Thả thơ
Tác giả: Nguyễn Tuân
Cái buồn thường không mấy khi xẩy đến một cách đơn chiếc. Cụ
Phủ bà vừa mất vào quãng đầu xuân, cỏ xanh chưa đủ che kín mặt nấm mộ mới, thì
cuối xuân năm ấy, cậu Chiêu lại cũng qua đời. Vì những luật lệ về luân lý gia
đình vẫn còn ứng dụng được dưới suối vàng thì bên kia cõi đời này, linh hồn cậu
Chiêu chí hiếu đang được yên tĩnh để hầu dưới gối một linh hồn chí từ. Và trên
trần, có một gia đình đang lúng túng vì sự hiu quạnh. Bây giờ cụ Phủ ông đã lâm
vào cái cảnh gà sống nuôi con một. Nguyên cụ Phủ được hai người con: cậu Chiêu
không may sớm cướp công sinh thành, để lại cho cha một người em gái bồ côi mẹ,
đã đứng tuổi mà chưa có dịp nào xuất giá. Trời đất ôi, trên mấy gốc tre cằn
không đủ gây thành một bụi ấm, trận gió thanh bạch ngày ngày cứ lào rào thổi mãi.
Cụ Phủ ông là một người mà học lực và chính tích chấp được
cả bạn đồng liêu một thời; cô Tú là một thiếu nữ con quan mà cái tài làm thơ
phú theo một gia sáo vững vàng, mà cái hạnh về môn nữ công đủ làm vinh dự cho
một gia phong. Nhưng ông Giời thích thừa trừ đã buộc ông Phủ phải nghèo và cô
Tú phải xấu. Và những lúc này, người ta không mấy ai nói đến tài và hạnh mà
thường chỉ hay nhắc đến chữ phận và chữ duyên.
Tiếng trống phủ trên lầu canh cứ điểm đều những tiếng vô vị
vào một tư thất lạnh lẽo. Gian nhà giữa cụ Phủ ông đã thâu canh dài làm bạn với
thánh hiền bên án sách leo lét ngọn đèn; chái nhà phía tây, cô Tú âm thầm ngồi
vấn chuyện với bóng in trên lá màn vải xô. Có những đêm mưa to gió lớn làm nhòe
những tiếng trống phủ cầm canh, cô Tú rời phòng mình, qua gian giữa gây một lư
trầm cho cha. Ở gian giữa tư thất liền có tiếng ngâm thơ:
Cứ đốt lò hương cho
tới sáng,
Thử xem mưa gió tới
bao giờ.
Nhưng có một đêm rất gần đây, tiếng trống phủ thành hết quấy
quả canh dài cụ Phủ và cô Tú nữa. Người cha đã cáo quan về vườn rồi. Ở một xứ
quê buồn tẻ kia, bây giờ có một ông đồ già ngồi dạy trẻ và một cô con gái ngày
ngày ngồi trong nhà gỡ một ống tơ vàng hay là chạy ra vườn bứt ít lá dâu nó
cũng già cỗi theo cái cảnh người. Bây giờ muốn nói đến cụ Phủ già đã cáo lão về
hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm.
Cụ Nghè Móm thường dạy học vào buổi sớm. Cô Tú săn sóc mọi
việc trong nhà cũng vào buổi sớm.
Buổi chiều đến cô Tú đi chợ, làm cơm và mua luôn cả đồ ăn
thức dùng cho buổi sớm hôm sau nữa. Cụ Nghè Móm ở nhà nhàn rỗi dùng thời giờ
vào việc sao một lá số, gieo một quẻ bói hay là kê một đơn thuốc cho người
làng. Có một buổi chiều, một người bạn đồng song cùng ở vùng ấy, nhân bị trời
mưa dầm giữ lại nhà cụ Nghè Móm, đã nói với chủ nhân:
- Dăm ba tên học trò nhép này, lấy gì làm đủ sống. Trà tàu,
rượu cúc, cây cảnh và hình như bác vẫn chưa bỏ được cái chứng thắp nến bạch lạp
để đọc Đường thi sách thạch bản thì phải, lâu nay có đi đâu xa không?
Cụ Nghè Móm cười. Người bạn già rịt mồi thuốc chặt xuống nõ
điếu, tiếp:
- Tôi có một chuyện này muốn nói với bác từ lâu lắm, nhưng
chỉ sợ bác chê là cô lậu.
Cụ Nghè Móm ngừng tay mài hòn son trong đĩa, chăm chăm nhìn
bạn.
- Bây giờ tổ chức những cuộc chơi thả thơ, ý bác nghĩ thế
nào?
- Cũng khó lắm. Hồi tôi còn tại chức, có lúc thì tôi đánh
thơ ở nhà, có lúc thì lên quan Đốc trên tỉnh, không mấy tháng là không có một
cuộc hội họp. Mà tôi nghiệm cái giống thả thơ càng hay chữ càng hay thua cay.
Có lắm đêm tôi mất đến mười mấy quan tiền đồng mà không trúng lấy được một chữ.
- Cụ Phủ dạy như thế thì nhầm rồi. Cứ gì phải được tiền. Vả
chăng, người thua có mấy khi là người dốt chữ đâu, và kẻ được thường cũng không
dám tự đắc lên mặt sành thơ. Ở vùng đây lắm người cũng muốn chơi lắm, nhưng tự
xét không đủ tư cách để thả thơ cho ra hồn, nên chưa có cái lối hội họp như
vậy. Tôi muốn được biết ý cụ về việc thả thơ này.
- Tôi bỏ đã lâu ngày rồi. Nếu có định chơi thì phải đọc lại
thơ mất một dạo, và vòng cho đủ chữ một túi thơ, kể cũng công phu lắm. Điều tôi
ngại nhất nữa, là bây giờ tuổi tác rồi. Bây giờ lại bày trò vui đó, e có mệt
cho tinh thần. Đã thả thơ thì phải ồn ào mới vui. Còn trẻ trung gì cho nó cam.
Mà cụ tưởng ở đây ai đánh nổi. Chữ nghĩa đâu mà làm cái vốn. Họ dốt chữ, họ
thua thơ, mình ăn tiền của họ đã không lấy gì làm hứng thú mà lại còn mang
tiếng rất nhiều nữa.
- Nếu mình cứ thả thơ luôn ở đây, những người ở vùng quanh
sẽ tới. Tôi sẽ rao lên. Cụ kêu người đây ít chữ; kệ họ. Họ mất tiền mà được lạm
dự vào làng thơ phú, họ phải lấy làm sung sướng. Mà bọn nhà nho nghèo như anh
em mình, nhiều lúc cũng nên cho họ chơi trèo một chút, miễn là họ phải trả
tiền. Tục lệ ở hương thôn, khi bán nhiêu bán xã, mua quan viên cũng không ra
ngoài cái ý đó. Vậy bác để tâm đến việc này. Từ mai bác đọc lại các tập thơ cổ,
tìm sẵn những chữ “vòng” chữ “thả” thì vừa. Cô Tú nhà ta giọng trong và ấm
tiếng lắm.
- Để tôi xem xem có nên không đã.
- Cụ không phải nghĩ nữa. Vậy xin đính ước với cụ đến tuần
trăng sau. Ừ, bây giờ chúng ta là cuối hạ. Bắt đầu sang thu mát trời, thả thơ
thì tuyệt. Nhà lại ở bên sông, còn chờ gì mà không làm một cái nhà bè trên mặt
nước. Kể cũng đủ di dưỡng tính tình và đỡ cho khoản nhật dụng.
Khách đi rồi, cụ Nghè Móm nghĩ đến hồi trước, cụ đi lại với
bạn đồng liêu, những lúc thừa nhàn, không đánh tổ tôm, chơi cờ tướng, thì lại
bày một cuộc thả thơ hay là leo lên một đôi trái núi đá. Cái buồn thấy đời là
ngắn là ít, chớm qua lòng một ông già đã muốn yên phận với chữ bài.
Bắt đầu từ hôm ấy, những tập thơ cổ được giũ lớp bụi ngầu và
ra khỏi cái níp sách sơn son. Cụ Nghè Móm bắt đầu nghiền lại tập thơ của người
xưa. Đường thi, Tống thi, Minh thi; đọc đến một bài, đọc hết một câu, gặp được
một chữ đột ngột, cụ ngừng lại, ghé mắt kém vào mặt chữ nhỏ như con kiến, cụ
vắt tay lên trán, nghĩ ngợi và lẩm bẩm. Rồi cụ ngồi nhỏm dậy, sao cả bài thơ ấy
vào một cuốn sách giấy bản mới mẻ. Nhưng thường cụ chỉ trích lấy một câu ở
những bài thơ đọc rất kỹ lưỡng đó. Ngày năm câu, ngày ba câu, một ngày gần đấy,
cuốn sách đã đặc những dòng chữ thảo chép những câu thơ rút ở cổ thi. Cô Tú
theo lời cha dặn, đã đi mua sẵn rất nhiều tờ giấy tàu bạch ra rọc giấy ra từng
mảnh dài bằng chiếc đũa và ngang to bằng hai ngón tay. Đám học trò nhỏ, đầu còn
để cái chỏm dài lẩn thẩn hỏi cô Tú, cô vui vẻ trả lời:
- Đừng nghịch, thầy trông thấy, thầy mắng chết. Giấy này để
làm gì à? Thầy sẽ viết những câu thơ cổ vào đấy để bày ra giữa chiếu những lúc
thả thơ.
- Thả thơ? Có làm thơ thì có, chứ thầy và các anh ấy có nói
thả thơ bao giờ.
Cô Tú vốn yêu những cậu học trò nhỏ tuổi của cha mình như
một người chị lớn đối với em út, cô không khỏi nín cười để giảng:
- Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ
mà chỉ... có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy một cái
khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị
lấy một câu làm thí dụ thì các em rõ ngay. Các em biết câu: “Quân hướng Tiêu
Tương, ngã hướng Tần” đấy chứ? Ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ ấy. Và định
vòng chữ “hướng” ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này: “Quân hướng
Tiêu Tương, ngã... Tần”. Và khi ngâm câu thất ngôn có sáu chữ ấy lên thì
thường phải ngâm: “Quân hướng Tiêu Tương, ngã... “vòng”... Tần”; Chữ “vòng”
đây thay vào chỗ để trống. Bây giờ mới nói đến những chữ “thả” ra. Thí dụ thầy
thả năm chữ: cố, tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn.
Thường chỉ thả có năm chữ thôi.
Tụi trò nhỏ thấy chuyện thả thơ ngộ nghĩnh, nghe lấy làm
khoái trí, trố mắt nhìn cô Tú, giục cô nói tiếp.
- Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh.
Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng. Nhưng mà đây là chuyện của người lớn tuổi.
Các em ra tập bài đi, bao giờ thành người lớn rồi sẽ biết.
- Nhưng mà biết thế nào là được, là trúng hả chị? Lạy chị
giảng cho một chút nữa, rồi các em xin đi ra bục học bài ngay, để chị rọc giấy.
- Trên đầu mẩu giấy con này, thầy sẽ viết cái chữ thả, thí
dụ là chữ phản. Rồi thầy cuộn tròn đầu giấy lại, giấu chữ ấy đi, chỉ còn độ hở
cái khoảng viết mấy chữ: “Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần”, với một cái
khuyên tròn vẽ thay vào chỗ trống. Nếu trong năm chữ cố, tại, vọng, phản, hướng
em chọn lấy chữ phản mà đánh mà làm thành ra câu: “Quân hướng Tiêu Tương ngã
phản Tần”, thì là em trúng đấy. Đặt một tiền thì được ăn thành ba tiền...
Tụi trò nhỏ nhìn nhau cười khúc khích và khi bị cô Tú xua
đuổi lên nhà học trên đều ngoái cổ lại cười, nói một loạt với người con gái lớn
của thầy học:
- Bao giờ các em nhớn, học giỏi được lên tập bài trên trường
quan Đốc tỉnh, mỗi khi về thăm lại thầy, chị thả thơ cho các em đánh với nhá!
Đêm mười bốn tháng tám là cuộc thả thơ lần thứ hai của cụ
Nghè Móm. Lần trước thả vào thượng tuần tháng bảy; lần này cụ Nghè Móm chọn
ngày mười bốn, có người hỏi tại sao không để đến ngày rằm, cụ nói:
- Trăng mười bốn bao giờ cũng khéo hơn trăng rằm. Ngày mười
bốn là ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm vừng trăng rằm, người tinh ý
sẽ nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn khai trong có một thì.
Những người có chút kinh nghiệm, đều chịu lời ông già nhận
xét là chí phải.
Vừng trăng mười bốn lúc chếch về đoài đã in một cục bóng
thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội. Đấy là
bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm đang ngồi làm nhà cái,
thả thơ cho hàng chục người con đánh. Người ta đang sát phạt nhau bằng tiền,
đem cái may rủi cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước sông thu, tiếng ngâm
một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất ăn tiền, những
tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và
thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào.
Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều ngồi bên cạnh cha. Cô bận
tay đỡ cái túi thơ của cụ Nghè Móm mở lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho
làng chọn chữ đặt tiền. Đôi khi có kẻ chọn phải một chữ rất quê kệch mà lại
trúng vào chữ ăn tiền, cô Tú tủm tỉm nhìn mãi nhà con đang vơ tiền, chừng như
muốn bảo thầm người được tiếng bạc đố chữ đó: “Đấy ông xem, ở đời ăn nhau ở may
rủi, chứ chữ nghĩa tài hoa mà đã làm gì, phải không ông?”.
Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm thả thơ trên mặt sông đã là một
chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn. Nhưng có kẻ ác miệng đã phao
lên cái tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để cho con gái lớn gần quá lứa
kén chồng.
Từ đấy không thấy cô Tú theo kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè
Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy, không rõ tại đâu, cụ Nghè Móm
hay thua luôn. Và bọn đánh thơ thì uể oải vơ tiền được, và buồn nhớ đến một cái
bóng người đã mượn ít nhiều tiếng tơ mà tô vẽ nhiều cho lắm buổi đố chữ lấy tiền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét