Cơm Thầy Cơm Cô
Tác giả: Vũ Trọng Phụng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 01-2018
Chương 1
Đêm Ấy, Tại Hàng Cơm
Đêm Ấy, Tại Hàng Cơm
Tôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố
nào làm gì. Các ngài chỉ cần biết rằng một hàng cơm như nghìn vạn hàng cơm
khác, nghĩa là khi ta mới bước chân vào thì bổn phận ta là lập tức thấy buồn
nôn buồn ọe. Nó là mùi cá mè, mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi lòng lợn, lòng
bò, mùi me chua, mùi dưa khú... Thôi thì đủ một trăm nghìn thứ mùi khó chịu mà
lạ nhất là nó không hề bận đến hai lỗ mũi của bà chủ luôn luôn nắm trong tay
cái quạt nan, cởi trần trùng trục và thỉnh thoảng lại cao hứng vén quần lên đến
bẹn mà gãi sồn sột, tự nhiên như đàn ông.
Lúc ấy đã khuya lắm rồi.
Một mụ già làm nghề đưa người đưa tôi đến
chỗ này mà bảo bà chủ: “Bà cho anh ấy ngủ đây vài tối, bao giờ anh ấy có việc
làm, tôi xin đưa tiền trọ”, thì bà chủ chẳng buồn nhìn tôi nữa, đập một con muỗi
ở cổ đến bốp một cái, gãi vung lên một hồi nữa rồi mới chọc chọc cái giá quạt về
phía sau lưng, ra ý bảo tôi cứ việc vào trong kia mà nằm. Trước khi ra đi, mụ
già lại dặn tôi:
- Ngày mai nhớ ra ngã ba cho sớm đấy!
- Vâng ạ!
Tôi đáp xong, rón rén lần vào phía trong.
Thật vậy chân tôi chưa bao giờ phải dẫm lên một lớp bùn quánh và nhớp nháp đến
như thế. Đến chỗ mấy cái giường cách nhau mỗi giường một manh cót thì tôi không
biết nên đặt lưng vào giường nào, vì giường nào cũng đã thấy đầy những người là
người, nằm ngổn nằm ngang...Tôi đương bỡ ngỡ thì thấy bà chủ hàng cơm quát:
- Thằng Hai đâu! Bảo nó lên sân gác, chỗ những
đứa ở ấy mà nằm!
Rồi thì một anh chàng chạy ra dắt tôi qua một
cái sân, đến một cái thang tre mà bảo:
- Lên đây.
Tôi theo lời, leo thang. Lên đến nơi thì đó
là một gian gác cũng khá rộng. Trên mặt sàn chỉ có mấy cái chiếu, mà tường thì
vàng ệch những khói ám, từ cái bếp gần ngay đó đưa ra.
Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn ngang như lợn
cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái nằm phía bên này. Bốn thằng nhỏ bằng trạc
tuổi tôi với ba con sen, một con độ lên mười, một con 15, còn một con nữa trông
đã đứng tuổi. Trong khi hai đứa trẻ tuổi nằm hớ hênh vô ý thì con đứng tuổi
khép nép vào một xó tường, khẽ nâng cái quạt nhìn tôi.
Tôi bèn lần đến phía tụi con trai, ngồi xuống
một góc chiếu. Tôi nom trước nom sau không thấy người của hàng cơm mới mạn phép
khêu to ngọn đèn hoa kỳ. Rồi tôi lấy cái ống diêm ra dắt thuốc lào vào cái lỗ
thủng, để lên miệng...
Chợt có đứa nói:
- Tội gì mà hút thế cho nóng! Với lấy cái
điếu cầy ở kia kìa.
Tôi quay cổ lại nhìn thì thằng vừa nói đã
ngồi nhỏm lên chạy ra tìm điếu. Sau điếu thuốc lào tôi cho nó hút che tàn thì
chúng tôi đã là quen thuộc nhau hẳn hoi. Nó hỏi tôi:
- Trông đằng ấy có vẻ thạo lắm. Chắc đã ở tỉnh
lâu rồi.
Tôi ngửa cổ ra sau lưng lấy oai mà nạt rằng:
- A, cái đó thì đã hẳn!
Chỉ một câu nói đó khiến nó đủ sợ tôi. Vì rằng
từ đó trở đi nó luôn luôn gọi tôi là anh để cho tôi cứ tự nhiên gọi nó là mày.
- Còn mày thì bỡ ngỡ lắm. Mày mới ở nhà quê
ra có phải không?
- Vâng!
- Mày đã đi làm lần nào chưa?
- Đã ngót một tháng ở một nhà phố B... rồi
không ở được phải xin ra.
- Làm sao?
- Nó chửi suốt ngày.
- Mày thì chưa đủ tư cách nếm cơm đâu! Đừng
đứng núi này trông núi nọ mà ông cho có phen chết rã họng!
Mãi đến lúc ấy vẫn còn thấy tiếng người làm
chạy ra chạy vào rộn rịp cả hàng cơm. Bên ngoài người ta đã kỳ cạch lên cửa, vậy
mà bên trong hình như lúc ấy người ta mới bắt đầu xào xáo... Tiếng bát đũa chạm
nhau lạch cạch, tiếng nước giội xuống sân ào ào, tiếng mỡ nhảy trong xanh ran cả
tai. Có lẽ những gia nhân của hàng cơm không biết phân biệt đêm ngày. Một thằng
hát vang lên cho cả bọn nói bông nói đùa nhau khỏi buồn ngủ.
Tôi lại bảo cái thằng ấy:
- Cứ việc bịt tai lại, chủ nó chửi thì chủ
nó nghe, biết không? Cốt sao giữ lấy việc làm khỏi chết đói là phúc!
Nó chớp mắt sợ hãi rồi sẽ cãi:
- Bốn hào một tháng mà cấm bữa nào được ăn
no, anh bảo một tháng như thế thì “nước mẹ” gì?
Nhưng mà tôi, tôi cần gì lời cãi của nó.
Tôi hãy nói khoác cho nó sợ tôi đã.
- Bao giờ như anh mày đây này, lúc đó hãy đứng
núi này trông núi kia biết chưa?
Nó họa theo:
- Phải, như anh thì tất nhiên đã thạo lắm.
- Chứ lại còn bàn, ra máy chỉ hét một cái
là lấy được hai thùng nước. Mà món ăn nào nấu cũng thạo, cả món ăn ta món ăn
tây...
- Thế sao anh cũng mất việc?
Tôi trừng mắt lườm nó mà rằng:
- Mất việc à? Hai đồng rưỡi lương tháng rồi,
ông đòi thêm năm hào nữa mà không thêm thì ông bỏ đấy!
Nó lè lưỡi tỏ ý kính phục tôi lắm. Mà ngần ấy
điều chỉ cốt để con bé nằm nhìn trộm tôi phải cho tôi là một kiện tướng trong bọn
cơm thầy cơm cô. Tôi đã có cơ thành công trong cuộc “giương vây”, vì từ lúc này
trở đi, con bé cứ mải nhìn tôi, ngắm nghía tôi, “đánh giá” tôi chứ không ngủ.
Nói khoác mãi cũng thất sách, tôi bèn hỏi:
- Thế đằng ấy thích làm cho những nhà thế
nào?
Nó đáp:
- Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà còn
dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình
làm quá sức, đừng đánh mình, chửi mình. Mà cái nhà tôi vừa bỏ thì, khốn nạn, nó
năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình! Người này sai chưa làm xong việc
này, người khác đã lại ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ.
Nó kêu chưa bao giờ nó thấy một nhà nào lại
tồi tệ như thế cả. Thật vậy, đến nó là kẻ phải mang thân đi ở mà nghĩ đến nhà
chủ là thấy phải khinh. Nó chỉ là con nhà bố cu mẹ đĩ thôi cũng không đến nỗi
khốn nạn bao giờ. Thật vậy, nếu những lời nó nói là thật
Sau khi nghe chuyện, tôi phải xếp đặt lại một
cảnh gia đình không ai tưởng tượng là có được, ở giữa đất văn vật ngàn năm...
Nhà có sáu người, ông bố với bà mẹ già, người
con giai cả đi làm tùy phái cho một công sở, cộng thêm hai cô con gái...
Sáu người cùng chung máu mủ hoặc là vợ chồng
mà mỗi bữa mỗi người đều vào bếp thổi một niêu cơm. Lúc ăn người ta tuy ngồi
cùng với nhau, song ai cũng có thức ăn riêng của người ấy. Đại khái ông bố đã
có đĩa chả, bà mẹ đĩa đậu rán, con trai với con dâu: một đĩa xào, các con gái:
bát dưa, bát canh... Người ta tuy cùng ngồi ăn một mâm chung, nếu ai bị sự cám
dỗ mà đưa đũa xâm phạm đến món ăn của người khác thì tức khắc sẽ có cái lườm đến
nổ trời.
Ấy là cái cảnh của nhà ấy bằng vài nét vẽ
phác.
Vậy thì một bữa, khi nàng dâu để phần chồng
một đĩa chả rươi, chẳng may ông bố chồng ăn cơm trước đã đụng đũa vào.
Đi làm về, ông con trai mở lồng bàn thấy
món mỹ vị đã bị thất tiết, bèn quát rầm lên:
- Đứa nào ăn của ông đây? Ông đi làm khó nhọc
mà ông chưa ăn, đứa nào dám ăn trước ông, mau mau khai ra!
Ông bố chạy lại dịu giọng đáp:
- Thưa cậu, tôi đấy ạ. Tôi tưởng chị ấy có
rươi mới thì làm cho tôi nên tôi nhầm, chót nhỡ ăn phải mấy miếng...
Thế thì các ngài có đoán được là ông con
trai nói lại như thế nào không? Muốn để các ngài đoán dễ hơn, tôi xin thưa, thằng
nhỏ kia đã nói với tôi: ông bố thuê gác trong, ông con thuê gác ngoài.
Thôi, các ngài đoán chẳng ra đâu, vì Victor
Hugo cũng chưa hề tưởng tượng được ra một kẻ khốn nạn đến như thế.
Ông con đã nói cho ông bố nghe một câu thâm
thúy như thế này:
- Nhầm,... thằng thuê gác trong, thằng thuê
gác ngoài, mà vợ người ta để phần cơm người ta, mà lại nhầm! Nhầm kể cũng lạ!
Rồi thằng nhỏ khí khái kết luận rằng:
- Tớ nghĩ đi ở mà được chủ hay cũng đẹp mặt,
còn đi ở phải những chủ như thế nhục lắm!
Tôi gật gù đồng ý với nó rồi lại mất thêm
cho nó một điếu thuốc, một que diêm, nhưng lãi ở chỗ được cái cười giòn của con
bé nằm ở góc tường. Cái cười kia xui tôi có gan cầm đèn soi vào tận mặt nó.
Chương 2
Muốn Bán Mười Sáu Người
Muốn Bán Mười Sáu Người
Nếu có những chữ này kẻ thật đẹp vào một
cái bảng để trước chỗ chúng tôi ngồi có lẽ những người đi đường mới thèm để ý
và chúng tôi mới thoát khỏi nạn ngồi giơ mặt cho ruồi bâu. Theo lời mụ làm nghề
đưa người ở, tôi đã ra góc phố Amiral Courbet từ 7 giờ. Thoạt đầu chỉ có bọn bẩy
đứa chúng tôi ở hàng cơm ra. Về sau, cứ mỗi lúc lại thấy một vài đứa nữa, không
biết từ đâu mà chui ra, dễ ở trên cao rơi xuống cũng chưa biết chừng, cũng đến
họp ở ngã tư này, như ruồi thấy mùi mật vậy. Vì chưng tôi không cần có việc nên
tôi thản nhiên được mà nhìn bọn người đến tranh cơm cướp áo nhau trong bọn họ.
Còn cái thằng quít đã thức suốt đêm với tôi hôm qua ở hàng cơm thì mỗi lúc thấy
một ai, bất cứ đực hay cái, đến giữ chỗ, là lại càu nhàu:
- Giời ơi! Lại cứ thêm thêm mãi thì bao giờ
cho tôi mới có việc đây!
Thật vậy, bất cứ ở bực thang nào trong xã hội,
một kẻ đồng nghiệp cũng là một kẻ đáng ghét. Mụ vú già cũng cấm cảu chửi một
câu bâng quơ:
- Tiên nhân nhà nó ra! Cứ ùn mãi người lên
thế này!
Cả đám người ấy ngồi tản mạn thành từng tốp
nho nhỏ. Trẻ với trẻ, già với già, đàn bà với đàn bà, con trai với con trai. Mà
mụ đưa người thì không ngồi, chỉ đi đi lại lại, nhìn người này, nhìn người nọ
như một viên võ quan lúc điểm binh và mấp máy cái mồm, không hiểu là đếm hay là
đánh giá những kẻ chịu lụy mụ. Người ta nói chuyện rì rầm huyên thuyên lên, cái
đó đã cố nhiên. Người ta lại chửi nhau cho vui, và bắt chấy cho nhau cắn đỡ
đói.
Tôi thấy mụ trùm ế hàng mà tôi lo cho bọn
khốn nạn kia. Còn chính mụ, mụ lại ra ý sung sướng, tôi chưa hiểu vì lẽ gì. Rồi
tôi nghĩ đến bọn thất nghiệp ở Cảng, hẹn nhau một chỗ nhất định, họp đông hơn
đám biểu tình. Đằng này, Hà thành không có sự tổ chức, đám dân hạ lưu chia nhau
ra khắp các phố, thành thử những người lịch sự tưởng Hà thành lịch sự, mà các
nhà xã hội học - cũng tưởng là Hà thành không có chuyện gì bi thương...
Chính ra, nó rất là thương tâm...
Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng
khô cỏ héo để đến đây chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm
cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực
vào nhà Hỏa lò và một bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm!
Muốn bán mười sáu người!
Cả buổi sáng hôm nay không có một khách
hàng nào muốn mua.
Vậy 16 kẻ kia đáng giá như thế nào? Đó là tại
bán đắt nên ế hàng hay là bán rẻ mà cũng vẫn ế?
Chương 3
Cái Giá Trị Làm Người
Cái Giá Trị Làm Người
... Nghĩa là có khi không bằng giá súc vật.
Thật vậy, tôi thấy vài con chó còn được chủ mua thịt bò cho ăn. Có khi con chó
mỗi tháng khiến chủ tốn kém hơn một đứa tôi tớ trong nhà.
Mười sáu người đủ hàng lớn bé, trẻ già này,
mỗi người chỉ cầu như một con chó, nhiều khi kém một con chó, mà lại còn đem
chân tay ra làm nhiều việc có ích, rất nặng nhọc, mà vẫn không kiếm được việc.
Tôi chỉ bọn trẻ, trai và gái chưa qua 12 tuổi
và hỏi mụ già:
- Cái bọn này thì bà định kiếm cho chúng mỗi
tháng độ bao nhiêu công?
Mụ già khinh khỉnh nhìn tôi từ đầu đến chân
rồi quay đi chỗ khác. Mãi mới đáp:
- Thời buổi này, bọn nhãi nhép ấy cứ được
người ta mượn cơm không thôi là đã phúc!
- Thế thì tiền quà của bà chắc chả mấy...
- Cái đó đã hẳn! Nhưng mà được năm xu một
hào thì cũng đủ. Rẻ còn hơn ngồi không...
Tôi chỉ cái bọn thằng nhỏ bằng loạt tuổi
tôi mà hỏi:
- Thế bọn này?
- Đứa năm hào, đứa ba hào...
- Thế mấy bà lão định ở vú già, đang ngồi
ăn ngô gốc cây kia kìa?
- Cũng quanh quẩn đâu vào cái giá ấy.
Tôi chỉ vào một người đàn bà đi ở vú mà hỏi:
- Thế cô vú em kia?
Mụ ấy đổi giọng đáp:
- A, cái con mẹ ấy thì phải tìm cho nó chỗ
ít nhất cũng hai đồng bạc công mới được! Mà tiền quà thì ít nhất cũng phải đòi
một đồng! Nó sạch sẽ lắm! Sữa tốt hạng nhất đấy.
Lúc này, mụ ngó ra phía xa rồi về hè ngồi.
Một lát sau thấy một bà già đã đứng tuổi, áo the trắng, hoa tai to đến vẫy mụ:
- Này u! Con vú tháng trước xin phép ra rồi!
Mụ già đưa người như bị cái lò xo nào đẩy
lên kêu:
- Chết chửa! Làm sao thế ạ?
- Chồng nó chết, nó xin về 15 hôm. Tôi phải
cho nó thôi hẳn.
- May quá, con tưởng hay lại có điều tiếng
gì.
Thế là, trước cái tin buồn một người chết,
mụ đã thở dài một cái, ra ý được nhẹ mình nên sung sướng lắm. Bà kia hỏi tiếp:
- Mợ ký nó nhà tôi còn mệt lắm, u có người
nào ngay bây giờ không?
Mụ già làm ra vẻ nghĩ ngợi mãi mới đáp:
- Thưa cụ, đây, có u này đây... Nhưng mà
con đã chót hẹn với cụ Lý con ở dưới kia. Không biết có nên để cho nó về ngay với
cụ không hay là để nó chờ...
Bà kia hớ hênh đáp ngay:
- Thôi, xem có mướn được thì để ngay nó cho
tôi. Mợ ký nó nhà tôi mệt chưa khỏi.
- Bẩm, con nể cụ quá.
- Ôi chà! Bây giờ khối người ra, chả khó
như ngày xưa. Rồi u tìm cho cụ Lý nhà u một người khác cũng được.
- Đứng lên, ra đây mau lên chứ ngồi ngẩn mặt
ra thế à?
Bà kia nhìn người vú từ đầu đến chân, đoạn
gật gù cái đầu mà rằng:
- Ừ, trông cũng sạch sẽ đấy. Cho xem sữa
nào!
Mụ già vội nói ngay:
- Bẩm cụ, ấy ở nhà quê, chị ta là vợ một
ông phó lý kia đấy. Xưa nay chẳng phải chân lấm tay bùn bao giờ!
Vú em vạch yếm để hở cái ngực trắng nõn, vắt
sữa vào lòng một bên bàn tay. Bà kia xem qua loa, kêu:
- Tạm được.
Tức thì mụ già giẫy nẩy người lên mà rằng:
- Cha mẹ ơi! Sữa như thế mà mẹ lại còn bảo
là “tạm được”. Tốt vào hạng nhất rồi đấy mẹ ạ.
Bà kia bĩu môi:
- Phải, hạng nhất đấy!
- Chứ gì, chị ấy mới đẻ con so, xưa nay lại
không phải chân lấm tay bùn bao giờ, lại là vợ ông Phó Lý, chả phải khổ sở như
người khác thì làm gì sữa chả tốt.
- Thế là bao nhiêu?
Người vú em chưa kịp đáp, mụ già đã nói trước:
- Xin cụ cũng cho như cụ Lý con dặn nó...
- Thế là bao nhiêu?
- Ấy cụ Lý con bảo tìm hộ một chị sữa tốt,
sạch sẽ, mỗi tháng độ chừng ba đồng. Ấy con còn bận một tý nên chưa đưa chị ấy
lại cụ Lý con đấy.
Bà đi mướn vú bĩu mồm mà rằng:
- Thôi, tôi cũng trả công cho như con vú
trước, nghĩa là hai đồng.
Tức thì mụ già chắp hai tay vái lấy vái để
như đứng trước một cửa điện nào vậy, rồi quay mặt ra chỗ khác, không đáp.
- Thế nào?
- Lạy mẹ, mẹ cứ trả nó hai đồng chín hào
chín xu xem nó bằng lòng được không?
Phát khùng lên rồi, bà kia phải gắt:
- Thì việc gì đến u đấy nào? U cứ biết cái
phận u, cứ nhận tiền quà thôi có được không, sao lại cứ chõ vào công xá của người
ta thế?
Người vú em lấm lét nhìn mụ già, đoạn khẽ
thưa rằng:
- Lạy cụ, cụ có mượn thì xin cụ cũng cho
công như cụ Lý con dưới kia. thì con sai hẹn mới bõ.
Bà kia đứng thừ người ra hồi lâu rồi quay
gót. Tôi hỏi mụ già:
- Này u, lúc nãy tôi thấy u nói chỉ cần hai
đồng một tháng...
- Ấy thế nhưng mà cái món này bóp được hơn.
Rồi anh xem, thế nào chốc nữa lại chả ra ngay đây bây giờ.
Độ nửa giờ sau, quả nhiên lại thấy bà kia
ra, nói:
- Thôi thì tôi cũng bằng lòng trả cho chị ấy
ba đồng một tháng vậy. Còn về phần u, lúc nào rỗi thì lại mà lấy tiền quà.
Một cách rất khả ố, mụ già gãi gãi đầu một
hồi, rồi cau có nét mặt mà phàn nàn rằng:
- Lạy mẹ, thật nể mẹ quá đi mất! Bây giờ
con lại phải tìm ngay một con vú khác cho cụ Lý con dưới kia đây... Mẹ cứ cho
con xin một nửa trước vậy.
Vì nhận được của bà kia năm hào rồi, mụ già
bảo người vú em kia:
- Thôi cứ theo cụ về nhà, rồi chiều hôm nay
tôi lại lấy nốt tiền quà thì tôi tạt về nhà đem cho cái thúng quần áo... Này, cụ
là người phúc đức, cậu ký, mợ ký cũng là người biết thương người thì u cũng ăn ở
cho có lễ phép, cho nó nên ơn nên nghĩa, phải ngoan ngoãn mà trông nom em, biết
chưa?
Họ chia tay nhau... Mụ đưa người đã thành
công trong cái việc “bóp cổ” người. Cái giá trị làm người, đối với bọn cơm thầy
cơm cô, không phải ở cái sức làm việc của con người, nhưng mà treo trên đầu lưỡi
của con mẹ nặc nô mềm nắn rắn buông và suốt đời không bao giờ biết nói thật.
Một buổi sáng qua như thế cho mãi đến chiều.
Mụ già chỉ “tiêu thụ” được có một chị vú em thôi, nhưng mụ đã được đồng bạc.
Còn 15 người nữa đói thì mụ cần gì, vì chính mụ, mụ có phải đói hộ người khác
đâu. Bọn kia cứ việc bày hàng đầy dẫy ở đầu hè, duỗi dài chân ra, hoặc là xoạc
cẳng ra, quần vén lên đến đùi để mà “khảo cứu” về lông chân loài người, hoặc để
ngủ gật.
Vậy thì tôi phải hỏi đến cái con sen mà tôi
đã hỏi chuyện đêm qua tại hàng cơm. Đứng lên tìm quanh, tôi thấy nó chúi vào một
xó hè, ngốn một mẹt bún chả tướng. Tôi hỏi:
- Gớm, phong lưu lắm nhỉ?
Nó cười một cách ngây thơ và đáp:
- Phép quà anh! Anh tính mới thôi việc có
dăm ngày, làm gì đến nỗi mà lại chả có thể ăn được 3 xu quà!
- Này, cái nhà tớ vừa bỏ ấy mà, nó cần người
mà chưa mướn được ai cả đấy. Đằng ấy có muốn làm thì tớ mách cho.
Nó nhạt nhẽo đáp suông một câu:
- Giã ơn cái bụng tốt của anh lắm.
- Có bằng lòng không thì nói ngay đi, tớ
không nói đùa mà.
Nó vẫn lãnh đạm:
- Chủ nhà có tử tế không?
- Sao lại không?
Nó cười nhạt:
- Tử tế đến nỗi anh phải bỏ việc, tử tế lắm
nhỉ?
Tôi cãi rằng:
- Không, tôi bỏ việc vì một lẽ riêng, chứ
không phải tại chủ đểu.
- Thế à?
Nó hỏi một câu cho mình đỡ ngượng rồi lại
điềm nhiên gục đầu xuống ăn. Thì ra con bé, dầu đương lúc thất nghiệp, cũng không
cần có việc làm! Nó cứ thờ ơ thế thôi!
Tôi quay ra tán với mụ trùm nó:
- Này u, cái chỗ tôi bỏ đi ấy mà, họ đang cần
một con sen đấy. U dắt con bé kia lại nhé? Bằng lòng không thì tôi chỉ chỗ cho.
Chắc nó thì sẽ được người ta bằng lòng.
Mụ già này cũng thờ ơ:
- Thật hay bỡn?
- Thật, chứ sao lại bỡn?
- Người ta cần thì người ta ra đây.
- Nhưng mà dắt nó đến cho nó có việc sớm
ngày nào lợi ngày ấy có hơn không? Chả hơn để nó chết đói mà chờ việc à?
Mụ bĩu ngay cái mồm cho rõ dài:
- Nó đương chết đói ngay đấy!
- Thế nó có cần đi làm không?
- Anh hỏi nó xem!
- Nếu nó cần thì chỗ ấy là tốt nhất!
Mụ gắt lên mà rằng:
- Khỉ lắm, đừng nói nữa, anh thử hỏi nó xem
nó có cần làm không?
Ồ! Lạ! Một đứa đi ở, khi mất việc, lại
không muốn có việc làm! Thế là nghĩa lý gì? Tôi phải biết tường tận mới được.
Chương 4
Cuốn Tiểu Thuyết Của Con Sen Đũi
Trong khi ngồi trước đèn để thuật lại câu
chuyện này, tôi cũng muốn cho mơ màng để cái cuộc giãi bày tâm sự của con sen
có được một chút thi vị. Khốn nạn thay, tên nó lại xấu xí như thế, mà những lời
tâm sự ấy lại được giãi bày trong một phong cảnh chẳng được đẹp mắt, đại để như
bãi bể Đồ Sơn hay con đường Cổ Ngư. Than ôi, chúng tôi chẳng may lại không được
là Đạm Thủy và Tố Tâm, Mộng Hà với Lệ Anh. Thưa các ngài, cái cuộc ve nhau của
chúng tôi lại xảy ra ở một vỉa hè, gần một đống rác, trước sự tấp nập của Hà
Thành về một buổi chiều, nghĩa là trước sự áo xe như nước, áo quần như nêm...
Cái xã hội thượng lưu chẳng bao giờ thèm nhìn đến bọn hạ lưu, nên những việc mà
cái xã hội thượng lưu làm trong sự tối tăm thì bọn cơm thầy cơm cô chúng tôi
dám phơi ngay ra dưới ánh sáng.
Và cặp uyên ương chúng tôi không biết kiểu
cách, vì trong khi nói chuyện, chúng tôi quên khuấy đi mất, không biết là cả
hai đã cứ để ống quần vén lên đến đùi! Bởi thế cho nên lời thú tội của cái Đũi,
tôi có thể tin được là thành thực, mặc dầu sự thú tội ấy không được nói ra
trong một gian nhà thờ uy nghi và thần bí, trước cái vẻ mặt của một ông cố đạo
cay nghiệt mà mỗi cử chỉ đều như biểu hiện một vẻ thiêng liêng... Người “rửa tội”...
tôi, chỉ có cái mặt một thằng nhỏ thất nghiệp.
Cái Đũi đem thân đi ở là vì những sự hủ bại
ở chốn hương thôn. Năm nó lên mười tuổi, bố nó là một bác Nhiêu gai ngạnh trong
làng. Năm lên 12, cái Đũi là con một bác Lý trưởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ
khi ông Lý là ông Lý, thì cũng như từ khi loài người là loài người, của cải của
ông Lý cứ việc từ trong nhà “đội nón ra đi”. Ruộng cả, ao liền của ông Lý bán hết...
sạch sành sanh, cái Đũi phải ra tỉnh đi ở!
- U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy
tôi hiện giờ thì kéo xe! Thật là thân làm tội đời, được cái tiếng hão thì mất
nghiệp, làm khổ con, làm khổ vợ. Ngày nay đi kéo xe, có khi thiếu thuế bị cai
nó đá cho đến lệch mạng mỡ, nhưng mà tôi chả thương, vì có thế mới biết thân, mới
đáng đời.
Cái Đũi nói như thế một cách mát ruột lắm.
Tôi hỏi:
- Thế người làng còn ai gọi là ông Lý nữa
không?
Nó chép miệng mà rằng:
- Ấy, mấy người làng không biết là lên đây
kéo xe, nên mỗi khi thầy tôi về làng, bọn người làng vẫn gọi thầy tôi là ông Lý
cựu kia đấy!
- Đằng ấy nói cho tớ biết, lần đầu tiên đằng
ấy đi ở thì gặp một nhà chủ như thế nào, và đằng ấy đã nghĩ ngợi ra làm sao?
- Ui chao! Khổ tuyệt trần đời anh ạ! Tôi tưởng
lúc ấy tôi chết ngay được!
Bước thứ nhất, cái Đũi vớ ngay phải mẹ chủ
là một me Tây hết duyên về già. Cái Đũi phải ăn đói, làm no và mỗi ngày giặt độ
ba chậu quần áo, trong thơm nức những mùi ô uế. Mỗi ngày độ ba trăm lần, mụ chủ
cái Đũi khi gọi đến đầy tớ là phải gọi cả “tiên sư cha” đầy tớ ra, lấy oai. Mấy
hôm đầu cái Đũi nghĩ đến mẹ, oán giận bố, rồi muốn tự tử...
Nói đến đây, cái Đũi chợt bật cười mà rằng:
- Thế mà chiều nào tôi cũng được đi chơi
mát ở vườn hoa ông Bôn be! Con mẹ chủ tôi thì ăn mặc trông đến nực cười. Chân
thì đi giày đầm, đầu thì để tóc đuôi gà mà quần áo thì là áo khách! Trông thấy
anh Tây đen là con mẹ chủ tôi liếc mắt đưa tình, giở trò gạ gẫm ngay thôi. Nó cứ
bắt tôi lẽo đẽo theo sau, y như là muốn bắt tôi học nghề làm đĩ ấy. Mà cái má
nó đã răn reo, nó lại trát bự phấn khắp cả, thành thử trông như mặt ngoáo ộp,
thế mà cũng có anh bắt nhân ngãi với nó, thì còn ai hiểu lính Tây là hạng người
thế nào? Ấy thế rồi, cha tiên nhân năm đời mười đời nhà nó! Chính nó làm cho
tôi mất tân! Anh ơi, tôi lúc ấy mới 13 tuổi đầu, mà nó nhét giẻ vào mồm tôi, giữ
hai chân tôi cho thằng oẳn cứ việc hiếp lấy hiếp để!
Tôi nhìn kỹ cái Đũi thì mới biết là trông
nó cũng đẹp, cũng có mẽ con người. Trước sự thuật lại một việc bất bình đã xa lắc
xa lơ, tôi cũng thấy nóng cả mặt mày lên như đương trông thấy sự bất bình ấy vậy.
Tôi vội hỏi:
- Thế mà không đi kiện à?
- Nhưng mà về sau nó hết sức dỗ dành tôi, hết
sức dọa nạt tôi, rồi cho tôi hai đồng bạc...
- Đồ khốn nạn chưa! Vì hai đồng bạc mà đến
nỗi...
Cái Đũi xua tay ngăn tôi mà rằng:
- Không, không, không! Anh đừng vội chửi
tôi như thế... Sau khi bị thì tôi nằm liệt như sắp chết mất đến nửa ngày, mà giữa
lúc tôi bị, anh tính cả cái khăn bông tắm nó tọng vào mồm mình thì mình còn kêu
vào đâu? Thành thử sau khi không chịu nhận tiền đền, tôi ra phố kể lể, khóc mếu
với một ông đội xếp... Chưa kịp nói rõ đầu đuôi, nó đã chạy ra đứng án ngữ trước
mặt mình, rồi nó nói tiếng tây với ông đội xếp không biết những gì mà thấy ông ấy
đổi giọng mắng tôi, những là đừng có vu oan giá họa, chứng cớ không có mà đi kiện
láo thì rồi tù mọt gông! Thế là tôi đâm ra sợ, không dám nghĩ đến chuyện lên
bót nữa, đành phải nhận hai đồng bạc tiền đền. Ba hôm sau tôi ra, vì nó quen
mùi, lại bắt tôi tiếp khách nữa. Tiên sư bố nó, thật là giời quả báo, xui nên
nó bị ô tô đâm phải, gãy mẹ nó ngay một cẳng... Anh ạ, tôi cho có giời có ta lắm.
Cái Đũi còn nói mãi về con mẹ chủ khốn nạn ấy
để khen giời là có mắt đấy chứ không mù... Nó kể xấu chủ cũ nó nhiều đến nỗi
khiến tôi mất cả thương hại nó và rồi thấy chối cả tai. Tôi phải yêu cầu nó ngắt
chuyện ấy đi và thuật nốt cho tôi nghe những chuyện công ăn việc làm với bọn chủ
về sau của nó.
Thì ra, sau khi bị cái tai họa của chú oẳn,
con bé lại được lợi trông thấy vì hiểu biết sự đời, đến nỗi một cô gái quê hiền
lành mà trở nên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm. Than ôi! Ta đi
hiếp dâm người ta là một tội ác đấy ư? Thưa không ạ! Ta hiếp dâm người... ấy thế
mà có khi đã dạy được cho người một bài học về “thực nghiệp” rất hữu ích và rất
chóng có kết quả nữa!
- Về sau, anh ạ, tôi được vào làm con sen ở
một nhà giàu, tôi đã mừng thầm, tưởng rằng vào được cửa một nhà giàu thì hẳn được
người ta đãi mình tử tế. Úi chao ơi, càng những quân giàu có thì lại càng keo bẩn,
chó đểu không ra loài người.
Thoạt đầu, khi đứng thập thò sau lưng một mụ
đưa người, cái Đũi cứ nhìn những tủ chè khảm, câu đối sơn son thếp vàng, lộ bộ,
đôn sứ với chậu sứ, tủ gương với đỉnh đồng mà có lẽ cũng ù cả tai! Bà chủ dõng
dạc kêu cho công mỗi tháng năm hào. Cái Đũi vào làm, lòng mừng khấp khởi...
Một ngày đầu, may không có chuyện gì. Tối
hôm sau, vì ăn cơm khuya, thức ăn lại không đủ dùng nên cái Đũi liền khoắng vào
cái liễn trong gác măng giê, lấy ra
ba miếng thịt vịt. Không ngờ bảnh mắt sáng hôm sau nữa, bà chủ lôi xềnh xệch
cái Đũi ra nơi “xảy ra án mạng” ấy, cốc cho cái Đũi đến ba cái bươu đầu và nói
lịch sự thế này: Tiên nhân cha con ranh
con, chưa chi đã giở ngay những thói trộm cắp! Liễn thịt của bà mười hai miếng
mà dám thọc ngay đũa vào ăn vụng mất ba miếng! Bà đã đếm rồi bà mới cất đi, dễ
mày tưởng bà không biết đấy à!
Từ giờ trở đi thì bà chủ cứ được thể lục
tiên nhân cha con sen ra, bất cứ vì tội gì... Một hôm kia, sau khi cái Đũi đi
mua một hào thịt quay về để lên mâm cơm cho ông chủ thì... Ấy thế là giữa ông
chủ và bà chủ đã xảy ra một cuộc khẩu chiến đại kịch liệt. Ông gọi bà bằng tên
những giống vật, và bà lấy những chổ hiểm trong thân thể người đàn bà ra đặt
danh từ (nom) và trạng từ (adjectif) lại cho cái mặt phúc hậu của
ông. Ông cự bà sao lại không dặn con sen đi mua một hào thịt quay thì phải mua
hai lần, mỗi lần một gói năm xu, để cho nhà hàng phải thêm thì mua được rẻ. Bữa
ấy giận cá chém thớt, ông chủ cũng gọi con sen ra tặng cho mười hai cái bạt
tai, mặc dầu nó chẳng đáng tội tình gì.
Tôi ngắt chuyện nó mà rằng:
- Thế mà đằng ấy không xin ra ngay?
Nó nhìn tôi hồi lâu, ra ý chế nhạo rồi đáp:
- Thoạt đầu, tôi cũng muốn xin ra ngay. Thế
nhưng mà về sau, nghĩ rằng mình cần báo thù. Có báo thù được thì mới hả dạ, nên
tôi cứ nhẫn nhục ở lại làm, anh ạ. Rồi thì là...
Rồi thì là nó trả được thù một cách độc
ác... Bà chủ có cô con gái dậy thì, mới 18 tuổi... lửa tình sớm bốc, lúc nào
cũng lồng lộn... đĩ rạc. Hay ngồi lê để kể chuyện nhảm... tiểu thư cứ bị những
chuyện tiếu lâm của........... thích cho đến phải đi lùng lấy
giai.................... tiểu thư đã có dăm bảy cậu tình nhân......... mối lại.
Thư đi từ lại, cứ mỗi lá thư, cái Đũi lại được một hào, ăn quà mỏi cả răng mà vẫn
không tiêu hết xu.
Chưa phải chỉ có thế thôi...
Bà chủ còn cậu con trai tuổi mới 12 mà
trong cặp sách đi nhà trường lúc nào cũng đầy những ảnh dâm dục. Biết thế, cái
Đũi cứ rình những lúc đêm khuya, cậu mà cầm đèn vào nhà sau, thì trên tấm chõng
tre, hai cái đùi non trắng hếu của con sen lại phô ra như đấu xảo! Từ đêm ấy trở
đi, có đêm cậu đi tiểu đến tám mươi nhăm lần. Đến lần thứ tám mươi sáu, cậu vừa
nhịn thở, rón rén để tay vào một cái đùi non, thì con sen ngồi nhỏm ngay dậy, tỉnh
ngủ một cách bất ngờ. Cậu bịt miệng nó bằng một đồng bạc. Sau khi trả tiền rồi,
mặt cậu như điên, rồi nằm xuống chõng, ôm ghì lấy con sen. Cứ thế mãi! Thế mãi!
Đến đây, cái Đũi hôn tôi một cách rất tình
mà cười, và:
- Đằng ấy ạ, chả nước mẹ gì cả đâu nhé! Tớ
cứ việc khoét xu, mới nửa tháng đã lấy được đến chín đồng. Vậy mà tớ chỉ cho cu
cậu cái bề ngoài mà thôi!
- Thế thì sao lại không ở mãn kiếp ở cái nhà
ấy?
- À, vì tôi chả giấu gì anh nữa, tôi muốn
làm cô đầu.
- Cô đầu?
- Phải, chứ cứ đi ở thì rồi suốt đời tôi chỉ
làm một con sen.
Ôi! Cái sức ám thị của một cuộc hiếp dâm!
Sau này, nếu cái Đũi sẽ nên bà, dễ thường rồi tôi phải đi cảm ơn cái thằng oẳn
đã hiếp nó!
Chương 5
Sự Cám Dỗ Với Mảnh Hồn Ngây Thơ
Đến bữa cơm chiều, cái Đũi và tôi cùng đứng
lên từ giã cái vỉa hè đường Amiral Courbet rồi chia tay nhau. Vì chưng một con
sen thất nghiệp không nhà muốn làm ả đào là tức khắc thành ngay ả đào, tôi đồ
chừng là nó còn đủ thì giờ để nóng lòng sốt ruột chờ đợi cái ngày mà mụ già làm
nghề đưa người tìm thấy một bạn đồng nghiệp của mụ ở phố Mới để mụ này sẽ giao
cái Đũi cho một chủ hát ở Khâm Thiên, hoặc Ngã tư Sở, hoặc Gia Quất, hoặc phủ Từ
Sơn. Thế thì trong những ngày nó ăn chực nằm chờ, thà nó để thời giờ mà tâm sự
hoặc “tri kỷ” với tôi còn vui hơn là ra ngồi lê ngã ba ngã bảy... Tôi đã nói
như thế. Cái Đũi đã mỉm cười gật đầu. Tôi đã hẹn nó ở vườn hoa con Cóc, vắng vẻ,
mát mẻ và tối tăm...
Cho nên tối hôm nay, tôi chưa phải ngồi chờ
đến năm phút thì cái Đũi đã đến. Tôi đương ngồi bó gối trên thành bể cạn nhìn
vào đám tối đen sì nước róc rách chảy xuôi chảy ngược, mà, nhờ ánh sáng một cây
đèn điện ở mãi góc phố lách qua đám lá cây rậm rạp chiếu mờ tỏ, mấy con cóc đồng
với mấy con rồng rêu bám xù xì đầy mình mẩy hiện thành hình những con quái vật
không tên... Chợt bốp một cái vào vai, tôi quay lại thì... cái Đũi. Thấy “người
yêu” đã đến, tôi nắm chặt lấy tay mà véo một cái rõ đau vào người yêu. Nó chỉ
xuýt xoa thôi chứ không phàn nàn gì, rồi ngồi ngay vào lòng tôi. Đám cơm thầy
cơm cô chúng tôi có những cái “tay bắt mặt mừng” nhã nhặn với nhau là như thế, ấy
là kể vào những khi yêu nhau.
Thật vậy, kể đàn bà mà như thế là hư thân,
song sự hư thân của cái Đũi không khiến tôi mếch lòng. Trái lại, và vì lẽ không
thấy tội lỗi nào khác, cái Đũi cứ việc giữ chỗ cho chặt, gần bằng một vị quan lớn
giữ chỗ lúc nghe tin người này, người khác về hưu. Không nói gì cả, tôi chỉ khẽ
hát một cách rất phong tình:
Lấy
ai thì cũng một chồng
Lấy
ta, ta bế ta bồng trên tay
Cái Đũi ngửa cổ ra cười một hồi. Về sau,
vòng hai cánh tay níu lấy cổ tôi, nó khẽ hát đáp:
Cần
câu bằng trúc, lưỡi câu bằng vàng
Anh
giắt mồi ngọc ném sang câu rồng
Người
ta câu bể câu sông
Tôi
nay câu lấy con ông cháu bà.
- Thôi đi, cút đi! Tôi không phải là con
ông cháu bà thì ngồi vào lòng tôi làm gì!
Cái Đũi cứ ngồi yên, lại hát:
Ai ơi
chơi lấy kẻo già
Măng
mọc có lứa, người ta có thì
Chơi
xuân kẻo nữa xuân đi
Cái
già xồng xộc nó thì theo sau.
Rồi nó cười “cục, cục” một hồi như một con
gà mái ghẹ. Cười xong, nó giãy dụa đánh lúc la lúc lắc hai ông chân và cắn một
cái rõ mạnh vào bên vai tôi. Thật là một đứa con gái mà tạo hóa sinh ra để cho
làm ả đào. Chưa làm ả đào, nó đã thạo nghề lẳng lơ đến bậc ấy.
Cái lúc ấy bắt tôi phải chợt nhớ tới những
lúc nó khiêu dâm cậu bé con ông chủ nhà. Nói cho đúng ra, hình như tôi thấy hiện
rõ rệt trước mắt tôi cái cảnh tượng thảm hại, một cậu bé 12 tuổi mà đã hứng
tình trước hai cái đùi trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say. Tôi nghĩ ra rằng
cậu học trò kia mai sau tất rồi hư thân, mà nếu có hư, chính là chỉ vì bố mẹ cậu
ta đã ở ác với một con sen tinh ma quỷ quái. Một thiếu niên đang tuổi học hành,
sau đây biết đâu chả là nhân tài của xã hội, vậy mà cái Đũi đã đẩy cho đến nỗi
chúi mũi chúi tai vào cái vực dâm bôn! Thật vậy, dạy con cho con không hư là bổn
phận của cha mẹ, song biết trông nom con cái thế nào cho cùng? Người ta biết
đâu mà đề phòng nếu con ở trong nhà nguời ta lại là cái Đũi? Vả lại tôi cũng
như ông, ông cũng như bao nhiêu người khác, có lẽ chúng ta cũng đã thay đổi
hàng trăm đứa đầy tớ, những đứa đã sống cạnh nách chúng ta, được ta chửi mắng
thì nhiều và được ta thương thì rất ít, mỗi đứa là một thế giới riêng, bởi lẽ,
ta không để ý ngắm nghía kỹ bọn ấy bao giờ! Cho nên chúng ta muốn làm gì thì
làm...
Ngay trong nhà mình...
Ấy tôi đã nói thế với các ông!
Nhưng mà còn xa tôi mới làm thầy kiện cãi
không công cho hạng người giàu có mà bắt đứa ở đi mua một hào chỉ thịt quay phải
mua làm hai bận. Còn xa tôi mới “làm án” cho một con sen bị đánh gần bỏ mạng vì
không mua bằng hai lần một hào thịt quay cho chủ nhà khi chủ nhà không dặn kỹ
nó, và, do thế báo thù chủ nhà bằng cách dạy đứa con chủ nhà vào cái vực dâm
bôn. Tôi chỉ ghi một việc xảy ra. Nhân thể thì tôi muốn người ta đề phòng, đừng
để cho việc như thế xảy ra lần nữa.
Điều cần nhất của tôi là muốn cho cái Đũi
trở lại với những tính tình trong sạch của cô gái quê ngây thơ. Công toi! Cô
gái quê đã phải làm con sen thì cô gái quê sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị một
chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh nó là một cái thang để cô
gái quê trèo lên cao.
Vì rằng cái Đũi rên rỉ nói:
- Anh phải biết cho tôi mới được chứ! Cái
thân tôi đến nỗi thế này có phải là tại tôi đâu? Bố tôi không làm lý trưởng thì
đời nào tôi phải đi ăn ở với người ta! Tôi không phải đem thân ra làm tôi đòi
thì đời nào đến nỗi tôi bị một thằng oẳn nó hiếp! Mà cái thân tôi đã đến nước
này thì tôi còn giữ gìn làm gì mà chả đâm vào cái nghề hoa nguyệt cho nó bõ dây
oan một phen!
Lúc ấy là lúc đứng đắn, và cảm động. Dùng đến
cái giọng cảm động rồi thì cái Đũi từ giã hai đầu gối của tôi. Trong khoảng tối
tăm, tôi không biết có phải cái Đũi khóc hay không nhưng thấy nó xỉ mũi vào tay
áo nhiều bận lắm.
Cố nhiên lúc ấy, không muốn làm ngắt đoạn sự
xúc cảm buồn rầu nhưng rất nên có của cái Đũi, tôi cũng phải thêu dệt ra cái tiểu
thuyết bi đát của tôi...
Bố tôi xưa kia cũng là một ông có của trong
làng. Một đám cướp xảy ra, quan trên muốn ăn tiền, đã bắt một tên đầu đảng khai
man cho bố tôi. Rồi bố tôi bị đẩy đi tù để cho tôi đương ăn học mà phải bơ vơ.
Cuối cùng tôi phải vào làng cơm thầy cơm cô, mặc dầu về Hán tự tôi biết cũng
khá nhiều.
Rồi tôi cầm lấy hai tay cái Đũi:
- Mình à, chúng ta cũng là con nhà tử tế cả,
sa cơ lỡ bước mới nên nông nỗi này. Thế thì đã biết nhau, đã biết nhau, đã xem
chừng cũng có cơ hợp nhau, sao ta lại không tính cuộc vuông tròn với nhau? Bây
giờ chúng ta hứa với nhau đi, rồi mình đi làm đường mình, tôi cứ việc tôi, bao
giờ để dành được một số tiền thì ta đem góp lại làm một, về làng tậu vài sào đất
giồng rau, ta cùng sống với nhau no đủ, chẳng phải mãn kiếp đi ở thế này.
Tôi chưa nói hết, nó đã lấp liếm:
- Thôi anh ạ, ta đừng nói nữa mà tôi đau
lòng lắm!
- Làm sao?
- Vì tôi không còn là người con gái nguyên
vẹn nữa, chả đáng làm vợ anh.
- Không, tôi không cho cái ấy vào đâu cả.
Miễn có bụng dạ với nhau thì thôi. Mình không còn nguyên vẹn là vì bị hiếp chứ
có phải vì hư thân mất nết gì.
Cái Đũi thở dài mà rằng:
- Trước khi biết anh, tôi cũng có biết một
người giàu sang ở hiệu cao lâu... Tôi tin người ta, ngủ với người ta, rồi thì
không tài nào làm cho người ta lại tin như trước rằng tôi bị hiếp nữa. Cái việc
vợ chồng ở đời, khó lắm anh ạ.
Tôi không nói nữa, biết là nó bịa đặt cho
có một cái cớ để từ chối mà thôi. Tôi làm ra ý ngu ngốc nói:
- Thế không lấy tớ thì bắt nhân ngãi với tớ
làm gì?
Nó cười, nhìn tôi một cách ái ngại mà rằng:
- Thế mới biết anh thật thà! Anh tưởng hễ cứ
bắt nhân ngãi với nhau là phải lấy nhau hay sao? Quých thế!
Tôi lặng yên năm phút để nếm cái “quých” của
mình. Sau tôi hỏi nó:
- Sao đằng ấy thích đi làm nhà trò như thế?
Nó đáp bằng một hồi rõ dài:
- Giời đất cha mẹ ơi, sao lại không thích!
Đang phải hầu hạ người ta mà nhảy tót lên ngang hàng với người ta! Làm nhà trò
thời mới có phen lên làm bà phán, bà ký, chỉ là con sen thì tôi khổ lắm anh ạ!
Tôi muốn cho chúng nó phải mê tôi, yêu tôi, bắt nhân tình với tôi, chiều chuộng
tôi kia. Rồi anh xem, con này mà lên làm nhà tơ thì rồi nhiều thằng khổ.
- Tại sao đằng ấy biết được làm ả đào thì
oai như thế?
- Tôi lại còn lạ. Cái lần ấy lão chủ cũ tôi
ăn khao, có mời cô đầu về nhà, tôi thấy những đứa kia cũng chả đẹp gì mấy mà
cũng được những ông nọ, ông kia đánh giá ra phết, ẵm vào lòng, bá cổ, quàng
vai. Mặt mũi tôi như thế này tưởng cùng là sạch nước cản lắm.
Mấy câu đáp ấy tưởng cũng đủ cắt nghĩa rõ
cho những ông đạo đức vẫn kêu “ôi phong hóa suy đồi” hiểu được rằng vì lẽ gì
con gái bây giờ đua nhau hư.
Tôi muốn tìm trong cái Đũi những dấu vết cũ
của một cô gái nhà quê, ngoan ngoãn, hay làm, có những cái mơ màng bình dị (mặc
dầu là sát mặt đất), nhưng mà là trong sạch, suốt đời không dám nghĩ đến cái bả
vật chất, những vẻ phồn hoa của đời, nhẫn nhục mà sống với một người chồng cục
mịch, và chỉ biết có việc chịu khó làm ăn.
Tôi đã thất bại. Hoàn toàn thất bại.
Từ một cô gái sa cơ mà bị hãm hiếp, tôi chỉ
thấy một đứa hư hỏng giả dối, rất nguy hiểm cho đời.
Ấy thế mà, nếu cái Đũi sau này thành một chị
em, chắc rồi bao nhiêu khách mày râu sẽ đến trước mặt nó mà quỳ, mà dâng trái
tim cho nó. Rồi thì nó sẽ khóc sì sụt qua cái khăn mặt hoa đào, thảm thiết kêu
cứu mọi người cho thoát khỏi trầm luân khổ ải... cho mà xem!
Sương bắt đầu sa, vườn hoa Con Cóc như có một
tấm màn “tuyn” mỏng bao phủ...
Tôi hỏi cái Đũi:
- Về chứ?
Nó đáp:
- Ừ, tôi về!
- Bây giờ mà quay về cái gác hàng cơm ấy
thì chán chết!
- Nếu thế thì đi thuê một cái buồng mà trò
chuyện với nhau.
Cái Đũi đã đi nhanh hơn tôi. Tôi nói ý:
- Nhưng mà tôi không đủ tiền.
Thì nó đáp ngay:
- Thế thì tôi có đủ đây anh ạ. Thôi ta đi
thôi.
Từ đây trở đi, việc chúng tôi làm không thuộc
về bổn phận của một thằng nhỏ hay một con sen. Tôi không cần phải tường thuật.
Nhưng do đó, tôi phải nói rằng tôi đã hiểu
cái tâm lý của những chị nhà thổ bòn xu của khách làng chơi để có tiền dúi cho
nhân tình!
Chương 6
Ánh Sáng Kinh Thành
Đêm hôm sau tôi lại đến hàng cơm.
Lần này đáng lẽ bảo lên cái gác mà tôi đã nằm
một đêm, thì họ quát tháo ầm lên rằng tôi đã mở đường cho điếm, rằng mụ già đưa
người đã quên không lại đưa trả hai xu tiền trọ hộ tôi, rằng hôm nay họ thí cho
tôi cái phúc là vào ngủ ở “đằng sau” để rồi phải bảo cái mụ già kia lại cho bằng
được.
Tôi không cãi lấy nửa lời, mà cứ việc như
không nghe thấy gì cả, cắm đầu rảo bước qua cái bếp rồi đến cái sân rộng rãi mà
họ gọi là “đằng sau”. May sao tôi không phải chỉ có một mình. Hơn một chục người
đã có mặt tại đó. Dưới ánh sáng trăng vằng vặc, họ nằm hoặc ngồi trên những
manh chiếu nát rải trên đống gỗ lim vuông. Thì ra cái sân nhà hàng cơm này lại
ăn thông với một xưởng gỗ nào nữa.
Phong cảnh chốn này không có gì là đẹp.
Chung quanh chỉ có những bức tường cao ngất ngưởng, bẩn thỉu vào bậc nhất với
những mái nhà đen sì sì. Bên tay phải chỗ chúng tôi nằm là một cái chuồng gà,
trước mặt là một cái cống nước đen, đọng hầu như kinh niên, và bên tay trái là
chỗ cho những người tứ xứ trút ra ngoài những cái thừa trong bụng. Tôi lấy làm
tiếc cả những ánh sáng mặt trăng.
Lẫn lộn trong đám hơn chục người này, tôi
thấy ba đứa trẻ đã ngủ cùng với tôi trên gác đêm kia. Trên những cái mặt ngây
thơ không lộ vẻ lo buồn gì cả. Còn những kẻ khác thì thật là những kẻ mà người
ngợm và quần áo đã đủ tiêu biểu cho bao nhiêu nỗi thống khổ của lòai người, từ
khi cuộc đời là cuộc đời.
Một anh chàng đầu trọc lốc, mặt xanh nhớt
nhưng mà béo tốt hẳn hoi, áng chừng vừa ở nhà thương hoặc nhà hỏa lò ra, đương
ngồi lia lưỡi trên một mảnh giấy còn có cái gì đen sì sì, thoạt đầu tôi không
hiểu, nhưng sau tôi đoán ra ngay là sái thuốc phiện. Một anh chàng khác, cái cổ
cao ngỏng dán đến ba bốn lá thuốc cao, đương ngồi ngửa cổ xem thiên văn trên trời.
Một thằng bé thứ ba nữa, thì cứ gãi sồn sột, nằm xuống lại ngồi lên để ho, khạc
và nhổ tung tóe đờm dãi ra xung quanh. Rồi một mụ già ăn mặc sạch sẽ gọn gàng,
nét mặt bần thần, trông vô nghĩa lý, cứ cầm quạt nan phẩy cho người này vài
cái, người kia vài cái, hình như hơn chục người này đều là con cái của mụ vậy.
Còn sáu đứa nữa, con trai cả, cũng quần nâu, áo nâu thì đều ngủ li bì.
Khi tôi nhảy lên đống chiếu thì cả bọn
không ai thèm nhìn đến tôi. Tôi dám chắc không một người nào có trong túi lấy một
xu nên họ mới dám nằm đây, và chắc dạ dày của họ cũng rỗng không như túi họ. Vậy
mà họ cũng được người ta chứa chấp ở đây. Không phải bọn chủ hàng cơm là phúc đức
gì, song chứa chấp thì bọn khố rách áo ôm này có đi xoay xở hoặc hành khất được
xu nào ắt là về cũng phải mua cơm của họ. Nếu lại đi trộm cắp được đồ vật gì, ắt
là bọn chủ hàng sẵn lòng tiêu thụ cho ngay. Chả phải bỗng đâu bọn chủ hàng cơm
cho để trong nhà mình có một nơi giống như viện tế bần.
Mười ba người này, căn cứ vào thần thái họ
và quần áo họ thì không phải bọn người vốn đẻ tại chốn đế đô. Họ đến là vì tại
những nơi thôn quê họ không làm gì cho có đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất
tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi, chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ
chắc mẩm trong bụng họ là sẽ có việc làm vẻ vang... Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi
mưa xin từng đồng chinh, từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội.
Các ngài cứ tưởng tượng hộ Hà Thành. Những
phố và những phố, cái nọ tiếp cái kia. Rồi các ngài tưởng tượng ra một người
nhà quê một trăm phần trăm, rất bỡ ngỡ, bị bỏ lạc giữa một phố. Phố nào cũng có
nhà cửa, vỉa hè, lề đường, nghĩa là phố nào cũng giống phố nào, cho nên đường
hình như cứ mỗi lúc một dài mãi ra. Người nhà quê đã đi, đã đi và đã đi... Rồi
người nhà quê thấy nhọc. Nhưng vì lẽ gì người nhà quê lại dừng bước? Nếu nghỉ
chân tất phải ăn uống cái gì. Không đủ tiền. Thành ra người nhà quê có muốn nằm
nghỉ cũng không được, vì người ta phải trả tiền cả sự nghỉ ngơi nữa.
Đi đã mỏi, vẫn phải đi. Người nhà quê lâu dần
không thể đi được nữa. Khốn nỗi trong một kinh thành, người ta không được phép “không
thể”, cho nên người ta cứ đi... Lang thang hết phố nọ đến phố kia... có khi đi
vòng trở lại mà không biết. Đến ngã ba kia thấy một đám đông người. Trong đám
đông người ấy, người nhà quê thấy phần nhiều đó cũng vốn là những người nhà
quê. Cho nên người nhà quê đứng lại. Một bà già mặt trông sắc sảo, hai tai lại
nặng trĩu một đôi khuyên vàng, trông ra vẻ có “thế lực” lắm, thõng thẹo cái tay
vẫy người nhà quê lại mà nói oang oang như thế này:
- Này, đi đâu mà ngơ ngác thế? Có muốn kiếm
công ăn việc làm không? Lại đây mau lên tôi bảo!
Người nhà quê sung sướng lắm, vì đó là lần
đầu mà người nhà quê thấy một người tỉnh thèm nói với mình. Mà nói gì? Nói những
lời nhân đức, những là kiếm công ăn việc làm cho...! Thế rồi ngày mốt, ngày hai
ăn chực nằm chờ, hoặc sân hàng cơm hoặc hè nhà hát. Cái tiểu thuyết của họ là
như vậy hoặc đại khái như vậy cả. Hà thành có bao nhiêu ngã ba và ngã tư? Có
bao nhiêu chỗ cho bọn cùng dân đăng vào nghề cơm thầy cơm cô? Hàng ngày Hà
thành đã đếm được bao nhiêu tấn kịch như thế?
Mười ba người tại đây, sở dĩ trôi dạt đến
đây, là bởi cũng đã như con thiêu thân bay vào đống lửa, cho nên mới bị quáng mắt
về những ánh sáng của kinh thành.
Mụ chủ hàng cơm đã chứa chấp họ trong những
xó sân. Ban ngày họ ra ngồi bày hàng ở ngã ba, ngã bảy. Trong khi chờ cho có việc,
họ có mấy đồng xu cứ ăn hết dần. Đến cái ngày mà túi cạn mà việc chưa có, mà
không ai thí cho đồng chinh hay bát cháo, tất là họ phải sinh ra liều mạng, có
những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến Dục tình. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt. Trước
khi đi đến cái ấy, hiện giờ thì họ bình tĩnh nằm chờ cái sóng gió là ngày mai.
Và nếu họ mãi mãi không có việc làm thì đó
không phải là lỗi tại trời, không phải tại ông hay tại tôi, mà không phải lỗi tại
ai tất cả! Không lẽ ai ai cũng bắt buộc phải có một đứa tôi tớ trong nhà?
Ánh sáng của kinh thành...
Có lẽ những đêm không trăng không sao, người
nhà quê vùng Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hòa Bình mỗi khi ra sân,
quay về một phía trời, đã thấy có một vùng hào quang sáng rực. Đó là Hà Nội,
nơi nghìn năm văn vật, dân giàu, tiền nhiều của lắm, dễ kiếm sinh nhai... Người
nhà quê cứ việc bỏ làng mà đi! Một ngày kia rồi sẽ được nằm trong một xó sân,
ngửi mùi nước cống, mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn trời, như
đêm nay, có cả ánh sáng trăng vằng vặc.
Chương 7
Bi Hài Kịch
Trong khi tôi đương liên miên nghĩ ngợi về
những người dân quê dại dột như thế, bỗng lại thấy hai con sen nữa cũng tiến đến.
Một đứa mặc váy, cắp một cái thúng nhỏ, tóc còn ngắn, tỏa một cách hỗn loạn xuống
trán và gáy, dáng đi lạch bạch như một con vịt bầu. Còn đứa kia, mặt mũi tuy sạch
sẽ hơn, lại mặc quần hẳn hoi, song tinh thần ngây ngô dại dột vô cùng, trông
cũng không có một chút nào là vẻ đã ở tỉnh thành cả.
Cả hai đứa loay hoay không biết kiếm một chỗ
nào ngồi chứ đừng nói đến nằm. Tôi bảo bà lão già:
- Bà ngồi dẹp vào cho người ta nằm với.
Bà lão vâng lời, dẹp chỗ rồi lại phe phẩy
quạt cho hai đứa mới đến bằng cái tinh thần một người mẹ già nuông con.
Tôi đứng, hai tay gãi sườn, ngắm nghía cái
đống vô nghĩa lý ấy rồi tự hỏi: Ta sẽ làm gì cái bọn này? Tôi không phải đến chỗ
này để nhìn cái cảnh ấy mà thôi. Phải làm thế nào cho bọn ấy nói chuyện với
mình, tin mình, phục mình, mến mình, đừng buồn ngủ nữa, đừng đau khổ nữa, đừng
đói khát nữa...
Tự nhiên tôi thọc tay mân mê mấy hào chỉ
trong túi. Một rá xôi bán ở nhà ngoài, ấy đó, một cách chiếm lòng yêu của kẻ
khác trong thế gian! Khốn thay, nếu như thế, sợ thiên hạ đồn rầm lên, mà rồi
tôi sẽ bị mụ chủ hàng cơm nghi hoặc, thì rồi đến mất đi lại. May sao tôi chợt
nghĩ đến nhà trinh thám đại tài trong truyện Mephisto. Khi vào đến hang hùm tổ
rắn của bọn gian phi là một hàng cơm, muốn khỏi bị nghi ngờ, muốn được yêu mến
nữa, nhà trinh thám chỉ việc ép lòng làm một nhà tài tử bê tha và lãng mạn.
Một bài Nam Ai hay một bài Văn Thiên Tường
thí phí của quá mà không hợp, tôi dùng đến mấy điệu hát chèo là lối thịnh hành
vùng quê.
Tôi vừa làm điệu bộ vừa hát:
Mừng bề trên trường trị, xã tắc muôn năm trường thọ!
Mừng làng ta đất gồm văn võ
Đức anh linh ủng hộ muôn nhà
Nhớ Tống triều niên hiệu Kiến Quang
Đâu đâu đấy đấy giàu sang
Trăm họ nơi nơi no đủ.
Xem trong tích cũ:
Có một chàng tên gọi Trương Viên
Cha mất rồi còn mẹ cao niên
Chàng dốc chí chuyên nghề kinh sử!
Nhà hàn sĩ nghèo nàn cơ khổ
Mà được quan thừa tướng gả con cho!
Chỉ có thế, cả bọn “khán giả” ấy cũng đủ bị
tôi thôi miên. Anh chàng đầu trọc và mặt bủng da chì ngửa cổ hề hề cười như một
chú khách lồi rốn. Thằng cha có cái cổ đầy những lá thuốc cao hết trầm tư mặc
tưởng với trăng sao trên trời, quay lại đăm đăm nhìn tôi. Thằng bé con ho lao hết
ho sù sụ như một ông cụ. Bà lão già cũng ngây người ra như một pho tượng sống,
hết cả phe phẩy quạt cho những kẻ chung quanh.
Tôi nhìn cả bọn ấy một cách đắc chí, rồi đổi
sang giọng nồi niêu:
Trách bởi vì đâu ta học dốt như bò
Bút lông mèo tình chung mà ta ngậm í i
Để cho ho một đời!
Bỏ bút lông, ta thử ngậm bút sắt ta chơi!
Ta thử ngậm bút sắt ta chơi
Bút sắt ta chơi!
Lỗ kia tình chung dù đứt í i mấy ta thời...
Ta thời đóng đanh
Chớ cái cuộc văn chương hồ dễ đã tan tành!
Hồ dễ đã tan tành!!
Đến đây xong thì năm sáu đứa trẻ lần lượt
ngồi nhỏm dậy. Đứa đã dậy rồi lấy chân đạp vào mạng mỡ để đánh thức đứa khác
còn ngủ say, như là khi còn ở nhà với mẹ cha, chúng rủ nhau đi xem chèo vậy.
Hai con sen kia cũng đứng phắt lên, cái con mặc quần đứng sau lưng ôm cổ con bé
mặc váy, y như ở đình làng. Tôi không thấy ngượng nữa, không biết tự mình là dơ
dáng dạng hình nữa. Tôi chỉ thấy tôi oai vệ, sung sướng, đang kiêu ngạo như một
thằng cơm thầy cơm cô một trăm phần trăm.
Tôi bèn cúi khom lưng xuống y như một ông
già mà lại gù, mà đi vòng tròn cái sân, lại hát:
Lão tuy già lụ khụ, nhờ giời cho vẫn khỏe khòe khoe
Vẫn khỏe khòe khoe!!!
Kia như cái gậy gục, cái gậy gạc
Nó có chà, nó có ngạc
Lão bê vác, hục hà hục hạc
Quệch quà quệch quạc
Hạt mưa sa lác đa lác đác
Lão vẫn khoác kè kè cái áo bông!
Đầu tóc lão dù trắng xoá như bông
Kìa thấy các cô con gái má hồng
Lão vẫn, lão vẫn! vẫn còn ư say!
Say, say, say, ngã chổng cò quay!!!
Tôi ngã phệt xuống đất rồi ngồi xếp bằng tròn
gọn một cái. “Cử tọa” rồ lên cười.
Hai con sen cười to hơn cả, cười như những
đồ đĩ dại, cười như đĩa kèn Fou Rire.
Rồi một con, cái con mặt mũi sạch sẽ mà mặc
quần - ồ lạ - cái con sen ngây ngô ấy - ồ lạ - buông hai cánh tay ôm cổ con bạn
nó ra, ngã ngửa người xuống bằng bị giời đánh.
Thưa các ngài, ấy là nó “cảm” tôi.
Nếu tôi nói một cách có khoa học, một cách
có văn chương, thì trong ái tình, cơn xúc động mạnh ấy, sự phải lòng giai ghê gớm
ấy, người ta gọi là “ cái tiếng sét”, “le coup de foudre” vậy.
Một người mê ông đến nỗi ngã lăn đùng ra lại
không đủ khiến ông sung sướng, và, nếu ông có vợ, thì khiến ông về nhà thấy vợ
ông là xấu xí lắm hay sao?
Tôi đứng lên, khoan khoái...
Tôi chờ cho con sen ấy gượng ngồi dậy, để rồi
đỏ mặt mà xâú hổ.
Những người khác cũng thế.
Nhưng con sen ấy ngã xong là nằm cứng đờ...
Như chết!
Một vài người chạy đến xem sao... Tôi cũng
chạy đến. Than ôi, thì ra nó bị động kinh! Hai mắt nó trợn ngược lên, chỉ còn
trông thấy lòng trắng. Chân tay nó run lật bật lên. Rớt dãi của nó ứa ra trắng
xóa cả mồm. Sự cười rộ đã thương tổn đến bộ thần kinh của nó.
Lúc ấy, tôi cũng thấy hoảng hốt, lo sợ.
Chung quanh tôi người ta nói đến những câu: phải gió, ngộ độc, chết, tim đau.
Bà lão già sắp sửa khóc nữa. Tôi cố cắt nghĩa cho họ hiểu, bảo họ yên tâm. Tôi
đuổi mấy thằng nhỏ ít tuổi xuống khỏi đống ván để lấy chỗ cho con sen động kinh
nằm.
- Không việc gì, rồi chốc nữa nó khỏi!
Rồi tôi cũng ngồi xuống cạnh nó, nghĩ ngợi
phân vân.
Cái con sen mặc váy cắt nghĩa:
- Chị ấy từ hôm bị điện giật tới giờ thỉnh
thoảng lại thế.
- Bị điện giật từ bao giờ?
- Độ bốn năm tháng nay.
- Sao mày biết?
- Tôi có họ với chị ấy.
- Thế nó bị điện giật như thế nào?
- Chị ấy phơi quần áo trên bao lan.
- Thế nào?
- Phơi ngay áo ướt vào cái dây điện trước cửa.
Nghe đến đây, tóc gáy tôi dựng đứng lên.
Tôi lại vội hỏi:
- Sao nó lại dại dột thế?
- Chị ấy ở nhà quê mới ra thì biết gì!
- Sao những đứa chủ nó không dặn nó cẩn thận?
- Nào ai biết?
- Thế lúc bị điện giật như thế nào?
Con sen ấy lè lưỡi ra rõ dài một hồi lâu rồi
mới đáp:
- Dây điện hút hai tay chị ấy vào, một nửa
người bị lôi ra ngoài bao lan, còn một nửa thì lủng lẳng ở bên trong. Mãi người
ta mới gỡ được chị ấy ra.
Trong lòng tôi bỗng thấy một mối thương tâm
vô hạn. Tôi quay xuống nhìn mặt con bé khốn nạn ấy rồi thở dài, rồi tôi hỏi:
- Bị bệnh động kinh rồi lại bị chủ thải ra
có phải không?
- Tất nhiên.
- Thế là nó nghỉ việc từ độ ấy đến giờ?
- Không, về sau đến làm cho một nhà khác rồi
mới thôi việc có hai hôm nay.
- Sao lại thôi?
- Chị ấy bưng một cái lọ quý rồi bị động
kinh, ngã đánh vỡ lọ, chủ bắt đền, chị ấy sợ mà bỏ trốn.
- Đồ ngu dại, nếu chủ nó bắt đền thì rồi nó
trừ tiền công chứ gì. Bỏ trốn thế, nó lại đi thưa thì lại rũ tù.
- Cái lọ đáng giá hơn trăm bạc, có làm mọt
xương cũng chả bù nổi. Vả lại nếu làm không công thì không có tiền gửi về quê.
Tôi ngán ngẩm rồi nói bâng quơ:
- Tiên sư cái kiếp đi ở! Thân phận tôi đòi
khổ thật!
Anh chàng đầu trọc nói:
- À, cái ấy thì đã đành!
- Cái nhà bác này! Có phải trong làng cơm
thầy cơm cô chúng ta với nhau không?
- Chính thị!
- Ở tù ra, hay ở mạn ngược ốm về mà trọc lốc
thế?
- Ở “hàng xứ” ra.
- Sao mà phải tù?
- Chủ nó sai mang thuốc phiện lậu, rồi bị
ông Tây bắt, rồi chủ nó không nhận.
- Ai bảo đi ở?!
- Vỡ đê, trôi cả nhà cửa, trâu bò. Vợ nó đi
ra ở vú em rồi không về. Ra tìm mãi không thấy, phải đi xin kéo xe. Gặp vợ rồi
thì chẳng may phải tù.
Đến anh chàng cổ dán thuốc cao:
- À tôi đi ở là vì nhà nghèo.
Thằng bé ho lao đáp:
- Tôi cũng đi ở đã bốn năm nay rồi. Bố chết,
mẹ đi lấy chồng, ở với cô ruột bị chửi nhiều quá, thà đi kiếm lấy mà ăn. Cô tôi
giàu có hẳn hoi, có ba bốn cái nhà gạch. Nhưng mà đây không cần. Tử tế thì nhờ,
không thì thôi.
- Thế bà lão này có đứa nào là cháu ở đây
không?
Bà lão trỏ ba đứa trẻ ngồi cạnh mình mà rằng:
- Ba đứa cháu nội tôi đấy. Dắt cháu ra tìm
bố nó, cũng đi kéo xe nhà. Thấy nói bố nó ở Hà Nội, ra tìm mãi không thấy. Lên
Quan Thánh lại bảo xuống Hàng Bồ, lại Hàng Bồ hỏi lại bảo xuống Bạch Mai...
- Thế bà có bao nhiêu tiền trong mình?
- Còn được sáu xu.
Bà lão thản nhiên nói thế, một cách không
lo sợ gì cả. Mà có lẽ họ thế mới sống. Chỉ người khác là mới biết lo sợ cho họ,
thấy họ là khổ sở đáng thương mà thôi.
Tôi hỏi một thằng bé khác:
- Thằng này, sao mày cũng đi ở?
- Dạ, u tôi bắt thế.
- Còn thằng nhãi ranh này, ai mướn mà cũng
đi ở?
- Úi chao! Tôi mới đi ở có ba tháng thôi mà
nếm cơm có đến tám chín nhà chủ rồi!
- Còn thằng này nữa, mày cũng nghèo à?
- Tôi không biết.
- Bố mày đâu?
- Tôi không biết.
- Mẹ mày đâu?
- Tôi không biết.
- Làng mày ở đâu?
- Tôi có làng bao giờ!
Nó chẳng biết gì cả. Nó chỉ mới độ lên 8 tuổi
là cùng mà thôi.
- Thế mày đã đi ở lần nào chưa?
- Một lần rồi, chủ nhà chê là nhãi con, mướn
năm hôm rồi lại cho ra.
- Thế bao giờ mày đi làm?
- Nào biết, trông ở cụ.
- Cụ nào?
- Cụ đưa người, vẫn ngồi ngã tư.
Đến đây, con sen động kinh đã tỉnh. Nó gượng
ngồi lên khạc nhổ nốt những chỗ nước dãi đọng trong mồm. Rồi nó lại nằm xuống vẻ
mệt nhọc lắm...
Một hồi gót giầy khua lên... mỗi lúc một
to.
Một người lính mật thám, áo the, mũ dạ,
giày tây, ống quần có cặp xe đạp thoăn thoắt bước vào. Một cô tân thời, cổ tay
đầy những vàng, đi theo sau. Người lính kia vào đến chỗ chúng tôi thì bật đèn
to lên, soi rõ vào mặt từng người một. Rồi thấy cô tân thời rú lên:
- Chính nó đây rồi.
Người lính kia hỏi:
- Đứa nào?
- Con bé mặc quần ấy.
Con sen cũng khóc:
- Lạy cô, con trót dại, cô tha cho con.
Người lính quát:
- Đứng lên đi theo tao lập tức!
Cô ả tân thời càu nhàu:
- Hai ba trăm bạc của người ta chứ ít à?
Người lính hỏi:
- Sao cô khai có vài ba đồng?
- Đấy là nó ăn cắp, ngoài ra nó còn đánh vỡ
cái lọ cổ nữa.
Con sen ấy kêu khóc:
- Lạy cô, quả con không ăn cắp một xu nào ạ!
- Im! Câm ngay! Không ăn cắp sao lại đi trốn!
Thế là người lính kia xích tay nó lại. Cô ả
tân thời nói:
- Ông khám cái thúng này xem!
- Không, đây là của tôi.
- Cứ khám.
Lúc ấy tôi đứng dậy, nét mặt chắc đầy những
vẻ bất bình. Người lính kín hỏi tôi:
- Đưa tao xem thẻ.
Tôi ngần ngừ, rồi phải đưa. Người lính xem
thẻ xong (cũng may Sở phát thẻ Hà Nội có cái thuật chụp ảnh cho người nào cũng
như mặt tù) ngẩn người ra, đứng cúi đầu như muốn nhớ lại một điều gì, rồi mới
trả thẻ, sau khi nhìn tôi hai ba lượt.
Không bao giờ tôi quên được cái lúc con sen
động kinh bị xích và một cái tát vào gáy nó của cô ả tân thời.
Khi con sen bị lôi ra thì bọn người nhà
hàng cơm chạy vào xem rồi chạy ra theo.
Tôi ngoảnh lại nhìn bọn cơm thầy cơm cô đằng
sau tôi thì mặt ai cũng tái đi, sợ đến phát khiếp.
Chương 8
Đầy Tớ Nói Xấu Chủ Nhà
Việc một con sen ngu đần bị điện giật, rồi
bị động kinh, rồi đánh vỡ lọ, rồi bị vu cho là ăn cắp, rồi bị bắt nữa, đã đánh
mạnh vào bộ óc suy nghĩ của chúng tôi.
Lúc ấy có lẽ là những phút độc nhất vô nhị
mà cái hạng con ong cái kiến không thấy nản chí trong sự đi kêu oan, nếu thấy bị
oan, mà một kẻ đi hưởng cơm thừa, canh cặn thấy rằng mình cũng là một người, mà
một thằng nhỏ vừa bị chủ đánh bỏ mẹ thì thôi, lúc ra máy nước không còn ước mơ,
không còn tưởng bở mà tự nhiên đập đôi thùng đánh xoảng một cái xuống đường rồi
giơ tay ra mà nói “ nghĩa là...” một cách kệch cỡm nữa.
Và lúc ấy là những lúc đầy tớ nói xấu chủ
nhà.
Đấng sinh ra muôn loài cũng không bảo nổi
những ông lang băm đừng nói khoác, những kẻ mắc bệnh hoa liễu đừng kêu rên, những
anh bồi săm đừng khinh người như rác, ông sư chớ mơ màng thịt chó, và đầy tớ nhịn
nói xấu chủ nhà.
Thằng bé ho lao tả cảnh:
- Lần đầu tôi đi ở đã gặp bước không may.
Lúc mặc cả công, con mẹ chủ đã bằng lòng trả cho tôi mỗi tháng năm hào. Tôi phải
gánh đầy ba bể nước, bổ hết hai mươi tạ củi. Nước gánh đầy bể rồi, củi chất chật
bếp rồi là bà chủ kiếm chuyện chửi mắng suốt ngày cho mình không ở được nữa mà
phải xin thôi. Lúc xin thôi nó kêu rằng “tự nhiên không có chuyện gì” mà giở quẻ
xin thôi thế là quân đi nếm cơm vạn kiếp cũng không khá được! Cố nhiên nó không
trả tiền công. Các bác ạ, các hạng chủ nhà đều như thế đấy. Lúc cần thì nó tìm
người, lúc hết việc nó kiếm chuyện đuổi ra. Mà nó quỵt tiền công hết thẩy!
Tôi hỏi nó xem trong cái đời đi ở của nó,
nó có những ngày sung sướng nào không.
- Chỉ có một lần. Năm ngoái tôi ở với một
nhà vợ chồng trẻ tuổi. Chồng làm ông tham, không hôm nào là chịu về nhà ngủ trước
3 giờ đêm. Mỗi lần đi chơi khuya về, cậu ấy dặn tôi mở cửa xong là thế nào cũng
phải đánh vỡ một cái chén hoặc một cái đĩa. Cậu ấy sai tôi phải làm để tôi có cớ
đánh vỡ. Hễ thấy tôi làm đánh xoảng một cái là cậu ấy quát tháo ầm nhà lên. Ra
oai thế để chặn họng vợ. Bà vợ cuối tháng mà trừ lương thì ông chồng dúi cho mà
bù vào. Về sau bà vợ cũng đâm ra cờ bạc, cũng đi suốt ngày, gần đến lúc chồng
đi làm về, dúi tiền cho tôi đi mua cơm, mua canh và các món xào ở hiệu cao lâu.
Gặp những hôm có giỗ cũng thế, sai đi mua các món ăn hiệu, mua cả xôi, mua cả
chè. Thành thử mình chỉ ngủ suốt ngày, chả phải làm gì cả. Thật làm với hạng chủ
thế mới sướng.
Anh chàng trọc đầu vội cướp lời:
- Thế kể cũng đã sướng nhưng chưa bằng tôi.
Khi ra tỉnh lần đầu, tôi đã được vào làm nhà một lão thầu khoán. Lúc đầu mặc cả
thì là kéo xe, nhưng mà về sau xe cũng chả phải kéo mấy nữa. Chỉ có việc dắt
chó đi rong chơi ngoài đường. Lão mua ba con chó Nhật Bản, mỗi con đáng giá
trăm bạc cả, cho ăn toàn là những thịt bò với súp. Tôi chỉ suốt ngày tắm rửa
cho chó mà thôi. Chỉ khổ một nỗi là thằng chủ có tính gàn, bắt mình lấy giấy bản
chùi đít cho chó.
Thằng nhỏ ho lao hỏi vặn:
- Như thế thì đã nước gì mà sướng?
Anh ta để chúng tôi lấy làm lạ một lúc rồi
nói tiếp:
- Vì ông chủ nuôi chó thì tử tế mà nuôi bố
thì lại không tử tế. Ông cụ già thì ăn mặc quần áo nâu cũng như tôi, mà phải
còm cõm làm thợ vườn suốt ngày. Một lần ông già tai ác ấy chửi tớ, đánh tớ. Tức
quá, tớ nghĩ được một cách: đem cứt chó để lên đầu cái phản dưới bếp là chỗ của
ông cụ ngủ. Thế là lão già trúng kế, tìm ngay xe điếu vụt cả ba con chó. Tớ lên
mách chủ thì lão chủ tớ chửi tiên sư ông cụ, tức là chửi bố. Từ độ ấy trở đi
thì chính tớ cũng chả cần đếm xỉa đến bố ông chủ là gì nữa. Các bác bảo như thế
lại không sung sướng à?
Tôi hỏi:
- Thế sao không ở cái nhà ấy cho đến mãn kiếp?
- Kìa, tôi đã nói là lão chủ sai tôi mang
thuốc phiện lậu rồi không may bị bắt...
- Rồi thì chủ nó không nhận nên phải tù chứ
gì?
- Phải, nếu nó nhận thì nó cũng chết. Chẳng
may cũng là cái số tôi không ra gì, chứ lão chủ ấy thật tử tế với mình quá.
Thằng có cái cổ đầy những thuốc cao góp
chuyện:
- Ừ, bác như thế cũng đã sướng thật, nhưng
chưa bằng tôi. Bây giờ tôi bị bệnh tật nên trông mới xấu xí thế này, chứ hồi mới
đi ở, còn đẹp giai thì tôi còn sướng bằng vạn các bác. Thầy bói nào cũng bảo
tôi có số đào hoa, thực đúng quá. Tôi sướng hơn các bác ở chỗ thỉnh thoảng lại
được bà chủ yêu, hoặc con gái bà chủ...
Rồi nó kể những cái... may mắn của nó một
cách rất tỉ mỉ, bằng một giọng thành thực vô cùng.
...
Trước lúc đó vài giờ đồng hồ, tôi đã phải đứng
tần ngần mà tự hỏi: “Ta sẽ làm gì cái bọn này?”
Bây giờ tôi lại phải tần ngần tự hỏi: “Ta sẽ
làm gì những câu chuyện ấy?”.
Thật vậy, những câu chuyện ấy thật là lạ
lùng, thật là không ai có thể tưởng là có thật được, thật là nhơ bẩn, thật là
chướng tai.
Một thằng nhỏ không biết thêu dệt như một
nhà văn thì chuyện của một thằng nhỏ kể có thể tin là đúng chín mươi phần trăm
sự thực.
Mà đứng trước những sự thực không đáng viết
lên mặt giấy, ta phải hãi hùng kinh ngạc về loài người.
Tiểu thuyết kể những điều mà loài người bảo
là không có thật.
Sự đời, trái lại, lại có những điều mà tiểu
thuyết không dám tin.
Ấy thế rồi tôi đâm ra khinh hết cả loài người,
vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta lại trông rõ được thực trạng cuộc
đời.
Thật vậy, bao nhiêu sách vở của loài người,
cốt để dạy cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả. Những điều người ta dạy
bảo nhau bằng sách? Đó là những điều mơ hồ, những điều lầm lẫn, những sự văn
chương. Văn chương là một sự, sự đời là một sự khác.
Rồi tôi cảm thấy rằng muốn làm một nhà xã hội
học, một nhà tâm lý học, một nhà triết học thì trước hết hãy đăng vào nghề cơm
thầy cơm cô. Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một nhà
học giả, người bồi săm biết hết mọi sự dâm đãng của loài người hơn là một nhà
giải phẫu học. Và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tính tình của loài người
hơn là một nhà văn sĩ tả chân.
Nếu ai muốn chửi tôi về những ý nghĩ nói
trên, thì tôi xin thưa rằng Jean Jacques Rousseau, trước khi thành ra một nhà đại
gia tư tưởng, một bậc đại văn hào, một bậc vĩ nhân, thì đã sống cái đời “cơm thầy
cơm cô”.
Biết đâu chẳng phải vì thế?
Chương 9
Tôi Là Tôi
Thưa các ngài, bây giờ thì tôi lại là tôi.
Bỏ cái áo cánh màu hoa đào và cụt tay, bỏ
cái quần lĩnh thâm, cái kính đen, đôi mái tóc gài tai, tôi đã dùng đến những quần
áo của tôi và nay tôi có thể nói chuyện với các ngài bằng một người... tử tế.
Bây giờ tôi đã có thể đứng về địa vị chủ
nhà xét bọn cơm thầy cơm cô.
Tôi đã có thể bịa những chuyện mà các ngài
có thể tin là thật hoặc tôi nói những chuyện thật mà các ngài cứ tưởng là bịa.
Tôi có thể nói chuyện về vú già nhà tôi, một
người hay mách tôi, hay đánh tôi, lại hay dọa ma, nhưng mà may sao, đã chết từ...
tám đời kia rồi.
Tôi có thể nói chuyện về một thằng nhỏ mà
tôi đã nuôi trong một phút thích khôi hài, và để mỗi khi bạn hữu đến chơi nhà
thì lại gọi nó ra hỏi chỉ vì nó có cái tính nói gọn thon lỏn...
- Mày không có anh chị em à?
- Mỗi!
- Mày còn thầy u chú bác mày không?
- Tiệt!
- Trước khi chết sao thầy u mày không lấy vợ
cho mày?
- Nào có lấy!
Rồi các bạn hữu tôi. anh nào cũng gập đôi
người lại mà cười như xem phim Charlot.
Tôi có thể công kích nó ở chỗ mới ra tỉnh
thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở được vài tháng thì ăn cắp như ranh, ăn bớt như quỷ,
lại đi thông lưng với người gánh nước vo để bữa nào cũng thổi thừa cơm rồi đổ
cơm nguội vào nồi nước gạo.
Tôi có thể đưa cho các ngài đủ những mẫu hạng
về giới cơm thầy cơm cô.
Có những đứa đầy tớ bị chủ nhà đánh chết.
Có những con sen được ông chủ quý hơn vợ.
Có những thằng nhỏ bỏ thuốc độc định giết cả
nhà chủ nhà.
Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho.
Có những vú già quyền hành như mẹ “cậu mợ”.
Có những thằng nhỏ được kỳ lưng cho các tiểu
thư.
Có những anh xe được ngủ giường Hồng kông với
bà chủ.
Có những đứa ở lúc chủ chết khóc như khóc bố
mẹ.
Có những đứa liều mạng cứu chủ.
Có những quân đốt nhà của chủ.
Hoặc dắt cướp vào nhà.
Hoặc thư đi thư lại, làm nghề ma cô.
Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông phán.
Có những con sen bị ông tham hiếp dâm.
Có nhiều!
Anh Lê Tràng Kiều, sau khi xem nốt tập giấy
dày, đã nhăn mặt lại.
Anh ấy bảo tôi:
- Nếu cứ đi mãi như anh thì sẽ lạc đường.
Tôi hỏi:
- Lạc đường?
Anh ta:
- Phải, đây là một thứ “mặt trái đời” của
thời Hoàng Tích Chu.
-...
- Chỉ khác ở chỗ bằng một hình thể mới. Mà
những điều anh tố cáo trong này thì là những sự thực nên kiêng.
- Lời hứa ấy cũng đã đem thực hành rồi.
Đăng tiếp sẽ làm quá lời hứa. Vả lại, khi người ta tự nhận là một nhà văn tả
chân thì nghĩa là người ta đã hứa, nhiều nhiều lắm. Nhưng mà không cứ chỉ trong
một thiên phóng sự mới giữ được lời hứa.
Thế rồi chúng tôi cứ trù trừ mãi về những
đoạn có sự thực mà không biết là có nên kể hay không.
May sao, chúng tôi đã gặp ông Nguyễn Công
Hoan.
Ông ta nói chuyện về văn chương. Ông ta đã
động đến thiên phóng sự “Cơm thầy cơm cô” này.
Ông ta nói đến những quân chủ nhà đểu cáng,
những đứa đày tớ mất dạy.
Trong lúc trò chuyện, tôi nói:
- Kể ra làm một thiên phóng sự về chủ nhà với
đày tớ thì dễ có nhiều tài liệu lắm. Nhất là về chỗ chủ nhà độc ác với đày tớ.
Tôi chưa nói hết, ông Nguyễn Công Hoan đã
cười một cách tinh quái mà nói:
- Mình cứ việc điều tra ngay ở chính mình!
Lúc ấy tôi không biết nói gì nữa với ông
Hoan.
Nhưng bây giờ tôi có thể nói với hết thảy
(các ngài nhớ cho là hết thảy) các độc giả yêu quý của tôi rằng xin các ngài cứ
điều tra ngay các ngài.
Nếu tôi còn bỏ quên thì xin các ngài làm lấy
phóng sự mà đọc...
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét