Cô gái chọc tổ ong bầu
(The Girl Who Kicked The Hornet’s
Nest)
Tác giả: Stieg Larsson
Dịch giả: Trần Đĩnh
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2010
Chương 7
Thứ Hai, 11 tháng Tư - Thứ Ba, 12 tháng Tư
5 giờ 45 chiều thứ Hai, Blomkvist đậy nắp máy tính iBook
lại, đứng lên khỏi bàn bếp trong căn hộ của anh ở Bellmansgatan. Anh mặc
jacket, đi bộ đến trụ sở An ninh Milton ở Slussen. Ði thang máy lên chỗ tiếp
tân ở tầng bốn, anh được chỉ ngay vào phòng họp.
6 giờ đúng phắp nhưng anh là người đến cuối cùng.
- Chào Dragan, - anh nói và bắt tay. - Cảm ơn ông đã có lòng
chủ trì cuộc họp không chính thức này.
Anh nhìn quanh phòng. Có bốn người nữa ở đây: em gái anh,
Holger Palmgren, người giám hộ của Salander trước kia, Malin Eriksson và cựu
thanh tra hình sự Sonny Bohman nay làm việc cho An ninh Milton. Bohman theo chỉ
thị của Armansky đã theo dõi từ đầu cuộc điều tra Salander.
Palmgren đi ra ngoài lần đầu tiên sau hơn hai năm. Bác sĩ
Sivarnandan của Viện phục hồi Ersta không muốn để cho ông đi lắm nhưng Palmgren
vật nài. Ông đã đến bằng phương tiện đặc biệt cho người khuyết tật, với cô y tá
riêng Karolina Oskarsson kèm bên. Cô lĩnh lương của một quỹ bí mật lập ra để lo
toan cho Palmgren được săn sóc tốt nhất. Cô y tá ngồi ở phòng bên cạnh phòng
họp và đã mang theo một quyển sách. Blomkvist đóng cửa lại.
- Với các bạn trước chưa từng gặp nhau thì đây là Malin
Eriksson, Tổng biên tập của Millennium. Tôi mời cô đến vì việc chúng ta bàn
cũng sẽ liên quan đến công việc của cô ấy.
- OK, - Armansky nói. - Mọi người có mặt cả rồi, tôi dỏng tai
lên đây.
Blomkvist đứng trước bảng trắng của Armansky, cầm lấy cây
bút viết bảng. Anh nhìn mọi người.
- Ðây chắc là việc điên rồ nhất mà tôi dính vào, - anh nói.
- Khi nào xong xuôi mọi việc tôi sẽ lập ra một hội gọi tên là “Các Hiệp sĩ của
Dòng Ngu ngốc”, mục đích của nó là thu xếp một bữa ăn thường niên để chúng ta
đến đó nói đủ các thứ chuyện về Lisbeth Salander. Tất cả các bạn đây đều là
thành viên.
Anh dừng lại.
- Vậy câu chuyện thực sự là thế này, - anh nói và bắt đầu
viết một loạt các đầu đề lên bảng. Anh nói trong ba mươi phút đẫy. Sau đó họ
bàn mất gần hết ba giờ đồng hồ.
* * *
Họp xong, Gullberg đến ngồi cạnh Clinton. Hai người nói nho
nhỏ với nhau một lát rồi Gullberg đứng lên. Các đồng chí già bắt tay nhau.
Gullberg đi taxi đến khách sạn Frey, sắp xếp va li và làm
thủ tục trả phòng. Ông bắt chuyến tàu chiều đi Goteborg. Ông chọn ngồi hạng
nhất và có toa riêng. Khi tàu qua Arstabron, ông lấy bút bi và một tập giấy
trắng ra. Ông nghĩ một lúc lâu và bắt đầu viết. Viết được nửa trang ông dừng
lại, xé tờ giấy ra khỏi tập.
Làm mạo tài liệu không phải là việc ông từng phụ trách ở
Sapo hay chuyên môn của ông, nhưng việc ông làm đây cũng đơn giản thôi vì các
thư ông đang viết đều do ông tự tay ký. Vấn đề có bị rắc rối thì không phải vì
một câu chữ nào trong những điều ông viết ra là sai sự thật.
Lúc tàu chạy xuyên qua Nykoping, ông đã bỏ đi một số bản
thảo nhưng ông đã bắt đầu tìm ra được cái giọng phù hợp để diễn đạt các bức
thư. Khi tàu đến Goteborg ông hài lòng với lá thư vừa viết được. Ông cố tình
cho các dấu vân tay của mình hiện rõ trên từng tờ giấy.
Ở Ga Trung tâm Goteborg, ông mò ra một máy sao chụp rồi cho
sao các bức thư. Ðoạn ông mua phong bì tem, bỏ chúng vào một thùng thư mở lấy
thư lúc 9 giờ tối.
Gullberg đi taxi đến khách sạn Thành phố ở Lorensbergsgatan,
Clinton đã đặt một buồng cho ông ở đây. Nó chính là cái khách sạn ông đã qua
đêm mấy hôm trước. Ông đi thẳng vào buồng, ngồi xuống giường. Ông mệt nhoài,
nhận ra cả ngày chỉ ăn có hai lát bánh mì. Nhưng ông không đói. Ông cởi quần
áo, nằm thẳng cẳng ra giường và gần như ngủ ngay lập tức.
* * *
Salander giật mình thức giấc khi nghe thấy cửa mở ra. Cô
biết ngay thông phải là một cô y tá trực đêm nào. Cô he hé mắt, thấy một hình
người chống nạng ở lối ra vào. Zalachenko đang nhìn cô trong ánh đèn hành lang.
Không động đậy đầu cô liếc xem đồng hồ: 3 giờ 10 sáng.
Lại liếc vào bàn đầu giường, cô thấy một cốc nước. Cô tính
khoảng cách. Cô có thể với tới được cái cốc mà không nhúc nhích người.
Cô có thể rất nhanh vươn tay ra đập mạnh miệng cốc vào gờ
bàn cứng. Chỉ cần nửa giây để xỉa cạnh cốc vỡ vào cổ họng Zalachenko nếu hắn
cúi xuống cô. Cô tìm các cách khác nhưng cái cốc là vũ khí duy nhất cô có thể với
lấy được.
Cô thả lỏng người chờ.
Zalachenko đứng bất động ở lối ra vào một lúc. Rồi rón rén
đóng cửa lại.
Cô nghe thấy tiếng nạng cọ khe khẽ lên sàn khi hắn lặng lẽ
lui xuống cuối hành lang.
Năm phút sau cô chống khuỷu tay phải ngóc dậy, với lấy cái
cốc uống một hơi dài. Cô quăng hai chân sang bên giường, dứt các điện cực ra
khỏi tay và ngực. Cố đứng1ên, cô lảo đảo không vững. Mất một phút cô mới kiểm
soát được thân thể. Cô tập tễnh ra cửa, dựa vào tường để thở. Mồ hôi lạnh toát
ra. Rồi người cô cứng nhắc lại vì điên giận.
Mẹ mày, Zalachenko. Tao với mày sẽ chấm hết tất cả ngay bây
giờ.
Cô cần một vũ khí.
Sau đó cô nghe thấy gót giầy lách cách trong hành lang.
Mẹ nó. Các điện cực.
- Lạy Chúa, làm gì ở đây thế này? - Cô y tá trực đêm nói.
- Tôi cần... đi... đến nhà vệ sinh. - Salander chả còn hơi
để nói.
- Về giường ngay.
Cô cầm tay Salander giúp lên giường. Rồi đưa cho một cái bô.
- Cần nhà vệ sinh thì cứ bấm chuông gọi bọn tôi. Cái nút bấm
này là để cho việc ấy mà.
* * *
10 giờ 30 sáng thử Ba, Blomkvist dậy, tắm, pha cà phê rồi
ngồi xuống với chiếc iBook. Sau cuộc họp tối qua ở An ninh Milton, anh về nhà
làm việc tới 5 giờ sáng. Ít ra bài báo đã bắt đầu định hình. Tiểu sử Zalachenko
còn lờ mờ - tất cả những gì anh có đều là do dọa Bjorck để cho hắn khai ra cũng
như một nắm chi tiết mà Palmgren cung cấp. Chuyện của Salander đã viết được khá
nhiều. Anh từng bước từng bước giải thích rõ cô đã bị một băng nhóm của bọn
muốn gây chiến tranh lạnh ở SIS nhắm làm mục tiêu như thế nào, rồi đem giam cô
lại trong một bệnh viện tâm thần ra sao, để ngăn cô làm lộ bí mật của
Zalachenko.
Anh thấy thích những cái đã viết. Vẫn còn vài lỗ hổng phải
lấp nhưng anh biết mình đang có một bài báo quỷ khốc thần sầu. Nó sẽ là món nổi
đình nổi đám trên các bảng dán báo và ở tít trên chóp cỗ máy quan liêu Chính
phủ sẽ có một ngọn núi lửa bùng phun ra.
Anh châm thuốc lá suy nghĩ.
Anh nhìn thấy được hai khe hở phải chú ý. Một cái thì xử lý
được. Anh cần giải quyết với Teleborian và anh đang tính tới việc đó. Khi xong
việc với hắn, nhà tâm lý học thiếu nhi nổi tiếng sẽ là một trong những người bị
ghét bỏ nhất ở Thụy Ðiển. Ðó là một việc.
Việc thứ hai phức tạp hơn.
Những người muu mô chống lại Salander - anh gọi họ là Câu
lạc bộ Zalachenko - thì nằm trong Cảnh sát An ninh. Anh biết một tên, Gunnar
Bjorck nhưng có thể tên này không phải là kẻ duy nhất chịu trách nhiệm. Phải có
một nhóm... một cơ sở hay một đơn vị gì đó. Phải có những kẻ cầm đầu, những kẻ
trông coi tác chiến. Phải có một cái quỹ. Nhưng anh không biết làm sao tìm ra
được những người này, thậm chí bắt đầu cần tìm ở đâu. Anh biết lơ mơ nhất về
cung cách tổ chức của Sapo.
Thứ Hai bắt đầu việc nghiên cứu, anh cử Cortez đến các cửa
hàng Sách Cũ ở Sodermalm mua mọi sách có chút nào nói đến Cảnh sát An ninh.
Buổi chiều Cortez đến nhà anh với sáu quyển.
Tình báo ở Thụy Điển của Mikael Rosquist (Nhà Xuất bản
Tempus, 1988); Sếp Sapo 1962 - 1970 của P.G. Vinge (Wahlstom & Widstrand,
1988), Những lực lượng bí mật của Jan Ottosson và Lars Magnusson (Tiden, 1991);
Đấu tranh quyền lực cho Sapo (Corona, 1989); Nhiệm vụ được trao của Carl Lidbom
(Wahlstom & Widstrand, 1999) và - có phần đáng ngạc nhiên - Ðiệp viên tại
chỗ của Thomas Whiteside (Ballantine, 1966) viết về vụ Wennerstrom, vụ
Wennerstrom những năm 60 chứ không phải vụ Wennerstrom mới đây của chính
Blomkvist.
Anh đã bỏ gần hết đêm và sáng sớm thứ Ba ra đọc hay ít nhất
xem lướt qua. Anh có vài nhận xét khi đọc xong. Thứ nhất, phần lớn các sách
xuất bản về Cảnh sát An ninh đều từ cuối những năm 80. Tìm trên mạng Internet
không có một thứ nào viết về đề tài này.
Thứ hai, xem ra không có một tổng quát nào dựa trên cơ sở rõ
ràng về các hoạt động xưa nay của cảnh sát bí mật Thụy Ðiển. Có thể là vì nhiều
tài liệu được đóng dấu Tối Mật, do đó không thể đụng tới nhưng hình như cũng
không có bất cứ cơ quan duy nhất nào, nhà nghiên cứu hay thông tin đại chúng
nào từng tiến hành một khảo nghiệm phê phán về Sapo.
Anh cũng để ý tới một điều lạ lùng nữa: không có tiểu sử
trong bất cứ quyển sách nào Cortez tìm thấy. Mặt khác, các chú thích chân trang
thường nhắc tới những bài đăng ở các báo buổi chiều, hay tới các cuộc phỏng vấn
một vài người già đã về hưu của Sapo.
Quyển Những lực lượng bí mật hấp dẫn nhưng viết nhiều về
thời gian trước và sau Ðại chiến Thế giới thứ hai. Blomkvist coi hồi ký của
P.G. Vinge như là thứ tuyên truyền, do một thủ lĩnh Sapo bị phê hình nặng nề và
cuối cùng bị cách chức viết ra cốt để tự vệ. Điệp viên tại chỗ ở ngay chương
đầu đã có rất nhiều thông tin không đúng về Thụy Ðiển nên anh quẳng luôn nó vào
sọt giấy. Chỉ hai quyển có chút tham vọng thực sự muốn miêu tả công việc của
Cảnh sát An ninh là Đấu tranh quyền lực cho Sapo và Tình báo ở Thụy Điển. Chúng
có dữ liệu, tên tuổi và sơ đồ tổ chức. Anh thấy quyển của Magnusson đặc biệt
đáng đọc. Dù không trả lời được các câu hỏi của anh nhưng nó cho ra một bản
tường thuật hay về Sapo với tư cách một cấu trúc cũng như về những bận tâm ban
đầu của tổ chức này trong suốt vài thập niên.
Ngạc nhiên lớn nhất là Nhiệm vụ được trao của Lidbom, quyển
này mô tả các vấn đề mà vị cựu Ðại sứ Thụy Ðiển tại Pháp đã gặp phải khi ông
được giao việc xem xét Sapo sau vụ ám sát Palme và vụ Ebbe Carlsson [Mùa thu năm 1987, do vụ ám sát Olof Palme thúc ép, Thủ tướng Ingvar Carlsson đã mở một cuộc điều tra vào các thể thức hoạt động của Cảnh sát An ninh Thụy Điển (Sapo). Carl Lidbom, lúc ấy là Đại sứ Thụy Điển ở Pháp, đã được trao nhiệm vụ chỉ đạo cuộc điều tra. Một trong những chỗ quen biết của ông, Nhà Xuất bản Ebbe Carlsson, tin chắc rằng tổ chức PKK của người Kuốc có dính líu đến vụ ám sát nên đã cung cấp tài lực để mở một cuộc điều tra tư nhân. Vụ Ebbe Carlsson nổ ra thành một tai tiếng chính trị lớn năm 1988, khi người ta tiết lộ rằng Nhà xuất bản này đã được Anna-Greta Leijon, lúc ấy là Bộ trưởng Tư pháp bí mật ủng hộ. Sau đó bà đã bị buộc phải từ chức]. Trước đó
chưa đọc cái gì của Lidbom, Blomkvist đã sửng sốt với giọng văn chua cay pha
lẫn những nhận xét sắc sảo. Nhưng ngay cả sách của Lidbom cũng không mang
Blomkvist đến gần hơn với câu trả lời cho những điều anh muốn biết dù anh đã bắt
đầu có ý niệm về cái mà anh đang bận bịu chống lại.
Anh mở di động gọi Cortez.
- Chào Henry. Cảm ơn hôm qua đã phải bỏ công ra chạy.
- Nay anh cần gì đây?
- Lại mất công chạy tí ti nữa.
- Blomkvist, tôi ghét phải nói cái này ra, nhưng hôm nay tôi
có việc rồi.
- Tiến bộ nghề nghiệp gớm đấy.
- Anh muốn cái gì?
- Nhiều năm nay đã có một số báo cáo công khai về Sapo. Carl
Lidbom đã làm một cái. Chắc còn có vài ba cái tương tự.
- Tôi hiểu.
- Anh đặt mua mọi cái anh tìm thấy được về nghị viện: ngân
sách, báo cáo công khai, chất vấn Chính phủ, đại loại thế. Và cố tìm lấy các
báo cáo hàng năm của Sapo càng xa về trước càng tốt.
- Vâng, thưa thầy.
- Anh bạn là con người tốt đấy. À còn, Henry...
- Vâng?
- Mai tôi mới cần đến đấy nhá.
* * *
Salander cả ngày nghiền ngẫm về Zalachenko. Cô biết hắn chỉ
ở cách cô hai cửa phòng, cô biết ban đêm hắn chống nạng lang thang trong hành
lang và lúc 3 giờ 10 sáng nay hắn đã đến phòng cô.
Cô đã lần theo hắn tới Gosseberga với ý định trọn vẹn là
giết hắn. Cô đã thất bại, kết quả là Zalachenko vẫn sống và đang rúc trên
giường chỉ cách cô có mười mét. Mà cô thì đang khốn khó. Cô không thể nói rõ
tình hình xấu thế nào nhưng cô cho rằng mình cần phải trốn đi và bí mật biến ra
nước ngoài nếu không muốn có cơ lại bị giam vào một cái nhà thương điên nào đó
với tên giám hộ là Teleborian. Vấn đề bây giờ là cô khó lòng ngồi thẳng được ở
trên giường. Cô nhận thấy sức khỏe không khá lên. Vẫn đau đầu, có khác là đau từng
đợt chứ không liên miên. Vai trái cô đỡ đau một ít nhưng hễ cô cố cử động thì
nó lại đau.
Cô nghe tiếng chân đi ngoài cửa, thấy cô y tá mở cửa cho một
người phụ nữ mặc quần đen, áo sơ mi trắng và jacket thẫm màu đi vào. Chị ta
xinh xắn, thanh mảnh, tóc đen để kiểu con trai. Ở chị toát ra một sự tin cậy
trong sáng. Chị mang một cặp đen. Salander nhận thấy ngay mắt chị giống mắt
Blomkvist.
- Chào, Lisbeth, tôi là Annika Giannini, - chị nói. - Tôi
vào được chứ?
Salander thản nhiên
quan sát chị. Bất thình lình không muốn gặp em gái Blomkvist chút nào, cô tiếc
là đã nhận chị ta làm luật sư.
Annika đi vào, đóng cửa lại, kéo một chiếc ghế. Chị ngồi đó
đôi lát, nhìn thân chủ của mình.
Cô gái nom vẻ đáng sợ. Đầu quấn kín băng. Có những vết tím
bầm ở quanh đôi mắt đỏ ngầu.
- Trước khi chúng ta bắt đầu bàn chuyện, tôi cần biết cô có
thực sự muốn tôi làm luật sư của cô hay không. Thông thường tôi liên quan đến
các vụ án dân sự, thay mặt cho các nạn nhân bị cưỡng hiếp hay bạo hành gia
đình. Tôi không phải là luật sư hình sự. Nhưng tôi có nghiên cứu các chi tiết
về vụ của cô và tôi rất muốn thay mặt cô nếu được. Tôi cũng nên nói với cô rằng
Mikael Blomkvist là anh trai tôi - tôi nghĩ là cô biết như thế - và anh ấy cùng
Dragan Armansky trả tiền thuê tôi cho cô.
Chị ngừng lại nhưng khi không được trả lời thì nói tiếp.
- Nếu cô muốn tôi làm luật sư cho cô thì tôi sẽ làm việc vì
cô. Không phải vì anh tôi hay vì Armansky. Tôi cũng cần nói với cô rằng ở bất
cứ phiên tòa nào tôi cũng sẽ nhận được lời khuyên và sự giúp đỡ của Holger
Palmgren, người giám hộ cô trước kia. Ông ấy là một ông lão rắn đấy, ông ấy đã
lê ra khỏi giường bệnh để đến giúp cô.
- Palmgren?
- Vâng.
- Chị đã gặp ông ấy rồi?
- Rồi.
- Ông ấy sao?
- Ông ấy giận điên lên nhưng lạ là ông ấy không có vẻ lo
lắng cho cô chút nào cả.
Salander cười lệch miệng. Ðây là lần đầu tiên cô cười ở bệnh
viện Sahlgrenska.
- Cô cảm thấy thế nào?
- Như một cái bọc cứt ấy.
- Vậy cô có muốn tôi làm luật sư cho không? Armansky và
Mikael đã trả tiền cho tôi và...
- Không.
- Cô nói không là nghĩa sao?
- Tôi tự trả. Tôi không lấy một đồng nào của Armansky hay
Blomkvist. Nhưng chưa vào Internet được thì tôi chưa trả ngay được.
- Tôi hiểu. Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này khi nào nó
đến. Muốn gì thì nhà nước cũng trả cho tôi phần lớn lương rồi. Nhưng cô có muốn
tôi đại diện cho cô không?
Salander gật đầu cụt lủn.
- Tốt. Vậy tôi bắt đầu bằng việc đưa cho cô một bức thư của
Mikael. Nó có vẻ bí ẩn nhưng anh ấy bảo cô hiểu được những điều viết trong thư.
- Hả?
- Anh ấy muốn cô biết là anh ấy đã nói với tôi phần lớn câu
chuyện trừ một ít chi tiết, trong đó cái đầu tiên có liên quan đến các tài năng
của cô mà anh ấy phát hiện ra ở Hedestad.
Anh ấy biết mình có trí nhớ máy ảnh và mình là kẻ đột nhập
máy tính. Anh ấy giữ im lặng chỗ này.
- OK.
- Một cái nữa là một đĩa DVD. Tôi không biết anh ấy gợi đến
điều gì nhưng anh ấy khăng khăng là cô tự quyết định lấy việc cô có nói với tôi
hay không. Cô biết anh ấy gợi đến điều gì không?
Cảnh Bjurman hiếp mình.
- Vâng.
- Thế thì tốt. - Thình lình Giannini ngập ngừng. - Tôi có
một chút phật ý với ông anh. Anh ấy thuê tôi nhưng anh ấy chỉ nói với tôi những
gì anh ấy thích nói. Cô cũng có ý định giấu tôi phải không?
- Tôi không biết. Chúng ta có thể để chuyện này lại sau không?
- Salander nói.
- Chắc chắn rồi. Chúng ta sẽ còn nói với nhau khá nhiều đấy.
Bây giờ chúng ta không có thì giờ để trò chuyện lâu - bốn mươi lăm phút nữa,
tôi còn phải gặp công tố viên Jervas. Tôi chỉ muốn xác nhận rằng cô thực sự
muốn tôi làm luật sư cho cô. Nhưng có một việc nữa tôi cần nói với cô.
- Vâng?
- Là thế này: nếu không có mặt tôi thì cô không được nói một
câu nào hết với cảnh sát, bất chấp họ hỏi gì cô. Thậm chí cả khi họ khiêu khích
hay kết tội cô cái này cái nọ... Cô hứa được chứ?
- Tôi có thể làm được.
* * *
Sau mọi gắng sức hôm thứ Hai, Gullberg hoàn toàn kiệt lực. 9
giờ sáng thứ Ba ông mới dậy, muộn hơn thường lệ bốn tiếng. Ông vào buồng tắm
đánh răng và tắm. Ông đứng một lúc lâu nhìn vào mặt mình ở trong gương rồi tắt
đèn, đi ra mặc quần áo. Ông lấy chiếc sơ mi duy nhất sạch ông để trong cái va
li nâu, thắt cà vạt nâu có hoa văn.
Ông xuống phòng điểm tâm của khách sạn gọi một tách cà phê
đen và ăn một lát bánh mì nướng với phomát và một ít mứt phết lên trên. Ông
uống một cốc nước khoáng.
Rồi ông ra gian sảnh khách sạn gọi vào di động của Clinton
bằng điện thoại công cộng.
- Báo cáo tình hình.
- Còn chưa xong.
- Fredrik, ông làm được không?
- Được, cũng như ngày xưa ấy mà. Nhưng von Rottinger vẫn
không đi với chúng ta thì thật đáng xấu hổ. Ông ấy giỏi lên kế hoạch tác chiến
hơn tôi.
- Giỏi như nhau thôi. Ông có thể thay đổi chỗ bất cứ lúc
nào. Như đúng ra ông thường vẫn làm luôn đấy.
- Ðây là một thứ linh cảm. Ông ấy luôn sắc bén hơn một ít.
- Bảo tôi đi, các ông tất cả đang làm gì rồi?
- Sandberg xuất sắc hơn chúng ta tưởng. Chúng ta có
Martensson ở ngoài đến giúp rồi. Ông ta nói nhiều nhưng có ích. Chứng ta đã
nghe trộm được điện thoại bàn và di động của Blomkvist. Hôm nay chúng ta sẽ lo
đến điện thoại của Giannini và điện thoại ở tòa soạn Millennium. Chúng ta đang
xem đến các bản thiết kế của mọi trụ sở và nhà ở liên quan. Hễ làm được xong là
chúng ta sẽ lọt vào ngay.
- Việc đầu tiên là tìm xem các bản sao ở đâu...
- Cái này tôi làm rồi. Chúng ta gặp may không thể ngờ.
Giannini gọi Blomkvist sáng nay. Mụ hỏi thực sự có bao nhiêu bản sao đang lưu
hành thì quay ra thế nào chỉ một mình Blomkvist có một bản sao bản báo cáo
nhưng lại đã gửi đến chỗ Bublanski.
- Tốt. Phải tranh thủ thời gian.
- Tôi biết. Nhưng cần cất gọn một mẻ vó. Nếu không nẫng cùng
lúc tất cả các bản sao thì không ăn thua.
- Ðúng.
- Hơi phức tạp một chút vì Giannini rời Goteborg sáng nay.
Tôi đã cho một nhóm bên ngoài bám đuôi mụ. Họ hiện đang làm ra trò đây.
- Tốt. - Gullberg không thể nghĩ ra gì để nói nữa. - Cảm ơn,
Fredrik, - Cuối cùng ông nói.
- Tôi được vui mà. So với cứ ngồi quanh chờ một quả thận thì
thú vị hơn nhiều.
Họ chào từ biệt. Gullberg trả tiền khách sạn, ra phố. Quả
bóng đang lăn. Nay chính là việc vẽ nên các chuyển động.
Ông bắt đầu đi bộ đến khách sạn Ðại lộ công viên và xin dùng
máy fax tại đó. Ông không muốn dùng máy fax ở khách sạn ông đang ở. Ông fax các
bản sao của những bức thư ông viết hôm qua. Rồi ông ra đường Avenyn kiếm taxi.
Ông dừng lại ở một thùng rác, xé bản sao của các bức thư.
* * *
Giannini gặp công tố viên Jervas mười lăm phút. Chị muốn
biết bà có ý định khép Salander vào những tội gì nhưng chị sớm nhận thấy Jervas
cũng chưa chắc chắn với kế hoạch của mình.
- Ngay hiện nay thì tôi khép vào tội xâm phạm nghiêm trọng
thân thể hay mưu toan ám sát. Ý tôi muốn nói đến việc Salander đánh ông bố bằng
cái rìu. Tôi hiểu là bà sẽ bào chữa cho bên bị?
- Có thể.
- Nói thật với bà, lúc này Niedermann là hạng mục ưu tiên
của tôi.
- Tôi hiểu.
- Tôi đã liên hệ với Tổng công tố viên. Đang thảo luận tiếp
xem có nên gộp mọi sự luận tội đối với thân chủ của bà vào quyền hạn phán xử
của một công tố viên ở Stockholm rồi gói chúng vào với những chuyện đã xảy ra ở
đây hay không.
- Tôi cho là vụ án sẽ do Stockholm nắm, - Giannini nói.
- Tốt. Nhưng tôi cần một dịp hỏi han cô gái. Lúc nào được?
- Tôi có báo cáo của bác sĩ chăm sóc cô ấy, Anders Jonasson.
Ông ấy nói Salander chưa đủ điều kiện tham gia một cuộc thẩm vấn trong vài ngày
tới. Ngoài các vết thương, cô ấy còn đang uống thuốc giảm đau mạnh.
- Tôi cũng nhận được báo cáo tương tự và chắc bà cũng nhận
ra, việc này thật đáng nản. Tôi nhắc lại, ưu tiên của tôi là Niedermann. Thân
chủ của bà nói không biết hắn ẩn náu ở đâu.
- Cô ấy không biết gì hết về Niedermann cả. Tình cờ cô ấy
nhận ra hắn rồi dò theo hắn xuống tới Gosseberga, trang trại của Zalachenko.
- Khi nào thân chủ của bà đủ khỏe mạnh để cho chúng tôi thẩm
vấn, chúng ta sẽ lại gặp nhau, - Jervas nói.
* * *
Gullberg cầm một bó hoa bước vào thang máy bệnh viện
Sahlgrenska cùng lúc với một người phụ nữ tóc ngắn mặc jacket đen. Ông giữ cửa
thang máy cho chị đi ra trước tới bàn tiếp tân của phòng bệnh.
- Tôi là Annika Giannini. Tôi là luật sư và tôi muốn gặp lại
thân chủ của tôi, Lisbeth Salander.
Rất thong thả Gullberg quay đầu lại ngạc nhiên nhìn người
phụ nữ ông vừa theo ra khỏi thang máy. Ông liếc xuống chiếc cặp của chị trong
khi cô y tá kiểm tra thẻ căn cước của Giannini và xem một danh sách.
- Buồng mười hai, - Cô y tá nói.
- Cảm ơn. Tôi biết đường. - Chị ta đi xuôi xuống hành lang.
- Tôi có thể giúp ông gì không?
- Cảm ơn, có ạ. Tôi muốn để ít hoa này cho Karl Axel Bodin.
- Ông ấy không được phép tiếp khách.
- Tôi biết. Tôi chỉ đưa ít hoa thôi.
- Chúng tôi sẽ đưa hộ ông.
Gullberg mang hoa chính là để có cớ. Hắn muốn có một ý niệm
về phòng bệnh bố trí ra sao. Ông cảm ơn cô y tá rồi theo biển chỉ dẫn đến cầu
thang. Trên đường, ông đi qua buồng Zalachenko, buồng mười bốn theo lời Jonas
Sandberg.
Ông chờ ở lòng giếng cầu thang. Qua một khung kính cửa, ông
trông thấy cô y tá cầm bó hoa đi vào buồng Zalachenko. Khi cô quay về chỗ các y
tá, Gullberg đẩy mở cửa buồng mười bốn ra, nhào vội vào trong.
- Chào, Alexander, - ông nói.
Zalachenko ngạc nhiên nhìn người khách không được báo trước.
- Tôi tưởng nay thì ông chết rồi chứ lại? - Hắn nói.
- Chưa hẳn.
- Ông muốn gì?
- Ông nghĩ sao?
Gullberg kéo ghế đến ngồi xuống.
- Chắc để xem tôi chết.
- À, là để nhớ ơn ông. Sao ông lại có thể ngu ghê đến như
vậy? Chúng tôi cho ông cả một cuộc sống mới toanh, thế mà ông lại kết thúc ở
đây.
Nếu cười phá lên được Zalachenko đã cười. Zalachenko vẫn
nghĩ Cảnh sát An ninh Thụy Ðiển là những gã nghiệp dư. Nói thế cho cả Gullberg
lẫn Bjorck. Không thèm kể cha Bjurman hoàn toàn ngu xuẩn kia.
- Một lần nữa chúng tôi lại phải kéo ông từ trong hỏa ngục
ra.
Câu này không trúng lắm với Zalachenko, đã có lần là nạn
nhân của một vụ đánh bom xăng - của đứa con gái chết rấp ở cách hắn hai buồng
bên dưới hành lang.
- Miễn lên lớp cho tôi đi. Hãy đưa tôi ra khỏi nỗi bát nháo
này.
- Đó là điều tôi muốn nói với ông đây.
Gullberg đặt cặp lên lòng, lấy ra một quyển sổ tay, giở đến
một trang trắng. Rồi ông nhìn lâu, dò xét Zalachenko.
- Có một điều tôi tò mò... có thật là sau mọi việc chúng tôi
làm cho ông thì ông lại đi phản lại chúng tôi không?
- Ông nghĩ gì thể?
- Cái này tùy vào mức độ ông điên rồ đến đâu.
- Đừng bảo tôi điên. Tôi là một kẻ sống sót. Tôi phải làm
cái gì nó khiến tôi sống sót.
Gullberg lắc đầu.
- Không, Alexander, ông làm cái mà ông làm vì ông là kẻ xấu
xa, thối nát. Ông muốn một thông điệp của Bộ phận. Tôi đến để đưa nó cho ông
đây. Lần này chúng tôi sẽ không giơ một ngón tay nào lên giúp ông đâu.
Thình lình nom Zalachenko có vẻ dao động. Hắn quan sát
Gullberg, cố hình dung xem đây có phải là một trò bịp trộ gì không.
- Ông không có lựa chọn, - hắn nói.
- Luôn có cái để chọn, - Gullberg nói.
- Tôi sắp...
- Ông sắp chẳng phải làm cái gì nữa rồi.
Gullberg thở sâu một hơi, kéo mở khóa túi bên ngoài chiếc va
li, lấy ra một khẩu Smith &Wesson 9 ly nòng mạ vàng. Khẩu này ông nhận của
Sở Tình báo Anh hai mươi lăm năm trước như là quà tặng vì một mẩu tin vô giá:
tên tuổi của viên sĩ quan văn thư ở MI 5, một Philby thứ hai làm việc cho
Nga. [Kim Philby (1912 - 1988): điệp viên người Anh, đã cung cấp nhiều thông tin bí mật của Anh cho Liên Xô. Ông ta là thành viên của một nhóm có tên là “Gián điệp Cambridge”, và là người thứ ba trong nhóm bị phát hiện, sau Guy Burgess và Donald Maclean. Sau khi bị phát hiện, ba người này đều trốn sang Liên Xô và trở thành công dân Xô viết]
Zalachenko nom vẻ sửng sốt. Rồi hắn bật cười.
- Thế rồi ông làm gì tôi bằng cái của này? Bắn ư? Ông sẽ
ngồi tù cho hết cái đời thảm hại của ông.
- Tôi không nghĩ thế.
Thình lình Zalachenko thấy không chắc là Gullberg đang trộ.
- Sẽ là một vụ xì căng đan quy mô đồ sộ đấy.
- Tôi cũng lại không nghĩ như thế. Sẽ có vài tít báo rồi một
tuần sau là chả còn ai nhớ đến tên Zalachenko.
Zalachenko nheo mắt lại.
- Mày là đồ con lợn bẩn thỉu, - Gullberg nói, giọng lạnh
ngắt khiến Zalachenko cứng người lại.
Gullberg bóp cò, đặt viên đạn vào giữa trán Zalachenko đúng
lúc hắn bắt đầu quăng chiếc chân giả sang bên kia giường. Zalachenko vật ngửa
ra trên gối. Cái chân lành của hắn đá năm, sáu cú rồi hắn bất động. Gullberg
nhìn thấy hình một bông hoa đỏ ướt in lên trên tường sau đầu giường. Ông nhận
thấy tai mình nghe o o sau tiếng súng, ông lấy tay không cầm súng xoa xoa tai
bên trái. Rồi ông đứng lên, đặt mũi súng vào thái dương Zalachenko, bóp cò hai
lần. Ông muốn cầm chắc thằng chó đẻ lần này chết thực sự.
* * *
Salander ngồi bật dậy lúc nghe thấy tiếng súng đầu tiên. Vai
cô nhói lên đau. Khi súng nổ thêm hai tiếng, cô cố đưa hai chân qua bên kia
giường.
Giannini vừa ở đây được ít phút. Chị ngồi cứng người lại, cố
nhận ra tiếng súng nổ ở hướng nào. Qua phản ứng của Salander, chị có thể nói
một cái gì nguy hiểm chết người sắp sửa xảy ra.
- Nằm im, - chị hét. Để tay lên ngực Salander, chị đè cô gái
xuống giường.
Rồi Giannini đi qua gian buồng, kéo cửa mở ra. Chị trông
thấy hai cô y tá chạy đến một gian buồng ở cách đây hai cửa. Cô thứ nhất đứng
sững ở ngưỡng cửa. “Ô, đừng!”, cô kêu thất thanh, lùi lại sau một bước, xô vào
cô thứ hai.
- Hắn có súng. Chạy đi!
Giannini thấy hai cô y tá chạy ẩn vào trong gian buồng cạnh
buồng Salander.
Sau đó chị trông thấy một người gầy, tóc hoa râm, mặc jacket
kẻ carô, đi vào hành lang. Hắn cầm một khẩu súng. Anika nhận ra đó là người đàn
ông đi thang máy lên cùng với chị.
Rồi họ nhìn thấy nhau. Hắn có vẻ bối rối. Nhằm súng vào chị,
hắn sấn lên một bước. Chị rụt đầu lại, đóng cửa, thất vọng nhìn quanh. Ngay
cạnh chị là cái bàn của y tá. Chị đẩy nó lăn nhanh đến cửa rồi chẹn mặt bàn vào
bên dưới tay nắm cửa.
Nghe thấy tiếng động đậy, chị quay lại thấy Salander đang
lại bắt đầu trèo ra khỏi giường. Rất nhanh chị nhào qua buồng, ôm lấy cô gái
nhấc lên. Chị làm tuột các điện cực và các ống truyền khi mang cô gái vào trong
buồng tắm, cho ngồi lên nắp bồn cầu. Rồi chị quay lại khóa cửa buồng tắm. Chị
moi di động trong túi áo jacket ra, bấm số 112.
* * *
Gullberg đến buồng Salander, vặn tay nắm cửa. Nó bị chẹn.
Ông không thể xoay nổi một li.
Ông đứng một lúc phân vân ngoài cửa. Biết luật sư Giannini ở
bên trong, ông đoán không chừng bản báo cáo của Bjorck lại ở trong cặp của chị
ta cũng nên. Nhưng ông không thể nào vào được trong buồng, và ông cũng không có
sức phá cửa.
Dù sao thì chuyện này cũng không nằm trong kế hoạch. Clinton
sẽ quản Giannini. Việc duy nhất của Gullberg là Zalachenko.
Nhìn quanh trong hành lang ông thấy các y tá, bệnh nhân và
khách thăm đang chăm chăm theo dõi ông. Ông giơ súng bắn vào bức tranh treo
trên tường ở cuối hành lang. Các khán giả của ông vụt biến mất như có phép
thần.
Ông liếc lần cuối cùng vào cửa buồng Salander. Rồi ông dứt
khoát quay về buồng Zalachenko, đóng cửa lại. Ông ngồi lên ghế dành cho khách
đến thăm, nhìn kẻ đào ngũ người Nga trong rất nhiều tháng năm đã từng là một
phần khăng khít với đời sống của ông.
Gullberg ngồi im lặng trong vòng mười phút rồi nghe thấy
tiếng đi lại trong hành lang và ông biết rằng cảnh sát đã đến. Lúc này ông
chẳng còn nghĩ đến một cái gì cụ thể nữa.
Rồi ông giơ súng lên lần cuối cùng, đặt nó vào thái dương,
bóp cò.
* * *
Diễn biến tiếp theo cho thấy rõ ràng rằng một muu toan tự
sát ngay giữa bệnh viện là chuyện vớ vẩn. Người ta đã hết sức nhanh chóng đưa
Gullberg đến bộ phận xử lý chấn thương của bệnh viện, ở đây bác sĩ Anders
Jonasson đã đón nhận ông và lập tức cho mở ra một giàn biện pháp để gìn giữ các
chức năng sinh tồn của ông.
Lần thứ hai trong một tuần, Jonasson tiến hành phẫu thuật
cấp cứu moi lấy một viên đạn bọc bằng toàn kim loại ra khỏi mô não người. Sau
năm tiếng đồng hồ mổ xẻ, tình hình Gullberg là nghiêm trọng nhưng ông vẫn sống.
Song các vết thương của Gullberg nặng hơn nhiều so với
Salander. Trong nhiều ngày, ông chờn vờn lơ lửng giữa cái sống và cái chết.
* * *
Blomkvist đang ở quán Kaffebar trên đường Hornsgatan thì
nghe qua truyền thanh thấy một người đàn ông sáu mươi sáu tuổi, không biết tên,
bị nghi là có âm muu giết kẻ trốn chạy Lisbeth Salander, đã bị bắn chết tại
bệnh viện ở Goteborg. Anh bỏ tách cà phê chưa hề nhấp ngụm nào, nhặt máy tính,
vội chạy tới tòa soạn trên đường Gotgatan. Đã qua đường Mariatorget, vừa rẽ lên
St Paulsgatan thì anh nghe di động reo.
Anh vừa chạy vừa trả lời.
- Blomkvist.
- Chào, Malin đây.
- Tôi nghe thấy tin rồi. Cô có biết đứa giết người là ai
không?
- Chưa. Henry đang săn tin.
- Tôi trên đường về báo đây. Năm phút nữa sẽ ở đấy.
Blomkvist đâm nhào vào Cortez ở cửa tòa báo Millennium.
- Ekstrom sẽ họp báo lúc 3 giờ chiều, - Cortez nói. - Tôi
đến Kungsholmen đây.
- Chúng ta biết đến đâu rồi?
- Hỏi Malin ấy, - Cortez nói rồi đi.
Blomkvist đi thẳng đến buồng Berger, nhầm rồi..., buồng của
Eriksson. Cô đang nghe điện thoại và viết hung hãn lên một tập giấy màu vàng
quảng cáo của Buu điện. Cô phẩy tay bảo anh đi ra. Blomkvist vào căn bếp nhỏ
rót cà phê sữa vào hai cốc vại có in logo của đảng Dân chủ Thiên Chúa và đảng
Xã hội. Anh quay lại thì cô vừa xong bữa chuyện điện thoại. Anh cho cô cốc của
đảng Xã hội.
- Ðúng, - cô nói. - Zalachenko bị bắn chết lúc 1 giờ 15. -
Cô nhìn Blomkvist. - Em vừa nói chuyện với một cô y tá ở Sahlgrenska. Cô ấy nói
hung thủ là một người đàn ông trạc bảy chục tuổi, mang hoa đến cho Zalachenko
mấy phút trước khi gây án. Hắn bắn mấy phát vào đầu Zalachenko rồi tự bắn mình.
Zalachenko chết. Hung thủ còn sống và đang được phẫu thuật.
Blomkvist thở dễ dàng hơn. Từ lúc nghe tin ở Kaffebar, tim
gan anh đã thắt lại, hoảng loạn cảm thấy Salander có thể là hung thủ. Chuyện đó
thật sự sẽ làm cho công việc vô cùng khó khăn.
- Chúng ta có tên của người tấn công chưa?
Eriksson lắc đầu khi điện thoại lại réo. Cô cầm máy, qua câu
chuyện Blomkvist biết được rằng đó là một phóng viên ở Goteborg mà Eriksson cử
đến Sahlgrenska. Anh về văn phòng mình ngồi xuống.
Cảm thấy tựa hồ đã hàng tuần rồi anh chưa đến văn phòng của
mình. Có một chồng thư bưu điện mà anh dứt khoát quăng ra một bên không mở. Anh
gọi em gái.
- Giannini đây.
- Anh đây. Em có nghe thấy xảy ra chuyện gì ở Sahlgrenska
không?
- Anh có thể nói được là có đấy.
- Em ở đâu?
- Ở bệnh viện. Thằng khốn nạn cũng nhằm vào em.
Blomkvist ngồi ớ ra không nói một lúc, rồi anh nắm được đầy
đủ ý em gái anh.
- Sao mà kỳ cục... thế em ở đấy à?
- Vâng. Lần đầu tiên em gặp chuyện kinh hoàng đến thế.
- Em có bị thương không?
- Không. Nhưng hắn định vào buồng Salander. Em chặn cửa lại rồi
cả hai vào buồng tắm khóa lại.
Toàn bộ thế giới của Blomkvist thình lình như nghiêng ngả
tròng trành. Em gái anh gần như...
- Cô ấy sao? - Anh nói.
- Không sao. Hay em muốn nói ít nhất cô ấy không bị thương
trong tấn thảm kịch hôm nay.
Anh để cho câu nói thấm vào mình.
- Annika, về toàn bộ vụ giết người này em có biết một tí gì
đó không?
- Không tí teo nào. Hắn là người có tuổi, ăn mặc sạch sẽ gọn
gàng, em nghĩ hắn nom khá là lúng túng. Em chưa thấy hắn trước đó bao giờ nhưng
em cùng đi thang máy lên gác với hắn một ít phút trước khi xảy ra mọi chuyện.
- Và Zalachenko thì chết, chắc chắn?
- Vâng. Em nghe thấy ba phát súng và theo như lời em nghe
lỏm được thì cả ba phát đều vào đầu. Nhưng với một nghìn cảnh sát và họ lại sơ
tán một phòng bệnh cho những bệnh nhân nặng và bị thương thực sự cần phải
chuyển đi nên chỗ ấy cử rối tung hết cả lên. Cảnh sát đến, một người đã toan
hỏi Lisbeth, chả bận tâm gì xem cô ấy có bị làm sao không. Em phải đọc cho họ
Luật cấm tụ họp gây náo loạn.
* * *
Erlander trông thấy Giannini ở cửa buồng Salander. Cô luật
sư có di động áp ở tai cho nên ông chờ cô nói xong.
Hai giờ sau vụ án mạng, trong hành lang vẫn nháo nhác. Đã
niêm phong buồng Zalachenko. Các bác sĩ đã cố cấp cứu cho hắn ngay sau vụ bắn
nhưng sớm đành bỏ cuộc. Xác Zalachenko được đưa đến cho bác sĩ bệnh học và cuộc
điều tra hiện trường vụ án liền được tiến hành tốt nhất như hoàn cảnh cho phép.
Di động của Erlander kêu. Là Fredrik Malmberg ở nhóm điều
tra.
- Chúng tôi đã có một thẻ căn cước xác thực ở trên người
hung thủ, - Malmberg nói. - Tên ông ta là Evert Gullberg, bảy mươi tám tuổi.
Bảy mươi tám. Một kẻ giết người thế là khá đây.
- Thế Evert Gullberg là cái quỷ gì cơ chứ?
- Về hưu. Sống ở Laholm. Có vẻ là một luật sư về thuế. Tôi
được SIS gọi nói họ vừa mở một cuộc điều tra sơ bộ chống lại ông ta.
- Khi nào và tại sao?
- Tôi không biết khi nào. Nhưng có vẻ ông ta hay gửi thư
điên rồ và đe dọa đến những người trong Chính phủ.
- Như ai?
- Bộ trưởng Tư pháp là một.
Erlander thở dài. Vậy là một cha điên. Một cha cuồng tín.
- Sáng nay các báo gọi đến Sapo nói họ nhận được thư của
Gullberg. Bộ trưởng Tư pháp cũng gọi vì Gullberg đã đặc biệt có lời đe giết
Karl Axel Bodin.
- Tôi muốn có các thư ấy.
- Của Sapo?
- Ừ, mẹ kiếp. Ði xe lên Stockholm và nhót đích thân chúng
đến đây nếu cần. Tôi muốn chúng ở bàn giấy của tôi khi tôi ở Ban chỉ huy cao
cấp về. Sẽ là vào khoảng một tiếng nữa.
Ông nghĩ một lúc rồi hỏi câu thứ hai.
- Sapo gọi ông đấy phải không?
- Tôi đã nói với ông thế còn gì.
- Ý tôi là... họ gọi ông và ông không gọi lại họ.
- Đúng.
Erlander tắt di động.
Ông nghĩ cái quái gì đã ám nhập vào Sapo khiến họ thình lình
lại cảm thấy cần phải liên hệ với cảnh sát - và tự nguyện. Thông thường đừng có
mà hòng lấy được một mẩu lời nào của họ.
* * *
Wadensjoo hất tung cánh cửa đi vào trong buồng mà Clinton
đang nghỉ ở Bộ phận. Clinton thận trọng ngồi thẳng lên.
- Ðang xảy ra cái quái cái quỷ gì thế này đây? - Wadensjoo
la rít lên. - Gullberg giết Zalachenko rồi tự bắn vào đầu.
- Tôi biết, - Clinton nói.
- Ông biết? - Wadensjoo hét. - Mặt ông đỏ gắt, nom tựa như
ông sắp lên cơn đột quỵ. - Ông ta tự bắn mình, lạy Chúa. Ông ta toan tự sát.
Ông ta điên mất rồi à?
- Ý ông nói là ông ấy còn sống?
- Lúc này, vâng, nhưng não tổn thương nặng.
Clinton thở dài.
- Xấu hổ quá, - ông nói, giọng thực sự đau buồn.
- Xấu hổ ư? Wadensjoo nổi đóa lên. - Gullberg là điên rồi.
Ông không hiểu cái...
Clinton cắt lời ông.
- Gullberg bị ung thư dạ dày, ruột kết với bàng quang. Ông
ấy ngắc ngoải mấy tháng nay rồi, tốt nhất cũng chỉ còn được có ít tháng.
- Ung thư?
- Sáu tháng qua ông ấy mang súng theo, quyết tâm dùng khi
nào đau không thể chịu nổi nữa, trước khi vì bệnh hoạn mà ông ấy quay ra sống
cái đời thực vật. Nhưng ông ấy có khả năng thực hiện một đặc ân cho Bộ phận.
Ông ấy ra đi hết sức đàng hoàng.
Wadensjoo gần như quýnh qua quýnh quáng.
- Ông đã biết thế? Ông đã biết là ông ta sẽ giết Zalachenko?
- Dĩ nhiên. Nhiệm vụ của ông ấy là cầm chắc Zalachenko không
còn có cơ hội nào nói ra được. Ông biết đấy, con người này là không thể lý sự
hay đe dọa nổi hắn đâu mà.
- Nhưng ông không biết chuyện này rồi sẽ hóa thành một vụ
tai tiếng như thế nào ư? Hay ông cũng chập cheng như Gullberg nốt rồi.
Clinton lò dò đứng lên. Ông nhìn vào mắt Wadensjoo rồi chìa
ra một tập các bản fax.
- Ðây là một quyết định có tính tác chiến. Tôi để tang bạn
tôi nhưng chắc tôi cũng theo ông ấy khá sớm sủa thôi. Chừng nào nổ ra tai tiếng
thì đây... Một luật sư thuế về hưu viết những bức thư loạn trí cho báo chí,
cảnh sát và Bộ Tư pháp. Ðây là một bản. Gullberg trách móc Zalachenko đủ mọi
chuyện, từ ám sát Palme đến định đầu độc dân Thụy Điển bằng clo. Những thư này
là do một anh dở người viết, có những chỗ đọc không hiểu, viết bằng chữ hoa,
gạch dưới và những dấu chấm than. Tôi đặc biệt thích các chỗ ông ấy viết ở
ngoài lề.
Wadensjoo càng đọc các bức thư càng ngạc nhiên. Ông đưa một
tay lên trán.
Clinton nói:
- Có xảy ra bất cứ việc gì thì cái chết của Zalachenko cũng
chả dính dáng tí nào đến Bộ phận. Chỉ là một cha ăn trợ cấp nào đó khùng điên
lên nổ súng bắn mà thôi.
Ông ngừng lại.
- Ðiều quan trọng là từ nay đã xuống thuyền cả rồi thì ông
phải có một chương trình. Và đừng làm con thuyền bị tròng trành.
Ông chăm chú nhìn Wadensjoo. Trong con mắt người ốm yếu có
chất gang chất thép.
- Ðiều ông cần hiểu là Bộ phận có chức năng giống như mũi
dao nhọn của toàn bộ nền quốc phòng. Chúng ta là phòng tuyến cuối cùng của Thụy
Điển. Nhiệm vụ của chúng ta là trông nom đến an ninh của đất nước này. Mọi cái
khác đều chả quan trọng gì cả.
Wadensjoo ngờ vực nhìn Clinton.
- Chúng ta là những người không tồn tại, - Clinton nói tiếp.
- Chúng ta là những người không một ai sẽ cảm ơn. Chúng ta là những người phải
đưa ra những quyết định mà không ai khác muốn ra. Ít nhất là các nhà chính trị.
Giọng ông run lên bất bình khi nói tới những câu sau cùng
này.
- Hãy làm như tôi nói và Bộ phận sẽ sống sót. Với những
chuyện xảy ra, chúng ta phải dứt khoát và trông vào những biện pháp cứng rắn.
Wadensjoo cảm thấy càng hoảng loạn hơn.
* * *
Cortez mải mê ghi, cố lấy hết từng lời đã được nói ở diễn
đàn tại Văn phòng báo chí cảnh sát Kungsholmen. Công tố viên Ekstrom đã bắt
đầu. Ông nói rõ rằng ông đã quyết định cuộc điều tra vụ giết người cảnh sát -
do đó mà truy nã Ronald Niedermann - sẽ được đặt dưới quyền phán xử của công tố
viên ở Goteborg. Còn lại việc điều tra liên quan Niedermann thì sẽ được trao
cho bản thân Ekstrom. Niedermann là nghi can giết Dag Svensson và Mia
Johansson. Không thấy nhắc tới luật sư Bjurman. Ekstrom cũng phải điều tra và
luận tội Lisbeth Salander, cô gái bị nghi về một danh sách dài các vụ án.
Ông nói rõ là dưới ánh sáng các sự việc đã xảy ra ở Goteborg
hôm ấy, kể cả việc bố của Salander, Karl Axel Bodin bị bắn chết, ông quyết định
cho công khai thông tin ra. Lý do trước mắt triệu tập họp báo là ông muốn bác
bỏ các tin đồn đang lưu hành trong giới truyền thông đại chúng. Bản thân ông đã
nhận được nhiều cú điện thoại liên quan đến các tin đồn này.
- Căn cứ vào thông tin hiện có, tôi có thể nói với các bạn
rằng con gái của Karl Axel Bodin, người đang bị giữ vì mưu toan giết bố, không
có dính líu gì đến các sự việc sáng nay.
- Vậy hung thủ là ai? - Phóng viên của Dagens Eko hét lên.
- Người mà hồi 1 giờ 15 hôm nay bắn chết Karl Axel Bodin
trước khi mưu toan tự sát hiện chưa được nhận diện ra. Ông ta là một ông già
bảy mươi tám tuổi đang chữa chạy một căn bệnh ở vào giai đoạn cuối và các vấn
đề tâm thần là có liên đới tới việc bắn kia.
- Ông ta có quan hệ gì với Lisbeth Salander không?
- Không. Ông này là một nhân vật bi kịch hành động rõ ràng
chỉ có một mình, liên quan đến các ảo giác tâm thần phân lập. Cảnh sát An ninh
vừa mới mở một cuộc điều tra về người này vì ông ta đã viết một số thư rõ ràng
là không ổn đến các nhà chính trị và một số tên tuổi trong giới truyền thông
đại chúng. Ngay mới sáng nay đây, báo chí và các cơ quan Chính phủ đã nhận được
những bức thư trong đó ông ta đe giết Karl Axel Bodin.
- Tại sao cảnh sát không bảo vệ cho Bodin?
- Các thư nói đến tên Bodin chỉ mới được gửi đi đêm qua và
đến tay người nhận đúng vào lúc xảy ra vu giết người. Không có thời gian để
hành động.
- Tên hung thủ là gì?
- Khi nào biết được họ hàng gần nhất của hắn chúng tôi mới
công bố.
- Bối cảnh tung tích hắn ta như thế nào?
- Như tôi biết thì trước kia hắn làm kế toán và luật sư
thuế. Ðã về hưu mười lăm năm. Đang tiến hành điều tra nhưng như các bạn có thể
đánh giá thấy từ các bức thư hắn gửi thì đây là một thảm kịch có thể ngăn ngừa
được nếu trong xã hội có nhiều sự ủng hộ đỡ đần hơn.
- Hắn có đe dọa ai khác nữa không?
- Tôi được bảo là có, đúng, nhưng tôi không có chi tiết nào
để nói ra với các ông.
- Vụ này có liên quan gì tới vụ kết tội Salander không?
- Hiện thì không. Chúng tôi có lời khai của chính Karl Axel
Bodin do cảnh sát đã thẩm vấn hắn đưa cho và chúng tôi có nhiều bằng chứng pháp
y chống lại cô ta.
- Có gì ở các bản báo cáo mà Bodin cố phải giết con gái?
- Việc này đang được điều tra nhưng có những chỉ dấu rõ rệt
cho thấy hắn đúng là mưu tính giết con gái thật. Như lúc này chúng tôi có thể
xác định thì đây là một vụ đối kháng sâu sắc trong một gia đình bị tan vỡ bi
thảm.
Cortez gãi tai. Anh để ý thấy các phóng viên khác cũng mải
miết ghi như anh.
* * *
Gunnar Bjorck cảm thấy hoảng sợ gần như không nguôi được khi
nghe tin về vụ bắn người ở bệnh viện Sahlgrenska. Hắn thấy đau dữ dội ở lưng.
Phải mất một giờ hắn mới định thần lại được. Rồi hắn nhấc điện thoại thử gọi
cho người bảo vệ hắn xưa kia ở Laholm. Không có trả lời.
Hắn nghe bản tin và nghe một tóm tắt những điều đã nói ở
cuộc họp báo. Zalachenko đã bị một luật sư thuế bảy mươi tám tuổi bắn chết.
Chúa ơi, bảy mươi tám tuổi.
Hắn thử gọi lại Gullberg nhưng vẫn không trả lời.
Cuối cùng tâm trạng bất an thắng thế. Bjorck không thể ở lại
căn nhà nghỉ mùa hè mà hắn mượn ở Smadalaro được nữa. Hắn cảm thấy bị phơi bày
ra và mong manh. Hắn cần thời gian và nơi chốn để nghĩ. Hắn xếp dọn quần áo,
thuốc giảm đau và túi quần áo giặt. Không muốn dùng điện thoại của mình, hắn cà
nhắc vào buồng điện thoại ở một cửa hàng tạp hóa để gọi đến Landsort và đặt
thuê một buồng trong trạm hoa tiêu của những con tàu cũ. Landsort là chốn tận
cùng của thế giới, ít người sẽ đến tìm hắn. Hắn đặt thuê buồng trong hai tuần.
Hắn liếc đồng hồ. Cần phải gấp để cho kịp chuyến phà cuối
cùng. Hắn quay về căn nhà nhanh theo chừng cái lưng đau của hắn cho phép. Hắn
vào thẳng bếp xem máy pha cà phê đã rút điện chưa. Rồi hắn ra gian sảnh lấy ba
lô. Hắn tình cờ nhìn vào phòng khách và liền đứng sửng, ngạc nhiên.
Thoạt tiên hắn không nhận ra mình đang nhìn thấy gì.
Bằng một cách bí ẩn nào đó, cái đèn trần đã bị hạ xuống và
đặt trên bàn cà phê. Thay vào chỗ cây đèn, một sợi dây thừng treo vào cái móc,
ngay dưới đó là chiếc ghế đẩu thường vẫn để trong bếp.
Bjorck nhìn nút thòng lọng, ngẩn ra không hiểu.
Rồi hắn nghe thấy tiếng động ở sau lưng, đầu gối hắn liền
khuỵu xuống.
Hắn từ từ quay lại.
Hai người đứng ở đó. Qua dáng dấp thì họ là người từ phía
nam châu Âu. Hắn chẳng thiết phản ứng gì khi họ bình thản túm chặt lấy hai cánh
tay hắn, nâng hắn lên khỏi đất rồi rinh hắn lên trên chiếc ghế đẩu. Hắn toan
cưỡng lại thì thấy lưng đau như bị dao đâm. Hắn gần như tê liệt khi cảm thấy bị
nhấc lên trên ghế đẩu.
* * *
Một người có biệt đanh Falun và lúc trẻ từng là kẻ trộm đi
cùng với Sandberg. Hắn cuối cùng có luyện lại tay nghề thợ khóa. Thoạt tiên hồi
1986 Hans Von Rottinger mướn hắn cho Bộ phận khi đang có một vụ đánh dính đến
việc bẻ khóa để lọt vào nhà một nhóm vô chính phủ. Sau đó cho tới giữa những
năm 90, khi không còn cần đến loại việc bẻ khóa vào nhà này nhiều nữa, thỉnh
thoảng người ta có mướn Falun. Sáng nay Clinton đã nối lại hợp đồng và giao cho
Falun một nhiệm vụ. Falun sẽ làm một việc chỉ cần mất chừng mười phút mà được
những 10.000 krona và miễn thuế. Ðổi lại hắn thề sẽ không ăn cắp bất cứ thứ gì
ở trong căn hộ là mục tiêu của vụ đột nhập. Dẫu sao Bộ phận cũng không phải là
một Xí nghiệp tội ác.
Falun không biết rõ Clinton đại diện cho lợi ích của ai,
nhưng hắn cho là ở đấy có liên quan gì đó đến quân sự lính tráng. Hắn có đọc
sách của Jan Guillou và không hỏi han gì. Nhưng sau rất nhiều năm nằm im xa
cách ông chủ thuê hắn trước đây, nay được lên lại yên ngựa, hắn cảm thấy hay
hay.
Việc của hắn là mở cửa nhà người khác. Hắn là chuyên gia phá
khóa đột nhập. Dù thế đi nữa, hắn vẫn phải mất năm phút thì khóa căn hộ của
Blomkvist mới bật ra. Rồi Falun chờ ở chiếu giữa trong khi Sandberg đến.
- Tôi vào rồi, - Sandberg nói vào bộ đàm.
- Tốt, - Clinton nói. - cứ tà tà không vội. Thấy gì thì bảo
tôi.
- Tôi đang ở gian sảnh với một cái tủ đứng và giá treo mũ ở
bên phải. Buồng tắm bên trái. Ngoài ra chỉ có một buồng rộng, cỡ khoảng năm
chục mét vuông. Có một căn bếp nhỏ thụt vào ở đằng đầu bên phải.
- Có bàn làm việc hay...
- Cha này hình như làm việc ở bàn bếp hay ngồi ở đi văng
phòng khách... Khoan.
Clinton chờ.
- Ðược, đây rồi, một tập hồ sơ trên bàn bếp. Báo cáo của
Bjorck ở trong đó. Xem vẻ là bản gốc vậy.
- Rất tốt. Còn gì hay hay ở trên bàn không?
- Sách. Hồi ký Ðấu tranh quyền lực cho Sapo của P.G. Vinge.
Bốn, năm quyển như thế nữa.
- Có máy tính không?
- Không.
- Két sắt?
- Không... không phải cái mà tôi trông thấy.
- Cứ tà tà. Xem kỹ từng phân trong căn hộ. Martensson báo
cáo là Blomkvist vẫn ở tòa báo. Có mang găng tay chứ?
- Dĩ nhiên mà.
* * *
Erlander có nói chuyện với Giannini trong một quãng ngừng
ngắn ngủi giữa lúc bên này hoặc bên kia, hoặc cả hai bên, phải trả lời di động
của mình. Ông vào trong buồng Salander, giơ tay ra tự giới thiệu. Rồi ông chào
Salander, hỏi cô cảm thấy trong người thế nào. Salander nhìn ông, thản nhiên
không biểu cảm. Ông quay sang Giannini.
- Tôi cần hỏi vài câu.
- Ðược.
- Cô có thể nói với tôi chuyện gì đã xảy ra sáng nay không?
Giannini kể lại những điều chị đã nghe và nhìn thấy, cũng
như chị đã phản ứng ra sao cho tới khi tự chặn nhốt mình và Salander lại trong
buồng tắm. Erlander liếc Salander rồi quay lại với người luật sư của cô.
- Vậy là bà chắc chắn hắn đã tới tận cửa buồng này.
- Tôi nghe thấy hắn cố vặn tay nắm cửa.
- Và bà hoàn toàn chắc chắn là như thế? Khi sợ hay bị kích
động thì người ta cũng dễ tưởng tượng ra các thứ đấy.
- Tôi rành rành nghe thấy hắn ở ngoài cửa. Hắn đã trông thấy
tôi và còn chĩa súng vào tôi, hắn biết tôi đang ở trong buồng.
- Bà có lý do nào để tin rằng trước khi xảy ra chuyện này
hắn đã lên kế hoạch bắn cả bà nữa không?
- Tôi sao mà biết được. Khi hắn nhằm vào tôi, tôi thụt ngay
đầu vào và chẹn cửa lại.
- Như vậy là rất nhanh trí. Và bà còn khôn ngoan hơn, mang
thân chủ vào trong buồng tắm. Các cái cửa này quá mỏng, đạn có thể ngon lành
xuyên qua nếu như hắn bắn. Tôi đang cố hình dung liệu hắn có muốn bắn cá nhân
bà không hay chỉ là phản ứng lại việc bà đang nhìn vào hắn. Bà là người ở gần hắn
nhất trong hành lang mà.
- Không kể hai cô y tá nữa.
- Bà có cảm thấy là hắn biết bà hay có thể đã nhận ra bà
không?
- Không, thực sự không.
- Có thể hắn đã nhận ra bà từ báo chí chăng? Bà được nói đến
nhiều qua mấy vụ có tường thuật rộng rãi.
- Có lẽ, tôi không thể nói chắc được.
- Và trước đây bà chưa thấy hắn bao giờ?
- Tôi thấy hắn ở trong thang máy, đó là lần đầu tiên tôi
thấy hắn.
- Tôi không biết việc đó. Bà đã nói chưa nhỉ?
- Chưa. Tôi vào thang máy cùng lúc với hắn. Tôi loáng thoáng
thấy hắn chỉ trong chừng vài ba giây thôi. Một tay hắn cầm bó hoa, tay kia
chiếc cặp.
- Bà có nhìn vào mắt hắn không?
- Không, hắn nhìn thẳng về đằng trước.
- Ai vào trước?
- Gần như cùng một lúc.
- Nom hắn có bối rối hay...
- Khó mà nói được là có hay không. Hắn vào thang máy và đứng
hoàn toàn im lặng, cầm bó hoa.
- Tiếp theo là gì?
- Chúng tôi ra khỏi thang máy ở cùng tầng gác và tôi đến
thăm thân chủ.
- Bà đến thẳng đây chứ?
- Vâng... không. Nghĩa là tôi đến quầy tiếp tân đưa thẻ căn
cước. Công tố viên cấm thân chủ tôi tiếp khách.
- Người đàn ông kia lúc ấy ở đâu?
Giannini ngập ngừng.
- Tôi không chắc lắm. Hắn đi sau tôi, tôi nghĩ là thế.
Không, khoan... hắn ra thang máy trước nhưng dừng lại giữ cửa cho tôi. Tôi
không thể cam đoan nhưng tôi nghĩ hắn cũng ra quầy tiếp tân. Tôi chỉ là mau
chân hơn hắn mà thôi. Nhưng các cô y tá chắc có biết.
Già, lịch sự và là hung thủ, Erlander nghĩ.
- Ðúng, hắn có ra quầy tiếp tân, - ông xác nhận. - Hắn nói
với cô y tá rồi để hoa lại ở quầy, theo lời chỉ dẫn của cô ấy. Nhưng bà không
thấy điều đó.
- Tôi không nhớ được gì cả.
Erlander không hỏi nữa. Ông đang bị nỗi ngán ngẩm gậm nhấm.
Trước kia từng có cảm giác này, ông đã luyện quen để hiểu rằng nó là một kiểu
báo động do bản năng khơi dậy. Một cái gì đó đang vượt quá sức ông, một cái gì
đó không đúng, không phải.
Hung thủ đã được nhận dạng là Evert Gullberg, nguyên kế toán
và đôi khi làm cố vấn kinh doanh cũng như luật sư thuế. Một người đã vào tuổi
thượng thọ. Một người mà Sapo vừa mở cuộc điều tra sơ bộ về ông ta vì ông ta là
một lão hấp lìm đã viết những thư đe dọa đến các nhân vật nhà nước.
Bằng kinh nghiệm lâu ngày, Erlander biết là có nhiều dân hấp
lìm quanh quẩn ở ngoài kia, một số người bị ám ảnh vì bệnh hoạn, lén bám theo
những người nổi tiếng và tìm kiếm tình yêu bằng cách ẩn nấp trong những khu
rừng gần các biệt thự của họ. Khi tình yêu không được đáp ứng - mà sao lại đòi
thế được cơ chứ? - thì nhanh chóng biến ngay ra thành thù hận dữ dội. Có những
người đeo bám lẵng nhẵng suốt từ Ðức hay Ý, hết buổi diễn này đến buổi diễn
khác, để đi theo một ca sĩ 21 tuổi trong một nhóm nhạc pop. Thế rồi đâm ra
tuyệt vọng vì cô ta không làm gì để mở ra một quan hệ nào đó với họ. Có những
cá nhân tính tình hung hãn cứ ôm lấy những bất công có thật hay tưởng tượng rồi
đâm ra hành xử theo kiểu đe dọa. Có những người bị bệnh tâm thần, những nhà
theo lý thuyết về âm mưu, những dân hấp lìm có năng khiếu đọc được các thông
điệp mà thế giới người bình thường không thể thấy.
Có vô thiên lủng thí dụ về các cha khùng rồ thình lình từ
huyễn tưởng nhảy sang hành động rồ dại kiểu này. Vụ ám sát Anna Lindh chẳng
phải chính là kết quả của một cơn xung động điên loạn đó sao? [Anna Lindh là một nhà chính trị Xã hội Dân chủ Thụy Ðiển từng làm Bộ trưởng Ngoại giao từ 1998 cho đến lúc bị ám sát năm 2003. Bà được nhiều người coi như một trong những ứng viên kế tục Goran Persson làm lãnh tụ của Xã hội Dân chủ và Thủ tướng Thụy Điển. Những tuần cuối đời, bà dính líu sâu rộng vào chiến dịch ủng hộ đồng euro đi trước cuộc trưng cầu dân ý về đồng euro]
Nhưng Erlander không thích cái ý nghĩ rằng một viên kế toán
ốm đau, hoặc làm nghề gì bất cần biết, lại có thể la cà vào bệnh viện với một
bó hoa trong tay này và khẩu súng ở tay kia. Hoặc, lạy Chúa, hắn lại có thể thủ
tiêu một người đang là đối tượng điều tra của cảnh sát - cuộc điều tra của
chính Erlander. Một người mà tên trong sổ đăng bạ của nhà nước là Karl Axel
Bodin nhưng tên thật lại là Zalachenko, theo lời Blomkvist. Một thằng điệp viên
Nga chó chết đào tẩu và một tên cướp nhà nghề.
Ít nhất Zalachenko cũng là một nhân chứng; nhưng trong
trường hợp xấu nhất thì hắn đã dính ngập cổ vào một loạt vụ giết người.
Erlander đã được cho phép làm hai cuộc thẩm vấn ngắn Zalachenko và chả có lần
nào ông lại ngả nghiêng dao động trước những lời thanh minh vô tội của con
người này.
Hung thủ cũng tỏ ra quan tâm đến Salander, hay ít nhất đến
luật sư của cô ta. Hắn đã cố vào phòng cô gái.
Và rồi hắn đã toan tự sát. Theo các bác sĩ, hắn chắc đã
thành công, dù cho cơ thể hắn vẫn chưa thu nạp được cái thông điệp báo rằng đã
đến lúc nó cần phải đóng máy lại nghỉ. Xem vẻ nhiều phần Evert Gullberg sẽ bị
đưa ra tòa.
Erlander không thích tình hình này, không thích trong một
lát. Nhưng ông không có bằng chứng để nói rằng những phát súng của Evert
Gullberg là nhằm một cái gì khác chứ không phải là những phát súng của một
người điên. Cho nên ông quyết định chơi ăn chắc. Ông nhìn Giannini.
- Tôi đã quyết định chuyển Salander sang một phòng khác. Có
một buồng ở trong hành lang nối với bên phải khu vực tiếp bệnh nhân, ở đấy tốt
hơn về mặt an ninh. Nó trông thẳng vào quầy tiếp tân và phòng của các y tá.
Không khách nào được phép vào như bà nữa. Trừ bác sĩ và y tá, không ai được vào
buồng cô ấy mà không có giấy phép. Và tôi sẽ lo liệu để có một người gác suốt
ngày đêm bên ngoài buồng cô ấy.
- Ông nghĩ là cô ấy đang gặp nguy hiểm ư?
- Tôi không biết cái gì cho thấy cô ấy đang gặp nguy hiểm.
Nhưng tôi muốn chọn giải pháp an toàn.
Salander chăm chú nghe câu chuyện giữa luật sư của mình và
kẻ thù của mình, một thành viên của lực lượng cảnh sát. Giannini trả lời rất
chính xác và sáng suốt đã gây được ấn tượng với cô. Việc chị luật sư giữ được
bình tĩnh mặc dù bị căng thẳng lại càng gây ấn tượng với cô hơn.
Ngoài ra, cô bị đau đầu dữ dội từ lúc Giannini lôi cô ra
khỏi giường và mang cô vào buồng tắm. Về bản năng cô mong càng có ít quan hệ
với nhân viên bệnh viện càng hay. Cô không muốn xin giúp đỡ hay tỏ ra một dấu
hiệu yếu đuối nào. Nhưng cơn đau đầu đã vượt quá sức chịu đựng đến nỗi cô không
thể nghĩ gì cho ngay ngắn. Cô thò tay bấm gọi y tá.
* * *
Giannini dự định đến Goteborg như một khởi đầu ngắn gọn, cần
thiết cho một công việc lâu dài. Chị muốn hiểu về Salander, hỏi cô về thực
trạng của cô và giới thiệu khái quát về chiến lược mà chị và Blomkvist đã cùng
đặt ra để giải quyết các thủ tục pháp lý. Ban đầu chị có ý quay lại Stockholm
ngay tối ấy, nhưng các sự kiện bi thảm ở Sahlgrenska đã có nghĩa là chị vẫn
chưa có được cuộc chuyện trò thực chất với Salander. Thân chủ của chị ở trong
một tình thế xấu hơn nhiều so với điều mà chị đã được dẫn đến chỗ tin vào nó.
Cô gái bị đau đầu dữ dội, sốt cao, bác sĩ Endrin đã phải vội cho cô thuốc giảm
đau mạnh, kháng sinh và đủ thứ khác. Do đó, ngay sau khi thân chủ của chị được
chuyển đến phòng mới và người gác đã đứng ở bên ngoài, người ta liền yêu cầu,
khá kiên quyết, chị phải rời đi.
Ðã 4 rưỡi chiều. Chị do dự. Chị có thể về Stockholm, biết
rằng ngày mai sẽ lại phải bắt chuyến tàu đi Goteborg càng sớm càng tốt. Hoặc
không thì có thể ở lại qua đêm. Nhưng thân chủ của chị có thể không đủ sức tiếp
nếu chị đến thăm vào ngày mai. Chị đã không đặt phòng khách sạn. Là một luật sư
chủ yếu đại diện cho các phụ nữ bị lạm dụng và ít tiền nong, chị cố tránh cho
hóa đơn của mình nặng thêm vì các khoản chi phí đắt đỏ ở khách sạn. Trước tiên
chị gọi về nhà rồi bíp máy Lillian Josefsson, một luật sư đồng sự, thành viên
của Mạng lưới phụ nữ và là bạn cũ từ thời ở Trường Luật.
- Tớ đang ở Goteborg, - Giannini nói. - Tớ định về nhà tối
nay nhưng xảy ra một số việc nên tớ phải qua đêm ở đây. Tớ ngủ ở nhà cậu có OK
không?
- Xin mời, như thế sẽ vui đấy. Hằng năm rồi chúng mình chưa
gặp nhau.
- Tớ có làm cậu phải ngừng công việc gì không?
- Không, dĩ nhiên không. Nhưng tớ đã dọn nhà. Nay tớ ở một
phố nhỏ, gần Linnegatan. Nhưng tớ có một buồng trống. Sau đó chúng ta có thể ra
quán bar nếu thích.
- Nếu tớ còn hơi sức, - Giannini nói. - Lúc nào thì được?
Họ đồng ý là Giannini sẽ đến vào quãng 6 giờ.
Giannini đi xe khách đến Linnegatan, sau đó ngồi vài giờ ở
một nhà hàng Hy Lạp. Đói bụng, chị gọi thịt nướng với xa lát. Chị ngồi hồi lâu
nghĩ về các sự kiện trong ngày. Bây giờ khi adrenalin đã bị xài hết, chị hơi
run run nhưng vui với mình. Trong lúc rất nguy hiểm chị đã lì, bình tĩnh và tập
trung tư tưởng. Theo bản năng chị đã ra các quyết định đúng đắn. Biết rằng mình
thích ứng được với một trường hợp khẩn cấp là một cảm giác thú vị.
Một lúc sau, chị lấy cuốn sổ ở trong cặp ra, mở phần ghi
chép. Chị đọc kỹ hết tất cả. Chị đầy nghi ngờ về cái kế hoạch mà anh chị đã
phác ra. Lúc ấy nó nghe thì logic, nhưng bây giờ xem ra lại không hay lắm. Dù
như thế, chị cũng không có ý bỏ cuộc.
6 giờ, chị thanh toán hóa đơn, đi bộ đến nhà Lillian trên
phố Olivedalsgatan. Chị bấm mã số của nhà bạn mà bạn chị đã cho. Chị bước vào
lòng giếng cầu thang tìm chỗ bật đèn thì thình lình bị đánh ở đằng sau. Chị đổ
sấp vào bức tường gạch men gần cửa. Ðầu bị đập mạnh, chị cảm thấy đau dội lên
và ngã ra đất.
Lát sau chị nghe thấy tiếng bước chân đi vội ra xa rồi cửa
chính mở ra và đóng lại. Chị cố đứng lên, đưa tay lên trán. Có máu ở gan bàn
tay. Quái quỷ gì thế này? Chị ra đường, vừa kịp liếc thấy một người rẽ ở góc
phố đến Sveaplan. Choáng váng, chị đứng sững một lúc. Rồi chị quay về cửa và
lại bấm mã số.
Thình linh chị nhận thấy không còn cái cặp. Chị đã bị trấn
lột. Phải mất một vài giây chị mới ngấm nỗi kinh hoàng về chuyện này. Ô không.
Tập hồ sơ Zalachenko. Chị cảm thấy một hồi chuông báo động réo lên từ buồng
phổi.
Chị từ từ ngồi bệt xuống cầu thang.
Rồi chị đứng bật dậy và thục tay vào túi áo khoác. Cuốn sổ
tay. Lạy Chúa. Rời hàng ăn, chị đã nhét nó vào túi áo thay vì để nó trở lại vào
cặp. Nó chứa phác thảo về chiến lược của chị trong vụ án Salander, từng điểm
chi tiết một.
Rồi chị lập cập lên tầng năm, đấm cửa nhà bạn.
* * *
Nửa giờ trôi đi chị mới đủ bình tâm lại để gọi cho anh ruột.
Mắt chị tím bầm, một chỗ rách ở trên lông mày vẫn chảy máu. Lillian đã rửa sạch
vết thương bằng cồn và đắp băng lên đó. Không, Giannini không muốn đi bệnh
viện. Có, chị muốn một tách trà. Chỉ đến lúc ấy chị mới lại nghĩ được đâu ra
đấy. Việc đầu tiên là gọi Blomkvist.
Anh vẫn còn ở tòa báo, đang cùng Cortez và Eriksson tìm
thông tin về kẻ giết Zalachenko. Càng lúc càng mất tinh thần, anh nghe Giannini
kể về những gì vừa xảy ra.
- Có bị gẫy xương không? - anh nói.
- Mắt tím bầm. Em sẽ OK sau khi bình tĩnh lại thôi.
- Em bị trấn lột hả?
- Mikael, cái cặp của em bị lấy cắp mất rồi, có hồ sơ
Zalachenko mà anh cho em ấy.
- Không sao, anh có thể sao bản khác...
Anh ngừng lại khi cảm thấy tóc gáy dựng lên. Trước là
Zalachenko. Nay Annika.
Anh đóng máy tính lại, nhét vào túi khoác vai, rời tòa báo
không một lời, đi vội. Anh đi như chạy về nhà ở Bellmansgatan, lên cầu thang.
Cửa khóa.
Vừa vào nhà, anh thấy ngay tập hồ sơ để trên bàn bếp đã
không cánh mà bay. Anh chả thiết tìm nó. Anh biết đích xác nó vốn dĩ ở đấy. Anh
buông người xuống chiếc ghế bành ở bếp trong khi ý nghĩ cứ quay cuồng trong
đầu.
Có người đã ở trong căn nhà này. Một người đang cố xóa dấu
vết của Zalachenko.
Bản sao của anh và bản sao của em gái anh đã mất.
Bublanski vẫn còn bản báo cáo này.
Hay anh hãy còn nhỉ?
Blomkvist đứng lên đi ra điện thoại, nhưng ngừng lại khi tay
đã đặt lên ống nghe. Ai đó đã ở trong nhà của anh. Anh hết sức nghi ngờ nhìn
điện thoại rồi lấy di động ra.
Nhưng nghe lỏm chuyện trên di động thì dễ như thế nào chứ
nhỉ?
Anh chầm chậm để di động xuống cạnh điện thoại bàn, nhìn
quanh.
Rõ ràng là mình đang chơi với bọn nhà nghề rồi đây. Dân này
có thể dễ dàng gắn bọ vào trong nhà cũng như lọt vào mà không phá khóa.
Anh lại ngồi xuống.
Anh nhìn vào máy tính xách tay của mình.
Xâm nhập thư điện của mình thì khó đến đâu? Salander chỉ cần
năm phút.
* * *
Anh nghĩ một lúc lâu rồi quay về điện thoại cố định, gọi cho
em gái. Anh thận trọng chọn chữ nghĩa.
- Em sao?
- Em tốt.
- Nói lại anh nghe chuyện gì xảy ra từ lúc em tới
Sahlgrenska đến lúc em bị tấn công?
Annika mất mười phút để kể lại đầu đuôi. Blomkvist không suy
luận mổ xẻ gì từ những điều Annika nói mà chỉ hỏi cho đến khi biết toàn bộ sự
việc. Nghe như một người anh trai lo lắng cho em, nhưng đầu óc anh thật ra lại
đang hoạt động ở một bình diện hoàn toàn khác, trong khi anh dựng lại những
điểm then chốt.
4 giờ chiều hôm ấy, Annika đã quyết định ở lại Goteborg. Em
gọi cho bạn bằng di động, nhận được địa chỉ và mã số cửa. Đến đúng giờ tên trấn
lột đã chờ sẵn ở cửa.
Di động của Annika đã bị kiểm soát. Chỉ có thể giải thích
như thế.
Nghĩa là di động anh cũng bị kiểm soát tương tự.
Chỉ có điên thì mới nghĩ khác mà thôi.
- Và bản báo cáo về Zalachenko đã bị mất, - Giannini nhắc
lại.
Blomkvist ngập ngừng. Ai đã lấy cắp bản báo cáo ấy ắt biết
là bản của anh cũng đã bị khoắng. Thì cứ nói đến chuyện đó tự nhiên thôi.
- Bản của anh cũng bị mất, - anh nói.
- Gì cơ?
- Anh nói anh về nhà thì thấy tập hồ sơ xanh để trên bàn bếp
đã bị mất.
- Tai hại, - anh nói giọng ủ rũ. - Nó là phần cốt lõi của
bằng chứng,
- Mikael, em rất tiếc.
- Anh cũng thế, - Blomkvist nói. - Khỉ thật! Nhưng không
phải lỗi em. Lẽ ra hôm có nó, anh phải đăng ngay lên báo mới đúng.
- Anh làm sao bây giờ?
- Chưa biết. Ðây là chuyện xấu nhất, không ngờ lại xảy ra.
Tất cả kế hoạch của chúng ta thế là đi tong. Chả còn tí bằng chứng nào chống
lại Bjorck và Teleborian.
Hai anh em nói mấy câu nữa trước khi Blomkvist ngừng.
- Anh muốn mai em về Stockholm, - anh nói.
- Em phải gặp Salander.
- Ði gặp cô ấy buổi sáng. Chúng ta cần ngồi lại và nghĩ xem
đường đi nước bước tiếp theo thế nào.
* * *
Đặt điện thoại xuống, Blomkvist ngồi lên đi văng nhìn đăm
đăm vào khoảng không. Bất cứ ai nghe chuyện của họ đều biết nay Millennium đã
bị mất bản báo cáo của Bjorck cùng với thư từ giữa Bjorck với bác sĩ
Teleborian. Họ sẽ hài lòng thấy Blomkvist và Giannini đều đang trong cảnh quẩn
bí.
Nếu không nhận được cái gì khác, chí ít từ lần nghiên cứu
lịch sử của Cảnh sát An ninh đêm hôm trước, Blomkvist cũng đã học được rằng
phao tin thất thiệt là cơ sở của mọi hoạt động tình báo. Và chính anh đã gieo
tin thất thiệt mà về lâu về dài có thể nó sẽ lợi hại không ngờ.
Anh mở túi đựng máy tính xách tay, lấy ra bản sao làm cho
Armansky mà anh chưa kịp gửi. Bản sao duy nhất còn lại và anh không muốn uổng
phí nó. Trái lại, anh sẽ sao làm năm bản và cất chúng vào những nơi an toàn.
Rồi anh gọi Eriksson. Cô sắp khóa cửa tòa báo để về.
- Ðang lúc cập rập như thế mà anh biến đi đâu vậy? - Cô nói.
- Cô có thể nán lại đấy một lát không? Có một việc tôi phải
nói với cô trước khi cô về.
Mấy tuần nay anh không có thì giờ giặt giũ quần áo. Tất cả
sơ mi của anh đều ném trong giỏ giặt đồ. Anh cho vào túi một dao cạo, cuốn Đấu
tranh quyền lực cho Sapo cùng với bản sao còn lại báo cáo của Bjorck. Anh đến
Dressman mua bốn cái sơ mi, hai quần, một ít đồ lót rồi đem quần áo đến tòa
báo. Eriksson chờ trong khi anh tắm vội, nghĩ không hiểu đã xảy ra chuyện gì.
- Một người đã đột nhập nhà tôi, ăn cắp mất bản báo cáo
Zalachenko. Một người đánh Annika ở Goteborg, lấy cắp mất bản sao của cô ấy.
Tôi có bằng chứng rằng điện thoại của cô ấy đã bị nghe trộm, nghĩa là máy của
tôi cũng vậy. Có lẽ máy ở nhà cô và tất cả điện thoại ở Millennium đều đã bị
gắn bọ cả. Một đứa đã mất công đột nhập nhà tôi mà không cài bọ thì có họa nó
là thằng ngố.
- Em rõ, - Eriksson nói, bình thản. Cô liếc về chiếc di động
ở trên bàn làm việc trước mặt.
- Cứ làm việc như thường. Cứ dùng di động nhưng không sơ hở
ra thông tin nào. Ngày mai bảo Henry.
- Anh ấy vừa về một giờ trước đây. Anh ấy để một chồng báo
cáo ở trên bàn của anh. Nhưng anh làm gì ở đây?
- Tôi định ngủ ở đây đêm nay. Nếu chúng bắn Zalachenko, ăn
cắp các báo cáo, cài bọ ở nhà tôi hôm nay thì có nhiều cơ may là chúng vừa mới
khởi sự và chưa kịp mò đến tòa báo.
- Anh nghĩ việc giết Zalachenko... nhưng hung thủ là một ông
già bị bệnh tâm thần.
- Malin, tôi không tin có trùng hợp. Một ai đó đang che giấu
tung tích Zalachenko. Tôi bất cần người ta nghĩ lão già điên ấy là ai hay lão
đã viết bao nhiêu thư gửi cho các Bộ trưởng trong Chính phủ. Hắn là một kiểu
giết thuê nào đó thôi. Hắn đến đó để giết Zalachenko... Và có lẽ cả Salander.
- Nhưng hắn đã tự sát, hoặc cố làm như vậy. Giết thuê mà lại
thế sao?
Blomkvist nghĩ một lúc. Anh bắt gặp ánh mắt Tổng biên tập
nhìn anh.
- Có thể khi một người đã bảy mươi tám và không có gì nhiều
để mất. Hắn có chung các cái đó, khi nào chúng ta đào bới xong thì sẽ chứng minh
chuyện đó.
Eriksson quan sát nét mặt Blomkvist. Trước đây cô chưa thấy
anh bình tĩnh và kiên định như thế này bao giờ. Cô rùng mình. Anh để ý thấy
phản ứng này.
- Một điểm nữa. Chúng ta không còn trong trận chiến với một
băng tội phạm nữa, lần này là với một bộ phận của Chính phủ. Sẽ gay go đấy.
Eriksson gật.
- Tôi không ngờ chuyện lại đi xa đến thế này. Malin...
Chuyện xảy ra hôm nay cho thấy rõ ràng là nó sẽ nguy hiểm đến đâu. Nếu cô không
muốn dính dáng, cứ nói một lời.
Cô thầm nghĩ nếu là Berger thì Berger sẽ nói gì đây. Rồi bướng bỉnh cô lắc đầu.
-------------
Còn tiếp...
Cô thầm nghĩ nếu là Berger thì Berger sẽ nói gì đây. Rồi bướng bỉnh cô lắc đầu.
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét