Thế là hết. Subienkow đã trải qua một đoạn đường dài đầy cay
đắng và hãi hùng, mong trở về các thủ đô Âu Châu như một con bồ câu trở về tổ
ấm, và tới đây, một nơi xa xôi hơn bao giờ hết, tại một địa hạt trên Mỹ Châu
thuộc Nga, con đường đã tận cùng. Chàng ngồi trên tuyết, hai tay bị trói giật
cánh khủyu sau lưng, chờ đợi đến lượt bị tra tấn. Gã tò mò chầm chậm nhìn người
lính Cossack to lớn nằm sấp trên tuyết đằng trước mặt; miệng rên rỉ vì đau đớn.
Bọn đàn ông đã hành hạ hắn xong, rồi giao hắn cho đám phụ nữ. Cứ nghe tiếng kêu
thét của người Cossack đó thì rõ. Bọn này còn tàn ác hơn bọn đàn ông nhiều.
Subienkow tiếp tục nhìn và rùng mình vì kinh tởm. Chàng
không sợ chết. Chàng đã dùng đôi tay tự bảo vệ đời mình trên con đường gian nan
suốt từ Warsaw đến Nulato trong một thời gian dài dặc nên cái chết không làm
chàng rùng mình được.
Nhưng chàng rất ghét lối tra tấn đó. Nó xúc phạm tâm hồn
chàng. Tâm hồn chàng bất bình không phải vì sự đau đớn chàng phải chịu đựng, mà
vì cái cảnh thảm thương do nỗi đau đớn gây trên thân thể chàng tạo ra. Chàng
biết rằng chàng sẽ cầu khẩn, van xin, lạy lục, như là Hộ Pháp Ivan và các kẻ
khác đã làm. Điều này không đẹp đẽ chút nào. Chết can đảm và đàng hoàng, miệng
mỉm cười, diễu cợt... như thế mới là đúng cách. Còn để mất tự chủ, tâm hồn rối
loạn vì đau đớn của xác thịt, miệng kêu choe chóe và rên khừ khừ như con khỉ
đột để trở thành thú vật thật sự - ôi, đó thật là một điều khủng khiếp!
Không còn hy vọng gì thoát thân được. Ngay từ buổi đầu, khi
chàng mơ giấc mộng nồng nhiệt về nền độc lập của Ba Lan, chàng đã trở thành một
tên bù nhìn đặt trong tay của định mệnh. Từ buổi ban đầu, ở Warsaw, ở St.
Petersburg, trong miền hầm mỏ Tây Bá Lợi Á, ở Kamchatka trên những chiếc thuyền
ba chìm bảy nổi của bọn hải tặc chuyên cướp da thú, định mệnh đã xô đẩy chàng
đến bước đường cùng này. Hiển nhiên trên nền tảng của thế giới, bước đường cùng
này cho đời chàng đã được khắc rồi, một con người tế nhị và đa cảm, mà những
dây thần kinh nằm sát ngay dưới làn da, một người vốn mơ mộng, có tâm hồn thi
sỹ, và một nghệ sỹ. Trước khi mơ tưởng tới gã, tạo hóa đã định rằng cái mớ cảm
giác sắc sảo dễ rung động tạo thành chàng sẽ bị đày đọa trong cảnh dã man khủng
khiếp, và bỏ xác tại mảnh đất xa xôi tối tăm này, ở cái nơi tối âm u này, vượt
quá những ranh giới cuối cùng của thế giới.
Gã thở dài. Vậy ra con người trước mặt gã là Hộ Pháp Ivan -
Hộ Pháp Ivan, người khổng lồ, con người không cảm giác, con người bằng sắt,
chàng Cossack quay ra theo nghề cướp biển, con người lạnh lùng bình thản, với
bộ thần kinh chai lỳ tới mức một sự đau đớn đối với người thường chỉ gãi ngứa
cho hắn. Phải, cứ tin ở những tên mọi da đỏ Nulato này đi, hãy xem chúng tìm ra
những dây thần kinh của Hộ Pháp Ivan và theo dõi những dây thần kinh này tới
gốc rễ của tâm hồn run rẩy của hắn. Chắc chắn là chúng đang làm công việc ấy.
Người ta không thể tưởng tượng được là một người lại có thể
chịu đựng nhiều đau đớn như thế mà còn sống được. Hộ Pháp Ivan đang phải trả
một giá đắt vì bộ thần kinh chậm xúc cảm của hắn. Hắn đã sống lâu gấp đôi bất
cứ kẻ nào khác.
Subienkow cảm thấy chàng không thể chịu đựng nổi những cảnh
đau đớn của tên Cossack hơn nữa. Tại sao Ivan lại không chết quách đi? Chàng sẽ
nổi điên mất, nếu những tiếng thét kia không kết thúc. Nhưng khi tiếng thét
chấm dứt thì lại đến lượt chàng. Ngoài ra lại còn tên mọi Yakaga đang chờ chàng
nữa, ngay lúc này hắn đã nhìn chàng mà cười khoái trá.
Yakaga, mà tuần trước chàng đã tống cổ ra khỏi đồn và đã lấy
roi đánh chó quất vào mặt nó.
Yakaga sẽ ra tay tra tấn chàng. Chắc chắn Yakaga đang sửa
soạn dành cho chàng những cách tra tấn tinh vi hơn, làm thần kinh đau buốt hơn.
Ôi! Cứ nghe cách thức Ivan kêu thét lên cũng biết là họ vừa dùng một đòn tra
tấn tinh vi lắm. Những mụ đàn bà da đỏ bu chung quanh hắn bước lùi lại, vừa
cười vừa vỗ tay. Subienkow trông thấy rõ sự tàn ác mà họ đã thi hành, chàng phá
lên cười như điên dại. Bọn da đỏ nhìn chàng và ngạc nhiên là tại sao chàng lại
còn cười được. Nhưng Subienkow không sao nín được.
Như vậy không chu đâu. Chàng tự kiềm chế, tiếng cười làm
rung rinh người chàng dần dần im bặt. Chàng cố gắng nghĩ tới những điều khác,
và bắt đầu hồi tưởng lại những việc đã xảy ra trong đời chàng. Chàng nhớ tới
cha mẹ, nhớ tới con ngựa nhỏ bé có chấm lốm đốm, tới ông thầy dạy tư người Pháp
đã dạy chàng khiêu vũ và dúi cho chàng cuốn sách cũ nát của triết gia Voltaire.
Một lần nữa chàng thấy Paris, rồi thành phố London ảm đạm, rồi Vienna tưng
bừng, và La Mã cổ kính, và một lần nữa, chàng lại thấy nhóm thanh niên bồng bột
mơ tưởng, như chàng đã mơ tưởng, giấc mơ về một nước Ba Lan độc lập có hoàng đế
Ba Lan trên ngai vàng ở Warsaw. Ôi! đoạn đường dài khởi đầu chính từ đó. Chàng
đã sống lâu nhất.
Lần lượt từng người, bắt đầu là hai người bị xử tử ở St. Petersburg , chàng
tiếp tục đếm những con người có tâm hồn can đảm đã mất. Chỗ này một kẻ bị tên
cai ngục đánh đập cho đến chết, rồi chỗ kia, trên con đường loang lổ máu của
những kẻ tù đầy, nơi họ đã đi hàng tháng trời bất tận, đã bị những tên lính gác
người Cossack đánh đập, một kẻ khác đã bị bỏ lại bên đường. Luôn luôn họ bị đối
xử dã man hung bạo như thú vật vậy. Họ đã chết vì bị nóng lạnh trong những hầm
mỏ, dưới ngọn roi da. Hai người cuối cùng đã chết sau khi trốn thoát, trong
cuộc ẩu đả với bọn Cossack, và duy có chàng tới được Kamchatka với những giấy
tờ ăn cắp được và tiền bạc của một du khách mà chàng đã bỏ nằm ngắc ngoải trên
tuyết.
Chỉ toàn là cảnh dã man. Suốt bao năm trường, với tâm hồn
gửi vào những phòng làm việc*, những rạp hát và những triều đình, chàng lại bị
bao vây trong cảnh dã man. Chàng đã mua cuộc đời chàng bằng máu. Người nào cũng
đã từng là kẻ sát nhân. Chàng đã giết người du khách để lấy giấy thông hành.
Chàng đã tỏ ra là một người có can trường qua hai cuộc đấu kiếm với hai sỹ quan
Nga cùng trong một ngày. Chàng phải tỏ ra là người thế nào thì mới giành được
một địa vị trong bọn cướp da thú. Chàng phải giành bằng được chỗ đó. Đằng sau
chàng là con đường đã có từ hàng ngàn năm xuyên qua Siberia
và nước Nga, chàng không thể trốn theo con đường đó được. Con đường duy nhất là
tiến về phía trước, vượt qua biển Bering tối tăm băng giá để tới Alaska . Con đường đó đưa
từ cảnh dã man tới cảnh dã man hơn. Trên những con tàu hôi thối mùi bệnh hoại
huyết, thiếu thức ăn, thiếu nước uống, bị những trận bão bất tận của biển cả
quất lên quất xuống, con người đã trở thành thú vật. Đã ba lần chàng đáp tàu từ
Kamchatka đi về phía đông. Và cả ba lần, sau
khi trải qua đủ cảnh gian truân khổ sở, những kẻ sống sót lại trở về Kamchatka . Ở đó không có lối thoát nào để trốn cả; và
chàng lại không thể trở về đường cũ được, vì hầm mỏ và roi da có buộc cục sắt
vẫn chờ đợi chàng.
Một lần nữa, lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng, chàng đã
đáp thuyền đó về hướng đông.
Chàng đã sống chung với những người đầu tiên đã tìm ra những
đảo Hải Cẩu thần kỳ; nhưng chàng không quay lại với họ để chung hưởng cảnh giàu
có phong túc do những tấm da thú mang lại, trong những bữa tiệc đầy hoan lạc
tại Kamchatka . Chàng đã thề rằng không bao giờ
quay trở lại. Chàng biết rằng muốn đặt chân trở lại những thủ đô thân mến ở Âu
Châu, chàng phải tiếp tục tiến. Vì thế mà chàng thấy cần phải chuyển sang tàu
khác và ở lại vùng đất tối tăm đó. Bạn bè của chàng là những thợ săn người
Slovênia, những tay giang hồ Nga, người Mông Cổ, người Thát Đát, thổ dân Siberia ; họ đã mở đường máu qua những cảnh hoang dã của
Tân Thế Giới. Họ đã tàn sát những làng không chịu cung phụng da thú; và sau đó
đến lượt họ bị những công ty hàng hải tàn sát. Chàng cùng với một người Phần
Lan là hai kẻ còn sống sót. Họ đã trải qua một mùa đông cô quạnh và đói khát
trên hòn đảo chơ vơ Aleutian ; một chiếc tàu
chở da thú khác đã cứu họ vào mùa xuân năm ấy, và đó là một chuyện tình cờ quả
thật hãn hữu.
Những khung cảnh man rợ khủng khiếp luôn luôn bao vây chàng.
Vì không chịu quay trở lại, và cứ chuyển tàu này sang tàu khác, chàng đã tới
chiếc tàu đến thám hiểm miền Nam .
Suốt dọc bờ biển Alaska ,
họ toàn gặp những toán người man rợ. Mỗi lần bỏ neo, dù là ở một hòn đảo cheo
leo hay tại những bờ biển lởm chởm đá của đất liền, là một lần xung đột hoặc
một lần gặp bão tố. Hoặc gió thổi mạnh như muốn phá tan tành chiếc tàu; hoặc
thổ dân, miệng hò hét, mặt vẽ sơn khi xuất trận, chèo những chiếc thuyền ra
khơi để thử thách sức tàn sát của thuốc súng của những tay cướp biển. Họ cứ đi
dọc theo bờ biển xuống tận miền Nam ,
tới mảnh đất thần bí của vùng California .
Người ta nói rằng những kẻ phiêu lưu Tây Ban Nha đã từ Mexico tiến lên
tới đây sau nhiều trận tranh hùng. Chàng nuôi hy vọng là sẽ gặp được những tay
hảo hán Tây Ban Nha đó. Chỉ cần trốn thoát được để tới gặp họ, là hết khó khăn
- một năm hay hai năm, chậm hay nhanh một chút, nào có quan hệ gì? - chàng sẽ
tới Mexico ,
rồi lên một chiếc tàu, thế là chàng sẽ về tới Âu Châu. Nhưng họ không gặp người
Tây Ban Nha nào. Họ chỉ gặp bức tường man rợ vững chắc. Bọn thổ dân ở bên lề
thế giới, mặt bôi những vết sơn khi xuất trận, đã đánh lui họ khỏi bờ biển. Sau
cùng, khi một chiếc thuyền bị phá hủy và các người trên thuyền bị giết chết
hết, viên thuyền trưởng liền bỏ giở cuộc thám hiểm rồi cho quay trở về hướng
Bắc.
Nhiều năm tháng trôi qua. Chàng đã làm việc dưới quyền của
Tebenkoff trong khi đồn Michaelovski đang được xây cất, và chàng đã sống hai
năm tại xứ Kuskowin. Liền hai mùa hạ, vào tháng Sáu, chàng tìm cách để tới mũi
eo biển Koizebue. Vào dịp này các bộ lạc hợp nhau để trao đổi hàng hóa; tại đây
người ta thấy những tấm da hươu sao từ Siberia đem lại, ngà voi của xứ
Diomedes, da hải mã từ những miền duyên hải Bắc Cực, những chiếc đèn bằng đá lạ
lùng, được trao đổi từ bộ lạc này sang bộ lạc khác, nhưng không ai rõ xuất xứ,
và có lần cả một con dao chế tạo tại Anh; Subienkow biết rằng đây là chỗ tiện
lợi nhất để tìm hiểu về địa dư. Vì chàng đã gặp những người Eskimo ở eo biển
Norton, Đảo King và đảo St. Lawrence ,
Mỏm Hoàng Tử Wales và Mỏm Barrow. Những nơi đó còn có những tên khác nữa, và
khoảng cách phải tính bằng ngày đi đường.
Những người man rợ tới đổi chác hàng hóa tại đây đã từ một
vùng rộng bao la tới, và những cây đèn bằng đá và con dao bằng thép kia lại từ
một vùng rộng lớn hơn nữa tới sau khi được trao đổi qua tay nhiều người.
Subienkow đã dùng đủ cách, hăm dọa, tán tỉnh, đút lót. Chàng gặp tất cả những
người đã từng đi xa hay thuộc những bộ lạc lạ. Chàng được nghe kể nhiều chuyện
hiểm nguy không kể xiết, được nghe người ta kể lại về những thú rừng, những bộ
lạc không ưa người lạ, những khu rừng không sao vào được, những dãy núi cao
hùng vĩ; nhưng ngoài những chuyện đó, chàng còn được nghe đồn đại về những
người da trắng, mắt xanh, tóc vàng, chiến đấu dữ tợn như quỷ và luôn luôn chỉ
lo tìm da thú. Họ ở về phía đông, tuốt mãi về phía đông xa tắp. Chưa ai gặp họ.
Người ta chỉ kháo như vậy mà thôi.
Thật là một ngôi trường khó học. Người ta không thể hiểu rõ
ràng về địa dư qua những thổ âm kỳ lạ, theo lời nói của những kẻ có đầu óc tối
tăm coi chuyện hoang đường là chuyện thật và đo những khoảng đường xa bằng
những “giấc ngủ” dài ngắn tùy theo đường đi khó hay dễ. Nhưng sau cùng có một
câu chuyện phong thanh làm cho Subienkow phấn khởi.
Những người mắt xanh đó sống tại một vùng ở về phía Đông bên
một con sông lớn. Con sông đó tên là Yukon .
Phía Nam
đồn Michaelovski cũng có một con sông lớn chảy ra, sông ấy người Nga mệnh danh
là Kwikpak. Theo lời người thuật chuyện thì hai con sông này chỉ là một.
Subienkow trở lại Michaelovski. Suốt một năm trời, gã hối
thúc mở một cuộc thám hiểm ngược dòng sông Kwikpak. Thế rồi Malakoff, người lai
Nga, đứng lên dẫn đầu những tên man dã và hung bạo nhất trong đám dân lai phiêu
lãng từ Kamchatka tới.
Subienkow làm phụ tá. Họ len lỏi qua những con đường ngoằn
ngoèo trong miền trung châu sông Kwikpak, leo lên những quả đồi thấp đầu tiên
trên bờ phía Bắc, và suốt năm trăm dặm, trên những con thuyền độc mộc bọc da
chở hàng hóa và đạn dược đầy đến tận mạn, họ chống cự lại luồng nước chảy xiết
của con sông rộng từ hai đến mười dặm chảy trong một khe sâu hàng mấy sải tay.
Malakoff quyết định xây một đồn trại ở Nulato. Subienkow thúc dục lão tiến xa
hơn, nhưng rồi chàng cũng vội vàng đồng ý ở lại Nulato. Mùa Đông dài dặc sắp
tới. Tốt hơn là hãy chờ. Mùa Hạ tới, khi tuyết tan hết, chàng sẽ trốn đi ngược
dòng sông Kwikpak và tiến tới những trạm mậu dịch của Công ty Vịnh Hudson.
Malakoff chưa từng nghe nói rằng chính Kwikpak là sông Yukon và Subienkow cũng dấu không cho lão
biết chuyện đó.
Công cuộc xây đồn lũy bắt đầu. Đồn đó xây bằng lao công
cưỡng bách. Những lớp tường bằng gỗ được dựng lên trong những tiếng thở dài và
rên xiết của dân da đỏ Nulato. Lưng họ hứng chịu những ngọn roi da, và những
ngọn roi đó do bàn tay sắt của quân cướp biển quất lên họ. Có một vài thổ dân
da đỏ bỏ trốn, và khi bị bắt, họ bị đem về và căng nọc trước đồn, rồi họ và
những dân trong bộ lạc được nếm mùi hiệu lực của chiếc roi da đầu buộc cục sắt.
Hai người chết dưới ngọn roi đó; nhiều kẻ khác phải mang
thương tích suốt đời, những người còn lại nhớ đời bài học đó và không còn dám
trốn đi nữa. Tuyết bay tả tơi trước khi pháo đài được hoàn thành, thấm thoắt
tới mùa kiếm da thú. Các bộ lạc được lệnh phải cống hiến một số lớn da thú. Dân
bộ lạc tiếp tục bị đánh đập, bị roi quất lên lưng; và để buộc họ phải cống
hiến, đàn bà và con trẻ bị giữ làm con tin và bị đối xử rất dã man mà chỉ riêng
có bọn cướp da thú mới biết làm mà thôi.
Ở đời ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Những kẻ đã gieo
máu thì bây giờ lại phải gặt kết quả bằng máu. Đồn bị thiêu hủy. Trong khi đồn
cháy, bọn cướp da thú đã bị sát hại hết một nửa. Nửa sống sót kia đã chết dần
mòn vì tra tấn. Chỉ còn sót có Subienkow, hoặc Subienkow và gã Hộ pháp Ivan,
nếu cái hình thù đang ngắc ngoải rên xiết nằm trên tuyết kia còn có thể gọi là
Hộ pháp Ivan.
Subienkow bắt gặp Yakaga đang nhe răng cười với chàng.
Nói với Yakaga cũng chẳng ăn thua gì. Vết roi hãy còn in hằn
trên mặt hắn. Nói cho cùng, Subienkow chẳng thể trách hắn được, nhưng chàng
không thích nghĩ tới những cách thức mà Yakaga sẽ áp dụng để tra tấn chàng.
Chàng nghĩ tới giải pháp van xin tên Chúa tể Makamuk; nhưng suy đi nghĩ lại,
chàng thấy là van xin cũng vô ích. Chàng còn nghĩ tới chuyện dứt đứt dây trói
để được chết trong khi xung đột. Chết như thế sẽ mau chóng. Nhưng chàng không
thể dứt dây trói được. Dây da hươu khỏe hơn chàng. Đang suy mưu tính kế thì một
ý nghĩ khác chợt hiện trong óc chàng. Chàng ra hiệu gọi Makamuk, và làm hiệu để
cho gọi một người thông ngôn biết thổ âm miền Duyên Hải.
- Này, Makamuk,- chàng nói: - Ta không định chết đâu. Ta là
một siêu nhân, ta không điên rồ gì mà chết. Thật thế, ta sẽ không chết. Ta
không giống những cái xác hèn kém này đâu.
Gã nhìn cái đống thịt đang rên rỉ mà trước kia là Hộ pháp
Ivan, rồi lấy ngón chân hất nhẹ một cách khinh bỉ.
- Ta quá khôn nên không chết được. Nghe này, ta có một môn
thuốc thần bí truyền không ai biết. Vì ta không chết, nên ta sẽ đổi môn thần
dược này cho mi.
- Thuốc đó là thuốc gì?- Makamuk nói.
- Nó là một môn thuốc kỳ lạ.
Subienkow tần ngần suy nghĩ một lát làm như tiếc rẻ không
muốn lộ bí quyết.
- Ta sẽ bảo mi. Một chút thuốc đó xoa lên da sẽ làm cho da
cứng như đá, cứng như sắt, đến nỗi không có khí giới nào cắt đứt được. Một võ
khí dù chém mạnh đến đâu cũng không ăn thua gì cả. Một con dao bằng xương đối
với nó cũng chỉ là cục bùn, thuốc này sẽ làm cho những con dao sắt của bọn ta
mang tới đây phải cong lưỡi. Mi sẽ cho ta gì để đổi lấy cái bí quyết của môn
thuốc này?
- Ta sẽ để cho mi sống.- Makamuk trả lời qua tên thông ngôn.
Subienkow phá lên cười với một giọng khinh bỉ.
- Và mi sẽ làm nô lệ trong nhà ta cho đến chết.
Người Ba Lan cười bằng giọng khinh bỉ hơn.
- Cởi tay chân cho ta rồi chúng ta sẽ nói chuyện,- chàng
nói.
Viên chúa tể ra dấu hiệu; sau khi được thong thả, Subienkow
quấn một điều thuốc rồi châm lửa hút.
- Nói chuyện thế này là điên.- Makamuk nói: - Làm gì có thứ
thuốc như thế, không thể có được. Lưỡi dao sắc là mạnh hơn bất cứ môn thuốc nào
cả.
Viên chúa tể không tin nhưng vẫn còn hồ nghi trong bụng. Hắn
đã chứng kiến nhiều phép thuật quỷ quái của bọn cướp da thú. Hắn không thể hoài
nghi hoàn toàn được.
- Ta sẽ để cho mi sống; và mi khỏi phải làm nô lệ.- Hắn
tuyên bố.
- Thế chưa đủ.
Subienkow đóng vai trò một cách bình tĩnh như là chàng đang
điều đình đánh đổi một tấm da cáo.
- Nó là một thần dược kỳ diệu. Nó đã cứu sống ta bao nhiêu
lần. Ta muốn một cái xe trượt tuyết, một đàn chó, sáu tay săn của mi để đi xuôi
dòng sông cùng với ta và đưa ta an toàn tới chỗ còn một ngày ngủ nữa thì tới
đồn Michaelovski.
- Mi phải sống ở đây, và dạy chúng ta tất cả các phép thuật
của mi.- Hắn trả lời.
Subienkow lặng lẽ nhún vai. Chàng phà khói thuốc vào làn
không khí lạnh buốt, mắt tò mò nhìn thân mình tên Cossack to lớn.
- Vết sẹo kia!- Makamuk bỗng thốt lên, tay chỉ vào cổ anh
chàng Ba Lan, chỗ một vết sẹo đỏ ghi lại một nhát dao chém trong một cuộc xung
đột tại Kamchatka.- Môn thuốc không công hiệu. Lưỡi dao mạnh hơn thuốc của mi.
- Người chém đó mạnh lắm.- Subienkow đắn đo nói - Mạnh hơn
mi, mạnh hơn tay săn khỏe nhất của mi, mạnh hơn thằng này.
Một lần nữa, chàng lấy ngón chân đụng vào mình tên Cossack -
một hình thù gớm ghiếc đã mất tri giác - tuy nhiên, cái sống đau đớn còn bám
lấy như luyến tiếc không muốn rời cái thân hình tàn tạ kia.
- Hơn nữa thuốc lại yếu. Vì ở nơi đó thiếu một vài loại trái
cây mà ở xứ này ta thấy nhiều lắm. Món thuốc ở đây sẽ mạnh.
- Ta sẽ cho phép mi xuôi dòng sông.- Makamuk nói.- Ta sẽ cho
mi xe trượt tuyết, đàn chó, sáu tay thợ săn để giữ an ninh cho mi.
- Mi chậm chạp quá,- chàng trả lời.- Mi đã xúc phạm môn thần
dược của ta vì mi không chịu nhận các điều kiện ngay. Vậy ta phải đòi hỏi thêm
nữa. Ta muốn một trăm tấm da hải ly.
Makamuk cười khẩy.
- Ta muốn năm chục ký cá khô.
Makamuk gật đầu, vì cá nhiều và rẻ.
- Ta muốn hai chiếc xe trượt tuyết một để ta đi và một để
chở da thú và cá khô. Mi phải trả lại ta khẩu súng. Nếu mi không muốn trả ta
giá này, thì lát nữa nó sẽ lên nữa.
Yakaga ghé lại thì thầm với vị chúa tể.
- Nhưng làm cách nào ta biết được rằng thuốc của mi là thuốc
thực?- Makamuk hỏi.
- Điều đó dễ lắm. Trước hết ta sẽ đi vào rừng.
Một lần nữa Yakaga lại thì thầm với Makamuk và Makamuk tỏ vẻ
nghi ngờ không đồng ý.
- Mi có thể cử hai chục người theo ta.- Subienkow nói tiếp.-
Mi biết chứ, ta phải kiếm những trái cây và rễ cây để chế thuốc. Sau đó, khi mi
đã sửa soạn hai chiếc xe trượt tuyết đã chất lên đó cá, da hải ly và súng, và
đã ra lệnh cho sáu tay săn đi theo ta - khi tất cả đều sẵn sàng, ta sẽ thoa
thuốc lên cổ rồi để cổ lên khúc cây kia. Bấy giờ tay săn khỏe nhất của mi có
thể cầm rìu chém lên cổ ta ba lần. Chính mi cầm rìu chặt cũng được.
Makamuk đứng há hốc mồm, như muốn nuốt cái pháp thuật kỳ
diệu và mới mẻ nhất này của bọn cướp da thú.
- Nhưng trước hết,- gã Ba Lan vội nói thêm,- ta cần nhắc là
cứ sau mỗi lần chém, ta phải bôi thuốc mới. Chiếc rìu nặng và sắc, vậy ta muốn
ăn chắc.
- Tất cả những điều mi yêu cầu ta sẽ cho cả,- Makamuk vội la
lớn nhận lời.- Mi hãy lo chế thuốc đi.
Subienkow cố dấu vẻ khoái trí. Gã đang đi một nước cờ tuyệt
vọng, không thể sơ sẩy một chút nào cả. Gã ngạo mạn nói:
- Mi đã chậm chạp làm cho môn thần dược của ta bị xúc phạm.
Để xóa bỏ sự xúc phạm này mi phải cho ta con gái mi.
Gã chỉ cô gái, một con bé dơ bẩn, một mắt lé và có một cái
răng nhọn như răng chó sói.
Makamuk tức giận lắm, nhưng gã Ba Lan điềm nhiên quấn một
điếu thuốc lá khác và châm lửa hút.
- Mau lên,- chàng dọa.- Nếu mi không mau, ta sẽ đòi thêm
nữa.
Trong bầu không khí im lìm, quang cảnh nơi đất Bắc đìu hiu
tan biến trước mắt chàng, và một lần nữa chàng lại nhìn thấy quê hương, và nước
Pháp, và trong khi nhìn cô gái răng sói chàng lại nhớ tới một cô gái khác, một
ca sỹ kiêm vũ nữ, mà chàng đã quen biết khi còn là một thanh niên sang thăm
Paris.
- Mi muốn dùng con bé làm gì?- Makamuk hỏi.
- Để cùng xuôi dòng sông với ta.- Subienkow nhìn bằng cặp
mắt thẩm định.- Nó sẽ là người vợ tốt, hơn nữa được kết hôn với dòng máu của mi
là một vinh dự xứng đáng với môn thần dược của ta.
Một lần nữa, chàng lại nhớ tới cô ca sỹ kiêm vũ nữ và hát
lớn một bài ca mà cô ta đã dạy chàng. Chàng sống lại với dĩ vãng, nhưng một
cách rời rạc và vô tư, nhìn những hình ảnh của chính cuộc đời chàng như những
tấm hình trong một cuốn sách nói về đời một kẻ khác.
Tiếng nói của viên chúa tể bất chợt phá tan bầu không khí
làm chàng giật mình.
- Mi sẽ được thỏa nguyện.- Makamuk nói,- Con bé sẽ xuôi dòng
sông cùng với mi. Nhưng mi phải biết rằng ta sẽ đích thân cầm rìu chém mi ba
nhát.
- Nhưng sau mỗi lần ta sẽ bôi thuốc,- Subienkow trả lời, làm
bộ như áy náy mà vẫn cố giấu.
- Mi sẽ bôi thuốc sau mỗi lần chém. Đây là những tay săn có
phận sự đi cùng để trông chừng mi khỏi trốn. Mi hãy vào rừng lo kiếm thuốc đi.
Makamuk đã tin tưởng giá trị của môn thuốc đó vì thấy gã Ba
Lan tham lam đòi hỏi đủ thứ.
Chắc chắn phải là môn thuốc thần diệu lắm mới có thể làm cho
một người dưới bóng tử thần đứng lên mặc cả ráo riết như một bà già.
- Vả lại,- Yakaga thì thầm, trong khi chàng Ba Lan cùng với
những tên canh chừng chàng khuất bóng giữa đám cây tùng.- Khi ông đã biết được
môn thuốc đó rồi, ông có thể trừ khử hắn dễ dàng.
- Nhưng làm thế nào tao giết nó được?- Makamuk cãi lại.-
Thuốc của nó sẽ không để tao giết nó đâu.
- Làm gì chẳng có chỗ nó không bôi thuốc.- Yakaga trả lời.-
Chúng ta sẽ giết hắn bằng chỗ đó. Có thể như tai hắn chẳng hạn, chúng ta sẽ
dùng cây lao đâm suốt từ tai bên này qua tai bên kia. Hoặc giả mắt nó cũng
được. Chắc chắn là thuốc này sẽ mạnh nên không thể bôi vào mắt được.
Viên chúa tể gật đầu:
- Yakaga, mày khôn lắm. Nếu nó không còn pháp thuật nào khác
nữa, chúng ta sẽ giết nó.
Subienkow không phung phí thì giờ để thu thập những món dùng
để chế thuốc. Chàng lượm lặt bất kỳ cái gì gần tay chàng như những lá tùng dài,
vỏ cây liễu, một mảnh vỏ cây phong, và một nắm dâu dại mà các tay săn đã đào
dưới tuyết lên cho chàng. Thêm một ít rễ cây khô là đủ, và chàng dẫn đường trở
về trại.
Makamuk và Yakaga ngồi xổm bên chàng, chú ý nhớ nhẩm từng
món thuốc, lọai, và số lượng bao nhiêu khi chàng bỏ những món ấy vào trong nồi
nước đang sôi sùng sục.
- Các người cẩn thận cho dâu vào trước nhất.- Chàng giải
thích.
- Và... Ồ, phải rồi, một món nữa - một ngón tay người. Đây
rồi, Yakaga, mi để cho ta cắt một ngón tay đi.
Nhưng Yakaga vội thu hai tay lại sau lưng, mặt nhăn nhó.
- Chỉ một ngón nhỏ thôi mà,- Subienkow nài nỉ.
- Yakaga cho nó ngón tay đi,- Makamuk ra lệnh.
- Xung quanh đây thiếu gì ngón tay,- Yakaga nhăn nhó nói,
tay hắn chỉ hàng chục xác nằm ngổn ngang trên tuyết đã chết vì bị tra tấn.i
- Nhưng phải là ngón tay của một người sống mới được.- Chàng
Ba Lan nói.
- Nếu vậy mi sẽ có ngón tay của một người sống.- Yakaga bước
lại phía người Cossack và xẻo luôn một ngón tay.
- Nó chưa chết,- hắn nói, tay ném ngón còn ròng ròng máu lên
trên tuyết bên chân chàng Ba Lan.- Hơn nữa ngón tay này lại lớn nên càng tốt.
Subienkow ném ngón tay đó vào lửa dưới chiếc nồi và bắt đầu
cất tiếng hát. Đó là một bài tình ca Pháp nhưng chàng hát bằng một giọng trịnh
trọng.
- Không có những lời thần chú của ta thêm vào thì môn thuốc
sẽ không còn hiệu nghiệm,- gã giải thích.- Những lời thần chú đóng vai trò cốt
yếu trong môn thuốc. Này này! Thuốc được rồi!
- Mi hãy đọc những tiếng này chậm chậm để ta nhớ với,-
Makamuk ra lệnh.
- Sau khi thí nghiệm mới được. Sau khi chiếc rìu bật khỏi cổ
ta ba lần ta sẽ dậy cho mi những tiếng bí truyền này.
- Nhưng nếu môn thuốc không hiệu nghiệm thì sao?- Makamuk
hỏi bằng giọng lo lắng.
Subienkow giận dữ quay lại nhìn hắn.
- Thuốc của ta bao giờ cũng hiệu nghiệm. Tuy nhiên, nếu nó
không hiệu nghiệm thì ngươi sẽ hành hạ ta như những người kia. Hãy xẻo ta ra
từng miếng, dù như tên kia cũng được!
Chàng chỉ tên Cossack.
- Thuốc nguội rồi đó. Ta chỉ việc bôi nó lên cổ và đọc thêm
lời thần chú này nữa.
Hết sức trịnh trọng, chàng chậm chạp hát một đoạn trong bài
quốc ca Pháp, đồng thời xoa thứ nước kinh khủng ấy lên khắp cổ.
Một tiếng thét làm gián đoạn màn trò của chàng. Người
Cossack khổng lồ, trong một lúc hồi dương, đã quỳ được hẳn lên. Những tiếng
cười, những tiếng kêu kinh ngạc và những tiếng hoan hô từ miệng đám dân Nulato
vang dậy, trong khi Hộ pháp Ivan bắt đầu giẫy dụa trên tuyết.
Subienkow bị nôn nao vì cảnh này, nhưng chàng cố dằn cho
khỏi nôn mửa và làm bộ giận dữ.
- Thế này không được.- Chàng nói.- Kết liễu nó đi, rồi chúng
ta sẽ thí nghiệm. Này Yakaga, giết nó chết hẳn đi.
Trong khi lệnh này được thi hành, Subienkow quay về phía
Makamuk.
- Mi nhớ là phải chém cho thật mạnh. Đây không phải là công
việc trẻ con. Này, hãy cầm lấy chiếc rìu và bổ khúc cây này để ta xem mi chém
có đàng hoàng không.
Makamuk vâng lời, vung rìu chém hai nhát, thật đúng và thật
mạnh, chặt rời một miếng gỗ to lớn.
- Khá lắm.- Subienkow nhìn quanh, ngó vào những khuôn mặt dã
man đứng thành vòng tròn như tiêu biểu cho bức tường man rợ đã bao vây gã suốt
từ khi cảnh sát Nga Hoàng bắt gã lần đầu tiên tại Warsaw.- Makamuk, mi hãy cầm
rìu và đứng như thế này. Ta sẽ nằm xuống. Khi ta giơ tay thì mi chém, chém hết
sức. Phải cẩn thận đừng để cho ai đứng đằng sau mi. Môn thuốc thần hiệu lắm,
chiếc rìu bật từ cổ ta ra có thể vượt tay mi đó.
Gã nhìn hai chiếc xe trượt tuyết, với đàn chó đã đóng dây
cương, chở đầy da thú và cá khô.
Khẩu súng của gã nằm trên chốc đống da hải ly. Sáu tay săn
làm vệ sỹ cho gã đứng hai bên cỗ xe.
- Còn con bé đâu?- Chàng Ba Lan hỏi.- Mang nó lại bên mấy
chiếc xe rồi cuộc thí nghiệm mới tiến hành.
Khi lời yêu cầu này đã được thi hành, Subienkow nằm dài trên
tuyết, đầu gối lên khúc cây như một đứa trẻ mệt mỏi sắp sửa đi ngủ. Chàng đã
trải qua quá nhiều năm bi thảm đến nỗi chàng thấy mệt mỏi thật.
- Này Makamuk, ta cười mi và sức mạnh của mi,- chàng nói.-
Chém đi, chém mạnh.
Chàng giơ bàn tay lên. Makamuk vung chiếc rìu, chiếc rìu
lưỡi rộng dùng để đốn cây. Ánh thép lấp lánh trong không khí lạnh lẽo, ngừng
giây lát trên đầu Makamuk, rồi giáng xuống cổ Subienkow. Chiếc rìu cắt ngọt qua
thịt và xương, cắm sâu vào khúc cây bên dưới. Những tên man rợ ngạc nhiên nhìn
chiếc đầu bắn ra xa chừng một thước rời khỏi thân mình đang phun máu.
Mọi người ngạc nhiên, im lặng, đầu óc họ dần dần nhận ra
rằng chẳng có thuốc men quái gì cả.
Tên cướp da thú đã đánh lừa được họ.
Trong cả đám tù nhân có mỗi một mình chàng đã thoát khỏi sự
tra tấn.
Chàng đã đánh nước bài đó để giành được điều này. Mọi người
ồ lên cười. Makamuk ngượng ngùng cúi đầu. Tên cướp da thú đã lừa hắn. Chúng vẫn
tiếp tục hét cười rũ rượi. Makamuk quay mình bỏ đi, đầu cúi gầm. Hắn biết rằng
từ nay trở đi người ta sẽ không gọi hắn là Makamuk nữa. Gã sẽ được mệnh danh là
Mất Mặt; và nỗi nhục của hắn sẽ theo hắn mãi cho tới khi hắn lìa cõi đời; và
khi các bộ lạc họp nhau vào mùa Xuân để đánh cá hồi, hoặc vào mùa Hạ để trao
đổi hàng hóa, câu truyện sẽ được truyền từ chỗ này qua nơi khác, qua những đám
lửa trại, kể lại chuyện tên cướp da thú đã chết yên ổn do tay của Makamuk như
thế nào.
- Ai là Mất Mặt?
Hắn có thể hình dung trước khi nghe thấy một gã thanh niên
hỗn hào lên tiếng hỏi. Và người ta sẽ trả lời:
- À, Mất Mặt, trước khi hắn chặt đầu tên cướp da thú, vẫn
được thiên hạ gọi là Makamuk.
------------
Chú thích:
* Dịch không sát
nghĩa. Nguyên văn là chữ “studio”, chỉ cả chỗ ăn ở, làm việc, lẫn tụ tập của
giới nghệ sỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét