B.Vaxiliép
Tên anh chưa có trong danh sách
Chương 7
Dẫu sao anh cũng cảm thấy mình có tội - không phải bằng lý
trí mà bằng tình cảm. Đây không phải là ngày chiến đấu đầu tiên của anh, anh hiểu
chiến tranh có quy luật riêng, có đạo lý riêng của nó, và có những điều đáng ra
không thể tha thứ được trong thời bình thì lại rõ ràng trở nên cần thiết trong
chiến tranh. Tuy biết rõ anh không thể cứu được Xannhikốp, song nhất định phải
cứu, đó là một nhiệm vụ đối với anh - không, không phải chỉ đối với anh mà còn
đối với những người đã cử anh vào cuộc tìm kiếm - tức là anh phải cố gắng đi và
anh đã ra đi. Plugiơnhikốp vẫn sợ nếu tìm thấy xác Xannhikốp. Song bọn Đức đã bắt
Xannhikốp, như vậy, khả năng duy nhất còn lại là anh là người hay gặp may, một
người vô tư lự, cho nên anh vẫn có thể sống sót, sẽ xoay xở và có thể chạy
thoát được. Qua những ngày đêm chiến đấu liên tục, anh chàng Xannhikốp nhút
nhát với đôi má rách toạc ấy đã trở thành một chiến sĩ dũng cảm, sắc sảo, mưu
trí và chân thành. Nghĩ vậy, Plugiơnhikốp thở dài nhẹ nhõm:
- Cậu ấy còn sống.
Họ chuyển nhiều vũ khí và đạn dược lên phía trên khe tường vỡ:
cuộc phá vây phải được yểm hộ bằng một hỏa lực mạnh mẽ làm cho kẻ thù kinh ngạc.
Họ không đủ sức để đưa trót lọt tất cả các thứ đến chỗ quân ta, nên Plugiơnhikốp
quyết định quay về ngay đêm ấy. Do đó, anh định hẹn mấy người phụ nữ anh sẽ trở
lại, nhưng càng gần đến lúc phải bò đi, anh lại càng cảm thấy có điều gì gay cấn.
Còn một vấn đề phải giả quyết, mà phải giải quyết ngay tức khắc, nhưng anh
không biết nên như thế nào.
Họ không thể để phụ nữ tham gia phá vây được. Việc này rất
nguy hiểm và khó khăn, ngay cả với những chiến sĩ dày dạn. Nhưng ai nỡ để họ lại
đây, một mình chống chọi với số mệnh. Anh vắt óc tìm lối thóat. Càng suy nghĩ,
anh càng thấy chỉ có một lối thoát duy nhất mà thôi.
- Thím và cô sẽ ở lại đây. - anh tránh cái nhìn của cô gái.
- Ngày mai bọn Đức sẽ ăn trưa vào lúc từ mười bốn giờ đến mười sáu giờ. Tình
hình lúc ấy yên ả, thím và cô sẽ cầm cờ trắng ra hàng.
- Ra hàng à? - Mira hồ nghi hỏi lại, giọng trầm hẳn xuống.
- Ý kiến hay ho gớm! - Thím Khơrixchia bực tức quát to,
không để anh kịp nói thêm. - Ra hàng, ý kiến hay nhỉ! Ai cần một mụ hàng binh
già yếu như tôi? Cả cô gái này nữa? - Thím ôm Mira và kéo sát vào người. - Chân
đã tập tễnh lại chống nạng? Đừng nghĩ vớ vẩn nữa, đồng chí trung úy ạ!
- Tôi không thể đi xa được như thế đâu. - Mira nói qua hơi
thở. Plugiơnhikốp hiểu ngay không phải cô nói tới con đường đến với bọn Đức mà
là nói tới con đường dài bọn Đức sẽ xua cô đi với thân phận một người tù binh.
Anh không biết nói gì nữa, chỉ cúi đầu đứng im, không ra vẻ
đồng ý hay bất đồng ý kiến của mấy người phụ nữ.
- Chà, anh nghĩ thật là hay đấy! - Thím Khơrixchia lại nói
tiếp, giọng sửng sốt, - Quyết định của anh không hợp lý chút nào mặc dù anh là
chỉ huy. Hoàn toàn không đúng chút nào.
- Nhưng thím và cô không thể ở lại đây được. - giọng anh ngập
ngừng. - Vả lại, ban chỉ huy đã hạ lệnh tất cả phụ nữ phải chuyển đi…
- Vì họ gây trở ngại cho các anh nên phải đi! Còn tôi, tôi
cũng sẽ đi nếu tôi cảm thấy mình là gánh nặng. Nhưng lúc này, ngay tại đây, tại
cái nơi mà chúng ta đang đứng này, tôi và Mira đã quấy quả ai nào? Các anh cứ
việc chiến đấu! Chúng tôi có nơi trốn, có lương ăn, chúng tôi không quấy quả ai
cả, chúng tôi ở lại đây cho đến khi quân ta trở về.
Plugiơnhikốp không nói gì nữa. Anh không muốn nhắc đến việc
bọn Đức hằng ngày thông báo về những thành phố mới bị mất, về chiến sự đang diễn
ra gần Mátxcơva và Lêningrat, về những thất bại của Hồng quân. Anh không tin lời
chúng, nhưng lâu lắm rồi, anh cũng không còn nghe thấy tiếng súng của quân ta nữa.
- Cô ấy là một con Do Thái. - Phêđôrotruc bỗng bất thần nói.
- mà lại là con Do Thái thọt nữa, chúng sẽ bắn cô ấy ngay tức khắc.
- Không được gọi thế! - Plugiơnhikốp quát lên. - Chỉ có bọn
Đức mới gọi thế! Đó là cách gọi của bọn phát xít!
- Không phải ở cách gọi. - anh chuẩn úy thở dài. - Tất nhiên
không nên gọi như vậy, nhưng dầu sao Phêđôrotruc vẫn nói đúng, bọn Đức sẽ không
tha người Do Thái.
- Tôi biết! - Plugiơnhikốp ngắt lời. - Tôi hiểu. Thôi được,
thím và cô sẽ ở lại đây. Chưa chừng chúng sẽ rút các đơn vị chiếm pháo đài đi
cũng nên, khi đó thím và cô sẽ có thể chạy thoát. Phải chạy. Bằng cách nào đấy.
Anh quyết định như vậy, nhưng anh không hài lòng với quyết định
ấy. Và càng nghĩ đến điều đó, thâm tâm anh càng cắn rứt nhưng anh cũng không
tìm được cách giải quyết nào khác. Vì vậy, anh cau có hạ lệnh, cau có hứa sẽ trở
về để lấy thêm vũ khí, và cũng cau có lao theo anh chàng Vaxili Vônkốp trầm lặng
vừa được cử đi trinh sát.
Vônkốp là một anh chàng tận tâm trong khi thi hành mệnh lệnh.
Một trong những cái thú của anh là được ngủ, nên đã tranh thủ ngủ trong mọi
lúc. Những giây phút đầu tiên của cuộc chíên tranh đã làm anh kinh hoàng, sợ bị
chôn sống. Anh đã khắc phục được nỗi kinh hoàng ấy, nhưng nó cũng làm cho anh
trầm lặng và thụ động hơn. Anh sẵn lòng tin tưởng vào lớp đàn anh, và sự xuất
hiện bất ngờ của trung úy Plugiơnhikốp đã làm anh thấy nhẹ nhõm hơn. Anh cảm thấy
khó hiểu trước tính tình người chỉ huy gầy còm, rách rưới, bẩn thỉu, và cáu gắt
này, nhưng lại tin chắc từ giờ trở đi, chính người sĩ quan này là người chịu
trách nhiệm về cuộc đời anh - chiến sĩ Vônkốp.
Anh cố gắng làm tất cả những gì được giao, anh lẳng lặng bò
lên trên, vừa quan sát vừa nghe ngóng. Thấy không có gì, anh bắt đầu đặt súng
và đạn cạnh khe tường vỡ.
Giữa lúc ấy có mấy tên xạ thủ súng máy Đức đi ngay gần bên cạnh.
Chúng không phát hiện được Vônkốp, còn anh, tuy thấy chúng, nhưng cũng chẳng
theo dõi xem chúng đi đâu, thậm chí không báo cáo về sự xuất hiện của chúng, vì
cho rằng việc này không thuộc phạm vi được giao. Bọn Đức mải miết đi làm phận sự,
không chú ý đến căn hầm họ nấp, nên con đường họ đi được hoàn toàn tự do. Khi
anh kéo những hòm đạn và những khẩu súng ra khỏi khe tường chật hẹp và cả tổ đã
bò lên trên thì bọn Đức đã đi khuất, Plugiơnhikốp dù hết sức lắng nghe, vẫn
không thấy gì đáng ngờ vực.
Ở đâu đó có tiếng súng nổ, có tiếng bộc phá và pháo sáng bừng
lên, nhưng tại khu trung tâm tan hoang của pháo đài vẫn vắng ngắt.
- Vônkốp, theo tôi! Còn chuẩn úy và trung sĩ đi sau. Tiến
nhanh lên!
Họ lom khom tiến đến chỗ những ngôi nhà đổ nát hiện lên mờ mờ
ở phía xa, nơi quân ta đang trấn giữ, nơi Đênhisich đang chờ chết, nơi anh
trung sĩ chỉ còn ba băng đạn cho cỗ súng tiểu liên. Đột nhiên, một lưỡi lửa trắng
lóa bùng lên trong khu vực đổ nát, tiếp theo là một tiếng nổ rồi tiếng súng máy
rời rạc, khô đanh.
- Chúng nó đánh sập rồi! - Plugiơnhikốp hét lên. - Bọn Đức
đánh sập tường rồi!
Khẩu súng tiểu liên bắn xả về phía có tiếng hét, từng luồng
đạn đỏ rực rách nát bầu trời đen kịt. Vônkốp nằm sấp xuống, anh đánh rơi những
băng đạn tròn, còn Plugiơnhikốp vừa la hét vừa xông thẳng đến trước những đường
đạn đỏ rực, chuẩn úy vội đuổi theo và kéo anh nằm xuống :
- Đứng lại! Khẽ chứ! Đồng chí trung úy! Khẽ chứ, đừng dại dột
như thế!
- Mặc tôi, bỏ ra! Anh em ta đang ở đấy, họ không có đạn và
đang bị thương vong.
- Bỏ ra là thế nào? Anh định chạy đi đâu? Đi đâu?
- Bỏ tôi ra!…
Plugiơnhikốp giãy giụa cố trườn ra khỏi thân hình trẻ trung
và lực lưỡng của chuẩn úy đang ép chặt anh xuống đất. Nhưng Xtêphan Mátvâyêvích
vẫn giữ chặt lấy anh và chỉ buông anh ra khi anh không giãy giụa nữa.
- Chậm rồi, đồng chí trung úy ạ! Chậm mất rồi. Hãy nghe tôi.
- anh ta nói
Cuộc chiến đấu ở khu nhà đổ đã dịu bớt. Lác đác đây đó vẫn
còn tiếng súng máy của bọn Đức nổ từng loạt ngắn - có lẽ chúng bắn vào các xó tối,
hoặc kết liễu những người bảo vệ cuối cùng, nhưng Plugiơnhikốp không nghe thấy
tiếng bắn trả, mặc dù anh cố ý lắng nghe. Khẩu súng đại liên vừa bắn về phía
anh cũng đã im bặt. Plugiơnhikốp hiểu rằng họ đã đến chậm và anh đã không thi
hành được mệnh lệnh cuối cùng.
Vẫn nằm tại chỗ, anh hy vọng được nghe những loạt súng bắn
trả rời rạc. Anh không biết phải làm gì, phải đi đâu và tìm quân mình ở nơi nào
trong lúc này. Anh chuẩn úy im lặng nằm bên cạnh và cũng không biết đi đâu, làm
gì
- Chúng sẽ cắt đứt đường rút của chúng ta. - Phêđôrotruc
hích tay chuẩn úy. - Chúng bắn chết anh ta rồi hay sao?
- Giúp một tay nào.
Plugiơnhikốp không phản đối. Anh lặng lẽ tụt xuống hầm và nằm
bất động. Họ thay nhau thuyết phục, an ủi anh, pha trà cho anh uống, sửa lại chỗ
nằm của anh cho thoải mái hơn. Anh vẫn lầm lỳ giở mình, hết ngồi dậy rồi lại nằm
xuống, anh uống nước họ đưa cho và vẫn câm lặng ngay cả khi cô gái vừa đắp tấm
áo choàng cho anh vừa hỏi:
- Đồng chí trung úy, áo của đồng chí đây. Đồng chí còn nhớ
không?
Phải rồi, đây chính là áo choàng của anh - chiếc áo choàng
sĩ quan còn mới, vừa vặn, có hàng khuy đồng sáng bóng, thẳng tắp. Đấy chính là
cái áo đã làm anh hãnh diện nhưng chưa xỏ tay lần nào. Anh nhận ra cái áo ngay,
nhưng hoàn toàn dửng dưng, không nói gì. Đối với anh, giờ đây nó chẳng còn ý
nghĩa gì nữa.
Anh không biết và cũng không cần biết mình đã nằm đây bao
nhiêu ngày đêm, không nói năng, không cử động và không suy nghĩ. Ngày và đêm,
căn hầm vắng lặng như một nấm mồ, ngày và đêm, cái bóng tối chết chóc cứ lảng vảng
bám chặt, không tài nào chọc thủng nổi sau cái quầng sáng vàng khè đặc khói. Plugiơnhikốp
đăm đăm nhìn vào bóng tối như nhìn vào cõi chết và anh cảm thấy chính mình có lỗi
đã gây ra nó.
Anh kinh ngạc thấy mình đang nhìn rõ tất cả những ai đã che
chở cho anh, họ đã hành động theo một động cơ nào đó chính anh cũng chưa hiểu hết.
Anh càng không muốn tìm hiểu xem vì sao tất cả những con người ấy, những con
người đã chết vì lỗi lầm của anh, lại hành động như vậy. Anh cứ để cho họ diễu
qua trước mắt mình và thản nhiên nhìn họ không vội vã với vẻ chăm chú và nhẫn
tâm.
Anh chần chừ khi từ trong khung cửa sổ hình vòm của nhà thờ
rộ lên từng loạt súng máy. Chần chừ không phải vì bối rối, cũng không phải vì
phải tập hợp lực lượng: đây là cái cửa sổ của anh, và đó là toàn bộ nguyên
nhân. Đây là khung cửa sổ của anh, anh đã cố ý chọn nó ngay trước lúc tấn công,
nhưng lao tới khung cửa sổ này, nơi giáp mặt với cái chết, không phải là anh mà
là anh lính biên phòng cao lớn với khẩu tiểu liên rung bần bật trên tay. Và sau
đấy - khi đã chết - anh ta vẫn tiếp tục chắn đạn cho Plugiơnhikốp, và những
giòng máu đặc sệt của anh ta vẫn tóe vào mặt Plugiơnhikốp như thể nhắc nhở anh.
Rạng sáng, anh chạy ra khỏi khu nhà đổ, để lại anh trung sĩ
đầu quấn đầy băng. Anh trung sĩ nằm lại, ngay giữa khu đổ nát. Anh ta có thể đi
được nhưng đã không đi, không rút lui, và Plugiơnhikốp lúc ấy đành phải chạy đến
khu đổ nát vì ở đấy còn có anh trung sĩ đang nằm lại. Cũng giống như Vlađimia
Đênhisich đã giơ ngực ra bảo vệ anh trong cuộc giáp lá cà ban đêm ở cầu. Cũng
giống như Xannhikốp đã quật ngã tên Đức đúng vào lúc Plugiơnhikốp định đầu
hàng, không hề nghĩ gì đến chuyện kháng cự, đã ngất đi vì sợ hãi, đã khoanh tay
lại. Cũng giống như những người khác đã được anh hứa mang đạn lại nhưng anh đã
không mang tới đúng hẹn.
Anh cứ nằm bất động như vậy trên chiếc ghế dài, mình đắp chiếc
áo capốt mới tinh, uể oải nhai khi người ta cho ăn, uống khi người ta ghé chiếc
ca vào tận miệng. Anh cứ nằm như vậy, câm lặng, không hề đáp lại câu hỏi nào cả.
Và thậm chí cũng không suy nghĩ mà chỉ nhẩm đếm.
Anh còn sống vì có người khác đã chết thay anh. Anh khám phá
ra điều ấy, nhưng lại không hiểu đó là quy luật của chiến tranh. Quy luật thật
đơn giản và không tránh khỏi như cái chết: nếu anh sống sót thì người khác đã
chết thay anh. Nhưng đối với anh, điều đó không trừu tượng mà là sự từng trải của
chính mình, không hẳn chỉ là vấn đề lương tâm mà còn là vấn đề cuộc sống.
- Anh trung úy của chúng ta mất trí rồi. - Phêđôrotruc nói,
không cần biết Plugiơnhikốp có nghe thấy hay không. - Nào, bây giờ chúng mình
phải làm gì đây? Tự chúng mình phải suy nghĩ xem, chuẩn úy ạ.
Chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích không nói gì, nhưng Phêđôrotruc
đã hành động. Trước hết, anh ta bịt luôn cái cửa duy nhất ăn thông lên phía
trên lại. Anh ta chỉ muốn sống chứ không muốn chiến đấu. Anh ta muốn sống thật
lâu, vì ở đây có đủ lương ăn, và lại, nấp dưới hầm này bọn Đức không biết được.
- Anh ấy kiệt sức rồi. - chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích thở
dài. - Trung úy của chúng ta yếu lắm rồi. Thím Khơrixchia, cho anh ấy ăn ít một
thôi.
Thím Khơrixchia vừa cho anh ăn vừa khóc vì thương xót, còn
chuẩn úy Xtêphan Matvâyêvích không tin tưởng chút nào vào công việc anh vừa bảo
thím Khơrixchia, vì anh hiểu rõ trung úy kiệt quệ về tinh thần chứ không phải về
thể chất và chính anh cũng không biết điều cần phải làm lúc này là gì.
Chỉ riêng Mira hiểu rõ phải làm gì. Cô có trách nhiệm đưa
con người này trở về với cuộc sống, làm cho anh lại cử động, lại nói cười. Vì
thế nên cô mới đưa chiếc áo capốt đã bị mọi người lãng quên cho anh. Cũng vì thế
nên cô mới bền bỉ dọn những tảng gạch đổ ở cửa ra vào mà không giải thích gì hết.
- Có kéo tất cả những cái ấy ra làm gì thế? - Phêđêrotruc
càu nhàu. - Có phải cô muốn lấy gì ở dưới ấy không? Phải giữ im lặng chứ.
Cô vẫn lặng lẽ tiếp tục công việc, và đến ngày thứ ba, cô thận
trọng lôi từ đống gạch vỡ ra một cái va li bẩn thỉu và bẹp nát. Chính vì nó mà
cô đã kiên trì, lặng lẽ đào bới ba hôm nay
- Đây rồi! - Cô reo lên hớn hở và xách vali đến gần bàn. -
Em nhớ nó nằm cạnh cửa mà.
- Ra cháu tìm cái này đấy! - Thím Khơrixchia thở dài. - Ồ,
cô cháu gái thân mến ơi, cô đánh mất trái tim không phải lúc rồi.
- Trái tim, như người ta nói, không thích những mệnh lệnh. -
Xtêphan Mátvâyêvích nói. - Lúc này anh ấy cần quên đi tất cả. Thế mà cứ phải nhớ
lại quá nhiều thứ.
- Một cái áo sơ mi sạch sẽ không có hại gì cả, lấy ra cho
anh ấy. - Phêđôrotruc nói. - Mang lại cho anh ấy, còn đứng làm gì đấy, có thể
anh ấy mỉm cười cũng nên, dù sao tôi vẫn nghi ngờ.
Plugiơnhikốp không mỉm cười. Anh vẫn đờ đẫn nhìn những thứ mẹ
anh đã xếp vào đây trước khi lên đường: cái áo lót, bộ quân phục mùa hè và những
tấm ảnh, rồi khép chiếc nắp vali cong cong lại.
- Những thứ này là của anh cả đấy. - Mira nói, giọng êm dịu.
- Của anh đấy.
- Tôi biết.
Anh đáp và quay mặt vào tường.
- Thế đấy. - Phêđôrotruc thở dài. - Giờ thì đúng là hết rồi.
Rồi sẽ chết mất.
Anh ta cau có, giọng gắt gỏng và nguyền rủa. Nhưng không ai
phản ứng lại gì cả.
- Thế nào chuẩn úy? Chúng ta định liệu thế nào đây? Phải quyết
định đi thôi chứ. Nằm trong hầm mồ này hay là sang nơi khác?
- Quyết định gì chứ? - Thím Khơrixchia ngập ngừng hỏi. -
Chúng ta đã quyết định rồi, chúng ta sẽ đợi.
- Đợi gì? - Phêđôrotruc gào lên. - đợi gì? Đợi chết? Đợi mùa
đông? Đợi bọn Đức? Hay gì nữa?
- Đợi Hồng quân. - Mira đáp.
- Hồng quân?… - Phêđôrotruc giễu cợt hỏi lại. - Đồ ngốc!
Kìa, Hồng quân của cô đang nằm bất lực kia kìa! Đã thất bại rồi. Thất bại rồi,
cô hiểu chứ?
Anh ta quát to để mọi người cùng nghe. Và mọi người đều đã
nghe, nhưng không ai nói gì cả. Plugiơnhikốp cũng nghe rõ, nhưng anh vẫn im lặng.
Anh đã quyết định, đã tính toán tất cả, nhưng lúc này, anh kiên nhẫn chờ mọi
người đi ngủ. Anh đã biết thế nào là chờ đợi.
Khi tất cả đều đã lặng yên, chuẩn úy đã ngủ say và bắt đầu
ngáy, hai trong số ba ngọn đèn dầu đã tắt ngấm, Plugiơnhikốp mới nhỏm dậy. Anh
ngồi hồi lâu, lắng nghe tiếng thở đều đều của những người đang ngủ, đợi cho đầu
đỡ chóang váng. Sau đó, anh nhét khẩu súng lục vào túi, lặng lẽ bước đến chiếc
giá gỗ đặt sẵn những bó đuốc đã được chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích chuẩn bị từ
trước. Anh cầm một bó đuốc, không châm lửa, cứ thế dò dẫm đến chỗ lỗ tường thủng
ăn thông sang dãy hành lang ngầm. Anh không thông thuộc nơi này và cũng không
hy vọng thoát ra được nếu không có đuốc trong tay.
Anh cố tránh không gây ra tiếng động, anh biết cách di chuyển
lặng lẽ và tin chắc sẽ không có ai thức giấc trong lúc này để cản trở anh. Anh
đã tính toán, cân nhắc mọi khía cạnh, suy tính đến mọi kết quả, tổng kết cái kết
quả duy nhất là anh đã không thực hiện được trách nhiệm của mình. Duy có điều
anh không thể nghĩ tới, là có một người nhiều đêm không chợp mắt, vẫn lắng nghe
từng nhịp thở của anh, chẳng khác lúc này anh đang lắng nghe từng hơi thở của họ.
Anh lách qua một cái hốc hẹp để chui vào hành lang ngầm và
thắp đuốc lên. Ở trong này, ánh sáng không thể lọt vào căn hầm có người ngủ.
Giơ cao đuốc trên đầu, anh thong thả đi dọc hành lang, làm bầy chuột hoảng hốt.
Cũng thật lạ, cho đến giờ anh vẫn sợ chuột, nên mới không tắt đuốc đi, mặc dù
anh đã nhận ra phương hướng và biết rõ mình đang đi đâu.
Anh bước vào dãy hành lang tối om, nơi anh đã ngã xuống để
thoát khỏi tay bọn Đức. Những hòm đạn vẫn nằm nguyên tại chỗ. Anh giơ đuốc lên
và thấy cửa hầm bị bịt gạch kín mít. Anh đẩy mạnh, những hòn gạch vẫn không
nhúc nhích. Anh bèn cắm bó đuốc vào đống gạch vỡ và dùng cả hai tay đẩy đống gạch
ra. Anh đẩy được một vài viên, nhưng số còn lại chắc quá, Phêđôrotruc đã chèn rất
chặt.
Nhìn cửa ra vào bị bịt chăt, Plugiơnhikốp đành bỏ ý định vô
ích của mình. Anh hết sức không muốn thực hiện quyết định của anh ngay trong
căn hầm này vì ở đây có người. Họ có thể hiểu nhầm và cho anh hành động như vậy
là hèn yếu, hoặc điên rồ, điều này làm cho anh khó chịu. Anh ước ao giá mình có
thể biến đi được mà không cần để lại một lời thanh minh, một dấu vết, nhưng những
khả năng đó đã bị tước đoạt rồi. Sau này thế nào họ cũng phải dị nghị, bàn tán
về anh, tranh cãi về cái chết của anh, phải đi tìm xác anh. Cái lối cửa bị bịt
kín không thể lay chuyển niềm tin của anh đối với những lời lên án đúng đắn mà
anh đã dùng để phán xử mình.
Nghĩ vậy, anh rút súng ra, đẩy khóa an toàn xuống, chần chừ
tự hỏi xem nên bắn vào đâu. Cuối cùng, anh chĩa súng vào ngực, dẫu sao anh cũng
không muốn ngã xuống với cái đầu bị bắn vỡ. Anh đưa tay trái lên ngực và cảm thấy
tim mình đập nhanh, cố đặt nòng súng vào trái tim…
- Kôlia!…
Nếu cô gái không gọi anh bằng cái tên ấy mà bằng bất cứ một
cái tên nào khác, dù cũng với giọng kinh hoàng như vậy, hẳn anh đã siết cò súng
rồi. Nhưng Kôlia là tên riêng của anh, tên ấy chỉ gọi trong thời bình giữa những
người thân yêu, thế mà ở đây lại có một cô gái gọi anh bằng cái tên riêng ấy với
một giọng kinh hoảng và thiết tha như vậy, anh miễn cưỡng hạ súng xuống để nhìn
xem ai đang gọi mình. Anh chỉ hạ súng một giây, nhưng cô gái đã kịp chồm tới
anh.
- Kôlia! Kôlia! Đừng, đừng, anh thân yêu!
Bị trượt chân và ngã xoài xuống, cô gái dồn hết sức ghì chặt
bàn tay cầm súng. Cô áp khuôn mặt đẫm nước mắt vào tay anh, hôn cánh tay áo cáu
bẩn nồng nặc mùi thuốc súng của anh và ghì chặt cánh tay cứng đờ của anh vào ngực
mình, không nghĩ gì đến sự hổ thẹn mà chỉ cảm thấy một cách bản năng rằng hơi ấm
trính bạch nơi ngực mình sẽ làm cho tay anh không kéo được cò súng.
- Đừng! Đừng! Em không cho anh làm thế. Nếu muốn, anh cứ bắn
em trước đã! Bắn em ngay đi!
Ánh sáng vàng khè của ngọn đuốc tẩm dầu lung linh chiếu lên
người họ. Hai cái bóng gấp khúc lay động trên vòm hầm. Plugiơnhikốp cảm thấy
tim cô gái đang đập rộn rã trong lồng ngực.
- Sao cô lại đến đây? - giọng anh buồn rầu.
Mira ngước mặt lên, ánh đuốc soi rõ những giọt nước mắt long
lanh trong khóe mắt cô.
- Anh là chiến sĩ Hồng quân. - Mira nói. - là chiến sĩ Hồng
quân của em. Sao anh nỡ bỏ rơi em? Anh nói đi, tại sao?
Điều làm anh bồn chồn không phải là giọng nói hùng hồn của
cô mà là một cái gì khác hẳn. Vẫn có người cần đến anh. Người ta vẫn cần anh
như cần một người bảo vệ, một người bạn, một người đồng chí.
- Buông tôi ra!
- Trước hết, anh phải cất súng đi đã.
- Súng có đạn, có thể nổ ngay đấy.
Plugiơnhikốp đỡ Mira dậy. Cô đứng lên nhưng vẫn dựa sát vào
anh, sẵn sàng ghì tay anh xuống. Mỉm cười gượng gạo, anh khóa chốt an toàn rồi
đút súng vào bao và cầm bó đuốc lên.
- Ta đi chứ?
Đi bên cạnh, cô vẫn bíu vào tay anh. Họ dừng lại trước kẽ hở:
- Em sẽ không nói với ai, kể cả thím Khơrixchia cũng vậy.
Anh lặng lẽ xoa đầu cô như thể cô còn bé bỏng. Lát sau, anh
dụi đuốc xuống cát.
- Chúc anh ngủ ngon! - Mira thì thào rồi chui vào hầm.
Plugiơnhikốp chui vào theo. Chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích vẫn
còn ngáy và ngọn bấc đèn vẫn bốc khói. Anh bước đến chỗ ghế băng, đắp áo capốt
lên người, định nghĩ xem lúc này phải làm gì nhưng lại ngủ thiếp đi, giấc ngủ
say và thanh thản.
Sáng hôm sau, Plugiơnhikốp choàng thức dậy cùng với mọi người.
Anh dọn dẹp các thứ trên chiếc ghế anh đã nằm rất lâu, mắt dán mãi vào một điểm.
- Cảm thấy dễ chịu hơn chứ, đồng chí trung úy? - Chuẩn úy
Xtêphan Mátvâyêvích hỏi với nụ cười ngờ vực.
- Nước thế nào? Giá được độ ba ca nước nhỉ.
- Thừa sức! - Xtêphan Mátvâyêvích xởi lởi đáp.
- Đổ nước cho mình, Vônkốp! - Lần đầu tiên sau bấy nhiêu
ngày, Plugiơnhikốp cởi cái áo va rơi bó sát người ra, áo lót của anh đã dùng để
băng bó. Anh mở chiếc vali bẹp, lấy ra quần áo mới, xà phòng và khăn mặt. -
Mira, khâu hộ tôi chiếc cổ áo lót vào cái áo mùa hè này nhé!
Anh bước ra khỏi hầm, bước vào dãy hành lang, cọ rửa rất cẩn
thận và cứ nghĩ rằng mình dùng lãng phí nước. Nhưng lần đầu tiên anh cảm thấy
khoan khoái và không bực mình gì cả. Anh quay về hầm, và cũng vẫn với vẻ trầm lặng,
ngồi cạo râu cẩn thận nhưng vụng về với cái bàn cạo mới mà hồi còn ở trường huấn
luyện anh mua không phải vì cần thiết mà vì muốn trữ sẵn để dùng. Anh xoa nước
hoa lên khuôn mặt gày gò mới cạo, mặc chiếc áo Mira vừa đưa, thắt đai lưng hẳn
hoi. Xong đâu đấy, anh ngồi xuống bàn, cái cổ gầy ngoẵng còn dáng dấp trẻ thơ,
nhô cao trên vòng áo cổ rộng hoác.
- Đồng chí báo cáo đi!
Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích dè
dặt hỏi:
- Báo cáo gì cơ!
- Tất cả. - Plugiơnhikốp nói rành rọt từng chữ. - Quân ta
đang ở đâu, địch đang ở chỗ nào?
- Lại thế nữa… - chuẩn úy lúng túng. - địch ở đâu thì chúng
ta đã biết: ở bên trên. Còn quân ta… Cái đó chúng tôi không rõ.
- Tại sao không rõ?
- Chúng tôi biết rõ quân ta đang ở đây. - Phêđôrotruc cau có
nói. - Ở bên dưới. Bọn Đức ở bên trên, quân ta bên dưới.
Plugiơnhikốp không để ý đến giọng nói của anh ta. Anh nói
chuyện với chuẩn úy như nói với người phó của mình và cố nhấn mạnh ý này trong
giọng nói.
- Tại sao lại không biết quân ta đang ở đâu?
Xtêphan Mátvâyêvích thở dài thú nhận:
- Không ai đi trinh sát cả.
- Điều đó tôi đoán được. Tôi muốn hỏi, tại sao?
- Tôi biết nói thế nào, đồng chí thì yếu, còn chúng tôi thì
bịt lối cửa hầm.
- Ai bịt?
Chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích im lặng. Thím Khơrixchia mấp
máy môi định nói gì nhưng Mira đã ngăn lại:
- Tôi hỏi lại: ai bịt lối ra?
- Tôi bịt! - Phêđôrotruc to tiếng xẵng giọng đáp.
- Tôi chưa hiểu.
- Tôi bịt.
- Tôi vẫn chưa hiểu. - Plugiơnhikốp nhắc lại, giọng vẫn như
cũ, mắt không nhìn thượng sĩ.
- Thượng sĩ Phêđôrotrúc.
- Thôi được. Đồng chí thượng sĩ, sau một giờ nữa, đồng chí sẽ
phải báo cáo với tôi lối ra đã được dọn sạch. - Plugiơnhikốp nhắc lại. - Và tôi
hạ lệnh phải quên những tiếng: “tôi không thể”, “tôi chịu”, “tôi không muốn”.
Phải quên những tiếng ấy cho đến lúc chiến tranh kết thúc. Chúng ta là một đơn
vị Hồng quân. Một đơn vị thực sự. Chỉ có thế và tất cả chỉ có thế.
Một giờ trước đây, khi tỉnh lại, anh không biết mình sẽ nói
gì mà chỉ biết mình cần phải nói. Anh đã trì hoãn một cách có cân nhắc cái giây
phút phải sắp xếp lại cho mọi việc có nề nếp, hoặc sẽ mãi mãi bị truất quyền chỉ
huy những con người ở đây. Vì vậy, anh phải trì hoãn thời gian bằng cách rửa
ráy, thay quần áo và cạo mặt. Anh đã suy nghĩ và chuẩn bị cho cuộc nói chuyện
này. Anh đã chuẩn bị để tiếp tục chiến đấu mà không hề ngờ vực, không hề do dự
và dao động gì cả. Tất cả những gì còn lại ở đó, thuộc về ngày hôm qua, đã buộc
anh phải chịu đựng.
Phêđôrotruc thi hành mệnh lệnh của Plugiơnhikốp ngay trong
ngày hôm ấy; lối lên mặt đất đã được dọn sạch. Nửa đêm, họ chia làm hai tốp đi
trinh sát cẩn thận, Plugiơnhikốp đi với Vônkốp, Phêđôrotruc đi với chuẩn úy
Xtêphan Mátvâyêvích. Pháo đài vẫn hoạt động. Vẫn còn những loạt súng lẻ tẻ,
nhưng rất xa, mãi bên kia sông Mukhavét, họ không thể bắt liên lạc được. Cả tốp
trinh sát trở về không gặp một ai, kể cả quân ta lẫn quân địch.
- Chỉ thấy toàn xác chết. - Xtêphan Mátvâyêvích thở dài. -
Bao nhiêu người của chúng ta đã hy sinh. Ôi, nhiều quá!
Plugiơnhikốp tiếp tục tìm kiếm cả ban ngày. Anh không hy vọng
vào việc bắt được liên lạc với quân ta vì biết rằng những tốp chiến sĩ bảo vệ
pháo đài đang tản mát dưới các lối hầm. Nhưng anh phải tìm bọn Đức, phải xác định
rõ vị trí, cách liên lạc, cách hoạt động của chúng trong khu vực pháo đài tan
hoang này. Anh phải làm như vậy, nếu không, nơi ẩn náu an toàn và hoàn hảo này
của họ sẽ mất hết ý nghĩa.
Anh tự đi trinh sát một mình. Anh đến được cổng Teretspol và
suốt một ngày đêm liền ẩn náu giữa những ngôi nhà đổ nát gần đấy. Bọn Đức đi
vào pháo đài qua cổng này vào các buổi sáng và vào những giờ nhất định. Tối đến
lại rút về rất đúng giờ, chỉ để lại các đội tuần tra có hỏa lực mạnh. Căn cứ
vào tất cả những gì đã thấy, anh đoán bọn Đức đã thay đổi chiến thuật. Chúng
không tiến công nữa, nhưng mỗi khi phát hiện ra ổ đề kháng nào, chúng liền bao
vây ngay và gọi súng phun lửa đến. Hình như bọn Đức ở đây thấp bé hơn những đứa
anh đã trông thấy trước đây, rõ ràng là chúng có ít tiểu liên hơn, chúng chỉ
dùng các loại súng các bin là chính.
- Hoặc tôi đã lớn phổng lên hoặc bọn Đức đã teo lại. - Tối
hôm ấy, Plugiơnhikốp nói đùa. - Hình như có sự thay đổi trong bọn chúng, nhưng
thay đổi như thế nào thì tôi chưa nắm được. Xtêphan Mátvâyêvích, mai đồng chi
đi với tôi. Tôi muốn đồng chí cũng được nhìn chúng tận mắt.
Lúc trời tối hẳn, họ lặn lội tìm về khu doanh trại tan hoang
và cháy rụi của trung đoàn 84, Xtêphan Mátvâyêvích nhận ra khu này ngay. Họ đã
phân công nhau từ trước và chuyến đi khá thuận lợi. Plugiơnhikốp quan sát bờ
sông Bug, còn chuẩn úy quan sát bên trong khu pháo đài gần cổng Kholmski.
Sáng hôm ấy đẹp trời và yên tĩnh. Chỉ đôi lúc có tiếng súng
nổ lác đác đâu đó dọc dãy công sự ở cổng Kobrinski, gần bức tường ngoài cùng.
Tiếng súng vang lên đột ngột và cũng ngừng đột ngột, Plugiơnhikốp không tài nào
biết được đấy là tiếng súng của bọn Đức bắn vào những hầm ngầm khả nghi hay của
những tốp chiến sĩ cuối cùng trong lực lượng bảo vệ pháo đài còn đứng vững.
- Đồng chí trung úy! - chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích khẽ giật
giọng gọi.
Plugiơnhikốp bò đến chỗ Xtêphan Mátvâyêvích và nhìn ra ngoài
- ngay gần đấy, một đơn vị súng tiểu liên của bọn Đức đang tập hợp. Dáng dấp,
vũ khí và điệu bộ chúng trong vẫn quen thuộc - dáng dấp của một đội quân dày dạn,
tự cho phép muốn làm gì thì làm. Bọn Đức không teo lại, không thấp bé đi mà vẫn
giống hệt những tên Đức Plugiơnhikốp trông thấy lần đầu và sẽ nhớ mãi suốt đời
mình.
Ba tên sĩ quan tiến ra trước hàng quân. Có tiếng hô ngắn gọn,
bọn lính đứng nghiêm, viên chỉ huy báo cáo với gã cao lớn đã đứng tuổi có lẽ là
chỉ huy cao cấp hơn. Nghe báo cáo xong, gã đủng đỉnh đi qua hàng quân bất động.
Hai viên sĩ quan đi theo, một tên cầm mấy chiếc hộp nhỏ lần lượt đưa cho tên chỉ
huy phát cho những tên lính được gọi bước lên trước hàng quân.
- Mề đay. - Plugiơnhikốp đoán. - Gắn mề đay tại mặt trận. Bọn
phát xít chó đẻ, tao sẽ gắn mề đay cho chúng mày.
Anh quên mất lúc này không phải chỉ có mình anh và anh đến
đây không phải để chiến đấu, anh ở vào vị trí bất lợi vì khu doanh trại đổ nát ở
phía sau. Giờ đây, anh chỉ nhớ đến những người đã hy sinh, vì họ mà những tên Đức
lực lưỡng và khốn nạn kia được gắn những chiếc mề đay chữ thập. Anh chỉ nhớ đến
những người đã bị giết hoặc đã chết vì trọng thương và những người đang điên dại.
Anh nhớ đến họ và nâng khẩu súng tiểu liên lên.
Một loạt đạn rất căng bay trúng vào hàng người đứng trước
anh mười bước. Tên sĩ quan chỉ huy đang phát mề đay đổ gục, tiếp theo là tên phụ
tá của nó và mấy tên lính vừa được thưởng mề đay cũng ngã nốt. Những kẻ được gắn
mề đay quả không kém cỏi, sự lộn xộn và hoang mang chỉ diễn ra giây lát, và
Plugiơnhikốp chưa kịp bắn hết loạt đạn thì chúng đã nhanh chóng tản ra chỗ nấp
rồi tập trung bắn như mưa vào khu nhà đổ.
Nếu không phải là chuẩn úy Xtêphan Mátvâyêvích, thì chưa chắc
hai người đã có thể chạy thóat được: bọn Đức tức tối không biết sợ là gì, đã
nhanh chóng thắt chặt vòng vây. Nhưng Xtêphan Mátvâyêvích biết rõ nơi này từ hồi
chưa có chiến tranh nên đã dẫn Plugiơnhikốp thóat ra một cách an toàn. Vừa lợi
dụng thời cơ lúc bắn trả và sự lộn xộn, họ vừa chạy qua khu sân và lọt xuống hầm
giữa lúc bọn lính Đức đang hùng hổ tìm sục từng ngóc ngách trong khu doanh trại
đổ nát.
- Bọn Đức không có gì thay đổi. - Plugiơnhikốp định cười to
nhưng cổ khô rát, anh đành nén lại. - Nếu không có anh, có lẽ tôi đã gặp nguy rồi,
chuẩn úy ạ.
- Chỉ có các chuẩn úy trung đoàn mới biết cái cửa riêng ấy.
- Xtêphan Mátvâyêvích thở dài. - Thế nghĩa là cái cửa ấy cũng có ích đấy.
Khó khăn lắm anh mới rút được một bên ủng ra khỏi chân và thấy
tất của anh đầm đìa máu. Thím Khơrixchia giơ tay ra và rú lên.
- Không sao đâu, thím Khơrixchia. - chuẩn úy an ủi. - chỉ
sây sát phần mềm thôi, chưa động đến xương. Thấm tháp gì đâu, cái chính là
xương vẫn nguyên. Liền da ngay thôi.
- Này, anh làm như vậy để làm gì thế? - Phêđôrotruc tức giận
hỏi. - Bắn rồi chạy bán sống bán chết để làm gì nhỉ? Anh ta sẽ sớm hết đời, chứ
không phải chiến tranh. Chiến tranh sẽ chấm dứt khi thời điểm đến, còn chúng ta
thì…
Anh ta im bặt và mọi người im lặng. Họ im lặng vì thắng lợi
đang cổ vũ họ, tinh thần chiến đấu của họ đang lên cao và không ai muốn tranh
cãi với anh chàng thượng sĩ bi quan ấy.
Đêm hôm thứ tư thì Phêđôrotruc mất tích. Anh ta không chịu
đi trinh sát, cứ lần chần đến lúc Plugiơnhikốp phải quát lên.
- Vâng, vâng. Tôi sẽ đi! - Anh ta ấp úng. - Chúng ta cần những
cuộc trinh sát như cần...
Họ ra quan sát suốt ngày, từ mờ sáng đến tối mịt. Plugiơnhikốp
muốn hiểu rõ tất cả những gì về kẻ thù trươc khi quyết định những hành động chiến
đâu. Phêđôrotruc đi từ sáng sớm, nhưng đến tối, rồi tận đêm khuya anh ta vẫn
chưa về, Plugiơnhikốp buồn bực và định đi tìm.
- Cậu để tiểu liên lại. - anh nói với Vônkốp. - mang khẩu
các-bin đi.
Bản thân anh mang tiểu liên, nhưng lần đầu tiên anh bảo đồng
đội mang theo súng các bin. Anh chẳng tin vào linh cảm, nhưng anh đã hạ lệnh và
không ân hận về mệnh lệnh ấy, mặc dù súng dài rất khó bò. Anh thường suỵt Vônkốp
đừng để súng va lách cách. Song, điều làm Plugiơnhikốp bực bội không phải vì khẩu
súng mà vì họ không sao phát hiện được dấu vết của thượng sĩ Phêđôrotruc.
Mãi đến gần sáng họ mới đến được cái tháp bị sạt một nửa
trên cổng Têretspol. Căn cứ vào những điều quan sát hôm trước thì bọn Đức tránh
không trèo lên đỉnh tháp và Plugiơnhikốp nghĩ rằng từ đỉnh cao này, anh có thể
nhìn bao quát xung quanh và có thể tìm được dấu vết nào đó về anh chàng thượng
sĩ. Dù phát hiện được anh ta còn sống, bị thương hay đã chết thì vẫn yên tâm
hơn, vì sự mập mờ bao giờ cũng là điều tồi tệ nhất.
Hạ lệnh cho Vônkốp phải quan sát chiếc cầu qua sông Bug và bờ
sông bên kia, Plugiơnhikốp xem xét kỹ lưỡng sân pháo đài bị đạn trái phá cày xới.
Trong sân còn nhiều xác chết chưa được chôn cất, và từ xa, Plugiơnhikốp nhìn rất
lâu từng cái xác, cố phân biệt xem có phải là Phêđôrotruc không. Nhưng anh
không tìm thấy anh ta đâu cả, những cái xác kia đều là những xác cũ và đã bắt đầu
nát rữa.
- Bọn Đức…
Vônkốp thốt khẽ và Plugiơnhikốp tuy chỉ thoảng nghe nhưng đã
hiểu ngay, vì anh luôn luôn chờ đợi sự xuất hiện của bọn Đức. Anh thận trong di
chuyển sang phía khác và nhìn ra ngoài.
Mười tên Đức đang đứng ở đầu cầu bên kia sông. Chúng đang
trò chuyện, cười đùa, khua chân múa tay và nhìn sang chỗ nào đó bên này sông.
Plugiơnhikốp nghển cổ dụi mắt nhìn kỹ xuống chân tháp, và ở đấy anh thấy được
những gì anh đã thầm nghĩ và đó cũng chính là điều làm anh lo sợ nữa.
Từ chân tháp, Phêđôrotruc đang đi qua cầu để đến chỗ bọn Đức.
Hắn ta bước, hai tay giơ lên cùng với hai miếng vải trắng bay lất phất theo bước
chân nặng nề và tự tin của mình. Hắn ta ra hàng một cách bình thản, có suy tính
và không vội vã như thể đang đi về nhà sau một ngày làm việc nặng nhọc, vất vả.
Toàn bộ dáng dấp hắn toát ra sự mong muốn được hiến thân, đến nỗi bọn Đức hiểu
ngay, không cần lời nói nào của hắn, chúng chờ đợi hắn bằng những lời bông
phèng giễu cợt, súng vẫn đeo lủng lẳng trên vai.
- Đồng chí Phêđôrotruc. - Vônkốp kinh ngạc kêu lên. - đồng
chí thượng sĩ…
- Đồng chí à?… - Plugiơnhikốp chìa tay ra, đầu không ngoái lại.
- Đưa súng đây!
Như mọi lần Vônkốp tuân lệnh, nhưng cậu ta đột ngột ngừng lại
và khẽ ấp úng.
- Để làm gì?
- Cứ đưa đây! Nhanh lên!
Phêđôrotruc sắp đến được chỗ bọn Đức nên Plugiơnhikốp càng
cuống hơn. Anh bắn giỏi, lúc này không cho phép được bắn trượt, anh lên đạn rất
gấp vì thấy Phêđôrotruc đã sang hết cầu và chỉ cách bọn Đức chừng bốn bước.
Đạn cắm xuống mặt cầu ngay sau lưng tên thượng sĩ phản bội.
Có thể là bọn Đức không nghe thấy tiếng súng hoặc chúng coi thường những phát
súng lẻ tẻ nên thái độ của chúng không thay đổi. Còn đối với Phêđôrotruc, viên
đạn từ phía sau bắn tới có nghĩa là dành cho hắn, tấm lưng to bè của hắn bỗng đầm
đìa mồ hôi trong tấm áo chẽn, sắp đón nhận viên đạn ấy. Hắn nhảy sang bên cạnh,
ngã lăn ra và bắt đầu bò lồm cồm sang phía bọn Đức, còn bọn Đức thì vừa cười hô
hố vừa nhảy cẫng lên, chúng lùi lại để cố kéo dài cái cảnh xem hắn ta vừa bò, vừa
la hét, vừa lết trên hai đầu gối, hai tay quờ quạng miếng vải trắng.
Viên đạn thứ hai cắm đúng vào khuỷu gối. Hắn giãy giụa, cố lết
về phía trước và kêu thét man dại, không nghe ra tiếng gì. Nhưng bọn Đức vẫn
không để ý, vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra với hắn, chúng vẫn cười cợt, chế nhạo
con người lực lưỡng đang liều mạng để thoát khỏi cái chết. Không ai kịp đoán gì
cả vì Plugiơnhikốp đã bắn liền ba phát rất nhanh như trong cuộc thi bắn chớp
nhoáng ở trường huấn luyện.
Khi bọn Đức lẹt đẹt bắn trả thì Plugiơnhikốp và anh lính
Vônkốp chưa hết kinh hoàng đã tụt xuống một căn hầm rỗng và thủng lỗ chỗ. Có tiếng
mìn nổ ở nơi nào đó phía bên trên. Vônkốp cố chui vào hốc tường, nhưng
Plugiơnhikốp đã kéo anh ra. Họ lại chạy, lại bò, lại lăn để vượt qua khu sân rồi
rơi bịch xuống một hố đạn nằm sau chiếc xe bọc thép bị bắn nát.
- Ổn rồi. - Plugiơnhikốp hổn hển. - Hắn là một con rắn độc!
Đồ phản bội!
Vônkốp trố mắt nhìn và gật đầu, nhưng vẫn không hiểu gì cả.
Còn Plugiơnhikốp cứ nhắc đi nhắc lại mãi:
- Hắn mang miếng vải trắng, cậu thấy chứ? Hắn tự tìm vải, chắc
là ăn cắp được của thím Khơrixchia. Hắn sẵn sàng bán rẻ mọi thứ để đổi lấy cuộc
sống bẩn thỉu của hắn. Hắn bán rẻ cả chúng ta. Cả tôi lẫn cậu. Con rắn độc! Hắn
cầm miếng vải trắng. Cậu thấy không, Vônkốp? Hắn bước đi như thế nào? Hắn bình
tĩnh và tự tin làm sao.
Plugiơnhikốp khao khát được nói ra những điều ấy. Trong lúc
tiêu diệt kẻ thù, anh cảm thấy không cần thiết phải nói, phải giải thích gì cả.
Nhưng lúc này, anh không thể im lặng được nữa. Anh đã bắn vào một kẻ từng ăn
chung bàn với anh bao nhiêu ngày nay. Anh cảm thấy lương tâm không có gì cắn rứt,
trái lại thấy vui mừng, phấn chấn, anh cần phải nói, phải được nói.
Còn anh chiến sĩ tân binh Vaxili Vônkốp mới được gọi nhập
ngũ trong tháng 5 năm 1941 thì chỉ ngồi nghe, gật đầu một cách ngoan ngoãn, mặc
dầu không hiểu gì hết. Anh chưa từng ra trận, đối với anh ta, bọn lính Đức cũng
là những con người và cũng không nên giết chúng nếu không có lệnh. Cái chết đầu
tiên anh ta được chứng kiến lại là cái chết của chính con người mà anh ta đã
cùng sống những ngày khủng khiếp nhất trong cuộc đời ngắn ngủi và yên ả của
anh. Đây chính là con người anh ta biết rõ nhất, vì trước chiến tranh, hai người
đã từng ở một trung đoàn, cùng ngủ trong một doanh trại. Đây chính là con người
hay gắt gỏng khi dạy anh bắn pháo, vẫn mời anh uống trà với đường và cho phép
anh được ngủ thêm chút ít vào những lúc đang phiên.
Giờ đây, con người ấy đã nằm lại trên bờ sông bên kia, mặt
úp xuống đất, tay vươn ra phía trước với miếng vải trắng. Vônkốp không muốn
nghĩ xấu về Phêđôrotruc, mặc dù anh ta không hiểu vì sao người thượng sĩ ấy lại
đến với bọn Đức. Theo ý nghĩ của anh ta thì Phêđôrotruc phải có lý do nào đó để
hành động như vậy và cẩn phải điều tra trước khi quyết định bắn vào lưng con
người ấy. Nhưng anh trung úy gầy gò, nghiêm khắc và lạ lùng đến khó hiểu này
không muốn điều tra phân tích gì hết. Từ hôm đầu tiên khi mới đến nhập bọn, anh
ta đã vung súng đe dọa bắn người này, hạch sách người kia.
Nghĩ vậy, Vônkốp không cảm thấy gì hơn ngoài sự cô độc, sự cô độc dằn vặt và có vẻ giả tạo. Nó ngăn trở không cho Vônkốp tự cảm thấy mình là một con người, một chiến sĩ thực sự và nó đã dựng lên một bức tường không vượt qua được giữa anh và Plugiơnhikốp. Vônkốp còn sợ người chỉ huy của mình, không hiểu rõ anh ta và do đó không tin anh ta lắm.
Nghĩ vậy, Vônkốp không cảm thấy gì hơn ngoài sự cô độc, sự cô độc dằn vặt và có vẻ giả tạo. Nó ngăn trở không cho Vônkốp tự cảm thấy mình là một con người, một chiến sĩ thực sự và nó đã dựng lên một bức tường không vượt qua được giữa anh và Plugiơnhikốp. Vônkốp còn sợ người chỉ huy của mình, không hiểu rõ anh ta và do đó không tin anh ta lắm.
-------------
Còn tiếp...
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét