Ném bút chì
Tác giả: Nguyễn Tuân
Ít bữa nay, Lý Văn buồn bực hiện ra mặt, bỏ nhà ra đi đến
hai ba hôm. Nhiều người lạ mặt đến hỏi, vợ con Lý Văn đều không biết thế nào mà
trả lời. Những người khách dữ tợn ấy có khi trở lại đến hai ba lần. Không được
gặp chủ nhân, họ không lấy thế làm hậm hực. Vợ Lý Văn có hỏi gặng, họ chỉ trả
lời nhiều câu nghe rất ngang tai :
- À anh em chúng tôi cũng là tay chơi như ông Lý nhà ta đây.
Hễ ông Lý có về, bà nói dùm cho là có bọn Huần ở Kim Sơn ra thăm. Bá Huần, bà
nhớ thế cho. Và có tin gì hay, xin ông Lý nhà cho anh em biết sớm.
Bọn Bá Huần Kim Sơn đi chưa khỏi thì lũ chó mèo ở ngoài cổng
lại sủa vang lên một hồi. Lại ba bốn người nữa đến hỏi thăm ông Lý.
Người nào cũng quấn khăn đầu rìu. Người nào trông cũng gian
ác, hung bạo.
- Chúng tôi là người Tam Tổng. Ở nhà lâu ngày tù chân quá,
nhân đi qua đây, ghé thăm ông Lý nhà và hỏi xem có công việc gì mới đáng để anh
em đỡ tay hộ không.
Bà Lý Văn, trước những câu tự giới thiệu rất lạ lùng của bạn
chồng mình, chỉ biết dạ và thưa và luôn miệng mời khách hãy ngồi chơi để cháu
đi đun nước.
- Thày cháu đi lên tỉnh vắng,- bà Lý nói.
Mấy ông khách người hạt Tam Tổng không chịu ngồi yên một chỗ
để sơi một khẩu trầu. Họ cũng không chịu ngồi yên để chờ đợi ấm nước trà đun
sắp sủi. Họ chắp tay ra đằng sau lưng, lững thững dạo quanh nhà một vòng. Đàn
chó mẹo tha hồ mà sủa, mà rộ; có lúc chúng chờm vồ lên lưng khách. Khách vẫn
thản nhiên để cho đàn chó nhà bà Lý gặm bắp chân. Bà Lý vừa quát lũ chó một
cách vô hiệu, vừa để ý ngắm đến những bắp chân tròn trĩnh của mấy ông khách lạ.
Thì ở đấy, có cần gì đợi lũ chó nhà bà Lý cắn, trên lần da chân bóng như đồng
đen kia, đã loang lổ nhiều vết sẹo rất to, cái thì trắng nõn nước da non đang
lên, cái thì đen thẫm màu thịt thối thâm đã lâu ngày.
Đàn chó xem chừng cũng chán mấy người lạ kia nghênh ngang
trong nhà chủ mình và có ý coi cái khoảnh sân vườn này như là của họ. Trái với
những lần khác thấy những người lạ qua đây có cầm que hay là gậy tre gai với sự
rụt rè kiêng nể là chúng hắn vồ và đuổi nhiều, lần này đàn chó mẹo, sau một hồi
thị oai suông, đã lảng xa mấy ông khách người Tam Tổng.
Sau một hồi nhỏ to ở giữa sân, họ nói chõ vào trong nhà :
- Thế ông Lý có nói bao giờ về không ?
Từ trong nhà thấp, thiếu ánh sáng của ban ngày, tiếng bà Lý
đưa ra:
- Dạ, thày cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông vào sơi nước kẻo nguội.
- Dạ, thày cháu hôm đi, không thấy dặn gì cả. Xin mời các ông vào sơi nước kẻo nguội.
Ngoài sân mấy ông khách vẫn thì thầm bàn tán. Họ không trả
lời mời nước của bà Lý. Trong một lúc gắt gỏng, bà Lý chỉ nghe được một mẩu
chuyện lúc họ nói to : “... chả có nhẽ lão Lý lại đi đánh một tiếng bạc bất
thình lình như vậy. Bao giờ lão đi, cũng có anh em mình tả phù hữu bật”.
Thế rồi họ kéo nhau đi, sau mấy mồi thuốc lào kéo đến tụt nõ
và sau mấy câu chào hỏi rất kệch cỡm ngô nghê. Bên chiếc điếu cầy dài đến thước
rưỡi ta, họ còn để lại một cái hộp tròn đựng thuốc lào. Nắp hộp làm bằng vỏ cam
khô. Lúc vỏ cam còn tươi, ở trong khuôn ép, người ta đã tỉ mỉ trổ lên đấy cái
mặt hổ phù.
Cai Xanh - người khách có hộp thuốc lào này và vừa ở đây ra
- Cai Xanh là một “tay chơi” nổi tiếng ở mấy vùng Thanh Nội và Thanh Ngoại.
Những tay anh chị trong đám cướp lớn có tổ chức hẳn hoi thường được biết đến
tiếng Cai Xanh. Và những người ăn cướp chưa được gần y thì chỉ thèm muốn có một
dịp nào nhập vào đảng y để được biết rõ đến nghệ thuật của một kẻ đàn anh.
Người ta biết đến Cai Xanh, người ta lại biết luôn cả đến
những đồ vật mà Cai Xanh hay giắt luôn trong mình. Như con dao hai lưỡi, cái
hộp thuốc lào v.v... Con dao hai lưỡi ấy, ít khi Cai Xanh phải dùng đến. Khi
phải dùng đến thì thế nào cũng có kẻ bỏ mạng. Trong những phút rất nguy nan,
phải giết kẻ khác để gỡ lấy mạng mình, chưa bao giờ Cai Xanh chịu phóng dao và
bỏ dao lại trên chiến địa. Hóa cho nên con dao đó, sau những khi cắm ngập vào
thớ thịt còn nóng hổi giòng máu của bao nhiêu tử thi, dao đó lại trở lại nằm
trong hầu bao của Cai Xanh. Chung quanh con dao thép sáng ngời, một huyền sử
kinh sợ đã bao trùm, cũng như một huyền sử khác đã chạy chung quanh cái hộp
đựng thuốc lào của Cai Xanh.
Những lúc nhàn tản, không dự một đám cướp to nào, những lúc
nhỡ độ đường không có tiền trả những hàng quán hẻo lánh trên con đường thăm
thẳm, Cai Xanh đã lễ phép nói với bao nhiêu là nhà hàng :
- Tôi lỡ quên không giắt theo tiền trong người, nhà hàng cho
tôi gửi tạm vật này làm tin, mai mốt tôi sẽ cho người nhà tới chuộc nó về.
“Nó” đây là cái hộp thuốc lào ở trên dán nắp vỏ cam có khắc
cái mặt hổ phù. Những chủ quán ở rải rác trên con đường Điền Hộ phần nhiều cũng
là đầu trộm đuôi cướp cả. Khi nào họ không đi ăn cướp được thì họ là người
lương thiện, mỗi ngày rót vào bát đàn vài lượt nước trà xanh nóng hổi cho người
đi đường giải khát. Họ vừa rót nước, vừa nheo cặp mắt lại như muốn đếm tách
bạch ra từng đồng tiền đồng trên tay nải khách qua đường nghỉ chân. Không biết
ai đã nói chuyện cho họ nghe từ bao giờ về cái hộp thuốc lào của Cai Xanh mà,
mỗi lần thấy người khách ngang tàng kia gửi vật mọn đó làm tin thay cho món
tiền thiếu, chủ quán nào cũng đều xoa tay, không dám nhận.
- Dạ không dám. Khi nào ông anh sẵn thì cho đàn em xin. Cái
đó có là bao mà dám phiền lòng ông anh.
Cai Xanh cả cười... ra đi. Cái cười rất hợm hĩnh đó thay một
câu hỏi gần như thế này:
- Mấy chú em bán quán ở vùng này cũng đã biết rõ đến ta sao
?
Hôm nay, cùng một vài bạn lợi hại đến thăm Lý Văn mà không
được gặp. Cai Xanh có ý vờ bỏ quên lại hộp thuốc lào, để nhắc cho chủ nhân biết
y đến không phải là việc phiếm và khi nào về nhà, chủ nhân nên triệu y đến
ngay. Vì có việc cần phải bàn. Cái chuyện lơ đễnh rất hữu ý đó, cái chuyện bỏ quên
hộp thuốc lào vẫn là một ám hiệu của Cai Xanh dùng tới mỗi lúc đi tìm bạn để “đánh
một tiếng bạc lớn” nghĩa là cướp một đám to.
Thế mà, không hiểu rõ một tí gì, bà Lý Văn cứ phàn nàn cho
mấy ông khách Tam Tổng đến chơi đã không gặp được chồng mình, lại còn bỏ quên
đồ vật. Xa xôi hàng mấy ngày đường, đến bao giờ các ông ấy mới trở lại đây để
nhận vật bỏ quên. Mà bây giờ các ông ấy đi hẳn đã xa lắm, biết đuổi theo thế
nào cho kịp.
Một ngày nữa lại hết.
Vào buổi sớm ngày thứ hai, một thôi tiếng chó sủa vang ngoài
cổng, mở đầu cho cái ồn ào hàng ngày trong gia đình nhà Lý Văn. Bà Lý ngừng tay
dưới bếp, đã tưởng chồng mình về.
Té ra chỉ là một ông khách lạ mặt nữa, đến hỏi thăm chồng
với sự nóng nẩy của một người quen vội vàng. Y tỏ vẻ thất vọng, xin đi ngay. Bà
Lý muốn ông khách hấp tấp kia cho mình biết tên. Khách cười. Trên khuôn mặt đen
như cột nhà cháy, nẻ ra hai đường răng trắng nhởn. Ông khách chạy vội ra phía
đầu trái nhà, vơ lấy cái mai dựng ở tường, móc túi lấy con dao găm, khắc vào
cán mai một đường tròn đều như tiện, trao mai cho bà Lý.
- Bà cứ đưa cán mai này cho ông Lý nhà, tự khắc ông sẽ biết.
Độ chiều mai tôi lại sang chơi. Xin ông Lý đợi cho.
Bà Lý Văn cũng chỉ biết vâng dạ cho qua chuyện. Từ ngày bà
làm bạn cùng ông Lý Văn, đến bây giờ đã mấy mụn con, bà chưa từng được biết
chồng bà có những người bạn lạ lùng đến như thế bao giờ.
Lý Văn đã về. Không kịp bỏ khăn áo, Lý Văn đã nằm ềnh ra
giữa phản. Từ chối hết cả những lời mời mọc ân cần của vợ hỏi ăn cơm hay là ăn
cháo hay là dọn rượu, Lý Văn chỉ nằm ngửa nhìn thượng lương nhà, tay trái vắt
lên trán, có chiều tư lự không cùng. Trên mặt y, chốc chốc những đường gân lại
dăn dúm lại vì dày vò của suy nghĩ.
Bà Lý mon men lại gần chồng :
- Mấy hôm thày nó đi vắng, có đến dăm bảy ông khách lạ đến
hỏi thăm. Các ông ấy đều không nói tên. Có một ông khắc cái gì vào cán mai này
và dặn đưa ngay cho thày nó xem.
Bà đưa cho cho chồng cái mai có tiện một nấc ở đầu cán.
- À, Phó Kình ! Thế người ta đến từ bao giờ ?
- Sáng qua. Theo lời ông ta hẹn, có lẽ chiều nay ông ta trở
lại đây.
Lý Văn tự nói một mình :
- Mình đang tìm Phó Kình. Thôi được rồi, có cây “bút
chì” này giúp sức, ta không lo gì nữa.
Bỗng Lý Văn ngồi nhỏm dậy. Y vừa nhìn thấy ở mép bàn thờ cái
hộp đựng thuốc lào con con. Y vội quờ lấy cái hộp có in mặt hổ phù.
- Ấy, của cái bọn ông khách gì nói là người vùng Tam Tổng
đấy. Ông ta lúc đi bỏ quên. Tôi bận trẻ không kịp chạy theo để trao trả cho ông
ta. Thày nó giữ lấy vậy.
Lý Văn không để ý đến nhời vợ, ngắm nghía hộp thuốc lào với
nỗi sung sướng hoàn toàn, lim dim mắt, nói như người mơ ngủ :
- Cai Xanh ! “Tiếng bạc” này, thế nào cũng ăn to. Một cây “bút
chì” của Phó Kình và một cái lá chắn của Cai Xanh, thế nào đám này cũng lọt. Ta
đang thiếu hai tay này. Chắc thế nào Phó Kình cũng tới tìm Cai Xanh. Và có lẽ
họ đã gặp nhau ở giữa đường rồi cũng nên. Tất thế nào chiều nay hai người cũng
có mặt ở đây một lúc.
Thế là Lý Văn đã truyền cho vợ đi lấy độ chục chai rượu ngon
và quát tháo người nhà bắc ngay nước sôi để làm lợn. Bà Lý Văn không hiểu gì
cả: chồng bảo thế nào, bà chỉ biết làm theo. Từ những ngày nào, trong cái gia
đình này, mỗi một lời nói to của ông Lý là một mệnh lệnh.
Một mặt, người nhà chọc tiết lợn, tiếng con vật bị đâm dao bầu vào cuống họng
kêu oeng oéc. Một mặt bà Lý đi ra đầu làng để liệu cho xong cái khoản rượu.
Lý Văn chạy tới tấp như một kẻ chức sắc gặp ngày phải đương
cai. Ngồi ở nhà được một chút, y nghĩ thêm được một điều gì, y lại vụt chạy đi
rất lâu.
Y chạy đi chạy về như thế, tính ra đã được ba lần. Đến lần
thứ tư thì y dắt luôn đến năm sáu người cùng về, trong số đó có cả Cai Xanh và
Phó Kình.
Người ta nói cười oang oang. Lý Văn vào nhà trước, trải vội
chiếc chiếu cạp điều phủ mặt ván ngựa.
- Mời các chú vào trong này.
Cả bọn kéo lên giường sau khi rửa chân cạn, hai bàn chân bẩn
vỗ vào nhau mươi lượt. Cũng như từ bao giờ, bà Lý đã lẩn đi đâu mất. Ông Lý đã
dặn vợ hễ khi nào ông có đông bạn lạ đến uống rượu thì bà nên vắng nhà. Vì thế,
dọn xong rượu, lần nào bà cũng đi biệt.
Người ta ngồi vào mâm rượu với sự uể oải của người không đói
ăn, với sự buồn bã của kẻ dự đám hiếu, với sự nghiêm trọng của một người biết
trước bữa rượu này là khơi mào cho một việc quan hệ cần phải giải quyết trong
hơi men nồng.
Thực khách đều giữ một vẻ mặt bí mật.
Trong số mười chai rượu, thì đến bốn năm cái đã là vỏ thủy
tinh không. Chiếc mâm đồng thước rưỡi có lót lá chuối tươi, đựng thịt thủ thái
dối đầy tú hụ lên thế, lòng mâm thịt đã vợi đến một phần ba. Một vài người dặng
hắng. Đôi ba kẻ vê sẵn những mồi thuốc lào, mắt nhìn trừng trừng vào người đang
rít điếu cầy.
Lý Văn khạc mạnh. Y giả vờ gọi đầy tớ thực to. Không có đứa
nào thưa, y tủm tỉm :
- Thưa các quan, nhà vắng cả, xin các quan bàn qua lại việc
đó. Rồi để phân phát ngay công việc cho anh em và định ngày làm.
- Còn định gì nữa,- Cai Xanh ngắt câu chuyện.- Nếu có làm
thì làm ngay đêm nay đi. Nhân thể đêm nay lại tối trời. “Tiếng bạc” này, em xin thưa để bác Lý biết: nếu đêm nay không mở ngay đi thì “tiếng
bạc” đến vỡ mất.
- Cũng được. Vậy thì anh em cắt và nhận công việc luôn đi.
Phó Kình bây giờ mới lên tiếng :
- Cứ như lệ cũ mà theo, vẽ vời cắt đặt lại làm chi cho thêm
phiền ra. Thì cũng lại cầm lá chắn là anh Cai và đánh “bút chì” là em chứ còn
ai vào đây. Nếu có neo người thì anh Lý nhà đỡ cho một cây “bút chùng” kèm sát
bên cạnh em cho em vững tay ở những đường độc đạo. Còn các chú nó đây - Phó
Kình sòe tay chỉ mấy người ngồi ăn từ nãy chưa nói gì - thì chia nhau ra mà đỡ
lấy việc vặt như thả chông, bật hồng, vân vân. Còn thì mới đến người ngoài. Các
ông anh nghe đàn em lạm bàn thế đã tạm ổn chưa ?
Phó Kình tu một hớp rượu đánh ực. Cả bọn đều nhao :
- Thôi, thông lắm rồi. Vậy thì nhất định đêm nay hết trống
canh hai bắt đầu cất quân. Sang đến đúng đất bên ấy, vừa vào giờ tý.
Cả bọn lại đều một loạt đánh ngã vài chai lớn nữa. Rồi trong
không khí ồn ào, người ta đọc đi đọc lại cái câu: “Ở đời muôn sự của chung,
hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Cả bọn đều lấy làm thưởng thức câu đó và
mỗi người đều tự đặt ngay mình vào địa vị người anh hùng.
Phó Kình đã nóng mặt, sắn tay áo, ngồi chửi đổng :
- Này phải biết, một cây “bút chì” của em, em dám chấp cả
một ấp người. Có một cây “bút chì” mà đánh cho sát đòn, thì đây nhất nhân địch
vạn nhân, à, phải biết thế mới được.
Nói xong, Phó Kình nhẩy xuống đất, quơ trong gầm giường lấy
cái mai, tháo cuộn giây thừng quấn trong người thay thắt lưng, buộc một đầu mối
dây vào cán mai có tiện đường rãnh từ hôm nọ. Cả bọn đang vui câu chuyện, đều
ùa theo Phó Kình ra mặt sau nhà, đứng một loạt đối diện với bụi chuối tiêu phất
phơ tàu lá ở bờ rào xa. Phó Kình cuộn mấy vòng dây thừng dài đến mấy sải vào
cánh tay trái. Bàn tay trái y nắm chắc cổ cán mai, bàn tay phải y giữ vững đốc
ngọn mai.
- Đàn anh thử xem em hạ cây chuối phía bên trái.
Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống
mặt đất, kêu đánh roạt. Và Phó Kình đang cười hề hề, cuốn vòng dây thừng vào
cánh tay trái và, đã được giật về từ lúc nào, cái mai đã ở gọn trong hai bàn
tay y.
- Bây giờ đàn anh lại xem em lấy buồng chuối chín cây xuống
để chút nữa lễ thánh.
Lưỡi mai sén qua cuống buồng chuối, đi quá đích, chạm cả vào
đến quá nửa thân cây chuối. Cả bọn cười vang. Lý Văn dè dặt lời khen :
- Ngón “bút chì” của chú hay đấy. Nhưng cũng còn nặng tay.
Chưa được ngọt đòn lắm. Có nhiều khi mình chỉ nên đánh dọa người ta thôi. Nếu
không cần đến, thì chớ nên làm tổn hại đến nhân mạng.
Sẵn có đàn gà đang đi trong luống khoai lang, Lý Văn mượn
Phó Kình đưa cho mình cây “bút chì”, buộc thòng lọng múi dây vào cổ tay trái và
nói với anh em :
- Chú nào ném hộ tôi hòn đất.
Tiếng hòn đất đụng đất kêu đánh bộp. Mấy con gà bay tà tà
khỏi mặt vườn, đập cánh bồm bộp. Tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh
vụt. Một tiếng gà kêu oác.
Cả bọn chạy ra luống khoai, giơ cao con gà gẫy mất hai chân.
Vết thương gọn gàng vừa đúng quãng đầu gối và cặp giò chưa lìa hẳn, vẫn còn
dính vào đùi bởi lần da hoen máu.
Lý Văn gác mai, nói với tất cả bọn :
- Nếu mình ném mạnh tay quá và không biết tính sức đi của “bút
chì” là nát mất gà. Các chú không phải đánh những “tiếng bạc” vào sinh ra tử,
các chú không biết, chứ đòn “bút chì” khó khiến lắm. Và một cây “bút chì” ngang
tàng như thế mà lại phải lụy một cành tre đấy. Chú nào hay xử cây “bút chùng” ở
các đường độc đạo, nên cẩn thận khi thấy bên địch tung cành tre ra để phá “bút
chì”. Để hôm nào rảnh, anh sẽ dạy cho các chú tập đánh cái lối đòn bơi chèo
bằng gỗ cau. Đánh đến đòn hỗn chiến ấy thì đầu người rụng cứ như sung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét