Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

Cạm Bẫy Người - Chương 3 - Vũ Trọng Phụng


Chương 3 - Đố anh nào bịt mắt được tôi

Trên tường bên kia, cái bàn thờ Thổ công có một chiếc cốc pha lê đã rạn thay bằng bát nhang với hai cái đài mà nước sơn đã lở làm bưng mảnh ván choèn choèn kê lên hai cái xích đông gỗ tạp. Dưới bàn thờ là một bức tranh về xứ Pháp, phô hình một viên tướng cười ngựa bạch trên một chỏm núi, cầm viễn kính chiếu xuống đồng bằng, một cảnh đồng bằng có hàng bao nhiêu binh mã, như một đàn kiến lửa chen chúc nhau trong những lúc tranh nhau đi tha mồi. Bức tranh lồng trong một cái khung sơn kim nhũ trông đã hơi cổ và đã có chỗ bị sứt, để lộ cả thớ gỗ. Giáp ngay với bàn thờ, có một bó chừng sáu xóc tôm khô treo ngay bên cạnh một bộ quần áo bi-da-ma kiểu cuối cùng của hãng Lafayette (1). Lại cách bức tranh và bàn thờ, có thể lấy tay với ngay được, lù lù một tấm ghế ngựa mà dưới gầm có một đôi giày da láng mũi liền, kiểu Richelieu (2), rộng như hai chiếc thuyền thúng bỏ quăng bên cạnh một chiếc chổi xể cùn!
Gian phòng tuy chật hẹp mà ních đầy đồ đạc, cái sang cái hèn lẫn lộn một cách chướng mắt vô cùng này là gian phòng của một người trong làng trếch.
- Xin mời ông xơi tạm chén nước.
- Vâng, xin phép ông.
Người trân trọng lấy hai tay bưng chén nước mời tôi uổng, bác bồi An, chủ nhân gian phòng có cái bài trí kì lạ kể trên, thân thể tuy trông đẫy đà nhưng không đến nỗi thô cho lắm vì được ẩn trong bộ quần áo bảnh bao. Đôi lông mày rậm rạp nằm trên cặp mắt như hai chiếc đòn khiêng. Hai hàm răng trắng nõn như ngà. Bác đã cung kính trao cho tôi cái chén Nhật Bản to bằng cái bát ăn cơm, đầy nước chè Tàu mà tôi chỉ cầm lên, đặt xuống. Cái chén ấy hầu như chưa được ông chủ tắm cho lần nào, dễ đến mấy tháng nay...
- Kìa, mời ông xơi nước kẻo nguội.
Câu mời thứ hai này chẳng đủ phá nổi cái im lặng rất khó chịu, vì ngoài sự chào hỏi ra, chúng tôi chẳng còn biết nói với nhau chuyện gì. Rõ ngộ!
Tôi sở dĩ gặp chuyện này là vì đã nể lời ông ấm B... khi ông nhờ tôi đi hộ vệ đòn Vân Nam cho đàn em của ông, tại phố Hàng Giò.
Độc giả chắc còn nhớ đến người trẻ tuổi ăn mặc ra phái bồi bếp đến toà nhà ở phố Hàng Cá xin “quân sư” phái cho một người cản, mới trưa hôm nay người ấy định bắt mòng trong một canh xì bằng lối đánh giác, nhưng vì mòng của anh ta chưa đến nỗi quých lắm, đã biết cả lối giác mùi lẫn giác bóng nên anh ta mới phải cầu cứu đến cái đòn Vân Nam là kế cuối cùng.
Dưới quyền ông ấm B... không còn một tay sai nào nghỉ việc vào ngày 30 tháng ấy. Anh Ba Mỹ Ký đã được phái đi đánh ở phố Hàng Kèn, ông quân sư mới phải cho phép đàn em hãy còn “non tay” của ông giở đến ngón đòn hiểm độc hơn cả. Thiểu người ngồi cản nhưng may lại vớ được chúng tôi sẵn đấy, sau khi ông Cả Ủn đi rồi, ông ấm bèn tiện việc, ngỏ ỷ tức khắc muốn nhờ một người, hoặc tôi hoặc anh Vân. Anh Vân vì có buổi hẹn với mẻng của anh đúng 6 giờ chiều hôm ẩy, đã từ chối, tôi mới phải nhận lởi. Vì một sự tình cờ, bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi đã thành một tay thợ tập sự trong một xưởng máy của nền “kĩ nghệ bạc bịp”!
Xin thuật lại những câu hỏi, đáp, dặn bảo nó đã ngẫu nhiên khiến ông ấm B... vô tình giảng ngay cho tôi bài học thứ nhất, quên hẳn nền nếp của pho “Bịp Kinh”, chưa kịp: “Dạy rằng con lạy mẹ đây” mà đã vội “Này con thuộc lấy làm lòng...”
- Thế có thật là ông biết đánh xì không?
- Nếu không thì đời nào nhận lời giúp cụ.
- Thế thì may lắm, ông đi hộ vệ hắn giúp tôi là tôi được vững tâm rồi. Trông ông có vẻ thực thà và sang trọng thế này, không còn ai dám ngờ vực gì nữa. Ông sẽ đi với nhà cậu đến xin người cản lúc nãy, tên hắn là Vũ, để hắn đánh đòn Vân Nam . Nguyên con mòng kia đã biết cái lối giác mất rồi thì ta phải đánh đến cái “miếng ngoại quốc” cho nó mất đỡ... Đánh giác có nghĩa là đánh tráo bài có dấu. Còn đánh đòn Vân Nam là đánh tráo bài. Nói thế ông đừng tưởng là lại tráo một cỗ bài có dấu sẵn khác vào bàn đâu. Vũ hắn sẽ có một vài cỗ bài đã xếp sẵn cho thành nước để trong túi, không có một tí ti dấu vết gì cả. Ngồi vào cuộc, ông nên nghe hắn đưa mắt bảo nên ngồi đâu để cản trở cho dễ, cái đó còn tuỳ... Mới vào đầu hãy cử đánh siệng, nghĩa là đánh thật thà đã. Ông rất nên để ý vào lúc hắn khịt mũi hoặc uống ngụm nước súc miệng là lúc sắp đánh tráo bài. Hắn tuy vẫn ngồi xếp bằng tròn, nhưng bàn chân gấp vào dưới đầu gối vẫn có mẩy ngón cặp lấy cỗ bài đã chuồn ở trong túi ra từ lúc nào không biết, phục sẵn... chờ khi khịt mũi xong, tay cầm cỗ bài ở đĩa lên chang đi chang lại thật kĩ rồi, hắn uốn mình chống cái tay có cỗ bài ra đằng sau đùi để khạc, nhổ một cái rồi ngồi quay ngay lại để chia cho làng, là ông phải tìm cách vơ ngay cỗ bài dưới đầu gối hắn cho nhanh để giấu vào địa phận của ông vì... hắn đã đánh tráo rồi đấy! Nhưng khi hắn chưa kịp tráo, nghĩa là giữa lúc hắn quay lại đằng sau định nhổ, khạc thì muốn cho cả làng không ai để ý, không ai trông thấy, ông phải bò nhoài ra trước mặt hắn để với lấy hoặc bao diêm, hoặc cái điếu ở bên kia đi, phía trước mặt ông. Thế là hắn đã đánh xong cái đòn Vân Nam mà ông cũng trọn bổn phận tên lính cản. Đây này, tôi ra hiệu cho ông thấy rõ... thế này đã hiểu chưa?
- Vâng, hiểu lắm rồi.
- Phải, có gì mà chả hiểu !... Đây, ông cầm lấy thiếc, ấy chết, khỉ quá! Tôi cứ nhầm ông là “bịp lũa” rồi.
- Thế “thiếc”, là cái gì?
Ông ấm móc ví đưa cho tôi ba cái giấy bạc năm đồng, cười mà rằng:
- Thiếc là cái này!
- Sao gọi là thiếc?
- Vì nó là cái “mô tách ních” (3) của làng b... Thể tôi thử hỏi ông: người thợ có sẵn lò, sẵn mỏ hàn, sẵn axit đấy nhưng không có nổi mẩu thiếc thì còn hàn nổi đồ đạc gì cho ai?
“Thiếc”, chữ ấy ngoài những nghĩa đã có của nó, còn là tiền lưng vốn của bọn cờ bạc bịp, - tôi xin các nhà học giả nước ta để ý đến chữ ấy để chua thêm nghĩa cho nó, trong bộ Việt Nam tự điển sẽ xuất bản đủ bộ sau nay.
- Xin mời ngài xơi thuốc.
Tôi đã ngồi cùng xe với bác kí Vũ - hay là bác bồi Vũ - đến toà nhà Tây ở phố Hàng Giò, rón rén bước qua cái sân rộng rồi lẻn vào ngồi trong căn phòng của người bồi ông chủ toà nhà ấy.
Bác kí Vũ đã giới thiệu tôi là quan tham với bác bồi An, chủ cái phòng này, trước mặt một ông đã đứng tuổi, nửa tỉnh nửa quê, chú họ bác bồi An, rồi bác lôi ngay con mòng ấy đi xe lên tận Hàng Ngang mua một cỗ xì mới.
Lúc tôi để chân vào căn phòng này, cái đồng hồ trên bàn phô ra đôi kim kéo một vạch thẳng từ trên trời xuống đất. Đến lúc bác bồi An mời tôi xơi thuốc, trước sau đã được nửa giờ. Trong nửa giờ, ngoài sự mời nước, mời thuốc, chúng tôi chỉ mong vào tiếng tí tách của cái đồng hồ phá hộ cái không khí im lặng, khó chịu, nặng nề mà không thấy ăn thua.
Vả lại ích gì mà chuyện. Đã “biết rõ” nhau như chúng tôi rồi, tưởng chẳng cần nói gì là hơn. Tôi đến đây, ngoài việc đánh bạc còn có việc gì, bác bồi An đã thừa biết. Mà sao tình của bác đối với ông chú họ bác nó ra sao, nhờ kí Vũ, tôi cũng đã rõ cả rồi. “Tri kỉ” gặp nhau, không cần nói, cũng đủ hiểu nhau...
Kim đồng hồ cứ việc chạy với thời gian.
Sau cùng, đó là bác An phải tự phá cái vẻ ngượng kín đáo, im lặng giữa hai chủng tôi:
- Gớm! Từ đây lên phổ Hàng Ngang mà các ông ấy đi lâu thế! Thưa ông, thế chốc nữa ngồi vào cuộc, hai ông sẽ làm ăn như thế nào?
- Thế ông Vũ chưa dặn ông ư?
- Mới dặn qua loa thôi! Dặn rằng tôi cử việc ngồi đánh như thường, đừng có tò mò để ý đến bác ta quá mà ông cụ biết thì lộ. Với lại, xem ý lúc nào bác Vũ khai chiến nặng dùi với ông cụ thì tôi nên bỏ dở, mặc cho hai người họ tố với nhau.
- Thế là đủ rồi
- Tôi không cần... thi thố gì nữa?
- Cái thi thố, ông cứ để mặc về phần chúng tôi. Nhưng ông cụ ấy đã là tay thạo trong làng chơi chưa thì ông cho tôi biết rõ.
- Cái thạo thì chắc cũng có thạo vì ông cụ ấy đã... bán mất ngót chục mẫu ruộng vì đánh bạc rồi. Ông cụ ấy là một ông chú họ tôi, trước kia được nhờ vả thầy tôi nhiều lắm, từ khi khá giả lại vô ơn, đã không cưu mang lại còn rỉa cả đến cháu thì... ông ấy đã muốn chết cho ông ấy chết chứ... tôi cần gì.
- Thế ông cụ có sộp không?
- Trong lưng giắt đến ba, bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con giai đang ốm thập tử nhất sinh đấy... Đi cân thuốc cho con mà thế đấy! Nằm chờ ăn chực đã ba hôm ở đây để đợi đánh xì ! Ông bảo thế không thịt thì có dại không? Mình không xơi thì cũng đến lượt chán vạn những thằng khác chúng nỏ cũng xơi !...
Chỉ nghe cái giọng ấy, tôi đủ lượng nổi lòng bác An căm tức ông chú họ đến thế nào rồi.
Nếu những lởi bác An vừa nói mà đúng sự thực thì lòng căm hờn kia cũng chính đáng lắm. Chúng tôi gặp được bác An ở gian phòng này cũng như là những đạo binh của Nhật hoàng sang Mãn Châu mà gặp được phế đế Phổ Nghi (4). Có “nội công”, hẳn là chúng tôi dễ thành việc.

*  *  *

- Đây là cỗ bài mới do chủng tôi vừa mới đi mua ở phố Hàng Ngang về. Bài mới nguyên, các ngài không sợ dấu vết gì nữa!
Người nói câu ấy không là con chim mồi Vũ, nhưng lại chính là con mòng, ông chú họ bác An.
Ông ta nói xong liền xé lần giấy bóng bọc cỗ bài, để cỗ bài vào đĩa. Ông cầm đĩa giơ vào giữa mặt mọi người phân bua một lần nữa, rồi, chẳng nén nổi những sự thâu lượm được trong khi lăn lóc ở trường đổ bác, ông lại còn dạy chúng tôi, “làm phúc” cho chúng tôi biết được những lối đánh xì gian lận giác bóng và giác mùi.
- Đây này, các ông trông những đường hoa xanh thẫm in trên lưng quân bài màu xanh nhợt. Những tay cờ bạc bịp, muốn đánh dấu bài, họ sẽ dùng một cái bút chì xanh tô cho nhữg đường hoa đạm nét thêm một ít, tuỳ theo những quân: tây, đầm, trếch, hoặc sập, cẩu, bạt, thất, xì... Mỗi hàng có dấu riêng, hoặc vào góc quân bài, hoặc vào giữa, hoặc xế xế vào một bên, hoặc một vết dài dọc, hoặc một vết ngắn ngang, hoặc đám rêu vuông, hoặc đám rêu hình mặt trăng lưỡi liềm! Tô chì xong, họ lại lấy phấn trắng mà xoa lên trên quân bài cho dấu nhạt đi để khỏi có người nhận thấy. Họ làm như thế có nghĩa là giác mùi. Còn lối giác bóng nữa, lối này mới thật nguy hiểm hơn. Đáng lẽ dùng bút chì, họ lại dùng lòng trắng trứng gà pha với phèn chua kia! Họ lấy bút ta mới, chấm vào thứ nước hoá học ấy rồi tô vào lưng quân bài. Dưới ánh sáng đèn, lưng quân bài sẽ để ta hơi thấy những chấm sáng bóng. Ác nhất là khi tay bịp rút thì chỉ tay bịp mới thấy bóng, chứ xoay đĩa đi thì làng đố người nào mà nhận được ra! Muốn khám phá cho ra, thì phải để nghiêng quân bài, chứ để thẳng vào mắt mình thì vạn kiếp mình cũng không biết được. Nhưng đối với tôi thì đừng ông nào giở ngón này nọ... Tôi đã thạo quá đi mất rồi! Đố anh nào bịt mắt được tôi!
Ông nửa quê nửa tỉnh nói đến đấy, vênh vênh cái mặt, ra vẻ khinh đời. Kí Vũ, bồi An và tôi, cả ba đã phải đóng những vai kịch dớ dẩn.
Rồi chúng tôi ngồi vào cuộc, nào láng, nào tố, nào cằn tố, đánh với cái vẻ “ngậm miệng ăn tiền” của bồi An, đánh với cái “thực thà ngạt mũi” của kí Vũ, đánh với cái “thực thà sang trọng” của tôi, đánh với cái “thạo ra phết” của con mòng. Trong một giờ đồng hồ thua thua được được bất phân thắng bại. Tôi mong mãi đến lúc kí Vũ uống nước, chống tay quay ra sau lưng súc miệng, nhổ xuống thềm. Tôi thong thả bò nhoài ra:
- Bác An, đưa giùm tôi cái... điếu.
Rồi tôi vơ lấy cỗ bài đã thấy ở sau đùi kí Vũ, tay cầm sẵn gói thuốc, làm như bỏ nó vào túi, khoan thai quệt diêm kéo điếu thuốc lào. Cỗ bài đã chang thật kĩ trước khi mình nhổ nước rồi, quay lại, kí Vũ chỉ việc chia tự nhiên. Lớp đầu, tôi được quân trếch, bồi An quân đầm, kí Vũ quân tây với ông “thạo” quân xì. Dện quân sau lớp tây, tôi với bác An bỏ dở, mặc cho hai bên cắn tố với nhau.
Trống ngực tôi thấy rung lên thình thình.
Mòng có bao nhiêu tiền đã quăng ra tố hết! Lát đến quân tây, ông kia được ba xì, nhưng kí Vũ được những bốn tây! Kí Vũ ung dung vơ đống bạc giấy tới ngót bốn mươi đồng.
Lần này thì đến lượt bác bồi An ngẫu nhiên bò nhoài ra:
- “Ông tham”, ném giùm tôi cái điếu.

*  *  *

Buổi sáng hôm sau, qua phố Hàng Lọng, tôi gặp bác An tiễn chân ông chú của bác ra tàu. Ông chú bác An rũ rượi người ra như con chim bị đạn. Tôi đi bên này đường nên không ai trông thấy, chờ đến khi bác ta từ ga trở xuống, tôi mới lại gần...
- Kìa, ông tham!
- Vâng, tôi đang tìm ông, đưa ông chỗ này cho phải đạo.
Tôi đưa ra chục bạc. Bác An mừng cuống quít, vồ lẩy tập giấy bạc mà rằng:
- Rõ khổ! Sáng hôm nay tôi chạy long cả tóc gáy mới vay nổi đồng bạc cho ông lão về tàu. Xin cảm ơn ông.
- Ông lão sau có nói gì không?
- Chả nói gì cả. Ông ấy gặp cảnh cay như thế là sự rất thường !
- Thế còn con giai ông ta?
- “Ốm no thì bò dậy” vậy... Thôi, chẳng qua là số nó chết, nó có vô phúc thì mới sinh vào làm con lão ta !...
Một hồi còi tàu rúc lên vang giời, xen lẫn với nhừng tiếng ánh xe nghiến trên đường sắt tưởng như lay chuyển cả phố Hàng Cỏ.
Tôi bắt tay bác An rồi gọi xe quay đi.
Nhân dịp này, tôi tình cờ được chục bạc “bổng”.
Nhưng khi nghĩ đến người con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi nghĩ đến ông bố vô lương tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình như cũng bốc hoả lên vậy, dù chẳng giống với toa xe phun khói lúc rời sân ga...
--------------
Chú thích
1- Hãng bán quần áo nổi tiếng ở Paris .
2- Giày gót thấp, có dây buộc.
3- Tiếng Pháp, mot technique nghĩa là từ chuyên môn, ngày nay gọi là thuật ngữ.
4- Hoàng đế cuối cùng của nhà Mãn Thanh, bị Cách mạng Tân Hợi (1911) đánh đỗ về sau được Nhật dùng làm vua bù nhìn Mãn Châu quốc do Nhật dựng lên ở đông bắc Trung Quốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét