Thứ Năm, 1 tháng 12, 2011

Uống rượu với chồng – Nguyễn Lam Điền


Quanh năm khó nhọc bộn bề
Sớm đi sấp ngửa, tối về đăm chiêu
Ngược xuôi chạy trốn cái nghèo
Bao nhiêu hy vọng thả theo gió trời

Oái oăm là cái sự đời
Có trôi chảy cũng nửa vời đắng cay
Ngồi buồn rót rượu ra say
Chén này nhắm với nỗi này phải không?

Ừ thì đắng nuốt vào lòng
Cay phà vào gió mênh mông quanh mình
Mặc cho thiên hạ rập rình
Ta ngồi đây rót cho mình, cho nhau

Này là bể khổ nguồn đau
Này là đò chật sông sâu chập chờn
Nhấp môi chạm phải nguồn cơn
Gió  ào ạt gió, mây lờn vờn mây

Thì mình cứ rót em say
Tựa vào hơi ấm mà bay một lần
Đất xa, trời tạt xuống gần
Chung chiêng cả mấy mươi lần thế gian...

Nguyễn Lam Điền
(Tên thật tác giả là Nguyễn Thanh Huyền, tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà nội, hiện đang giảng dạy tại trường THPT Nguyễn Trãi, thành phố Hải Dương)
---------------------------
Đặng Văn Sinh

Đọc bài thơ, hẳn là giới mày râu phải ngạc nhiên, bởi từ cổ chí kim, hiếm có người đàn bà ngồi buồn rủ chồng uống rượu. Nhân vật trung tâm của bài thơ hiển nhiên là người vợ,  anh chồng chỉ đóng vai trò thứ yếu, xuất hiện như một cái cớ, thông qua hình tượng chén rượu để người vợ bộc lộ tâm trạng. Ngay từ những câu đầu tiên, người đọc đã thoáng nhận ra, có một cái gì đó bất ổn, mất cân bằng, bị dồn nén quá lâu, luôn có nhu cầu giải phóng. Đây là tâm trạng dằn vặt, u uất của cặp vợ chồng gặp rủi ro sau những tháng năm dài bươn chải kiếm sống. Có điều họ là những người đủ bản lĩnh, hiểu được thế thái nhân tình, âm thầm nhìn đời mà chiêm nghiệm. Thực ra, rượu chỉ là cái cớ, người phụ nữ ấy chắc chả uống được đến nửa chén nhưng bản lĩnh thật đáo để, cương cường, quyết đoán đến mức dám thách thức cả thế gian. Cứ theo văn bản mà xét, hầu hết những câu thơ đều toát lên nỗi ngậm ngùi, ẩn chứa những giọt nước mắt, lúc thì lẳng lặng “nuốt vào lòng” mặc cho dòng đời đưa đẩy, lúc thì như muốn vỡ òa, hiển hiện thành lời cay đắng thậm chí chao chát. Cách vận dụng lớp từ láy, từ ghép ở đây đạt đến hiệu quả bất ngờ làm người đọc không khỏi sửng sốt trước khả năng diễn đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ dân gian thông qua những cấu trúc gần với thành ngữ của tác giả: “Oái oăm là cái sự đời”, “Ừ thì đắng nuốt vào lòng”, “Này là bể khổ nguồn đau / Này là đò chật sông sâu chập chờn”... Đến đây thì chẳng ai còn nghi ngờ tính chất tượng trưng của rượu. Rượu chỉ là một cách nói còn nỗi cay đắng, nghèo hèn mới là có thật.
Tâm trạng người vợ lần lượt được biểu hiện qua những dòng thơ hình dung cuộc nhân sinh đầy bất trắc. Họ phải chống chọi với đủ thứ nguy nan hữu hình và vô hình, không chỉ của Trời, Đất mà mà của cả đồng loại trong cuộc canh tranh khốc liệt. Đó là “bể khổ”, “nguồn đau”, “đò chật”, “sông sâu”, “gió ào ạt”, “mây lờn vờn”... Những lớp từ ấy giàu biểu cảm, đa nghĩa, đa thanh, đọc  nghe như xoáy vào lòng tạo thành nỗi ám ảnh sợ hãi như một thứ định mệnh truyền kiếp. Trong trạng thái “chung chiêng”, nghĩa là nửa tỉnh nửa say, người phụ nữ nhìn thế gian bằng con mắt có chút hơi men nên cảm thấy thứ gì cũng chao đảo, bồng bềnh nhưng cũng là lúc người ta dễ nói thật lòng mình nhất. Tư thế của cặp vợ chồng này là an nhiên tự tại, phong cách thật ngạo nghễ, nhìn thiên hạ nhốn nháo trong guồng quay tạo hóa bằng tâm trạng của một người thua thiệt nhưng có vẻ như không mấy bi quan : “Mặc cho thiên hạ rập rình/ Ta ngồi đây rót cho mình, cho nhau” Rót cái gì? Rót rượu hay rót những nổi chìm của kiếp người? Đến đây ta dễ liên tưởng đến một câu Kiều : “Nỗi lòng nghĩ đến sau này mà kinh” khi mà trước mắt bày ra toàn những “bể khổ”, “nguồn đau”, “đò chật”, “sông sâu” nghe thấp thoáng đâu đây nỗi “đoạn trường” của một nàng Kiều hiện đại.
Về bố cục, bài thơ được chia là hai phần nhưng có sự gián cách. Phần một gồm bốn câu đầu và bốn câu cuối, phần còn lại là mười hai câu giữa, từ “Oái oăm là cái sự đời” đến “Gió ào ạt gió, mây lờn vờn mây”. Phần thứ nhất, bao hàm cả bốn câu cuối như một vĩ thanh, là lục bát hiện đại phát triển từ ca dao, tục ngữ, được hoàn thiện với khả năng phu diễn khá chính xác hoàn cảnh bế tắc gần như không lối thoát của cặp vợ chồng nghèo trên cái nền không gian buồn tẻ, tù túng. Thế nhưng bốn câu cuối lại mở ra cả một chân trời mới đầy chất lãng mạn, bay bổng, hình thành một cảm quan có biên độ giãn nở rộng, không bó chặt như nỗi đoạn trường của nàng Kiều mà ý tứ phóng túng, ngôn ngữ khoáng đạt. Cuộc song ẩm giờ đây đã biến nỗi đau khổ thành vấn đề triết lý nhân sinh. Bằng sự thăng hoa trong tâm tưởng, họ đem số phận, tư cách và cả tình yêu của mình đánh đổi lấy “cả mấy mươi phần thế gian”. Chén rượu tình ở đây hẳn là cay đắng nhưng là “chén đồng” có sức mạnh làm nghiêng vũ trụ. Hơi ấm ở đây chính là nội lực tình yêu, tình nghĩa vợ chồng. Trong men say lãng đãng, mọi thứ dường như đều “chung chiêng”. Chồng say, vợ say, tâm hồn chống chếnh, họ như bay lên tầng trời hạnh phúc. Đó là thứ thiên đường “cả mấy mươi phần thế gian” ở ngay trong cõi nhân gian.
Mười hai câu giữa khác hẳn về mặt thi pháp. Đây là đoạn lục bát mang phong cách tập Kiều mà hồn cốt của nó không gì khác hơn là “nỗi đoạn trường”. Ở đây ta bắt gặp đủ kiểu lập ý, lập tứ, cấu trúc câu, trong đó có cả những câu đanh quánh, riết róng hoặc thâm trầm nghiệt ngã. Một dàn những tổ hợp từ biến hóa như có phép màu rút ra từ thi pháp Truyện Kiều tạo thành các cặp tiểu đối, so sánh, tỷ dụ đẩy cảnh nghèo đến mức lý tưởng làm người đọc sững sờ trước tài “phù phép” của tác giả. Những câu : “Chén này nhắm với nỗi này phải không?”, hoặc : “Này là bể khổ nguồn đau / Này là đò chật sông sâu chập chờn / Nhấp môi chạm phải cơn nguồn / Gió ào ạt gió, mây lờn vờn mây” là sự đóng góp rất đáng kể trong hành trình lục bát. Sự sắc sảo của Nguyễn Lam Điền còn ở chỗ, chị dùng thể loại lục bát tryền thống để tập Kiều mà không bị sa vào thứ văn vần dung tục.
Có thể nói, Uống rượu với chồng là một thành công bất ngờ. Nó tạo được sự hấp dẫn đặc biệt bởi trong đó hàm chứa một triết lý nhân sinh, một quan niệm sống, một thái độ ứng xử bằng những lớp từ giàu sắc thái với nội hàm phong phú. Cặp vợ chồng uống rượu trên một cái nền “chung chiêng”, từ điểm xuất phát ấy, cái tôi nghệ sỹ bình thản hòa vào kiếp người bằng nguồn cảm hứng  tình yêu, dù nhìn thiên hạ bằng con mắt la đà của chén rượu đắng nhưng tâm thức họ lại rất tỉnh. Cũng bởi trạng thái tỉnh trong lúc say ấy mới có được những hình ảnh “đoạn trường thơ” như “sấp ngửa”, “đăm chiêu”, “thiên hạ rập rình”, “đò chật sông sâu”, “đất xa trời tạt xuống gần / Chung chiêng cả mấy mươi phần thế gian”. Đó là những câu chữ có sức nặng được đặt vào đúng ngữ cảnh, thoát khỏi những ràng buộc về cú pháp tạo nên sự đồng điệu tâm hồn.

Đặng Văn Sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét