Thay lời tựa
Thân mến tặng Quỳ, người nội trợ đã giúp tôi viết xong cuốn
sách này; người bạn đã cho tôi thưởng thức miếng ngon đất Bắc; để kỷ niệm những
ngày vui sống trên đầm Linh Đường ngào ngạt hương sen.
V.B
Vào khoảng năm tàn tháng hết, ở miền Nam nước Việt
có những buổi tối đìu hiu lạnh như mùa thu đất Bắc.
Gió buồn đuổi lá rụng trên hè. Mây bạc nặng nề trôi đi chầm
chậm như chia mối buồn của khách thiên lý tương tư.
Người xa nhà đột nhiên thấy trống trải trong lòng. Lê bước
chân trên những nẻo đường xa lạ, y thấy tiếc nhớ một cái gì không mất hẳn,
nhưng không còn thấy. Nhớ vẩn vơ, buồn nhẹ nhẹ. Cái buồn không se sắt, cái nhớ
không day dứt, nhưng chính cái buồn và cái nhớ đó mới thực làm cho người ta
nhọc mệt, thẫn thờ. Lòng người, cũng như cánh hoa, chóng già đi vì thế.
Người ta không nặng lắm về hiện tại, nhưng thiết tha với quá
khứ hơn.
Một tiếng dế ở chân tường, một ngọn gió vàng heo hắt, hay
một tiếng lá đụng cành trâm đều nhắc nhở ta những kỷ niệm xa xôi, dìu dịu.
Ngày xưa, người cung nữ ở trong tiêu phòng lạnh ngắt thấy xe
dê thì nhớ đến lúc được quân vương ấp ủ thương yêu. Tiếng con ý nhi gợi lại ở
trong lòng người chinh phụ buổi người tráng sĩ “lâm hành”. Tại kinh đô Trương
Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn
trở về quê cũ.
“Gió thu một tiếng bên tai,
Thuần, lư sực nhớ đến mùi Giang Nam .”
Đôi khi cũng mang bệnh nhớ nhung, người viết sách này vào
lúc năm tàn hầu hết cũng ưa nghĩ đến một vài kỷ niệm xa xưa.
Một chén trà sen do nhà ướp; mấy cái bánh Tô Châu nhấm nháp
vào một hôm mát trời; một nồi cơm gạo tám ăn với thịt rim; bát canh cần bốc
khói xanh nghi ngút; mấy quả cà Nghệ giòn tan hay mẻ cốm Vòng ăn với chuối tiêu
trứng cuốc... tất cả những thứ đó, gợi cho ta một nỗi thèm tiếc mờ mờ, như làm
rung động tới những nơi thầm kín nhất của lòng.
Những lúc đó ta không thể không liên tưởng tới những ngày
dịu ngọt bên cạnh mẹ già, vợ dại dưới cái mái nhà cũ kỹ rêu phong. Ngọn đèn
không sáng lóe nhưng đủ soi một cách thân mật vào những mái tóc thân yêu; tiếng
ca hát không nhiều nhưng đủ làm cho tim ta ấm áp; mà bữa cơm tuy là thanh đạm,
nhưng đủ để cho ta ngon miệng hơn là ăn vây, ăn yến.
Đi trong gió lạnh lùng, tôi nhớ đến những buổi sum họp êm
đềm, tôi nhớ đến những bữa cơm thân mật, tôi nhớ đến những miếng ngon gia dụng
và đêm đêm tôi đã ghi những nhận xét và cảm xúc đó lên trên mặt giấy.
Hợp với những bài đã viết trước đây, cuốn sách nhỏ bé này
không có tham vọng gì hơn là ghi lại được nỗi buồn nhớ xa xôi và gửi gắm một
chút tình cho ai ai, ở Trung, Bắc cũng như Nam , mang nặng trong lòng những
biệt ly xứ sở.
V.B.
Dựng
Miếng ngon nhớ lâu,
Cơ cầu nhớ dai.
(Phương ngôn)
Sau một cuộc biến thiên, đất nước đổi thay nhiều lắm. Ai hồi
cư năm 1948-1949 có còn nhớ rằng suốt từ Bạch Mai về đến chợ Hôm, có hàng dãy
phố bị phá không? Hàng Da, Hàng Thiếc, Hàng Đồng, chỉ còn trơ lại mấy cái nhà
lỏng lẻo, mất cả trần, cả cửa. Có phố cỏ mọc ra cả đường đi. Nhiều cái ngõ hẻm
bị nghẽn, không qua lại được, vì gạch ngói chất cao lên như núi.
Bây giờ thành phố Hà Nội lại có một vẻ mặt mới rồi. Nhiều
phố ngày xưa hẹp và khuất khúc, với những cái nhà lụp xụp, một tầng, trông vào
tối tăm như một ngày mùa đông, nay đã có những căn nhà rộng, kiểu mới, cửa sổ
bịt hoa sắt, đứng lên thay thế. Có khi đứng ở đầu phố mà nhìn về cuối phố,
người ta thấy nhà cửa thẳng tăm tắp như vẽ trong bản đồ. Ấy là vì nhu cầu của
văn minh đó. Xe nhiều, người lắm, có sửa sang như thế mới dễ bề giao thông.
Người đi bộ đỡ chết, mà ông vặn lái ôtô cũng thích.
Nhưng đối với những người nhàn tản, thích nhìn vào những cái
nhỏ mọn, cũ kỹ để tìm lại dấu xưa vết cũ của Hà thành, có lẽ cái tỉnh thành mới
này không gợi cho trí óc nhiều cảm tưởng nên thơ lắm, như trước hồi chiến
tranh.
Người ta bâng khuâng nhớ một cái gì đã mất, và chính người
ta không biết rõ là cái gì. Tuy núi Nùng hãy còn, tháp Rùa (với một ngọn đèn
máy ở trên Đỉnh tháp!) vẫn còn sờ sờ ra đấy, nhưng không khí Hà Nội cũ thì hình
như đã đổi thay. Nóng không phải là cái nóng Hà Nội cũ, mà rét cũng không phải
cái rét của Hà Nội cũ.
Người tản cư đi tha thẩn hết cả “Hà Nội 36 phố phường”, vào
một buổi đầu thu kia, nghiệm thấy rằng: tâm tánh người Hà Nội đổi thay, phố xá,
nhà cửa thay đổi, mà cái mặc của người Hà Nội cũng khác xưa, duy chỉ có một thứ
không thay đổi: là cái ăn của người Hà Nội.
Tôi không muốn nói ở đây về cái lượng ăn, nhưng muốn nói về
cái phẩm, không muốn nói về tánh cách ăn của từng người, nhưng về cái chất ăn
của đại đa số người Hà Nội.
Xa Hà Nội một dạo, người trở lại đế đô có thể ăn các thứ cao
lương mỹ vị của Tàu, Tây, nhưng rút lại thì người Hà Nội rồi cũng quay về với
những món ăn cổ truyền đặc biệt Hà Nội nó làm cho chúng ta thèm nhớ.
Ăn vây, ăn bóng, ăn hải sâm, bào ngư, gì rồi cũng chán. Một
buổi sáng kia, thấy nản về sự tiêu hóa, ta chợt nhớ rằng cơm trắng vẫn là lành
và hợp với tạng phủ ta. Một bát phở khói bốc lên nghi ngút, một mẹt bún chả
thơm ngào thơm ngạt, hay một đĩa bánh cuốn Thanh Trì, để bên cạnh một đĩa đậu
rán phồng nóng rẫy lên, tự nhiên làm cho ta nhớ rằng những cái đó đã tạo nên
một phần nào linh hồn của Hà Nội; sở dĩ ta thấy không thể quên được Hà Nội cũng
vì những thức ăn đặc biệt Hà Nội đó.
Có những người đã qua cái tuổi hai mươi, bị những bóng dáng
yêu kiều của đô thị văn minh xô đẩy, đã bỏ cái mái nhà yên ấm của mình đi theo
tiếng gọi của một tình yêu mới, êm ái hơn, thắm tươi hơn.
Hương bốn mùa có thể làm cho họ say sưa, nhưng một buổi
chiều đông kia, người đàn ông lạc phách trở về thấy gia đình ấm cúng, chân
thật, bỗng thấy lòng ân hận, vì đến lúc bấy giờ mới cảm thấy chỉ có người vợ
tấm nẳm mới là người chung thủy với mình.
Một cái quàng tay, một cái nhìn âu yếm, cả một thời ái ân
xưa kia tưởng đã tan biến, bây giờ lại trở về, có phần thơm ngát hơn xưa. Một
hơi thở, một miệng cười gợi lại cả một mối tình êm dịu mà kín đáo, cũng như một
người xa quê lâu ngày, ngửi thấy mùi lúa chín ở cánh đồng, lại thấy nở ra trong
trí bao nhiêu kỷ niệm tươi đẹp nơi đồng áng.
Miếng ngon Hà Nội, vì thế, nhiều khi làm cho ta yêu Hà Nội
thấm thía, nhớ Hà Nội ê chề, và làm cho ta cảm giác ta là người Hà Nội hơn...
Có ai đã xa Hà Nội lâu ngày, một chiều hiu hắt vọng về Hà Nội nhớ từng cái ngõ,
từng cái nhà, nhớ từng vườn Bách Thảo, hồ Hoàn Kiếm nhớ đi, nhớ từ những hoa
sấu rụng ở trên đường đầu thu nhớ xuống, mà tự nhiên ở đâu có người tìm đến
mang “một chút quà Hà Nội” đến cho mình, người ấy mới có thể biết “quà Hà Nội”
giá trị như thế nào!
Kể về đồng tiền thì cũng chẳng lấy gì làm đắt đâu. Một lọ cà
cuống không to hơn một ngón tay; vài cái bánh cốm, bên một lạng chè mạn sen,
hay một lọ vừng hoặc một chai nước mắm; mấy thứ đó tính theo thời giá, không
quá năm chục bạc. Thế nhưng mà những cái quà đó đã đem đến cho lòng ta bao
nhiêu sự đắm say, bao nhiêu thú vị, bao nhiêu cảm giác mông lung, nhã lịch! Ta
cầm lấy mà thấy như ôm một chút hương hoa của đất nước vào lòng. Ai đã bảo ăn
uống là một nghệ thuật? Hơn thế, ăn uống là cả một nền văn hóa đấy.
Nhiều người viết về ảnh hưởng huyền diệu của văn chương đã
nhận rằng đọc một quyển sách hay còn như sống hẳn một kiếp khác vì được làm bạn
với thánh hiền.
Người sành ăn, người biết ăn ngon cũng thế, ăn một miếng
ngon của đất nước thấy bừng lên ở trong lòng một mối hạnh phúc, vì đã được ăn
vào trong mình một chút gì của đất nước, một tinh túy truyền từ năm, tháng nọ
sang tháng, năm kia.
Có phen ta đã ăn quà Nhật, ta dùng cơm Tây, ta lại ăn tiệc
Tàu. Mỗi miếng ngon của một nước biểu lộ một phần nào cá tính của nước đó, cũng
như uống nước trà năm giờ là đặc biệt Ănglê, cary
dê, cary gà là
đặc biệt Ấn Độ hay ăn cơm rang với thịt bò trộn đường là đặc biệt Phù Tang.
Bây giờ có lẽ cũng đã xa rồi, nhưng vào cái thời 1946-1947,
ở biên khu chạy loạn, tôi quả đã nhớ đến những miếng ngon Hà Nội, có khi đau
nhói ở tim. Ăn một bát phở ở chợ Đại, tôi lại nhớ tới anh phở Sứt ở trong cái
ngõ cụt Tràng Tiền; ăn nem chả thì nhớ nem chả ở đình Hàng Vải Thâm; bún thì
bún chợ Bằng; miến lươn trên chợ Đồng Xuân; bánh đậu, nhớ bánh đậu Hải Dương;
kẹo mè Thiều Châu, rồi thì bánh cốm Nguyên Ninh, chả Hàng Hài, và cốm Vòng, và
nhãn Cót, và bánh lam Lim, và chả nướng Ghềnh, và bánh giầy Quán Gánh!
Bởi vì phàm thức quà gì ngon nhất, thảy thảy đều phải “có
mặt” ở Hà Nội cả. Nhớ đến những quà ấy, không phải là nhớ đến Hà Nội mà thôi,
nhưng là nhớ tất cả một dải đồng bằng phì nhiêu Bắc Việt, có sáo sậu nhảy trên
lưng bò, với những người nhà quê vạm vỡ cày ruộng, với những cô gái vừa hát vừa
quay tơ, với những đứa trẻ chăn trâu, mặt mày lem luốc nhưng trông duyên dáng
biết bao!
Chao ôi, những sự nhớ nhung đó, sao mà đằm thắm, sâu xa thế!
Lòng người ta buồn nhè nhẹ, có phải một phần cũng vì thấy nhớ nước, yêu nước và
thương nước hơn không?
Ai bảo rằng sau bao nhiêu cuộc bể dâu, nước Việt Nam vẫn còn tồn
tại là vì một nền văn hóa cổ truyền đã ăn sâu như những cái rễ vào trong dân
tộc?
Tôi thấy rằng ví bây giờ mà tôi có bị mẹ mìn bắt đem đi đất
lạ một nghìn năm, tôi cứ vẫn là người Việt Nam vì không bao giờ quên được
những miếng ngon Hà Nội và tôi thường thích nghĩ rằng những miếng ăn đó thật
quả là giống như những tác phẩm văn chương bất hủ.
Thế giới mỗi ngày một tiến hơn thì tư tưởng cũng thế, không
đứng nguyên một chỗ. Vì thế có những tác phẩm hợp với thời này mà không hợp với
thời kia, hay với người thời này mà không hay với người thời khác; nhưng bên
cạnh những cái đó, há ta chẳng thường thấy những áng văn gọi là “cổ điển” mới
luôn luôn, mới mãi mãi, đời nọ truyền đời kia mà không lúc nào lạc hậu đó sao?
Đó là những tác phẩm của Voltaire, của Dickens, của Ôn Như
Hầu, của Shakespeare, của Đoàn Thị Điểm, hơn thế nữa, truyện Kiều của Nguyễn Du
có 4.000 câu thơ, mà có nhà học giả dám đoan quyết không thể thay đổi đi một
chữ!
Nhiều “miếng ngon Hà Nội” có thể cũng ví như tác phẩm của
Nguyễn Du. Không thể khéo hơn được, không thể ngon hơn được, vì thế, không thể
thay đổi được. Nếu ta muốn nhại Nguyễn Văn Vĩnh, sao ta lại không thể nói được
rằng:
“Nước Việt Nam
còn thì miếng ngon Hà Nội vẫn còn?”
cũng như ông đã viết:
“Truyện Kiều còn thì nước Nam còn!”
Từ trước đến nay, nhiều người đã phân tách và giải thích
truyện Kiều cũng như các tác phẩm văn chương khác của Việt Nam .
Phần tôi, bắt đầu từ đây, tôi muốn đem phân tách và giải
thích “miếng ngon Hà Nội” - những miếng ngon mà người Việt Nam ăn vào thấy ngát
mùi đất nước Việt Nam, thấy mình Việt Nam hơn, và thấy thích thú, kiêu hãnh
được trời cho làm người Việt Nam.
Phở Bò món quà căn bản
Sao lại là quà căn bản?
Vâng, chính thế; người ta có thể nói rằng người Việt Nam có
thể không ăn bánh bao, bánh bẻ, có thể không ăn mằn thắn hay mì, có thể không
ăn xôi lúa, nhưng chắc chắn là ai cũng đã từng ăn phở.
Rẻ lắm. Theo giá trị của đồng bạc bây giờ năm đồng một bát
phở, mà ba đồng cũng được một bát phở ngon như thường.
Vì thế, từ cô bán hàng trong một cửa hiệu buôn cho đến một
ông công chức, từ một bà mệnh phụ nhà có cửa võng sơn son thiếp vàng, đến một
người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai cũng ăn bát phở. Ngon miệng thì ăn
hai, riêng tôi thì tôi đã từng thấy có người điểm tâm buổi sáng tới ba bát
liền, mỗi bát tám đồng, vị chi hai mươi bốn, hai mươi nhăm đồng bạc.
Thật thế, phở đối với một hạng người, không còn là một món
ăn nữa, mà là một thứ nghiện như nghiện thuốc lào, thuốc lá, trà tươi, thuốc
phiện.
Ngay từ ở đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến
rũ ta như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên đỉnh
núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa ngoài. Ta tiến lại gần một cửa hàng bán
phở, thật là cả một bài trí nên thơ. Qua lần cửa kính ta đã thấy gì? Một bó
hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò
tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có... Người bán hàng
đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt
ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ
những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh
Tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.
Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa rét, có gió bấc thổi hiu
hiu, mà thấy người ta ăn phở như thế, thì chính mình đứng ở ngoài cũng thấy ấm
áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho được...
Ấy vậy mà người sành ăn phở, người ăn phở kỹ càng không thể
dễ tính, nhất tề bước vào một cửa hiệu phở thứ nhất nào để mà ăn liều ăn lĩnh.
Bởi vì những người sành ăn đó, thường không tin gì cho lắm ở
những hàng phở mở cửa hàng. Người ta bảo rằng phần nhiều những hàng phở mở hiệu
như thế, nước dùng không được ngọt, hoặc có ngọt là cái ngọt của mì chính, chứ
không phải là cái ngọt của xương bò, ấy là chưa nói rằng lại còn cửa hiệu phở
quá vụng về muốn có nước dùng ngọt lại cho đường vào nữa. Ăn phải một bát phở
như thế, không những tiếc tiền, mà lại còn thấy phí phạm cả cái công ăn, đến
sinh ra lợm giọng, bực mình là khác.
Vì thế, người ăn phở muốn cho thật đúng cung cách, phải thăm
dò, phải điều tra, phải thí nghiệm kỹ càng rồi mới ăn mà một khi đã chịu giọng
rồi, ta có thể tin chắc rằng người đó sẽ là một người khách trung thành, cũng
như một người đàn ông nghệ sĩ trung thành với hơi hướng của một người yêu, cũng
như một người chồng mê vợ vì người vợ đã có tài làm một hai món khéo, ăn vào
hợp giọng.
* * *
Chính vì lẽ đó, chúng ta đã từng thấy có những người vất vả
vì ăn phở. Trước kia, còn thái bình, ta đã từng thấy có buổi sáng, hàng trăm
người chen chúc khổ sở vào cái ngõ con bề ngang không quá một thước ở phố Hàng
Khay, bên cạnh nhà Bát Si Nha hay xuống tận đằng sau chợ Hôm, trong một cái
quán lá tồi tàn để thưởng thức cho kỳ được một hay hai bát phở mới yên tâm.
Thời đó, nổi tiếng có anh phở Sứt sáng lập ra món phở giò
(lấy thịt bò quận lại như cái dăm bông rồi thái mỏng từng khoanh nhỏ điểm vào
với thịt). Phở Nhà thương Phủ Doãn ăn được nhưng nước hơi nhạt; phở Đông Mỹ ở
phố Mới ăn êm, nhưng tẩy gừng hơi quá tay; phở Cống Vọng, kéo xe, ngon, nhưng
nước dùng hơi hôi; phở Mũ Đỏ ở đằng sau miếu chợ Hôm vô thưởng vô phạt, ăn khá,
nhưng chưa có gì quyến rũ.
Còn một anh phở nữa là anh phở Tàu Bay lúc đó cũng nổi tiếng
lắm; sáng sáng, người ta đứng đầy cả ra ở ngã ba đầu Hàm Long, xế cửa Sở Hưu
bổng để mà tranh nhau ăn, như thể lúc mới hồi cư, người ta tranh nhau đứng lĩnh
“bông” sữa, “bông” vải vậy. Thịt mềm, nước cũng đã ngọt, nhưng thật ra thì chưa
có thể gọi là trác tuyệt.
Phải đợi đến lúc hồi cư về, ta mới thấy, phong trào phở tiến
nhanh và tiến mạnh như thế nào.
Họa hoằn về phía chợ Đuổi mới thấy một hai hàng phở xe. Còn
thì là phở gánh và phở hiệu.
Một gian nhà đổ căng một cái bạt, bắc vài cái ghế; một cổng
đình chắn một tấm phên tre; một cái ngõ, che mấy tấm tôn và kê một hai tấm ghế
dài: thế là đã thành ra một cửa hàng rồi, ngồi ăn được, mà rất có thể lại ngon
lành là khác.
Bởi vì ta phải biết rằng, người đi ăn phở - nói cho thật
đúng nghĩa chữ ăn phở - không kỳ quản lắm đến sự bài trí của chỗ ăn, cũng như
người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ là phải nằm hút ở một chỗ sang
trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc làm bằng bạc.
Nếu ta đã từng thấy có những người giàu có, nghiện thuốc
phiện, chui vào những cầu gác bẩn thỉu, hôi hám để ăn thuốc mới thấy “đã thèm”.
Thì ta lại cũng thấy biết bao nhiêu người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn
để ăn cho được một hai bát phở.
Đó là do người ăn phở sành, hầu hết, chỉ chủ tâm đến cái
điểm chính là phở mà thôi, chứ không quan tâm đến ngoại cảnh làm gì. Điều cần
thiết là bánh phải mỏng và dẻo, thịt mềm, và nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt
kiểu chân thật, nghĩa là ngọt vì nhiều xương, tẩy vừa vặn không nồng, mà lại
tra vừa mắm muối, không mặn quá mà không nhạt quá.
Đạt được mấy điểm đó tức là ăn phở được đấy.
Vào khoảng 1948-1949, phở Phú Xuân ở phố Rixô ăn được; đồng
thời có phở Đông Mỹ, phở Tứ. Phở Tứ, phở Tàu Bay (bây giờ đã dọn thành cửa
hiệu) và một ít hàng nữa mà ta không kể hết. Nhưng phở nào hình như cũng chỉ có
một thời. Vì thế, nhiều hiệu và nhiều gánh phở có tiếng bây giờ nằm ngủ ở trên
danh vọng. Người ta nghiệm thấy điều này: phần nhiều hàng phở lúc còn gánh thì
ngon, mà dọn thành cửa hàng rồi thì kém.
Có phải đó là vì chểnh mảng trong sự cố gắng, hay là vì
thành kiến của người ăn?
Duy ta có thể chắc được điểm này là một hàng phở đương làm
ngon mà sút kém đi thì chỉ trong một tuần lễ, nửa tháng, cả Hà Nội đều biết rõ;
trái lại, mới có một hàng phở nào làm ăn được thì cũng chỉ dăm bữa, mươi ngày
là cả Hà Nội cùng đổ xô ngay đến để mà “nếm thử”, không cần phải quảng cáo lên
nhật báo lấy một dòng!
Âu đó cũng là một điểm đặc biệt trong thương trường vậy.
Nhiều người cho rằng sở dĩ thế ấy là vì món phở đứng cao hơn
mọi sự lừa bịp của thời này: phở ngon là ngon, chứ không thể lừa dối người ta
được.
Mà lừa dối làm sao?
Một người lầm, nhưng không thể một nghìn người lầm được.
Người ta ăn phở có phải là tiêu hóa rồi mà thôi đâu? Không.
Cũng như đọc một áng văn hay, gấp sách lại mà còn dư âm
phảng phất, còn suy nghĩ, còn trầm mặc, người ta ăn phở xong cũng đắn đo ngẫm
nghĩ, rồi có khi đem thảo luận với anh em, nhất là các công chức và các tay
thương gia rỗi thì giờ thì lại luận bàn kỹ lắm.
Thì ra phở không những là một món ăn, một sự thích thú cho
khứu giác, mà còn là cả một vấn đề; vấn đề ăn phở, vấn đề làm phở.
Muốn thấu triệt hai phương diện của vấn đề, chúng ta cần
phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa trường Hàng Than để quan sát một hàng
phở nổi danh nhất bấy giờ: phở Tráng - mà có người yêu mến quá mức đã gọi
(chẳng biết đùa hay thực?) là “vua phở 1952".
Tráng là tên ông “vua phở” này. Nhưng người ta không gọi anh
bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi những hàng phở ngon bằng tên của người
bán, mà gọi bằng tên phố người hàng phở đứng bán (như phở Tráng thì gọi là phở
Hàng Than, phở Sứt thì gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sước hiệu (như phở
Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe
đầu Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân) và
có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tàu Bay, Tàu Bò)...
Vậy thì ông vua ấy tên là Tráng, nhưng người ta vẫn gọi là
phở Hàng Than.
Hình thù, vóc dáng của anh ta trông thật nản. Người gầy, môi
hơi thưỡi, mắt thì lờ đờ như người chết rồi. Bất cứ lúc nào, nhìn thấy anh, ông
cũng cảm giác đó là một người vừa mới thăng đồng, đương sống trong một cái thế
giới u minh; thêm vào đó, lại bịt ở trên đầu một cái mùi soa trắng, trông mới
lại càng... “thiểu số”.
Người đâu mà lại “lỳ xì” đến thế là cùng! Hàng năm bảy chục
người, hàng tám chín chục người đứng vòng lấy gánh hàng của anh ta, chật cả một
cái hè đường để mua ăn, để “đòi ăn” - phải, họ đòi ăn thật - mà anh ta cứ làm
như thể không trông thấy gì, không nghe thấy gì.
Anh ta cứ thản nhiên, thái thịt, dốc nước mắm, rưới nước
dùng - ai đợi lâu, mặc; ai phát bẳn lên; mặc; mà ai chửi, anh ta cũng mặc.
Đi ôtô đến ăn cũng thế, mặc áo vải đến ăn cũng thế; các bà
các cô đẹp đáo để, đến ăn cũng thế. Anh ta không đặc biệt riêng với ai - kể
cũng dân chủ đấy! - nhưng có nhiều bà tức vì anh ta không nịnh đầm.
Ghét quá. Thế thì thuê một cái nhà rộng, mượn thêm người làm
có phải lợi không? Hay là điều đình với xưởng củi người ta để cho một gian, bày
mấy cái bàn, cái ghế, có người trông nom, tính tiền cẩn thận có phải không mất
mát không?
Mặc cho ông cứ nói, anh phở Tráng không trả lời - nhất là
không bao giờ cười.
Trông mà lộn ruột, muốn tát cho một cái. Chết một nỗi ghét
người thì thế, nhưng đến cái phở của anh ta muốn ghét, không tài nào ghét được.
Có ai chen chúc vất vả, hò hét đứt hơi được một bát phở của anh, mà lại chưa ăn
ngay, còn dừng lại một phút để ngắm nghía, phân tách bát phở đó ra thế nào
không? Thật là kỳ lạ! Bánh phở không trắng và dẻo hơn, thịt thì cũng chẳng
nhiều, nhưng mà làm sao ngon lạ, ngon lùng đến thế? Chưa ăn đã biết là ngon
rồi.
Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú. Một nhúm bánh phở; một
ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc; mấy nhát gừng màu
vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa
lựu... ba bốn thứ màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể
của một họa sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo
quá, nhưng mà đẹp mắt. Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái
thịt bò từng miếng bày lên. Đến đây thì Tráng vẫn không nói năng gì, nhưng tỏ
ra biết chiều ý khách hàng một cách đáng yêu.
Ông muốn xơi chỗ thịt nào cũng có: vè, sụn nạm, mỡ gầu, mỡ lật,
vừa mỡ vừa nạc, vừa nạm vừa sụn, thứ gì anh ta cũng chọn cho kỳ được vừa ý ông
- miễn là ông đến xơi phở đừng muộn quá.
Ăn phở chín thì như thế là xong, chỉ còn phải lấy nước dùng
và rắc một chút hạt tiêu, hay vắt mấy giọt chanh (nếu không là tí dấm).
Nếu ông lại thích vừa tái vừa chín thì trước khi rưới nước
dùng, anh Tráng vốc một ít thịt tái đã thái sẵn để ở trong một cái bát ôtô, bày
lên trên cùng rồi mới rưới nước dùng sau.
Thế là “bài thơ phở” viết xong rồi đấy, mời ông cầm đũa. Húp
một tí nước thôi, đừng nhiều nhé! Ông đã thấy tỉnh người rồi phải không?
Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có
như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay
của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy
thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm
dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm... rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó
lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành
thực, thiên nhiên, không có chất gì là hóa học... không, ông phải thú nhận với
tôi đi:
“Có phải ăn một bát phở như thế thì khoan khoái quá, phải
không?”
Quả vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể “lâm
li” hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở như
thế, thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong vòng tay
một người vợ đẹp mà lại đa tình vậy!
Ý hẳn cũng có người cảm giác như tôi, cho nên biết bao nhiêu
bận đứng chờ làm phở, tôi đã thấy những người đàn bà, đàn ông, người già, trẻ
con, bưng lấy bát phở mà đôi mắt sáng ngời lên. Người ta chờ lâu thì bực thật
đấy, nhưng cũng vẫn cứ chờ cho được, tuồng như đã đến mà không được ăn thì
chính mình lại phải tội với mình, vì đã đánh lừa thần khẩu - hay nói một cách
khác, đến đấy mà không cố ăn cho kỳ được thì rồi sẽ hối hận như một người tình
đã để lỡ cơ hội chiếm người yêu...
Nhưng mà dù thiết tha đến bực nào, ông cũng rất có thể một
hôm nào đó bị ra về mà không được ăn - dù một bát thôi. Ấy là vì chỉ độ chín
giờ, chín rưỡi thì thường là phở Hàng Than đã hết.
Cho nên những người thật nghiện phở thường vẫn rủ nhau đi ăn
thật sớm. Theo lời họ nói lại, muốn thưởng thức hoàn toàn hương vị phở Hàng
Than, cần phải dậy đi ăn từ sáu giờ, vào lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó, trời
mờ mờ chưa rõ mặt người, phố xá họa hoằn mới có dăm ba người qua lại. Anh đi ăn
sẽ thấy một cái thú khác lạ nữa là ăn ngon trong tịch mịch, ăn ngon trong không
khí trong lành.
Khách chưa có ai, anh muốn ăn kiểu gì, muốn xơi chỗ thịt
nào, muốn dùng nước thịt bò tươi rưới lên bánh, muốn có mỡ lật, mỡ gầu, muốn
nước trong hay béo, tha hồ mà hạch! Anh được như ý và anh sẽ vừa ăn vừa nhìn
mấy thanh củi tạ ở trong lò kêu lách tách và bắn ra ngoài trời sắc sữa những
hoa lửa vi ti màu đỏ tươi.
* * *
Dù sao, ta cũng phải nhận rằng đến vấn đề ăn phở thì người
Việt Nam
quả là khó tính lạ lùng.
Một người bạn đã từng nếm đủ hương vị của tất cả những hàng
phở danh tiếng ở Hà thành khoảng ba mươi năm trở lại đây, một hôm, cho tôi biết
rằng: “Đến cái năm 1952 này, phở hình như đã tiến tới chỗ tuyệt đỉnh của nó
rồi, cũng như một bản nhạc tuyệt kỹ... không chê vào đâu được, nghĩa là không
thể thêm một món gì hay giảm một món gì”.
Theo anh ta thì phở mà cho magi vào thì rất hỏng mà quấy
“lạp chiếu chương” vào cũng lại dở vô cùng. Phải là hoàn toàn gia vị Việt Nam mới được:
hồ tiêu Bắc, chanh, ớt, hành hoa, rau thơm hay là một tí mùi, thế thôi, ngoại
giả cấm hết, không có thì là tục đấy!
Có người kể chuyện rằng trước đây mười lăm, hai mươi năm, đã
có một hàng phở ở phố Mới tìm lối cải cách phở, cũng như Năm Châu, Phùng Há dạo
nào cải cách cải lương Nam kỳ, tung ra sân khấu những bản “De đơ dà múa”. Họ
cho mà dầu và đậu phụ vào phở, nhưng cố nhiên là thất bại.
Sau còn có người làm phở cho cà rốt thái nhỏ, hay làm phở ăn
đệm với đu đủ ngâm giấm hoặc là cần Tây, nhưng thảy thảy đều hỏng bét vì cái
bản nhạc soạn bừa bãi như thế, nó không... êm giọng chút nào.
Một chú khách ở chợ Hôm, chuyên về lối “phở nhừ”, bánh thì
thái to, thịt thì thái con cờ hầm chín, nước cho húng lìu, một dạo cũng đã làm
cho người nói tới, song những người sành phở chỉ dùng một vài lần thôi, vì
không những đã không có vị phở, thịt ăn lại bã, mà nước thì đục mà ngấy quá.
Một hàng phở ngon là một hàng phở ăn một bát, lại muốn ăn
hai và nếu còn sức ăn nữa thì phải ăn ba không thấy chán.
Gặp phải ngày ta se mình, ngửi mùi thịt thấy sợ, hàng phở
ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với một bát phở chay, chỉ có bánh và
nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế mới là ngon đấy.
Một bát phở vừa tái vừa chín ngon, chưa đủ để định giá trị
của hàng phở được; muốn biết chân giá trị của nó, theo lời người biết ăn phở,
phải là thứ phở chín không thôi, phở chín mà ngon thì mới thật là ngon đấy.
Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở là cái bánh, nhưng
thứ nhứt, như trên kia đã nói, cần phải có nước dùng thật ngọt. Bí quyết là ở
chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều giữ cái bí quyết ấy rất kín đáo, y
như người Tàu giữ của, vì thế cho nên trong làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là một
vấn đề then chốt để cho người ta tranh luận.
Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng muốn có một nồi nước
dùng ngon, cần phải pha mì chính. Nhưng chưa chắc thế đã hoàn toàn là phải.
Thuyết cho đường nhất định là bị loại rồi. Có người cho rằng
phải có nhiều đầu cá mực bỏ vào; có người chủ trương cần phải có thứ nước mắm
tốt lại có người quả quyết với tôi rằng muốn có nước dùng ngọt, không thể thoát
được món cua đồng - cua đồng giã nhỏ ra, lọc lấy nước, cho vào hầm với nhiều
xương ống, nhưng phải chú ý tẩy cho thật khéo, mà cũng đừng ninh kỹ quá sợ
nồng.
Đến bây giờ, ai đã thật biết cái bí mật ấy chưa? Riêng tôi,
tôi cũng đã tìm tòi suy nghĩ rất cẩn thận mỗi khi trịnh trọng nâng một bát phở
lên ăn, nhưng thú thực, tôi vẫn chưa biết rằng trong tất cả những “giả thuyết”
về “phương pháp làm nước dùng phở” người ta kể ra đó, giả thuyết nào là đúng.
Kết cục, tôi đã gạt bỏ tất cả những sự băn khoăn đó sang một bên và không buồn
nghĩ nữa, vì tôi thấy rằng ăn một miếng phở, húp một tí nước dùng ngon thỉnh
thoảng điểm một lá thơm hăng ngát mà không biết tại sao phở lại ngon như thế
thì có phần hứng thú hơn là mình biết rõ ràng quá cái bí quyết ngon của phở.
Phở Gà
Ở Hà Nội, có hai ngày trong tuần mà những người “chuyên môn
ăn phở” bực mình: thứ Sáu và thứ Hai. Hai ngày đó là hai ngày không thịt bò.
Anh nào nghiện thịt bò, nhớ phở bò hai hôm ấy như gái nhớ trai, như trai nhớ
gái.
Đặc biệt nhất là phở Tráng, hai ngày đó, nhất định “treo đòn
gánh” không chịu bán miếng phở nào, trong khi các bạn đồng nghiệp của anh thay
đổi phương thức xoay ra bán phở gà cả bọn. Phở gà? Tráng phản đối ra mặt. Cái
lý gì mà một nắm bánh phở dẻo quẹo như thế lại cho hòa hợp với một thứ thịt ăn
cứng đờ đờ, mà lại nhạt, mà lại đoảng vị, không thể nào “sánh đôi” được với cái
nước dùng để làm thành một “đại thể” nhịp nhàng?
Có một số người thạo phở cũng nghĩ như Tráng vậy. Họ không
chịu ăn phở gà. Nhưng đa số đã mắc nghiện phở rồi, buổi sáng, không có bát phở
nóng để ăn không chịu được, nên cũng cứ phải ăn và rồi cũng quen đi.
Thật ra công việc so sánh phở bò và phở gà không thể thành
được vấn đề, nhưng một buổi sáng mùa thu rỗi rãi, trời hơi lành lạnh, mà ngồi
ăn một bát phở gà, có đủ rau mùi, hành sống, vừa ăn vừa nghĩ thì phở gà cũng có
một phong vị riêng của nó, khác hẳn phở bò. Điều người ta nhận thấy trước nhất
là phở gà thanh hơn phở bò: thịt dùng vừa đủ chứ không nhiều quá: ở giữa đám
bánh phở nổi lên mấy miếng thịt gà thái nhỏ xen mấy sợi da gà vàng màu nhạt,
điểm mấy cuộng hành sống xanh lưu ly, mấy cái rau thơm xanh nhàn nhạt, vài
miếng ớt đỏ: tất cả những thứ đó tắm trong một thứ nước dùng thật trong đã làm
cho bát phở gà có phong vị của một nàng con gái thanh tân - nếu ta so sánh bát
phở bò với một chàng trai mà hào khí bốc lên ngùn ngụt.
Thường thường, ngoài thịt gà thái mỏng ra, một bát phở gà
vẫn có những miếng gan, mề, lòng, tiết, thái nhỏ để đệm vào cho thêm vui mắt và
vui miệng.
Những thứ đệm này, thường ra, vẫn luộc như thịt mà thôi;
nhưng có một hai hàng phở, muốn cải cách, đã đem thái hạt lựu tất cả những thứ
đó, gia thêm mộc nhĩ và hành tây, đem xào lên vừa chín để điểm vào mỗi bát phở
từng thìa nhỏ một.
Ăn như thế thì thơm, nhưng có người không ưa vì ngấy; ngoài
ra, khi chan nước vào không còn vẻ gì thanh nhã - một điểm mà những người thích
phở gà mong đợi.
Chính cũng vì thế mà phong trào “phở gà xào nhân” như nhân
bánh cuốn không được tiến triển mấy, và bây giờ tất cả Hà Nội chỉ còn có hai
hàng làm theo phương pháp ấy mà thôi.
Hầu hết đều chú ý về cái phần “thanh” của phở: nước ngọt mà
không ngọt mì chính, nhưng ngọt bằng xương; thịt không xác, nhưng béo mềm, mà
không ngấy.
Vì thế, những hàng phở gà ngon vẫn thường dùng gà mái, ăn
thơm mà mềm. Về điểm này, có một hàng phở gánh, đỗ ở dưới một gốc si phố Huyền
Trân Công Chúa đặc biệt lưu ý tới, mà cũng đặc biệt nữa là người hàng phở này
quanh năm chỉ bán phở gà, nhất quyết làm khác hẳn phở Tráng, không bán phở bò,
“dù có thể làm được phở bò ngon”.
Bánh cuốn
Có ai ở Hải Phòng ,
Nam Định, Thanh
Nghệ chẳng hạn, về Hà Nội, mà đã có lần được thưởng thức món bánh cuốn Thanh
Trì ăn với đậu rán sốt, tất còn lâu lắm mới có thể quên được món quà đặc biệt
Hà Nội đó.
Khắp các nẻo đường, người ta vẫn được thấy những người đàn
bà mặc áo nâu dài, đội cái món quà đó đi bán từ lúc trời vừa hừng sáng.
Cơ nghiệp của họ không có gì: một cái thúng đội đầu, trên có
đậy một cái mẹt. Anh gọi, người bán hàng hạ thúng ở trên đầu xuống. Anh nhìn
vào sẽ cũng chẳng thấy gì lạ hơn: một chai nước mắm, một chai giấm, một chén
ớt, dăm cái chén, cái đĩa và mươi đôi đũa.
Thế thôi, nhưng thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì
rồi, anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh
nhớ đi, nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ...
nhớ quá, nhớ khôn nguôi!
Hồi còn tạm lánh ở một làng vắng vẻ Khu Ba, có những buổi
sáng êm trời, tôi vẫn vọng phía Thanh Trì nghĩ đến những hàng bánh cuốn đó và
thấy thèm như thèm một hương yêu.
Nỗi “sầu Hà Nội” làm cho lòng người ta rã rời, se sắt. Lúc
đó, mặc hết cả, người ta chỉ còn biết cầm lấy cái gậy mà đi ngay, đi đến bất cứ
chợ quê nào cũng được, miễn là có hàng bánh cuốn để ngồi sà xuống một cái ghế
nào đó, ăn một đĩa bánh xem có thể vơi được phần nào sự thèm khát miếng ngon Hà
Nội không.
Không tài nào vơi được. Tôi đã đi nhiều chợ quê, ăn thử hết
các mặt bánh cuốn, nhưng hoặc là bánh tráng dày quá, hoặc là bột xay nồng quá,
hoặc là hành mỡ gia thô quá nên bánh nào cũng vậy chỉ làm cho tôi nhớ hơn thứ
bánh cuốn Thanh Trì.
Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng hành mỡ
thoa vào mướt mặt mà nếm vào thì thanh nhẹ, mát rượi đi. Ở trong thúng, bánh
được xếp thành lớp kiểu như bực thang, trên những lá chuối xanh trong màu ngọc
thạch; sắc trắng của bánh nổi bật lên nhưng nổi bật lên một cách hiền lành; và
người ta tưởng tượng đến những người con gái bé nhỏ đứng ở dưới tầu tiêu đẹp
một cách kín đáo và lành mạnh.
Ngay từ lúc trông thấy bàn tay người bán bánh bóc từng chiếc
một, rồi cuộn lại một cách lơ là, bày trên những chiếc đĩa khiêm nhường, ta đã
thấy yêu ngay những cái bánh óng ả, mềm mại đó rồi. Có khi đương cầm đũa, ta
muốn bỏ ngay ra để lấy ngón tay nhón từng chiếc bánh đưa lên cho khẽ chạm lấy
môi ta như kiểu một cái hôn yêu trong buổi trao duyên thứ nhất.
* * *
Bánh thơm dìu dịu, êm êm. Cầm một chiếc, dầm vào trong chén
nước chấm rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh
thơm dịu hòa với nước chấm dịu hiền, không mặn quá, không chua quá, mà cũng
không cay quá.
Pha được một thứ nước chấm vừa ngon như thế, cũng đáng kể là
tài. Có biết bao nhiêu nhà, nước mắm thì dùng nước mắm gia dụng, dấm thì chọn
thứ dấm thực của Tây, mà pha một chén nước chấm như của người bán bánh không
tài nào được.
Vì thế, nhiều người ăn bánh chuyên chú nhất về nước chấm rồi
mới xem đến bánh có mỏng và óng mướt không. Đương ăn ngon, mà gần hết, thiếu
mất đi một tí nước mắm, phải pha lấy ở nhà, có thể coi như là hỏng một bữa quà.
Nhà pha lấy, không tài nào được, dù là đã pha một chút nước
sôi và đường vào nước mắm rồi; nước mắm đó thể nào cũng có một cái gì ngang,
hoặc mặn quá, hoặc chua quá, cứng quá hay có khi nhạt quá.
Để làm nổi hẳn vị của nước chấm lên, người hàng bánh thường
gia thêm vào chai nước chấm một hai con cà cuống băm nhỏ, nó đem đến cho ta một
cái thú đậm đà hơn là cái thú cà cuống nước bán từng ve nhỏ ở các hiệu bán đồ
nấu phố Hàng Đường.
Ai muốn ăn nước mắm không dấm, nhưng vắt chanh xin tùy ý.
Ơt, lấy cay lắm hay vừa, cứ việc theo sở thích của từng người.
Ta chấm chiếc bánh trắng vào trong chén nước chấm màu hổ
phách, đưa lên miệng và chưa nhai đã tưởng như bánh “chưa đến môi đã trôi đến
cổ” mất rồi...
Cái ngon của nó dịu hiền, óng mướt, nhưng đối với một số
người thì có lẽ như thế hơi có ý “thanh nhã” quá nên người ta thỉnh thoảng đã
điểm vào một miếng thịt quay ba chỉ, bì giòn tan. Một thứ thì mềm mà thanh, một
thứ thì nục nạc mà lại giòn, tạo ra một “mâu thuẫn” cũng hơi là lạ.
Nhưng ăn bánh cuốn Thanh Trì, không gì trác tuyệt hơn là
điểm vào mấy miếng đậu thật nóng, rán thật phồng trông óng a óng ánh như kim
nhũ.
Chẳng hiểu bây giờ ở Thanh Nghệ, Nam Định, Hải Phòng đã có
ai làm được đậu phụ ngon chưa, chớ vào khoảng mười lăm năm trở lại đây thì cái
thứ đậu phụ rán thật phồng, ăn bùi mà không chua, quả là một thức ăn đặc biệt
Hà Nội, không nơi nào làm được.
Tôi còn nhớ vào khoảng ba mươi năm trước đây có một ông ở Nam Định, sành
đi hát cô đầu và sành ăn, mỗi tháng thế nào cũng đảo lên Hà Nội một lần. Cố
nhiên, ông đi lên như thế không phải là vì công việc, mà chính là để “đổi không
khí” cô đầu, nhưng sau những đêm hành lạc, thể nào ông cũng phải về thật sớm ở
nhà để ăn quà.
Ấy là vì nhà tôi trông sang phố Hàng Hòm, mà ở đầu phố Hàng
Hòm thời đó có một hàng cơm chuyên rán đậu thật sớm để bán cho những người ăn
bánh cuốn Thanh Trì.
Củi trong lò nhóm to, mỡ đầy lòng chảo hò reo lách tách. Một
người đàn bà ngồi trong bóng tối lấy đũa vớt những cái đậu rán đã già rồi đập
đập vào bên thành chảo mấy cái, đặt lên hai thanh tre bắc ngang chảo để cho mỡ
rỏ xuống cho kỳ hết. Nhưng có bao giờ đậu để được lâu đâu: mẻ này chưa xong thì
đã có người đến mua mẻ khác rồi. Quang cảnh vừa ấm nóng mà lại vừa yên vui đáo
để.
Hàng đậu rán ấy bây giờ không còn nữa. Cùng với cửa hàng đó,
cái thứ đậu thái dài bằng ngón tay cũng không còn. Bây giờ, ở các chợ cũng có
người bắc chảo rán đậu để bán, nhưng đậu thái một kiểu khác, to bản hơn mà cũng
có vẻ dày hơn xưa, tuy vậy ăn với bánh cuốn vẫn hãy còn ngon lắm.
Nói như vậy thì muốn thưởng thức bánh cuốn Thanh Trì với đậu
rán sốt, người ta cứ là phải ở gần chợ hay sao?
Nhiều nhà, ăn uống cẩn thận, thường mua đậu đem về rán lấy.
Bánh cuốn và nước chấm xếp đặt đâu đấy cả rồi thì trong nhà rán đậu vừa chín,
bưng ra từng mẻ nhỏ dăm ba chiếc một, để nhà ngoài ngồi ăn.
Ăn hết đến đâu thì lại bưng thêm lên đến đấy. Như thế, đậu
nóng hổi mà lại giòn. Ăn bánh cuốn cần phải thế; trong cái giòn của vỏ đậu lại
có cái mềm của lòng đậu thành thử lúc nhai, cái nóng hòa hợp với cái mát, cái
giòn hòa hợp với cái mềm, tạo thành một cái gì vừa dẻo, tiết tấu như bản nhạc
nhè nhẹ, trầm trầm.
* * *
Ngoài bánh cuốn Thanh Trì ra, còn có nhiều bánh cuốn khác,
mỗi thứ có một vị khác nhau. Bánh cuốn nhân mộc nhĩ, thường bán gánh, dày mình
mà ăn vào hơi thô, nhưng nhai sậm sựt cũng có một cái hay riêng.
Thứ bánh cuốn trong có chiên một ít hành tai tái, ăn hôi mà
mất vẻ thanh. Đáng kể hơn là thứ bánh cuốn nhân thịt hiện nay bán nhiều ở các
nẻo đường, trong những gian nhà thấp bé, tối tăm: một người con gái nhà nghèo
ngồi bên cạnh một hai nồi nước nóng, trên có căng một mảnh vải phin mỏng, múc
từng thìa bột xay sẵn, tãi ra trên vải, rồi tra nhân vào bánh, cuộn lại rồi hấp
lên.
Nhân thứ bánh này làm bằng thịt lợn băm nhỏ, gia hành với
một chút mộc nhĩ vào.
Bánh làm xong, người ta phết một chút mỡ rồi rắc một ít ruốc
tôm lên mặt bánh.
Bánh này ăn nóng, bùi, ngẫm nghĩ thì cũng có một cái ngon
riêng, nhưng chóng chán. Có lẽ cũng vì thế mà người ta luôn luôn tìm cách đổi
vị đi: ai thích lạp xường thì có thứ nhân lạp xường, ai thích thịt gà thì có
nhân thịt gà - và có nhà treo biển ở cửa gọi thế là “bánh cuốn nhân cải cách”!
Buổi sáng mùa thu, đi qua một hàng bánh cuốn “cải cách” đó, thấy khói tỏa nghi
ngút từ nồi nước hấp bánh lên như phủ những cái bánh đã hấp rồi trong một lớp
the mơ hồ, khách đi đường cũng thấy nở lên một cái thú dùng thử dăm ba chiếc.
Ăn vào đến đâu, ấm ngay lòng đến đấy. Thú hơn một bực là
mình được ngồi ngay đầu quán mà ăn, được chiếc nào, ăn chiếc đó, thiếu nước
chấm thì gọi lấy thêm ngay.
Ở nhà, mỗi lúc đâu đã có cái thú tự nhiên như vậy? Mình lại
thấy bắt thương cho những ông khệnh khạng, ăn một miếng giữ gìn một miếng, chỉ
sợ ngồi ở “đầu đường xó chợ” thì “nhĩ mục quan chiêm”.
Ôi chao! Cứ ăn cho thích cái thần khẩu đã! Những lúc đó mình
thấy ái ngại cho những vị tổng trưởng, bộ trưởng và giám đốc, không biết có bao
giờ được thưởng thức quà như thế này không?
Thường thường, bánh cuốn nhân thịt vẫn bán vào buổi sáng,
nhưng ban đêm những cửa hàng bánh cuốn đó mở cửa để bán cho khách chơi đêm, những
con bạc hay những ông vua “ăn thuốc” không phải là không có nhiều.
Trong những cửa hàng này, được nói đến nhiều nhất là hàng
bánh “bà hai Tàu” ở chợ Hôm. Đó là một gian hàng bé nhỏ và tiều tụy, ngoài bán
đồ thiếc, ngổn ngang những tấm tôn kêu loảng xoảng. Hàng bánh cuốn dọn ở bên
trong.
Một cái bàn con để người bán hàng bày những cái bát nhân và
cạnh đấy, một cái bàn khác và bốn cái ghế tồi để cho khách ngồi: đó là tất cả
cửa hàng. Nếu ông là người thấy khung cảnh đẹp mà xơi quà mới ngon miệng, xin đừng
vào! Người khách vào ăn ở đây bình dân lắm, nhất là phải biết chờ đợi, chứ vào
mà muốn ăn ngay, không được.
* * *
Bà hai Tàu bán một ngày hai buổi bánh: buổi sớm từ sáu, bảy
đến mười giờ, và buổi tối từ chín, mười giờ đến một giờ khuya. Thường thường, cả
hai buổi đó đều đông đảo khách ăn, phần đông là những người cầm bát đĩa đến mua
về nhà, ai đến trước mua trước, ai đến sau mua sau, có khi phải sắp hàng, thành
thử có khi mười giờ mình đến trông thấy người ta mua về kìn kìn, mà mình cứ
phải ngồi đợi thèm nhỏ nước miếng, bực không thể nào chịu được.
Đặc điểm của bánh cuốn ở đây là bột bánh nhỏ mà mịn - áng
chừng là gạo dùng để xay thành bột được nhà hàng chọn toàn thứ gié cánh, tám
thơm.
Ngoài ra, nhân bánh cũng như các hàng khác, hoặc thịt lợn
mông, hoặc thịt gà, còn nước chấm thì cũng tạm vậy, không có gì đặc biệt.
* * *
Thích dùng bánh cuốn nhân, mà thật là muốn chiều vị giác,
người ta cần phải hơi cầu kỳ một chút: xuống phố Lê Lợi, tìm đến một hiệu riêng
- hiệu Ninh Thịnh - chuyên bán mấy thứ quà Việt Nam : bánh cuốn, xôi vò, chè đường.
Ăn ở đây, người ta có cảm tưởng ăn quà ở ngay chính nhà mình. Một phòng khách
kê cái sập, bộ sa lông; tường vẽ hoa xanh đỏ; đây đó, một vài bức vẽ lồng trong
khung kính. Ở ngoài, không có cửa hàng. Ông bà biết thì vào dùng thử mấy món
quà, chớ không có bày bán hay kêu la ầm ĩ.
Bánh cuốn ở nhà này đặc biệt về điểm nhân thịt nhưng không
ăn nóng, mà ăn nguội. Hình dáng cũng khác hẳn mọi nơi, không tròn, không to,
cũng không phải hình chữ nhật, nhưng vừa xinh, dài khoảng một ngón tay cái, mặt
bánh muôn muốt, nhân không nhiều, nhưng thơm ngon mà thỉnh thoảng nhai lại
giòn.
Vì là thứ quà ăn nguội, nên nhà không có lò tráng mà cũng
chẳng có nồi nước sôi hấp bánh. Bánh làm sẵn từ buổi sáng, có khách đến, cứ
việc xếp đem ra. Nước mắm thì pha giấm hay chanh, tùy ý, cà cuống nước để
ngoài, ai muốn gia ít hay nhiều đều được.
Thứ bánh này ăn dẻo mà mát, nên hợp với buổi trưa trong
ngày, những ông nào nhàn rỗi, nghỉ trưa xong đi chơi dăm ba bước trong một trời
gió phây phây rồi tà tà đi vào thưởng thức dăm ba chiếc, rõ thực là thần tiên
đấy.
Ăn từ từ, nhấm nháp thôi, đừng vội, và ông sẽ thấy bột bánh
mướt đáo để, mà nhân bánh thì tinh vi, tương tự phong vị nhân bánh bẻ. Thứ bánh
này không có ruốc tôm bày ở trên, ăn không chóng ngấy, nhưng nếu ông thích đậm
miệng hơn một chút thì vẫn có thể điểm vào đó một hai chiếc chả lợn của một cửa
hàng gần đấy, đã nục lại không pha bột, rán cứ vàng ửng lên như da đồng.
Không hiểu đối với các khách khác ra sao, cứ riêng tôi thấy
thì thứ bánh nguội này dễ ăn hơn bánh khác.
Những khi đi thưởng thức bánh này, tôi thường nhớ lại một
quãng thời gian đã qua rồi, khoảng ba mươi nhăm, ba mươi sáu năm nay. Cứ vào
khoảng hai ba giờ chiều, có một bà cụ đội một thúng bánh cuốn nhân thịt đến bán
cho những nhà ăn quen ở phố tôi - một phố xưa cũ có bán những pho kinh đóng
bằng bìa cậy và những truyện Kiều, Cung oán chữ nôm in mộc bản, bày bán trên
những giàn sách bằng tre. Bà cụ ấy già lắm, lưng lại còng, đội thúng bánh đi
bán, trông lại càng còng quá.
Vì thế người ta gọi cụ là “cụ Còng” và bánh cuốn của cụ -
độc nhất trong hồi đó - là bánh cuốn cụ Còng - chớ chẳng gọi là bánh cuốn nhân
thịt, nhân tôm gì hết!
Bây giờ, mỗi khi ngồi thưởng thức thứ bánh cuốn Ninh Thịnh,
nhai nhè nhẹ rồi ngồi mà suy nghĩ, tôi lại tưởng thấy lại ở đầu lưỡi cái dư vị
bánh cuốn cụ Còng - ăn cứ êm lừ: nhân làm thanh cảnh, mà lại chấm với nước mắm
ô long hảo hạng, chết thật! Ngon đến thế là cùng...
Tức một nỗi là cái ngon đó nó thoang thoảng như da thịt của
một người đàn bà đẹp vừa gội đầu bằng nước nấu lá mùi; người ta mang mang tự
hỏi không biết mùi thơm đó từ đâu ra, từ hương nước tắm hay từ da thịt?
Hương đó thoảng qua, rồi mất đi, rồi hiện lại, không ai còn
biết lấy gì làm chuẩn đích để níu cái hương đó lại và phân tách xem sao. Cũng
thế, hương vị thứ bánh cuốn cụ Còng cũng thoang thoảng như vậy, không thể lấy
riêng một món nào để làm tiêu chuẩn cho sự ngon lành.
Có lẽ tất cả bánh, nước chấm và nhân cùng hòa hợp lại mà tạo
ra một cái ngon “toàn diện”, chớ không phải riêng bột ngon hay là nhân ngon.
Mọi thứ đều tiết tấu như thế, người ăn bánh, nếu gia nhiều
ớt quá vào nước chấm, có thể làm hại cho sự quân bình của cái ngon. Vì thế, bà
cụ Còng không thích để cho khách hàng pha lấy nước chấm và hễ thấy ai gia nhiều
ớt quá thì cụ ngăn tay lại.
Không phải là cái chuyện hà tiện quả ớt đâu, nhưng phàm ăn
cay quá thì cái cay nó bắt người ta để hết tâm não vào nó thành quên mất cái
ngon của bánh. Mà tội vạ gì lại ăn cay quá? Nó chỉ hại mắt, chứ ích lợi quái
gì.
Tôi còn nhớ lúc đó mỗi khi thầy tôi dùng bánh thì tôi thỉnh
thoảng lại được thí cho hai chiếc - và có hai chiếc, không hơn! Trông bánh thèm
quá, muốn ăn thêm một chiếc mà không tài nào có tiền! Biết bao hôm, ăn xong hai
chiếc bánh, vào nhà trong nằm võng kẽo cà kẽo kẹt, tôi đã ức ngầm về nỗi không
hôm nào được ăn bánh cho thỏa thích. Bánh này, thả ra, phải ăn cả một thúng mới
đã đời!
Ba mươi mấy năm đã qua rồi, bà cụ Còng nay đã chết, nhưng
bánh cuốn của cụ, tôi lại thấy hiện ra ở trong bánh của nhà Ninh Thịnh, tuy
rằng hình dáng có khác nhau chút ít - một thứ gói tròn và một thứ gói vuông.
Có lẽ cách làm của hai thứ bánh này cũng chẳng khác nhau mấy
tí; nhưng không hiểu tại bột, tại thịt hay tại nấm hương, mộc nhĩ bây giờ không
được bằng thời trước, hay chỉ tại người mình cùng với ngày tháng có suy đi, mà
tôi không thể nào thấy cái thèm muốn ăn cả một thúng hàng trăm cái bánh như ngày
trước nữa!
Bánh đúc
Có những thứ quà Việt Nam mà mình sinh ra làm người Hà Nội,
thoạt đầu, không thấy thú gì cho lắm, nhưng vì có những nguyên nhân tế nhị, sau
này ăn vào cũng thấy hay hay.
Lúc còn nhỏ tuổi, tôi dửng dưng với bánh đúc vô cùng. Chết
một nỗi nhà tôi lại là một nhà cũ kỹ, một tháng ít nhất cũng một lần quấy bánh
đúc để ăn và đem biếu họ hàng, thành thử không ăn cũng không được, và có ăn như
thế rồi mới biết là bánh đúc có phong vị riêng của nó.
Cụ tôi mất đi, rồi đến bà tôi, bây giờ đến mẹ tôi vẫn cứ giữ
nguyên nếp đó - có điều quấy bánh hơi thưa hơn lúc trước: không phải là một
tháng một lần, mà vài tháng một bận, và bận nào cũng nhiều, vì mẹ tôi quấy như
thế là để chia cho họ hàng và con cháu mỗi nhà vài đĩa.
Lâu lâu, đã ngấy với những món ăn béo quá, nặng quá mà có
hôm được thưởng thức một món quà thanh đạm như bánh đúc, người ta thấy mình như
cũng nhẹ hơn.
Thực ra, nồi quấy bánh cũng có láng mỡ một chút, và chỉ một
chút thôi, đủ để cho bánh ngậy và trơn mặt. Điều cần là bột phải xay cho thật
nhuyễn, nước vôi gia vừa tay, bánh quấy thật kỹ, để nguội ăn không nồng và bẻ
cái bánh thì giòn mà nhai vừa, không cứng.
Nhiều nhà làm bánh sợ bánh nát thường cho một chút hàn the:
đó là một điều nếu tránh được thì hay, vì hàn the ăn đầy. Bánh đúc quấy khéo ăn
trơn cứ lừ đi, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ thì thấy thơm ngan ngát, thỉnh thoảng sậm
sựt một miếng dừa bùi, có nơi điểm lạc hay con nhộng, cũng khá gọi là lạ miệng.
Ai muốn đậm đà hơn thì chấm với vừng (một chén vừng vừa rang
xong bốc mùi thơm phưng phức), hay muốn có một chút gì cay thì nước mắm giấm ớt
đem ra chấm cũng ngon đáo để, nhưng ăn ít thì thú, dùng nhiều bứ, mà chóng
chán.
* * *
Có lẽ vì thế mà thứ bánh đúc này thỉnh thoảng mới làm chăng?
Thường thường lúc quấy bánh, người ta giảm chất dừa và lạc đi, để cho se mặt,
thái ra từng miếng rồi ăn, theo cái kiểu bánh đúc nộm hay bánh đúc nham. Ai bảo
rằng bánh đúc nộm hay bánh đúc nham là thứ quà nhà quê? Có một hôm nào đó, đi
qua một cửa hiệu buôn vắng khách ở phố Hàng Bè, Mã Mây, mà tình cờ ta được thấy
một hai người đàn bà trẻ tuổi gọi hàng bánh đúc nộm vào ăn thì ta mới quan niệm
được có những người Hà Nội thích ăn bánh đúc nộm như thế nào.
Ăn đến đâu, mát rời rợi đi đến đấy - nhưng đó không phải thứ
mát ác nghiệt của thịt bò khô ăn với đu đủ thái nhỏ trộn với lạp chí chương, mà
là một thứ mát dịu dàng, thơm tho, bát ngát như hít cả hương thơm của một vườn
rau xanh ở thôn quê vào lòng.
Bánh đúc đã dẻo mề dẻo mệt đi, lại húp cái nước nộm ngầy
ngậy mà mềm dịu, thoang thoảng mùi thơm của giá chần, của vừng rang, của chanh
cốm - không, cái mát đó thực quả là một cái mát Đông phương, thâm trầm và hiền
lành, chứ không rực rỡ hay kêu gào ầm ĩ.
Tuy vậy, cái mát đó sẽ không được hoàn toàn nếu lúc ăn, ta
lại để thiếu mất thứ rau ghém, gồm mấy thứ chính: rau chuối thái mỏng, ngổ
Canh, thơm, kinh giới và tía tô. Những người nào xót ruột cứ trông thấy một đĩa
rau ghém đủ vị như thế cũng phải bắt thèm và muốn ăn bánh đúc nộm ngay.
Cây chuối con thái ra thật mỏng, được ít nào thì cho vào một
chậu nước lã có đánh một tí phèn, đặt vào đĩa, trông như những cái đăng ten
trắng muốt; ngổ Canh và kinh giới thì xanh màu ngọc thạch; rau thơm sẫm hơn,
còn tía tô màu tím ánh hồng: tất cả những thứ rau đó không cần phải ngửi cũng
đã thấy thơm thơm ngan ngát lên rồi, mà mát, mà mát quá!
Dầm mỗi thứ rau đó vào một ít nước nộm rồi điểm mấy sợi bánh
đúc trắng ngà, và một miếng, anh sẽ thấy là ta và vào miệng tất cả hương vị của
những thửa vườn rau xanh ngắt nơi thôn ổ đìu hiu.
Nhưng không phải bánh đúc chỉ ăn theo lối nộm. Ở nhà có các
cụ bà có tuổi, người ta còn ăn bánh đúc nham.
Nham có ý ngấy hơn nộm một chút. Đáng lẽ là giá chần thì đây
là hoa chuối bao tử thái nhỏ, rồi tùy theo sở thích của từng nhà, đem trộn thật
đều tay với vừng trắng rang thơm, lạc giã nhỏ, thính, bì thái chỉ hay tôm gạo.
Có nơi lại làm nham với cua đồng thứ nhỏ, xé đôi, rang lên cho vừa vàng; người
ta bảo ăn thế giòn, nhưng người nào không quen thì có thể cho như thế hơi tanh
một chút.
Tất cả những thứ đó xâm xấp nước, gia thêm một tí mắm tôm
chưng, lúc ăn chấm nước mắm ớt vắt chanh, mát cứ như quạt vào lòng! Nham nhà
chùa thì có ý thanh đạm hơn: không có bì, không có tôm gạo, vị hơi ngọt vì cho
thêm đường.
Bánh đúc mềm nhưng giòn, ăn với nham chay, dẻo cứ quẹo đi,
tạo một phong vị đặc biệt; người ăn cảm giác lòng mình lâng lâng, nhẹ nhõm, như
đương ở một chỗ phồn hoa ầm ĩ vào một chốn đình chùa thanh vắng có bể nước mưa,
liếp tre và ao ở đằng sau, êm lặng đến nỗi thấy cả tiếng cá đớp bọt nước ở dưới
đám bèo ong bèo tấm.
* * *
Nhưng có một thứ bánh đúc được người ta mến nhất không những
ăn ngon miệng lại rẻ tiền nữa, là bánh đúc chấm tương.
Thứ bánh này quấy ở nồi xong được múc vào trong những cái
đĩa đàn to bằng bàn tay đứa trẻ, đến khi nguội và ráo, người ta bóc ra rồi tãi
trên mẹt lót lá chuối để đem bán một đồng vài bốn chiếc cho khách hàng.
Bánh trông mịn mặt, chung quanh mỏng, giữa phồng trông như
da thịt mát rợi của người đàn bà đẹp vừa mới tắm. Cắn một miếng thật ngọt, rồi
vừa nhai vừa ngẫm nghĩ, ta thấy rằng ta đã tạo hạnh phúc lạ lùng cho khẩu cái của
ta! Nó ngầy ngậy mà không béo, giòn vừa vừa thôi, mà lại thoang thoảng một mùi
nồng rất nhè nhẹ của nước vôi. Song le, tất cả những công trình trác tuyệt đó
có nghĩa gì đâu, nếu hạnh phúc đó không được chấm vào một chén tương nhỏ hạt,
vàng sánh, dìu dịu, ngọt lừ.
Tương của những hàng bánh đúc, cũng như nước chấm của những
hàng bánh cuốn, được pha mầu nhiệm lắm - ờ, lạ thật, làm sao ở nhà muốn khổ
công làm tương đến thế nào cũng không thể ngon được như tương của những bà hàng
bánh đúc?
Ai thích ăn cay, có thể dầm vào tương ấy một ít ớt cho nổi
vị, mà nếu đôi khi muốn đậm đà hơn, có một hai miếng đậu rán để nguội xé ra
từng miếng nhỏ điểm vào cũng không hại gì.
Đậu mềm, tương dịu ngọt, bánh đúc mỡ màng, cầm tay mà ăn vào
một buổi trưa hè thanh nhã, xa xa có tiếng ve kêu rền rền - không, tôi đoan
chắc với ông rằng: ta có thể ăn như thế mãi mà không biết chán.
Nhưng bánh đúc ngô - mà ta vẫn gọi là “rùa vàng” - làm bằng
ngô xay thành bột, và cũng có nước vôi, thì ăn có lạ miệng thật đấy, nhưng bứ
và chóng chán.
Thứ bánh đúc này cũng đổ khuôn trong những cái đĩa đàn, ăn
nguội, chấm với đường hay muối vừng.
Bánh màu hoàng yến, có ý rắn hơn thứ bánh đúc chấm tương, ăn
không lấy gì làm êm giọng, nhưng thỉnh thoảng nhấm nháp cũng bùi và lạ miệng.
* * *
Nát hơn thứ bánh đúc chấm tương một chút, bánh đúc hành mỡ
ăn béo hơn và có thể ăn hai cách là nóng hẳn hay nguội hẳn.
Ăn nóng thì ăn ngay vào lúc bánh vừa ở nồi múc ra đĩa, khói
lên nghi ngút; ta rưới một ít hành chưng mỡ nước, rồi xắn từng miếng chấm nước
mắm pha giấm ớt, ăn với đậu rán. Ăn bánh đúc hành mỡ hàng thì phần nhiều ăn
nguội, vì từ chỗ làm bánh lên đến trên phố, thường là bánh đã nguội rồi.
Nhiều người thích nguội như thế vì nó mát, vừa ăn vừa nhởn
nha suy nghĩ thì trong cái mềm, cái mát hơi nồng của nước vôi có cái thơm, bùi
của hành mỡ chưng lên vừa vặn, không sống mà cũng không khét, điều hòa, tiếu
tấu như một bài thơ bát cú gói ghém đủ hết cả ý mà không thừa lời.
Thứ bánh này ăn với đậu rán để nguội, chấm một thứ nước mắm
rơn rớt chua dầm ớt, mà ăn vào những buổi trưa đầu mùa thu, thì thật “hợp tình
hợp cảnh” lạ lùng.
Đậu mềm, dầm vào nước mắm giấm pha vừa vặn, ăn ý với bánh
đúc quá chừng. Và người ta thấy rằng đã ăn cái thứ bánh đúc hành mỡ này mà
thiếu mất vị đậu, thật quả là thiếu lắm.
Người ta ăn bánh cuốn với đậu; nếu thiếu đậu thì có thể ăn
với thịt quay, ăn với chả lợn không sao; nhưng đến cái thứ bánh đúc hành mỡ
này, quả là tôi chưa thấy ai ăn điểm với thứ khác, ngoài đậu rán. Đậu rán và
bánh đúc hành mỡ là bóng với hình, là non với nước, là trai với gái, thật hợp
giọng, thiếu đi một thứ thì tự nhiên cuộc đời thiếu vẻ đẹp ngay.
Bánh khoái
Cũng mỡ màng, nhưng không có hành chưng, còn một thứ bánh
nữa thỉnh thoảng ăn cũng thú lắm, là bánh khoái.
Bánh khoái cũng quấy như bánh đúc, nhưng không có nước vôi,
và nát hơn bánh đúc nhiều.
Ngay trước khi xảy ra chiến tranh, bánh khoái chợ Mơ có
tiếng là ngon: người ăn ngồi ngay trên một cái ghế dài cạnh gánh hàng; bánh múc
ra bát là ăn ngay, trong lúc khói bốc lên nghi ngút.
Đây cũng là một thứ quà buổi trưa của Hà Nội: người bán đi
rong phố phường lấy vải bông và buồm, đậy nồi bánh cẩn thận để giữ bánh nóng
lâu, ăn một hai bát, tỉnh người ra trông thấy. Nhưng bánh này ngon và được
chuộng, một phần lớn cũng vì có bánh giầy cắt nhỏ - thứ bánh giầy mơ, ăn mềm mà
có rắc đậu ở trên mặt, chứ không phải là thứ bánh giầy to, nhẵn, bóng những mỡ,
rất phổ thông hiện giờ, mà người ta vẫn gọi là bánh dầy Quán Gánh.
Thứ bánh giầy Mơ này bây giờ ít thấy, ngày trước bán một xu
hai chiếc, và có hai thứ nhân: đậu hay đường.
Trong bánh khoái nóng hổi, người ta cắt mấy miếng bánh giầy
Mơ: trộn đều lên cho bánh khoái và bánh giầy hợp hoan với nhau rồi ăn, ta vừa
thấy vui mắt (vì đậu vàng nổi lên như vị sen trong một cái ao trắng muốt) mà
lại êm giọng, ngầy ngậy như mùi da thịt một đứa trẻ bụ bẫm, và bùi một cách
thanh thanh.
Ăn bánh khoái rưới nước mắm hay trộn với ruốc, tức là làm
phí cả bánh đi, mà người ăn lại còn bị coi là tục.
Cái thú ăn bánh khoái là nó nát mà chính lại ráo rẻ: nhởn
nha xúc lên đầu đũa ăn từng miếng nhỏ, có vẻ như ăn một bát yến chay - mà cái
vị mặn của muối không có công dụng gì khác hơn là nâng cao chất bùi của đậu
bánh giầy cho nó nổi lên, như một nghệ sĩ tài tình điểm một hai nét vàng vào
một bức vẽ sương sớm cho nổi cảnh sắc u huyền, thơ mộng.
Hết
Mình còn nhớ lúc sinh viên đói quá thấy gì cũng ngon, bây giờ có tuổi, răng yếu chỉ thích non mềm thui.
Trả lờiXóa