Chén trà trong sương sớm
Tác giả: Nguyễn Tuân
Một hồi rất dòn, rất đều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao
chùm lấy ánh sáng yếu ớt của một ngọn
đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờ như làn hơi nước sủi. Sau
màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một
nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng
khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ
có một người thức.
Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần
ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời
gian.
Ðêm đông dài không cùng.
Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại
hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ
đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đèn để xuống.
Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh
lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh, cụ ấm đã bày
lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu
vang lên. Nó mênh mông và tự hết rất chậm chạp.
Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi
yên lăng này mươi lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm. Từ ngoài phía
ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dội vào những tiếng bước chân người nặng nề.
Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần.
Cụ Ấm phẩy phành phạch quạt mo theo một nhịp nhanh chóng
trước cửa hỏa lò. Hòn than tẩu lép bép nổ, nghe rất vui tai. Và làm vui cho cả
mắt nữa, tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng
không gian những nét lửa ngang dọc, cong quèo ngoằn ngoèo. Những lúc có cháu
nhỏ ngồi với mình, cụ Äm thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích
không.
Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa
xanh lè vờn ở chung quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những
ngọn lửa sáng nhấp nhô. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và
trong suốt như thỏi vàng thổi chẩy.
Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buột ra một tiếng
khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết một đời khoáng chất. Bây giờ
hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm áp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng
xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong
hỏa lò, thăm hỏi cái hấp hối của lũ vô
tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không
nổ lép bép như than tầu; nhưng từ ruột ấm đồng bị nung nấu đã lâu, có tiếng thở
dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người ta nghĩ đến nó.
Cụ Ấm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp
lại bạn cố nhân sau nhiều giây phút mong chờ.
Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ trắc có
chân quỳ. Nhẹ nhàng, khoan thai, cụ Ấm nhắc cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra
khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ
ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm
theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho
ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình
cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng
hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.
Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử
một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt
trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già đã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm
mai.
Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất
trị, tiếng kêu lộp bộp.
Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò
bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra
là hai ấm đồng đun nước. ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ
hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên
lò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Như thế lúc nào người
ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon.
Nhưng có mấy khi cụ Ấm uống trà tầu một cách tàn nhẫn như
vậy. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi. Nhưng hai chén đó đã được cụ
săn sóc đến nhiều quá.
Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi
thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy bao
nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà pha
ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm lý.
Cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp, uống trà rất
tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:
- Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi
có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình
tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ
biết cái thú uống trà tầu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm
bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí,
mới có thể cùng ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình
chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ
làm thế thì mất hết cả thành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan
Ðốc, tôi đã được cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầu trà cụ
Ðốc, trước khi cụ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển. Nhiều người đã ghen
tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắt lượt học trò hầu trà, cho anh em ai
nấy đều được chút vinh dự gần gũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thày.
Quan Ðốc mỉm cười: “Thày giã ơn các anh. Thày nói thì các anh đừng giận: các
anh không pha trà cho hợp ý thày được đâu. Ðể thời giờ ấy mà học. Anh Ðam -
(trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụ Ðốc mới đổi tên đi cho) - anh Ðam
pha trà khéo thì thày để cho giữ việc hầu thày, chứ có phải thày yêu anh Ðam
hơn hay là ghét các anh hơn đâu”. Bây giờ mỗi buổi trà sớm, ngồi uống một mình,
tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào dậy, cụ cũng ngâm một vài bài
thơ. Giọng thật rền, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:
Bán dạ tam bôi tửu.
Bình minh sổ trản trà.
Mỗi nhật ừ... ừ... đều
được ... y... như thử.
Lương y bất đảo gia.
Một buổi sớm, thấy rõ lòng thày là vui vẻ, tôi đã mạn phép
đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:
Mai sớm một tuần trà.
Canh khuya dăm chén
rượu.
Mỗi ngày mỗi được thế,
Thày thuốc xa nhà ta.
Cụ Ðốc tạm cho là được.
Sớm nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên
lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một
người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ
tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu
tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và người
xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh.
Thường hay vấn mình để sửa mình vào những giờ uống trà tầu,
cụ Ấm thường nghĩ đến câu nghìn xưa của thày Tăng Tử: “Ngô nhật tam tỉnh ngô
thân”.
Trong nhà cụ Ấm, người ta đã ồn ào thức dậy. Cụ Ấm cũng bắt
đầu ho. Chừng như hồi nãy, cụ đã tự nén hơi thở không dám ho, sợ làm đục mất
cái phút bình lặng huyền bí của lúc đêm và ngày giao nhau.
Người con trưởng rón rén lại thỉnh an cha già và mon men
ngồi ghé vào thành chiếc sập cũ. Chàng đỡ lấy quạt, nhắc hỏa lò ra một chỗ
rộng, quạt mạnh cho hết tàn than.
- Thày uống xong rồi. Con uống thì pha mà uống. Trà còn đượm
hương lắm.
Câu nói này là thừa. Vì sớm nào hai cha con ông Ấm chẳng dậy
sớm để uống trà, cha bao giờ cũng uống trước hai chén và người con cả uống sau
nhiều lắm đến ba chén là cùng. Sớm nay, cũng như lúc thỉnh thoảng của mọi ngày,
cụ Ấm lại bắt người trưởng nam giở tập Cổ Văn ra bình lại cả bài “Trà Ca” của
Lư Ðồng. Giọng bình văn tốt quá. Ðiệu cổ phong trúc trắc thế mà con cụ Ấm lại
còn ngâm gối hạc bắt đoạn cuối một câu trên xuống luôn đầu câu dưới, hơi ngâm
trong và dài. Trông hai cha con uống nước mà y như là một đôi thày trò vào một
giờ học ôn buổi sớm mai. Chuyện vãn mãi về trà tầu, ông cụ Ấm lại mang luôn cả
tập “Vũ Trung Tùy Bút”, giảng những đoạn công phu của tác giả - ông Quốc Tử
Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ - chiêm nghiệm và xưng tụng về trà tầu. Rồi cụ Äm liền
than tiếc đến cái mùa thu đã đi mất rồi, để sen hồ rách hết, tàn rũ hết lá.
- Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái
thứ nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới
đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Ðốc truyền cho đi
thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú
nhất trong đời một người học trò được thày học yêu như con.
Trong gia đình cụ Ấm, hồi gần đây đã lập lại cái phong tục
uống trà. Có một hồi bần bách quá, cụ Ấm đã cất hẳn bộ đồ trà vào tủ, tưởng
không bao giờ được bày nó ra hằng ngày nữa.
Nhưng trời kể cũng còn hậu đãi người hàn nho, thế nào năm
nay cụ Ấm lại được mùa cả hai vụ.
- Này cả, con lên tỉnh mua trữ lấy ít trà Lý Tú Uyên. Năm
nay ta ướp thêm vài chục chai để dành. Thủy tiên nhà, năm nay gọt những một lắp
đấy. Thày mua chung với cụ Kép xóm dưới! Ðộ mai kia thì giò hoa tách hết màng.
Củ nào hoa kép thì đem ủ trà.
- Thưa thày, con tuởng trà cứ để nguyên hương của nó mà uống.
Con thấy ông ngoại nhà không bao giờ cho
ướp trà mới, bất cứ là với hoa thơm nào. Ông ngoại con bảo chỉ nên ướp, là lúc
trà đã đi hương hoặc gần phát du.
Trời rạng dần. Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây
đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một chiếc.
Ðạo mạo trong vành khăn nhiễu quấn dối, cụ Äm đã chống gậy
ra đi.
Cụ quay trở lại dặn người con trưởng đang hí hoáy lau bộ
khay trà:
- Thày vào trong cụ Ðiều để
rồi cùng sang làng bên thăm một con bệnh già. Con bệnh này, tốn nhiều sâm lắm.
Ðến tối thày mới về, vì thày phải sao tẩm thuốc sống ở bên ấy cho tiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét