- Bác đưa ai từ trên trấn về đấy? - Mấy mụ láng giềng đã chờ
Fedot ở cổng để hỏi.
- Một người đại lý.
- Đại lý gì cơ chứ?
- Chà ngốc gì mà ngốc khổ ngốc sở! Tôi xin nói cho các bà
các chị biết rằng người đại lý này bán máy khâu. Ai đẹp được biếu không, còn
xấu như thím, thím Maria ạ, thì phải trả tiền.
- Đồ quỷ dữ tay chuối mắn như bác mà cứ tưởng mình đẹp đẽ
lắm đấy phỏng. Cái mặt Kalmys của bác thì cứ nhìn mà tởm… Đến ngựa cũng chẳng
dám gần: trông thấy đã đủ khiếp.
- Này thím chớ tưởng đùa, trên thảo nguyên thì chỉ có người
Kalmys và người Tarta là nhất đấy thôi! - Fedot cố chống chế rồi bỏ đi.
Anh thợ nguội Stokman đã dọn xong chỗ ở tại nhà mụ Lukeska,
một người đàn bà vừa lác vừa lắm mồm. Anh ta chưa kịp ngủ yên một đêm, khắp
thôn đã thấy bọn đàn bà bàn ra tán vào.
- Này bà bạn đỡ đầu, bác đã nghe thấy chuyện chưa?
- Chuyện gì thế?
- Gã Kalmys Fedot đưa ở đâu về một thằng Đức đấy.
- Thật ư?
- Tôi dám thề trước Đức Mẹ là đúng như thế đấy! Đội mũ dạ,
tên là Stôpôn hay Stôcan gì đó…
- Hay là mật thám?
- Nhân viên phòng thuế đấy, bà bạn thân mến ạ.
- I-i i các bà các chị ạ, thiên hạ nói láo tuốt. Nghe nói
hắn ta làm kế “xoán” (toán) cũng như cậu cả con cha Pankrati thì phải.
- Paska, con yêu của mẹ, mày thử chạy đến tìm bác Lukeska,
hỏi bác ấy khẽ khẽ thôi nhé: “Bác ơi, xe đưa ai về nhà bác thế?”.
- Chạy ù lên nhé, thằng bé đến là ngoan!
Hôm sau, người mới đến ngụ cư tới gặp lão ataman thôn.
Fedor Manykov giữ cái gậy ataman đến nay đã được ba năm. (Mỗi
ataman các cấp đều có một cái gậy tượng trưng chức quyền của mình )
Lão lật đi lật lại mãi trong tay tờ giấy thông hành bọc vải
dầu đen. Rồi đến lượt viên thư ký Egor Zakov cũng lật lật xem qua. Hai tên đưa
mắt cho nhau, rồi theo thói quen của một viên quản kỵ binh, lão ataman trịnh
trọng khoát tay:
- Ông được ở lại đây.
Người mới đến cúi chào rồi ra ngoài. Suốt một tuần liền anh
ta chẳng ló mặt đi đâu, cứ sống ru rú như một con chuột đồng trong hang. Bắt
đầu có tiếng rìu đẽo chan chát, rồi xưởng thợ nguội được đặt trong gian bếp mùa
hè, bỏ không từ lâu. Bọn đàn bà trước kia tò mò dò hỏi không biết chán, đến nay
không còn để ý gì nữa, chỉ còn bầy trẻ là ngày nào cũng leo lên hàng rào nhìn
người khách lạ của thôn.
5
Vợ chồng Grigori đi cày ba ngày trước lễ Đức Mẹ (Theo
lịch của người Nga lễ Đức Mẹ vào ngày mồng một tháng mười).
Ông Panteley Prokofievich bị mệt cũng ra đưa tiễn. Ông chống cái nạng, chỗ thắt
lưng đau quá chốc chốc lại làm ông kêu lên.
- Griska à, mày hãy cày trước hai mảnh sau bãi chăn bò chung
ở cái khe nước Đỏ ấy nhé.
- Vâng, vâng. Thế còn cái khoảng ở gần bờ Vách Liễu thì sao?
- Grigori khẽ hỏi, khàn khàn. Chàng đi câu bị cảm, phải quấn một cái khăn quanh
cổ.
- Qua lễ Đức Mẹ hẵng hay. Đi một lần cày hai mảnh ấy đủ rồi.
Chỗ gần khe nước Đỏ cũng đến một kruk rưỡi rồi đấy. Đừng quá tham. (Một
kruk bằng bốn héc ta. (Lời chú của bản tiếng Nga)
- Thế anh Petro không đến giúp thêm à?
- Nó với con Daria còn phải ra nhà máy xay. Hôm nay phải xay
cho xong, nếu không sẽ quá lượt mất.
Bà Ilinhitna giúi vào trong cái áo ngắn của Natalia vài cái
bánh mềm và khẽ bảo nàng:
- Hay bảo con Dunhiaska đi thêm cho nó đánh bò?
- Hai chúng con làm cũng được rồi.
- Thôi cẩn thận nhé, con yêu của mẹ. Cầu Chúa che chở cho
con.
Dunhiaska khiêng một đống quần áo ướt, nặng quá oằn cả cái
lưng mảnh dẻ. Cô bé chạy qua sân để ra sông giũ.
- Chị Natasa, chị Natasa yêu quý, ở khe nước Đỏ quả toan mô
mọc nhiều lắm đấy, chị nhớ hái về đấy! (Quả toan mô đốt ra than có thể dùng để giặt quần áo)
- Ừ chị sẽ hái, chị sẽ hái.
- Câm ngay, léo nha léo nhéo như con mẹ ranh! - Ông Panteley
Prokofievich vung cái nạng.
Ba cặp bò mộng kéo lê trên đường cái cày gieo hạt lật ngửa,
vạch hằn một vệt trên mặt đất vốn đã rắn lại bị khí trời mùa thu thiếu mưa làm
càng rắn thêm. Grigori húng hắng ho đi bên lề đường, thỉnh thoảng lại sửa cái
khăn cuốn cổ. Natalia đi bên cạnh Grigori, túi thức ăn lủng lẳng sau lưng.
Ra đến ngoài thôn, không khí trên đồng cỏ lặng như tờ, vừa
trong vừa lạnh. Sau bãi chăn nuôi chung, sau ngọn gò nom như cái lưng gù những
lưỡi cày đang xới tung mặt đất, trẻ chăn bò huýt sáo ầm ĩ nhưng ở đây, hai bên con
đường cái nầy, chỉ có những bụi ngải cứu thấp lè tè màu xanh da trời lốm đốm
như tóc hoa râm, những bụi linh lăng hương dại cừu cắn nham nhở, những đám
gô-riu-nốc (Một
thứ rau đắng ỏ vùng sông Đông) khom khom như người làm lễ ở
nhà thờ, ngoài ra chỉ có bầu trời dội tiếng, trong vắt như thuỷ tinh, mỗi lúc
một lạnh. Loáng thoáng có những cái mạng nhện lấp loáng màu ngọc quý bay lơ
lửng.
Sau khi đưa tiễn hai vợ chồng Grigori đi cày, Petro và Daria
cũng sửa soạn ra nhà máy xay. Petro treo một cái máy sàng trong nhà thóc, bắt
đầu quạt thóc. Daria đổ thóc vào những chiếc bao tải, mang ra chiếc britka.
Ông Panteley Prokofievich thắng ngựa xong còn sửa lại rất
cẩn thận các đồ thắng.
- Đã sắp xong chưa?
- Chúng con xong ngay đây, - Petro trả lời vọng ra từ trong nhà
thóc.
*
Tại nhà máy xay, mọi người đang luân phiên đưa bột vào xay.
Những chiếc xe tải đỗ san sát trên cái sân. Người ta chen
nhau quanh bàn cân. Petro ném dây cương cho Daria rồi nhảy trên chiếc britka
xuống.
- Sắp đến số của tôi chưa? - Petro hỏi “Bồi” đang đứng ở bàn
cân.
- Anh đến vừa kịp đấy.
- Đang xóa số bao nhiêu thế?
- Ba mươi tám.
Petro ra khiêng những bao thóc xuống. Giữa lúc ấy trong nhà
cân bỗng vang lên tiếng chửi nhau. Không biết người nào quát lên, giọng khàn
khàn, hung hãn, nghe như tiếng chó sủa:
- Ngủ cho béo mắt để quá lượt, bây giờ còn muốn leo lên à?
Cút ngay đi, đồ khô-khon, không ông nện cho bây giờ!
Petro nghe giọng, đoán là gã Yakov Móng ngựa bèn chú ý lắng
nghe thêm. Trong phòng cân có tiếng kêu to vang ra qua cửa.
Rồi có tiếng một miếng đòn rất gọn, và từ trong cửa phòng,
một người Tavria râu xồm đã có tuổi lăn vật ra, cái mũ lưỡi trai đen tụt xuống
sau gáy.
- Sao mày đánh tao? - Người ấy ôm lấy một bên má, kêu lên.
- Ông không cho mày gãy răng không xong!
- Không dễ đâu, mày chờ đấy sẽ biết!
- Mikíchvo, lại đây?
Hồi Yakov đi lính, một hôm gã đóng móng ngựa, bị con ngựa
lồng lên, đá vào mặt. Gã bị dập cái mũi, toạc cả môi, và cái móng ngựa đã in
hình trên mặt gã. Vết thương để lại một cái sẹo hình bầu dục, xám ngoét, những
cái đinh nhọn cũng in những chấm đen, vì thế mới có cái biệt hiệu Móng ngựa.
Yakov Móng ngựa vốn là tay pháo thủ can đảm, vạm vỡ. Gã xắn tay áo, chạy trong
cửa ra. Một người Tavria cao lớn, mặc sơ-mi màu hồng, đuổi theo, giáng cho gã
một quả đấm nên thân. Móng ngựa lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được.
- Anh em ơi, chúng nó đánh người Cô-dắc!
Như bị dốc trong ống tay áo ra, những người Cô-dắc và người
Tavria đổ xô từng đám, từng đám từ trong cửa nhà máy xay ra khoảng sân ngổn
ngang xe cộ. Trước đó họ đã kéo tới đây từng toán đông.
Cuộc loạn đả nổ ra ở ngay cổng chính. Cái cửa kêu răng rắc
vì bị bao nhiêu thân người ùa ra cùng xô mạnh. Petro ném bao thóc xuống, kêu
lên rồi lon ton chạy về phía phòng máy xay. Daria nhổm người trên xe, nhìn thấy
Petro xô gạt những người gần anh ta, len vào giữa đám. Đến khi thấy Petro bị
đấm dồn vào tường, bị đánh ngã xuống và bị đạp túi bụi, Daria kêu rầm lên,
Mitka Kosevoi nhảy cỡn từ trong góc phòng máy ra, tay vung một chiếc bù-loong
sắt.
Chính người Tavria lúc nãy đánh vào sau lưng Móng ngựa, bây
giờ chạy vùng ra khỏi đám người, một tay áo màu hồng rách toạc đập lõng thõng
sau lưng hắn như cái cánh con chim bị thương. Hắn khom lưng xuống thật thấp,
hai tay quệt xuống đất, chạy tới chiếc xe tải đầu tiên, rồi tháo ra rất dễ dàng
một cái càng. Trên sân nhà máy xay ầm ầm những tiếng la thét kéo dài, khản cả
giọng:
- A-a-a-a…
- Ôi -i-i…
-A-i-i-a-a-a!...
Tiếng đánh đấm. Tiếng đập phá. Tiếng rên la. Tiếng gào rú…
Ba anh em nhà Samin ở trong nhà chúng chạy ra. Gã cụt tay
Aleksey vướng chân vào những đoạn dây cương không biết có ai ném ra, ngã lăn
xuống chỗ cái cửa xép ở hàng rào. Nhưng gã chồm ngay dậy, nhét bên tay áo rỗng
vào bụng, và nhảy qua những chiếc gọng xe đặt san sát. Gã Marchin, em của
Aleksey thấy một ống quần của gã tuột ra ngoài chiếc bít tất trắng bèn cúi
xuống định nhét lại, nhưng giữa lúc ấy, từ bên nhà máy xay vang tới một tiếng
rú.
Không biết tiếng người nào kêu mà bay vút lên rất cao trên
cái mái rất dốc của nhà máy xay, như một cái mạng nhện bị cuốn đi trong cơn gió
lốc, Marchin lại đứng thẳng dậy, vùng chạy theo Aleksey.
Daria đứng trên xe cứ vặn ngón tay, thở hổn hển nhìn ra
chung quanh. Chỗ nào cũng có tiếng phụ nữ rít the thé hoặc gào khóc ầm ĩ. Những
con ngựa hoảng sợ vểnh tai, những con bò đứng sát vào những chiếc xe tải và xe
britka kêu rống lên… Sergey Platonovich mím môi mím lợi khập khiễng chạy qua,
mặt cắt không còn hột máu, cái bụng tròn xoay như một quả trứng khổng lồ lúc
lắc dưới chiếc áo gi-lê. Daria trông thấy gã người Tavria mặc chiếc áo sơ-mi
màu hồng rách tả tơi cầm chiếc càng xe phạt ngã Mitka Korsunov, nhưng chính gã
cũng ngã lăn kềnh ra, chiếc càng xe bị gãy văng khỏi tay. Gã Aleksey cụt tay
dẫm chân lên gã người Tavria và giáng xuống gáy gã những nắm đấm nặng như chì.
Những cảnh đòn hội chợ không đầu không đũa diễn ra loang loáng trước mắt Daria
như những mảnh giẻ rách muôn màu. Sergey Platonovich vừa chạy qua, Mitka
Korsunov quì luôn dậy, cho lão một cú bù loong sắt.
Daria thấy vậy, chẳng ngạc nhiên chút nào. Sergey
Platonovich vươn hai tay lên trời ngoáy loạn xạ, rồi bò lổm ngổm về phía nhà
cân như một con tôm. Lão bị những chân người dẫm lên lăn kềnh ra… Daria phá lên
cười như hóa dại, cặp lông mày tô đen hình vòng cung cong gập hẳn lại. Nhưng
mắt Daria bỗng bắt gặp Petro thế là tiếng cười rồ dại tắt ngấm. Petro lảo đảo
len ra khỏi đám người đang ngả nghiêng gào rú, lần đến nằm dưới gầm một chiếc
xe tải và nhổ ra một bãi máu. Daria gào lên, chạy bổ tới chỗ chồng. Trong khi
đó, dân Cô-dắc trong thôn tiếp tục cầm gậy gộc chạy tới, một người vung cái
thuốn sắt vẫn dùng để chọc băng. Cuộc loạn đả lan ra tới mức độ kinh người. Đâu
chỉ như những cuộc say rượu đánh nhau trong quán hay những cuộc xô xát trong
ngõ nhân lễ tiễn mùa đông.
Một thanh niên người Tavria bị đánh vỡ đầu nằm thẳng cẳng ở
cạnh cửa nhà cân. Hai chân anh ta dạng rộng, đầu ngâm trong vũng máu đen đã vón
cục, vài món tóc xõa xuống mặt. Xem ra linh hồn chàng trai nầy đã về tới thiên
đàng…
Những người Tavria đã bị dồn lại thành một đám lúc nhúc như
đàn cừu ở trước gian xưởng nhỏ. Vụ nầy có lẽ sẽ kết thúc tai hại hơn nhiều nếu
một cụ già người Tavria không nghĩ ra một kế: cụ nhảy vào trong gian xưởng, rút
trong lò ra một thanh củi lửa bắn tung tóe.
Rồi cụ chạy ra khỏi cửa, đến nhà kho chứa thóc đã xay, trong
có hơn một ngàn pút thóc. Qua vai ông cụ người ta thấy khói bốc lên như một làn
lụa mỏng, những tia lửa tóe ra tứ phía, nom chỉ lờ mờ dưới ánh sáng ban ngày.
- Lão đố-ố-ốt đây! - Cụ gầm lên, giọng man rợ rồi giơ thanh
củi gần mái lau, lửa vẫn nổ lách tách.
Bọn Cô-dắc rùng mình, ngừng tay không đánh nhau nữa. Gió
hanh thổi từng đợt từ phía đông, tạt khói từ trên mái gian xưởng nhỏ xuống đám
người Tavria đang đứng túm tụm một chỗ.
Mái lau cũ đã bết chắc lại, rất khô, vì thế chỉ một tàn lửa
khá to bắn vào là khói lửa sẽ trùm lên khắp thôn…
Những tiếng kêu trầm trầm, ngắn ngủi vang lên trong đám dân
Cô-dắc. Có người đã bị giật lùi về phía gian máy xay. Ông lão người Tavria kia
vẫn vung thanh củi, những tàn lửa vẫn văng tung tóe qua làn khói xám. Cụ vẫn
gào lên:
- Lão đốt đây? Đô-ô-ố-ốt đây! Ra khỏi sân mau!
Gã Yakov Móng ngựa, kẻ gây ra cuộc loạn đả, là tên đầu tiên
rời khỏi sân nhà máy xay với nhiều chỗ xanh tím trên khuôn mặt bất thành nhân
dạng của gã. Những gã Cô-dăc khác cũng vội vã đổ xô ra theo.
Bọn người Tavria cũng bỏ những bao thóc đấy để ra thắng ngựa
vào xe. Họ vung những nút dây cương, quất roi đen đét, in những vạch dài trên
lưng ngựa. Đoàn xe xông ra khỏi sân, chạy long xòng xọc qua phố ra ngoài thôn.
Gã cụt tay Aleksey đứng ngay giữa sân, đầu ống tay áo sơ-mi
rỗng buộc túm lại, lủng lẳng trước cái bụng dài ngoẵng nhưng rất chắc, mắt và
má giật lia lịa trong cơn kinh giật thường ngày.
- Anh em Cô-dắc lên ngựa!
- Đuổi theo chúng nó?
- Chúng nó sẽ không kịp chạy quá đường sống đồi đâu?
Mitka Korsunov né né người chạy trong sân ra. Bọn Cô-dắc đứng
túm tụm bên cạnh gian máy xay lại nhốn nháo hẳn lên, ồn ào như một đợt sóng.
Nhưng giữa lúc ấy, từ trong buồng máy thấy có một người đội mũ dạ đen đi ra rất
nhanh. Người ấy lạ mặt nhưng từ nãy chẳng có ai chú ý đến anh ta. Hai con mắt
sắc ngọt của người ấy nheo hẳn lại, lướt trên đám người như hai lưỡi bào. Người
ấy giơ tay:
- Hượm cái đã!
- Anh là ai hử? - Móng ngựa nhíu hai hàng lông mày rung
rung.
- Hắn ở đâu mò ra thế?
- Trói nó lại!
- Hừ!
- Phì!
- Bà con hãy hượm cái đã!
- Chỉ bọn chó cộc (chỉ người
Tavria) mới bà con với anh! (ở vùng sông Đông, người
Tavria là cái tên dùng để gọi những người Ukraina mà tổ tiên đã theo lệnh nữ
hoàng Ekaterina đệ nhị di cư đến đây từ những địa điểm miền Nam sát với Krym
(Tavria), (Lời chú của bản tiếng Nga).
- Đồ mu-gích!
- Đồ guốc gỗ!
- Cho nó một trận, Yakov!
- Đấm vào hai con mắt nó ấy! Cho nó một quả vào mắt ấy!
Người kia mỉm một nụ cười ngượng nghịu, nhưng không có vẻ gì
sợ hãi. Anh ta bỏ mũ, đưa tay lên xoa trán, cử chỉ rất hồn nhiên. Cuối cùng nụ
cười của anh ta đã tước được vũ khí của bọn Cô-dắc.
- Có việc gì vậy? - Người ấy vung cái mũ dạ gập đôi, chỉ đám
máu đen đã ngấm xuống đất bên cạnh cửa phòng cân.
- Đánh bọn khô-khon, - Gã cụt tay Aleksey trả lời, giọng ôn
hoà, cả má lẫn mắt đều giật lia lịa.
- Nhưng vì sao đánh chứ?
- Để xếp hàng cho có trật tự. Khỏi có cái lối chèn lên trên.
- Móng ngựa vừa bước lên trước, vừa khoát rộng tay quệt một đám nước mũi đỏ
lòm.
- Cho chúng nó nhớ đến già.
- Chà, nếu đuổi kịp chúng nó nhỉ… Trên đồng cỏ thì đừng có
hòng đốt được cái gì.
- Ban nãy chúng mình hoảng sợ đấy thôi, chứ có lẽ nó chẳng
dám đốt đâu
- Con người đã đến lúc liều mạng thì phóng hỏa cũng là
chuyện dễ như trở bàn tay.
- Cái bọn khô-khon, chúng nó chúa là dễ nổi nóng. - Afonka
Ozerov cười nhạo.
Người lạ mặt vung cái mũ dạ về phía Afonka:
- Thế anh là người gì?
Gã Afonka chúm cái miệng rỗ nhằng rỗ nhịt, nhổ một bãi nước
bọt ra vẻ khinh bỉ, rồi dạng chân nhìn theo những tia nước bọt rơi xuống đất.
- Tôi là người Cô-dắc, còn anh có phải dân Di-gan không?
- Không. Tôi cũng như anh, cả hai chúng mình đều là người
Nga.
Anh nói láo! - Afonka nói dằn từng tiếng.
- Người Cô-dắc bắt nguồn từ người Nga đấy. Anh có biết điều
đó không?
- Còn tôi thì tôi bảo cho anh biết tổ tiên của người Cô-dắc
là người Cô-dắc.
- Xưa kia những người nông nô bỏ bọn địa chủ, chạy trốn đến
vùng sông Đông, chính họ đã được gọi là Cô-dắc đấy.
- Thôi anh bạn thân mến ạ, anh hãy cứ đi con đường của anh.
- Gã cụt tay Aleksey nắm chặt những ngón tay xưng vù, khuyên bằng một giọng tức
tối cố trấn tĩnh và nháy mắt càng dữ.
- Trong thôn lại đến thêm một thằng chết tiệt? Chà, đồ chó
chết, nó lại muốn biến mình thành dân mu-gích.
- Nó là đứa nào thế hả? Cậu có biết không, Afonka?
- Nó là một thằng cha nào đó mới đến đây. Nó thuê phòng ở
nhà mụ lác Lukeska đấy.
Bây giờ mà đuổi theo thì đã muộn. Bọn Cô-dắc kéo nhau ra về,
họ vừa đi vừa bàn tán sôi nổi về trận ẩu đả vừa nãy.
* * *
Đêm ấy, ở một nơi trên đồng cỏ cách thôn tám vec-xta,
Grigori nằm cuộn tròn trong chiếc áo choàng lông cứng rất bền, buồn rầu nói với
Natalia:
- Natalia cứ như một người xa lạ thế nào ấy… Natalia chẳng
khác gì vừng trăng kia: không làm tôi lạnh, cũng chẳng sưởi cho tôi ấm. Tôi nói
Natalia đừng giận, nhưng tôi không yêu Natalia. Tôi đâu muốn nói như thế, nhưng
rõ ràng là không thể sống mãi như thế nầy được nữa rồi… Tôí thương Natalia, và
hình như trong những ngày gần đây chúng ta có gần gũi nhau hơn, nhưng trong
lòng vẫn chẳng cảm thấy chút gì… Hoàn toàn trống rỗng. Y như cánh đồng cỏ trong
lúc nầy.
Natalia không nói gì, nàng chỉ ngước nhìn lên cánh đồng sao
mà mình không tài nào với tới, nhìn tấm màn hư ảo và âm thầm của những đám mây
chập chờn trên đầu hai người. Từ trên kia, trên tít khoảng không xanh thẫm, vài
con sếu lạc đàn cất lên những liếng gọi lanh lảnh như tiếng chuông bạc.
Từ lớp cỏ cuối mùa xông lên một mùi hương u uất, đầy tử khí.
Ở một chỗ nào đó trên ngọn gò, lấp loáng ánh lửa đo đỏ nhỏ xíu còn lại trong
đống củi mà những người đi cày đã nhóm…
Grigori thức giấc trước khi trời hửng. Tuyết phủ trên tấm áo
choàng dầy tới hai véc-sốc. Đồng cỏ nằm chết lịm dưới lớp tuyết đầu mùa nhấp
nhoáng một màu xanh đồng trinh. Bên cạnh chỗ nghỉ đêm còn hằn rõ những vết chân
xanh xanh của con thỏ bị lớp tuyết mới rơi làm cho lạc đường.
6
Từ những thời rất xa xưa các cụ đã truyền lại rằng nếu trên
con đường đi Minlerovo mà một người Cô-dắc đơn thương độc mã chạm trán với vài
người Ukraina (các làng của người Ukraina bắt đầu từ thôn Hạ Yablovsky và kéo
dài tới Minlerovo trên một khoảng bảy mươi lăm vec-xta) mà không nhường đường
thì sẽ bị những người Ukraina kia đánh cho thừa sống thiếu chết. Vì thế hễ họ
lên trấn là phải có mấy chiếc xe cùng đi để nhỡ có một cuộc chạm trán trên đồng
cỏ thì cũng không sợ đấu khẩu.
- Nầy, thằng khô-khon! Tránh đường mau? Đồ chết tử chết
tiệt, mày sống ngụ cư trên đất của người Cô-dắc mà không muốn tránh cho chúng
ông đi hay sao?
Cả đến người Ukraina cũng không cảm thấy thoải mái khi phải
chở thóc ra kho thóc Paramonovskaia bên sông Đông. Tại đấy những cuộc đánh lộn
thường nổ ra vì bất cứ nguyên nhân nhỏ mọn nào, dù chỉ vì hai tiếng “khô-khon”.
Hễ “khô-khon” là choảng nhau liền.
Một trăm năm trước đây đã có một bàn tay tìm mọi cách gieo
rắc trên mảnh đất nầy hạt giống của sự bất hoà giữa các tầng lớp và vun bón
chăm sóc cho nó đâm chồi nảy lộc. Trong các cuộc loạn đả, máu của người Cô-dắc
cũng như máu của dân ngụ cư, Nga và Ukraina đã tưới đẫm mảnh đất nầy.
Hai tuần sau vụ đánh nhau ở nhà máy xay, viên cảnh sát
trưởng và viên dự thẩm trên trấn đã xuống thôn.
Người đầu tiên bị gọi tới thẩm vấn là Stokman. Viên dự thẩm
là một công chức còn trẻ, xuất thân trong một gia đình quý tộc Cô-dắc.
Hắn lục lọi trong cái cặp, hỏi:
- Trước khi đến đây ông ở đâu?
- Ở Rostov .
- Năm một nghìn chín trăm linh bảy vì sao ông bị kết án tù?
Stokman nhìn lướt qua cái cặp và đường ngôi lệch đầy gàu
trên cái đầu cúi gầm của viên dự thẩm.
- Vì gây mất trật tự.
- Hừ-ừ-ừm… Thế hồi ấy ông làm việc ở đâu?
- Ở xưởng sửa chữa xe lửa.
- Nghề nghiệp?
- Thợ nguội.
- Ông có phải là dân Do Thái không? Có phải là dân công giáo
mới theo đạo không?
- Không. Tôi nghĩ rằng…
- Tôi không cần biết ông nghĩ gì. Ông đã bị đi đày phải
không?
- Vâng, có.
Viên dự thẩm ngẩng đầu lên khỏi cái cặp. Hắn nhay nhay cặp
môi cạo nhẵn nhụi, đầy mụn nhọt:
- Tôi khuyên ông nên đi khỏi nơi nầy… - Rồi hắn tự nói với
mình - Mà mình cũng phải làm cho kỳ được việc đó…
- Vì sao vậy, thưa ngài dự thẩm.
Trả lời câu hỏi ấy lại là một câu hỏi:
- Hôm xảy ra vụ đánh nhau ở nhà máy xay ông đã nói những gì
với những người Cô-dắc địa phương?
- Thật ra…
- Thôi, ông có thể ra ngoài.
Stokman bước ra khỏi sân thượng của nhà Mokhov (bọn quan lại
bao giờ cũng tránh ở nhà trọ và đến ở nhà Sergey Platonovich) rồi nhún vai,
ngoái cổ lại nhìn hai cánh cửa sơn.
7
Trời không chuyển sang mùa đông. Tuyết đã rơi trước lễ Đức
mẹ, nhưng sau ngày lễ người ta lại có thể cho gia súc ra ăn cỏ ngoài đồng. Gió
nồm thổi suốt một tuần, trời ấm lại, mảnh đất lại tỉnh táo, ngoài đồng cỏ, cỏ
xanh cuối mùa loăn xoăn như rêu cố nở vớt những đoá hoa tươi thắm.
Thời tiết ấm trở lại cho đến ngày lễ thánh Misen. Sau đó lại
bắt đầu rét ngọt, tuyết đổ xuống như trút, và mỗi ngày một rét dữ. Lại rơi thêm
một phần tư ác-sin tuyết. Trong các vườn rau hoang vắng ven sông Đông, những
chuỗi vết chân thỏ hình cánh hoa chạy qua bên dưới những dãy hàng rào tuyết phủ
đến ngọn, nom như những hình thêu rua trên áo các cô gái. Phố xá không một bóng
người.
Khói phân khô bốc lên tãi ra khắp thôn. Vài con quạ đen tìm
đến chỗ có người ở đi đi lại lại gần đống tro đổ ven đường. Xe trượt tuyết chạy
trong thôn vạch thành những đường ngoằn ngoèo trông như những dải vải xanh bạc
màu.
Một hôm trên bãi họp việc làng có một cuộc họp: sắp đến ngày
chia phần chặt củi. Dân trong thôn, kẻ áo da dài, người áo da ngắn, đứng chen
chúc bên thềm nhà hội đồng, những chiếc ủng dạ dẫm ken két. Vì lạnh nên mọi
người ùa cả vào trong nhà. Những người già cả, râu bạc như cước, được trọng
vọng thì được ngồi ở cái bàn bên cạnh lão ataman và viên thư ký. Còn bọn Cô-dắc
ít tuổi hơn, râu đủ các màu hoặc chưa có râu thì đứng túm tụm từng đám, chuyện
trò ầm ĩ qua những cái cổ ấm của áo lông cừu. Viên thư ký viết những dòng li ti
trên một tờ giấy. Lão ataman nhìn qua vai hắn xem hắn viết. Trong khi đó căn
phòng của nhà hội đồng ầm ĩ những giọng nói cố nén thầm:
- Cỏ bây giờ thì…
- Hừ-hừ… Cỏ ngoài bãi còn cho bò ngựa ăn được, chứ trên đồng
cỏ thì chỉ có loại linh lăng hương chẳng được tích sự gì.
- Thời các cụ xưa có thể thả bò ngựa cho ăn cỏ tới Nô-en cơ
đấy.
- Thế thì thú cho bọn Kalmys lắm nhỉ?
- Hừ-ừ-ừm…
- Cổ của lão ataman cứ như cổ chó sói ấy: lão có xoay đầu
được đâu?
- Lão bạnh cổ ấy ăn hốc lắm vào, béo như con lợn, thật là
của quỷ!
- Thế nào ông thông gia, ông sợ lạnh à? Sao phải mặc một cái
áo da ghê gớm như thế này…
- Hôm nay có thằng Di-gan bán chiếc áo da.
- Một đêm Nô-en, bọn Di-gan ngủ trên đồng cỏ, chẳng có gì
đắp. Một thằng đắp cái lưới đánh cá, ruột già ruột non lạnh cứng cả lại. Nó
tỉnh dậy, thò một ngón tay qua mắt lưới, rồi bảo mẹ nó: “Hừ-hừ, mẹ ơi, sao
ngoài sân lạnh dữ đến thế nầy!”.
- Lạy Chúa tôi, đường trơn đến nơi rồi.
- Đến phải đóng móng sắt cho bò mất, chẳng còn cách nào khác
cả.
- Mấy hôm nọ mình đi chặt liễu trắng ở khe Con quỷ, đẹp đẹp
là.
- Zakha à, có cài khuy quần vào không… Cóng sun lại thì cái
mụ nhà bác đến tống cổ bác đi thôi.
- Này, bác Apdeit, bác chăn con bò mộng giống của thôn đấy
phải không?
- Tôi không nhận chăn nữa rồi. Mụ Paranca Mrykhina chăn đấy.
Mụ ta bảo: “Tôi góa chồng, chăn cho vui cửa vui nhà”. Tôi bảo: “Chịu khó mà
chăn, may ra còn sinh con đẻ cái…”
- A-hà-hà-hà-hà!
- Ô-khồ khồ-khồ-khồ!
- Thưa các cụ bô lão! Cái chuyện chia củi chúng ta sẽ giải
quyết thế nào đây? Khẽ chứ nào!
- Tôi bảo rằng nếu có sinh con đẻ cái… tôi sẽ làm bố đỡ đầu
cho…
- Yên lặng một chút! Chúng tôi tha thiết đề nghị!
Cuộc họp bắt đầu. Lão ataman vuốt cái na-xê-ca (gậy
tượng trưng cho chức quyền ataman) lấm tấm hơi nước, réo họ
tên những người được chia, hơi lão thở ra trắng như khói và thỉnh thoảng lão
lại đưa ngón tay út lên gỡ những miếng băng nhỏ trên râu. Sau lưng lão, bên cái
cửa luôn đập thình thình, người ta chen chúc, hơi bốc ngùn ngụt, tiếng sì mũi
ầm ĩ.
- Thứ năm không thể lấy làm ngày đốn củi được đâu! - Gã Ivan
Tomilin nghiêng cái đầu đội mũ cát-két màu lam của lính pháo binh, xát xát hai
cái tai đỏ tía, cố hét át tiếng lão ataman.
- Tại sao vậy?
- Nầy cái anh pháo thủ hạng bét kia, giứt béng hai cái tai
đi cho xong!
- Chúng ta sẽ khâu thay vào cho hắn hai tai bò.
- Thứ năm, đến nửa thôn phải tập trung đi chở cỏ rồi còn gì.
Chúng ta hãy bàn cho kỹ đã!
- Thế thì đi đốn củi ngày chủ nhật vậy.
- Thưa các cụ bô lão?
- Chẳng sao cả!
- Chúc mọi sự tốt lành!
- Khư-ừ-ừ-ừ-ừ!
- Khô ồ-ồ-ồ ồ!
- Khà à-à-à-à!
Lão già Matvey Casulin vươn mình qua cái bàn lung lay như
răng bà lão, cầm cái nạng làm bằng gỗ tần bì nhẵn thín xỉa xỉa về phía Tomilin.
Lão bực tức rít lên:
- Cái chuyện cỏ hãy để lại đã! Có gì phải lo cơ chứ? Việc ấy
là việc chung… Anh vốn dĩ chỉ quen chọc gậy bánh xe mà thôi. Anh bạn trẻ của
tôi ạ, anh xuẩn vừa chứ! Đây nầy! Anh hãy xem! Đây này…
- Chính lão mới là cái thằng đến già mà vẫn phải dựa vào trí
khôn của láng giềng… - Gã cụt tay Aleksey đứng ở những hàng sau nhô đầu lên
phía trước nói liến thoắng. Gã nháy mắt lia lịa, bên má thủng lỗ chỗ giật giật
như lên cơn thần kinh.
Đã sáu năm nay, gã mang thù với lão Casulin chỉ vì một mẩu
đất cày dôi. Mùa xuân năm nào gã cũng nện cho lão già một trận, mà của đáng
tội, lão kia cũng chỉ chiếm của gã một mảnh đất bằng một phần tư con chim sẻ,
nhăn mặt một cái là có thể nhổ phẹt bãi nước bọt từ bên này sang bên kia.
- Thôi câm đi, cái thằng kinh giật!
- Tiếc là quá xa, không với tới, nếu không ông đã cho mày
một quyền đổ máu mũi rồi!
- Này, cái thằng cụt tay nháy mắt!
- Thôi cả hai im đi, lại gây sự với nhau rồi!
- Có muốn cắn nhau thì cút ra sân mà cắn nhau! Đúng thế đấy.
- Thôi đi, Aleksey, cậu xem kìa, lão già đã hết hồn hết vía
rồi, cái mũ lông trên đầu lão đang nảy bần bật lên kia kìa.
- Những ai đánh nhau cãi nhau thì cho vào nhà giam!
Lão ataman đấm mạnh xuống chiếc bàn ọp ẹp:
- Tôi gọi cảnh sát bây giờ đây! Có im đi không!
Những tiếng ầm ầm lặng đi, lan dần xuống tới những hàng cuối
cùng rồi im hẳn.
- Thứ năm trời rạng là đi đốn củi ngay.
- Thưa các cụ bô lão, các cụ thấy thế nào?
- Mong mọi sự tốt lành!
- Cầu Chúa che chở!
- Ngày nay chúng nó không chịu nghe lời người già nữa rồi…
- Không lo, rồi chúng nó sẽ phải vâng lời thôi. Chẳng nhẽ
không kiếm được cách nào trị chúng nó hay sao? Cái thằng Aliosa thổ tả nhà tôi,
định đánh cả tôi. Tôi đã làm cho nó phải câm miệng ngay: “Tao sẽ ra trình với
ông ataman và bô lão trong thôn, người ta sẽ lôi mày ra bãi họp việc làng mà
nện cho một trận…”. Thế là nó phải biết thân ngay, phải nằm rạp xuống như ngọn
cỏ dưới nước lũ.
- Còn việc này nữa, thưa các cụ bô lão, tôi vừa nhận được
lệnh của ông ataman trấn. - Lão ataman thôn đổi giọng, xoay xoay đầu, cái cổ
đứng của chiếc áo quân phục nâng hẳn lên, siết chặt lấy cổ lão. - Thứ bảy này,
những ai đến tuổi tráng đinh đều phải làm lễ tuyên thệ. Trước lúc trời tối đã
phải có mặt ở nhà hội đồng trấn.
Ông Panteley Prokofievich co bên chân thọt, đứng bên cạnh
ông thông gia ở chỗ cái cửa sổ sát với cửa ra vào. Miron Grigori phanh chiếc áo
da dài ngồi trên bậu cửa sổ, một nụ cười lấp loáng sau chòm râu hung hung.
Sương muối long lanh trên hai hàng mi ngắn cũn, trắng phếch. Những cái nốt ruồi
nâu to tướng mọng máu vì lạnh xám ngắt đi. Cạnh đấy, một đám Cô-dắc trẻ hơn
đứng túm tụm, nháy mắt cho nhau, mỉm cười. Lão Apdeit, biệt hiệu là Vua nói phét, kiễng chân đứng lắc lư
giữa đám với chiếc mũ lông đỉnh màu lam có đính chữ thập bạc của trung đoàn
Atamansky lật ra sau cái gáy phẳng lì. Apdeit cùng tuổi với ông Panteley
Prokofievich nhưng chưa có vẻ gì là già, cặp má lúc nào cũng đỏ hồng hồng như
quả táo chín.
Apdeit có đi lính trong trung đoàn ngự lâm Atamansky. Lúc đi
lão còn mang cái họ là Xinhilin, nhưng lúc về lão đã trở thành… Vua nói phét.
Lão là người đầu tiên trong thôn được biên chế vào trung
đoàn Atamansky và một điều quái đản đã xảy ra với lão Cô-dắc nầy, Apdeit đã lớn
lên cũng như tất cả các thanh niên khác, chỉ phải cái hồi ít tuổi hơi ngớ ngẩn
một chút, nhưng đi lính về thì mồm mép liến thoắng không lúc nào ngơi. Ngay hôm
đầu, vừa về thôn, Apdeit đã bắt đầu kể cho mọi người nghe những mẩu chuyện lạ
lùng về thời gian lão đóng trong cung điện của vua Nga, và về những việc phi
thường lão đã làm ở Peterburg. Đầu tiên người ta còn kinh ngạc, há hốc miệng ra
nghe, tin là thật, nhưng sau cũng biết là Apdeit nói khoác. Quả thật từ khi các
cụ thành lập thôn này cho đến nay, chưa từng thấy có một tay nói khoác như thế
bao giờ. Khi đã có chứng cớ rành rành là những chuyện kỳ dị của lão đều do lão
bịa ra, người ta cười ngay vào mũi lão, nhưng lão cũng chẳng đỏ mặt (có lẽ lão
cũng có đỏ mặt đấy, nhưng vì da lão lúc nào cũng đã đỏ rồi nên người ta không
nhận ra thôi) và sau đó vẫn tiếp tục nói khoác như thường. Về già, lão càng
thêm điên cuồng rồ dại. Nếu bị hỏi vặn đến cứng lưỡi thì lão nổi khùng, gây sự
đánh nhau, nhưng nếu người ta lặng thinh, chỉ mỉm cười chế nhạo thì lão càng
một tấc đến trời, bất chấp những lời thiên hạ chế giễu.
Trong công việc làm ăn, Apdeit là một tay Cô-dắc tháo vát,
chăm chỉ cần cù, việc gì cũng làm đâu vào đó, có khi còn khôn ngoan ranh ma nữa
là khác. Nhưng hễ động đến chuyện lão đi lính ở trung đoàn Atamansky… là bất cứ
ai cũng phải khoát tay vì ngạc nhiên hay ôm bụng ngồi xuống đất mà cười nôn
ruột.
Hôm nay Apdeit lại lắc lư trên đôi ủng dạ mòn gót, đứng giữa
một đám Cô-dắc xúm đông chung quanh. Lão đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói bằng
một giọng trầm trầm đầy vẻ nghiêm trọng:
- Những thằng Cô-dắc ngày nay hoàn toàn là của vứt đi. Loắt
choắt, nhỏ bé, chẳng được tích sự gì cả. Bất cứ thằng nào cũng xỉ mũi bẻ cái
làm đôi được. Nói tóm lại… - Lão mỉm một nụ cười khinh bỉ, lấy mũi ủng di di
bãi nước bọt. - Ở trấn Vosenskaia tôi đã từng thấy những xương người chết, đó
mới thật là người Cô-dắc, đúng thế đấy!
- Đào được ở đâu thế, bác Apdeit? - Gã Anikey mặt mũi nhẵn
thín vừa hỏi vừa hích khuỷu tay vào gã đứng bên.
- Thôi ông bạn đồng ngũ ơi, tết nhất đến nơi rồi, đừng khoác
lác nữa làm gì. - Ông Panteley Prokofievich nheo cái mũi mỏ quạ, lắc lắc chiếc
vòng tai. Ông vốn không ưa những chuyện ba hoa.
- Không đâu ông bạn ạ, từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi có
nói điều gì không đúng sự thật bao giờ đâu,-Apdeit tuyên bố rất long trọng rồi
ngạc nhiên giương mắt nhìn Anikey run bần bật như lên cơn sốt rét.- Tôi đã được
thấy những cái xương người chết ấy, hôm người ta làm nhà cho cậu em vợ tôi. Vừa
bắt đầu đào móng là quật lên được một ngôi mộ. Đúng là xưa kia ven sông Đông, ở
gần nhà thờ đã có một cái bãi tha ma.
- Thế những cái xương ấy như thế nào? - Ông Panteley
Prokofievich đã sắp sửa bỏ đi chỗ khác, nhưng lại bực mình hỏi thêm.
- Tay thì thế này này. -
Apdeit vung rộng hai tay như hai cái cào.- Còn cái đầu, thật đấy, tôi không nói
ngoa đâu, chẳng kém gì một cái nồi Ba Lan.
- Này bác Apdeit ạ, tốt nhất bác hãy kể cho bọn trẻ nghe
chuyện bác bắt tên cường đạo ở Saint Peterburg thì hơn. - Miron Grigorievich
xúi thêm rồi khép tà áo lông, tụt trên bậu cửa sổ xuống.
- Chuyện ấy thì có gì mà kể. - Apdeit vờ khiêm tốn.
- Thôi kể đi bác?
- Tôi van bác đấy?
- Nể chúng tôi một chút, bác Apdeit!
- Thôi được câu chuyện đã xảy ra như thế này này. - Apdeit
húng hắng ho, lấy trong túi quần ra một túi thuốc lá. Rồi lão khum khum bàn
tay, dốc ra ít thuốc vụn và bỏ lại vào túi thuốc hai đồng tiền đồng rơi trong
đó ra. Xong đâu đó lão mới sung sướng đưa mắt nhìn một lượt tất cả những người
đứng nghe. - Có một tên hung thủ bị bắt vừa vượt ngục, trốn khỏi pháo đài. Đã
tìm khắp chốn khắp nơi mà chẳng thấy bóng vía nó đâu cả. Quan lớn quan bé đều
chẳng còn biết đằng nào mà lần. Chim trời cá nước, thế là biệt tăm biệt tích?
Đến đêm ngài sĩ quan giám thủ cho gọi mình. Mình bèn lên gặp… Phải… Quan giám
thủ nói: “Anh hãy vào cung bái yết hoàng đế bệ hạ… Hoàng đế cho vời anh đấy”.
Tất nhiên mình cũng có lo, nhưng vẫn cứ đến. Mình bước vào, đứng nghiêm và
Người, đấng Đại ân đại đức của chúng ta, đưa tay vỗ vai mình và bảo: “Có chuyện
thế nầy, Ivan Apdeit ạ, tên hung phạm nguy hiểm nhất đối với quốc gia đã trốn
mất rồi. Dù phải thăng thiên độn thổ, nhà ngươi cũng phải tìm bắt cho được nó.
Nếu không đừng vác mặt về trông thấy trẫm nữa!”. Mình bèn trả lời: “Thần xin lĩnh
chỉ, thánh thượng vạn tuế?”. Chà-à-à, các cậu ạ thật là một chuyện làm mình tơi
bời ruột gan… Mình bèn vào chuồng ngựa của hoàng đế, thắng những con tuấn mã
hạng nhất vào một chiếc troika (Một loại xe ba ngựa kéo, rất nhẹ, có thể dùng làm
xe thi), thế là xuất phát, xuất phát. - Apdeit châm thuốc
hút, rồi đưa mắt nhìn một lượt những người đang cúi đầu lắng nghe. Lão phấn
khởi hẳn lên, cất giọng oang oang qua làn khói thuốc chập chờn quanh đầu - Ngày
rong ruổi, đêm ruổi rong, đến ngày thứ ba thì tóm cổ được cu cậu ở gần Moskva.
Mình quẳng luôn anh bạn thân mến ấy lên xe rồi lại đường cũ đánh nước mã hồi.
Nửa đêm mới về đến nơi, từ đầu đến chân những bùn là bùn, nhưng mình vẫn đi
thẳng đến chỗ Ngài ngự. Tất cả các công tước, bá tước to nhỏ đủ mọi kiểu không
cho mình vào, nhưng mình vẫn cứ vào. Phải… Mình gõ cửa: “Muôn tâu thánh thượng,
thần xin phép được vào. Ngài ngự hỏi: “Ngươi là ai thế?”. Mình thưa: “Tâu thánh
thượng, thần đây, Ivan Apdeit đây”. Trong nhà lục đục loạn cả lên, rồi mình
nghe thấy chính Ngài ngự quát: “Bà Maria Fedorovna (tên cúng cơm của hoàng hậu)
đâu? Dậy mau lên, mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy?”…
Những hàng phía sau phá lên cười như nắc nẻ. Viên thư ký
đang đọc tờ thông báo về gia súc bị thất lạc bị tắc ở câu: “chân trái vá trắng
tới gót”. Lão ataman vươn cổ như con ngỗng, giương mắt nhìn đám người đang cười
ngặt nghẽo.
Apdeit bỏ chiếc mũ lông ra, cau mày, ngơ ngác đưa mắt nhìn
từng người một.
- Hượm đã nào!
- Ô-hô-ha-ha-ha!
- Chao ôi, chê-ê-ết cười được!
- Khặc-khặc-khă-khă-khặc!
- Apdeit, cái con chó hói, ô-hô-hô!
- “Mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy!”… Ái chà chà!
Những người đến họp bắt đầu ra về. Những cái ngưỡng cửa làm
bằng gỗ ở thềm bị lạnh giá cọt kẹt mãi không thôi. Stepan Astakhov cùng một gã
Cô-dắc đang vật nhau trên đống tuyết bị dẫm nát bên cạnh nhà hội đồng cho nóng
người. Gã nầy cao lớn, chân dài nghêu, là chủ cái máy xay gió kiểu Hà Lan.
- Bẻ quặt tay qua đầu? - bọn Cô-dắc đứng vây quanh mách
miếng.
- Stepan, lắc cho nó phọt cám ra đi!
- Cậu không đủ sức chộp được nó đâu? Thằng cha nầy láu cá
lắm đấy! - Lão Casulin thích quá, cứ nhảy cỡn như một con chim sẻ vì quá mải mê
theo dõi, lão không biết rằng một giọt nước mũi sáng sáng rất to đang lủng lẳng
ở đầu cái mũi xám ngoét của lão.
8
Ông Panteley Prokofievich vừa ở chỗ họp thôn trở về đã vào
thẳng ngay căn buồng bên, nơi ông vẫn ở với bà già. Mấy hôm nay bà Ilinhitna bị
mệt. Khuôn mặt phù thũng của bà đầy vẻ mệt mỏi và đau đớn. Bà nằm dài trên một
cái đệm nhồi lông chim rất dầy, lưng tựa vào một cái gối dựng đứng. Nghe tiếng
những bước chân quen thuộc, bà quay đầu ra, đưa mắt nhìn đức ông chồng với cái
vẻ nghiêm khắc từ lâu đã ăn sâu trên khuôn mặt của bà. Mắt bà dừng lại trên
những món râu quăn ướt đẫm vì hơi thở ôm chặt lấy miệng ông chồng, cùng hàng ria
ẩm bị nén lại, mọc liền với bộ râu quai nón. Bà phập phồng cánh mũi, nhưng ông
lão chỉ mang về hơi lạnh cùng mùi da cừu chua loét. “Hôm nay không có chai bố
chai con gì rồi”. - Bà vui vẻ nghĩ thầm rồi đặt lên cái bụng tròn xoe của bà
chiếc bít tất đan chưa xong gót cùng với những chiếc kim đan.
- Việc đốn củi như thế nào hả ông?
- Đã quyết định là ngày thứ năm. - Ông Panteley Prokofievich
vuốt ria. - Thứ năm, ngay từ sáng, - Ông vừa nhắc lại vừa ngồi xuống cái hòm kê
bên cạnh giường. Thế nào, bà thấy trong người thế nào? Có nhẹ nhõm được chút
nào không?
Bà Ilinhitna sầm mặt lại:
- Vẫn cứ thế… Các khớp xương đau như dần, khắp người ê ẩm.
- Sao bà cứ ương ương dở dở thế, đã bảo mãi là mùa thu thì
chớ có mò xuống nước: Biết mình bệnh khổ bệnh sở như thế thì chớ có dính vào? -
Ông Prokofievich phát khùng lên, vừa nói vừa cẩm cái nạng ngoáy những cái vòng
rộng trên mặt đất. - Nhà còn ít đàn bà hay sao? Cái đống đay của bà thật ba lần
đáng nguyền rủa: đi mà ngâm nước cho nó, để rồi bây giờ… Trời ơi là trơ-ơ-ời! Khổ
quá lắm!
- Đay thì không thể để hỏng được. Mà đàn bà con gái có đứa
nào ở nhà đâu? Thằng Grisca và vợ nó thì đi cày, thằng Petro và con Đaria thì
chúng nó đưa nhau đi đâu không biết.
Ông già hà hơi vào hai bàn tay chụm vào nhau, cúi xuống sát
giường.
- Con Natasa thế nào hả bà?
Bà Ilinhitna sôi nổi hẳn lên, giọng bà trả lời đầy vẻ lo
lắng:
- Tôi cũng chẳng biết làm thế nào nữa. Hôm kia nó lại khóc.
Lúc ấy tôi ra sân gia súc, thấy cửa nhà thóc có người mở. Tôi định đến đóng
lại, nhưng người vừa bước vào thì đã thấy con bé đứng bên cái vựa kê. Tôi hỏi
nó: “Con yêu của mẹ, con làm sao thế?”. Nó trả lời: “Con nhức đầu thế nào ấy,
mẹ ạ”. Sự thật là như thế nào thì tôi hỏi sao nó cũng không hé răng.
- Hay nó ốm chăng?
- Không đâu, tôi đã hỏi kỹ rồi… Chỉ sợ có đứa nào bùa chài
hại nó, hoặc có chuyện gì với thằng Grisa thôi…
- Hay là thằng ấy với con ấy… nhỡ ra còn tằng tịu với nhau?
- Ông làm sao vậy, cái ông lão này? - Bà Ilinhitna hoảng sợ
vỗ tay đen đét. - Thế Stepan, nó là một thằng ngớ ngẩn đấy chắc? Tôi chẳng nhận
thấy gì cả, không có chuyện gì đâu.
Ông già ngồi thêm một lát rồi bỏ ra ngoài.
Grigori đang ngồi trong phòng của chàng, dùng giũa mài nhọn
những cái móc để lắp vào lưới đánh cá. Natalia bôi mỡ lợn rán chảy vào những
cái móc rồi lấy giẻ rách bọc cẩn thận từng cái một. Ông Panteley Prokofievich
khập khiễng bước qua, đưa mắt nhìn kỹ xem Natalia ra sao. Trên cặp má vàng úa
như tàu lá mùa thu của nàng loáng thoáng một màu hồng héo hon. Một tháng nay,
Natalia gầy rộc đi, hai con mắt có một cái gì rất đáng thương, chưa từng thấy ở
nàng bao giờ. Ông già đứng lại một lát ở cửa. “Chà, nó chăm chút vợ nó thế
đấy!”. - Ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn lại lần nữa cái đầu chải mượt của Natalia,
từ nãy vẫn cúi gầm xuống chiếc ghế dài.
Grigori ngồi bên cửa sổ vẫn cắm cúi giũa, cái bờm tóc đen
rối như bòng bong đập đập trên trán.
- Vứt mẹ tất cả đi! - Ông già bất thình lình nổi xung, mặt
đỏ như gấc. Ông quát to, tay nắm chặt cán cái nạng.
Grigori run bắn người, giương mắt nhìn bố, chẳng hiểu ra
sao.
- Con định giũa cả hai đầu, cha ạ.
- Tao bảo mày là thôi ngay! Sửa soạn mà đi đốn củi!
- Con sửa soạn ngay đây.
- Xe trượt tuyết chẳng còn một cái chốt nào nữa, thế mà lại
móc với miếc. - Giọng ông già có vẻ đã dịu đi. Ông nói xong còn đứng trùng
trình một lát ở cửa phòng (hình như ông còn có gì muốn nói thêm) rồi bước ra
ngoài và trút hết phần còn lại của cơn giận lên đầu Petro.
Grigori mặc chiếc áo bông ngắn vào rồi còn nghe thấy tiếng
bố quát ngoài sân:
- Sao bây giờ còn chưa cho bò ngựa uống nước hả, mày nhòm
ngó đến những việc gì hả, đồ mày là đồ gì hả? Đứa nào lấy rơm ở cây rơm bên
hàng rào thế này? Tao đã bảo đứa nào là không được động đến cây rơm ở đầu cùng
hử? Bọn chết tiệt, có ít rơm tốt nhất đem dùng hết thì sang xuân cày vỡ lấy gì
cho bò ăn hử?
Đến hôm thứ năm, còn hai giờ nữa trời mới rạng, bà Ilinhitna
đã gọi Daria dậy.
- Dậy đi thôi, nhóm bếp đi thì vừa.
Daria chạy tới bếp lò, trên mình mặc độc một chiếc áo sơ-mi
lót, rồi mò mẫm trong ngách tường, tìm được bao diêm, châm lửa.
- Làm bếp quáng quàng lên nhé. - Petro giục vợ. Anh chàng
hút thuốc ho sặc sụa, đầu tóc rối như ổ quạ.
- Người ta thương con Natalia hay sao mà không gọi nó dậy?
Cái con mặt dày, bây giờ còn ngủ. Để tôi phải tự xé mình ra làm hai hay sao? - Đaria,
lầu bầu, giọng ngái ngủ, đầy vẻ tức tối.
- Thì vào đánh thức nó dậy. - Petro bảo vợ.
Nhưng Natalia đã dậy mà không cần ai gọi. Nàng mặc cái áo
ngắn vào rồi ra lấy một ít phân khô.
- Đem mồi lửa lại đây! - Nàng dâu trưởng ra lệnh.
- Con Dunhiaska đã bị sai đi gánh nước rồi, mày có biết
không. Đaria? - Bà Ilinhitna lê rất vất vả hai cái chân trong bếp, nói khàn
khàn.
Trong bếp nặc mùi hốt bố tươi, mùi những đồ thắng ngựa bằng
da, mùi hơi người nóng ran. Đaria chạy kéo lê đôi ủng dạ, quăng loảng xoảng
những cái nồi gang. Dưới chiếc áo sơ-mi lót màu hồng, hai tay xắn lên đến
khuỷu, cặp vú nho nhỏ của chị chàng cứ nẩy tâng tâng. Xem ra cuộc sống có chồng
chẳng làm Đaria héo hon tiều tụy chút nào: vẫn cái thân hình dong dỏng, thanh
thanh, mềm mại như một nhành liễu đỏ, nom cứ như một cô gái chưa chồng. Đi đứng
thì ưỡn à ưỡn ẹo vai đong đưa, chồng quát chỉ nhe hai hàm răng nhỏ sin sít ra
cười nhạo, cặp môi đanh ác mỏng dính.
- Đáng là phải bỏ phân khô vào hong từ tối hôm qua. Xếp bên
lò thì làm gì chẳng khô rồi - Bà Ilinhitna không vừa ý, lầu bầu.
- Con quên khuấy đi mất, mẹ ạ. Tai hại thật! - Đaria trả lời
thay mọi người.
Nấu nướng xong thì trời vừa hửng. Ông Panteley Prokofievich
ăn vội quá, húp cháo bỏng cả miệng. Grigori nhai rất chậm, mặt chàng nhăn nhó,
mấy cái hòn tròn tròn cứ lên lên xuống xuống bên dưới hai gò má. Dunhiaska đau
răng phải buộc chặt lấy má. Petro cứ rình những lúc bố không biết, chốc chốc
lại chòng em gái.
Trong thôn đã có tiếng xe trượt tuyết cót két. Vài chiếc xe
bò chạy ra sông Đông trong làn sương mai xám xám. Grigori và Petro ra sân thắng
bò vào xe. Grigori thở phải không khí lạnh lại hanh, vừa đi vừa quấn chiếc khăn
quàng cổ mềm: quà của cô vợ chưa cưới tặng cho anh chồng chưa cưới. Một con quạ
đen bay qua sân buông xuống một tiếng kêu phát thỏa sức từ trong họng nó ra.
Trong cái lạnh đại hàn nghe rõ mồn một tiếng soàn soạt của hai cánh vẫy chậm
rãi, Petro nhìn theo hướng con chim bay yà nói:
- Nó bay về nơi ấm áp, về miền nam đấy.
Một vành trăng lưỡi liềm mỏng manh ẩn hiện trên trời, sau
một đám mây nhỏ đang nhuộm hồng, tươi tắn như nụ cườì một cô gái.
Khói từ trong ống khói bốc thẳng lên cao, như một người cụt
tay, cổ vươn tới cái lưỡi mài sắc ngọt, vàng óng, xa lắc không sao với tới được
của vành trăng khuyết.
Ngay trước nhà Melekhov, sông Đông còn chưa đóng băng. Nhưng
sát ven bờ có một dải băng hơi có ánh sáng xanh lá cây bên dưới những đống
tuyết bị dồn tới đã rắn chắc lại. Dưới dải băng ấy, nước không bị luồng nước
mạnh giữa sông cuốn theo vẫn lừ đừ sủi bọt. Nhưng ra quá giữa sông, khoảng gần
bờ bên kia, chỗ những mạch nước chảy xối từ trong cái vách đen ra, có một
khoảng nước chưa đóng băng, đen ngòm đến rợn người, nằm giữa một viền tuyết
trắng. Trong cái hố nước ấy, vài con vịt trời ở lại qua mùa đông đang hụp xuống
ngoi lên, nom chỉ như những nốt ruồi đen.
Mọi người qua sông từ cái bãi giữa thôn.
Ông Panteley Prokofievich không chờ hai con trai, đã đi
trước với hai con bò già. Petro và Grigori nán lại một lát rồi cũng đi theo.
Đến chỗ dốc xuống sông hai anh em đuổi kịp Anikey. Anikey
thắt lưng vải xanh lá cây. Hắn gài chiếc rìu mới thay cán vào bên cạnh xe trượt
tuyết và đi bên hai con bò. Vợ hắn, một người đàn bà nhỏ bé, đau yếu cầm cương.
Từ xa Petro đã kêu lên:
- Nầy, bác láng giềng, đem cả bác gái đi theo cơ à?
Anikey vốn là một anh chàng hay cười. Hắn nhảy cỡn tới cái
xe của hai anh em:
- Đem theo, đem theo cho đỡ lạnh lùng.
- Gầy như que củi thế kia thì lấy đâu ra hơi ấm?
- Nuôi toàn bằng yến mạch mà vẫn chẳng khá lên được chút
nào.
- Hai nhà chúng ta cùng chung một phần củi phải không? - Grigori
nhảy trên xe xuống rồi hỏi.
- Nếu cho tôi hút thuốc thì cùng phần.
- Cái anh Anikey này, lọt lòng mẹ đã sống bám vào người
khác.
- Của ăn cắp hệt của đi xin, bao giờ ăn cũng ngon hơn. -
Anikey cười khà khà, khuôn mặt nhẵn thín như mặt đàn bà của hắn nhăn nhúm lại.
Vợ chồng Anikey và anh em Petro cùng đi với nhau. Một màu
trắng khắc nghiệt, trùm lên khu rừng đầy những đám sương muối, rủ xuống như
đăng-ten. Anikey đi trước, vừa đi vừa cầm roi quất vào những cành cây trĩu
xuống bên trên con đường. Vợ hắn trùm kín người ngồi trên xe bị tuyết xốp nhọn
như kim rơi lả tả từng đám xuống khắp người.
- Đồ quỷ sứ, đừng có làm trò khỉ? - Mụ rũ áo phành phạch kêu
rầm lên.
- Giúi đầu mụ mẹ ranh xuống tuyết đi! - Petro vừa kêu lên
vừa cố quất cái roi cho trúng dưới bụng con bò để thúc cho nó đi nhanh hơn.
Đến chỗ rẽ sang cái khe lở Bà già thì gặp Stepan. Stepan
đang đuổi hai con bò đã tháo dây thắng nhưng còn mang ách. Anh ta bước những
bước dài, đôi ủng dạ đóng đế da dẫm loạt soạt trên tuyết. Dưới cái mũ đội lệch,
bờm tóc xoăn đầy sương muối rủ xuống như một chùm nho trắng.
- Nầy, Stepan, lạc đường à? - Anikey đi đến ngang Stepan thì
hỏi to.
- Lạc đường cái gì, mẹ kiếp!… Xe vừa xuống dốc thì đòn trượt
húc đánh rầm vào một gốc cây, gãy đôi. Thế là phải quay về.
Stepan vặc thêm một câu tục tĩu rồi bước qua mặt Petro. Dưới
hai hàng mi dài, cặp mắt nhạt màu nom như mắt thằng ăn cướp nheo nheo ngang
ngược.
- Thế xe quẳng lại đấy à? - Anikey ngoái cổ lại hỏi to thêm.
Stepan chỉ khoát tay. Gã giơ roi quất hai con bò định rẽ
sang khoảng đất hoang ven đường và nhìn theo Grigori rất lâu, lúc này Grigori
đang lẽo đẽo đi theo xe trượt tuyết. Đến cách cái khe lở thứ nhất không xa,
Grigori nhìn thấy một chiếc xe trượt tuyết bỏ chỏng gọng giữa đường. Acxinhia
đứng bên cạnh, tay trái nàng khép tà chiếc áo lông kiểu sông Đông, mắt đăm đăm
nhìn theo con đường, đón hai chiếc xe đang đi tới.
- Này cô nàng không phải vợ anh, tránh ra ngay không anh cho
xe chẹt bây giờ? - Anikey quát.
Acxinhia mỉm cười lui sang bên và ngồi lên chiếc xe bị lật
nghiêng không có đòn trượt.
- Đã có bác gái ngồi kia cùng đi với bác rồi đấy!
- Mụ ấy cứ bám lấy tôi như quả ké bám vào đuôi con lợn, nếu
không tôi đã mời cô lên rồi.
- Thôi cũng xin giã ơn bác.
Petro đi đến ngang Acxinhia thì liếc nhanh mắt nhìn Grigori.
Grigori đang đi tới, một nụ cười xao xuyến trên môi. Mỗi cử
động của chàng đều cho thấy cả một tâm trạng lo lắng và chờ đợi.
- Chào chị láng giềng, chị có khỏe không? - Petro đưa chiếc
găng tay lên vành mũ chào.
- Ơn Chúa!
- Xe bị gãy đấy à chị?
- Vâng, xe bị gãy, - Acxinhia kéo dài giọng trả lời, nhưng
mắt lại không nhìn Petro. - Nàng đứng dậy, quay nhìn Grigori đang đi tới.
- Anh Grigori Panteleevich, tôi có chuyện cần nói với anh…
Grigori quay sang nhìn Acxinhia rồi nói theo Petro lúc này
vẫn tiếp tục đi:
- Anh trông hộ bò nhé!
- Hừ, được, - Petro cười mỉa một cách khả ố, rồi nhét một
món ria đắng khói thuốc lá vào miệng.
Hai người đứng trước mặt nhau, chẳng nói chẳng rằng.
Acxinhia lo lắng nhìn quanh rồi ngước cặp mắt ướt đen láy nhìn Grigori.
Nàng thở hổn hển, trong lòng vừa xấu hổ vừa sung sướng. Hai
má nàng nóng rực, môi khô bỏng.
Hai chiếc xe của Anikey và Petro đã lấp sau cánh rừng sồi.
Grigori nhìn thẳng vào mắt Acxinhia thấy bừng bừng một ánh
nũng nịu liều lĩnh.
- Thế nào, anh Griska, anh muốn thế nào thì muốn, chứ thiếu
anh, em không sao sống được. - Acxinhia nói giọng rất kiên quyết rồi mím chặt
môi, chờ Grigori trả lời.
Grigori không nói gì. Bầu không khí chết lặng bó chặt lấy
khu rừng như cái đai sắt. Không gian trong vắt rung lên trong tai như tiếng
chuông. Con đường bị mài nhẵn bóng dưới đòn trưọt của những chiếc xe, bầu trời
xám xịt với những đám mây rách mướp, khu rừng câm tiếng, thiếp lặng như chết…
Chợt có tiếng quạ quang quác ngay gần đấy, Grigori bừng tỉnh sau giấc mơ ngắn
ngủi. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, thấy con chim có bộ lông đen bóng hơi phớt ánh
xanh lam đang co chân, lặng lẽ vẫy cánh như từ biệt. Grigori bất giác nói như
nói một mình:
- Trời sắp ấm rồi. Nó bay về nơi ấm áp… - Chàng rùng mình,
bật cười khàn khàn… - Nào… - chàng dim mắt ngây ngất nhìn quanh như một thằng ăn
cắp, rồi ôm phắt Acxinhia vào lòng.
9
Cứ tối đến lại có những người rất khác nhau kéo đến gian
Stokman thuê của mụ lác Lukesa: Khristonhia, “Bồi” ở nhà máy xay với chiếc áo
vét-tông bê bết dầu mỡ khoác trên vai; anh chàng Davydka hay cười sống vất vưởng
đã ba tháng nay; anh thợ máy Kotliarov. Anh thợ giày Finka năm thì mười họa
cũng lại chơi.
Nhưng người khách đến đều nhất là Miska Kosevoi, một chàng
trai Cô-dắc chưa đến tuổi đi lính thường trực.
Đầu tiên mọi người chỉ đánh bài liên miên, nhưng một hôm
Stokman đưa ra khéo léo tập thơ nhỏ của Nekrasov (Nicolai Alekseevich
Nekrasov (1821 - 1877). Nhà thơ lớn nước Nga, theo phái cách mạng dân chủ).
Anh em đọc to và thấy thích. Xong Nekrasov thì chuyển sang Nikitin (Ivan
Savich Nikitin (1824 - 1861). Nhà thơ trữ tình Nga, theo phái cách mạng dân chủ),
nhưng đến khoảng lễ Nô-en thì Stokman bảo mọi người thử đọc một quyển vở nhàu
nát, không có bìa. Trước kia Miska đã tốt nghiệp trường tiểu học của nhà chung,
vì thế anh chàng được mọi người bảo đọc to để cùng nghe. Miska nhìn quyển vở
nhớp nhúa, con mắt có vẻ coi thường.
- Cắt ra nấu làm mì sợi được. Béo lắm đấy.
Khristonhia phá lên cười khồ khồ, Davydka cũng nhe hai hàm
răng trắng lóa ra cười, nhưng Stokman chờ cho mọi người cười xong mới nói:
- Cậu thử đọc xem, Miska. Cuốn nầy viết về người Cô-dắc đấy.
Hay lắm.
Miska cúi đầu làm cái bờm tóc vàng óng xõa xuống bàn, và bắt
đầu đọc tách bạch từng tiếng: “Lịch sử tóm tắt về tầng lớp Cô-dắc sông Đông”.
Đọc xong Miska nheo mắt nhìn tất cả mọi người có vẻ chờ đợi.
- Cậu đọc đi - Kotliarov nói như ra lệnh.
Họ đọc ba tối liền. Về Pugachev, về cuộc sống tự do, về
Stepan Radin và Kondrati Bulavin. Rồi họ
đọc tới những thời kỳ gần đây. Tác giả vô danh đã dùng những lời dễ hiểu nhưng
sâu cay để chế giễu cuộc sống thảm hại của người Cô-dắc, chế giễu các lề thói
hủ tục và chế độ cai trị, chế giễu chính quyền của vua Nga và ngay cả tầng lớp
Cô-dắc dấn thân làm những tên tay chân giúp vua Nga đàn áp. Mọi người đều bị
kích động. Một cuộc tranh luận sôi nổi nổ ra. Khristonhia dựa ngay đầu vào cái
dầm trên đầu, nói oang oang như lệnh vỡ. Stokman thì cứ ngồi bên cạnh cửa
phòng, hút thuốc bằng cái bót xương có nạm những cái vòng nhỏ, và chỉ cười bằng
hai con mắt.
(Emelian Ivanovich Pugachev
(chết 1775) thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của nông dân Nga, vốn là lính Cô-dắc, xưng
vương, sau những thắng lợi đầu tiên, bị bắt và bị xử tử.
Stepan Radin (chết 1671) thủ lĩnh một
cuộc khởi nghĩa của nông dân Nga, bị xử tử sau khi thất bại.
Kondrati Bulavin (1660 - 1707) lãnh tụ
cuộc khởi nghĩa của dân Cô-dắc ở miền Nam nước Nga trong hai năm 1707
- 1708, bị xử tử)
- Đúng lắm! Nói thật là chí lý! - Khristonhia nói ngay.
- Không phải là lỗi của chúng ta, chính chúng nó đã làm cho
người Cô-dắc đi tới tình trạng nhục nhã thế này. - Miska khoát hai tay đầy vẻ băn
khoăn, khuôn mặt rất đẹp có hai con mắt sẫm màu nhăn lại.
Người Miska vạm vỡ, vai và hông rộng ngang nhau, thành thử
trông cứ như hình vuông. Cái cổ đần đẫn đỏ như gạch đặt rất vững vàng trên một
cái nền chắc nịch như đúc bằng gang. Nhưng chỉ lạ một điều là trên cái cổ như
thế lại có một cái đầu nhỏ nhắn, với cặp má trắng mịn mang những đường nét của
phụ nữ, cái miệng nhỏ nhưng bướng bỉnh, hai con mắt màu sẫm dưới một bộ tóc
loăn xoăn vàng óng rất dầy. Anh thợ máy Kotliarov là một người Cô-dắc cao lớn to
xương, tranh cãi rất hăng. Mỗi tế bào của cái thân hình xương xẩu đó đều thấm
đẫm các truyền thống Cô-dắc. Kotliarov long lanh hai con mắt lồi tròn xoe để
đập Khristonhia và bênh vực người Cô-dắc.
- Cậu biến thành một thằng mu-gích mất rồi, Khristonhia ạ,
cậu đừng cãi làm gì vô ích… Trong cái máu bẩn thỉu của cậu, cả một thùng chỉ có
được một giọt máu Cô-dắc mà thôi. Bà cụ nhà cậu đã ngủ với một thằng bán trứng
ở Voronez đẻ ra cậu chứ gì!
- Sao cậu ngu khổ ngu sở thế?... Chà, cậu đúng là một thằng
ngu xuẩn, người anh em ạ. - Giọng Khristonhia trầm trầm. - Mình chỉ bảo vệ sự
thật thôi.
- Mình chưa từng đi lính trung đoàn Atamansky bao giờ. -
Kotliarov nói ác. - Chỉ trung đoàn Atamansky mới toàn là một phường ngu xuẩn…
- Nhưng các đơn vị khác còn có những thằng điên rồ bằng vạn.
- Thôi cậu im đi, đồ mu-gích!
- Thế mu-gích không phải là người hay sao!
- Chúng nó là mu-gích chính là vì chúng nó được làm bằng vỏ
cây, bằng cành khô.
- Người anh em ạ, hồi mình đi lính đóng ở Peterburg, mình đã
được thấy đủ hạng người. Và một lần đã có một câu chuyện như thế này, -
Khristonhia nhấn rất mạnh vào âm “a” của tiếng cuối cùng. - Bọn mình phải canh
gác hoàng cung, nhưng khi yên tĩnh cũng có những giờ phải ra bên ngoài. Ở bên
ngoài bọn mình cưỡi ngựa đi dưới chân hoàng thành: hai thằng đi theo hướng này,
hai thằng đi theo hướng kia. Hễ gặp nhau lại hỏi nhau: “Tất cả đều bình an vô
sự chứ? Không có chuyện nổi loạn chứ?” - “Chẳng có gì cả”, thế là mỗi đằng lại
đi một nẻo, nán lại nói với nhau thêm vài câu cũng không được phép. Bọn mình
thì người ngợm cũng phải lựa chọn: họ bắt hai thằng cùng đứng ở một cái cửa
phải giống nhau như hai giọt nước. Thằng tóc đen đứng với thằng tóc đen, thằng
tóc vàng đứng với thằng tóc vàng. Không riêng tóc mà cả khuôn mặt cũng phải
giống nhau. Chính vì những chuyện ngu xuẩn ấy mà có lần lão thợ cạo đã nhuộm cả
bộ râu của mình. Hôm ấy mình phải đứng gác với thằng Nikifo Meseriakov. Đại đội
của mình vốn có một thằng Cô-dắc trấn Tefikinskaia tên là như thế. Thằng quỷ
quái ấy, râu tóc nó đỏ rực như lửa ấy. Dịch tả dịch hạch nào biết được vì sao,
hai thái dương nó cứ như có lửa cháy bùng bùng. Tìm đi tìm lại mãi mà trong các
đại đội chẳng thấy có thằng nào râu tóc cùng màu như thế. Lão đại đội trưởng
Báckin bèn bảo mình: “Mày ra ngay hiệu thợ cạo bảo nó nhuộm thật nhanh râu ria
đi”. Mình bèn đi nhuộm… Nhưng vừa soi gương thì thấy lạnh cả tim: mình đang
cháy! Đúng là mình cháy bùng bùng, hoàn toàn là thế! Mình đưa tay lên nắm lấy
râu, ngón tay cứ như phải bỏng. Đúng thế đấy!
- Này, Khristonhia ạ, cậu nói toàn những chuyện ba láp gì
ấy! Cậu định bắt đầu nói về cái gì thế hử? - Kotliarov ngắt lời Khristonhia.
- Mình đang nói về con người mà.
- Được thế thì cậu kể nốt đi. Còn bộ râu của cậu thì có quan
hệ quái gì đến chúng mình.
- Đây mình nói ngay đây: Một lần mình phải cưỡi ngựa đi
tuần. Cùng đi còn có một cậu nữa. Chợt thấy một bọn sinh viên đổ ra từ một góc
tường. Đông ơi là đông. Bọn chúng nó trông thấy hai đứa chúng mình bèn hò la
rầm lên: “Ha-a-a-a-a…!”. Rồi lại lần nữa: “Ha-a-a-a-a!”. Chúng mình chưa kịp
hiểu đầu đuôi ra sao đã bị vây chặt. “Này, hai anh Cô-dắc, hai anh cưỡi ngựa đi
chơi đâu thế?”. Mình bèn trả lời: “Chúng tôi đi tuần đây, còn anh thì bỏ dây
cương ra, không được nắm như thế!” - mình vừa nói vừa nắm lấy cán gươm. Nhưng
gã kia lại nói: “Này, anh bạn đồng hương ơi, anh đừng nghi ngờ gì cả, chính
chúng tôi chôn rau cắt rốn ở trấn Kamenskaia đấy, tôi đến đây theo học trường
cao… cao cẳng”, đại khái cao chân cao cẳng gì đó. Lúc ấy mình lại thúc ngựa
tiến lên, nhưng một gã mũi to rút trong ví ra một tờ mười rúp và bảo: “Này hai
anh Cô-dắc, hai anh hãy cầm lấy uống vì vong linh ông cụ nhà tôi, ông cụ nhà
tôi nay đã mồ yên mả đẹp rồi”. Gã đưa cho chúng mình mười rúp rồi lấy trong cặp
ra một bức chân dung và nói: “Đây là mặt mũi ông cụ nhà tôi đây, hai anh hãy
giữ lấy làm kỷ niệm”. Thế là chúng mình nhận tấm ảnh vì không nhận cũng không
tiện. Sau đó bọn sinh viên bỏ đi và lại: “Ha-a-a-a-a?”, rồi cứ thế tiến về phía
đại nộ (lộ) Nhepxki. Lão đại đội
trưởng đem một trung đội phi ngựa từ cổng sau hoàng cung tới chỗ chúng mình.
Phi ngựa đến nơi lão ta hỏi: “Có chuyện gì thế?” Mình bèn trả lời: “Vừa có một
đám sinh viên đến vây quanh chúng tôi và bắt chuyện. Chúng tôi chiếu theo điều
lệnh đã định rút gươm ra chém, nhưng sau họ lại buông chúng tôi ra, vì thế
chúng tôi lại đi”. Bọn mình được thay phiên xong bèn nói với lão chánh quản:
“Thưa ngài Lukit, chúng tôi vừa kiếm được mười đồng rúp này đây, nhưng chúng
mình phải mua rượu uống hết để vong linh ông bố già này được yên nghỉ nơi thiên
đàng”, và chúng mình cho lão xem bức chăn
(chân) dung. Đến tối lão chánh quản đem vodka tới, bọn mình túy lúy càn khôn
hai ngày hai đêm liền, nhưng sau mới vỡ lẽ là bị chơi xỏ. Gã sinh viên nọ, cái
thằng chó chết ấy, nó không đưa cho mình ảnh thằng bố nó mà lại đưa bức hình chụp
lão trùm phiến loạn người Đức. Mình đã tin lời nó, nhận lấy và đem treo ngay
lên đầu giường để tưởng nhớ, vì mình thấy người trên bức chân dung có chòm râu
bạc phơ, mặt mày cũng phúc hậu, y như một lái buôn vậy. Nhưng lão đại đội
trưởng nhìn thấy lại hỏi: “Đồ thổ tả, mày tha bức chăn dung nầy ở đâu về đây hử?”. Mình bèn trả lời: “Như thế, như
thế đấy”. Lão bèn chửi rầm lên, cho mình mấy cú vào quai hàm, rồi lại một chập
nữa… Lão gầm lên: “Mày có biết không, đây là lão ataman của chúng nó, là Cácla…”.
Chà, mình quên khuấy đi mất rồi. Không biết tên lão ta là gì nhỉ, cầu Chúa ban
cho mình trí nhớ…
- Karl Marx? - Stokman mỉm cười khẽ nhắc.
- Đúng đấy, đúng đấy! Đúng lão ta là Karl Marx đấy… -
Khristonhia sung sướng nói. - Chính lão đã chơi mình bị một vố suýt chết… Có
khi chính đông cong (cung) thái tử
Aleksey cũng cùng với các thầy dạy của thái tử tới thăm phòng cảnh vệ. Họ có
thể nhìn thấy, và nếu thế thì không biết câu chuyện sẽ như thế nào.
- Thế mà cậu cứ khen bọn mu-gích nữa đi. Xem đấy, chúng nó
đã cho cậu một bài học như thế đấy. - Kotliarov giễu Khristonhia.
- Nhưng dù sao bọn mình cũng đã đem mười rúp mua vodka uống
sạch. Tuy là uống vì lão Karla râu xồm nhưng dù sao cũng đã uống rồi.
- Vì Karl Marx thì cũng đáng cạn chén lắm đấy, - Stokman mỉm
cười nghịch nghịch cái vòng trên cái bót bằng xương vàng khè vì khói thuốc lá.
- Thế ông lấy đã làm được điều gì tốt? - Miska hỏi.
- Lần sau mình sẽ kể, hôm nay khuya mất rồi, - Stokman gõ
cái bót vào lòng bàn tay, tống đầu điếu thuốc đã tắt ra.
Sau một thời gian sàng sảy và lọc đi lọc lại rất lâu, trong
căn nhà nhỏ của mụ lác Lukeska đã thành lập được một nhóm nòng cốt chừng mười
anh chàng Cô-dắc. Stokman là hạt nhân của nhóm, anh kiên nhẫn tiến về phía một
mục đích mà chỉ mình anh biết. Như con mọt đục khoét thân một cây gỗ, anh ăn
mòn dần những khái niệm và thói quen sơ lược cũ, nhen lên một niềm kinh tởm,
căm thù chế độ hiện hành. Đầu tiên anh cũng có vấp phải chất thép lạnh của lòng
hoài nghi, nhưng anh vẫn không lui bước, vẫn cứ gặm cho kỳ thủng…
10
Trấn Vosenskaia nằm trên bờ cát thoai thoải ở tả ngạn sông
Đông. Trong số các trấn vùng thượng lưu, đó là trấn có trước nhất. Trước kia
tên nó vốn là Trigonac, nhưng dưới triều hoàng đế Petr đệ nhất, Trigonac đã bị
phá trụi rồi sau đó di tới đây và đổi tên là Vosenskaia. Có thời kỳ Vosenskaia
đã từng là một chặng quan trọng trên con đường thủy lớn từ Voronez ra biển
Azop. Sông Đông chảy đến trước thị trấn thì uốn cong như chỗ lượn của một cái
bao cung Tarta, làm người ta tưởng như nó rẽ sang trái, nhưng khi đến gần thôn
Batki, nó lại uy nghiêm tiến thẳng theo hướng cũ, cuốn những làn nước xanh lá
cây in màu da trời, qua những nhánh núi đá phấn và những thôn nằm san sát trên
bờ bên phải, qua những trấn thưa thớt trên bờ bên trái ra biển, ra tới biển
Adôp xanh biếc.
Tới ngang trấn Ust-Khopeskaia, sông Đông hợp làm một với
sông Khop, và ở trước mặt trấn Ust-Medvedikaia nó nhận thêm sông Medvedisa. Từ
đấy về xuôi nó chảy với cơ man nào là nước giữa những thôn trấn đông dân làm ăn
rất phát đạt.
Vosenskaia toàn là cát vàng. Một trấn buồn tẻ, trơ trụi,
không có vườn hoa. Trên quảng trường chính có một tòa nhà thờ cổ, xám xịt qua
thời gian, sáu dãy phố chạy song song với dòng sông. Ở chỗ sông Đông lượn vòng
để rời thị trấn chảy về thôn Batki, trong những đám tiêu huyền um tùm, bắt đầu
có một cái hồ nom như một ống tay áo, rộng bằng lòng sông Đông mùa nước cạn.
Chỗ cái hồ chấm dứt thì cũng vừa hết thị trấn. Trên một cái bãi nhỏ mọc đầy
những bụi gai vàng óng, nhọn như kim, có ngôi nhà thờ thứ hai với cái mái màu
xanh lá cây cũng như cái nóc tròn, lẫn với màu xanh của những cây tiêu huyền
mọc trên bờ hồ bên kia.
Ra khỏi trấn đi về phía bắc thì toàn là một thứ cát vàng như
nghệ, với đám thông còm cõi, những cái khe lở đáy toàn đất sét đỏ nên nước cũng
ánh màu hồng. Và trên những khoảng cát bị ngập khi có nước lũ, trên những gò
cát to hạt đàng xa, lác đác có vài chòm thôn xóm, vài khu vườn quả bên lề các
thôn hoặc vài đám cây liễu lởm chởm màu hung hung, nom như những hòn đảo.
Một ngày chủ nhật tháng mười hai, một đám có tới năm trăm
chàng trai Cô-dắc từ tất cả các thôn trong trấn kéo đến đen ngòm trên bãi trước
nhà thờ cổ. Trong nhà thờ đang làm lễ mi-sa sắp xong, những nhịp chuông “Tôn
xưng Chúa” vang lên dóng dả. Một viên thượng sĩ ra lệnh “tập hợp”. Đó là một
lão Cô-dắc khá nhiều tuổi, coi bộ rất hùng dũng, tay áo đeo lon tái đăng. Đám
người vừa nãy còn ồn ào láo nháo chạy tản ra rồi đến xếp thành hai hàng dài so
le. Vài tên hạ sĩ chạy dọc theo các hàng sửa lại các đoạn lượn vòng hoặc đứt
quãng.
- Thành bốn hàng ngang… - Lão thượng sĩ kéo dài giọng khoát
tay với một cử động không hiểu có ý như thế nào, rồi hô nốt: - Bước!
Lão ataman trấn đi vào bên trong dãy tường bao. Lão mặc quân
phục, chiếc áo ca-pốt sĩ quan mới tinh, đinh thúc ngựa đập vào nhau leng keng.
Một tên phái viên quân sự đi theo lão.
Grigori đứng cạnh Mitka. Hai người khẽ nói chuyện với nhau.
- Một bên ủng của mình bó chặt lấy chân, mình không chịu
được nữa đâu. - Mitka than vãn.
- Cố mà chịu, rồi sau nầy sẽ làm ataman.
- Họ sẽ lôi cổ đi ngay đấy?
Như để chứng thực cho câu nói của Mitka, lão thượng sĩ lùi
một bước, xoay mình trên gót ủng:
- Bên phải… quay!
Năm trăm cặp chân đi ủng quay lạo xạo.
- Vai trái đưa lên trước, đi đều… bước!
Cái cửa xép trên dãy tường bao nhà thờ mở toang, đội hình
hàng dọc của đám thanh niên Cô-dắc tiến vào, những cái mũ lông cất khỏi đầu lấp
loáng. Tiếng chân bước rầm rập vang lên đến cái nóc bán cầu của nhà thờ.
Lão cố đạo đọc lời tuyên thệ. Grigori đứng đấy chẳng chú ý
nghe một lời nào. Chàng liếc nhìn vào mặt Mitka, thấy nó cứ nhăn như bị vì đau
và xoay đi xoay lại bên chân bị bó chặt trong chiếc ủng. Cánh tay Grigori giơ
lên tuyên thệ đã tê cứng, những ý nghĩ đắm đuối, hỗn loạn, quay cuồng trong đầu
óc chàng. Chàng bước tới gần cây thánh giá, hôn chất bạc đã đẫm nước bọt của
bao nhiêu miệng người, nhưng cứ hết nghĩ tới Acxinhia lại nghĩ tới vợ. Những
hồi ức phiến đoạn liên tiếp thay nhau lóe lên trong óc Grigori như những ánh
chớp lằng nhằng chữ chi: khoảng rừng, những thân cây nâu nâu dưới những cái tán
xum xuê trắng toát như đeo những đai thắng huy hoàng bằng bạc, cái ánh ươn ướt,
sáng bừng bừng trong hai con mắt đen láy của Acxinhia dưới chiếc khăn bịt đầu
lồm xồm.
Mọi người quay ra bãi. Lại đứng thành hàng ngũ. Lão thượng
sĩ sỉ mũi, lén chùi ngón tay vào mặt lót áo quân phục, rồi bắt đầu nói:
- Bây giờ các anh không còn là trẻ con nữa, mà đã là những
tráng đinh Cô-dắc. Đã tuyên thệ thì phải hiểu rõ nhiệm vụ, bổn phận của mình.
Một khi các anh đã lớn lên thành tráng đinh Cô-dắc thì phải bảo vệ danh dự của
người Cô-dắc, phải vâng lời bố mẹ và phải cư xử cho đúng về tất cả các mặt
khác. Trước kia là trẻ con thì còn có thể nghịch ngợm lung tung, có lẽ còn giật
bờm tóc của nhau ở ngoài đường, nhưng từ nay thì phải nghĩ tới việc phục vụ sau
này trong quân đội. Chỉ một năm nữa là các anh đã trở thành những binh sĩ hiện
dịch. - Nói đến đây lão thượng sĩ lại sỉ mũi, lắc cho hết nước mũi trong lòng
bàn tay, rồi lại đeo chiếc găng lông thỏ rất đẹp vào và nói:
- Còn bố mẹ anh thì bắt đầu lo trang bị cho các anh thì vừa.
Phải sắm cho mỗi anh một con ngựa chiến, nói chung đại thể là như thế… Thôi bây
giờ các chàng trai dũng mãnh về nhà, cầu Chúa che chở cho các anh!
Grigori và Mitka ra tới chỗ cái cầu thì đứng lại chờ các bạn
trong thôn cùng về. Mọi người đi dọc theo bờ sông. Khói trong các ống khói tan
ra bên trên thôn Batki. Vẳng tiếng chuông nhà thờ nhẹ nhàng, lanh lảnh. Mitka
chống một đoạn cọc gãy có rất nhiều mấu, khập khiễng đi sau tất cả.
- Cậu tháo ủng ra đi. - Một gã khuyên.
- Mình bị cóng hỏng chân mất. - Mitka đứng lại, trù trừ.
- Cậu cứ mang bít-tất mà đi.
Mitka ngồi xuống tuyết, mím môi mím lợi kéo ủng ra, rồi khập
khiễng đi với một bên chân tháo ủng. Lớp tuyết xốp xốp trên đường in rõ vết
chiếc bít-tất móc tay rất dày.
- Chúng mình về bằng đường nào bây giờ. - Aleksey Bêtnhiac
nói. Nó là một thằng lùn choằn choằn, để bờm tóc rất dài.
- Đi trên sông mà về. - Grigori trả lời thay cho tất cả.
Mọi người chuyện trò huyên thuyên, vừa đi vừa xô đẩy nhau.
Theo thỏa thuận chung, từng người một lần lượt bị vật xuống
tuyết rồi bị tất cả những người khác đè lên thành một đống. Trên đoạn đường
giữa hai thôn Batki và Gromkovsky, Mitka là người đầu tiên trông thấy một con
chó sói vượt sông Đông.
- Này các cậu, có con chó sói độc… nó kia kìa! Hu-u-u-u!...
- A-liu-liu-liu-liu-liu!...
- Hu-u-u!...
Con chó sói chạy thêm vài xa-gien, vẻ lười nhác, rồi nghiêng
nghiêng mình đứng lại cách bờ bên kia không xa.
- Tóm lấy nó!...
- Ha!...
- Hu!... Cái con chết tiệt!...
- Mitka ạ, nó lấy làm lạ không hiểu sao mày chỉ đi bít-tất
mà không đi ủng đấy.
- Xem kìa, nó cứ đứng nghiêng nghiêng, cổ nó cứng đờ. Nó
không quay cổ được đâu.
- Xem kìa, xem kìa, nó bỏ đi rồi!...
Con thú lông xám đen, nom như tạc bằng đá thiên nhiên, duỗi
thẳng cái đuôi như cái gậy, đứng lại một lát, rồi bất thình lình nhảy vọt sang
bên, hoảng sợ chạy vào đám liễu mọc thành một đường viền trên bờ sông.
Mọi người về tới thôn thì trời đã tối, Grigori đi trên lớp
băng về tới ngõ nhà rồi mới leo tới cổng. Trong sân còn ngổn ngang mấy chiếc xe
trượt tuyết bỏ không dùng nữa. Một đàn chim sẻ ríu rít trên đống củi xếp bên
cạnh hàng rào. Đã ngửi thấy cái mùi quen thuộc của những nơi có người ở, mùi bồ
hóng cháy và cái mùi hâm hấp của sân gia súc.
Grigori bước lên thềm, ghé mắt qua cửa sổ nhìn vào trong
nhà.
Cây đèn treo tỏa ra trong bếp một thứ ánh sáng vàng đục.
Petro đứng dưới ánh đèn, lưng quay ra cửa sổ. Grigori cầm cái chổi quét hết
tuyết trên ủng rồi bước vào trong bếp giữa một làn hơi nước mù mịt như đám mây.
- Tôi về rồi đây. Xin chào cả nhà.
- Mày về sớm nhỉ. Có lẽ cóng lắm phải không? - Petro trả lời,
giọng vội vã.
Ông Panteley Prokofievich ngồi gục đầu, hai khuỷu tay tì
xuống đầu gối. Daria đạp cái guồng kéo sợi quay vo vo. Natalia xoay lưng về
phía Grigori, đứng cạnh bàn, nhưng không quay lại.
Grigori đưa nhanh mắt nhìn quanh căn bếp, rồi nhìn kỹ Petro.
Nhìn thấy mặt của Petro đầy vẻ chờ đợi lo lắng, Grigori hiểu rằng đã có chuyện
gì xảy ra.
- Mày tuyên thệ rồi chứ?
- Rồi.
Grigori từ từ cởi áo ngoài, cố dành thì giờ để điểm thật
nhanh trong óc tất cả các trường hợp ngẫu nhiên có thể gây ra bầu không khí chết
lặng và cuộc đón tiếp khá lạnh nhạt nầy.
Bà Ilinhitna ở nhà trong bước ra, vẻ mặt có đôi phần bối
rối.
“Chuyện Natalia rồi”. - Grigori vừa nghĩ thầm vừa ngồi xuống
bên cạnh bố trên chiếc ghế dài.
- Mang ra cho nó ăn tối đi. - Bà Ilinhítca đưa mắt chỉ Grigori
và bảo Natalia.
Daria ngừng tiếng vo vo của chiếc guồng quay sợi, khẽ nhún
nhảy hai vai cùng cả cái thân hình thon thon chẳng có vẻ gì là của một người
đàn bà đã có chồng. Trong bếp lại lặng như tờ. Bên cạnh cái bếp lò dưới đất,
hai mẹ con con dê vừa mới sinh nằm sưởi, thỉnh thoảng lại thở phì phì.
Grigori ăn súp bắp cải, chốc chốc lại đưa mắt nhìn Natalia
nhưng không thấy mặt nàng. Natalia ngồi chếch với Grigori, đầu nàng cúi gầm
xuống đôi kim đan. Ông Panteley Prokofievich là người đầu tiên không chịu nổi
cái cảnh tất cả mọi người đều ngậm tăm như thế nầy! Ông húng hắng ho, tiếng ho
khàn khàn, rất không tự nhiên.
- Natalia định trở về nhà nó đấy.
Grigori chẳng nói chẳng rằng, cứ vun những miếng bánh mì rơi
vãi, viên tròn lại.
- Như thế là vì sao hử? - Ông bố hỏi, và người ta có thể
trông thấy môi dưới của ông run bần bật (đó là triệu chứng đầu tiên báo trước
một cơn cuồng nộ sắp nổ ra).
- Con cũng chẳng rõ vì sao. - Grigori nheo mắt đẩy cái bát
ra rồi vừa làm dấu phép vừa đứng dậy.
- Nhưng tao thì tao biết! - Người bố nói giật giọng.
- Đừng làm rầm lên như thế, đừng ầm cửa ầm nhà lên ông ơi? -
Bà Ilinhitna can.
- Nhưng tao thì tao đã biết rõ vì sao!
- Thôi, có việc gì mà phải to tiếng như vậy? - Petro rời chỗ
cửa sổ đứng ra giữa phòng. - Đây là một chuyện cần phải giải quyết nhẹ nhàng
cho thỏa đáng: muốn ở lại thì ở, chẳng muốn ở thì đi đâu cũng được…
- Tao không trách con Natalia, tuy dù sao đó cũng là một
điều nhục nhã và có tội với Chúa. Tao không trách nó: tội lỗi không do nó gây
ra, mà chính là do cái thằng chó đẻ này! - Ông Panteley Prokofievich lúc này đã
đứng tựa lưng vào bếp lò.
- Thế tôi có lỗi với ai?
- Mày không biết về bản thân mày à? Mày không biết à, đồ
khốn nạn?
- Tôi không biết.
Ông Panteley Prokofievich đứng chồm lên, hất đổ cái ghế dài,
xông đến sát trước mặt Grigori. Natalia để rơi cuộn len xuống đất, chiếc kim
đan tuột ra nảy lên. Con mèo đang ở trên bếp lò nghe thấy tiếng lách cách bèn
nhảy xuống rồi vẹo đầu, khòng chân, vờn cuộn len cho lăn tới bên chiếc rương.
- Bây giờ thì tao bảo cho mày biết. - Ông già bắt đầu nói
bằng một giọng cố trấn tĩnh và dằn từng tiếng. - Nếu mày không muốn sống với
con Natalia nữa thì cút ngay khỏi nhà tao, bước đi đằng nào thì bước! Tao đã
nói thế đấy! Muốn bước đi đằng nào thì bước. Ông nhắc lại bằng một giọng bình
tĩnh như ngày thường rồi quay lại nhấc cái ghế dài lên.
Dunhiaska ngồi trên giường, sợ quá, cứ tròn xoe con mắt mà
nhìn.
- Cha ạ, con nói thế này cha đừng bực mình. - Giọng Grigori
trầm nhưng rất vang. - Không phải tự con đi lấy vợ, mà là cha lấy vợ cho con.
Con có theo tán Natalia đâu. Nếu bây giờ muốn về với bố thì tùy ý!
- Cả mày nữa cũng xéo khỏi nhà này!
- Thì con xéo.
- Cút mẹ mày đi ngay!
- Tôi đi đây, tôi đi đây, cha chẳng phải giục! - Grigori cầm
tay áo kéo lấy cái áo lông ngắn trên giường, lỗ mũi phập phồng, người run bắn
lên trong một cơn tức giận điên cuồng, y như bố.
Trong người hai bố con cùng chảy một dòng máu có pha máu Thổ
nhĩ kỳ, vì thế trong lúc này, cả hai giống nhau một cách kỳ quặc.
- Mày định đi đâu bây giờ hở con? - Bà Ilinhitna rền rĩ bíu
lấy tay Grigori, nhưng Grigori đẩy mạnh mẹ ra và thuận tay đón bắt luôn chiếc
mũ lông rơi trên giường xuống.
- Mặc cho nó xéo đi, con chó dái dâm đãng nầy! Cút ngay, đồ
đáng nguyền rủa! Xéo, xéo, cút ngay! - Ông già mở toang cánh cửa, gầm lên.
Grigori chạy lao ra phòng ngoài, và những âm thanh cuối cùng
mà chàng nghe thấy là tiếng Natalia òa lên khóc.
Màn đêm giá băng trùm lên thôn xóm. Bột tuyết rơi từ trên
bầu trời đen kịt xuống, nhọn sắc như kim. Băng trên mặt sông Đông nứt ra, nổ ầm
ầm như tiếng đại bác. Grigori thở hổn hển chạy ra khỏi cổng chính. Đầu thôn
đằng kia, có những tiếng chó sủa oăng oẳng đủ mọi giọng. Bóng tối mông lung như
khói bị thủng lỗ chỗ vì những đốm lửa vàng vàng.
Grigori chạy không mục đích theo dọc phố. Màu đen trong mấy
khung cửa sổ của nhà Stepan lấp loáng như kim cương.
- Griska! - Tiếng gào đau khổ của Natalia vọng từ trong cửa.
“Tao không yêu được mày thì sao mày chẳng chết đi cho xong!”
- Grigori nghiến răng ken két, càng rảo bước hơn.
- Griska, quay lại đi anh ơi!
Grigori bước lảo đảo như thằng say rượu, rẽ vào cái ngõ đầu
tiên, và nghe thấy lần cuối cùng tiếng gọi ai oán, chỉ còn loáng thoáng vì quá
xa:
- Griska, anh yêu của em!
Grigori đi ngang qua cái bãi, đến chỗ ngã ba đường thì đứng
lại, để điểm trong óc tên tất cả các bạn quen, xem có thể ngủ nhờ nhà ai.
Grigori dừng lại trước nhà Miska Kosevoi. Miska ở tách hẳn
ra bên ngoài thôn, ngay dưới chân núi. Bà mẹ, Miska, đứa em gái chưa lấy chồng,
và hai đứa em nhỏ: cả gia đình Kosevoi có ngần ấy người.
Grigori bước vào sân, gõ lên cái cửa sổ của căn nhà đắp bằng
đất trộn rơm.
- Ai thế?
- Miska có nhà không.
- Có nhà. Nhưng ai thế?
- Mình đây mà, Grigori Melekhov đây.
Miska vừa chợp mắt, ngủ đang ngon, một phút sau mới mở cửa.
- Cậu đấy à Griska?
- Mình đây.
- Đêm hôm thế này cậu có việc gì thế?
- Cho mình vào trong nhà đã, vào trong ấy sẽ nói.
Vào đến phòng ngoài, Grigori nắm lấy khuỷu tay Miska, nghĩ
mãi chẳng biết nói sao cho tiện, bực cả mình. Cuối cùng chàng khẽ nói:
- Cho mình qua đêm nay ở nhà cậu nhé… Mình vừa cãi lộn với
gia đình… Nhà cậu thế nào, có chật lắm không? Mình thì nằm chỗ nào cũng được.
- Cậu cứ vào đã chỗ nằm cũng sẽ tìm được thôi. Có chuyện gì
mà cãi lộn thế?
- Ối chao, người anh em ạ… sau hẵng hay… Cửa nhà cậu ở chỗ
nào thế nhỉ? Mình chẳng thấy đâu cả.
Miska sửa soạn cho Grigori nằm trên chiếc ghế dài. Grigori
nằm xuống, rồi lấy cái áo lông ngắn trùm kín đầu để khỏi nghe thấy những tiếng
thì thầm của bà mẹ Miska ngủ cùng giường với con gái.
“Không biết bây giờ ở nhà thế nào nhỉ? Natalia có bỏ về
không nhỉ? Thôi, từ nay cuộc sống sẽ chảy theo một dòng khác rồi. Mình dựa vào
đâu bây giờ?”. Nhưng một ý nghĩ đã nảy ra ngay trong đầu óc Grigori: “Ngày mai
mình sẽ gọi Acxinhia, sẽ cùng với Acxinhia đi Kuban, đi thật xa khỏi nơi này…
thật xa, thật xa…”.
Tuy Grigori đã nhắm mắt, nhưng trước mắt chàng cứ lờ mờ hiện
ra những đỉnh núi trên đồng cỏ, những thôn xóm, những thị trấn mà chàng chưa
thấy bao giờ, những nơi xa lạ với lòng chàng. Nhưng đằng sau những ngọn núi
trập trùng dựng lên như những dãy tường khổng lồ, bên kia con đường xám xịt lại
là cả một vùng trời đất xanh ngát như trong thần thoại đang vui vẻ đón chào,
thêm vào đó còn có Acxinhia với mối tình nở hoa muộn màng, ngỗ ngược của nàng.
Grigori ngủ thiếp đi với cả một nỗi lòng xao xuyến trước
những điều mới lạ khôn lường đang lừ lừ tiến tới. Nhưng trước khi ngủ, chàng
còn cố điểm lại xem có cái gì chưa nói ra được cứ đè nặng trong đầu óc mình,
nhưng nghĩ đến mấy cũng không ra. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê như thế này,
có cảm tưởng như những ý nghĩ trong đầu đang nối tiếp nhau rất trơn tru, đều
đặn như một con thuyền đang thuận dòng trôi xuôi, bỗng bị một cái gì, có vẻ như
một dải cát ngầm, chặn lại: Grigori cảm thấy rất khó chịu, tức anh ách, và cứ
trằn trọc hỳ hục vật lộn với mọi điều ức đoán: “Có cái gì thế nhỉ? Có cái gì
ngáng đường mình thế này nhỉ?”
Nhưng sáng hôm sau, lúc Grigori tỉnh dậy, chàng đã nhớ ra:
“Còn phải đi lính! Thế thì mang Acxinhia đi đâu bây giờ? Sang xuân đã phải đến
tập trung ở trại, đến mùa thu là chính thức vào lính rồi… Đó chính là cái gậy
chọc vào bánh xe đấy”.
Ăn sáng xong, Grigori gọi Miska ra phòng ngoài:
- Miska à, cậu đến nhà Astakhov, nói lại hộ với Acxinhia
rằng hôm nay trời bắt đầu nhá nhem thì lại chỗ cái cối xay gió nhé.
- Thế còn Stepan? - Miska ngần ngại.
- Cậu thử nghĩ cách xem, cứ làm như đến có việc.
- Được, mình sẽ đi.
- Cậu đi đi! Bảo giúp Acxinhia là thế nào cũng đến nhé.
- Được!
* * *
Lúc trời bắt đầu tối, Grigori đến ngồi bên cối xay gió, hút
thuốc trong ống tay áo. Sau lưng cái cối xay, gió thổi ràn rạt giữa những thân
ngô khô. Một mảnh vải tuột chỉ đập phần phật trên những cánh quạt đã chốt chặt.
Grigori cảm thấy như có con chim khổng lồ đang vỗ cánh bay lượn vòng trên đầu
mình, nhưng không bay đi được.
Vẫn chưa thấy Acxinhia đến. Bên phía trời tây, ánh hoàng hôn
tím ngát đang phủ lên nền trời vàng đục. Bên phía trời đông, gió thổi một lúc
một nhanh, một mạnh. Bóng đêm ập tới đuổi vượt vầng trăng bị vướng trong đám
liễu. Khoảng trời trên cái máy xay đang màu da cam với những chỗ bầm xanh bỗng
xám xịt lại như một cái thây ma. Từ trong thôn vẫn còn vẳng ra những tiếng động
của công việc bận rộn còn lại trong ngày.
Grigori hút liền một lúc ba điếu thuốc. Chàng dúi mẩu thuốc
hút dở cuối cùng xuống tuyết rồi đưa mắt nhìn quanh, trong lòng vừa mong vừa
giận. Từ cái cối xay gió tới trong thôn, mọi vật cứ mờ dần rồi đen lại như nhựa
chưng. Chẳng thấy có ai trong thôn ra. Grigori đứng dậy, vặn lưng, làm xương
vai kêu răng rắc, vươn vai rồi bước về phía ánh đèn như mời chào trong khung
cửa sổ nhỏ bên căn nhà của Miska. Chàng huýt sáo qua kẽ răng, đã sắp về tới sân
thì thiếu chút nữa đâm sầm phải Acxinhia. Có lẽ nàng đang chạy hay ít nhất cũng
cắm đầu cắm cổ rảo bước, vì thế cứ hổn hà hổn hển, cặp môi mát rượi thoảng một
mùi thanh thanh không biết là hơi gió hay hương cỏ xa xôi trên đồng cỏ.
- Đợi mãi, cứ tưởng em không đến.
- Mãi mới tống cổ được Stepan đi…
- Làm anh chết cóng rồi đây này, cái ả chết dẫm!
- Em thì đang nóng ran đây, để em sưởi cho anh vậy. -
Acxinhia mở rộng hai bên tà không cài khuy của chiếc áo lông kiểu sông Đông,
choàng quanh người Grigori như dây hốt bố ôm quanh cây sồi - Nhưng anh gọi em
có việc gì thế?
- Hượm đã, nhưng buông tay ra… ở đây có người qua lại đấy.
- Có thật là anh cãi lộn với gia đình không?
- Anh bỏ đi rồi. Anh đã đến ở nhà Miska một ngày một đêm…
Bây giờ sống như con chó hoang.
- Anh định thế nào bây giờ? - Acxinhia đang ôm lấy Grigori
bỗng buông hai tay ra rồi khép tà áo lông như bị lạnh. - Griska ạ, ta vào bên
hàng rào đi. Sao lại đứng giữa đường thế này?
Hai người bước sang bên đường. Grigori đá tung một đống
tuyết để đứng dựa lưng vào một dãy hàng rào giá băng kêu răng rắc.
- Anh biết không, Natalia bỏ về nhà bố mẹ rồi đấy!
- Không biết… Nhưng thế nào cũng phải về thôi. Nếu không thì
ở lại nhà anh làm gì?
Grigori cầm lấy hai bàn tay giá lạnh của Acxinhia, kéo vào
trong ống tay áo mình và nắm chặt những ngón tay trên bàn tay nhỏ nhắn của
Acxinhia và hỏi:
- Chúng mình sẽ thế nào bây giờ?
- Anh yêu của em, em làm thế nào mà biết được? Anh thế nào
thì em cũng thế.
- Em bỏ Stepan chứ?
- Bỏ không thương tiếc gì cả. Ngay bây giờ cũng được.
- Cả hai chúng mình sẽ cùng đi làm thuê ở nơi nào đó, chúng
mình sẽ sống được thôi!
- Dù anh với em phải đi chăn bò, anh Griska… Miễn là được
sống với anh.
Hai người cứ đứng như thế một lát, đem hơi nóng trong người
mình sưởi ấm cho nhau. Grigori không muốn bỏ về, cứ đứng quay đầu về hướng gió,
mắt nhắm nghiền, cánh mũi phập phồng.
Acxinhia rúc mặt vào nách Grigori, hít lấy hít để mùi mồ hôi
thân thuộc và ngây ngất của chàng. Grigori không nhìn thấy cặp môi dâm đãng, nụ
cười sung sướng vì hạnh phúc đã được thực hiện.
- Mai anh sẽ đến nhà Mokhov, may sẽ kiếm được một việc làm.
Grigori vừa nói vừa nắm bàn tay có những ngón tay đẫm mồ hôi
của Acxinhia. Acxinhia không nói gì. Và cũng chẳng ngẩng đầu lên. Nụ cười vừa
rạng lên trên môi nàng lúc nầy đã như bị gió thổi bay đi đâu mất.
Hai con mắt nàng mở trừng trừng, đầy buồn thảm và hốt hoảng
như con thú bị vây bắt. “Nói hay không nói bây giờ?” - Acxinhia chợt nhớ rằng
mình đang có mang bèn tự hỏi. “Phải nói mới được”, - nàng vừa quyết định như
thế đã rùng mình hoảng sợ, xua ngay ý nghĩ rùng rợn đó. Linh tính của người đàn
bà đã gợi cho nàng hiểu rằng bây giờ chưa phải là lúc nói ra chuyện ấy. Nàng
hiểu rằng làm thế thì có thể vĩnh viễn mất Grigori, vì chính nàng còn chưa rõ
trong hai người đàn ông, người nào là cha của đứa bé đang ngọ nguậy trong lòng
mình. Cuối cùng nàng đã không nói nữa.
- Sao em run bần bật thế? Lạnh à? - Grigori vừa hỏi vừa lấy
tà áo lông cuốn chặt lấy người Acxinhia.
- Em hơi lạnh một chút… Nhưng phải về thôi, anh Griska ạ.
Nhỡ Stepan về nhà lại không thấy em.
- Nó đi đâu thế?
- Em bảo mãi hắn mới sang nhà Anikey đánh bài.
Hai người chia tay nhau. Trên môi Grigori còn lưu mùi hương
ngây ngất của cặp môi nàng, cặp môi quyện cái mùi không biết là của gió đông
hay mùi hương xa xôi, khó tả của cỏ khô trên đồng sau trận mưa xuân.
Acxinhia rẽ vào một cái ngõ. Nàng khom lưng, bước rảo gần
như chạy. Đến trước cái giếng không biết của nhà ai, chỗ gia súc dẫm nát nhoét
một đống bùn tích lại từ mùa thu, nàng bước không khéo bị trượt chân trên một
mô đất giá băng. Bụng đau nhói, nàng phải nắm lấy một cái cọc hàng rào. Một lát
sau thấy bớt đau, nhưng ở bên sườn có cái gì đầy sức sống cựa mình, giận giữ
đạp mạnh liền mấy cái.
11
Sáng hôm sau, Grigori đến nhà Mokhov. Sergey Platonovich vừa
ở ngoài hiệu về uống trà. Lão ngồi cùng với Atepin trong phòng ăn, tường dán
một thứ giấy đắt tiền giả vân gỗ sồi, và đang chuyên trà, một thứ trà đặc sánh,
đỏ như rượu Boóc-đô. Grigori để mũ ở phòng ngoài rồi bước vào phòng ăn.
- Thưa ông Sergey Platonovich, tôi xin phép gặp ông một lát.
- À, hình như anh là cậu hai nhà ông Panteley Prokofievich
thì phải.
- Vâng, đúng đấy ạ.
- Anh có việc gì thế?
- Tôi muốn hỏi xem ông có nhận tôi vào một chân làm công
được không?
Chợt có tiếng cánh cửa rít, Grigori quay đầu lại. Từ trong
phòng khách, bước ra một sĩ quan trẻ tuổi, tay cầm tờ báo gấp tư. Hắn mặc quân
phục màu xanh lá cây, đeo lon trung úy. Grigori nhận ra viên sĩ quan bị Mitka
Korsunov vượt trong cuộc đua ngựa năm ngoái.
Sergey Platonovich đẩy một chiếc ghế dựa cho viên sĩ quan
ngồi rồi nói:
- Sao thế, chẳng nhẽ ông cụ nhà anh đã sa sút đến nỗi phải
cho con trai đi làm thuê hay sao?
- Tôi không ở với cha tôi nữa.
- Ra ở riêng à?
- Vâng.
- Tôi cũng rất muốn nhận anh vào làm, vì tôi biết gia đình
bên ấy lắm, toàn những người hay lam hay làm, nhưng hiện nay lại không thiếu
người.
- Có việc gì thế ông? - Viên trung úy đến ngồi vào bàn, rồi
đưa mắt nhìn Grigori và hỏi.
- Anh chàng muốn kiếm việc làm.
- Anh có biết chăm nom ngựa không? Đánh xe có càng giữa
thắng hai con ngựa có khá không? - Viên trung úy vừa hỏi vừa khuấy chiếc cùi
dìa nhỏ trong cái tách.
- Vâng được, nhà tôi cũng nuôi sáu con ngựa của gia đình.
- Tôi đang cần một tay đánh xe. Thế các điều kiện của anh như
thế nào?
- Công xá tôi cũng không xin nhiều đâu…
- Nếu thế ngày mai anh cứ tới dinh cơ ông cụ nhà tôi. Anh có
biết trại của cụ Litnhitki Nicolai Alekseevich ở đâu không?
- Vâng có biết.
- Cách đây khoảng mười hai vec-xta thôi. Mai vào buổi sáng
nhé. Sang bên ấy ta sẽ thỏa thuận với nhau.
Grigori ngập ngừng nán lại một lát. Cầm quả đấm rồi, chàng
mới nói:
- Thưa quan lớn, quan lớn cho gặp riêng một lát, tôi có
chuyện muốn thưa với quan lớn…
Viên trung úy bước theo Grigori ra khoảng hành lang tranh
tối tranh sáng. ánh sáng hồng hồng ngoài sân thượng lọt vào dè sẻn qua những
miếng kính mờ.
- Có việc gì thế?
- Tôi không phải chỉ có một mình… - Mặt Grigori đỏ như gấc.
- Cùng đến với tôi còn có một người đàn bà. Không biết có kiếm được cho cô ấy
một việc nào làm không?
- Vợ anh à? - Viên trung uý mỉm cười hỏi, hai hàng lông mày
giương lên, nắng chiếu vào nom hồng hồng.
- Vợ người khác.
- Chà, ra vậy. Cũng được thôi, chúng tôi sẽ sắp xếp để nấu
ăn cho bọn đầy tớ. Thế chồng cô ấy đâu?
- Ở ngay đây, cũng người thôn nầy.
- Sao vậy, anh cướp vợ của người ta à?
- Tự cô ấy theo đấy thôi.
- Câu chuyện cũng lãng mạn nhỉ? Thôi được, sáng mai cứ lại.
Bây giờ thì anh về được rồi, người anh em ạ.
Grigori đến Yagonoie, dinh cơ của nhà Litnhitki, khoảng tám
giờ sáng. Dãy tường bao bằng gạch loang lổ vây quanh cái sân rất rộng, trong
sân có những căn nhà phụ, cái ra cái vào chẳng thành hàng lối gì cả: một dãy
nhà ngang mái ngói, giữa mặt trước có con số 1910 đắp bằng ngói, nhà đầy tớ,
nhà tắm, tàu ngựa, nhà nuôi gà vịt chuồng bò, một nhà kho dài, nhà để xe. Một tòa
nhà cổ rất to nằm giữa khu vườn, từ sân vào phải qua dãy hàng rào. Sau nhà có
cánh rừng dựng đứng như bức tường xám với những cây tiêu huyền và dương liễu
trơ trụi. Những cái tổ quạ nằm lắt lẻo trên cây nom như những cái mũ màu nâu,
nhưng quạ đã bỏ đi hết rồi.
Grigori chưa vào đến trong sân thì một đàn chó mực giống
Krym đã chạy ra đón chàng. Một con chó cái già, mắt ướt như mắt bà lão, khập
khiễng chạy tới đánh hơi Grigori trước nhất, rồi nó gục cái đầu gầy khô lẽo đẽo
đi theo chàng. Trong nhà đầy tớ, mụ nấu bếp đang chửi nhau với chị hầu phòng
còn trẻ, mặt đầy tàn hương. Một cụ già loắt choắt ngồi ở ngưỡng cửa, giữa đám
khói thuốc lá, như trong một cái túi. Ông cụ có cặp môi rất dày. Chị hầu phòng
dẫn Grigori vào trong nhà. Phòng ngoài nặc mùi chó và mùi da thú chưa khô. Một
cái bao súng hai nòng nằm bẹp trên mặt bàn, bên cạnh có một chiếc túi dết với
những ngù lụa màu xanh lá cây, tua đứt nham nhở.
- Công tử cho gọi anh vào. - Chị hầu phòng trong cửa bên ngó
ra.
Grigori lo lắng nhìn xuống đôi ủng đầy bùn của mình, bước
tới cửa phòng.
Viên trung úy nằm dài trên chiếc giường kê cạnh cửa sổ. Trên
chăn có hộp ống giấy để nhồi thuốc lá và thuốc lá sợi. Nhồi xong một điếu
thuốc, hắn cài cúc cổ chiếc áo sơ-mi trắng rồi nói:
- Anh đến sớm quá đấy. Chờ một lát, ông cụ nhà tôi sẽ sang
đây ngay.
Grigori đứng chờ bên cửa. Một phút sau có tiếng chân bước
lệt sệt trên sàn gỗ ọt ẹt. Một giọng ồm ồm hỏi qua khe cửa:
- Con còn ngủ không đấy, Evgeni?
- Mời cha vào đi.
Một lão già đi ủng dạ đen kiểu Kavkaz bước vào. Grigori đứng
bên liếc nhìn lão. Điều đầu tiên đập vào mắt chàng là cái mũi thanh thanh, gẫy
sống và bộ ria bạc hình bán nguyệt rất rộng, chỗ dưới mũi vàng khè vì khói
thuốc. Lão cao như cây sào, người gầy nhưng vai rất rộng. Một chiếc áo khoác
dài bằng lông lạc đà thõng trên người lão cổ áo bó chặt cái cổ nhăn nheo, da
nâu sẫm. Hai con mắt đã bạc màu nằm ngay sát tinh mũi.
- Cha ạ, đây là gã đánh xe mà hôm qua con đã thưa với cha là
nên thuê đấy. Một anh chàng con nhà cũng tốt.
- Con nhà nào thế? - Giọng lão già nổ ra ồm ồm như tiếng
sấm.
- Melekhov ạ.
- Melekhov nào cơ chứ?
- Cha tôi là Panteley Melekhov.
- Ta có biết Prokofi, Panteley ta cũng biết. Lão ấy khập
khiễng có máu trec-ket phải không?
- Vâng đúng đấy ạ, có khập khiễng đấy ạ. - Grigori rướn
thẳng người như sợi dây cung.
Chàng nhớ lại vài câu chuyện đã được nghe cha kể về vị tướng
về hưu Litnhitki, anh hùng trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Thổ nhĩ kỳ.
- Sao phải đi làm thuê hử? - Cái giọng ồm ồm như sấm lại từ
trên cao dội xuống.
- Bẩm cụ lớn, tôi không còn ở với cha tôi nữa.
- Đem thân đi làm thuê mà sống thì còn gì là một thằng
Cô-dắc? Chẳng nhẽ bố cho ra ở riêng mà không cho gì à?
- Bẩm cụ lớn, đúng thế đấy ạ, chẳng cho gì cả.
- Nếu thế thì lại chuyện khác. Cùng đi ở với vợ có phải
không?
Viên trung úy cựa mạnh làm chiếc giường kêu cọt kẹt. Grigori
đưa mắt nhìn sang, thấy hắn nháy mắt, lắc đầu ra hiệu.
- Bẩm cụ lớn, vâng ạ.
- Đừng cụ lớn, cụ bé gì cả. Ta không thích thế! Tiền công
mỗi tháng tám rúp. Tính cho cả hai. Vợ mầy sẽ nấu nướng cho bọn đầy tớ và thợ
làm mùa. Có thuận không?
- Vâng ạ.
- Ngày mai cả hai sẽ phải đến ngay trang trại. Mày sẽ đến ở
nhà đầy tớ bên nửa mà thằng đánh xe cũ đã ở ấy.
- Hôm qua cha đi săn thế nào? - Người con hỏi lão già rồi bỏ
thõng hai bàn chân nhỏ bé xuống chiếc thảm con.
- Đến khe Gremiatri thì lùa được một con cáo to tướng ở
trong đó ra, đuổi tới cánh rừng. Nhưng con cáo già đã lừa được đàn chó rồi mất
hút.
- Con Katbech vẫn còn khập khiễng hả cha?
- Có lẽ nó bị sai khớp. Thôi mau mau lên, Evgeni, bữa sáng
nguội mất bây giờ.
Rồi ông già quay về phía Grigori và bật đánh tách một cái
hai ngón tay gầy gò, xương xẩu.
- Đi đều bước! Ngày mai phải có mặt ở đây trước tám giờ.
Grigori ra khỏi cổng. Đàn chó săn đang nằm sưởi nắng bên bức
tường sau lưng nhà kho, chỗ đất đã khô không còn tuyết nữa. Con chó cái già có
hai con mắt như mắt bà lão lon ton chạy tới sau lưng Grigori, ngửi ngửi người
chàng, rồi lại ủ rũ gục đầu, lẵng nhẵng đưa tiễn Grigori đến khe núi đầu tiên.
Đến đấy thì nó quay về.
12
Acxinhia nấu nướng xong rất sớm. Nàng vun than vào một chỗ,
quấn giẻ quanh ống khói, rửa bát đĩa rồi nhìn ra khung cửa sổ nhỏ phía sân nuôi
gia súc. Stepan đứng cạnh đống gỗ chất thành hình chóp sát dãy hàng rào ngăn
với sân gia súc nhà Melekhov. Một điếu thuốc tắt ngấm còn ngậm rủ xuống bên mép
cặp môi khô cứng; anh ta lục lọi trong đống gỗ, chọn được một cái cột hợp với
công việc. Góc bên trái nhà kho bị sụt cần phải đóng thêm hai cái cột chắc chắn
và lợp kín bằng chỗ lau còn sót lại.
Từ sáng, hai gò má Acxinhia cứ đỏ hây hây. Mắt nàng long
lanh, nom trẻ hẳn ra. Stepan không khỏi nhận thấy sự thay đổi. Lúc ăn sáng, anh
ta hỏi:
- Nhà nó làm sao thế?
- Em làm sao cơ chứ? - Mặt Acxinhia càng đỏ bừng.
- Mặt cứ bóng nhẫy như bôi dầu ấy.
- Đứng mãi bên bếp lò nóng quá… bốc cả lên đầu. - Nàng trả
lời rồi quay mặt đi, lấm lét đưa mắt ra cửa sổ - Không biết con bé em gái Mitka
Kosevoi có sang không?
Mãi lúc trời sắp tối cô bé mới tới. Đang mong khổ mong sở
nẫu ruột nẫu gan, Acxinhia tươi tỉnh hẳn lên.
- Em đến tìm chị đấy à, Masa?
- Chị ra đây cái.
Stepan đang đứng trước mảnh gương gắn trên mặt trước cái bếp
lò quét vôi trắng. Hắn chải đầu xong, lại lấy cái lược sừng bò ngắn cũn miết
cho mượt bộ ria màu hạt dẻ.
Acxinhia lo lắng nhìn sang phía chồng.
- Anh lại sắp đi đâu phải không?
Stepan không trả lời ngay, anh ta bỏ cái lược vào túi quần,
rồi giơ tay với lấy bộ bài tây và túi thuốc để trên bếp lò.
- Sang nhà Anikey, ngồi một lát thôi.
- Thế bao giờ anh mới chán không đi nữa? Ngưởi ta đã có lệnh
cấm tiệt đánh bài rồi đấy, thế mà chẳng đêm nào các ông không bài với bạc. Hễ
ngồi với nhau là đến gà gáy.
- Thôi đủ rồi, nghe mãi rồi.
- Anh lại chơi “Otko” có phải không? (Một lối chơi bài, tính trăm
điểm)
- Thôi đừng lải nhải mãi nữa, Acxinuska. Đang có ai chờ kia
kìa, ra ngoài ấy đi.
Acxinhia nghiêng nghiêng người đi ra phòng ngoài. Ra tới cửa
thì nàng thấy Masa đang mỉm cười đứng chờ, khuôn mặt đầy tàn hương của cô bé đỏ
ửng.
- Anh Grigori về rồi đấy.
- Thật ư?
- Anh ấy dặn trời nhá nhem thì chị lại nhà em.
Acxinhia vồ lấy hai bàn tay Masa, đẩy cô bé ra sát cửa.
- Khẽ chứ, khẽ chứ nào, em yêu của chị. Anh ấy bảo thế nào
hả Masa? Chắc còn dặn em nói thêm gì nữa chứ?
- Anh ấy bảo chị có những thứ gì thì thu dọn lại mang cả đi.
Acxinhia run bắn lên, khắp người nóng ran như lửa đốt. Nàng
xoay đầu đi xoay đầu lại, chốc chốc lại đảo mắt ra cửa, giậm hết chân nọ đến
chân kia, không thể đứng yên một chỗ nữa.
- Lạy Chúa tôi, làm thế nào bây giờ? Hả? Sao lại gấp đến
thế? Trời, mình làm thế nào bây giờ? Hượm cái đã, em về bảo anh ấy rằng chị sẽ
ra ngay… Thế anh ấy sẽ đợi chị ở đâu?
- Chị sẽ lại nhà em.
- Chao ôi, không được đâu!
- Thôi, không sao, em sẽ bảo, anh ấy sẽ ra.
Stepan mặc áo ngoài, rồi kiễng chân châm thuốc vào ngọn đèn
treo.
- Nó đến có việc gì thế? - Hắn hỏi giữa hai hơi thuốc.
- Ai cơ chứ?
- Con Masa nhà Kosevoi ấy.
- À, nó lại có chút việc riêng… Nó nhờ cắt hộ nó cái váy.
Stepan thổi chỗ tàn đen trên điếu thuốc, bước ra cửa.
- Nhà cứ ngủ trước đi nhé, đừng đợi làm gì?
- Thôi được.
Acxinhia tới áp sát người vào khung cửa sổ đóng băng, rồi
khuỵu đầu gối xuống trước một chiếc ghế dài. Tiếng bước chân Stepan lạo xạo
trên lối mòn ra cửa hàng rào, mỗi lúc một xa. Gió thổi bay vài cái tàn lửa trên
đầu điếu thuốc, đưa tới tận bên cửa sổ. Hơi thở của Acxinhia hà tan một khoảng
sương muối tròn tròn trên khung kính, làm cho nàng còn thấy trong một loáng ánh
lửa của điếu thuốc chiếu sáng hình bán nguyệt của chiếc mũ lông cừu đội lệch áp
xuống một bên tai và cái má rám nắng.
Acxinhia cuống cuồng lôi ra từ một cái hòm những đồ tư trang
mà mình đã đem về nhà chồng; vài cái váy, áo ngắn mặc ngoài, những chiếc khăn
bịt đầu nhỏ, ném bừa tất cả vào một chiếc khăn choàng lớn.
Hai con mắt đầy vẻ hốt hoảng, nàng thở hổn hển tạt vào trong
bếp lần cuối cùng, dụi tắt lửa rồi chạy ra thềm. Trong nhà Melekhov không biết
có ai ra sân xem lại gia súc. Acxinhia chờ cho tiếng bước chân lắng đi mới lồng
cái xích vào vòng mắt xích trên cửa, rồi ôm chặt cái khăn gói, chạy ra sông
Đông. Vài món tóc tuột khỏi cái khăn len mềm, xòa xuống má, cọ cọ đến là buồn. Nàng
chạy vòng phía sau, tới được sân nhà Kosevoi thì mệt lử, hai chân nặng như chì,
nhấc lên gần như không nổi. Grigori đã đứng ở cổng đợi Acxinhia. Chàng xách hộ
cái khăn gói rồi chẳng nói chẳng rằng đi trước về phía đồng cỏ.
Đi quá được cái sân đập lúa, Acxinhia bỗng bước chậm lại,
kéo tay áo Grigori.
- Hượm một lát, anh.
- Hượm cái gì? Trăng sắp mọc đến nơi rồi, phải rảo bước mới
được.
- Hượm hượm đã, Griska, - Acxinhia đứng lại oặt người xuống.
- Em làm sao thế? - Grigori cúi xuống hỏi.
- Ấy đấy trong bụng cứ thấy làm sao ấy. Hôm nay em đã khiêng
nặng quá. - Acxinhia liếm cặp môi khô bỏng, đau quá đổ cả đom đóm mắt, cứ phải
nheo lại. Nàng ôm chặt lấy bụng, đứng lặng một lát, lưng còng hẳn xuống, nom
đến là đáng thương. Cuối cùng nàng nhét mấy món tóc xuống dưới khăn, và lại đi
tiếp.
- Thôi, hết đau rồi, ta đi đi!
- Em cũng chẳng hỏi anh đưa em đi đâu nữa. Nhỡ lát nữa đến
cái khe đầu tiên, anh đẩy xuống thì sao? - Grigori mỉm cười trong bóng tối.
- Đối với em bây giờ thì dù có chuyện gì xảy ra cũng thế cả…
Đã đến nông nỗi nầy… - Tiếng cười xen trong giọng nói của Acxinhia chẳng có gì
vui vẻ.
Như bao giờ cũng vậy, hôm ấy đến nửa đêm Stepan mới mò về.
Anh ta vào tầu ngựa, vơ chỗ rơm bị ngựa dẫm nát ném lên máng cỏ, tháo đai cổ
cho con ngựa rồi bước lên thềm. “Có lẽ lại đi vui chị vui em rồi” - Anh ta gỡ
cái xích ra khỏi vòng xích nghĩ thầm. Rồi vào bếp, đóng cửa thật chặt và quệt
que diêm. Hôm nay anh chàng được bạc (đánh bài ăn diêm), vì thế không cảm thấy
tức tối hằn học gì mà chỉ buồn ngủ. Stepan châm đèn, đưa mắt nhìn khắp các vật
buông quăng bỏ vãi trong bếp, không nghĩ được ra duyên cớ vì sao. Anh ta hơi
ngạc nhiên, bước vào nhà trong, nhìn thấy ngay cái nắp hòm mở hoác như một cái
miệng đen ngòm và chiếc áo ngắn cũ mà vợ bỏ quên trong lúc vội vàng còn nằm
trên sàn. Stepan giật phắt cái áo lông ngắn trên vai xuống, chạy bổ vào bếp lấy
đèn. Anh ta nhìn quanh nhà trong một lượt, bất giác vỡ lẽ. Stepan quẳng cây đèn
xuống, và bây giờ thì dù chính mình đang làm gì, anh ta cũng chẳng biết nữa.
Anh ta giật thanh gươm trên tường xuống, mấy ngón tay nắm cán gươm chặt đến tím
lại. Anh ta lấy mũi gươm xốc cái áo màu xanh phớt hoa vàng nhạt mà Acxinhia bỏ
quên, hất tung lên, rồi vung thanh gươm loáng một cái, chém phăng cái áo làm
đôi giữa lúc nó chưa kịp rơi xuống.
Mặt Stepan xám ngoẹt, đau khổ làm anh ta trở nên man rợ,
hung dữ như con sói. Anh ta không ngừng hất những mảnh áo xanh xanh đã bị chém
nát lên trần, lưỡi thép mài sắc ngọt múa vù vù, chém ngang chém dọc những mảnh
vải đang bay.
Rồi anh ta dứt đứt dây ngù buộc gươm, quẳng thanh gươm vào
góc nhà, bỏ xuống bếp, ngồi xuống cạnh bàn, đầu ngoẹo xuống, những ngón tay rắn
như thép run bần bật xoa mãi cái mặt bàn chưa cọ rửa.
13
Họa nọ chưa qua, rấp kia đã ập tới, chuyện đời bao giờ cũng
thế.
Sáng hôm ấy, do Getko không chú ý, con bò mộng đầu đàn của
Miron Grigorievich đã văng sừng làm rách toạc cổ con ngựa cái tốt nhất trong
nhà. Getko chạy ngay lên nhà trên, mặt mày hốt hoảng, cắt không còn hột máu,
người run bần bật.
- Tai họa rồi, ông chủ ơi! Con bò mộng, con bò mộng đáng
nguyền rủa, chết mẹ nó đi…
- Con bò mộng làm sao? Cái gì thế hử? - Miron Grigorievich
hoảng lên.
- Nó làm hỏng mất con ngựa cái rồi… Nó văng sừng vào con
ngựa cái. Tôi thấy…
Miron Grigorievich chẳng nghĩ tới mặc thêm cái áo, cứ phong
phanh nhảy luôn ra sân. Bên cái giếng, Mitka đang vung cái cọc đánh lấy đánh để
con bò mộng năm tuổi lông đỏ. Còn con bò thì cứ ngoáy loạn xạ cái đầu chúi
xuống thật thấp, làm cái yếm da lùng nhùng trước ức nó bị kéo sệt trên tuyết.
Nó cào chân xuống tuyết, hất tuyết ra phía sau rất xa, cái đuôi xoắn như lò xo
tung ra chung quanh một đám bụi trắng như bạc. Tuy bị đòn đau, nhưng nó không
chạy, chỉ gừ gừ và luôn luôn chuyển hai chân sau từ chỗ nọ sang chỗ kia, có vẻ
như sắp nhảy chồm lên đến nơi.
Tiếng gừ gừ trong họng con bò mỗi lúc một to, nó bắt đầu
rống lên. Mikhey đứng phía sau Mitka kéo dây lưng nó, nhưng Mitka chẳng để ý gì
đến hắn, vẫn ra sức đánh vào mặt, vào sườn con bò và không ngớt văng đến khản
cả giọng những lời kinh tởm.
- Thôi mặc nó đấy, cậu Mitka! Vì Chúa cứu thế, tôi van cậu!
- Nó húc cậu bây giờ!
- Kìa ông Grigorievich, sao lại đứng mà nhìn thế?
Miron Grigorievich chạy ra giếng. Con ngựa đứng sát hàng
roà, đầu thõng xuống nom đến là thiểu não. Giữa những cái xương sườn, những
đường hõm đẫm mồ hôi vừa đen vừa sâu lên lên xuống xuống theo nhịp thở. Máu
chảy xối trên cổ nó xuống tuyết, xuống cả những bắp thịt tròn tròn trước ngực.
Lớp lông màu hạt dẻ nhạt trên lưng và trên sườn nó khẽ rung rung. Hai bên hông
cũng run bần bật.
Miron Grigorievich chạy tới gần. Trên cổ con ngựa có vết
thương nứt hoác sang hai bên, bốc hơi và sủi lên hồng hồng. Vết thương vừa dài
vừa sâu, luồn bàn tay vào cũng vừa. Mỗi lần con ngựa thở dốc lại có thể trông
thấy cái cổ họng những đốt là đốt. Con ngựa vẫn gục đầu đứng đấy. Miron
Grigorievich nắm lấy bờm, kéo cao đầu nó lên. Nó đưa cái tròng con mắt long
lanh tím tím nhìn thẳng vào mắt chủ, tựa như muốn hỏi: “Không biết rồi sẽ ra
sao đây?”. Như để trả lời câu hỏi ấy, Miron Grigorievich quát lên:
- Mitka! Bảo chúng nó sắc nước vỏ sồi. Có mau lên không?
Getko chạy đi bóc vỏ cây sồi. Trong khi gã chạy, chỗ lộ hầu
hình tam giác cứ rung rung trên cái cổ ghét bám năm tầng bảy lớp. Mitka đi tới
gần bố nhưng vẫn ngoái cổ đề phòng con bò đang lồng lộn chạy vòng trong sân.
Con bò vẫn rống lên không ngớt và cứ xông đến khắp mọi chỗ trong sân, đỏ lòm
trên màu trắng của tuyết tan.
- Nắm lấy bờm nó! - Người bố ra lệnh cho Mitka - Mikhey,
chạy đi kiếm sợi dây! Quàng lên không ông cho cái quai hàm bây giờ!
Cái môi trên mượt như nhung, lơ thơ vài sợi lông của con
ngựa được buộc bằng sợi dây. Người ta lồng một cái que vào sợi dây, xoắn chặt
lại, cho con vật bớt cảm thấy đau. Cụ Grisaka bước tới. Cái tách vẽ hoa đựng
chất thuốc sắc tím nâu như quả sồi được mang ra.
- Để nguội đã, có lẽ nóng quá đấy. Mày có nghe thấy không,
Miron!
- Thôi cha vào trong nhà đi, lạy Chúa tôi? Đứng đây lại cảm
lạnh bây giờ!
- Còn tao thì tao bảo mày để cho nguội đã. Muốn giết chết
con ngựa hay sao?
Vết thương đã rửa xong. Miron Grigorievich xâu sợi chỉ thô
vào chiếc kim sào bằng những ngón tay rét cóng rồi tự tay khâu kín miệng vết
thương. Đường chỉ khâu rất khéo. Miron Grigorievich chưa kịp rời khỏi chỗ cái
giếng thì bà Lukinhitna đã lon ton chạy ra. Lo âu càng làm cho cặp má nhẽo nhợt
của bà nhăn nhúm thêm, nom cứ như hai cái túi rỗng. Bà gọi chồng ra một chỗ để
nói riêng:
- Con Natalia nó bỏ về nhà đấy, ông Grigorievich ạ? Trời ơi
là trời, lạy Chúa tôi?
- Lại còn chuyện gì nữa hử? - Đầu tóc Miron Grigorievich xù
lên, khuôn mặt trắng bệch đầy tàn hương tái mét.
- Nó có chuyện với thằng Grigori đấy… Thằng rể quý của ông
nó bỏ nhà đi rồi? - Bà Lukinhitna vỗ phành phạch vào váy, giơ ngang hai tay như
con quạ đen sắp cất cánh bay, và rít lên - Khắp làng trên xóm dưới đã nói ra
nói vào rồi đấy! Lạy Chúa tôi, sao mà tội nợ đến thế nầy? Chao ôi? Trời ơi là
trời!
Natalia đứng giữa bếp, đầu trùm khăn, mình mặc một chiếc áo
rét ngắn. Hai giọt nước mắt mọng mọng đã ứa ra ở gần tinh mũi, nhưng còn chưa
rơi. Má nàng đỏ tía như màu gạch.
- Làm sao mà mày còn vác mặt về đây hử? - Người bố vừa bước
chân vào bếp đã cho luôn con một trận. - Mày bị chồng đánh à? Ăn ở với nhau
không được êm thấm hay sao?
- Anh ấy bỏ đi mất rồi. - Natalia cố nén tiếng nức nở đã dồn
lên đến cổ. Nàng hơi lảo đảo rồi quỳ sụp xuống trước mặt bố. - Cha ơi, cha yêu
của con, đời con thế là tan nát mất rồi! Cha cho con về sống ở nhà thôi! Griska
bỏ đi với con nhân tình của anh ấy rồi! Thế là từ nay con trơ trọi một thân!
Cha yêu của con, bây giờ cứ như có cái bánh xe nghiến lên người con ấy!
Natalia mếu máo nói một tràng rất nhanh. Chưa dứt lời nàng
đã ngước nhìn lên chòm râu ngô của bố, hai con mắt đầy vẻ van xin.
- Thôi đi có lẽ nào như thế được, hãy chờ xem đã!
- Con không sống được ở bên ấy nữa đâu! Cha cho con về ở nhà
thôi!… - Natalia bò nhanh tới bên cái hòm và run run gục đầu xuống hai bàn tay.
Chiếc khăn trên đầu nàng tụt ra sau lưng làm lộ làn tóc đen chải mượt lão xoã
bên hai vành tai nhợt nhạt. Trong những giây phút đắng cay như thế nầy, nước
mắt thật chẳng khác gì cơn mưa ngày đại hạn tháng năm. Người mẹ ôm đầu Natalia
vào bụng gầy hõm của bà và cứ luôn miệng than vãn kể lể bằng một tràng những
lời ngớ ngẩn, không đầu không đũa của đàn bà. Còn Miron Grigorievich thì tức
điên lên, chạy bổ ra ngoài thềm.
- Thắng hai con ngựa vào xe trượt tuyết! Có cái càng giữa.
Nghe thấy tiếng quát như lệnh vỡ, con gà trống đang đạp mái
một cách thành thạo bên thềm hoảng lên vội nhảy ngay xuống. Nó khệnh khạng rời
xa thềm nhà, vừa đi vừa cục cục trong họng, ra vẻ tức giận lắm.
- Thắng ngựa mau! - Miron Grigorievich đưa ủng đá nát những
con tiện chạm trổ trên dãy lan can. Mãi khi Getko chạy trong tàu ngựa ra với
một cặp ngựa huyền, vừa chạy vừa lồng vòng cổ ngựa, ông mới bỏ vào trong nhà,
để lại dãy lan can gãy nát không còn ra hình thù gì nữa.
Mitka và Getko đánh xe đi lấy tư trang của Natalia về. Anh
chàng Ukraina lơ đãng để xe chẹt phải một con lợn sữa không kịp chạy khỏi lòng
đường. Hắn nghĩ thầm: “Xảy ra một chuyện như thế nầy thì may ra ông chủ sẽ quên
được chuyện con ngựa cái?”. Với ý nghĩ như thế, hắn sung sướng thả lỏng dây
cương.
“Nhưng cái lão quỷ dữ hại người ấy, lão có quên chuyện gì
bao giờ?”. Ý nghĩ nầy chợt nảy ra làm Getko nhăn mặt, bĩu môi.
- Có nhanh lên không, con chết tử chết tiệt? Nầy ông cho mày
biết mùi! - Hắn quát lên rồi hết sức chú ý quất cho một con ngựa huyền một roi,
trúng ngay chỗ lá lách.
(Ngọn roi nầy rất hiểm. Ngựa bị đánh vào
chỗ nầy thì đau nhất)
14
Viên trung úy kỵ binh Evgeni Litnhitki làm sĩ quan trung
đoàn ngự lâm cận vệ Atamansky. Trong một cuộc đua ngựa của sĩ quan, hắn đã ngã
ngựa, gãy mất cánh tay trái. Ở bệnh viện ra, hắn xin nghỉ phép về Yagonoie ở
với bố một tháng rưỡi.
Viên tướng già sống một thân một mình ở Yagonoie. Lão đã góa
vợ từ lâu. Vợ lão đã qua đời tại một nơi ở ngoại ô Varsava trong những năm tám
mươi thế kỷ trước. Vốn là kẻ địch nhằm vào viên tướng Cô-dắc, nhưng lại bắn
phải vợ lão cùng gã đánh xe và làm chiếc xe bốn bánh thủng lỗ chỗ ở nhiều nơi,
còn viên tướng thì thoát chết. Vợ tướng Litnhitki chết đi để lại cho lão thằng
Evgeni năm ấy mới lên hai. Sau đó chẳng bao lâu viên tướng về hưu. Lão chuyển
đến ở Yagonoie và bắt đầu sống một cuộc đời khắc khổ, cách biệt hẳn với giới
thượng lưu. (Đất đai của lão gồm bốn ngàn đê-xi-a-chin nằm trong tỉnh Saratov . Số đất nầy đã
được triều đình cắt đất lập ấp cho đời tứ đại của lão sau khi ông này tham gia
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại năm 1812).
Khi Evgeni lớn lên, tướng Litnhitki gửi hắn vào học trường
võ bị, còn mình thì tự quản lý lấy công việc làm ăn: lão chăn nuôi gia súc
giống tốt. Lão mua được ở trại nuôi ngựa của hoàng đế những con ngựa giống chạy
nước kiệu hay, cho nhảy những con ngựa cái tốt nhất mua ở nước Anh và ở trại
ngựa giống Provansky vùng sông Đông, cuối cùng gây được một giống riêng. Trên
phần đất mà lão được chia với tư cách là dân Cô-dắc và trên các khoảnh mua
thêm, lão nuôi những đàn ngựa và trồng lúa mì (bằng tay người khác).
Mùa xuân và mùa thu lão thường đem đàn chó đi săn và thỉnh
thoảng lại đóng chặt cửa cái phòng khách màu trắng, ở lì trong đó để túy lúy
càn khôn hàng tuần. Cái bệnh đau dạ dày ác nghiệt làm tình làm tội lão rất
nhiều; vì thế bác sĩ hết sức nghiêm khắc cấm lão nuốt các thức ăn mà lão đã
nhai: lão chỉ nhai, mút lấy nước, rồi nhổ bã vào một cái đĩa nhỏ bằng bạc.
Venhiamin, gã hầu phòng trẻ tuổi, dân mu-gích (nông dân không phải dân
Cô-dắc), luôn luôn đứng bên cạnh lão, đưa hai tay chìa cái
đĩa bạc cho lão nhổ.
Venhiamin là một gã dở hơi dở người, da bánh mật. Không phải
là tóc mà là một đám nhung đen nhánh mọc lên trên cái đầu tròn xoe của gã. Lão
đã hầu cụ chủ Litnhitki sáu năm trời. Đầu tiên, hồi mới phải cầm cái đĩa bạc
đứng bên cạnh ông tướng, gã đã không khỏi buồn nôn mỗi khi nhìn thấy lão già
nhổ ra những miếng bã thức ăn xám xịt, nhai nát nhừ. Nhưng rồi gã cũng quen
dần.
Kẻ ăn người ở trong dinh cơ, ngoài Venhiamin còn có mụ nấu
bếp Lukeria, ông cụ chăn ngựa già yếu hom hem Xaska, chàng chăn bò Tikhol,
chàng đánh xe Grigori vừa mới đến làm cùng với Acxinhia. Lukeria là một mụ da
thịt nhẽo nhợt, rỗ nhằng rỗ nhịt, mông to tầy dành, toàn thân tương tự như một
đống bột bánh vàng chưa lên men. Ngay hôm đầu, mụ đã đuổi không cho Acxinhia
bén mảng tới bếp lò.
- Bao giờ sang hè, cụ chủ thuê người làm thì cô hãy thổi
nấu, còn bây giờ thì một mình tôi xoay sở cũng xong việc.
Công việc của Acxinhia là lau sàn nhà mỗi tuần ba lần, cho
gà vịt chim chóc ăn và quét dọn sân gà vịt cho sạch sẽ. Nàng mới bắt tay vào
làm việc đã tỏ ra rất siêng năng, cố làm vừa lòng tất cả mọi người, kể cả mụ
Lukeria. Grigori làm việc phần lớn thì giờ cùng với ông lão chăn ngựa Xaska
trong cái tàu ngựa rộng thênh thang dựng toàn bằng những khúc gỗ tròn. Ông cụ
đã sống đến lúc râu tóc bạc phơ, nhưng vẫn cứ là Xaska với cái tên hồi nhỏ.
Chẳng ai muốn làm cụ vừa lòng bằng cách gọi cụ với tên chính thức kèm tên theo
bố còn họ của cụ là gì thì có lẽ ngay lão già Litnhitki cũng chẳng biết, dù cho
cụ đã sống ở nhà lão hơn hai chục năm rồi. Hồi còn trai trẻ, cụ Xaska đánh xe
ngựa, nhưng đến khi gần đất xa trời, sức kiệt mắt kém, cụ phải vào làm trong
tàu ngựa. Người cụ loắt choắt, râu tóc toàn một màu bạc trắng có chút ánh xanh
lá cây (ngay đến hai tay cụ cũng mọc đầy những cái lông bạc). Từ hồi cụ còn
nhỏ, mũi cụ đã bị một nhát vồ đập tẹt dí. Lúc nào người ta cũng thấy cụ hấp háy
hai con mắt ngây thơ, nhằng nhịt những vết nhăn đỏ, nhìn mọi vật xung quanh với
nụ cười hồn nhiên của con nít.
Hồi đi lính, một lần quá chén (cụ Xaska vốn là một dân
“moskan” (Moskan là cái tên mà dân Ukraina và dân Belorussia
thường dùng để gọi binh lính, nhân viên chính quyền và dân Nga một cách khinh
bỉ) ở Bogutra), cụ đã không uống vodka mà vớ nhầm một chai
nước cường toan (Một dung dịch hoá học gồm một phần acide nitric và ba
phần một chất muối làm cho dung dịch hoà tan được vàng). Dòng
hóa chất nóng bỏng như lửa đã gắn chặt môi dưới ông cụ xuống cằm, rồi chảy thêm
đến đâu là để lại đến đấy một cái sẹo chéo hồng hồng, râu không mọc được nữa,
nom rất nhộn. Cứ như có một con thú quái đản liếm qua chòm râu của cụ Xaska một
cái, và cái sẹo chính là dấu vết cái lưỡi ráp như lưỡi giũa của no.
Cụ Xaska rất hay uống vodka, và mỗi lần có tí tửu vào là cụ
lại lang thang trong sân trang trại, cứ như chính mình là ông chủ của dinh cơ
nầy. Chân nam đá chân siêu, cụ đến đứng trước cửa sổ phòng ngủ của cụ lớn, rồi
giơ một ngón tay lên ngoáy ngoáy một cách tinh quái trước cái mũi buồn cười của
cụ.
- Micolai Alechxeit!
Micolai Alechxeit đâu thế hử? - Cụ
gọi rất to, rất oai.
Nếu lúc ấy lão địa chủ già đang ở trong phòng ngủ thì thể
nào lão cũng ra đứng ở cửa sổ.
- Lại tọng phễnh bụng rồi phải không, cái thằng ma men vô
tích sự nầy? - Giọng lão ở trong cửa sổ đưa ra ồm ồm như sấm.
Cụ Xaska xốc xốc cái quần đang muốn tụt xuống, nheo mắt, mỉm
cười láu lỉnh. Nụ cười hiện lên theo một đường chạy chéo qua khắp mặt ông lão:
từ hai con mắt bên trái nheo nheo chếch xuống đến vết sẹo hồng hồng hằn lên từ
mép bên phải, nom đến là ngang ngược, nhưng lại rất dễ thương.
- Micolai Lechxeit,
quan lớn ạ, ta biết rõ quan lớn lă-ă-ắm đấy nhé? - Cụ Xaska nói rồi giơ thẳng
ngón tay khô quắt, đen thui thủi lên doạ. (“Micolai” là hình thức xàm xỡ để gọi “Nicolai”, còn “Lechxeit”
là cách gọi tắt “Alexeevich”)
- Thôi đi ngủ đi cho tỉnh rượu, - Lão địa chủ đứng trong cửa
sổ mỉm cười làm lành, rồi đưa cả năm ngón tay ám khói thuốc lá lên vê bộ ria
chảy xệ.
- Chẳng ma quỷ nào lừa nổi lão Xaska nầy đâu! - Cụ Xaska vừa
cười vừa bước tới bên hàng rào. - Micolai
Alechxeit ạ, lão… lão thì cũng như ta thôi. Hai chúng mình thật như cá với
nước. Cá lặn xuống đáy sông, còn hai ta thì… thì ra sân đập lúa. Mà cả ta lẫn
lão đều giàu sang phú quý như thế này này! - Cụ Xaska dạng chân, dang rộng hai
tay. - Khắp quân khu sông Đông nầy, ai mà không biết hai chúng mình? Hai chúng
mình… - giọng cụ Xaska bỗng trở nên bi thảm và thấm thía. - Ta với quan lớn,
quan lớn ạ, thì mặt nào cũng đều tốt đẹp, chỉ phải hai cái mũi của chúng mình cứ
thum thủm đấy thôi!
- Tại sao thế? - Lão địa chủ cười đến tái xanh tái tím, râu
ria rung loạn xạ; lão ngạc nhiên hỏi cho rõ.
- Vì vodka chứ còn sao nữa? - Cụ Xaska nói rành rọt từng
tiếng, nháy mắt lia lịa và thè lưỡi ra liếm dải nước bọt chảy theo vết lõm của
cái sẹo hồng hồng. - Này, Micolai Alechxeit
ạ, đừng rượu chè nữa đấy, nếu không hai chúng mình đều bỏ mẹ cả thôi, bao nhiêu
của chìm của nổi đều khánh kiệt hết thôi!
- Thôi này, nốc thêm vào cho hết say!
Lão địa chủ ném qua cửa sổ một đồng hai mươi kopeik, cụ
Xaska đón bắt rất lẹ, rồi giấu đồng tiền vào lần lót của cái mũ cát-két.
- Thôi tạm biệt ông tướng nhé, - Cụ chào xong thở dài bỏ đi.
- Nhưng đã cho ngựa uống nước chưa? - Lão địa chủ vừa hỏi
vừa mỉm cười trước. Lão đã biết cụ Xaska sẽ trả lời những gì.
- À cái thằng quỷ ghẻ! Thật là đồ chó đẻ! - Cụ Xaska đỏ mặt
tía tai gầm lên, giọng phá ra. Cơn phẫn nộ làm cụ như lên cơn sốt rét. - Thằng
Xaska nầy mà quên không cho ngựa uống nước à? Sao lại có chuyện như thế được.
Dù chết đến nơi, lão cũng bò lết đem được cho mỗi con một thùng nước giếng, thế
mà nó lại dám nghĩ như vậy? Cũng ra cái điều!
Cụ Xaska giơ nắm tay lên dọa, vặc rầm lên một trận rồi bỏ
đi. Nhục nhã oan ức đến thế thì chịu sao nổi?
Người ta tha thứ cho cụ Xaska hết thảy: cả cái bệnh rượu chè
lẫn cái thói suồng sã bừa bãi với cụ chủ, vì kiếm đâu ra một người coi ngựa làm
thay nổi cụ Xaska? Mùa đông cũng như mùa hè, cụ đều ngủ dưới mái tàu ngựa,
trong một khoang nhốt ngựa bỏ không. Không ai chăm sóc ngựa được như cụ, cụ vừa
coi ngựa vừa là một ông lang chữa thuốc cho ngựa. Mùa xuân, hễ đến tháng Năm,
khi các giống cỏ ra hoa cụ lại đi kiếm cỏ dấu, đi đào những rễ cây thuốc ngoài
đồng, trong những khe khô và khe nước. Trên tường tàu ngựa treo rất cao những
bó đủ mọi thứ cỏ khô: cỏ tảo xuân chữa bỏng, cỏ mắt rắn chống nọc rắn, cỏ hắc diệp
dùng khi ngựa gãy chân, một thứ cỏ trắng mọc dưới gốc những cây liễu trong
rừng, rất khó nhận ra, dùng khi ngựa bỗng trở nên trái tính. Ngoài ra còn rất
nhiều thứ cỏ khác không tên không tuổi để chữa cho ngựa những lúc trái nắng trở
trời.
Ở tàu ngựa, nơi cụ Xaska ngủ trong khoang buộc ngựa, mùa
đông cũng như hè, lúc nào cũng phảng phất một mùi hương ngai ngái, lờm lợm, lơ
lửng trong khôngkhí như cái mạng nhện. Cụ nằm trên chiếc giường ván trải mảnh
áo ngựa, lớp rơm đã nén lâu rắn như đá và cái áo choàng bằng dạ thô của cụ.
Ngoài cái áo choàng hôi sú nặc mùi mồ hôi ngựa nầy và tấm áo da thuộc ngắn, gia
tài của cụ Xaska chẳng còn gì khác.
Tikhol, gã Cô-dắc môi dày, khỏe mạnh nhưng hơi ngớ ngẩn,
cùng ở với mụ Lukeria. Tuy chẳng có bằng chứng gì, nhưng gã cứ ghen bóng ghen
gió với cụ Xaska. Chừng mỗi tháng một lần, gã lại nắm lấy khuy áo chiếc sơ-mi
nhớp nhúa của cụ Xaska, kéo cụ ra sau nhà.
- Này bố già, bố đừng nhòm ngó vợ tôi đấy!
- Chuyện ấy thì nói thế nào bây giờ nhỉ? - Cái nháy mắt của
cụ Xaska đầy ý nghĩa.
- Nên thôi đi, bố già ạ? - Tikhol van vỉ.
- Nhưng anh bạn thân mến ạ, lão lại thích những ả mặt rỗ
đấy. Chẳng cần cho lão một cốc rượu, cứ đem đến cho lão một ả mặt rỗ là được
rồi. Cái bọn khốn nạn ấy, chúng nó càng rỗ nhằng rỗ nhịt lại càng yêu anh em
mình.
- Bố đã sống đến ngần này tuổi rồi thì cũng phải biết xấu hổ
chứ? Làm như thế là có tội đấy. Mà bố còn là thầy thuốc, bố biết chữa bệnh cho
ngựa, biết lời thiêng…
- Lão là thầy thuốc về tất cả các mặt đấy. - Cụ Xaska vẫn
khăng khăng.
- Nên thôi đi, bố già ạ? Không thể làm như thế được đâu.
- Này người anh em ạ, mụ Lukeria này nhất định sẽ về tay lão
cho mà xem. Cậu hãy chia tay với nó, với con mụ thổ tả ấy đi. Lão sẽ chiếm lấy
mụ? Mụ cũng như một cái bánh trứng có nho khô ấy mà. Chỉ vì nho khô đã bị nạy
đi cả cho nên mụ mới hơi rỗ một chút như thế thôi. Lão vốn yêu những mụ như
thế?
- Thôi cầm lấy này… nhưng chớ có làm vướng chân tôi đấy, tôi
thì giết. - Tikhol vừa nói vừa thở dài móc trong túi thuốc ra vài đồng xu đồng.
Chẳng tháng nào không có một lần như thế.
Cuộc sống ở Yagonoie lên mốc lên meo trong một bầu không khí
đờ đẫn ngái ngủ. Cái trang trại hẻo lánh này nằm trong một khe núi khô, xa các
đường cái, sang thu rồi là chẳng còn dính líu đi lại gì với trên trấn cũng như
với các thôn. Mùa đông, trên ngọn gò dựa lưng vào khu rừng, nhô ra như một mũi
cát trên mặt biển, đêm đêm thường có những đàn chó sói qua mùa đông trong khu
rừng Đen chạy ra gào hú, làm cho những con ngựa hết cả hồn vía. Những lúc như
thế, Tikhol lại vác khẩu súng hai nòng của lão địa chủ vào rừng bắn đùng đoàng
vài phát. Còn mụ Lukeria thì quấn tấm chăn vải thô quanh cặp mông to bè bè như
tám gang đậy lò, nín thở chờ nghe tiếng súng. Mụ đăm đăm nhìn vào bóng tối, hai
con mắt sưng húp trên cặp má bánh dầy rỗ nhằng rỗ nhịt. Lúc này, đối với mụ, gã
Tikhol dở hơi và hói đầu của mụ là một chàng dũng sĩ đẹp trai dũng cảm tuyệt
vời. Rồi đến khi cánh cửa của nhà đầy tớ mở bật ra cho Tikhol vào cùng với một
đám hơi nước mù mịt, mụ lại nhường cho gã một chỗ trên giường, rồi vừa lẩm bẩm
những lời âu yếm nựng nịu, vừa sung sướng ôm lấy gã nhân tình đang rét run như
cầy sấy.
Mùa hè, ở Yagonoie đến khuya vẫn còn lao nhao tiếng những
người đến làm công. Lão địa chủ gieo khoảng bốn mươi đê-xi-a-chin những thứ lúa
khác nhau, vì thế phải thuê thợ gặt. Mùa hè, năm thì mười họa, Evgeni lại về
trang trại. Hắn lang thang ngoài vườn và trong khu rừng sát ven ấp, sống những
ngày chán ngán, sáng sáng mang cần câu ra ngồi lì bên bờ ao. Người hắn thấp,
nhưng ngực nở nang, tóc để theo kiểu Cô-dắc với một bờm tóc chải sang bên phải.
Bộ quân phục sĩ quan may rất khéo bó sát người hắn.
Hồi mới cùng Acxinhia đến trang trại, mấy ngày đầu Grigori
cũng thường hay lên chơi với cậu chủ. Venhiamin bước vào nhà đầy tớ, nghiêng
cái đầu có bộ tóc đen như nhung, mỉm cưởi.
- Lên nhà đi, Grigori, chỗ công tử ấy, công tử cho gọi cậu
đấy.
Grigori bước vào, đứng lại ở chỗ cái đà ngang cửa. Công tử
Evgeni Nicolaevich hơi nhe hàm răng to nhưng thưa, giơ tay chỉ một cái ghế dựa:
- Anh ngồi xuống đi.
Grigori ngồi xuống mép ghế.
- Anh có thích những con ngựa của nhà ta không?
- Những con ngựa tốt lắm. Con xám rất tốt.
- Anh hãy lấy nó đi cưỡi nhiều hơn một chút. Nhưng chú ý
đừng phóng nước đại.
- Cụ Xaska đã dặn tôi rồi.
- Còn con Kreput thì thế nào?
- Con hạt dẻ ấy à? Nó thì vô giá. Nhưng móng bắt đầu có vết
rồi đấy, phải đóng móng lại mới được.
Cậu công tử nheo cặp mắt sắc ngọt hỏi:
- Nhưng đến tháng Năm này anh phải đến trại lính cơ mà?
- Đúng thế đấy ạ.
- Tôi sẽ nói với ông ataman, anh sẽ không phải đi.
- Xin cảm ơn quan lớn lắm.
Hai người nín lặng một lát. Viên trung uý cởi cúc cổ áo quân
phục, gãi gãi cái ngực trắng hếu như ngực đàn bà.
- Thế nào, anh không sợ thằng chồng của Acxinhia đến lấy lại
nó trong tay anh à?
- Nó bỏ rồi, không lấy lại nữa đâu.
- Ai nói với anh thế?
- Hôm lên trấn mua đinh đóng móng ngựa, tôi có gặp một bà
con trong thôn. Người ấy nói Stepan dạo này rượu chè không còn biết trời đất là
gì nữa. Nó bảo: “Tôi không thiết gì đến con Acxinhia nữa, nó không còn đáng một
đồng xu nhỏ. Mặc xác nó, tôi sẽ kiếm được một đứa khá hơn nhiều”.
- Acxinhia là một cô nàng đẹp đấy. - Viên trung úy vừa nói
vừa mơ màng nhìn cao hơn con mắt của Grigori, một nụ cười dâm đãng nở trên môi
hắn.
- Kể ra cũng được, - Grigori đồng ý rồi cau mày.
Hạn nghỉ phép của Evgeni đã sắp hết. Hắn đã có thể bỏ băng
đeo, dễ dàng giơ tay, nhưng vẫn chưa gập được khuỷu.
Mấy ngày cuối cùng, hắn rất hay xuống la cà dưới gian
Grigori ở trong nhà đầy tớ. Acxinhia đã quét vôi lại căn phòng mốc meo bẩn thỉu
lau rửa các khung cửa sổ, lấy gạch vụn sát kỹ sàn nhà. Căn phòng nhỏ trống
huếch trống hoác nhưng tươi vui tràn ngập không khí ấm cúng của nơi có mặt
người đàn bà. Hơi nóng toả ra từ cái bếp lò chôn dưới đất. Viên trung úy khoác
lên vai chiếc áo măng-tô ngắn may kiểu Romanov bằng dạ xanh da trời rồi láng
cháng xuống nhà đầy tớ. Hắn cứ nhằm những lúc Grigori bận chăm nom cho ngựa mới
mò tới. Đầu tiên hắn tạt vào nhà bếp, pha trò vài câu với mụ Lukeria rồi quay
ra để rẽ vào nửa nhà bên kia. Hắn ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê bên cạnh bếp lò,
gù hẳn lưng xuống và nhìn Acxinhia chằm chằm bằng hai con mắt tươi cười rất vô
liêm sỉ. Thấy Evgeni có mặt trong phòng, Acxinhia mất hết bình tĩnh, đôi kim
đan trên chiếc bít tất đan dở rung lên trong tay nàng.
- Acxuska, chị ở đây thấy thế nào? - Viên trung úy hỏi rồi
hà một hơi thuốc, khói xanh um cả căn phòng nhỏ.
- Xin cám ơn quan lớn.
Acxinhia ngước nhìn lên bắt gặp cặp mắt trong suốt của viên
trung úy, thấy trong đó nói lên không cần dùng lời tất cả dục vọng của hắn.
Nàng đỏ bừng mặt. Acxinhia cảm thấy bực bội khó chịu mỗi khi nhìn thấy hai con
mắt nhạt mầu, trần truồng của cậu chủ Evgeni Nicolaevich. Nàng trả lời không
đầu không đũa các câu hỏi vô vị của hắn, và chỉ tìm cách mau chóng bỏ đi chỗ
khác.
- Tôi phải đi đây. Còn đổ thóc cho vịt.
- Chị ngồi thêm một lát nào. Còn kịp chán. - Viên trung úy
mỉm cười hai chân hắn run bắn lên trong cái quần cưỡi ngựa may rất sát.
Hắn lân la hỏi mãi Acxinhia về cuộc đời của nàng trước kia.
Hắn cố ý dùng những âm trầm của cái giọng hệt như giọng của bố hắn, trong khi
đó hai con mắt sáng, trong như nước suối của hắn cứ nói lên những điều thô bỉ,
vô liêm sỉ.
Làm xong công việc, Grigori trở về nhà đầy tớ. Tên trung úy
dập tắt ngay ngọn lửa vừa nãy còn bừng bừng trong mắt hắn, mời Grigori hút điếu
thuốc rồi bỏ ra ngoài.
- Nó ngồi đây làm gì thế? - Grigori không nhìn Acxinhia, hỏi
giọng khàn khàn.
- Em làm thế nào mà biết được? - Nhớ lại cặp mắt tên trung úy,
Acxinhia bật cười, một tiếng cười chẳng tự nhiên chút nào. - Nó vào trong nầy,
ngồi xuống ở chỗ kia kìa, anh Griska ạ, anh hãy xem, cứ như thế nầy nầy, - Nàng
bắt chước kiểu tên trung uý ngồi, lưng còng xuống rất giống. - Và nó cứ ngồi
mãi ngồi mãi, làm em đến buồn nôn. Mà hai đầu gối nó thì nhọn hoăn hoắt, nhọn
ơi là nhọn.
- Và em thì tiếp chuyện nó, phải không? - Grigori cau mày
đầy vẻ bực tức.
- Em thiết gì cái thớ nó!
- Nầy liệu liệu đấy, kẻo tôi chỉ búng một cái là cho nó bắn
ra ngoài thềm ngay.
Acxinhia mỉm cười nhìn Grigori và không thể nào hiểu được là
chàng nói thật hay nói đùa.
15
Đến tuần chay thứ tư trời bớt rét. Hai bên dòng sông Đông
sùi lên, nom như những cái viền tua. Lớp trên của băng tan một phần trương lên,
thủng lỗ chỗ trắng ra. Chiều chiều từ trong núi vang ra những tiếng ì ầm. Theo
lời các cụ truyền lại thì đó là triệu chứng sắp đại hàn, nhưng thật ra trời sắp
trở ấm. Buổi sáng tiết trời rét nhẹ còn phủ lên mặt đất một lớp băng mỏng,
nhưng đến giữa trưa thì đất sạch băng và không khí nặc mùi tháng ba, mùi vỏ cây
anh đào bị giá, mùi rơm cỏ mục.
Miron Grigorievich đã nhẩn nha sửa soạn việc cày bừa. Ngày
đã dài ra, nhưng hôm nào ông cũng loay hoay dưới mái hiên nhà kho để đẽo những
cái răng bừa và cùng Getko làm hai cái khung xe mới, kiểu xe có bánh. Cụ
Grisaka ăn chay để đến tuần thứ thì chịu lễ ban ơn thánh thể. Cụ ở nhà thờ về,
rét quá, người tím lại như quả bồ quân. Cụ than phiền với con dâu:
- Lão cố đạo làm tình làm tội tao mãi, cha cố cái loại ăn
hại, đúng thế đấy, làm lễ cứ như lái trứng đánh xe. Đến là tai hại!
- Cha ạ, đáng là cha nên chờ đến tuần trước lễ Phục sinh hãy
ăn chay thì hơn, lúc ấy ấm áp hơn.
- Mày gọi con Natalia vào đây cho tao. Phải bảo nó đan cho
một đôi bit-tất thật dày mới được. Còn đi thứ bit-tất hở gót nầy thì đến con
sói xám cũng chết cóng.
Natalia về sống ở nhà bố mẹ thật chẳng khác gì “một gã
khô-khon lúc gần đất xa trời” (Ý nói kẻ ngụ cư sắp chết nơi đồng đất nước người).
Nàng cứ có cảm tưởng như Grigori sẽ quay trở lại với mình. Mặc những lời rỉ tai
tỉnh táo của lý trí, con tim nàng vẫn một mực mong đợi. Đêm đêm lòng dạ nàng bị
thiêu đốt trong nhớ nhung. Chuyện nhục nhã bất ngờ và đầy oan khuất vừa qua đã
dày xéo, chà đạp lên nàng. Nhưng chưa hết tai này đã đến nạn khác, và Natalia
kinh hoàng, âm thầm chờ xem kết cục của cái nạn này sẽ ra sao. Bao nhiêu đêm
liền nàng trằn trọc trong căn phòng nàng đã ở hồi còn con gái, chẳng khác gì
con chim dẽ mào trúng đạn trong đám cỏ bên bờ đầm. Ngay từ mấy ngày đầu Mitka
đã bắt đầu nhìn Natalia bằng con mắt khác hẳn trước kia, và một lần nó đã giữ
nàng lại ở phòng ngoài, hỏi toạc móng heo:
- Mày buồn khổ vì thiếu thằng Griska à?
- Việc gì đến anh?
- Tao muốn giúp mày xua cái buồn ấy đi…
Natalia nhìn vào mắt nó rồi sợ rủn cả người vì thấy mình đã
đoán ra. Cặp mắt xanh lè như mắt mèo của Mitka long lên, hai kẽ đồng tử lấp
loáng đầy vẻ dâm đãng trong bóng tối của phòng ngoài. Natalia đóng sầm cửa lại,
nhảy thoắt vào căn phòng bên, phòng của cụ Grisaka. Nàng đứng trong đó rất lâu,
lắng nghe tiếng tim mình hoảng hốt đập thình thịch. Ngay hôm sau Mitka lại sán
đến bên Natalia ở sân nuôi gia súc. Lúc ấy nó đang hất cỏ cho gia súc ăn, những
sợi cỏ xanh còn vương trên bộ tóc mượt và cái mũ lông kiểu Tây ban nha của nó.
Natalia đang đuổi mấy con chó luẩn quẩn bên cái máng lợn.
- Mày đừng tự làm khổ mày nữa, Natasca ạ…
- Tôi gọi cha bây giờ! - Natalia không dám nhìn nó bèn đưa
hai tay lên che mặt và kêu rầm lên.
- Sao thế, mày điên à?
- Cút đi đồ khốn kiếp!…
- Làm gì mà mày kêu toáng lên thế?
- Cút ngay đi, anh Mitka? Tôi vào mách cha bây giờ đây! Sao
anh cứ nhìn tôi bằng hai con mắt như thế? Hừ, đồ vô liêm sỉ! Thế mà còn đứng
được trên mặt đất à?
- Đất nó vẫn đỡ tao như thường, có lún xuống đâu nào? - Để
chứng thực cho lời nó nói, Mitka chống nạnh hai tay và dận đế ủng xuống đất.
- Này anh Mitka, đừng có sán đến gần tôi!
- Bây giờ thì tao không đến gần mày đâu, nhưng đến đêm tao
sẽ vào. Đúng thế đấy, thể nào tao cũng vào.
Natalia bước ra khỏi sân gia súc, người run cầm cập. Đến
tối, nàng sắp xếp chỗ nằm trên chiếc hòm to, rồi gọi con em gái út vào cùng ngủ
với mình. Suốt đêm nàng trằn trọc, mắt bừng bừng cố nhìn xuyên qua bóng tối,
chỉ chờ có tiếng động là kêu rầm nhà ngay.
Nhưng trong bầu không khí lặng như tờ chỉ nghe thấy tiếng cụ
Grisaka ngáy cạnh đấy, bên kia tường, và tiếng con em bé dạng chân dạng tay nằm
bên cạnh lâu lâu lại khịt mũi.
Những ngày bị đầu độc bởi nỗi đau khổ khôn nguôi của một
người đàn bà lần lượt trôi qua.
Mitka còn chưa khuây khoả sau cái nhục mà nó đã phải chịu
trong lần đi hỏi vợ trước kia. Nó trở nên cau có và hung hãn. Tối tối nó lần
đến bãi thanh niên múa hát chơi bời, phần nhiều trời hửng mới thấy nó dẫn xác
về. Nó tằng tịu với những mụ vợ lính vắng chồng ngứa nghề hoặc đến nhà Stepan
đánh “Otko”. Tạm thời Miron Grigorievich vẫn chưa nói gì, chỉ theo dõi riết.
Trước lễ Phục sinh, một hôm Natalia bỗng gặp ông Panteley
Prokofievich ở gần cửa hiệu Mokhov. Ông bố chồng gọi nàng trước:
- Hượm lát đã, Natalia!
Natalia đứng lại. Nhìn bố chồng thấy cái mũi quặp và khuôn
mặt hao hao như Grigori, nàng chợt cảm thấy nhớ day dứt.
- Sao Natalia không nhìn ngó tới ông bà già này nữa thế? -
Ông già luống cuống tránh cặp mắt của Natalia, cứ như chính mình có lỗi với
nàng. - Bà lão ở nhà cũng nhớ Natalia lắm đấy, cứ bảo không biết con về bên ấy
thế nào… Thế nào, dạo này con ra sao?
Sau một phút bàng hoàng mà nàng cũng không hiểu vì sao,
Natalia đã trấn tĩnh lại được:
- Xin cám ơn… - Đến đây thì nàng ngập ngừng (vốn là nàng
định gọi ông già là cha nhưng lại thôi) rồi lúng túng nói nốt - Ông Panteley
Prokofievich.
- Sao Natalia không lại thăm chúng tôi nữa thế?
- Cháu còn bận làm… công việc trong nhà.
- Cái thằng Griska nhà chúng tôi, chao ôi! - Ông già lắc đầu
cay đắng. - Nó làm chúng tôi cũng đến khổ, cái thằng mất dạy… Trước kia cả nhà
sống êm ấm hòa hợp biết bao…
- Còn biết sao được nữa, cha ơi… - Giọng Natalia cất cao
lên, thất thanh, - có lẽ tại số đấy thôi.
Nhìn thấy cặp mắt đẫm lệ của Natalia, ông Panteley Prokofievich
cuống lên, không biết làm thế nào nữa. Nàng mím chặt môi, cố nuốt nước mắt.
- Thôi tạm biệt, con yêu của cha… Con đừng vì nó mà đau khổ
nữa, cái thằng chó đẻ ấy nó không đáng cái móng tay của con đâu. Nhưng có lẽ nó
sẽ lại quay về thôi. Cha sẽ tìm nó, rồi thể nào cũng lôi cổ được nó về.
Natalia bỏ đi, đầu rụt lại như người bị đòn. Còn ông
Panteley Prokofievich thì cứ đứng tại chỗ mà giậm chân mãi như sắp sửa chạy tế
lên. Natalia đi đến đầu phố quay đầu lại thấy bố chồng đang nặng nề tì hẳn
người lên cái nạng, khập khiễng đi trên bãi.
16
Các cuộc họp ở nhà Stokman bắt đầu thưa dần. Trời sắp sang
xuân. Bà con trong thôn đều sửa soạn cho công việc đồng áng mùa xuân. Đến họp
được chỉ có mấy anh chàng ở nhà máy xay. “Bồi” và Davydka cùng anh thợ máy Kotliarov.
Anh em đã gặp nhau hôm thứ năm tuần Thánh (Tuần trước lễ Phục sinh), lúc
trời sắp tối. Stokman ngồi ở bàn thợ, anh dùng một chiếc dũa nhỏ giũa một cái
nhẫn bạc làm bằng một đồng nửa rúp. Một dé ánh sáng của vừng mặt trời sắp lặn
chiếu qua cửa sổ, in lên sàn một cái khung vuông đầy bụi, màu hồng hồng vàng
vàng. Kotliarov loay hoay với cái kìm bấm.
- Hôm nọ tôi có mặt ở nhà lão chủ, tôi đã đến đấy để nói về
chuyện cái pít-tông. Cần phải đem đi Minlerovo, vì chỉ ở đấy mới có thể chữa
đến nơi đến chốn, chứ chúng mình ở đây thì làm gì được? Rạn một vết bằng ngần
nầy nầy. - Kotliarov giơ ngón tay út ra hiệu kích thước của vết rạn, không biết
để ai xem.
- Hình như ở đấy có một nhà máy lớn phải không? - Stokman
hỏi, nhưng tay anh vẫn giũa, bụi bạc rất mịn rơi lăn tăn chung quanh ngón tay
anh.
- Có một lò Máctanh. Năm ngoái tôi đã có dịp đến đấy.
- Anh em thợ có đông không?
- Đông vô kể, đến bốn trăm ấy.
- Thế đời sống của họ thế nào? - Stokman vẫn vừa làm việc
vừa hỏi. Đầu anh lắc lắc, giọng anh tách bạch từng tiếng như người cà lăm cố
gắng gượng nói như bình thường.
- Họ sống sung túc lắm. Không phải là cái giai cấp vô sản
của anh đâu, mà là… cứt mới đúng.
- Sao lại thế? - “Bồi” thấy lạ bèn hỏi. Hắn ngồi bên cạnh
Stokman, những ngón tay vừa ngắn vừa thô đan vào nhau trên đầu gối.
Chàng thợ cán Davydka cứ đi lại lại trong gian xưởng, bột mì
bám đầy trên tóc làm đầu hắn nom như bạc. Đôi ủng mũi nhọn thốc phoi tiện bắn
tung ra. Hắn mỉm cười lắng nghe tiếng loạt soạt vang lên kèm theo mùi dầu mỡ.
Davydka có cảm tưởng như mình đang đi trong một khe núi, lá rụng đỏ tía. Lớp lá
lún xuống rất êm, và bên dưới là chất đất ẩm của khe núi, non trẻ, co dãn.
- Đó là vì tất cả chúng nó đều sống có của ăn của để. Thằng
nào cũng có một ngôi nhà nhỏ riêng, có vợ và mọi mặt thỏa mãn sung sướng khác.
Ngoài ra trong số ấy một nửa lại theo bọn Báp-tít (Còn gọi là giáo phái Tây
lễ, một giáo phái của đạo Thiên chúa, chủ trương người lớn tin đạo rồi mới chịu
lễ rửa tội). Chính lão chủ nhà máy lại là thằng truyền đạo
của chúng nó. Thế là tay nọ rửa tay kia, mà cả hai tay đều đầy cáu ghét, lấy
xẻng cạo cũng không thể nào sạch được.
- Anh Kotliarov nầy, bọn Báp-tít là thế nào nhỉ? - Davydka
nghe thấy một từ ngữ lạ bèn đứng lại hỏi.
- Bọn Báp-tít ấy à? Bọn chúng nó tin Thượng đế theo kiểu riêng
của chúng nó. Cũng đại loại như bọn Pô-li-pôn ấy mà. (Tên gọi nhại những người
theo Cựu giáo)
- Mỗi thằng xuẩn ngu đều có một cách riêng để mất trí. -
“Bồi” nói thêm.
- Thôi để mình kể nhé. Thế là mình đến gặp Sergey
Platonovich, - Kotliarov nói tiếp câu chuyện đã bắt đầu. Đến nhà lão thì thấy
Atepin “Chacha” ngồi ở đấy rồi. Lão bảo: “Anh hãy chờ ở phòng ngoài đã”. Mình
bèn ngồi đợi. Qua cửa phòng có thể nghe thấy câu chuyện họ nói với nhau. Lão
chủ nói với Atepin rằng có lẽ chiến tranh với người Đức sắp nổ ra đến nơi, và
lão còn đọc thêm một đoạn trong sách. Còn “Chacha” thì cậu có biết hắn ta trả
lời ra sao không? Hắn ta bảo: “Tất nhiên tôi không thể đồng ý với ông về chuyện
“chiến chanh” được”.
Kotliarov nhại giọng Atepin giống quá, làm Davydka há hốc
miệng ra cười một tiếng ngắn, nhưng anh chàng chợt nhìn thấy vẻ mặt nhạo báng
của “Bồi”, lại thôi ngay. Kotliarov tiếp tục kể lại câu chuyện anh được nghe:
- Hắn bảo: “Không thể có chiến “chanh” với nước Nga được vì nước Đức sống bằng lúa mì của chúng ta”.
Đến lúc ấy lại có một thằng nữa nói, nhưng tôi nghe giọng nói, không nhận được
ra là ai, mãi sau mới biết là thằng con lão địa chủ Litnhitki, một tên sĩ quan.
Thằng nầy nói: “Chiến tranh sẽ nổ ra giữa nước Đức và nước Pháp để tranh dành
những vườn nho, còn chúng ta thì chẳng có gì dính dáng đến chuyện ấy”.
- Anh Stokman nầy, anh thấy thế nào hả? - Kotliarov hỏi
Stokman.
Stokman đưa tay ra xa, chú ý ngắm nghía chiếc nhăn đã giũa
xong và trả lời như cho qua chuyện:
- Tôi không biết đoán trước chuyện sau nầy đâu.
- Chúng nó choảng nhau thì chúng mình cũng chẳng yên thân.
Dù muốn hay không, hễ xảy ra chuyện gì mình sẽ bị nắm tóc lôi vào cuộc thôi, -
“Bồi” suy luận.
- Về chuyện nầy, các bạn ạ, vấn đề là như thế nầy nầy… -
Stokman vừa nói vừa nhẹ nhàng lấy lại cái kìm trong tay Kotliarov.
Giọng anh nghiêm trang, rõ ràng là anh định giảng giải cặn
kẽ.
“Bồi” co lại cho thoải mái hai chân trượt từ bàn thợ xuống.
Trên khuôn mặt Davydka, cặp môi chúm lại vẫn chưa che kín mấy cái răng bàn cuốc
đẫm nước bọt. Với những lời lẽ rõ, gọn, chắc như đinh đóng cột mà anh vẫn quen
dùng, Stokman phác ra bức tranh về tình hình các nước tư bản đấu tranh với nhau
để dành thị trường và thuộc địa.
Cuối cùng Kotliarov nóng nảy ngắt lời Stokman:
- Anh hãy hượm đã nào, nhưng chúng ta thì có gì dính dáng
vào những chuyện ấy?
- Cả cậu lẫn những anh chàng khác cũng như cậu đều sẽ nhức
đầu vì những kẻ khác say rượu đấy, - Stokman mỉm cười.
- Anh còn trẻ con gì nữa mà không biết, - “Bồi” nói ác, -
tục ngữ từ xưa đã có câu: “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”?
- Hừ-ừm, - Kotliarov nhăn mặt, cố gỡ cả một khối rất to
những ý nghĩ rối như tơ vò.
- Cái thằng Litnhitki ấy, nó mò đến nhà lão Mokhov làm gì
thế? Định ngấp nghé con gái lão ta hay sao? - Davydka hỏi.
- Của ấy đã qua tay thằng ăn thừa tự nhà Korsunov rồi còn
gì? – “Bồi” vẫn ác khẩu.
- Anh nghe thấy không, Kotliarov? Thằng sĩ quan ấy gí mũi
vào đấy làm gì thế?
Kotliarov giật mình đánh thót, cứ như bị người ta lấy roi
quật vào đầu gối.
- Cái gì hử? Cậu bảo sao?
- Ngủ gật đấy à? Ông già? Đang nói về thằng Litnhitki đấy.
- Nó ra ga mà. Nhưng còn có chuyện mới lạ nầy nữa: mình ở
trong ấy bước ra thì thấy trên thềm có một anh chàng, các bạn có đoán được ra
là ai không? Thằng Griska nhà Melekhov. Nó cầm một cái roi nhỏ đứng đấy. Mình
hỏi: “Cậu đến đây làm gì thế, Grigori?”. Nó trả lời: “Tôi đưa công tử Litnhitki
ra ga Minlerovo”.
- Nó đánh xe cho nhà ấy đấy - Davydka nói xen vào.
- Nó đến ăn cơm thừa của nhà địa chủ.
- “Bồi” ạ, cậu đúng là một con chó xích, bất kỳ thấy ai cũng
sủa.
Câu chuyện lắng đi một chút. Kotliarov đứng dậy ra về.
- Anh vội đi nhà thờ phải không? – “Bồi” nói chọc theo.
- Mình thì ngày nào cũng đi lễ.
Stokman tiễn ba người khách quen ra về, rồi khóa cửa gian
xưởng, đi vào nhà trong.
Đêm lễ Phục sinh, những đám mây ưỡn những bộ ngực đen sì che
kín bầu trời, mưa lộp bộp từng giọt. Bóng tối đầy hơi ẩm đè nặng lên thôn xóm.
Trên sông Đông, ngay từ lúc hoàng hôn, băng đã nứt với những tiếng rên rỉ kéo
dài lan dần ra xa. Tảng băng đầu tiên bị cái khối khổng lồ những miếng băng vụn
ép lại bắt đầu ngoi lên khỏi mặt nước với những tiếng ràn rạt. Băng nứt liền
một đoạn bốn vec-xta, cho tới khúc đầu tiên sau khi con sông chảy ra khỏi thôn.
Rồi băng bắt đầu trôi. Theo nhịp chuông nhà thờ dóng dả đều
đặn, những cánh đồng băng trên sông Đông xô vào nhau, tan vỡ, làm rung chuyển
cả hai bên bờ. Băng trôi đến quãng sông Đông ngoặt sang trái thì tắc lại. Tiếng
nổ ầm ầm và tiếng nứt ràn rạt của những tảng băng xô vào nhau vang đến trong
thôn. Thanh niên kéo đàn kéo lũ đến bên trong tường bao nhà thờ, trên cái sân
lốm đốm những vũng băng tan nhấp nhoáng. Từ trong nhà thờ, tiếng đọc kinh sang
sảng vang ra tới thềm, rồi từ thềm ra sân. ánh đèn nến ngày hội lunglinh vui vẻ
sau chấn song các cửa sổ. Trong khi đó, bên trong dãy tường bao bọn con trai sờ
nắn cấu chí bọn con gái, còn bọn con gái chốc chốc lại khe khẽ rít lên. Họ hôn
nhau, họ thầm thì kể cho nhau nghe những chuyện bù khú.
Từ những thôn xa có, gần có, dân Cô-dắc đến dự buổi lễ thánh
vui tươi. Họ đứng chen chúc trong phòng giữ đồ thánh của nhà thờ. Kiệt sức vì
mệt và vì không khí ngột ngạt trong phòng, người ta lăn ra ngủ trên những chiếc
ghế dài, trên các bậu cửa sổ, hoặc ngay trên sàn nhà.
Có những người ngồi trên những ngưỡng cửa sổ cũ nát hút
thuốc, bàn tán về chuyện thời tiết nắng mưa, chuyện công việc đồng áng mùa
xuân.
- Bao giờ thì bà con thôn bác bắt đầu ra đồng?
- Có lẽ đến thánh Tôma thì bắt đầu.
- Nếu thế thì tốt lắm, vì đồng cỏ bên bác có nhiều cát.
- Mấy năm nay đất đã được thấm nhiều nước.
- Năm ngoái chúng tôi cày thấy ròn như sụn ấy, cả một dải
thượng đẳng điền thẳng cánh cò bay.
- Đunka, ở chỗ nào thế? - Có tiếng léo nhéo bên dưới thềm
nhà giữ đồ thánh.
Cạnh cửa hàng rào nhà thờ, có tiếng lầu bầu, khàn khàn và
thô bạo:
- Chúng mày không kiếm được chỗ nào khác mà hôn nhau à? Chà
hai đứa nầy… Xéo khỏi chỗ nầy ngay, quân đốn mạt dơ dáy! Làm gì mà động cỡn lên
thế?
- Ông đang thiếu đôi hay sao? Đến kiếm con chó cái nhà tôi
mà hôn vậy, - Trong bóng tối có một giọng con trai đang vỡ tiếng cãi lại.
- Cho-o-ó cái à? Nầy ông cho mày biết…
Rồi có tiếng chân chạy lép nhép, tiếng cười rộ và tiếng váy
con gái loạt soạt.
Nước nhỏ trên mái xuống từng giọt, lanh lảnh như tiếng thuỷ
tinh. Rồi lại vẫn cái giọng chậm rề rề, lệt sệt như bùn đất đen:
- Hôm kia tôi có đến mặc cả mua cái cày ở nhà Prokho, tôi đã
trả mười hai rúp mà lão còn chưa chịu bán. Với thằng cha ấy thì không bớt được
đồng nào đâu.
Những tiếng hàng rào, lạo sạo, răng rắc vẫn rền đều trên
khắp sông Đông. Hình như dưới kia, bên ngoài thôn, có một người đàn bà trang
sức lộng lẫy, rất khỏe, cao như một cây tiêu huyền, đang vừa đi vừa loạt soạt
những cái vạt váy to lạ lùng.
Đến nửa đêm, khi bóng tối đã đặc sệt như nước mứt hoa quả,
bỗng thấy Mitka Korsunov cưỡi một con ngựa không đóng yên phi đến bên tường bao
nhà thờ. Nó xuống ngựa, buộc dây cương lên bờm ngựa, rồi đưa tay vỗ vỗ con ngựa
vừa chạy còn đương hăng. Nó đứng lại một lát, lắng nghe tiếng vó ngựa dẫm lọp
ọp dưới đất, rồi sửa lại dây lưng, bước vào trong sân. Lên đến thềm nhà thờ, nó
bỏ cái mũ lông xuống, cúi cái đầu cạo dành món tóc như hình một cái ngoặc đơn
không đều đặn để làm lễ. Lễ xong, nó xô đẩy những người đàn bà, len tới trước
bàn thờ. Ở bên trái là cánh đàn ông chen chúc nhau như một đàn cừu đen, còn bên
phải là những mầu sặc sỡ của quần áo phụ nữ. Mitka đưa mắt tìm thấy bố đang
đứng trên hàng đầu, bèn len tới gần. Miron Grigorievich vừa đưa tay lên làm dấu
phép thì Mitka nắm lấy khuỷu tay ông, ghé sát miệng vào cái tai đầy lông lá của
ông, khẽ nói:
- Cha ơi, cha ra ngoài kia một lát.
Cánh mũi phập phồng, Mitka lách qua cả một hàng rào người
dày đặc, nồng nặc đủ mọi thữ mùi: mùi khói nến lờm lợm, mùi những cơ thể đàn bà
đầm đìa mồ hôi, mùi cải mả của những bộ quần áo cất kín quá lâu (các bộ quần áo
nầy chỉ được lôi từ dưới đáy hòm ra nhân dịp lễ Thiên chúa giáng sinh hay lễ Phục
sinh), mùi da giầy ướt mùi băng phiến, mùi những chất bài tiết từ những cái dạ
dày đói meo qua tuần chay.
Ra đến ngoài thềm, Mitka tì ngực vào vai bố và nói:
- Con Natalia chết mất!
17
Grigori đánh xe đưa Eghênhi đi Minlerovo rồi về ngay cho kịp
ngày chủ nhật lễ Lá.
Ở một làng của người Ukraina tên là Onkhovyi Rok cách nhà ga
hai mươi nhăm vec-xta, thiếu chút nữa thì chàng làm cho hai con ngựa chết đuối
trong khi vượt sông. Chàng tới làng nầy từ lúc còn chưa hoàng hôn. Đêm hôm
trước băng vỡ, trôi đi, dòng sông nhận thêm những luồng nước tuyết tan nâu nâu,
dâng lên, sủi bọt, tràn vào các ngõ.
Quán trọ nơi Grigori nghỉ cho ngựa ăn trên đường ra nhà ga
lại ở bờ bên kia. Qua đêm nữa thì nước còn có thể dồn tới nhiều hơn, vì thế
Grigori quyết định vượt sông ngay.
Chàng cho ngựa chạy tới chỗ trước đó một ngày một đêm chiếc
sẽ đã vượt sông trên băng. Bây giờ thì con sông tràn lên hai bên bờ, cuốn theo
lòng sông mở rộng những đám nước bẩn và dễ dàng quay tít giữa dòng một đoạn
hàng rào cùng với một nửa cái vành bánh xe.
Trên mặt cát đã sạch hết tuyết, còn hằn những vết đòn trượt
mới in, chỉ hơi mờ một chút. Grigori cho ngựa dừng lại. Hai con ngựa chạy đã
đẫm mồ hôi, chỗ háng sủi lên như bọt xà phòng. Chàng nhảy trên xe xuống xem kỹ
các vết đòn xe, thấy có những vết rạn nứt rất nhỏ.
Ra tới mép nước, các vết đòn đều hơi chệch sang trái một
chút rồi mới chìm sâu xuống. Grigori đưa mắt ước lượng khoảng cách: chỉ hai
mươi xa-gien, không thể nhiều hơn nữa. Rồi chàng trở về với hai con ngựa để xem
lại các đồ thắng. Ngay lúc ấy, từ trong ngôi nhà gần nhất, một người Ukraina có
tuổi đi tới gần Grigori. Người ấy đội cái mũ lông cáo có ba mảnh che gáy che
tai.
- Chỗ nầy qua được chứ ông? - Grigori vừa hỏi vừa vung dây
cương chỉ dòng nước nâu nâu sôi sục.
- Qua được đấy. Sáng nay vừa có người qua.
- Có sâu không?
- Không. Nhưng có lẽ nước tràn được vào trong xe đấy.
Grigori lựa lại những sợi dây cương, cầm ngọn roi sẵn sàng
rồi thúc hai con ngựa bằng một tiếng ra lệnh ngắn gọn “Đi!”.
Hai con ngựa thở phì phì, ngửi ngửi làn nước rồi cất bước
một cách miễn cưỡng.
- Đi! - Grigori đứng nhổm lên trên chỗ ngồi đánh xe, quất
roi đánh đét.
Con ngựa lông hạt dẻ có cặp mông rất to thắng ở bên trái. Nó
lắc đầu: thôi cũng liều! Rồi bất thần kéo mạnh dây thắng, Grigori liếc nhìn
xuống chân; nước ngập tới thành xe. Lúc đầu hai con ngựa chỉ lội đến đầu gối,
nhưng sau bỗng nhiên ngụp tới ngực, Grigori đã muốn quay trở lại, nhưng ngựa đã
hẫng chân, bắt đầu bơi trên mặt nước. Phần sau chiếc xe bị nước đẩy xuôi, hai
con ngựa quay đầu lên thượng nguồn. Nước tràn qua lưng ngựa, chiếc xe tròng
trành rồi bị kéo trở lại rất mạnh.
- Ái chà! ái chà! Giữ cho vững! - Người Ukraina chạy trên bờ
kêu rầm lên, và không hiểu sao bác ta cứ giựt cái mũ lông cáo trên đầu xuống mà
vung loạn xạ.
Grigori tức sôi lên một cách man rợ. Chàng quát luôn miệng,
cố thúc hai con ngựa. Nước xoáy tít phía sau chiếc xe bị chìm xuống một phần,
thành những hình phễu nhỏ. Chiếc xe chợt vấp mạnh vào một cái cọc nhô khỏi mặt
nước (đó là dấu vết của một chiếc cầu bị cuốn trôi) rồi lật sấp luôn, dễ như
trở bàn tay. Grigori vừa kịp ái chà một tiếng đã ngập đầu xuống nước, nhưng tay
vẫn nắm chắc dây cương. Cứ như có người nắm tà áo lông ngắn, kéo chân Grigori
lôi chàng một cách nhẹ nhàng nhưng dai dẳng, vật vã chàng bên cạnh chiếc xe
luôn luôn ngả nghiêng. Tay trái của chàng bỗng
nắm được một cái đòn trượt, chàng bèn buông cương, thở hổn hển, bắt đầu thay
đổi hai tay, men dần tới cái đòn ngang phía trước. Những ngón tay Grigori vừa
nắm được cái đầu bọc sắt của cái đòn ngang thì đầu gối của chàng bị chân sau
của con Hạt Dẻ đạp mạnh: con ngựa đang cố giãy để chống lại dòng nước. Grigori
bị sặc nước, nhưng chàng vẫn bơi vài sải và túm được một dây cương. Nước chảy
mạnh làm chàng không lại gần được hai con ngựa và phải hết sức cố gắng mới duỗi
được những ngón tay. Khắp người lạnh buốt như bị những cái gai lửa châm,
Grigori xoài được tới đầu con Hạt Dẻ. Nó nhìn như xuyên vào hai cái đồng tử nở
căng của Grigori bằng hai con mắt đỏ máu, điên cuồng, đầy kinh hoàng.
Đã mấy lần, những sợi dây cương quá trơn tuột khỏi tay
Grigori. Chàng vừa bơi vừa cố túm lấy, song những cái dây da vẫn cứ trơn tuột
đi. Cuối cùng không hiểu sao chàng vẫn nắm được và hai chân chàng bỗng nhiên
chạm tới đất.
- Đi i-i! - Grigori hết sức lao mình về phía trước nhưng lại
bị ngực của một con ngựa húc phải, làm cho chàng mất thăng bằng, ngã lăn xuống
một chỗ nước nông ngầu bọt.
Hai con ngựa dẫm qua người Grigori, phóng lên như một cơn
lốc, kéo được chiếc xe ra khỏi làn nước, nhưng chỉ chạy thêm được vài bước,
chúng đã mệt nhoài phải đứng lại. Hai lưng ngựa ướt đẫm bốc hơi ngùn ngụt, run
bắn lên.
Grigori không còn biết đau nữa, chàng đứng chồm ngay dậy.
Hơi lạnh bám lên người như thứ bột bánh nóng không thể nào chịu được.
Grigori còn run hơn con ngựa, chàng cảm thấy trong khi đứng,
lúc nầy mình cũng yếu như đứa trẻ chưa rời vú mẹ. Bỗng chàng nhớ ra, bèn lật
lại chiếc xe cho hai đòn trượt xuống dưới, rồi đánh ngựa phi nước đại, cho hai
con ngựa nóng lên. Chiếc xe lao như bay vào một dãy phố, cứ như trong một trận
tấn công. Vừa thấy có một cái cổng mở, chàng cho ngựa xông bừa vào ngay mà cũng
chẳng ghìm chậm lại. Cũng may gặp một người chủ nhà tốt bụng. Bác ta sai con
trai ra làm các việc cần đối với hai con ngựa, còn mình thì tự tay giúp Grigori
cởi quần áo rồi ra lệnh cho vợ, giọng không cho phép nói lại:
- Nhóm lò!
Grigori mặc chiếc quần dài của chủ nhà, nằm nghỉ trên bếp
lò, chờ quần áo của mình khô. Chàng ăn tối với một món xúp không có thịt rồi đi
ngủ.
Chàng lên đường lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Trước mặt
còn chặng đường một trăm ba mươi nhăm vec-xta, vì thế một phút cũng quý. Mùa
xuân đường xá trên đồng cỏ luôn luôn có thể hỏng không đi được Những dòng nước
tuyết tan chảy ầm ầm trong tất cả các khe các vực.
Hai con ngựa chạy như bay trên con đường đen xì đã tan hết
băng tuyết. Trong sương giá ban mai, Grigori về tới một khu của người Tavria ở
cách đường cái bốn vec-xta, rồi cho xe dừng lại ở chỗ ngã ba. Hai con ngựa đẫm
mồ hôi bốc hơi ngùn ngụt. Vết đòn xe nhấp nhoáng phía sau trên mặt đất. Grigori
bỏ chiếc xe trượt tuyết lại trong khu người Tavria, rồi buộc cao đuôi hai con
ngựa, cưỡi một con, còn con kia thì nắm lấy dây cương dắt theo. Chàng về tới
Yagonoie sáng hôm chủ nhật lễ Lá.
Lão địa chủ nghe Grigori thuật lại cặn kẽ về chặng đường rồi
ra thăm ngựa. Cụ Xaska đang dắt hai con ngựa đi trong sân. Cụ nhìn những cái
sườn ngựa hõm sâu xuống bằng con mắt căm giận.
- Ngựa thế nào? - Lão địa chủ bước tới hỏi.
- Cứ nhìn cũng đủ biết. - Cụ Xaska lầu bầu nhưng không đứng
lại, chòm râu tròn trắng trắng xanh xanh của cụ run lên.
- Có chạy hỏng mất ngựa không?
- Chưa, chỉ có ngực con Hạt Dẻ bị vòng cổ sát đau thôi.
Không có gì đáng kể.
- Mày đi nghỉ đi. - Lão địa chủ hất tay bảo Grigori lúc này
vẫn đứng chờ bên cạnh.
Grigori trở về phòng đầy tớ, nhưng chàng cũng chỉ được nghỉ
có một đêm. Sáng hôm sau Venhiamin đã tới với chiếc áo sơ-mi xa-tanh mới màu
xanh da trời và nụ cười trên bộ mặt phính phính như thường lệ.
- Grigori lên cụ chủ gọi. Lên ngay nhé!
Viên tướng đang lệt sệt đôi giày đế mỏng bằng dạ đi đi lại
lại trong phòng khách. Grigori đứng lại ngoài cửa, dặng hắng lần đầu, và giậm
hết chân nọ đến chân kia. Chàng dặng hắng lần thứ hai thì lão địa chủ ngẩng đầu
lên.
- Mày có việc gì thế?
- Thưa có Venhiamin gọi.
- À phải. Mày ra thắng con ngựa non và con Kreput. Bảo con
Lukeria đừng cho nó ăn. Đi săn.
Grigori vừa quay ra thì lão địa chủ gọi giật lại.
- Nghe rõ chưa? Mày sẽ đi với tao.
Acxinhia nhét vào túi áo lông ngắn của Grigori một miếng
bánh xốp nhạt, khẽ nói:
- Cái lão khốn khiếp không để cho người ta ăn nữa? Sao ma
quỷ không bắt lão đi. Anh Griska ạ, quấn cái khăn vào nhé.
Grigori dắt hai con ngựa yên cương sẵn sàng ra hàng rào rồi
huýt sáo gọi chó. Lão địa chủ bước ra sân. Lão mặc một cái áo ca-pôt dạ xanh,
thắt một chiếc dây lưng rua thủng, trên vai lủng lẳng một bình nước bằng kền
lót gỗ bấc, chiếc roi gân bò xoắn thõng dưới tay lủng lẳng phía sau như con
rắn.
Grigori nắm dây cương, chú ý nhìn lão già. Chàng không khỏi
ngạc nhiên khi thấy lão đưa hết sức nhẹ cái thân hình già sóc những xương cùng
xẩu lên yên.
- Theo sát tao, không được đứt quãng, - Viên tướng ra lệnh
gọn lỏn, bàn tay đeo găng nhẹ nhàng lựa lại dây cương.
Grigori cưỡi con ngựa non bốn tuổi. Nó thích đi ngang, vừa
đi vừa nghịch, đầu ngửng cao như con gà trống. Hai chân sau chưa đóng móng, vì
thế hễ dăm lên một đám băng mỏng ròn là nó bị trượt bốn vó khuỵu xuống. Trên
cái lưng rộng bè bè của con Kreput, lão địa chủ ngồi đung đưa, lưng hơi gù một
chút, nhưng dáng ngồi rất vững.
- Chúng ta đi đâu bây giờ? - Grigori cho con ngựa lên ngang
với lão rồi hỏi.
- Đến khe Liễu Đỏ! - Lão địa chủ trả lời rất trầm.
Hai con ngựa chạy rất ăn nhịp. Con ngựa non đòi thả lỏng dây
cương. Nó uốn cong cái cổ ngắn, như một con thiên nga, nhìn bằng con mắt lồi
lồi và tìm cách cắn vào đầu gối người cưỡi nó. Hai người lên tới một ngọn đồi
thoai thoải thì lão địa chủ cho con Kreput phi nước đại. Đàn chó chạy theo
Grigori, dàn thành một hàng ngang hẹp. Con chó cái già lông đen chạy bám sát,
chạm cả cái mõm khum khum của nó vào cuối đuôi con ngựa. Con ngựa non nổi nóng,
khuỵu chân xuống, định đạp cho con chó quấy rầy nầy một cái, nhưng con chó đã
kịp chạy chậm lại. Grigori ngoái cổ xem có chuyện gì xảy ra thì thấy nó âu sầu
đưa cặp mắt bà già nhìn vào mắt chàng.
Ngựa chạy nửa giờ thì đến khe Liễu Đỏ. Lão địa chủ cho ngựa
chạy trên bờ cái khe lờm sờm những bụi ngải cứu già nâu nâu.
Grigori lần xuống thấp, để ý nhìn cẩn thận khoảng đáy khe bị
nước chảy sói, nứt nẻ lung tung. Chốc chốc chàng lại đưa mắt nhìn lão địa chủ.
Qua tấm màn xám như màu thép của đám liễu đỏ thưa thớt, trơ trụi có thể thấy
thân hình lão già hiện lên rành rành như vẽ. Lão kiễng chân trên bàn đạp, ngả
hẳn người xuống mũi yên, lưng áo ca-pôt nhăn nhúm dưới chiếc thắt lưng Cô-dắc.
Đàn chó chạy túm tụm trên sườn đồi. Sau khi vượt qua một cái khe rất dốc,
Grigori ngả hẳn người sang một bên yên, tháo găng tay, vò loạt soạt tờ giấy
trong túi, bụng bảo dạ: “Hút điếu thuốc đã. Bây giờ thì thả lỏng dây cương lấy
túi thuốc”.
- Thúc chó đuổi! - Tiếng quát trên bờ khe nổ ra như phát
súng.
Grigori ngửng đầu; lão địa chủ cho ngựa nhảy lên đoạn bờ khe
gỗ nhọn rồi giơ cao ngọn roi quất cho con Kreput phi như gió.
- Thúc chó đuổi!
Một con sói màu nâu bẩn đang vượt qua khoảng đáy rãnh bùn
lầy đầy lau sậy. Nó chưa thay lông xong, sau bẹn còn lồm xồm đám lông cũ. Con
sói áp sát mình xuống đất chạy rất nhanh, vừa chạy vừa trượt. Sau khi nhảy qua
cái rãnh nước, nó đứng lại rồi quay phắt sang bên, nhìn thấy đàn chó. Những con
chó chạy sát nhau thành hình móng ngựa, cắt đường rút lui của con sói vào khu
rừng bắt đầu từ cuối cái khe.
Con sói rập rình như chiếc lò xo, nhảy lên một mô đất nhỏ,
có lẽ là ổ chuột đồng cũ, rồi lao vụt về phía cánh rừng. Con chó cái già nhảy
những bước ngắn gần như từ trước mặt con sói. Con chó đực lông trắng rất cao
tên là Latchev cũng kịp chạy tới từ phía sau. Con nầy vốn là một trong những
con chó săn đuổi tốt nhất và hung dữ nhất. Con sói trù trừ một lát như còn chưa
quyết định sẽ làm thế nào.
Grigori kéo vòng dây cương, cho con ngựa nhảy từ dưới khe
lên. Chàng mất hút con sói trong một phút, nhưng khi lên tới đỉnh một ngọn gò
thì thấy nó thấp thoáng mãi tít đằng xa. Những con chó đen chạy chập chờn qua
những đám cỏ dại trên dải đất đen kịt, màu lông lẫn với màu đất. Chếch xa một
chút, lão địa chủ đánh con Kreput bằng cán roi, bắt nó chạy vòng một cái khe
dốc đứng. Con sói cố lao tới cái khe bên cạnh. Đàn chó bám sát, bao vây phía
sau nó. Grigori nhìn từ đây cứ có cảm tưởng như con chó trắng Latchev bị treo
vào những đám lông lồm xồm ở háng con sói và nom nó chẳng khác gì một mảnh giẻ
trắng.
- Đuổi! - Tiếng quát bay đến tai Grigori.
Grigori cho con ngựa non chạy hết sức. Chàng cố nhìn xem
tình hình phía trước như thế nào nhưng chỉ hoài công vì nước mắt chảy ra giàn
giụa không cho chàng thấy gì nữa, còn hai tai thì điếc đặc do tiếng gió rít vù
vù. Không khí cuộc săn đã xâm chiếm Grigori. Chàng rạp người xuống cổ ngựa,
hoàn toàn bị cuốn theo chặng phi ngựa như điên. Phi đến cái khe thì sói chẳng
có mà chó cũng không.
Một phút sau lão địa chủ đuổi kịp Grigori. Lão thúc con
Kreput chạy bạt mạng quát to:
- Nó chạy đường nào?
- Có lẽ xuống khe.
- Mày phi đón đường bên trái! Đuổi!
Con ngựa chồm lên đứng thẳng trên hai chân sau, lão địa chủ
thúc gót ủng vào hông nó, bắt rẽ bên phải. Grigori kéo dây cương cho con ngựa
xuống khe. Chàng thét lên một tiếng, phi vụt sang bên kia. Tay
quất miệng la, chàng thúc con ngựa non mồ hôi đầm đìa chạy một chặng độ một
vec-xta rưỡi. Chất đất nhầy nhụa chưa khô bám vào vó ngựa, tóe lên đầy mặt
Grigori. Cái khe dài ngoằn ngoèo ôm lấy ngọn đồi, ngoặt sang phải rồi tỏa ra
thành ba nhánh. Grigori nhìn thấy đằng xa đàn chó dàn thành một hàng ngang đen
sì đuổi theo con sói trên đồng cỏ, bèn vượt qua nhánh khe nằm ngang trước mặt,
phi lên một sườn dốc thoai thoải. Có lẽ con thú đã bị đuổi ra khỏi lòng khe,
nơi sồi và liễu đỏ mọc rất dầy. Ở chỗ cái khe không còn dốc lắm và bị phân làm
ba nhánh đen đen xanh xanh, con sói đã nhảy ra một khoảng đất trống, chạy tắt
được chừng trăm xa-gien, rồi loáng cái đã theo chân núi lần vào một khoảng đất
khô đầy những bụi cỏ dại lờm xờm mọc không biết từ bao giờ và những bụi cây có
gai khô quắt.
Grigori rướn người trên bàn đạp theo dõi con sói, thỉnh
thoảng lại phải đưa tay áo lên lau những giọt nước mắt làm mờ hai con mắt bị
gió quất như những ngọn roi. Chàng liếc nhanh sang trái, nhận ra mảnh đất nhà
mình. Mùa thu qua chàng đã cùng Natalia đi cày mảnh đất bốn góc xiên xẹo nhưng
màu mỡ nầy. Grigori cố ý cho con ngựa non chạy qua khoảng đất cày. Nhưng chỉ
vài phút ngắn ngủi khi con ngựa lắc lư, khập khiễng đi trên những tảng đất đã
làm nguội trong lòng Grigori cái say sưa săn bắn đang xâm chiếm tâm hồn chàng.
Đến khi Grigori thúc con ngựa thở phì phì, chàng đã cảm thấy hoàn toàn thờ ơ.
Chàng để ý xem lão địa chủ có nhìn mình không rồi chuyển sang nước kiệu nhỏ.
Xa xa, bên khe Đỏ thấy có cái lều thợ cày bỏ trống. Gần đấy,
ba đôi bò mộng đang lê bước kéo một cái cày trên khoảng đất cày dở ánh lên như
nhung.
“Bà con thôn mình đấy. Nhưng đất nhà ai thế nhỉ? À phải, có
lẽ của Anikey”. Grigori nheo mắt nhìn lướt qua nhiều lần, cố nhận ra mấy con bò
cùng người đi sau cái cày.
- Bắt lấy nó!
Grigori nhìn thấy hai anh chàng Cô-dắc vứt cày đấy, chạy ra
chặn đường con sói lúc nầy đang định phá vòng vây chuồn xuống khe.
Một gã cao lớn vung một cái chốt sắt tháo trong ách bò. Gã
đội chiếc mũ cát két viền đỏ, đai mũ thõng xuống dưới cằm. Giữa lúc ấy con sói
bất thình lình ngồi sụp xuống, phần sau thân nó lọt vào một luống cày sâu. Con
chó trắng Latchev lao quá đà qua đầu nó, vội thu hai chân trước và ngã lăn ra.
Con chó cái già chịn mông xuống mặt đất cày lồi lõm, cố hãm đà, nhưng không
đứng lại kịp nên đâm sầm vào con sói. Con sói hất mạnh đầu. Con chó bị tung ra
xa, nằm sóng soài trên mặt đất. Đàn chó nhảy xổ vào con sói thành một đám đen
sì rất to, nghiêng bên nọ, ngả bên kia, lôi nhau trên đất cày vài xa-gien rồi
lăn như một quả bóng. Grigori phi ngựa tới nơi trước lão địa chủ chừng nửa
phút. Chàng nhảy trên yên xuống, quỳ gối, quặt bàn tay cầm con dao săn ra sau
lưng.
- Nó đây rồi! Ở bên dưới ấy! Cho nó một nhát vào họng!
Gã Cô-dắc cầm chốt sắt chạy tới hổn hển kêu lên, giọng nghe
quen quen. Gã thở như kéo bễ, nằm phục xuống bên cạnh Grigori. Thấy có con chó
đực còn cắn vào bụng con sói, gã bèn nắm lấy đám da trên cổ nó lôi ra rồi khóa
chặt hai chân sau bằng một tay. Qua đám lông cứng tua tủa trượt đi trượt lại
trong tay, Grigori lần được cái cuống họng bèn đưa dao cứa phắt.
- Chó! Chó! Xua hết đi! - Lão địa chủ kêu lên giọng khàn
đặc. Lão ngã trên yên xuống mặt đất cày xốp, mặt xạm đi.
Grigori phải vất vả lắm mới xua được đàn chó. Chàng quay lại
nhìn lão địa chủ.
Stepan đứng cách đấy xa một chút với chiếc mũ cát-két có đai
véc-ni thõng xuống dưới cằm. Anh ta xoay đi xoay lại trong tay cái chốt sắt,
hàm dưới xám ngoét và hai hàng lông mày run run.
- Anh chàng này người ở đâu thế? - Lão địa chủ hỏi Stepan. -
Thôn nào hử?
- Thôn Tatarsky, - Stepan trùng trình một lát mới trả lời
rồi tiến một nước về phía Grigori.
- Họ gì?
- Astakhov.
- Thế anh chàng thân mến, bao giờ thì anh về nhà?
- Tối hôm nay.
- Anh mang giúp chúng tôi con sói nầy về nhé. - Lão địa chủ
đưa chân chỉ con sói. Trong lúc ngoắc ngoải, răng nó thỉnh thoảng còn đập vào
nhau lạch cạch, một chân sau duỗi ra, giơ thẳng lên cao, chỗ khuỷu chân có lông
nâu nâu tuột ra sắp rụng. - Đáng bao nhiêu tôi sẽ trả, - lão hứa như thế rồi
đưa khăn quàng lên lau những giọt mồ hôi tầm tã trên khuôn mặt đỏ lừ. Lau mặt
xong, lão bỏ ra chỗ khác, vừa đi vừa nghiêng nghiêng người tháo cái dây đeo
bình nước khoác bên sườn.
Grigori bước tới bên con ngựa non. Chàng vừa đặt chân lên
bàn đạp vừa ngoái đầu nhìn. Stepan áp hai bàn tay vừa to vừa nặng lên ngực, đi
tới gần Grigori, cổ lắc lắc. Người anh ta run bắn lên, không làm thế nào ghìm
được.
18
Đêm thứ sáu trước lễ phục sinh, một đám đàn bà túm tụm ở nhà
Pelagya, láng giềng nhà Korsunov, Gavrila Maidanikov, chồng Pelagya, ở Lozi có
viết thư cho vợ hứa sẽ về nghỉ phép vào dịp lễ Phục sinh. Hôm thứ hai, Pelagya
đã quét vôi, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và ngay từ thứ năm đã ra cổng đứng ngóng.
Tóc trần, người gầy guộc, mặt đầy tàn hương, chị chàng đứng rất lâu bên hàng
rào, chốc chốc lại đưa tảy lên che mắt nhìn ra xa: Gavrila bất ngờ về chưa biết
chừng Pelagya đang có mang, nhưng rất đúng quy củ: mùa hè năm ngoái Gavrila ở
trung đoàn về, mang làm quà cho vợ một mảnh vải hoa Ba Lan, nhưng cũng chẳng ở
nhà được bao lâu. Anh ta ngủ với vợ bốn đêm liền, đến ngày thứ năm thì uống một
chầu túy lúy, hết chửi bằng tiếng Ba Lan lại chửi bằng tiếng Đức, rồi vừa khóc
vừa hát một bài ca Cô-dắc cổ làm từ năm 1831. Bạn bè và anh em đến tiễn người
lính thú, ngồi quanh bàn uống vodka cho tới bữa ăn. Họ hát hòa theo:
Nghe nói đất Ba Lan
nhiều tiền lắm bạc,
Nhưng ta thấy mùng tơi
nghèo xác,
Ở Ba Lan có một tửu
quán,
Tửu quán Ba Lan, tửu
quán của ngai vàng.
Rồi một hôm vào uống
rượu có ba chàng:
Một Cô-dắc sông Đông,
một Phổ, một Ba Lan.
Chàng Phổ uống vodka
trả bằng tiền bạc,
Chàng Ba Lan uống
vodka đưa trả tiền vàng,
Chàng Cô-dắc uống
vodka không có gì đưa trả,
Cứ láng cháng trong
hàng, đinh thúc ngựa tình tang.
Đinh thúc ngựa tinh
tang, tán tỉnh cô hàng:
“Về cùng anh, hỡi cô
nàng yêu quý,
Về sông Đông êm đềm,
nơi quê quán của anh.
Sông Đông quê anh
không như quê của cô nàng:
Không dệt, không se,
không gieo, không gặt,
Không gieo, không gặt,
suốt bốn mùa du ngoạn, xênh xang”.
Sau bữa ăn, Gavrila chia tay với gia đình để lên đường. Cũng
từ ngày ấy, Pelagya bắt đầu hay nhìn xuống vạt áo. Chị chàng nói cho Natalia
biết vì sao mình có mang:
- Cô em yêu quý ạ, trước hôm anh Gavrila về, chị có nằm mơ
một lần. Chị thấy như mình đang đi trên bãi cỏ hoang ven sông, nhưng trước mặt
lại có con bò sữa già mà nhà chị đã bán ngày lễ Chúa cứu thế mùa hè năm ngoái.
Trong khi nó đi, những đầu vú của nó cứ chảy sữa ròng ròng xuống đường… Chị
nghĩ thầm: “Lạy Chúa tôi, sao mình vắt sữa cho nó mà lại để còn như thế?”. Sau
hôm ấy, mụ Drodikha có đến nhà chị lấy hốt bố chị kể chuyện nằm mộng cho mụ
nghe thì mụ bảo: “Phải bẻ cây nến lấy một mẩu sáp ong nhỏ, vê tròn lại, rồi vùi
xuống một đống phân bò mới, nếu không tai hoạ đang ngấp nghé ngoài cửa rồi đấy”.
Chị bèn sục khắp các nơi nhưng chẳng mò đâu ra nến. Trước kia cũng có một cây,
nhưng bọn trẻ đã lấy để làm mồi dụ nhện độc chui ra khỏi lỗ. Thế là anh Gavrila
về và tai hoạ cũng đến theo. Ba năm nay áo chị mặc vào người cứ chảy xuống, thế
mà bây giờ thì em xem này… - Pelagya ấn ngón tay vào cái bụng căng tròn, mặt
rầu rĩ.
Trong khi ngóng chồng về, Pelagya bồn chồn đau khổ. Nhà vắng
người cũng buồn, vì thế hôm thứ sáu chị chàng mới mời một số chị em láng giềng
sang cùng giết thì giờ. Natalia cũng đến với chiếc bít-tất đang móc dở (xuân
sang, cụ Grisaka càng cảm thấy giá lạnh). Hôm nay nàng rất tươi tỉnh hoạt bát
nghe chị em pha trò, nàng cười có phần quá mức, nhưng thật ra đó chỉ là vì nàng
không muốn mọi người thấy mình đang đau khổ vì mong nhớ chồng. Pelagya ngồi
trên bếp lò, thõng hai bàn chân đầy gân xanh, trêu ghẹo Frosia, một cô ả trẻ
người nhưng đanh đá có tiếng.
- Nầy, Frosia, cô đã nện anh chàng Cô-dắc nhà cô như thế nào
hả?
- Chị không biết nện thế nào à? Vào lưng, vào đầu, vớ được
chỗ nào nện chỗ đó.
- Mình có muốn hỏi cái chuyện ấy đâu, mình muốn hỏi hai vợ
chồng nhà cô đã bắt đầu có chuyện với nhau như thế nào cơ.
- Thế nào thì thế thôi, - Frosia miễn cưỡng trả lời.
- Cô bắt được quả tang đức ông chồng nằm với một con khác mà
sao không nói? - Con dâu Matvey Casulin, một ả cao lêu đêu như cây sào dấm dẳn
từng tiếng.
- Cứ kể đi, Frosia!
- Có gì đâu! Có gì đáng nói đâu…
- Thôi đừng cố giấu nữa, ở đây toàn chị em nhà thôi mà.
Frosia nhả một vỏ hướng dương vào lòng bàn tay, mỉm cười:
- Tôi đã để tâm nghi anh chàng từ lâu. Nhưng hôm ấy có người
mách: ông tướng nhà cô đang giở trò với một ả vợ lính vắng chồng bên kia sông
Đông trong nhà máy xay đấy… Tôi bổ tới thì tóm được cả anh lẫn ả bên cái máy
xát.
- Thế nào Natalia, cô không được tin gì về chồng cô à? - Ả
con dâu nhà Casulin ngắt lời Frosia, quay sang hỏi Natalia.
- Anh ấy ở Yagotnoie… - Natalia khẽ trả lời.
- Cô có định sống với hắn nữa không?
- Natalia thì có lẽ cũng muốn đấy, nhưng anh chàng kia đâu
có hiểu cho, - Chị chủ nhà chõ miệng vào.
Natalia cảm thấy máu dồn lên mặt, nóng bừng, nước mắt chỉ
muốn trào ra. Nàng cúi gằm xuống chiếc bít-tất, lấm lét nhìn chị em, thấy mọi
người đều chằm chằm nhìn mình và hiểu rằng không thể giấu được ai. Nàng cố ý
làm rơi cuộn len đặt trên đầu gối rồi cúi xuống đưa tay quờ quạng trên mặt đất
lạnh giá. Nhưng nàng giả vờ quá vụng về. ai cũng nhận thấy.
- Thôi cô em ạ, nhổ vào mặt nó ấy. Có cổ thì có vai cày, cần
gì, - Một người không giấu vẻ thương hại, khuyên Natalia.
Cái vẻ tươi tỉnh hoạt bát mà Natalia giả dạng bày ra đã tắt
ngấm như tia lửa trước ngọn gió. Bọn đàn bà chuyển sang đơm đặt, dị nghị về
những chuyện xảy ra gần đây nhất. Natalia chẳng nói chẳng rằng, cứ cắm cúi móc
bít-tất. Nàng cố gắng lắm mới nán lại được đến cùng, và khi ra về nàng đã có
thêm trong lòng một quyết tâm chưa hình thành rõ rệt. Nàng vẫn chưa tin rằng
Grigori đã bỏ đi hẳn, vì vậy đã tha thứ cho chàng và chờ đợi chàng. Nỗi tủi
nhục trước cái tình cảnh nửa dơi nửa chuột của mình đã đưa Natalia đến một hành
động: nàng quyết định sẽ gửi một bức thư đến Yagonoie cho Grigori nhưng không
cho mọi người trong nhà biết, để hỏi xem chàng có bỏ đi hẳn không và đã nghĩ lại
chưa.
Natalia ở nhà Pelagya về thì đêm đã khuya. Cụ Grisaka đang
ngồi ở nhà trong đọc quyển Phúc âm đóng da đã rách nát, hoen ố vì những vết nến
sáp. Miron Grigorievich còn ở trong bếp, vừa đan nốt mảnh chắn của cái lưới
kiểu túi, vừa nghe Mikhey kể một chuyện giết người đời xửa đời xưa. Bà mẹ
Natalia cho các con ngủ xong đã lên bếp lò nằm, hai chân gác lên cửa, phơi hai
lòng bàn chân đen sì. Natalia thay áo xong, đi một lượt qua các phòng, nhưng
chưa biết mình sẽ làm gì. Trong góc phòng chính có tấm ván chặn đống hạt đay để
dành làm giống, chuột kêu chi chí.
Nàng ở lại một lát trong phòng của ông và đứng bên cái bàn
nhỏ kê ở góc phòng, đờ đẫn nhìn chồng sách đạo xếp dưới những bức hình thánh.
- Ông ơi, ông có giấy không ông?
- Giấy gì cơ chứ? - Khoảng da phía trên mắt kính cụ nhăn lại
nhằng nhịt.
- Giấy để viết ấy mà.
Cụ Grisaka lục lọi trong tập Thánh thi (còn gọi là Thi thiên),
lấy ra được một tờ giấy nhàu nát, nặc mùi sáp ong và trầm hương ủ đã lâu ngày.
- Còn bút chì?
- Ra hỏi bố mày ấy. Thôi ra đi, cháu yêu của ông, đừng quấy
ông nữa.
Natalia lấy được của bố một mẩu bút chì. Nàng ngồi vào bàn,
suy nghĩ lại một cách đau khổ những điều mà nàng đã cân nhắc từ lâu, những điều
làm lòng nàng tái tê chua xót.
Sáng hôm sau, Natalia đưa cho Getko vodka và nhờ hắn mang hộ
đến Yagonoie bức thư:
“Anh Grigori
Panteleevich!
Anh hãy viết cho em
biết em sống thế nào bây giờ đây, và cuộc đời em đã tan nát hẳn rồi hay chưa?
Anh bỏ nhà ra đi mà chẳng nói với em một lời. Em chưa có gì xúc phạm đến anh,
em mong chờ anh cởi cho hai tay em khỏi bị trói buộc, bảo cho em biết rằng anh
đã bỏ đi hẳn, nhưng anh lại bỏ làng bỏ xóm ra đi, chẳng nói chẳng rằng, cử như
một người đã chết.
Em nghĩ rằng anh đã ra
đi trong lúc nóng nảy và vẫn đợi anh về nhưng em không muốn chia rẽ hai người.
Một mình em bị chà đạp dưới đất còn hơn cả hai. Anh thương lấy em lần chót,
viết cho em vài chữ. Em hỏi cho biết, em sẽ nghĩ lấy một cách, kẻo em cứ đứng
giữa đường thế nầy.
Anh Griska, vì Chúa,
mong anh đừng giận em.
Natalia”.
Mặt nhăn như bị vì đã cảm thấy trước rằng mình sắp bị bệnh
rượu hành đến nơi, Getko dắt con ngựa ra sân đập lúa, rồi không cho Miron
Grigorievich biết, thắng ngựa, ngất ngưởng ra đi. Hắn cưỡi ngựa với cái dáng
ngồi vụng về đặc biệt của những người không phải là dân Cô-dắc. Khi ngựa chạy
nước kiệu, hai khuỷu tay hắn cứ khuỳnh ra đưa đi đưa lại. Rồi hắn chuyển sang
nước kiệu nhanh giữa những tiếng la thét không ngớt của bọn tiểu yêu Cô-dắc
đang đùa nghịch trong ngõ:
- Khô-khon? Khô-khon!
- Ê khô-khon bán dầu!
- Khéo ngã bây giờ!
- Chó dái cưỡi hàng rào! - Bọn trẻ gào lên phía sau hắn.
Đến chiều thì hắn mang về bức thư trả lời, một mẩu giấy gói
đường mầu lam. Hắn vừa lấy tờ giấy trong ngực áo ra, vừa nháy mắt với Natalia.
- Đường xá chẳng làm thế nào mà đi được nữa, cô chủ yêu quý
ạ! Lắc ghê quá thiếu chút nữa thì bật hết tim gan mề phổi thằng Getko nầy ra
rồi!
Natalia đọc xong, mặt xám ngắt. Cứ như có một vật gì nhọn và
có răng xuyên liền vào tim nàng bốn lần.
Trên tờ giấy, ngoài chữ ký chỉ nguệch ngoạc bốn tiếng: “Cứ sống một mình. Melekhov Grigori”.
Như không tin rằng sức mình có thể chịu nổi, nàng vội chạy
từ ngoài sân vào trong nhà, nằm vật xuống giường. Bà Lukinhitna đã nhóm lò
trước để đến đêm dùng vì còn phải làm bữa xong sớm và kịp nướng những cái bánh
mì ngọt.
- Nataska, lại giúp mẹ cái? - Bà gọi con gái.
- Con nhức đầu mẹ ạ. Cho con nằm một lát.
Bà Lukinhitna nhòm qua cửa.
- Uống ít nước dưa chuột muối con nhé. Thế nào? Chỉ một lát
là dễ chịu ngay thôi.
Natalia không nói gì, chỉ đưa cái lưỡi khô bỏng liếm cặp môi
lạnh buốt.
Nàng nằm đến tối, đầu quấn chiếc khăn len lông chim ấm,
người co lại như con tôm, thỉnh thoảng lại khẽ rưn lên. Lúc nàng trở dậy đi vào
bếp Miron Grigorievich và cụ Grisaka đã sửa soạn đi nhà thờ.
Hai bên thái dương nàng, gần làn tóc đen chải mượt, lóng
lánh những giọt mồ hôi, cặp mắt nàng đầy cái vẻ lừ đừ uể oải của một người đang
ốm.
Miron Grigorievich cài hàng khuy dài trên miếng vải dầy ốp
thêm phía trước cái quần rộng thùng thình, đưa mắt nhìn con gái:
- Con gái yêu của cha, mày muốn ốm hay sao thế?
- Cha với ông cứ đi trước, con sẽ đi sau.
- Mày định tan lễ rồi mới đi hay sao?
- Không, con mặc áo đây… Mặc xong con sẽ đi ngay.
Hai người đàn ông đi trước. Ở nhà chỉ còn bà Lukinhitna và
Natalia. Nàng thẫn thờ lê chân từ chiếc hòm tới bên giường, cặp mắt tựa như
không nhìn thấy gì lướt mãi trên đống quần áo nhét bừa bãi trong hòm, môi lẩm
bẩm, đầu óc không biết đang đau khổ tính toán cân nhắc những gì. Bà Lukinhitna
cứ tưởng Natalia do dự không biết nên mặc cái nào, bèn bảo nàng với cả tấm lòng
rộng rãi của người mẹ:
- Con gái yêu của mẹ, mày lấy cái váy màu lam của mẹ mà mặc.
Hôm nay mày mặc nó thì hợp đấy.
Natalia không được may váy áo mới để diện trong lễ Phục
sinh. Bà Lukinhitna nhớ rằng hồi chưa đi lấy chồng, những ngày hội con gái mình
thường thích mặc cái váy màu lam hẹp gấu của mình, vì thế bà nghĩ rằng Natalia
đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn, bèn cố bảo nàng làm theo lòng tốt của
mình.
- Con mặc chứ? Để mẹ lấy cho.
- Không. Con sẽ mặc cái nầy. - Natalia nhẹ nhàng rút cái váy
màu xanh lá cây của nàng, nhưng bất giác nhớ lại rằng đây chính là cái váy mà
mình đã mặc hôm Grigori đến thăm mình với tư cách là chồng chưa cưới, hôm lần
đầu tiên Grigori làm nàng thẹn chín cả người với cái hôn thoảng qua ở chỗ đầu
nhà kho mát rượi. Tiếng nức nở bất chợt muốn bật ra làm nàng run bắn người,
nàng ngã đập ngực vào mép cái nắp hòm mở dựng thẳng.
- Natalia! Làm sao thế con? - Bà mẹ vỗ hai bàn tay vào nhau,
kêu lên.
Natalia cảm thấy nghẹt thở vì một tiếng gào cứ muốn bật ra.
Nàng cố trấn tĩnh, cười một tiếng rin rít rất không tự
nhiên.
- Hôm nay con thấy… trong người thế nào ấy.
- Ồ, Nataska, tao biết rồi…
- Nhưng mẹ biết sao cơ chứ? - Natalia bất thình lình giận dữ
kêu lên, những ngón tay nắm chặt vò nát chiếc váy màu xanh lá cây.
- Mẹ thấy mày cứ thế nầy thì không thoát khỏi bệnh tật đâu…
Phải lấy chồng đi mới được…
- Thôi đi mẹ! Lấy một lần đủ rồi!
Natalia về phòng nàng thay áo xống, chẳng mấy chốc đã lại
vào bếp. Trong bộ áo váy mới mặc, nom nàng thon thả như hồi còn con gái, một
ánh hồng hồng chẳng có gì vui vẻ thấp thoáng trên làn da xanh trong xanh bóng.
- Mày đi một mình thôi, mẹ sửa soạn còn chưa xong - Người mẹ
nói.
Natalia nhét một chiếc khăn tay vào cổ tay áo, bước ra thềm.
Gió đưa từ sông Đông vào tiếng băng trôi loạt soạt và mùi tuyết tan ẩm ẩm nhạt
thếch nhưng đầy sức sống. Natalia lấy tay trái kéo cao gấu váy, vừa đi vừa
tránh những vũng nước nhỏ xanh xanh như xà cừ rải rác khắp dọc phố. Natalia đi
tới nhà thờ. Trên đường đi, nàng cố lấy lại bình tĩnh bằng cách nghĩ tới ngày
hội, tới chuyện này chuyện khác một cách phiến đoạn và mung lung, nhưng tâm trí
nàng cứ gân bướng quay về với mẩu giấy gói hàng màu lam mà nàng giấu trong ngực
áo, với Grigori và người đàn bà hạnh phúc trong lúc này đang cười nàng một cách
kẻ cả, hoặc có thể còn thương hại nàng…
Natalia bước vào bên trong tường bao nhà thờ. Một đám con
trai chặn đường nàng. Natalia đi vòng tránh bọn chúng, nhưng còn nghe thấy sau
lưng:
- Con bé nhà nào thế? Cậu có nhận ra không?
- Con Natalia nhà Korsunov chứ còn đứa nào?
- Nghe nói nó bị sa ruột. Vì thế bị chồng bỏ.
- Chỉ nói láo? Nó dấm dớ với thằng bố chồng, với lão thọt
Panteley đấy.
- À ra vậy? Thảo nào vì thế mà thằng Griska bỏ nhà ra đi.
- Nếu không thì còn vì sao nữa? Con bé ấy bây giờ…
Natalia lập cập vấp trên lớp đá lát hòn cao hòn thấp, đi tới
thềm nhà thờ. Bọn kia còn bồi thêm sau lưng nàng một câu bẩn thỉu, vô liêm sỉ,
lời nói khe khẽ nhưng đau như ném đá. Natalia bước qua những tiếng cười rúc
rích của bọn con gái đứng trên thềm nhà thờ, đi tới cái cửa nhỏ khác ở tường
bao, rồi chạy về nhà, người lảo đảo như say rượu. Chạy đến cổng sân nhà mình,
nàng lấy lại hơi, bước vào chân đi cứ vướng trong gấu váy, hai hàm răng cắn
chặt cặp môi phồng mọng đã bị cắn đến chảy máu. Cái cửa nhà kho mở he hé hiện
ra đen ngòm trong bóng tối tím ngắt chập chờn trên sân. Trong một cố gắng hung
dữ, Natalia thu hết chút sức lực còn lại, chạy tới cái cửa ấy, rồi vội vã bước
qua ngưỡng cửa. Không khí trong nhà kho hanh hanh lạnh lạnh, nặc mùi dây da và
mùi rơm cũ. Natalia mò mẫm tới góc tường, không một ý nghĩ, không một cảm giác
chỉ có cái niềm đau khổ đen tối nó cứ đưa những móng nhọn bám chặt lấy tâm hồn
nàng, một tâm hồn chìm trong nhục nhã và tuyệt vọng.
Nàng nắm lấy cán của một cái hái, tháo lưỡi hái ra (tay nàng
làm mọi việc đều chậm rãi, chắc chắn và chính xác) rồi ngửa cổ cứa mạnh cái
lưỡi sắc vào cuống họng với cả một niềm sung sướng trước quyết tâm của mình.
Nàng ngã vật ra vì cơn đau man rợ như lửa đốt, nhưng vẫn cảm thấy, vẫn mơ hồ
hiểu rằng mình còn chưa làm xong việc đã bắt đầu làm. Vì thế nàng lại lổm ngổm
bò dậy, rồi quỳ lên.
Máu chảy lênh láng trên ngực làm nàng sợ, nàng vội vàng đưa
những ngón tay run lẩy bẩy bật lên giật những cái khuy áo và cởi phanh cái áo
ngắn mặc ngoài. Một tay nàng kéo cái vú căng bướng bỉnh sang một bên, còn tay
kia hướng mũi cái hái. Nàng lê gối đến bên tường, tỳ đầu cùn của lưỡi hái, đầu
có lắp óc cán vào tường, rồi đưa hai tay lên ôm chặt lấy cái đầu ngửa hẳn ra
sau, ưỡn ngực, ấn người về phía trước, về phía trước. Natalia nghe thấy, cảm
thấy rất rõ ràng tiếng sạo sạo khó chịu của cái cơ thể bị xọc vào, nghe như
tiếng cắt bắp cải. Cảm giác đau nhói mỗi lúc một tăng, dâng lên như một làn
sóng lửa, từ ngực tới cuống họng, hai tai như bị những cái kim kêu leng keng
chọc vào…
Trong nhà có tiếng cửa cót két. Bà Lukinhitna đưa chân sờ
soạng tìm cái ngưỡng cửa, bước trên bậc thềm xuống. Từ trên gác chuông nhà thờ
những tiếng chuông buông xuống gióng giả đều đặn. Trên sông Đông, những khối
băng dài hàng mấy xa-gien nứt ra, đứng dựng lên, vừa trôi vừa không ngớt kêu
ken két. Dòng sông Đông được giải phóng, nước chảy tràn trề, sung sướng cuốn ra
biển Azov những gông cùm băng giá của nó.
19
Stepan bước tới gần Grigori rồi nắm lấy bàn đạp, áp sát
người vào sườn con ngựa đầm đìa mồ hôi.
- Thế nào, có khỏe không, Grigori!
- Ơn Chúa!
- Mày nghĩ thế nào? Hử?
- Tao thì có gì phải nghĩ?
- Mày dụ dỗ vợ người ta, rồi… ngồi đấy mà hưởng phải không?
- Buông bàn đạp ra.
- Mày đừng sợ… Tao không đánh đâu.
- Tao đâu có sợ, thôi không nói nữa! - Grigori nói to, gò má
chàng ửng đỏ. - Hôm nay tao không đánh nhau với mày, tao không muốn…
- Nhưng Griska này, mày hãy nhớ lời tao nói: sớm muộn tao
cũng sẽ giết mày.
- Mù mà còn nói: “Chờ đấy mà xem”.
- Mày nhớ kỹ lấy lời tao nói. Mày đã làm nhục tao! Mày đã
thiến đời tao như thiến con lợn… Mày xem đây, - Stepan chìa hai bàn tay đen
thủi, lòng bàn tay ngửa lên, - tao cày mà cũng chẳng biết để làm gì. Tao sống
một thân một mình thì có cần gì nhiều đâu? Tao vừa làm vừa chơi cũng qua được
mùa đông nầy. Chỉ có một điều là buồn chết đi được… Grigori ạ, mày làm khổ làm nhục
tao quá lắm!
- Mày đừng kể khổ với tao nữa, tao không hiểu đâu. Kẻ ăn no
hiểu sao được kẻ chịu đói.
- Đúng thế đấy, - Stepan cũng nhận là như thế, anh ta đưa
mắt từ dưới lên nhìn vào mặt Grigori, rồi bỗng nhiên nở nụ cười hồn nhiên như
con nít, đuôi con mắt nứt ra thành không biết bao nhiêu vết nhăn li ti. - Tao
chỉ hối một điều, thằng nhóc ạ… tao hối quá… Mày còn nhớ tuần ăn mặn năm kia,
tao với mày đã có lần đánh nhau rồi không?
- Lần nào thế?
- Lần đánh chết thằng thợ bật len ấy. Hôm ấy những thằng chưa
vợ đánh nhau với những thằng có vợ, mày có nhớ không? Mày có nhớ tao đuổi mày
như thế nào không? Hồi ấy mày còn vắt ra sữa, so với tao mày chỉ như sợi lau
non. Tao đã thương mày, nếu không trong lúc mày đang chạy mà tao cho một đòn
thì mày đứt phăng làm đôi rồi! Mày chạy nhanh quá, người như lắp lò xo: tao mà
quật cho một dây da vào lưng là mày đã trông thấy ông bà ông vải.
- Thôi đừng buồn tiếc làm gì, tao với mày còn có phen chạm
trán.
Stepan đưa tay lên lau trán. Không biết anh ta đang hồi
tưởng chuyện gì.
Lão địa chủ kéo dây cương con Kreput, quát gọi Grigori:
- Đi thôi!
Stepan vẫn nắm bàn đạp, đi bên cạnh con ngựa non. Grigori đề
phòng theo dõi từng cử động của Stepan. Từ trên cao, chàng nhìn xuống thấy bộ
ria màu hạt dẻ nhạt chảy xệ và đám râu chổi sể rậm rì đã lâu không cạo. Dưới
cằm Stepan lõng thõng cái quai mũ véc ni đã nứt nẻ nhiều chỗ. Mặt anh ta xám
xịt vì cáu ghét và những vết chếch chếch do mồ hôi chảy để lại, vì thế nom
không rõ nét và lạ hẳn đi. Nhìn Stepan, Grigori có cảm tưởng như đang đứng trên
núi nhìn một khoảng đồng cỏ xa bị phủ bởi một làn hơi mưa. Mặt Stepan đầy vẻ
mệt mỏi u tối và trống rỗng. Rồi anh ta tự nhiên đứng lại, cũng chẳng buồn
chào. Grigori vẫn cho ngựa đi bước một.
- Hượm đã. Thế còn… Acxiutka thì thế nào?
Grigori đập roi ngựa lên một đám bùn bám trên gót ủng trả
lời:
- Vẫn thường thôi.
Rồi chàng ghìm ngựa, quay lại nhìn. Stepan vẫn đứng đấy, hai
chân dạng rộng, những cái răng trắng lóe nhe ra nhai nhai một sợi cỏ dại.
Grigori bất giác thấy thương hại, nhưng lòng ghen đã xua hết mọi ý nghĩ thương
hại của chàng. Chàng xoay người trên cái đệm yên cọt kẹt kêu to:
- Acxiutka không héo hon vì thương nhớ mày đâu; đừng đau
lòng làm gì!
- Thật thế ư?
Grigori quất cho con ngựa non một roi vài giữa hai tai,
phóng đi thẳng không trả lời.
20
Đến tháng thứ sáu, khi không còn làm thế nào giấu được
chuyện mình có mang, Acxinhia mới thú nhận với Grigori. Trước đó nàng vẫn cố
giấu vì sợ Grigori không tin rằng đứa con mà nàng đang mang nặng trong lòng là
giọt máu của chàng. Sắp đến kỳ sinh nở, nàng vừa buồn vừa lo, mặt vàng ệch và
cứ như luôn luôn chờ đợi điều gì. Ngay từ mấy tháng đầu, nàng nhìn thấy những
món thịt đã buồn nôn, nhưng Grigori chẳng nhận thấy gì, mà dù có nhận thấy, thì
có lẽ chàng cũng không coi đó là một điều đặc biệt quan trọng, vì không đoán
được nguyên nhân.
Hai người nói chuyện với nhau vào một buổi chiều. Acxinhia
rất cảm động, nàng vừa nói vừa nhìn chằm chằm xem nét mặt Grigori có gì biến
đổi không nhưng Grigori cứ quay ra cửa sổ, húng hắng ho một cách bực bội.
- Sao trước đây em chẳng nói gì cả?
- Em sợ, anh Griska ạ… em chỉ lo anh bỏ em.
Grigori gõ gõ ngón tay lên thành giường, hỏi:
- Sắp chưa?
- Em nghĩ có lẽ đến ngày Chúa cứu thế…
- Của Stepan à?
- Của anh.
- Thật thế ư?
- Anh cứ tự tính mà xem… Từ ngày đốn củi ấy mà.
- Đừng nói bậy, Acxiutka! Dù là của Stepan thì bây giờ đem
giấu đâu được nào? Anh hỏi thật như thế đấy.
Acxinhia ức quá, nước mắt chảy ròng ròng. Nàng ngồi xuống
chiếc ghế dài, nghẹn ngào nói thầm thì nhưng sôi nổi:
- Em đã ăn ở với hắn bao nhiêu năm trời nhưng có gì đâu! Anh
cứ ngẫm mà xem! Mà em có phải là một con đàn bà mang bệnh tật gì cho cam… Không
con anh thì con ai, thế mà anh…
Grigori không nói thêm về chuyện ấy nữa. Trong thái độ của
chàng đối với Acxinhia, từ đó lại có thêm một cái gì mới mới: chàng cứ xa xa
lánh lánh như có điều phải đề phòng, và hơi có vẻ thương hại, giễu cợt.
Acxinhia thì sống thu mình lại, không đòi hỏi âu yếm vuốt ve nữa. Chỉ qua một
mùa hè mà nom nàng tiều tụy hẳn đi.
Nhưng cái thân hình cân đối của nàng hầu như không vì có
mang mà bị ảnh hưởng: toàn thân nàng đầy đặn nên vẫn giấu được cái bụng to
tròn. Hai con mắt đẹp ra với một ánh ấm áp khác thường làm cho khuôn mặt võ
vàng thêm ưa nhìn. Nàng dễ dàng làm xong các công việc phụ bếp nước. Năm ấy
thuê ít người làm, vì thế công việc nhà bếp cũng đỡ nặng.
Cụ Xaska quấn quít với Acxinhia với một niềm yêu thương trái
chứng của người già. Có lẽ cũng vì nàng chăm nom cho cụ như một người con gái.
Nàng giặt quần áo lót, vá quần áo cho cụ, và lúc ngồi ở bàn ăn, dành cho cụ
những miếng mềm nhất, ngon nhất. Còn cụ Xaska thì chăm nom ngựa xong lại xách
nước vào bếp, sát khoai tây luộc cho lợn, giúp nàng làm mọi việc đâu đó rồi
dang hai tay, nhảy cỡn, nhe cặp lợi chẳng còn chiếc răng nào:
- Cô có lòng thương tôi thì tôi không quên ơn đâu! Cô
Acxiutka ạ tôi có thể dứt ruột đem biếu cô một chai vodka cũng được. Vì không
có bàn tay người đàn bà trông nom, tôi cũng đến đi đời nhà ma. Cô thật có lòng
tốt? Hễ cần gì, cô cứ ới lão Xaska nầy một cái là được.
Nhờ có cậu chủ Evgeni Nicolaevich xin xỏ hộ, Grigori được
miễn không phải đến trại binh dịch. Công việc của chàng là cắt cỏ, thỉnh thoảng
đánh xe đưa lão địa chủ lên trấn, còn thừa thì giờ thì hầu hắn đi săn le hoặc
cười ngựa đuổi vịt trời. Cuộc sống dễ dàng, no đủ đã làm chàng hỏng người.
Chàng đâm ra lười nhác, béo đẫy ra, nom già trước tuổi. Chỉ có một điều canh
cánh bên lòng là sắp phải đi lính đến nơi rồi. Ngựa chẳng có, trang bị thì
không, mong chờ cha giúp đỡ thì không chắc chắn. Vì thế tiền công của mình và
của Acxinhia, Grigori chắt bóp tằn tiện, cả đến thuốc lá cũng nhịn.
Chàng mong dành đủ tiền sắm được con ngựa mà không phải vác
mặt về xin bố. Lão địa chủ cũng có hứa giúp. Grigori đoán trước bố sẽ không cho
mình gì cả, điều đó chẳng bao lâu đã được chứng thực.
Cuối tháng sáu, Petro đến thăm em. Trong khi nói chuyện,
Petro cho biết rằng bố vẫn còn giận Grigori như xưa và đã nói dứt khoát sẽ
không sắm cho chàng con ngựa chiến. Ông lão bảo cứ mặc cho Grigori làm lính địa
phương cũng được.
- Không sao cả, ông cụ chớ vội mừng. Em sẽ đi lính với con
ngựa của em. - Grigori nói dằn hai tiếng “của em”.
- Mày định kiếm đâu ra ngựa? Đi nhảy kiếm ra tiền à?
Petro nhai nhai một món ria, mỉm cười hỏi.
- Chẳng cần phải nhảy, không xin được thì ăn cắp.
- Anh hùng nhỉ?
- Em sẽ mua bằng tiền công. - Grigori bắt đầu nói giọng
không đùa nữa.
Petro ngồi một lát trên cái thềm nhỏ, thăm hỏi về công việc,
tình hình ăn uống, công xá. Nghe nói gì anh chàng cũng gật đầu, một món ria đã
nát nhừ luôn luôn nhai trong miệng. Đến lúc chia tay Petro mới bảo Grigori:
- Mày về nhà mà ở thì hơn, vẫy đuôi theo người ta làm gì?
Mày hám công xá cao hay sao?
- Đâu phải là đuổi theo đồng tiền.
- Mày có định ở với vợ mày hay không?
- Vợ nào cơ chứ!
- Con hiện nay ấy.
- Vẫn còn định thế, nhưng sao cơ chứ?
- Chẳng sao cả, tao chỉ muốn hỏi cho biết thôi.
Grigori tiễn anh ra về. Cuối cùng chàng mới hỏi:
- Tình hình ở nhà như thế nào hả anh?
Petro tháo con ngựa buộc ở lan can thềm nhà, cười mát:
- Con thỏ có bao nhiêu hang thì mày có bấy nhiêu nhà. Ở nhà
chẳng có chuyện gì cả, cuộc sống vẫn như thường thôi. Mẹ buồn nhớ mày lắm đấy.
Cỏ khô thì hôm nay đánh đống xong rồi, được ba đống.
Petro hồi hộp nhìn kỹ con ngựa cái già cụt tai mà Petro cưỡi
đến.
- Nó chưa đẻ à?
- Không em ạ, chẳng đẻ đái gì cả. Nhưng con ngựa cái màu hạt
dẻ lấy giống với con của Khristonhia lại vừa có con.
- Con nó ra sao?
- Là một con ngựa con chứ còn sao, cái thằng nầy! Con ngựa
ấy thật là vô giá! Chân cao, vó ngay ngắn, ức cũng rất đẹp. Lớn lên sẽ là một
con ngựa rất tốt.
Grigori thở dài.
- Em nhớ thôn nhà quá, anh Petro ạ. Em nhớ sông Đông, ở đây
thì đến nước chảy cũng chẳng nhìn thấy. Thật là một vùng tởm lợm?
- Cố về thăm nhà nhé, - Petro è è trong họng, tì bụng lên
cái lưng có đường sống nhọn của con ngựa và đưa chân phải sang bên kia.
- Có dịp em sẽ về.
- Thôi, anh về nhé!
- Anh đi đường cho khỏe!
Petro đã cưỡi con ngựa ra khỏi sân, nhưng anh chàng chợt nhớ
ra, bèn nói to với Grigori đang đứng trên thềm.
- Natalia nó… Anh quên khuấy đi mất… thật tai hại…
Một cơn lốc xoáy tròn trên sân như con diều hâu, làm cho mấy
lời cuối câu không đưa được đến tai Grigori. Bụi bị thốc lên như một làn lụa
trùm kín cả Petro lẫn con ngựa. Grigori không nghe rõ, chàng xua tay, bước vào
tàu ngựa.
* * *
Mùa hè năm ấy bị hạn. Mưa rất ít, lúa chín sớm. Vừa thu xếp
xong xuôi với lúa mạch đen thì đã đến lượt lúa đại mạch vàng hoe như những bãi
cỏ trong rừng, với những bông lúa nặng như những bờm tóc Cô-dắc. Bốn người thợ
gặt thuê ngày từ nơi khác đến cùng đi gặt với Grigori.
Acxinhia làm công việc bếp nước xong rất sớm cũng xin Grigori
cho đi theo.
- Em cứ ngồi ở nhà có hơn không, việc gì phải lẵng nhẵng đi
theo như thế? - Grigori cố khuyên nhưng Acxinhia vẫn khăng khăng.
Nàng vội vã chít cái khăn lên đầu, chạy ra khỏi cửa, đuổi
theo chiếc xe tải chở mấy người thợ gặt.
Điều Acxinhia sốt ruột mong đợi với cả một nỗi lòng vừa lo
lắng vừa sung sướng, cũng là điều mà Grigori băn khoăn lo ngại, điều đó đã xảy
đến trong khi gặt lúa. Acxinhia đang cào thì cảm thấy có dấu hiệu, bèn ném cái
cào đấy, đến nằm bên một đống lúa. Chẳng mấy chốc nàng bắt đầu thấy đau, cái
đau lúc trở dạ. Acxinhia nằm sóng sượt hai hàm răng cắn cái lưỡi đen lại. Mấy
người thợ gặt ngồi trên máy gặt quát ngựa cho đi vòng lại, ngay bên cạnh nàng.
Một gã còn trẻ, có cái mũi nhòm mồm và những vết nhăn chi chít trên khuôn mặt
vàng như gỗ bào, vừa đi qua vừa cho Acxinhia một câu:
- Này chị chàng, khéo có cái ấy lại bị nắng thui cháy mất!
Đứng dậy đi, kẻo tan ra nước bây giờ!
Grigori bảo người khác coi máy gặt thay mình rồi bước tới
bên Acxinhia:
- Em làm sao thế?
Acxinhia nói khàn khàn, môi nàng méo xệch và không theo ý
nàng nữa:
- Đau đẻ rồi.
- Đã bảo đừng đi rồi mà, đồ quỷ cái chết tiệt! Nào, bây giờ
thì làm thế nào?
- Thôi đừng chửi nữa, anh Griska… Chao ôi? Chao ôi… Anh
Griska, thắng ngựa đi! Nếu mà về nhà được… Chao ôi, ở đây em biết làm thế nào
bây giờ. Toàn là Cô-dắc (1) cả… - Acxinhia rên rỉ, bụng đau như đánh đai sắt.
(Người Cô-dắc nói chung,
trai gái lớn bé tất cả các tầng lớp đểu tự xưng là Cô-dắc để tự phân biệt với
những người Nga và người Ukraina ngụ cư. Nhưng đàn bà Cô-dắc lại gọi đàn ông là
Cô-dắc, tựa như mình thì không phải. Bọn sĩ quan và ataman các cấp cũng gọi
binh sĩ và dân thường là Cô-dắc tựa như mình không phải là Cô-dắc. Đẻ con ra
thì con trai gọi là Cô-dắc, còn con gái thì không)
Grigori chạy đến chỗ con ngựa đang ăn trên bãi cỏ. Trong khi
chàng thắng ngựa và đánh xe tới, Acxinhia lổm ngổm bò sang bên cạnh rúc đầu vào
đống lúa đại mạch lầm bụi, hai chân hai tay vẫn chống xuống đất. Nàng đau quá,
nhai cả những bông lúa đầy lông rồi lại nhổ ra. Bằng hai con mắt lồi lên, nom
lạ hẳn đi, nàng ngơ ngác nhìn Grigori đang chạy tới như không hiểu gì cả, rồi
lại rên rỉ cắn chặt cái tạp dề vo tròn, cố không để mấy người thợ gặt nghe thấy
những tiếng kêu thất thanh của mình, những tiếng kêu gớm guốc như của thú vật.
Grigori đặt Acxinhia lên xe rồi đánh ngựa trở về trang trại.
- Chao ôi, đừng chạy nữa? Ối trời ơi, chết mất? Lắc ghê gớm
thế-nầy! - Acxinhia gào lên, giọng khàn đi, cái đầu rũ rượi lăn lộn trong thùng
xe.
Grigori chẳng nói chẳng rằng, chỉ ra roi đánh ngựa. Chàng
quay dây cương vù vù trên đầu, những tiếng gào rú phía sau liên tiếp bật ra
từng đợt, chàng cũng không quay đầu lại.
Acxinhia đưa hai tay lên ôm chặt lấy má, cặp mắt như hoá rồ,
mở thao láo đưa đi đưa lại nom rất man rợ. Con đường còn chưa có nhiều xe chạy
cho đỡ mấp mô, nên chiếc xe hết lắc bên nọ lại lắc bên kia, và người Acxinhia
cứ nảy bần bật trong xe. Con ngựa phi như bay, cái ách vòng cung trên cổ con
ngựa lên lên xuống xuống đều đặn trước mắt Grigori, một đầu cái ách che khuất
đám mây trắng loá lơ lửng trên trời nom như một miếng pha lê mài nhiều cạnh.
Bỗng Acxinhia ngừng bặt một phút, rồi lại tiếp đó kêu liên tục, có lúc biến
thành tiếng rít. Bánh xe quay long xòng xọc, Acxinhia không giữ được đầu của
nàng nữa, cứ để nó đập bình bịch vào thành xe. Grigori không nhận thấy ngay sự
yên tĩnh đột ngột đó, nhưng rồi chàng cũng cảm thấy thế, bèn quay lại nhìn.
Acxinhia nằm với bộ mặt méo xệch, không còn ra hình thù gì nữa, một bên má áp
sát vào ván thành xe, miệng ngáp ngáp như con cá bị ném lên bờ, mồ hôi trên
trán chảy như suối xuống hai hố con mắt sâu hoắm. Grigori nâng đầu nàng lên,
đệm cái mũ nhàu nát của mình xuống bên dưới.
Acxinhia liếc nhìn chàng, nói như tin chắc:
- Anh Griska ơi, em chết mất. Thôi… thế là hết!
Grigori run bắn lên, một cơn lạnh bất thần truyền lan đến
tận mười đầu ngón chân đẫm mồ hôi của chàng. Bị xúc động quá mạnh, chàng cố nói
một lời khuyên nhủ, một lời âu yếm, mà không biết nói thế nào. Môi chàng cứng
lại như bị chuột rút chỉ lắp bắp được mấy lời:
- Chỉ nói lung tung, sao ngu xuẩn thế? - Chàng lắc đầu rồi
cúi gập xuống, nắn bên chân Acxinhia bị vẹo - Acxinhia, con chim cúc cu của
anh!
Cơn đau vừa buông tha Acxinhia được một phút đã quay trở lại
ngay, nhưng lần nầy còn hung dữ gấp mười. Nàng cảm thấy bụng mình sụt xuống và
trong đó có cái gì sắp bật ra, bèn cong người như một cây cung. Một tiếng kêu
mỗi lúc một to, khủng khiếp không sao tả được xuyên vào tai Grigori. Gần như
mất trí, Grigori lại đánh ngựa.
Qua tiếng bánh xe quay ầm ầm, chàng chỉ thoáng nghe thấy một
tiếng kêu the thé kéo dài:
- Gri-i-ska!
Chàng kéo dây cương, quay đầu lại: Acxinhia đang nằm trong
vũng máu, hai tay dang rộng, dưới váy cô một vật gì sống oe oe, ngọ nguậy…
Grigori mụ người ra, nhảy luôn xuống đất, bước tới đằng sau xe, nhưng hại chân
cứ vướng như bị trói. Chàng nhìn vào miệng Acxinhia. Hơi nàng thở ra nóng hổi.
Grigori đoán ra hơn là nghe thấy rõ.
- Anh cắn cuống rau… xé sợi chỉ áo… ra buộc…
Bằng những ngón tay run bần bật. Grigori rứt một nắm sợi ở
tay chiếc áo sơ-mi vải thô của chàng rồi nhắm chặt hai con mắt đến đau cả mi,
cắn đứt cuống rau, sau đó lấy sợi chỉ buộc thật chặt mẩu thịt máu me đầm đìa.
21
Yagonoie, trang trại của nhà Litnhitki bám vào cái thung
lũng khô rộng mênh mông, nom như một khối u. Gió cứ đổi chiều, hết nồm lại bấc,
mặt trời cứ chập chờn trên bầu trời bềnh bệch, phơn phớt xanh; theo sát mùa hạ,
mùa thu lạo xạo những trận lá rụng, rồi mùa đông ập tới với những đợt băng giá
và tuyết lạnh, nhưng bao giờ Yagonoie cũng co quắp trong một không khí rầu rĩ
tê dại. Và những ngày trang trại bị cắt rời thế giới bên ngoài cứ trôi qua,
ngày nào cũng giống hệt ngày nào, y như những đứa con sinh đôi.
Trong sân, vẫn những con vịt đen hớt lẻo, mắt viền vải tây
đỏ, lạch bạch hết ra lại vào, những con gà tây lấm tấm như trận mưa hạt cườm, con
công trên mái tàu ngựa với bộ lông diêm dúa vẫn cất những tiếng kêu phát ra từ
trong bụng như tiếng mèo. Viên tướng già thích mọi thứ chim, cả đến con sếu bị
trúng đạn chưa chết lão cũng nuôi. Cứ đến tháng mười một, mỗi khi nghe thấy
tiếng những con sếu tự do đang bay líu nhíu gọi đàn, nó lại cất tiếng kêu sầu
não, lanh lảnh như tiếng đồng, giật đau nhói những sợi dây đàn trong trái tim
con người. Nhưng nó còn bay sao được nữa, cái cánh bị bắn trúng khớp thõng
xuống không còn sức sống. Viên tướng đứng trong cửa sổ nhìn con sếu vươn cổ
nhảy nhảy, cố hết sức rời khỏi mặt đất.
Lão há cái miệng rộng hoác dưới hàng ria bạc sùm sụp như mái
hiên, cười phá lên, tiếng cười ồm ồm chập chờn trong căn phòng khách quét vôi
trắng trống huếch trống hoác.
Gã Venhiamin vẫn ngẩng cao cái đầu có bộ tóc đen bết như
nhung, rung rung bộ đùi nhẽo nhợt, ngồi ngày nầy sang ngày khác trên cái hòm ở
phòng ngoài, đánh bài một mình đến đần độn cả người. Gã Tikhol vẫn vì mụ nhân
tình rỗ hoa mà ghen với cụ Xaska, với những người làm thuê, với Grigori, với
lão địa chủ, với cả con sếu, vì nó cũng được mụ Lukeria chia sẻ niềm yêu thương
quá dạt dào của một người đàn bà góa. Cụ Xaska vẫn thỉnh thoảng say một trận túy
lúy để rồi đến trước cửa sổ phòng lão địa chủ đòi một đồng hai mươi kopek.
Suốt thời gian ấy chỉ xảy ra hai việc làm rung động cuộc
sống lên mốc lên meo, đờ đẫn như mơ ngủ: chuyện Acxinhia sinh nở và chuyện
trong trang trại mất một con ngỗng rất to. Nhưng chẳng bao lâu người ta đã quen
với đứa con gái mà Acxinhia mới sinh ra, còn con ngỗng thì người ta có tìm thấy
ít lông trong cái khe sau cánh rừng ngay sát trang trại (xem ra nó đã bị cáo
bắt). Sau đó không khí lại lắng xuống như thường.
Sáng sáng, lão địa chủ vừa tỉnh dậy đã gọi Venhiamin:
- Mày ngủ có nằm mơ thấy gì không?
- Có ạ, một giấc mơ hết sức kỳ lạ.
- Mày kể đi, - lão vừa ra lệnh gọn lỏn, vừa cuốn điếu thuốc.
Thế là Venhiamin bắt đầu kể. Nếu giấc mơ chẳng có gì thú vị
hay quá rùng rợn. Lão lại nổi giận:
- Chà đồ ngu xuẩn, đồ súc sinh? Quân ngu xuẩn thì chỉ nằm mơ
thấy toàn những chuyện ngu xuẩn.
Venhiamin cũng láu cá bịa ra những giấc mơ vui tươi và hấp
dẫn. Chỉ có một điều làm hắn đau đầu là nghĩ sao cho ra. Vì thế, trước khi kể
mấy ngày, hắn đã phải ra ngồi trên cái hòm, đập đen đét xuống một tấm thảm nhỏ
những con bài cũng sùi lên và đầy cáu ghét như cặp má của hắn, cố nặn óc ra
những giấc mơ vui. Hắn cố suy nghĩ, mắt đăm đăm nhìn vào một điểm, đến nỗi cuối
cùng, thực tế là ngay trong khi ngủ, hắn cũng hoàn toàn chẳng còn mộng mị gì
nữa. Lúc tỉnh dậy, hắn cố nhớ xem mình đã mơ thấy gì, nhưng đầu óc hắn vẫn đen
ngòm, nhẵn thín như đã bào kỹ. Đen ngòm thật, vì chẳng nói gì người trong giấc
mơ, ngay đến người sống, hắn cũng chẳng nhìn thấy ma nào cả.
Tuy chỉ là bịa ra những chuyện chắng có rắc rối, nhưng
Venhiamin cũng bở hơi tai, còn lão địa chủ thì phát khùng khi lão bắt gặp những
chỗ kể lại chuyện cũ:
- Đồ dơ dáy đê tiện, giấc mơ về con ngựa này, hôm thứ Năm
mày đã kể cho tao nghe rồi cơ mà? Mày làm sao thế, quỷ tha ma bắt mày đi?
- Tôi lại nằm mơ thấy lần nữa, bẩm cụ lớn Nicolai
Alekseevich! Chúa cứu thế chứng giám, thật thế đấy ạ, quả là tôi đã nằm mơ thấy
lần thứ hai. - Venhiamin vẫn không bối rối, càng lao đầu nói dối thêm.
Đến cuối tháng Chạp, Grigori cùng một người gác bị gọi lên
nhà hội đồng trấn Vosenskaia. Chàng được lĩnh một trăm rúp mua ngựa và nhận một
tờ giấy báo cho biết đến ngày thứ hai lễ Nô-en phải có mặt tại trạm lấy lính ở
thị trấn Malkovo.
Lên trấn về, Grigori bấn lên chẳng còn biết xoay xở như thế
nào nữa: lễ Nô-en sồng sộc đến nơi rồi mà chàng vẫn chưa có gì sẵn sàng cả. Với
số tiền ngân khố cấp, cộng thêm tiền dành dụm được, chàng tới thôn Obrypsky mua
được một con ngựa một trăm bốn mươi rúp.
Chàng đi cùng với cụ Xaska, mặc cả mua được một con ngựa tạm
dùng được: sáu tuổi, lông hạt dẻ, mông xuôi. Nó cũng có một tật, nhưng khó nhận
ra. Cụ Xaska vuốt râu nói:
- Cậu không thể nào kiếm được một con rẻ hơn, các quan trên
sẽ không biết đâu. Họ làm gì có đủ tinh khôn.
Trên đường về, Grigori cưỡi ngay con ngựa vừa mua được, thử
xem bước một và nước kiệu ra sao.
Rồi trước lễ Nô-en một tuần, chính ông Panteley Prokofievich
tự nhiên lù lù mò đến Yagonoie. Ông lão không cho con ngựa cái thắng vào chiếc
xe trượt tuyết to chạy vào trong sân, mà buộc nó ngay ở hàng rào, rồi vừa khập
khiễng bước vào nhà đầy tớ, vừa gỡ những miếng băng bám trong chòm râu tãi ra
trên cổ áo như phiến đá đen. Grigori đứng trong cửa sổ nhìn thấy bố tới, cuống
lên:
- Xem kìa! Cha đến đấy!
Acxinhia không hiểu sao bọc con lại, chạy đến bên nôi.
Ông Panteley Prokofievich bước vào phòng cùng với một làn
hơi lạnh. Ông bỏ cái mũ ba tai xuống, làm dấu phép về phía bức hình thánh, rồi
từ từ đưa mắt nhìn khắp bốn bức tường.
- Chào cả nhà.
- Bố lại chơi. - Grigori đang ngồi trên chiếc ghế dài đứng
dậy, chào lại rồi bước ra đứng giữa phòng.
Ông Panteley Prokofievich chìa cho Grigori một bàn tay lạnh
giá, rồi khép tà áo choàng vừa ngồi xuống một đầu ghế vừa đưa mắt nhìn Acxinhia
lúc nầy vẫn đứng yên như phỗng bên cái nôi.
- Mày sắp sửa đi lính phải không?
- Hẳn như thế rồi.
Ông Panteley Prokofievich nín lặng một lát và cứ nhìn mãi
Grigori bằng cặp mắt dò hỏi.
- Cha cởi áo choàng ra chứ, có lẽ lạnh lắm phải không?
- Không sao. Tao chịu được.
- Con nhóm samova nhé.
- Cám ơn. - Ông lấy móng tay cậy cậy một vết bùn bám trên áo
không biết từ bao giờ rồi nói. - Tao mang đồ trang bị tới cho mày: hai cái áo
ca-pốt, một bộ yên, mấy cái quần đi ngựa. Ra mà lấy… Tất cả đều ở ngoài kia.
Grigori chẳng cần đội mũ, chạy ngay ra chiếc xe trượt tuyết,
khiêng vào hai cái túi.
- Bao giờ đi? - Ông Panteley Prokofievich vừa hỏi vừa đứng
dậy.
- Ngày thứ hai lễ Nô-en. Nhưng sao thế, cha về đấy à?
- Tao phải vội về ngay cho sớm.
Ông chia tay với Grigori, nhìn qua Acxinhia một cái, rồi
bước ra sân. Đến lúc đã cầm lấy quả đấm cửa, ông liếc nhìn cái nôi và nói:
- Mẹ mày nhờ chuyền lời hỏi thăm mày đấy, bà lão đang đau
chân. - Nói đến đây, ông nín lặng một lát, rồi nói thêm một cách miễn cưỡng,
như phải khiêng một vật nặng. - Tao sẽ tới, đưa mày đến Malkovo. Sửa soạn trước
đi.
Ông vừa đi ra vừa lồng tay vào đôi găng ấm đan tay. Acxinhia
cảm thấy nhục quá, không nói gì cả. Mặt nàng tái mét. Grigori liếc nhìn nàng và
cố ý dẫm lên một tấm ván sàn cọt kẹt.
* * *
Hôm thứ nhất lễ Nô-en, Grigori đánh xe đưa lão Litnhitki lên
trấn Vosenskaia.
Lão địa chủ dự lễ mi-sa xong, ăn sáng ở nhà một mụ địa chủ,
chị em con chú con bác với lão, rồi ra lệnh thắng ngựa.
Grigori chưa kịp ăn hết bát xúp béo nấu với thịt lợn đã phải
đứng dậy để ra tàu ngựa.
Chiếc xe trượt tuyết nhẹ kiểu thành thị thắng một con ngựa
xám đốm tròn giống Orlovsky, tên là Sibai. Grigori níu dây cương, lôi nó ra
khỏi tàu ngựa, rồi vội vã thắng nó vào xe.
Gió thổi bay tứ tung những bông tuyết to, rơi vào người đau
như có gai, tuyết dưới chân bị gió thốc lên trắng như bạc, vừa rít vừa bay là
là mặt đất. Bên ngoài dãy hàng rào, sương muối dịu mượt như nhung bám đầy những
cái cây. Bị gió rung, từng đám sương muối rơi xuống, tung lả tả, lóng lánh dưới
nắng với những sắc cầu vồng phối hợp phong phú như trong thần thoại. Một làn
khói bốc chếch chếch lên trời từ cái cột ống khói xám đen trên mái nhà. Cạnh
đấy, vài con quạ quàng quạc đứng co ro. Nghe thấy những tiếng chân bước loạt
soạt, chúng sợ hãi cất cánh bay lên, lượn vòng trên mái nhà như những đám bông
xám rồi bay về hướng tây, về phía ngôi nhà thờ đang in rõ một hình xanh xanh
trên nền trời tím ngát lúc sớm mai.
- Vào nói hộ cái, xe thắng xong rồi! - Grigori nói với cô
hầu phòng đang chạy ra thềm nhà.
Lão địa chủ bước ra, bộ ria rúc hẳn xuống cổ chiếc áo lông
gấu chuột. Grigori đắp lên hai chân lão cái cánh gà làm bằng lông sói có viền
nhung rồi cài khuy lại.
- Cho nó vài roi! - Lão địa chủ đưa mắt về phía con ngựa.
Grigori ngửa người trên bục đánh xe, hai tay duỗi ra nắm mấy
sợi dây cương căng thẳng rung rung. Chàng lo lắng liếc nhìn đoạn đường dốc đầy
tuyết trơn và nhớ lại rằng hồi tuyết bắt đầu rơi, có lần chàng cho xe chạy trên
một con đường mới, không khéo để xe va mạnh, lão địa chủ đã đấm chàng một cái
vào gáy, nắm đấm khỏe chẳng có vẻ gì là của một lão già. Xe chạy tới cái cầu,
rồi từ đấy cứ dọc theo sông Đông. Grigori nới lỏng dây cương, đưa găng tay lên
sát hai bên má bị gió quật rát như lửa bỏng.
Hai giờ sau xe về tới Yagonoie. Suốt chặng đường lão địa chủ
cứ câm như hến, lâu lâu mới cong ngón tay gõ vào lưng Grigori: “Đứng lại” để
quay lưng về phía ngọn gió, cuộn điếu thuốc.
Mãi khi xuống cái dốc sắp về tới trang trại, lão mới hỏi:
- Sáng sớm mai à?
Grigori quay nghiêng người, cố mãi mới mở được cặp môi rét
cóng.
- Slớm mai - Chàng định nói “sớm” mà lại thành “slớm”. Lưỡi
bị lạnh quá cứng lại, hình như sưng lên, dính chặt vào chân răng, vì thế giọng
nói thều thào.
- Tiền nhận đủ rồi chứ?
- Vâng.
- Không phải lo lắng về chuyện vợ mày, nó sẽ sống được thôi.
Phải lo làm việc quan cho tận tâm. Ông mày xưa là một thằng Cô-dắc dũng cảm.
Mày cũng phải như thế, - Giọng lão địa chủ bỗng trầm hẳn xuống (lão lấy cổ áo
che mặt để tránh gió) - Mày cũng phải làm thế nào cho xứng đáng với ông mày và
cha mày. Có phải cha mày đã đoạt giải nhất trong cuộc đua ngựa lần hoàng đế
duyệt binh hay không?
- Vâng, đúng cha tôi.
- Thôi, làm cho đúng như thế - Lão địa chủ kết thúc câu
chuyện bằng một giọng nghiêm khắc, gần như đe doạ, rồi giấu hẳn mặt vào trong
áo lông.
Grigori dắt con ngựa chuyên chạy nước kiệu trao tận tay cho
cụ Xaska rồi bước vào trong nhà đầy tớ.
- Ông cụ nhà cậu đến đấy! - Cụ Xaska đắp chiếc áo ngựa cho
con ngựa nói to theo.
Ông Panteley Prokofievich đang ngồi ở bàn ăn ăn nốt món thịt
đông.
“Lại có tí tửu rồi”, - Grigori đưa mắt nhìn bố, thấy nét mặt
ông cụ đã dịu hơn lần trước nên nghĩ bụng.
- Về rồi à, thầy quyền?
- Chết cóng rồi đây. - Grigori đập hai tay vào nhau, trả lời
bố rồi quay sang bảo Acxinhia - Cởi cho anh cái nút buộc mũ, không động được
ngón tay nữa rồi.
- Mày phải đi một chuyến khổ quá đấy, đường lại ngược gió. -
Người bố nói giọng bực bội, cả râu lẫn ria đều lên lên xuống xuống trong khi
ông nhai.
Rồi ông ra lệnh gọn lỏn cho Acxinhia, giọng như chủ nhà,
nhưng lần nầy khá dịu dàng:
- Cắt thêm bánh mì ra đây, đừng có hà tiện.
Ăn xong ông rời khỏi bàn và trong khi đi ra cửa hút thuốc,
ông đưa đi đưa lại cái nôi hai ba lần như không chủ tâm. Ông đưa chòm râu vào
trong cái màn nhỏ xíu và hỏi:
- Cô-dắc à?
- Cháu gái đấy ạ, - Acxinhia trả lời thay Grigori, nhưng
nàng nhận thấy một vẻ không vừa ý thoáng hiện trên mặt và ngưng lại ở chòm râu
không động đậy nữa của ông lão, bèn vội nói thêm. - Cháu đẹp như vẽ ấy, giống
anh Griska con như đúc.
Ông Panteley Prokofievich ngắm đi ngắm lại một cách thành
thạo cái đầu nhỏ xíu, đen đen, nhô ra ngoài đám giẻ rách rồi xác nhận, giọng
không thiếu vẻ tự hào:
- Dòng máu nhà ta đây… Hừm… Con bé nầy!
- Cha đến bằng gì thế? - Grigori hỏi.
- Đi xe trượt tuyết, thắng con ngựa cái nhỏ và con của thằng
Petro.
- Hay là chỉ đem một con đi thôi, thử thắng con của con xem.
- Không cần, cho nó đi không cũng được. Nhưng con ngựa cũng
khá đấy.
- Cha xem rồi à?
- Có xem qua.
Hai cha con chỉ nói với nhau những chuyện đâu đâu, tuy cùng
xao xuyến với những ý nghĩ về cùng một vấn đề. Acxinhia không nói xen vào câu
chuyện, nàng cứ ngồi yên trên giường như người bị dìm xuống nước. Cặp vú của
nàng mọng sữa, rắn như đá, căng cả ngực áo. Sau khi sinh nở, nàng đẫy đà ra,
dáng người thay đổi hẳn, nom đầy vẻ tự tin và tràn trề hạnh phúc.
Mãi khuya mọi người mới vào giường đi ngủ. Acxinhia ôm chặt
lấy Grigori, nước mắt và sữa chảy ra từ cặp vú đứa con bú không hết làm ướt đẫm
áo sơ mi của chàng.
- Em nhớ anh đến chết mất… Em sống một thân một mình rồi sẽ
ra sao bây giờ?
- Em đừng lo, - Grigori trả lời, giọng cũng thầm thì.
- Đêm thì dài… con lại không chịu ngủ cho… Em sẽ héo mòn vì
nhớ anh thôi. Anh ngẫm mà xem, anh Griska, bốn năm trời?
- Nghe nói xưa kia người ta còn đi lính hai mươi nhăm năm
cơ.
- Việc xưa kia có liên quan gì đến em.
- Thôi, đừng nói nữa!
- Cái việc đi lính của anh thật đáng nguyền rủa nó làm chia
lìa đôi ngả!
- Nghỉ phép anh sẽ về.
- Nghỉ phép, - Acxinhia rầu rĩ nói theo, rồi nàng nức nở và
xỉ mũi vào áo lót - Chờ anh về được thì sông Đông đã chảy hết bao nhiêu nước…
- Thôi đừng rền rĩ nỉ non nữa… Nước mắt em sao cứ rả rích
như mưa thu ấy?
- Anh cứ ở vào tình cảnh của em mà xem?
Trời sắp hửng thì Grigori thiếp đi, Acxinhia cho con bú
xong, chống khuỷu tay, mắt đăm đăm không chớp, nhìn khuôn mặt ngăm ngăm của
Grigori lờ mờ trong bóng tối, thầm từ biệt chồng. Nàng nhớ lại cái đêm còn ở
trong phòng mình, nàng cố khuyên Grigori đi Kuban. Đêm ấy cũng như thế này, chỉ
có khác là lần trước thì sáng trăng và cái sân bên ngoài cửa sổ thì trắng xoá,
tràn ngập ánh trăng.
Cảnh tượng cũng như thế, nhưng Grigori thì có phần vẫn như
xưa mà cũng có phần đổi khác. Sau lưng hai người đã là cả một chặng đường dài,
đan bằng những ngày đã trôi qua.
Grigori trở mình nằm nghiêng, nói rành rọt:
- Ở thôn Olsansky… - Rồi lại nín thinh.
Acxinhia cố chợp mắt, song những ý nghĩ rối bời trong óc đã
xua hết cái ngủ đi đâu mất, y như gió thổi tung một đụn rơm. Cho đến khi trời
sáng, nàng cứ suy nghĩ quẩn quanh về câu nói không đầu không đũa của Grigori,
cố đoán xem ý nghĩa ra sao… Khuôn cửa sổ đầy sương muối vừa hửng một chút, ông
Panteley Prokofievich đã thức giấc.
- Grigori, dậy đi, trời sáng rồi!
Acxinhia quỳ dậy, mặc váy. Nàng thở dài tìm mãi mới thấy
diêm. Mọi người ăn sáng, thu xếp mọi thứ xong xuôi thì trời sáng bạch.
Ánh ban mai lấp loáng xanh biếc. Dãy hàng rào nhấp nhô hiện
lên rành rọt như khảm trong tuyết. Nóc tàu ngựa đen đen che một phần bầu trời
tím nhạt rất dịu, mung lung như khói.
Ông Panteley Prokofievich ra thắng ngựa. Acxinhia ôm lấy
Grigori hôn lấy hôn để như người mất trí. Grigori cố gỡ ra để đi chào từ biệt
cụ Xaska và những người khác.
Acxinhia bọc con cẩn thận rồi ra tiễn chân chồng.
Grigori thơm cái trán nhỏ xíu ươn ướt của con gái rồi bước
tới bên con ngựa.
- Mày lên xe mà ngồi! - Ông bố vừa giật cương hai con ngựa
vừa kêu lên.
- Không, con cưỡi ngựa.
Grigori cố ý dềnh dàng buộc đai ngựa rồi lên yên, dóng
cương.
Acxinhia sờ sờ vào chân chàng, luôn miệng nhắc đi nhắc lại:
- Griska, hượm cái đã… em còn chuyện này muốn nói với anh…
Nàng run lên, luống cuống cau mày cố nghĩ.
- Thôi em ở lại! Chăm con cho cẩn thận… Anh phải đi đây, cha
đã đi xa rồi kia kìa…
- Hượm đã nào, anh yêu của em! - Acxinhia đưa tay trái ra
nắm lấy bàn đạp lạnh buốt, tay phải ôm chặt lấy đứa con bọc trong tà áo.
Nàng nhìn Grigori chằm chằm không chán mắt, chẳng còn tay
nào mà chùi những giọt nước mắt chảy giàn giụa trên hai con mắt mở to không
chớp.
Venhiamin bước ra thềm.
- Grigori, cụ chủ cho gọi.
Grigori văng tục một câu, vung roi, cho con ngựa chạy ra
khỏi cổng. Acxinhia tất tả chạy theo, hai chân đi ủng dạ sụt xuống những đống
tuyết rải rác đầy sân, kéo lên rất khó khăn.
Lên tới đường sống đồi thì Grigori đuổi kịp cha chàng. Chàng
ngồi lại cho vững rồi ngoái đầu nhìn lại. Acxinhia vẫn ôm chặt đứa con trong tà
áo, đứng bên cổng, gió đập phần phật đầu chiếc khăn choàng đỏ trên vai nàng.
Grigori lên tới ngang chiếc xe trượt. Ngựa đi bước một. Ông
Panteley Prokofievich quay lưng về phía hai con ngựa rồi hỏi:
- Thế là mày không nghĩ tới chuyện về ở với vợ mày nữa à?
- Lại cái chuyện ngày xửa ngày xưa… người ta đã nói chán
rồi…
- Mày thật không muốn về với nó nữa à?
- Thật như vậy.
- Mày có nghe tin nó tự tử không?
- Con có nghe nói.
- Ai cho biết thế?
- Có lần con đánh xe đưa cụ chủ lên trấn, gặp một bà con
trong thôn.
- Thế mày không sợ Chúa trừng phạt à?
- Nhưng còn làm thế nào được nữa hả cha? Nói thật ra thì…
bát nước đã đổ xuống đất còn vớt sao cho đầy được nữa!
- Thôi đừng nói với tao những lời của quỷ dữ ấy nữa? Tao chỉ
muốn nói cho mày hiểu điều hay lẽ phải. - Ông Panteley Prokofievich nổi nóng,
nói càng nhanh.
- Bây giờ con lại đã có con, thế thì còn gì mà nói nữa?
Chẳng làm thế nào hàn gắn được nữa rồi.
- Mày phải cẩn thận đấy… nhỡ nuôi con kẻ khác thì sao?
Grigori tái mặt: ông bố đã chạm đúng vết thương chưa kín
miệng.
Từ ngày bé ra đời, Grigori luôn luôn bị ray rứt bởi một mối
nghi ngờ mà chàng cố giấu Acxinhia, cố lừa dối cả chính mình. Đêm đêm, khi
Acxinhia đã ngủ, chàng thường lần đến bên cái nôi, nhìn mãi đứa bé, cố tìm thấy
trên khuôn mặt hồng hồng nâu nâu của nó một nét nào của mình, rồi lại bỏ đi,
nghi ngờ vẫn hoàn nghi ngờ. Cả Stepan cũng có bộ tóc nâu sẫm, gần như đen, thế
thì làm thế nào nhận được ra chất máu đang chảy theo nhịp đập của trái tim trong
cái lưới mạch máu hằn lên xanh xanh dưới làn da trong trong của đứa bé là máu
của ai? Có lúc Grigori cảm thấy đứa con gái giống mình, nhưng đôi khi chàng lại
thấy nó rất giống Stepan, giống đến làm chàng đau lòng. Đối với nó, Grigori
chẳng có tình cảm gì cả, ngoài một niềm bực bội vì những phút nặng nề mà chàng
đã phải trải qua trong khi đánh xe đưa Acxinhia về qua đồng cỏ, lúc nàng đang
quằn quại đau đẻ. Nhưng có lần Acxinhia đang bận tay trong bếp chàng đã bế đứa
bé ra khỏi nôi, thay cho nó cái tã ướt, và bất thần cảm động nhói trong tim…
Chàng len lén cúi xuống khẽ cắn vào một ngón chân hồng hồng tõe ra trên bàn
chân đứa bé.
Người bố đã móc moi vết thương của Grigori, không chút
thương hại. Grigori đặt hai bàn tay lên mũi yên, trả lời giọng âm thầm.
- Con ai thì con, tôi cũng không bỏ.
Ông Panteley Prokofievich giơ roi đánh ngựa, nhưng vẫn không
quay người lại.
- Sau hôm ấy con Natalia hỏng cả người… Cổ nó vẹo đi như
phải gió. Một cái gân chính bị cắt đứt, vì thế cổ nó cứ nghiêng sang một bên.
Nói đến đây ông nín lặng. Đòn trượt nghiến nát tuyết rít
lên. Con ngựa của Grigori đạp móng sau lên chân trước đôm đốp.
- Thế bây giờ Natalia như thế nào hả cha? - Grigori hết sức
chăm chú gỡ một quả ngưu bàng chín nẫu bám trên bờm ngựa.
- Hình như khỏi rồi. Nó nằm mất bảy tháng trời. Hôm lễ Lá đã
tưởng nó đi đứt. Cha Pankrati đã làm lễ cho nó… Nhưng sau vẫn qua khỏi. Mỗi
ngày một khá ra, bây giờ đã đứng dậy, đi lại được. Nó lấy cái lưỡi hái đâm vào
tim, nhưng run tay, mũi lưỡi hái chệch sang bên, nếu không đã hết đời…
- Cha cho xe xuống chân núi đi!
Grigori vung roi đứng nhỏm trên bàn đạp, cho con ngựa bắt
đầu chạy nước kiệu vượt lên trước chiếc xe của bố, móng ngựa hất tung những nắm
tuyết vào trong xe.
- Chúng ta sẽ đem con Natalia về nhà! - Ông Panteley Prokofievich
cho xe đuổi theo kịp, kêu to. - Con bé nó không muốn ở nhà bố mẹ nó nữa. Hôm nọ
tao có gặp, đã bảo nó về nhà ta mà ở.
Grigori không trả lời. Hai người lặng thinh cho tới khi đến
thôn đầu tiên. Ông Panteley Prokofievich cũng không đả động tới chuyện ấy nữa.
Hôm ấy hai cha con đi được bảy mươi vec-xta. Hôm sau, lúc
mọi nhà đã lên đèn, mới tới được thị trấn Malkovo.
- Anh em trấn Vosenskaia ở khu nào thế? - Ông Panteley
Prokofievich vừa gặp một người đã hỏi luôn.
- Cứ thẳng phố lớn mà đi.
Hai cha con đến một ngôi nhà thì thấy năm anh chàng bị gọi
vào lính đứng đó cùng với những người cha đưa tiễn con.
- Bà con ta ở thôn nào thế? - Ông Panteley Prokofievich vừa
hỏi vừa dắt mấy con ngựa vào buộc dưới hiên nhà kho.
- Chúng tôi từ vùng sông Tria, - Trong bóng tối có một giọng
khàn đặc trả lời.
- Nhưng thôn nào cơ chứ?
- Thôn Cácghin cũng có, thôn Napolov, thôn Likhovidov cũng
có, còn hai cha con bác ở thôn nào thế?
- Thôn Cu rừng (Biệt hiệu của thôn Tatarsky), -
Grigori bật cười trả lời. Chàng tháo yên con ngựa và nắn nắn cái lưng đẫm mồ
hôi của nó.
Sáng hôm sau, lão Dudarov, ataman trấn Vosenskaia dẫn đám
lính mới của trấn tới nhà hội đồng khám sức khỏe. Grigori gặp anh em cùng tuổi
trong thôn. Mitka Korsunov cưỡi con ngựa cao màu hạt dẻ nhạt, đóng bộ yên mới
rất diện, đai ngực diêm dúa, dây cương và hàm thiếc trang sức lộng lẫy. Từ sáng
sớm nó đã cưỡi ngựa ra giếng, trông thấy Grigori đứng ở cổng nhà chàng ở, bèn
đưa tay trái lên giữ cái mũ cát-két đội lệch, cho ngựa chạy qua, không chào hỏi
gì cả.
Các chú lính mới lần lượt cởi quần áo trong căn phòng lạnh
ngắt của nhà hội đồng thị trấn. Những tên văn thư nhà binh lăng xăng chạy qua
chạy lại trong căn phòng. Viên phó quan của lão ataman quân khu đi ủng da
véc-ni ngắn cũng ra vẻ bận rộn lắm. Cái nhẫn nạm ngọc đen cùng hai lòng trắng
lồi lồi hồng hồng trên cặp mắt rất đẹp của gã càng làm nổi bật màu trắng của da
và những cái dây ngù. Từ phòng trong vẳng ra tiếng các bác sĩ trao đổi nhau
những ý kiến nhát gừng.
- Sáu mươi chín.
- Ông Panven Ivanovich, xin ông cái bút chì hoá học. - Ngay
sau cánh cửa có một giọng ồm ồm đầy hơi men.
- Vòng ngực…
- Vâng, vâng, rõ ràng đây là một biểu hiện của bệnh di
truyền…
- Giang mai, ghi vào.
- Làm gì mà che che đậy đậy thế, mày có phải là con gái đâu?
- Người nó cứ như…
- Thôn này vốn là đất tốt cho bệnh này hoành hoành. Cần có
ngay những biện pháp đặc biệt. Tôi đã làm báo cáo trình lên cụ lớn.
- Ông Paven Ivanovich, ông xem hộ tôi tên này. Người ngợm
của nó ông thấy thế nào?
- Được!
Grigori cởi quần áo bên cạnh một anh chàng tóc đỏ cao lêu
đêu người thôn Trukarinsky. Một viên văn thư ở bên trong cửa bước ra với cái
lưng áo quân phục nhăn nhúm. Gã gọi rành rọt:
- Panfilov Sebatiau, Melekhov Grigori.
- Nhanh lên cậu! - Anh chàng đứng bên cạnh Grigori khẽ giục
và đỏ mặt tháo bít-tất ra.
Grigori bước vào phòng, lưng nổi cả gai ốc. Da chàng vốn đã
ngăm ngăm bánh mật, lúc nầy lại bóng lên cái màu của gỗ sồi nhuộm. Chàng ngượng
ngùng nhìn xuống hai chân đầy lông đen của mình. Một anh chàng trần như nhộng,
người vụng về quê mùa đứng ở góc phòng, cạnh cái sân. Một gã có vẻ là y tá
trưởng đẩy quả cân kêu to:
- Bốn, mười. Xuống đi.
Những thủ tục khám sức khỏe nhục nhã làm Grigori bực mình.
Một bác sĩ tóc bạc, mặc áo trắng, nghe nhiều chỗ trên người
chàng bằng ống nghe. Một người trẻ hơn lật mí mắt chàng và bắt thè lưỡi ra xem.
Một người thứ ba đeo kính gọng sừng, tay áo xắn lên đến khuỷu, cứ xát hai tay
vào nhau và lẩn quẩn mãi sau lưng chàng.
- Lên bàn cân.
Grigori bước lên cái mặt bàn cân gạch khía lạnh giá.
- Năm, sáu rưỡi, - Gã đứng cân lách cách gạt quả cân kim khí
và cho biết kết quả.
- Quỷ quái gì thế nầy, nó cũng chẳng cao lớn gì lắm. - Bác
sĩ tóc bạc lẩm bẩm và nắm tay Grigori xoay chàng quay một vòng.
- Kỳ… quặc thật! - Người trẻ hơn nói cà lăm.
- Bao nhiêu? - Một lão ngồi ở bàn ngạc nhiên hỏi.
- Năm pút, sáu phun-tơ rưỡi (Một pút bằng 16,88 kg, một
phun-tơ bằng 409,5 gr. Tất cả là khoảng 84,5 kg), - Bác sĩ
tóc bạc trả lời lông mày giương lên vẫn chưa hạ xuống.
- Cho vào đội ngự lâm chứ? - Tên đặc phái viên quân sự của
quân khu nghiêng bộ tóc đen chải bóng về phía tên ngồi bên cạnh.
- Mặt mũi nó như quân ăn cướp ấy… Man rợ quá.
- Nầy, quay lưng lại đây! Lưng mày làm sao thế hử? - Một sĩ
quan đeo lon đại tá gõ một ngón tay xuống bàn, vẻ nóng nảy.
Bác sĩ đầu bạc lẩm bẩm một câu gì khó hiểu trong khi Grigori
quay lưng về phía cái bàn. Chàng cố ghìm cơn run lan rân rân khắp người để trả
lời:
- Dạo mùa xuân tôi bị giá. Đó là những chỗ mưng mủ.
Lúc kiểm tra cân đo sắp xong, các quan chức ngồi quanh bàn
bàn bạc với nhau rồi quyết định:
- Xuống đơn vị chiến đấu.
- Xuống trung đoàn Mười hai, Melekhov. Nghe rõ không?
Người ta cho phép Grigori ra ngoài. Lúc ra cửa, chàng còn
nghe thấy những lời nói thì thầm đầy miệt thị:
- Không thể được. Các ngài thử tưởng tượng xem, hoàng thượng
mà trông thấy một cái mặt như thế thì sẽ ra sao? Chỉ hai con mắt nó cũng…
- Thằng nầy lai đấy! Có lẽ người phương Đông.
- Hơn nữa người nó lại không sạch sẽ, lở láy…
Mấy anh em cùng thôn đang chờ lượt đến vây lấy Grigori.
- Nầy, thế nào, Griska?
- Cậu đi đâu thế?
- Có lẽ về trung đoàn Atamansky đấy nhỉ?
Grigori lò cò một chân, cố lồng chân kia vào ống quần. Chàng
trả lời qua kẽ răng:
- Thôi đừng quấy rầy nữa, có quái gì mà phải hỏi? Đi đâu à? Trung
đoàn Mười hai.
- Korsunov Dmitri, Kargin Ivan - Tên văn thư ngó đầu ra.
Grigori chạy từ trên thềm xuống, vừa chạy vừa cài khuy áo
lông ngắn. Tuyết tan, thoảng hơi gió ấm áp, con đường có những chỗ sạch tuyết
bốc hơi ngùn ngụt. Vài con gà mái kêu cục cục chạy qua phố, vài con ngỗng đạp
lõm bõm trong vũng nước lăn tăn những vết nhăn xiên xiên. Những cái chân ngỗng
ngâm dưới nước nom hồng hồng da cam, chẳng khác gì những chiếc lá thu bị sương
giá đốt cháy vàng.
Hai ngày sau bắt đầu kiểm tra ngựa. Bọn sĩ quan đi đi lại
lại trên bãi. Viên bác sĩ thú y và tên y tá trưởng cầm cái thước đo ngựa phanh
tà áo ca-pốt tất tả chạy qua. Một đàn ngựa lông đủ các màu đứng xếp thành hàng
dài bên bức tường xây quanh nhà thờ. Giữa bãi kê chiếc bàn nhỏ. Một tên văn thư
ngồi đấy ghi kết quả kiểm tra cân đo. Lão ataman trấn Vosenskaia là Dudarov lật
đật chạy từ cái cân đi chỗ khác, vừa chạy vừa trượt chân. Tên đặc phái viên
quân sự đi qua; không biết hắn đang nói những gì với một viên trung uý kỵ binh
trẻ tuổi mà giậm chân thình thịch ra vẻ bực tức lắm.
Số của Grigori là một trăm tám mươi. Chàng dắt ngựa lên cân.
Họ đo tất cả những bộ phận trên cơ thể con ngựa rồi cân. Con ngựa chưa bước
khỏi bàn cân viên bác sĩ thú y đã nắm lấy môi trên của nó, khám trong mõm nó
với một vẻ oai vệ quen thuộc. Hắn bóp rất mạnh, nắn các bắp thịt trước ức, rồi
như một con nhện, những ngón tay rắn rỏi của hắn lần xuống dần dần tới bốn
chân.
Hắn bóp khắp xương đầu gối, gõ vào đoạn gân dưới bánh chè,
nắn những cái xương phía trên các móng…
Con ngựa sợ vểnh cả tai, hắn vẫn bóp nắn nghe ngóng mãi rồi
bỏ đi tà áo blu tả tơi tung ra khắp chung quanh mùi phenol hăng hắc.
Con ngựa bị coi là không đủ tiêu chuẩn. Điều mong mỏi của cụ
Xaska thế là không được thực hiện. Viên bác sĩ ranh ma đã có đủ kinh nghiệm để
nhận ra cái tật ngầm mà cụ Xaska đã nói tới.
Grigori hoảng lên bàn với cha chàng một lát, rồi nửa giờ
sau, chàng đã vượt đám xếp hàng, dắt con ngựa của Petro vào cân. Viên bác sĩ
nhận cho qua ngay, gần như chẳng khám xét gì cả.
Cách chỗ không xa, Grigori kiếm được một khoảng khô ráo nhất
bèn trải áo ngựa, xếp tất cả các đồ trang bị của mình lên. Ông Panteley
Prokofievich đứng phía sau giữ con ngựa và nói chuyện với một ông già khác cũng
tới tiễn con.
Một viên tướng cao lớn tóc bạc phơ đi ngang qua. Lão mặc áo
ca-pôt xám nhạt, đội mũ lông cừu non trắng muốt như bạc. Lão đi hơi lăng chân trái,
bàn tay đeo găng trắng vung vẩy.
- Ngài ataman quân khu đấy - Ông Panteley Prokofievich đẩy
vào lưng Grigori khẽ nói.
- Có lẽ một cấp tướng?
- Thiếu tướng Makeev. Hắc ghê lắm!
Một đoàn sĩ quan đến từ các trung đoàn và các đại đội pháo
lũ lượt đi theo lão ataman. Một viên thượng uý vai rộng mông to, quân phục pháo
binh, nói oang oang với bạn hắn, một sĩ quan cao lớn đẹp trai thuộc trung đoàn
ngự lâm Atamansky:
- Thật chẳng làm thế nào hiểu được nữa? Một làng nhỏ ở Estonia ,
dân phần lớn tóc vàng, thế mà con bé ấy lại hoàn toàn khác hẳn, mà đâu phải một
mình cô ả! Bọn mình đã đặt rất nhiều giả thuyết nhưng mãi sau mới vỡ lẽ là hai
chục năm trước đây… - Hai tên sĩ quan đi vòng, tránh chỗ Grigori xếp các đồ
trang bị Cô-dắc của chàng trên tấm áo ngựa. Vì gió nên chàng phải vất vả lắm
mới nghe được mấy lời cuối cùng của viên thượng uý pháo binh giữa những tiếng
cười của bọn sĩ quan: -… một đại đội thuộc trung đoàn Atamansky của các ngài đã
đến đóng tại làng đó.
Gã văn thư vừa chạy vừa đưa những ngón tay run rẩy, bê bết
mực hoá học lên cài khuy áo ngoài. Tên trợ lý của đặc phái viên quân sự quân
khu đỏ mặt tía tai chạy phía sau, quát rầm lên:
- Làm ba lần, tao đã bảo mày rồi cơ mà! Tao sẽ tống cổ mày
xuống đơn vị cho mà xem!
Grigori tò mò nhìn xoi mói những khuôn mặt xa lạ của bọn sĩ
quan và quan lại. Một tên phó quan bước qua, hắn đưa cặp mắt âu sầu ươn ướt
nhìn Grigori, nhưng vừa bắt gặp cặp mắt chăm chú của chàng, hắn quay ngoắt đi.
Một viên trung uý kỵ binh nhiều tuổi gần như chạy lên đuổi theo tên phó quan. Không
biết lão đang có gì lo lắng, mà hàm răng vàng khè cứ cắn lấy môi trên. Grigori
nhận thấy trên hàng lông mày hung hung như râu ngô của lão trung uý có một nốt
ruồi rung rung, gần sát mi mắt.
Dưới chân Grigori trải tấm áo ngựa chưa dùng lần nào trên xếp
đúng thứ tự quy định một bộ yên có khung bọc sắt sơn xanh lá cây kèm theo túi
trước và túi sau (Túi
trước đựng lương ăn cho ngựa, túi sau đựng các đồ dùng và lương ăn cho người),
hai cái áo ca-pôt, hai quần đi ngựa, chiếc quân phục ngắn, hai đôi ủng, các đồ
lót, một phun-tơ linh năm mươi tư dô-lôt-nhich (1dô-lốt-nhich bằng 4,26gr)
lương khô, một hộp đồ hộp, thóc ngựa cùng những lương thực khác theo số lượng
quy định cho một lính kỵ binh.
Những cái túi dết mở nắp cho thấy một bộ móng ngựa, dùng cho
cả bốn vó ngựa, đinh đóng móng, tất cả đều bọc trong giẻ tẩm dầu, một bao đồ
khâu trong có hai cái kim và chỉ, một chiếc khăn mặt.
Grigori nhìn qua lần cuối hành lý lên đường của mình. Chàng
ngồi xổm lấy tay áo chùi mép những cái khoá dây đeo bị bẩn. Bắt đầu từ cuối
bãi, Ủy ban kiểm tra từ từ đi qua trước các gã Cô-dắc đứng thành hàng bên những
chiếc áo ngựa. Bọn sĩ quan và lão ataman kiểm tra rất cẩn thận các đồ trang bị
Cô-dắc. Chúng ngồi xuống, vén tà những chiếc áo ca-pôt màu xám nhạt, lục trong
các túi dết, nhòm vào các bao đồ khâu, nhấc nhấc các túi lương khô lên xem có
đủ cân đủ lạng hay không.
Gã Cô-dắc đứng bên cạnh Grigori giơ ngón tay chỉ tên đặc
phái viên quân sự quân khu:
- Các cậu xem cái thằng dài ngoằng kia kìa. Nó bới tung các
thứ lên như con chó dái xục hang chuột ấy.
- Ấy đấy ấy đấy mẹ kiếp! Nó lộn mề gà cả cái túi dết!
- Chắc lung tung quá, nếu không ai thừa hơi kiếm chuyện.
- Nó làm gì thế, chẳng nhẽ đếm cả đinh đóng móng hay sao?
- Đúng là một thằng chó má!
Những tiếng xì xào lắng dần, Uỷ ban kiểm tra đã tới gần, chỉ
còn vài người là tới chỗ Grigori. Lão ataman quân khu cầm găng trong tay trái,
tay phải vung vẩy, nhưng khuỷu tay không gập. Grigori đứng nghiêm lại. Ông bố
đứng sau lưng chàng húng hắng ho. Gió đưa đến trên bãi mùi nước đái ngựa và mùi
tuyết tan chưa hết. Mặt trời ghé mắt nhòm xuống như chuếnh choáng hơi men,
chẳng có gì vui ve.
Nhóm sĩ quan đứng lại trước mặt gã Cô-dắc bên cạnh Grigori,
rồi lần lượt đi tới chỗ chàng.
- Họ, tên?
- Melekhov Grigori.
Tên đặc phái viên quân sự cầm lấy đai lưng chiếc áo ca-pôt,
xách lên, ngửi mùi lần chót và đếm qua quít số khâu móc. Một tên sĩ quan khác
đeo lon thiếu uý, lấy ngón tay vò vò chiếc quần làm bằng dạ tốt. Tên thứ ba cúi
xuống thấp quá, nên gió thổi lật tà chiếc áo ca-pôt của hắn lên. Hắn xục trong
cái túi dết. Tên đặc phái viên quân sự dùng ngón tay út và ngón tay cái lần lần
những cái đinh bọc trong giẻ, môi lẩm bẩm đếm. Tay
hắn đếm dờ dẫm, rụt rè, cứ như phải sờ vào một vật gì nóng.
- Sao chỉ có hai mươi ba cái đinh đóng móng? Như thế nghĩa
lý ra sao? - Hắn giận dữ giật góc miếng giẻ.
- Bẩm quan lớn không phải thế, đủ hai mươi tư chiếc đấy.
- Sao, tao có mù đâu?
Grigori luống cuống lật chỗ góc miếng giẻ gập lại, che mất
cái đinh thứ hai mươi tư. Mấy ngón tay sần sùi, đen thủi của chàng hơi chạm
phải những ngón tay trắng như đường của viên đặc phái viên quân sự. Thằng cha
giật phắt tay lại như chạm phải gai. Hắn sát mãi tay vào sườn chiếc áo ca-pôt
xám, rồi nhăn mặt ra vẻ khinh bỉ, đi bít-tất tay vào.
Grigori nhìn thấy tất cả. Chàng đứng thẳng lên, mỉm nụ cười
cay độc. Cặp mắt hai người gặp nhau. Phía trên gò má tên đặc phái viên quân sự
ửng đỏ. Hắn cất cao giọng:
- Mày nhìn cái gì? Mày nhìn cái gì hử, thằng Cô-dắc này? -
Má thằng cha có một chỗ cạo bị sướt, đỏ dừ từ trên xuống dưới. - Tại sao các
dây thồ để lung tung thế nầy? Mày là một thằng Cô-dắc hay là một thằng mu-gích
dép vỏ cây hử? Bố thằng này đâu?
Ông Panteley Prokofievich kéo cương ngựa, tiến lên một bước,
đập gót bên chân thọt.
- Lão không hiểu công việc nhà binh ra sao à? - Cơn thịnh nộ
của tên đặc phái viên quân sự đổ lên đầu ông già. Hắn đã tức tối khó chịu từ
sáng vì thua bài.
Vừa lúc ấy lão ataman quân khu đi tới, tên đặc phái viên
quân sự không nói gì nữa. Lão ataman đưa mũi ủng đá vào cái đệm yên, nấc lên
một cái rồi bước qua người khác. Viên sĩ quan nhận lính mới cho trung đoàn
Grigori đến lục lọi xem xét hết sức cẩn thận tất cả các thứ, không từ cả bên
trong bao đồ khâu và là tên cuối cùng rời khỏi chỗ Grigori. Hắn đi giật lùi,
lấy lưng che gió hút thuốc.
Hai ngày sau, một đoàn xe lửa rời khỏi nhà ga Cherkovo với
những toa sơn đỏ chở lính Cô-dắc, ngựa và rơm đi Lisky - Voronez.
Trong một toa xe, Grigori đứng dựa vào cái máng gỗ cho ngựa
ăn. Bên ngoài các cửa xe mở toạng, một cánh đồng phẳng lì, xa lạ, lướt vun vút.
Xa xa, một dải rừng xanh biếc, mượt mà, xoay tròn như một chiếc đu quay.
Những con ngựa nhai rơm rau ráu, cứ giậm hết chân nọ đến
chân kia vì chúng cảm thấy chỗ đứng luôn luôn lên lên xuống xuống.
Trong xe nặc mùi ngải cứu trên đồng cỏ, mùi mồ hôi ngựa, mùi
tuyết tan mùa xuân. Cánh rừng phía xa chập chờn trên đường chân trời, xanh
biếc, mơ màng, và cũng không thể với tới được như ngôi sao Hôm thấp thoáng trên
trời.
--------------
Tiếp p3a: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2012/10/song-ong-em-em-phan-3a-mikhail-solokhov.html
--------------
Tiếp p3a: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2012/10/song-ong-em-em-phan-3a-mikhail-solokhov.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét