Người ta la hét, chửi bới ông, thúc vào lưng ông đòi chỗ.
Pavlo nói:
- Trung tá! Trung tá!
Buinovski giật bắn mình, như bị
đánh thức và quay lại.
Pavlo đưa bát cháo cho ông,
không hỏi xem ông có muốn ăn hay không.
Cặp lông mày của Buinovski dựng
ngược lên, hai mắt nhìn vào bát cháo như thể nhìn vào một vật lạ chưa từng thấy
bao giờ.
- Cầm lấy, cầm lấy, - Pavlo nói
cho ông yên tâm, rồi cầm lấy bát cháo cuối cùng cho đội trưởng, đứng dậy, bước
ra ngoài.
Nụ cười ngượng ngập nở trên đôi
môi nứt nẻ của viên trung tá, người đã từng bôn ba bốn biển, vòng quanh châu Âu
và vùng cực Bắc mênh mông. Ông sung sướng cúi xuống bát cháo mạch đong vơi,
loãng hoét, không một chút mỡ, chỉ có hạt mạch và nước. ... Fechiukov hậm hực
nhìn Sukhov và trung tá rồi bỏ đi.
Theo Sukhov thì việc Pavlo cho
ông trung tá bát cháo là đúng. Rồi sẽ đến lúc ông ta tự học được cách xoay xở,
chứ như bây giờ ông còn ngu ngơ lắm. Sukhov còn có thêm một niềm hi vọng mỏng
manh nữa: Sezar có thể sẽ cho anh bát cháo của hắn chăng?
Sau khi ăn xong xuất thứ hai,
Sukhov lại lấy cùi bánh vét sạch lòng bát, vừa lau vừa liếm miếng bánh, cuối
cùng thì anh ăn hết miếng bánh đó. Xong xuôi anh mới bưng bát cháo đã nguội của
Sezar và đứng dậy đi ra ngoài.
- Mang lên văn phòng! - anh ẩy
tên phạm canh bát đĩa ở cạnh cửa định không cho anh ra.
Văn phòng là một cái nhà gỗ thô
mộc cạnh trạm gác. Vẫn như lúc sáng, khói cuồn cuộn tuồn từ trong ống khói ngôi
nhà ra. Bếp lò lúc nào cũng được một tên cần vụ kiêm tuỳ phái trông nom. Hắn
được trả lương khóan để làm những việc này. Đối với văn phòng người ta không
tiếc củi.
Sukhov kẹt mở cửa ngoài, rồi đến
một cửa nữa được nhồi kín chặt bằng những sợi đay. Anh bước lẹ vào mang theo
một đám hơi nước băng giá, vội vàng sập cửa lại (kẻo lại bị la tướng lên: “Ê,
đồ ngu, đóng cửa lại!”).
Anh thấy trong phòng nóng như
nhà tắm hơi vậy. Qua lớp băng chảy trên mặt kính cửa sổ, mặt trời vui vẻ đùa
nghịch, không giận dữ như ở phía trên nhà máy điện. Và khói từ trong chiếc tẩu
của Sezar nhả ra cuồn cuộn như hương trầm trong nhà thờ. Còn lò thì cháy đỏ
rực, các ngài ở đây xài củi khiếp thật. Đến cả ống dẫn khói cũng đỏ rực.
Nóng như thế này ngồi xuống một
tí là ngủ ngay.
Văn phòng chia làm hai căn. Cửa
phòng của ông giám công hé mở, tiếng ông oang oang vọng ra:
- Ta đã chi quá mức cho quỹ tiền
lương và cho vật liệu xây dựng. Có những tấm gỗ rất quý, đây tôi còn chưa nói
đến những bộ ván, tù nhân đem bổ ra chặt làm củi sưởi, thế mà các anh chẳng
biết gì cả. Mấy ngày hôm nay trời gió to như vậy mà tù nhân bốc dỡ xi măng ở
cạnh kho, lại còn lấy cáng mà khiêng xi măng đi đến cả chục mét. Xung quanh kho
đâu cũng thấy xi măng ngập đến mắt cá chân, lúc ra về áo tù không phải màu đen
nữa, mà là màu xám. Mất mát bao nhiêu các anh có biết không hả?
Chắc trưởng giám công đang họp
với mấy tay quản công ở trong phòng.
Ở góc cửa ra vào, một tay cần vụ
đang ngủ gật trên chiếc ghế dài. Cạnh hắn là Skuro Pachenko, B-219, cao như cây
sào và cây sào này đang uốn cong bên cửa sổ nhìn chăm chú ra ngoài xem có ai có
tha lôi gì ở nhà kho vật liệu ra không. Thế mà bọn này vừa nẫng được một cuộn
giấy dầu ở đó đấy anh giai ạ.
Hai người kế toán - cũng là
phạm, đang nướng bánh mì trên lò. Họ lấy giây thép đan thành cái vỉ để nướng
bánh cho khỏi cháy.
Sezar đang ngồi ngả ngốn trên
ghế, miệng hút thuốc. Anh ta ngồi quay lưng lại nên không trông thấy Sukhov.
Ngồi đối diện với anh ta là X-123, một lão già hom hem - tù nhân khổ sai mười
hai năm. Lão đang ăn cháo.
- Không, bố già ơi, - Sezar cố
nói giọng nhẹ nhàng, - khách quan mà nói Eizenstein là một thiên tài. Phim
“Ivan Hung đế” chẳng lẽ không phải một tác phẩm thiên tài? Cảnh các lính thị vệ
đeo mặt nạ nhảy múa, rồi cảnh trong nhà thờ nữa!
- Uốn éo làm bộ làm tịch! - Đưa
thìa lên ngang miệng, X- 123 giận dữ nói. - Có quá nhiều nghệ thuật để cuối
cùng chẳng có nghệ thuật gì cả. Cứ như ớt và hạt hướng dương thay cho bánh mì
vậy! Lại còn cái tư tưởng chính trị của nó mới đê tiện làm sao chứ - bênh vực
cho ách thống trị chuyên chế của một cá nhân. Một sự phỉ nhổ kí ức của cả ba
thế hệ trí thức Nga (cháo mà ăn vào cái miệng chẳng phân biệt được ngon hay
không của lão già, có phí không cơ chứ) - Nhưng còn biết thể hiện đề tài như
thế nào để người ta thông qua đây?...
- Ôi chao, thông qua?! Thế thì
đừng có nói là thiên tài! Hãy nói đó là thằng bợ đít, thực hiện đơn đặt hàng
chó má. Một thiên tài đâu có cái kiểu thể hiện đề tài của mình theo ý thích của
quân bạo chúa!
- E hèm, e hèm, - Sukhov dặng
hắng. Anh ngại không muốn phá ngang cuộc đàm thọai học thức cao siêu này. Nhưng
chả lẽ cứ đứng ở đó mãi.
Sezar quay lại, giơ tay đón lấy
bát cháo, cũng chẳng nhìn Sukhov, cứ như thể bát cháo tự nó bay đến, vẫn nói,
khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình:
- Nhưng ông hãy nghe đây, nghệ
thuật không phải nói cái gì, mà nói bằng cách nào.
Chớp được ý, X-123 đập tay xuống
bàn:
- Không! Quỷ tha cái “như thế
nào” của cậu đi, nếu như nó không gợi lên trong tôi những tình cảm tốt đẹp!
Sau khi đưa bát cháo, Sukhov nán
lại một chút theo đúng phép lịch sự đòi hỏi. Anh chờ xem Sezar có thết mình một
điếu thuốc hay không, nhưng hắn đã quên hẳn sự có mặt của anh.
Thế là Sukhov đành quay lưng,
lặng lẽ bước ra.
Bên ngoài không đến nỗi tệ lắm.
Không lạnh quá. Hôm nay mà xây tường thì nhất rồi.
Sukhov bước trên con đường nhỏ
và nhìn thấy một mảnh sắt nhỏ nằm lăn lóc trên tuyết.
Miếng sắt gẫy ra từ một con dao
nào đấy. Hiện tại anh không biết dùng nó vào việc gì, song biết đâu nay mai lại
chẳng có lúc dùng đến. Anh nhặt miếng sắt lên, đút vào túi quần. Anh sẽ giấu nó
vào một chỗ trong nhà máy điện. Năng nhặt, chặt bị.
Khi tới nhà máy điện, việc đầu
tiên Sukhov đi lấy cái bay ở chỗ cất giấu và giắt nó vào giây thừng buộc bụng.
Rồi anh khom người chui vào chỗ trộn vữa.
Vừa ở ngoài nắng vào Sukhov thấy
ở đây tối hẳn và chẳng ấm gì hơn bên ngoài. Mà còn có vẻ ẩm hơn thì phải.
Tất cả các anh em trong đội xúm
xít xung quanh cái lò tròn mà Sukhov đặt cạnh cái lò sấy cát đang bốc hơi nghi
ngút. Ai không kiếm được chỗ cạnh lò thì ngồi lên thành cái thùng trộn vữa. Đội
trưởng đang vét nốt bát cháo. Cháo được Pavlo hâm nóng trên lò sưởi.
Mọi người đang thì thào chuyện
trò. Họ tươi tỉnh hẳn lên. Họ cho Sukhov biết đội trưởng đã khóa được phần trăm
định mức tốt, hắn ở văn phòng về vui vẻ lắm.
Việc phịa ra thành tích của đội
là công việc của hắn - một đội trưởng có đầu óc. Nhưng cả sáng nay đội anh đã
làm được những gì? Đốt lò và làm chỗ trú là làm cho bản thân, chứ đâu phải là
công việc sản xuất. Nhưng trong phiếu công tác cũng phải ghi đã làm được những
việc gì đó vào. Trong chuyện này, có thể Sezar cũng có nhúng tay - đội trưởng
vì nể hắn, hẳn là phải có lí do.
Khóa được phần trăm định mức
tốt, có nghĩa đội anh sẽ nhận được những khẩu phần hời hơn trong năm ngày tới.
Năm ngày, cũng có thể chỉ bốn ngày: các ông trên bớt xén của đội anh một ngày,
nhưng đến khi nghỉ “bảo dưỡng” thì toàn trại như nhau tuốt, đội làm việc tốt,
cũng như đội làm việc dở. Có vẻ như không làm mếch lòng ai, tất cả đều bình
đẳng, nhưng kì thực người ta đã trấn của phạm những thứ đáng ra họ được nhét
vào bụng. Thì có làm sao, bụng tù thì thế nào mà chả chịu được. Hôm nay gắng
chịu, mai mốt rồi sẽ được ăn thoải mái.
Mơ ước này anh em mang vào cả
giấc ngủ trong những ngày nghỉ “bảo dưỡng”.
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy
ấm ức: làm năm ngày, mà chỉ được ăn có bốn.
Cả đội yên lặng. Ai có thuốc thì
lặng lẽ giở ra hút. Họ ngồi quây quần trong bóng tối và ngắm nhìn ngọn lửa.
Giống như một gia đình. Mà đội của Sukhov đúng là một gia đình. Tất cả lắng nghe
đội trưởng kể chuyện cho hai ba người ngồi cạnh lò sưởi. Hắn rất kiệm lời, bởi
vậy khi nào hắn thao thao, có nghĩa lòng hắn đang vui.
Hắn, Andrei Prokofich, tới giờ
cũng vẫn không học được cách đội mũ trong lúc ăn. Không đội mũ trông hắn già
hẳn. Đầu hắn trọc như tất cả mọi người, ánh lửa hắt ra từ lò sưởi soi rõ vô số
những sợi bạc lẫn trong đám tóc đã ngả sang màu xám.
- ... Đứng trước tiểu đoàn
trưởng mình đã run bỏ mẹ, đằng này lại là trung đoàn trưởng! “Chiến sỹ hồng
quân Turin đã có mặt theo lệnh của thủ trưởng...”, mình báo cáo. Ông
ta ngó mình trừng trừng, lông mày dữ phát khiếp. “Tên là gì, họ là gì?”. Mình
nói. “Năm sinh?”. Mình nói tiếp. Khi ấy, năm ba mươi, mình mới hăm hai tuổi,
một thằng oắt con. “Phục vụ thế nào, Turin? - “Phục vụ nhân dân lao
động!”. Ông ta bỗng nổi sung lên, đập tay đánh bốp xuống bàn. “Phục vụ nhân dân
lao động, mày là thằng nào hở quân lưu manh?!”. Mình đã sôi tiết lắm rồi, song
vẫn cố nhịn: “Xạ thủ đại liên hạng nhất. Điểm cao nhất về quân sự và chính
trị...” - “Hạng nhất cái gì hở đồ khốn nạn? Bố mày là culac! Đây này, có giấy
từ Kameni gửi đến đây này! Bố mày là culac, còn mày thì bỏ trốn. Người ta truy
nã mày hai năm nay”. Mặt mình tái dại, miệng câm như hến. Ròng rã một năm mình
đâu dám biên thư về nhà, sợ để lộ tông tích. Chẳng biết người nhà còn sống hay
đã chết. Họ cũng chẳng biết gì về mình. Lão trung đoàn trưởng lại gầm lên, cả
bốn gạch trên cầu vai áo cùng rung lên: “Mày có lương tâm không đấy, hả thằng
khốn? Dám lừa cả chính quyền Công - Nông?”. Lúc ấy cứ tưởng lão sẽ nện cho mình
một trận. Nhưng lão không đánh. Lão ký lệnh trong vòng sáu tiếng đồng hồ tống
mình ra khỏi cổng doanh trại. Lúc đó là tháng mười một. Chúng lột hết quân phục
mùa đông của mình, chỉ để lại quân phục mùa hè, một đôi tất cũ nát và một chiếc
áo khoác cũn cỡn. Lúc ấy mình ngu, chứ không nộp chúng cũng chẳng làm gì được
mình. Và thế là chúng ấn cho mình một cái giấy giải ngũ khốn nạn thế này: “Bị
sa thải khỏi quân ngũ vì là con phú nông”. Với cái giấy chứng nhận như thế có
mà đi xin việc! Đi về nhà phải mất bốn ngày trên tầu hoả, chúng chẳng cho lấy
một tấm vé, một ngày ăn đường, chỉ cho một bữa cuối cùng rồi a lê hấp, cuốn gói
khỏi trại lính.
... Ấy thế mà hồi ba mươi tám
mình lại gặp lại ông trung đoàn trưởng ở trại chuyển vận Kotlas, cũng bị mười
năm tù. Qua trung đoàn trưởng mình mới biết tiểu đoàn trưởng và chính trị viên
trung đoàn, cả hai đều đã bị xử bắn năm ba mươi bẩy. Vô sản hay phú nông, có
lương tâm hay không có lương tâm, lúc ấy, nào có khác gì nhau... mình làm dấu
thánh, nói: “Dù sao vẫn có Chúa trên trời, đấng sáng tạo muôn loài. Người chịu
đựng biết bao đau khổ, nhưng khi người trừng phạt cũng rất đau”.
Ăn xong hai bát cháo, Sukhov
thèm thuốc chết được. Anh nghĩ bụng phải vay tạm của ai đó, khi nào mua của
thằng cha người Litva ở trại hai ca thuốc sợi, lúc đó sẽ trả sau. Anh khẽ nói
thầm vào tai gã Estoni - thuyền chài:
- Nghe này, Eino, cho tớ vay một
điếu, sáng mai sẽ trả. Tớ không qụyt đâu mà sợ.
Eino nhìn thẳng vào mắt Sukhov,
rồi nhìn sang anh bạn đồng hương lúc nào cũng kè kè như hình với bóng. Hai tên
này cái gì cũng chung, kể cả một sợi thuốc. Chúng nói nhỏ gì với nhau, và Einô
rút cái bao đựng thuốc có giây buộc màu hồng. Hắn véo một nhúm thuốc lá sợi nhà
máy, rồi bỏ vào lòng bàn tay Sukhov. Hắn nhìn nhúm thuốc, rồi rút thêm vài sợi
nữa. Chỉ vừa đủ vấn một điếu thuốc, không hơn.
Sukhov có ít giấy báo. Anh xé ra
một miếng, quấn điếu thuốc, rồi mồi bằng mẩu than hồng rơi giữa hai chân đội
trưởng, - và rít một hơi dài! Một hơi thật dài! Toàn thân ngất ngây, thậm chí
có cảm giác như say từ đỉnh đầu tới gót chân.
Chỉ vừa mới rít được vài hơi
Sukhov đã thấy đôi mắt xanh lè nhìn mình xuyên xuốt gian trộn bê tông:
Fechiukov. Kể cũng thương hại hắn, hay cho cái thằng mót rác này mẩu thuốc
thừa, nhưng hôm nay anh đã nhìn thấy hắn liếm bát. Tốt nhất là để dành cho Senka
Klevsin.
Anh ta chẳng nghe thấy đội
trưởng kể chuyện gì, ngồi ủ rũ trước lò sưởi, đầu ngoẹo sang một bên.
Lửa từ lò sưởi hắt ra soi sáng
cái mặt rỗ của đội trưởng. Hắn kể về hắn một cách không thương tiếc, như thể kể
về ai đó:
- Lúc ấy mình bán tất đồ đạc cho
một gã buôn ở Barakhol với giá chỉ bằng một phần tư. Sau đó mua ở chợ đen được
hai ổ bánh mì. Dạo đó đã có tem phiếu rồi. Mình tính nhẩy tầu hàng về nhà,
nhưng luật mới đề ra rất nghiêm: bắn bỏ tất cả những ai nhẩy tầu hàng... Còn
vé, ai chẳng nhớ, hồi ấy đến có tiền cũng không mua được, huống hồ không có.
Trên quảng trường cạnh ga đầy những mũ đàn ông, rất nhiều người đã chết đói vì
không đi khỏi đấy được. Còn vé là để giành cho các sếp, người có giấy công tác,
cho quân đội. Muốn vào trong sân ga cũng khó: ở các cửa ra vào đều có dân quân,
hai bên đường xe lửa đều có lính gác đi lại. Trời đã về chiều, mấy vũng nước
đóng băng cả lại, - đêm nay ngủ ở đâu bây giờ? Mình bèn leo lên một bức tường
đá nhẵn thín, ôm hai ổ bánh mì nhẩy đại vào bên trong rồi chạy vào nhà vệ sinh
ở sân ga. Mình đứng ở đó một lúc, không có ai đuổi ra. Rồi mình đi ra như một
hành khách, mặc đồ lính đàng hoàng. Mà tầu Vladivostok - Moscva lại đỗ ngay
trên đường ray mới may chứ. Hành khách thì đang chen nhau lấy nước sôi, còn cầm
cả ấm mà phạng vào mặt nhau. Có một em mặc áo xanh loanh quanh ở đấy, tay cầm
cái ấm hai lít, không dám chen vào, sợ bị bỏng hay bị người ta dẵm lên đôi chân
nhỏ xíu của mình. Mình bèn đưa hai ổ bánh cho cô nàng giữ hộ, bảo: “Này, cầm
lấy cái này, để tôi lấy hộ cho”. Khi mình vừa lấy xong nước, thì đoàn tầu bắt
đầu chuyển bánh. Cô nàng khóc thút thít, hai tay vẫn ôm hai ổ bánh của mình,
không biết nên giữ hay nên quẳng đi - ngay đến cái ấm cô nàng cũng chẳng cần.
“Chạy đi, mình gào lên, chạy đi, tôi sẽ đuổi theo”. Cô nàng chạy đằng trước,
mình chạy đằng sau. Mình bắt kịp nàng, một tay đẩy nàng lên tầu. Tầu bắt đầu
chạy, mình nhẩy lên theo. Người kiểm soát không đánh mình, cũng không đẩy
xuống: trong toa có nhiều lính và hắn tưởng mình cũng ở trong đám này.
Sukhov lấy cùi chỏ huých vào
mạng sườn Senka: này cầm lấy mà hút, ông thợ săn tồi. Anh đưa cho hắn cả cái
tẩu thuốc, kệ, cho hắn mút, chẳng sao. Senka là một tay kì quái, hắn làm điệu
bộ giống như nghệ sĩ, một tay ép vào tim, đầu cúi xuống. Ôi dào, cái nhà ông điếc
này!...
Đội trưởng vẫn kể:
- Họ là sáu cô gái, những sinh
viên ở Leningrad đi thực tập, ở cùng một cúp-pê khép kín. Trên chiếc
bàn nhỏ bày nào bánh, nào bơ và các thức linh tinh khác. Áo khoác đung đưa trên
mắc áo, những chiếc va li nhỏ được bọc vải. Họ đâu có biết cuộc đời thật là gì,
mọi thứ đều đã bầy sẵn dưới chân...
Cả bọn làm quen, tán dóc, pha
trò, uống trà cùng nhau. Rồi họ hỏi tớ ở toa nào vậy? Mình thở dài và thú nhận
tất cả: tôi ở cái toa mà, các cô gái ơi, các cô thì sống, còn tôi thì chết.
Trong nhà im phăng phắc. Lò sưởi
đỏ rực.
- Sau một hồi “ô, a”, các cô gái
bàn nhau... họ giấu mình trên giường tầng ba, lấy áo khoác ngoài phủ lên, khi
những người kiểm soát đi tới. Vấn đề không phải là vé, mà là mạng người. Các cô
gái giấu mình tới tận Novosibir... à mà sau này mình đã có dịp trả ơn cho một
trong những cô gái đó ở nhà tù Petchora: năm ba mươi nhăm cô ấy dính vào vụ Kirov(11),
phải làm việc khổ sai, mình thu xếp cho cô ấy một chỗ ở xưởng may.
- Cho trộn vữa chứ? - Pavlo hỏi
thầm đội trưởng.
Nhưng đội trưởng không nghe thấy.
- Mình về đến nhà vào đêm khuya.
Lần vào theo lối vườn rau. Bố thì bị giải đi rồi, mẹ và các em thì đợi bị giải
đi. Đã có điện gửi về địa phương, chính quyền xã đang lùng bắt mình. Cả nhà run
như giẽ, phải tắt điện và ngồi trên sàn, nép sát vào tường, sợ những phần tử
tích cực đi tuần trong thôn nhòm qua cửa sổ. Ngay đêm hôm đó mình mang theo
thằng em chuồn xuống miền Nam ấm áp, tới Frunze. Mình chẳng kiếm được gì cho nó
và cho mình ăn. Ở Frunze người ta đang nấu nhựa đường trong một cái chảo lớn,
bọn trẻ con bụi đời vây xung quanh. Mình tới cạnh chúng, nói: “Nghe đây, các
ngài quần thủng! Hãy nhận giúp thằng em tôi đây, hãy dậy dỗ nó nên người!”.
Chúng nhận thằng bé... Tiếc là mình không nhập bọn với chúng.
- Thế anh chẳng bao giờ gặp lại
thằng em nữa à? - Ông trung tá hỏi.
Turin ngáp.
- Chưa, chưa một lần gặp lại.-
hắn lại ngáp và nói: - Thôi, đừng ủ rũ thế các cậu, ta lấy cái nhà máy điện này
làm nhà vậy. Ai được phân công trộn vữa, làm quàng lên, đừng có đợi còi.
Đội trong trại là thế. Trưởng
trại đố có bảo được tù rời khỏi chỗ, kể cả trong giờ làm việc, vậy mà tổ trưởng
trong giờ nghỉ chỉ cần nói một tiếng là tất cả đều răm rắp đứng dậy đi làm.
Với lại buộc mọi người làm việc
không phải anh ta không có lý do.
Nếu không trộn bê tông trước khi
còi huýt, thì đám thợ xây đứng chơi à?
Sukhov thở dài đứng dậy.
- Thôi, tôi đi cạo băng đây.
Anh cầm một cái rìu nhỏ và một
cái bàn chải sắt để cạo băng đóng trên gạch. Và để xây, anh cầm một chiếc vồ,
thước đo và giây dọi.
Kildigs mặt mũi hồng hào, nhìn
theo Sukhov nhăn mặt:
- Việc cái gì mà chưa hô đã xung
phong thế nhỉ?
Là bởi vì Kildigs không cần phải
nghĩ cái ăn của đội từ đâu ra: hắn ta, đồ quỷ hói, có nhận ít hơn hai trăm gram
cũng chẳng sao, hắn còn sống bằng đồ tiếp tế.
Nhưng Kildigs vẫn đứng dậy và
leo lên tầng hai. Không nên vì mình mà cả đội bị chậm.
- Đợi tớ với, Vanhia, tớ đi đây!
- Hắn gọi với theo.
Rõ đồ mặt mâm, giá mà làm cho
hắn thì hắn đã chả chạy vội (Còn một lí do nữa khiến Sukhov đứng vội lên, anh
muốn chiếm cái giây dọi trước Kildigs. Cái giây dọi này họ nhận được từ kho
công cụ).
Pavlo hỏi đội trưởng:
- Có ba người xây tường à? Có
nên cho thêm một người nữa không? Hay vữa trộn không kịp?
Đội trưởng chau mày nghĩ ngợi.
- Người thứ tư sẽ là tớ, Pavlo.
Cậu nói cái gì? Trộn kịp vữa hay không á?! Cái thùng trộn to đùng thế kia, cắt
sáu người trộn vữa. Làm như thế này này: lấy vữa đã trộn ở đầu này, còn đầu kia
vẫn tiếp tục trộn vữa mới, làm thế nào để tớ không được nghỉ lấy một phút thì
làm!
- Ê! - Pavlo bật dậy, hắn còn
trẻ, máu còn nóng, đời sống trong trại chưa vò nhàu được hắn.
Đôi má hắn vẫn còn phinh phính
vì từng tọng lắm bánh trôi Ucraina. - Anh xây gạch, tôi trộn vữa, xem ai làm
nhanh hơn ai! Cái xẻng to nhất ở đây biến đâu mất rồi?
Đấy, đội trong trại là thế đấy!
Đối với anh chàng Pavlo đã từng vác súng vào rừng, đôi khi còn tập kích các
làng nữa, thì việc gì hắn phải làm sụm lưng ở đây nhỉ. Nhưng với đội trưởng -
đó lại là chuyện khác!
Sukhov cùng Kildigs leo lên tầng
hai. Họ nghe thấy tiếng khò khè của Senka ở sau lưng.
Ông bạn điếc chừng cũng hiểu là
đã tới lúc làm việc.
Ở tầng hai tường nhà mới bắt đầu
được xây: phần lớn mới chỉ xây được ba hàng gạch, đôi chỗ cao hơn một chút. Đây
là phần việc nhẹ nhất - xây từ đầu gối đến ngực, không cần dàn giáo. Mấy cái
dàn giáo không biết bị chở đi đâu - chở sang khu xây dựng khác, hay phạm đã đốt
mất rồi - chỉ là để các đội khác không mó tới được. Bây giờ, nếu muốn làm cho
ra làm, thì sáng mai phải đóng dàn giáo mới, không thì chịu chết.
Trên tầng hai cái nhà máy điện
không mái này, có thể nhìn rất xa: cả một khu công trường mênh mông tuyết phủ
trắng xoá trông như sa mạc (các phạm đã tìm chỗ sưởi ấm trước lúc còi rúc), các
tháp canh đen ngòm và những hàng cột căng giây thép gai. Nếu nhìn theo hướng
nắng, những gai thép rõ mồn một, nhưng nhìn ngược hướng nắng, sẽ chẳng thấy gì.
Mặt trời chói loà khiến mắt
không mở ra được.
Không xa lắm là một toa xe đặt
máy phát điện chạy bằng hơi nước. Nó nhả khói mù mịt, che lấp cả một vùng trời.
Nó thở dốc. Bao giờ trước khi rúc lên, nó cũng khò khè như người bị bệnh. Đấy,
nó đang rúc lên đấy.
- Ê, lao động tiên tiến(12)!
Căng nhanh cái dọi lên! - Kildigs thúc Sukhov.
- Cậu nhìn xem gạch chỗ cậu có
bao nhiêu băng bám vào kìa, chắc đến tối mới cạo xong? Vác bay lên đây cũng
bằng thừa, - Sukhov chọc lại hắn.
Hai người định xây bức tường mà
hồi sáng họ đã chọn, nhưng đội trưởng ở dưới gọi vọng lên:
- Này, hai cậu xây chung một bức
tường đi, để vữa khỏi bị đóng cứng lại. Sukhov lấy Senka phụ vữa, còn
Kildigs thì để tớ phụ cho. Nhưng trước đó Gopchik thay tớ cạo băng chỗ tường
của Kildigs đã.
Sukhov và Kildigs liếc nhau. Ừ,
phải đấy. Làm như vậy sẽ dễ hơn. Họ cầm lấy rìu.
Và Sukhov không còn nhìn thấy
cái hồ phía xa, nơi ánh nắng chói loà trên tuyết, không nhìn thấy đám tù nhân
tản ra khỏi những nơi sưởi ấm, kẻ thì đào nốt những cái hố đang đào dở buổi
sáng, người thì đi dựng các đòn tay trên mái công xưởng. Bây giờ anh chỉ thấy
bức tường đằng trước mặt - từ góc trái tường xây thành các bậc cao ngang thắt
lưng, và đến tận góc bên phải, nơi nối với tường của Kildigs. Anh chỉ cho Senka
chỗ phải băm, chặt lớp băng bám vào gạch, bản thân cũng hùng hục chặt cả bằng
đầu rìu lẫn lưỡi rìu, khiến những mảnh băng văng tung toé, bắn cả vào mặt. Anh
làm phăng phăng, song đầu óc anh không để vào công việc này. Toàn bộ ý nghĩ của
anh dồn vào bức tường mà anh đang xăm soi trước mặt dưới lớp băng bám vào - bức
tường ngoài của nhà máy điện dầy hai lớp gạch. Anh không biết trước đây ai đã
xây bức tường chỗ anh đang làm, song tên thợ nề này hoặc là kẻ không thạo việc,
hoặc là kẻ ẩu tả. Sukhov quen dần với bức tường như chính tường nhà anh. Kia có
một hòn gạch bị tụt hẳn vào bên trong, để làm phẳng bức tường xây, xây lại một
hàng không được, anh phải xây lại đến ba hàng, và cũng phải trát vữa dầy hơn.
Còn chỗ này tường xây bị lồi hẳn ra - lại phải làm phẳng bằng cách xây lại hai
hàng. Và anh chia bức tường bằng mắt - phần anh sẽ xây từ chỗ góc trái, phần
Senka đảm nhiệm, hắn sẽ xây tiếp đến chỗ Kildigs. Anh đoán là ở đầu đằng kia
Kildigs, theo quán tính, sẽ không ngừng tay, xây lấn sang phần của Senka, và
như vậy ông điếc này sẽ rảnh tay hơn. Trong khi họ loay hoay bận bịu ở góc đó
thì anh sẽ xây lên quá nửa bức tường để họ khỏi bị tụt lại đằng sau. Đồng thời
anh tính xem cần bao nhiêu gạch để xây. Và khi những người khênh gạch vừa mới
leo lên tầng hai, anh tóm vội lấy Aliosa:
- Mang đến đây cho tôi! Đây, đổ
xuống chỗ này, cả chỗ này nữa.
Senka băm nốt chỗ băng bám cuối
cùng, lập tức Sukhov lấy chiếc chổi sắt, dùng cả hai tay cạo khắp nơi, cho tới
khi lớp gạch ngoài hiện lên màu xám nhạt giống như màu tuyết bẩn, tuy không
thật sạch, song vữa có thể bám tốt, nhất là ở các khe, rãnh. Trong khi Sukhov hì
hục chải chải, cạo cạo, thì đội trưởng cũng đã leo lên tới nơi, dựng chiếc
thước vào góc.
Thước của Sukhov và Kildigs đã
dựng ở đó từ lúc nãy.
- Ê! - Pavlo hét vọng lên, -
trên đó có ai còn sống không? Nhận vữa đi!
Sukhov phát hoảng: giây dọi chưa
căng được, vữa thì sắp ùn ùn kéo tới. Anh quyết định:
giây dọi căng không cho từng
hàng một, mà cho luôn ba hàng, để dự phòng. Và để Senka đỡ vất vả, anh giành
xây phần tường mé ngoài, cho hắn xây một ít bên trong.
Trong lúc căng dọi, anh giải
thích cho Senka cả bằng lời lẫn bằng cử chỉ chỗ tường hắn sẽ xây. Gã điếc đã
thủng. Hắn cắn môi, liếc mắt, đầu hất về phía tường của đội trưởng, ra điều:
ta cho chúng biết tay? Không
chịu thua chứ? Rồi hắn toét miệng cười.
Vữa đã được chuyển lên thang.
Bốn cặp khiêng bằng cáng gỗ. Và đội trưởng quyết định, để không bị đông nhanh,
vữa sẽ để nguyên trong máng, thợ xây sẽ lấy vữa trực tiếp từ máng để xây. Còn
những người khiêng vữa, để không bị chết cóng trên cao, sẽ chuyển gạch cho mấy
người xây. Khi nào hết vữa thì ngay lập tức, không để phí thời gian, cặp khác
lại khênh lên, còn cặp kia xuống dưới nhà. Ở đó, cạnh lò họ gỡ chỗ vữa đã đông
bám chặt vào máng, còn mình thì tranh thủ sưởi lấy một chút.
Họ khênh liền một lúc hai máng
vữa cho Sukhov, hai máng cho Kildigs. Vữa bốc hơi nghi ngút, song nó cũng chẳng
cho được một chút hơi ấm nào trong cái lạnh ghê người này. Lúc ném vữa lên
tường phải lấy bay miết cho thật nhanh kẻo nó đông lại ngay. Nếu mà để cho nó
đông lại, thì lúc đó có mà lấy bay hay vồ nậy cũng chẳng được. Và nếu đặt trật
một viên gạch, thì vữa đông lại bám chịt lấy chỗ đó. Lúc ấy chỉ có cách lấy
cuốc chim mà nậy ra, hay lấy rìu mà chặt cho vữa rụng ra.
Nhưng Sukhov không mắc lỗi trong
khi xây. Gạch thì chả viên nào giống viên nào. Viên thì vỡ góc, viên thì sứt
mép, viên bị vữa bám vào. Sukhov ngay lập tức tia ngay được những khuyết tật đó
và tìm được chỗ trên tường cho từng viên. Anh lấy bay xúc ít vữa bốc hơi, rải
nó xuống hàng gạch và nhớ rãnh gạch chạy thế nào để đặt viên sau lên chính
giữa. Bao giờ anh cũng trát vừa đủ vữa cho mỗi viên gạch. Rồi anh nhặt một viên
từ đống gạch (sao cho găng tay khỏi bị rách, giống gạch sứt này là sắc lắm),
lấy bay san đều lại hàng vữa và đặt gạch lên đó. Và ngay lập tức anh lấy cạnh
bay gõ gõ viên gạch sao cho mé tường ngoài thẳng theo giây dọi, và hàng dọc
cũng như hàng ngang những viên gạch nằm đều chằn chặn như những con xúc xắc. Và
viên gạch đóng cứng ngay tức thì.
Sau đó, nếu vữa thừa lòi dưới
viên gạch sang hai bên, thì phải bấy bay hất nó đi tức thì (mùa hè còn dùng cho
viên gạch khác, chứ bây giờ đừng có mà tiếc) và lại phải nhìn những rãnh nối
phía dưới, ở chỗ có những viên gạch sứt ở đầu, phải trát vữa dầy thêm một chút,
và khi đẩy sát những viên gạch vào nhau, y như rằng vữa bị lòi ra. Sukhov càng
làm, càng hăng tiết. Công việc đã cuốn hút anh. Vữa đâu, cho tiếp!
Công việc đã vào guồng. Ta đã
xây được thêm hai hàng, những chỗ lồi lõm, xiên xẹo trước đó đã được chỉnh sửa,
nhìn chung là trôi chảy. Nhưng bây giờ lại càng phải tinh mắt hơn!
Anh phải nhanh tay bắt kịp Senka
ở hàng gạch ngoài. Còn Senka từ chỗ của đội trưởng cũng đang tiến lại phía anh.
Sukhov giục giã mấy người khênh
vữa:
- Nhẩu lên, mấy bố, mang vữa tới
ngay cho con nhờ!
Anh làm như điên, nước mũi chảy
ròng ròng cũng chẳng kịp vắt.
Khi anh gặp Senka thì hai người
phải dùng chung một máng vữa. Chẳng còn mấy tí.
- Vữa! - Sukhov gào lên sau bức
tường.
- Có ngay đây! - Pavlo ở dưới
cũng hét tướng lên.
Một máng nữa được khiêng tới
nơi. Hai người vét nốt chỗ vữa đang còn mềm, còn vữa xung quanh máng đã đông
cứng.
- Kìa cạo ngay đi chứ mấy bố,
định khuân cả xuống dưới hay sao. Đổ xuống đất! Đưa máng mới vào!
Sukhov và mấy người thợ xây khác
đã không còn thấy lạnh nữa. Công việc khẩn trương và cuốn hút khiến cơ thể họ
bắt đầu nóng lên. Cái nóng đầu tiên làm cho mồ hồi toát ra dưới các lớp sống
áo. Song họ không nghỉ, cứ thế tiếp tục xây lên cao mãi. Một giờ trôi qua, tiếp
đến cái nóng thứ hai - cái nóng này làm mồ hôi khô ráo. Băng giá không bò được
vào chân họ, đó là điều chủ yếu, những cái còn lại chẳng đáng gì, cả ngọn gió
nhẹ buốt - đều không thể làm cho họ sao nhãng việc đang làm. Chỉ có Klevsin cứ
đập chân nọ vào chân kia - hắn mang cỡ giầy số 46, nhưng kiếm đâu ra ủng cỡ đó cơ
chứ, thành thử con nhà giời phải đi hai chiếc ủng đã không cùng kích cỡ, lại
chật ních.
Đội trưởng chốc chốc lại gọi
tướng lên: ‘V- ư-ã!”. Sukhov cũng : “V- ư-ã!”. Người nào làm việc bền bỉ, năng
xuất hơn, thì người đó trở thành đội trưởng chốc lát trong con mắt của những
người bên cạnh. Sukhov cố không để tụt hậu, giá có thằng em ruột ở đây, anh
cũng bắt nó khiêng vữa trên cái thang làm tạm, trơn tuột kia.
Sau bữa trưa, Buinovski cùng
khiêng vữa với Fechiukov. Nhưng thang dốc và trơn, nên trung tá lúc đầu ì ạch
lắm. Sukhov khẽ giục ông:
- Trung tá, nhanh lên! Trung tá,
cho vữa đây!
Khi quen việc, mỗi lúc trung tá
một nhanh nhẹn hơn lên, nhưng Fechiukov thì càng lười hơn: lúc khiêng vữa hắn
làm cho cái máng nghiêng đi, cố tình làm đổ vữa cho nhẹ bớt.
Có lúc Sukhov phải huých vào
lưng hắn:
- Đồ chó đẻ! Khi làm giám đốc
chắc mày hành công nhân lắm thì phải?
- Đội trưởng! - trung tá gọi
toáng lên, - cho tôi làm với người khác, tôi không khiêng với thằng đụt này!
Đội trưởng sắp xếp lại công
việc: Fechiukov chuyển gạch từ dưới lên bệ, và hắn phải làm một mình để còn
tiện đếm xem hắn xếp được bao nhiêu viên, còn Aliosa - Tẩy lễ khiêng vữa với
trung tá. Aliosa là người hiền lành, ai muốn ra lệnh với hắn cũng được.
- Nào thuỷ thủ, cho tàu chạy hết
tốc lực! - trung tá đe hắn. - Nhìn xem người ta xây kia kìa!
Aliosa cười nhường nhịn:
- Cần nhanh - sẽ có nhanh. Thế
nào cũng được.
Rồi hai người rậm rịch xuống cầu
thang.
Ở trong đội, người hiền lành dễ
bảo như thế quả là của hiếm.
Đội trưởng đang la hét ai đó ở
phía dưới. Hình như có một xe chở gạch nữa mới tới. Chả bù cho nửa năm nay
không có lấy một viên, bây giờ thì ào ào chở đến. Có gạch thì mới làm được
việc. Hôm nay là ngày đầu tiên. Sau mà bị kẹt, lại không có gạch nữa, thì lúc
ấy có mà lấy lại cái đà này được khối.
Dưới nhà, đội trưởng vẫn tiếp
tục chửi bới. Hình như về cái máy nâng thì phải. Sukhov muốn ngó xuống xem
chuyện gì, song chẳng còn lúc nào: phải nắn cái tường cho thẳng.
Những người khiêng vữa tới nơi,
họ kể lại có một phạm làm nghề thợ điện tới sửa động cơ của cái máy nâng. Đi
cùng anh ta là tay quản công phụ trách về điện. Tay này là công nhân
tự do và hắn chỉ khoanh tay đứng xem anh thợ điện sửa.
Đời là vậy: một thằng làm, một
thằng đứng ngó.
Giá mà họ sửa nhanh nhanh được
cái máy nâng thì đỡ biết bao, vừa chuyển nhanh được vữa, vừa chuyển được gạch
lên cho họ.
Khi Sukhov đang xây hàng thứ ba
(Kildigs cũng bắt đầu hàng thứ ba), thì một vị thủ trưởng nữa leo thang để lên
tầng trên. Đó là quản công phụ trách xây dựng. Tên hắn là Der, người Moscva,
nghe đâu ngày trước từng làm ở bộ.
Sukhov đã đứng gần Kildigs, chỉ
cho hắn thấy Der.
- À-à! - Kildigs phẩy tay. - Tớ
chẳng dính dáng tới thủ trưởng, nhưng nếu ông ta mà ngã cầu thang thì hãy gọi
tớ.
Chắc lại tới đứng đằng sau nhìn
đám thợ xây làm đây mà. Sukhov khó chịu nhất là hạng chống nạnh quan sát người
khác làm. Cũng kĩ sư cơ đấy, đồ mặt lợn! Có lần hắn dạy anh em cách xây gạch
làm cho Sukhov cười muốn vỡ bụng. Theo như lề lối của dân ta, phải xây cho xong
một ngôi nhà bằng chính bàn tay mình, lúc ấy hãy nói đến chuyện kĩ sư. Ở quê
anh không xây nhà gạch, chỉ có nhà gỗ ghép. Trường học cũng được làm bằng gỗ
đẽo, người ta thuê chặt gỗ và chở từ rừng về những cây gỗ dài sáu xa-gien(13).
Ở trong trại anh phải làm thợ nề, và thế là anh trở thành thợ nề. Ai học được
hai nghề, thì cả mười nghề cũng học được.
Không, Der không bị ngã, hắn chỉ
vấp có một lần, leo gần hết thang hắn chạy vọt lên.
- Tu-r-in! - Hắn hét lên, mắt
lồi ra. - Tu-rin!
Pavlo chạy lên thang theo hắn,
tay cầm chiếc xẻng.
Áo bông của Der cũng là áo tù,
nhưng còn mới và sạch sẽ. Đầu hắn đội chiếc mũ da tốt. Nhưng trên đó cũng có số
hiệu, như tất cả mọi người: B-737.
- Gì đấy? Turin tay cầm bay bước
ra, chiếc mũ trên đầu lệch sang một bên, che mất một mắt.
Xẩy ra chuyện gì rồi đây. Nhưng
không thể ngừng tay được, vữa sẽ bị đông lại mất. Sukhov vẫn tiếp tục xây. Vừa
xây, vừa dỏng tai nghe.
- Mày làm gì thế hở?! - Der gầm
lên sùi cả bọt mép.- Đây không phải tội nằm nhà đá nữa, mà là tội hình sự,
Turin. Mày sẽ phải lãnh thêm hạn tù thứ ba!
Bấy giờ Sukhov mới thủng chuyện.
Anh nhìn Kildigs và thấy hắn cũng đã hiểu ra. Giấy dầu, giấy dầu, nó đã nhìn
thấy giấy dầu trên cửa sổ.
Sukhov không sợ cho bản thân, vì
anh biết đội trưởng chẳng bao giờ bán rẻ anh em. Anh lo cho đội trưởng. Đối với
anh em đội trưởng là cha, còn đối với họ, chẳng là cái thá gì. Chắc cũng vì
những tội tương tự như thế này mà đội trưởng đã được “gia hạn” tù ở miền Bắc
này.
Ôi cái mặt của đội trưởng lúc
này trông mới khiếp làm sao! hắn vứt đến toạch cái bay xuống dưới chân, tiến
một bước về phía Der. Der ngoái nhìn lại phía sau - Pavlo đứng đó, tay giơ cái
xẻng lên.
Cái xẻng! cái xẻng! không dưng
nó mang theo cái xẻng...
Và Senka, tuy nghễnh ngàng, song
cũng đã hiểu: hai tay chống nạnh, hắn lừng lững đi tới.
Mà hắn mới to con làm sao, thằng
quỷ hói này. Der chớp mắt lia lịa, ngó quanh tìm chỗ thoát thân. Đội trưởng ngó
sát mặt Der, nói khẽ nhưng rõ từng từ một, đủ cho anh em tầng trên nghe thấy:
- Thời của chúng mày qua rồi, đồ
sâu bọ! Lãnh thêm án cơ đấy! Nếu mày chỉ cần hở một lời, là đời mày tàn luôn,
sẽ là ngày cuối cùng của mày đấy, rõ chưa!
Đội trưởng tức run lên bần bật.
Nỗi tức giận không thể kìm nén.
- Từ từ thôi các cậu! - Mặt mũi
tái mét, Der đứng nhích xa cái thang.
Đội trưởng không nói thêm một
lời, cúi xuống nhặt chiếc bay và đi về chỗ tường của mình.
Còn Pavlo thì xách xẻng chậm
chạp đi xuống dưới nhà.
Thật chậm.
Phải. Máu của ba thằng tù vẫn
như đang còn trước mắt... Ba thằng bị cắt cổ, mà trong trại chẳng một ai hay
biết.
Der ở cũng dở mà xuống cũng dở.
Hắn đứng nấp sau lưng Kildigs. Còn Kildigs thì vẫn cứ xây - bản mặt hắn giống
như người bán thuốc đang đếm thuốc trong hiệu: tiếng tăm của ông bác sĩ cũng
chẳng làm cho hắn phải vội vàng. Hắn đứng quay lưng lại Der, làm ra vẻ không
thấy hắn.
Der rón rén lại gần đội trưởng.
Bây giờ hắn giở giọng khác:
- Tôi phải nói thế nào với ông
giám đốc đây, Turin?
Đội trưởng tay vẫn xây, đầu
không ngoái lại.
- Cứ nói là nó đã có ở đấy từ
trước, trước khi bọn này tới.
Der đứng thêm một lát. Hắn hiểu
mọi người sẽ không giết hắn. Hắn khẽ đi đi lại lại, tay đút túi.
- Ê, S-854, - Hắn nói với
Sukhov, giọng gầm gừ, - sao vữa lại trát mỏng thế hở?
Cũng phải xả cái tức lên đầu ai
chứ. Không bắt được lỗi Sukhov về điểm gì, hắn bèn vặc đến chuyện vữa mỏng vậy.
- Bẩm, xin được báo cáo ạ, -
Sukhov lào thào qua mấy cái lỗ răng hổng, anh nói kháy Đer - Nếu trát dầy thì
cái nhà máy điện này đến mùa xuân chỗ nào cũng sẽ chảy nước ạ.
- Anh là thợ, anh phải nghe theo
lời quản công, - Der cau có, hai má phồng lên, hắn có cái thói quen như vậy.
Ừ thì trên tường cũng có chỗ dầy
hơn, chỗ mỏng hơn thật, nhưng đó là họ không bắt xây vào mùa đông lạnh đến như
thế này. Đáng ra phải có chút tình người, đằng này lúc nào cũng chỉ nghĩ tới
công việc.
Nhưng nói với hạng này, thà vạch
đầu gối mà nói.
Der lặng lẽ đi xuống dưới thang.
- Ông sửa hộ cái máy nâng cho
tôi! - Đội trưởng nói với theo hắn. - Ông tưởng chúng tôi là lừa cả hay sao mà
kéo gạch lên đây bằng tay như thế này.
- Kéo thì hưởng thêm xuất kéo, -
Der trả lời ở dưới thang, giọng dịu hẳn.
- Ý ông muốn nói mấy thứ vớ vẩn
trả cho việc chuyên chở bằng xe cút kít? Ông thử đẩy một xe lên cái cầu thang
đó cho tôi coi. Ông hãy trả phần “khiêng bằng cáng” đi hẵng!
- Tôi tiếc anh làm gì. Bên kế
toán người ta không duyệt khoản “khiêng bằng cáng”.
- Kế mới lại chả toán! Cả đội
của tôi phục vụ cho bốn người thợ xây đây này. Vậy tôi nhận được bao nhiêu?
Đội trưởng miệng thì kêu, nhưng
hai tay vẫn xây thoăn thoắt.
- Vữa! - anh hét xuống phía dưới.
- Vữa! - Sukhov cũng hô liền
ngay sau đội trưởng.
Họ đã xong hàng thứ ba, bắt đầu
xây hàng thứ tư. Anh định căng giây dọi, song lại tiếc thời giờ. Thôi, hàng sau
xây chả cần dọi.
Der băng qua khoảng đất trống
trở về văn phòng của mình, người co rúm lại. Phải về ngay để sưởi. Đứng trên
cao hắn rét run cầm cập. Lẽ ra hắn phải nghĩ một chút trước khi đụng với loại
cứng đầu cứng cổ như Turin. Lẽ ra hắn phải giữ quan hệ hoà hảo với mấy cha đội
trưởng như thế, bởi hắn đâu có phải lo lắng điều gì: chẳng phải làm lụng vất
vả, lại được khẩu phần hơn, lại còn một cái buồng riêng nữa - còn muốn gì hơn?
Chỉ thích ra vẻ ông tướng!
Mọi người từ dưới nhà lên nói
rằng cha thợ điện cùng thằng quản công đã tếch rồi và vẫn chưa sửa được cái
động cơ.
Nghĩa là anh em vẫn phải tiếp
tục làm công việc của bầy lừa!
Sukhov đã làm nhiều công việc
khác nhau và bao giờ cũng thấy cùng một chuyện: hoặc máy móc tự dưng hỏng, hoặc
do phạm phá họai. Anh nhớ lần trong trại đốn gỗ, phạm làm đứt giây chuyền. Muốn
nghỉ, họ bèn đút luôn cái đòn vào máy và đè lên nó. Nhưng nào người ta có cho
nghỉ, máy hỏng, họ phải chất gỗ bằng tay.
- Gạch đâu! gạch đâu! - đội
trưởng gào lên như hoá dại. Hắn chửi tiên sư nhà chúng nó, cả lò mấy thằng bê
gạch, lẫn mấy thằng khiêng vữa.
- Pavlo hỏi trên ấy vữa ra sao,
còn đủ không? - Mấy người ở dưới quát vọng lên.
- Trộn thêm ít nữa!
- Dưới này còn nửa thùng!
- Thế thì trộn thêm thùng nữa!
Bây giờ mới thật sự máu! Họ đã
xây đến hàng gạch thứ năm! Mới đầu còn phải gập người xuống để xây hàng thứ
nhất, bây giờ tường đã cao đến ngực, nhìn mà xem! Gì mà chả nhanh, không cửa
sổ, không cửa ra vào, chỉ trần có hai bức tường nối với nhau và thoải mái gạch.
Đáng lí phải căng thêm dọi, nhưng đã muộn rồi.
- Đội 82 hai đã đi trả dụng cụ -
Gopchik thông báo.
Đội trưởng quắc mắt lên với nó:
- Hẵng lo lấy việc của mình,
thằng ôn con. Đi khuân gạch!
Sukhov ngoái lại nhìn. Ờ đúng
thật, mặt trời đang lặn. Bị sương mù che phủ, màu đỏ mặt trời chuyển dần sang
màu xám. Tốt nhất không nên xây tiếp nữa. Đã bắt đầu hàng thứ năm thì cũng nên
kết thúc ở hàng này. Còn phải chỉnh sửa nữa chứ.
Mấy cha khiêng vữa thở phì phò
như ngựa. Ông trung tá thậm chí tái xanh tái xám. Dù sao thì ông ta cũng đã
trên dưới bốn mươi rồi.
Trời lạnh mỗi lúc một dữ dội.
Tay vẫn làm việc mà mấy ngón tay đã tê cóng trong đôi bao tay cà tàng. Và cái
lạnh đã luồn được vào bốt bên trái rồi. Thịch-thịch - Sukhov dậm nó xuống sàn,
thịch - thịch.
Anh không phải cúi xuống để xây
nữa, song vẫn cứ phải cúi sụn cả lưng để nhặt từng viên gạch và xúc từng bay
vữa.
- Các cậu ơi, các cậu ơi,- anh
gọi mấy người khiêng vữa. - Các cậu đặt giúp gạch lên tường hộ tôi với.
Ông trung tá sẵn lòng làm việc
đó, song không còn sức. Ông chưa quen với loại công việc này. Aliosa đồng ý:
- Được rồi, Ivan Denisovich, đặt
ở đâu, chỉ cho tôi.
Aliosa không biết từ chối bất cứ
lời yêu cầu giúp đỡ nào. Giá mọi người trên đời này đều như thế nhỉ, và cả
Sukhov nữa, cũng như thế. Nếu có ai cầu xin giúp đỡ, tại sao lại không giúp anh
ta? Mấy anh chàng Tẩy lễ này nói cũng phải.
Khắp công trường, cho tới tận
nhà máy điện, tiếng còi báo nghỉ vọng tới rõ mồn một. Trộn nhiều vữa mất rồi.
Đấy, cố lắm vào!...
- Chuyển vữa lên đây, chuyển
nhanh lên! - Đội trưởng la lên.
Ở dưới lại vừa mới trộn thêm một
thùng vữa mới! bây giờ thì chỉ còn nước xây thôi, chả còn cách nào khác. Nếu
không vét cho sạch thì ngày mai vữa sẽ đóng lại trong thùng cứng như sắt, có
lấy cuốc chim bổ cũng chẳng ra.
- Nào anh em, làm tiếp đi, cố
lên! - Sukhov hò hét.
Kildigs bắt đầu bực mình. Hắn
không thích kiểu làm ồ ạt. Ở Litva, nghe nói, người ta làm việc từ tốn lắm,
nhưng mà ai cũng giàu. Bây giờ anh cũng phải rán sức, còn biết làm sao được.
Pavlo từ dưới chạy lên, bắt tay
khiêng vữa và cầm theo bay. Hắn lên giúp mọi người xây cho nhanh. Thế là có năm
tay bay.
Bây giờ vấn đề là phải xây cho
kịp những chỗ tiếp giáp! Sukhov trước đó đã tia những viên gạch vừa với những
chỗ nối đó. Anh quẳng cái búa cho Aliosa:
- Này, đập hộ tôi! Đập đi!
Làm vội thì chẳng bao giờ có thể
tốt được. Bây giờ, khi mọi người xây vội xây vàng, thì Sukhov làm chậm lại và
ngắm kĩ bức tường. Anh đẩy Senka sang bên trái, bản thân đứng vào chỗ góc
chính. Lúc này, nếu như bỏ qua, hay làm hỏng cái góc tường, thì ngày mai sẽ mất
cả buổi để mà sửa.
- Hượm đã! - Anh giật vội viên
gạch từ tay Pavlo, tự mình sửa lại cho nó ngay ngắn. Từ chỗ góc tường anh nhìn
thấy chỗ Senka xây bị võng xuống. Anh chạy vội tới sửa lại hai viên gạch.
Ông trung tá ì ạch khiêng vữa
như một con ngựa thồ già chăm chỉ.
- Còn hai máng nữa! - ông hô lên.
Trung tá hầu như không còn đứng
vững, song vẫn gắng sức. Sukhov đã từng có một con ngựa già như thế trước khi
gia nhập nông trang. Anh chăm sóc nó kĩ lắm, nhưng khi rơi vào tay những người
khác nó đã chết rất nhanh và người ta lột lấy da nó.
Mặt trời đã lặn xuống mặt đất
chỉ còn chút đỉnh phía trên. Bây giờ thì không cần Gopchik thông báo mọi người
đều đã nhìn thấy, chẳng những tất cả các đội đã trả dụng cụ, mà phạm còn đang
xô đẩy nhau đến chỗ trạm gác. (Sau kẻng báo nghỉ chẳng có ma nào ra bên ngoài
ngay, họa có điên mà đứng lởn vởn chết rét ở đó. Họ ngồi lại trong nhà cho ấm.
Các đội trưởng đã thoả thuận với nhau vào đúng một lúc tất cả các đội cùng ùa
ra. Nếu không thoả thuận như vậy, thì tù nhân là loại người chây lì, chúng ngồi
đợi nhau trong nhà có mà đến đêm).
Lúc ấy Turin mới tỉnh
ra. Hắn thấy đội mình bị chậm mất rồi. Thằng cha giữ kho dụng cụ chắc lúc này
đang réo ông bà ông vải hắn ra mà chửi.
- Ê! - hắn hô to, - không tiếc
đống cứt nhão đó nữa - đem đến chỗ cái hố kia kìa, đổ xuống đó rồi lấp tuyết
lên trên để không ai nhìn thấy! Còn Pavlo thu tất cả dụng cụ lại đem trả nhà
kho. Tôi sẽ bảo Gopchik đem ba cái bay tới sau, bây giờ còn phải xây nốt hai
máng vữa này đã.
Mấy người nhẩy xổ tới giật lấy
cái búa ở tay Sukhov, tháo giây dọi. Đám khiêng vữa, đám khuân gạch chạy sạch
xuống chỗ nhào vữa ở phía dưới, ở trên này chẳng còn việc gì cho họ làm. Chỉ
còn lại có ba tay thợ nề - Kildigs, Klevsin và Sukhov. Đội trưởng đi quanh ngắm
nghía chỗ tường đã xây. Hắn hài lòng ra mặt.
- Làm tốt đấy chứ, hả? Có mỗi
một buổi chiều. Mà không có trục kéo với máy nâng đấy nhá.
Sukhov nhìn thấy trong máng của
Kildigs còn ít vữa. Anh lo Turin sẽ bị lôi thôi to ở kho trả dụng cụ nếu không
trả kịp mấy cái bay này.
- Nghe này, mấy cậu, - Sukhov
nói, - các cậu đưa bay cho Gopchik để nó mang trả, còn cái của tớ thuổng được
không cần phải trả, tớ sẽ xây nốt cho.
Đội trưởng cười phá lên:
- Làm sao có thể thả cậu ra được
đây? Không có cậu nhà tù phát khóc lên mất!
Sukhov cũng cười và tiếp tục xây.
Kildigs đi trả bay. Senka thì
đưa gạch cho Sukhov, những người khác trút nốt chỗ vữa trong máng của Kildigs
vào máng của anh.
Gopchik chạy băng qua công
trường tới kho dụng cụ, bắt kịp Pavlo. Đội 104 cũng tự mình băng qua công trường,
tiến tới trạm gác cổng không cần đội trưởng đi cùng. Đội trưởng to thật đấy,
song lính áp tải còn to hơn. Chúng mà ghi anh tới trễ thì dám được vào nhà đá
lắm.
Phạm đứng đông đặc ở cạnh trạm
gác. Tất cả đã tập hợp. Chắc lính áp tải bắt đầu đếm tù rồi.
Khi tù ra về họ đếm hai lần. Lần
đầu đếm khi các cổng còn đóng để xem đã có thể mở cổng được chưa. Lần thứ hai
đếm khi tù đi qua cổng. Nếu có vấn đề gì thì họ lại đếm lại ở bên ngoài cổng.
- Thôi vứt mẹ chỗ vữa ấy đi! -
Đội trưởng phẩy tay, - hất qua tường ấy!
- Đi đi, đội trưởng, đi đi, ở đó
cần cậu hơn! (Lúc bình thường Sukhov luôn gọi đội trưởng một cách kính trọng,
bằng họ tên cẩn thận - Andrei Prokofievich, nhưng bây giờ, trong công việc, anh
cảm thấy mình bình đẳng với đội trưởng. Anh không nghĩ cụ thể: “Xem đấy, tớ đâu
có thua kém gì cậu”, mà chỉ cảm nhận vậy thôi). Và anh nói với theo người đội
trưởng đang sải những bước chân vội vã xuống cầu thang, giọng đùa cợt: - Chó má
thế chứ, ngày làm việc sao lại ngắn tun tủn vậy? Vừa mới vác mặt đến đã bị lôi ngay
về!
Chỉ còn lại anh với gã điếc. Với
thằng cha này chẳng thể nói nhiều được. Vả lại, cần gì phải nói, hắn tinh hơn
tất cả mọi người, chả cần nói cũng hiểu.
Vỗ vữa vào! Ấn gạch xuống! Áp
mạnh vào! Kiểm tra lại đi. Vữa. Gạch. Vữa. Gạch...
Hình như đội trưởng ra lệnh
không cần tiếc, hất vữa qua tường rồi phắn cho nhanh. Nhưng con người Sukhov,
về mặt này, có hơi bị lẩn thẩn. Không thể nào bắt anh chừa được cái thói tiếc
công, tiếc của, nhìn thấy sự phí phạm là anh chịu không được.
Vữa! Gạch! Vữa! Gạch!
- Xong! Mẹ cha nó, chân với chả
cẳng! - Senka reo lên. - Chuồn thôi!
Hắn vớ lấy cái máng vữa rồi chạy
thẳng xuống cầu thang.
Còn Sukhov, dù bây giờ lính canh
có suỵt chó cắn, cũng mặc. Anh chạy lùi ra xa ngắm nghía bức tường. Đâu có dở.
Lại chạy tới gần nhìn suốt bức tường từ trái sang phải. Ê, mắt mình như cái ống
thuỷ chuẩn! Rõ phẳng lì! Tay mình còn xài được!
Rồi anh chạy xuống thang.
Senka đã nhào ra khỏi chỗ trộn
vữa. Ra đến ngoài còn ngoái lại cổ lại gọi:
- Nhanh lên! Nhanh lên!
- Đi trước đi, tớ ra ngay bây
giờ đây. - Sukhov giơ tay xua hắn.
Rồi anh đi vào trong chỗ trộn
vữa. Đâu có thể vứt bừa cái bay như thế được. Có thể ngày mai anh không làm
việc này nữa. Hoặc cũng có thể người ta sẽ phân đội 104 sẽ đến Khu Dịch Xã
trong sáu tháng tới. Chả nhẽ để mất chiếc bay? Muộn thì cũng đã muộn mẹ nó rồi!
Trong khoang trộn tất cả các lò
đều đã tắt. Tối om. Sợ thật. Sợ không phải vì tối, mà vì tất cả đều đã đi hết,
chỉ còn thiếu mỗi mình anh, lính canh sẽ tẩn cho mà xem.
Nhưng gì thì gì anh vẫn cứ sờ
soạng cho tới khi bắt gặp một tảng đá to ở một góc, anh liền lật nó lên, để cái
bay xuống dưới và đậy nó lại. Thế là xong!
Bây giờ thì phải đuổi cho kịp
Senka. Nhưng Senka mới đi được trăm bước. Hắn đã đứng lại đợi anh. Không bao
giờ Klevsin bỏ anh em trong cơn họan nạn. Có tội thì cùng chịu. Cả hai cùng
chạy, một to, một nhỏ. Senka cao hơn Sukhov nửa cái đầu, mà cái đầu thằng cha
này mới to kì quặc làm sao.
Có những hạng người vô công rồi
nghề thế chứ, chả ai bắt cũng lôi nhau ra sân vận động huỳnh huỵch chạy đua với
nhau. Cứ thử cho mấy thằng quỷ đó chạy như thế này sau một ngày làm việc tối
mắt tối mũi, không có lúc nào mà vặn cái lưng, găng thì ướt sũng, ủng thì tã
nát - lại còn cái lạnh chó má này nữa.
Họ chạy như điên, thở hồng hộc.
Không sao, đội trưởng đang ở
trạm gác, chắc hắn đang tìm cách giải thích.
Hai người chạy thẳng tới chỗ đám
đông, hoảng hốt. Cả trăm giọng đồng thanh nhao nhao, thôi thì đủ cả: đ... con
mẹ mày, thằng bố mày, đ... vào mồm, vào mũi, vào mép. Thật khủng khiếp khi cả
năm trăm con người cùng hét vào mặt anh. Song còn khủng khiếp hơn khi không
biết bọn lính canh sẽ làm gì anh đây.
Nhưng bọn lính chẳng làm gì cả.
Đội trưởng ở đây, đứng ở hàng cuối, có nghĩa hắn đã giải thích với bọn lính và
đã nhận lỗi về mình.
Còn anh em thì vẫn la hét, anh
em vẫn cứ nhao nhao! Họ la hét đến nỗi điếc như Senka cũng nghe thấy. Và hắn
nổi sùng, nhảy dựng lên, chửi bới lại. Cả đời im lặng, bây giờ nổi đoá lên, giơ
nắm đấm, nhảy bổ vào tay bo. Đám đông im bặt. Có vài người cười.
- Ê, một lẻ bốn! Cánh tớ lại
tưởng cha này của các cậu điếc chứ lại. - Họ la lên, - cánh tớ kiểm tra thử hắn
đấy.
Tất cả cười hô hố. Cả bọn lính
canh cũng cười.
- Xếp thành hàng năm!
Họ chưa mở cổng vội. Còn chưa
được tự tin. Họ xô đám đông lùi lại. (Tất cả cùng bám vào cổng, ngu thế chứ, cứ
tưởng làm thế sẽ được ra sớm hơn) - Xế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai! Ba!...
Khi nhận được lệnh, tù nhân rục
rịch xếp hàng năm, mỗi lượt nhích lên được vài mét.
Sukhov đã lấy lại hơi, ngửng mặt
nhìn trời. Cha mẹ ơi, trăng kìa, trăng đã lên cao, cái mặt đỏ bầm cau có. Hình
như đã vào hạ tuần. Hôm qua, bằng tầm này, nó còn ở cao hơn.
Sukhov mừng húm vì mọi chuyện đã
chót lọt, anh huých vào mạng sườn ông trung tá, trêu chọc:
- Nghe này, trung tá, theo khoa
học nhà các anh, trăng già rồi nó sẽ đi đâu?
- Đi đâu là thế nào? Rõ đồ ngu!
Đơn giản là nó không hiện rõ nữa!
Sukhov lắc đầu, cười:
- Nếu không rõ thì tại sao anh
lại biết nó đang có?
- Thế theo anh, - trung tá ngạc
nhiên, - cứ mỗi tháng lại có một trăng mới?
- Ơ kìa, có gì là lạ nào? Ngày
nào cũng có người sinh ra, thì tại sao bốn tuần lại không có một ông trăng mới?
- Phù! - trung tá nhổ toẹt một
cái. - Tôi chưa từng gặp một thằng lính thuỷ nào ngu như thế này. Thế theo anh,
mấy ông trăng già đi đâu?
- Thì đó là cái tôi muốn hỏi anh
đấy - trăng biến đi đâu? - Sukhov cười hở mấy chiếc răng, - nào, biến đi đâu,
hả?
Sukhov thở dài và thều thào bằng
cái giọng tức cười của anh:
- Chỗ chúng tôi người ta thường
bảo: Chúa trời đập vỡ trăng già thành nhiều ngôi sao.
- Rõ đồ mông muội! - trung tá
bật cười. - Tôi chưa nghe ai nói thế bao giờ. Thế anh tin có Chúa trời chứ,
Sukhov?
- Sao lại không? - Sukhov ngạc
nhiên. - Một khi sấm nổ đùng đùng, có mà không tin được khối!
- Thế Chúa trời làm thế để làm
gì?
- Làm cái gì?
- Thì đập vỡ trăng để làm những
ngôi sao ấy - để làm gì?
- Có gì mà không hiểu nhỉ, -
Sukhov nhún vai. - Các ngôi sao cứ rụng luôn luôn, phải có sao mới để mà bổ
sung chứ.
- Quay lại, mẹ chúng mày... -
Lính canh gào lên. - Sắp hàng lại!
Chúng đã đếm đến họ. Trước đấy
toán năm người thứ mười hai vừa mới đi qua, cuối hàng còn lại có hai mống,
Sukhov và trung tá.
Đám lính canh lo lắng ngó vào
tấm bảng ghi danh sách tù. Không đủ! Lại thiếu mất rồi! Đến đếm chúng còn không
biết nữa, lũ chó!
Chúng đếm được bốn trăm sáu mươi
hai, phải là bốn trăm sáu mươi ba mới đúng.
Lại một lần nữa đoàn người bị
đẩy ngược trở lại (họ lại bám vào cổng) - Và lại bắt đầu từ đầu:
- X-ế -p h-à-n-g n-ă-m! Một! Hai!
Cái khốn nạn nhất của việc đếm
lại như thế này là thời giờ của anh em, chứ không phải của chúng, bị mất.
Đây vẫn là thảo nguyên, từ đây
lần được về đến trại lại còn bị chúng bắt xếp hàng để lục soát trước khi cho
vào nữa chứ. Từ tất cả các công trường anh em thi nhau chạy, cố gắng vượt lên
trước để cho chúng khám xét sớm mà vào trại. Đội nào vào được trước tiên, thì
đội ấy là bố tướng: nhà ăn đợi anh, anh sẽ là người đầu tiên được lĩnh đồ tiếp
tế, là người đầu tiên ở chỗ gửi đồ, vào nhà bếp trước để lấy đồ ăn đã nhờ nấu
từ sáng, lên Ban Văn Hoá Giáo Dục để lấy thư nhà hay đến chỗ mấy ông kiểm duyệt
thư từ để nộp thư gửi về nhà, tạt vào trạm xá hay đến chỗ hớt tóc, đi nhà tắm,
có nghĩa ở đâu anh cũng là người đến trước tiên.
Cũng có khi bọn lính áp tải muốn
nộp tù cho nhanh để còn về trại của mình. Lính tráng đâu có được chơi bời gì,
công việc thì nhiều mà thời giờ lại ít.
Chúng lại đếm nhầm rồi.
Nhóm năm người cuối cùng vừa đi
qua, theo như Sukhov tính thì hàng còn lại phải có ba người, đằng này không,
vẫn chỉ có hai. Mấy tên đếm vội cầm bảng danh sách chạy tới chỗ viên trưởng
toán áp tải.
Viên trưởng toán hô:
- Đội trưởng đội 104!
Turin bước ra khỏi hàng:
- Có.
- Đội của anh có còn ai ở lại
nhà máy điện không? Nghĩ đi.
- Không.
- Nghĩ kĩ xem, không tôi bửa đầu
ra đấy.
- Không còn ai, thưa chính xác ạ.
Nói thế nhưng hắn vẫn đưa mắt
nhìn Pavlo - liệu có thằng cha nào ngủ quên ở chỗ trộn vữa không nhỉ?
- X-ế-p h-à-n-g theo đội! - Viên
trưởng toán hô.
Nếu xếp hàng theo nhóm năm thì
bạ với ai xếp cùng cũng được. Bây giờ, thôi thì xô đẩy, chen lấn và la hét. Chỗ
thì : “Đội 76 đâu, theo tôi’, chỗ thì: “Đội 13! lại đây!”, chỗ thì: “32 đâu, ra
đằng này!”.
Đội 104 đến sau cùng phải tập
hợp ở đằng sau. Và Sukhov nhìn thấy anh em trong đội mình đều tay không. Mải
làm quá họ chẳng nhặt nhạnh được tí củi nào. Chỉ có hai người được vài bó nhỏ.
Ngày nào cũng vẫn trò đó: trước
khi có hiệu còi nghỉ, anh em phạm tranh thủ nhặt các mẩu gỗ vụn, que hoặc nẹp
gẫy, lấy giẻ rách hoặc thừng cũ buộc lại mang về trại. Mất mát đầu tiên ở chỗ
trạm gác, nếu có viên giám công hay tên quản công nào đó đứng đấy, chúng bắt
anh em ném hết xuống đất (hàng triệu rúp đã bị tiêu tan trong các ống khói và
bây giờ chúng cho rằng có thể tịch thu những mẩu gỗ vụn này để bù vào đó). Còn
anh em thì lại có cách tính toán của mình: mỗi người trong đội mang về được dù
chỉ một cái que nhỏ thì phòng của mình sẽ được ấm hơn một chút. Chứ không bọn
cần vụ chỉ cho lĩnh có năm ki lô than cám cho mỗi một lò sưởi, ấm thế chó nào
được. Chính vì thế anh em mới nghĩ ra cách bẻ ngắn, cưa vụn gỗ ra, đút vào túi
và qua mặt được giám công.
Ở đây lính áp tải không bao giờ
bắt anh em ném củi xuống đất, là vì họ cũng cần củi, song lại không được mang
theo. Phần vì mặc quân phục không được phép vác củi, phần tay còn bận ôm tiểu
liên bắn tù nhân nếu cần. Nhưng khi đưa tù về tới trại, lập tức họ ra lệnh: “từ
hàng này đến hàng này vứt củi ra chỗ này!”. Nhưng họ vặt của tù một cách cao
thượng: cũng còn phải chừa lại một ít cho giám thị, một ít cho tù nhân, chứ
không sẽ chẳng còn mống nào kiếm củi mang về nữa.
Cho nên mới xảy ra cái tình
huống: ngày nào người tù cũng lượm củi, nhưng chẳng ai biết khi nào thì mang
được về trót lọt, khi nào bị trấn.
Trong khi Sukhov ngó nghiêng xem
có gì để nhặt nhạnh hay không, thì đội trưởng đã kiểm xong quân số đội mình và
hô lớn:
- Một trăm linh bốn, đủ!
Cả Sezar cũng đã tách khỏi đám
người văn phòng có mặt ở đội. Đốm lửa trên tẩu thuốc của hắn lập loè cháy đỏ,
còn bộ ria hắn trắng xoá sương chiều. Hắn hỏi:
- Công việc thế nào, ông trung
tá?
Kẻ được sưởi ấm hiểu sao được
người đang chết rét. Một câu hỏi đãi bôi - công việc thế nào?
- Thế nào á? - Trung tá nhún
vai. - Thì đấy, tôi làm sụm cả lưng, đến đứng thẳng lên còn khó đây này.
Nói thế, song ý ông muốn bảo:
mày cũng phải đoán ra là bố mày đang thèm thuốc mà cho bố mày một điếu chứ.
Sezar biếu ông một điếu. Trong
đội chỉ ông trung tá là người mà Sezar muốn kết thân, còn thì chả có người nào
để hắn có thể dốc bầu tâm sự.
- Đội 32 thiếu một người! Đội
32! - Tất cả ầm ầm lên.
Đội phó đội 32 cùng một thanh
niên nữa phóng tới xưởng sửa chữa ô tô để tìm. Còn trong các hàng tù những câu
hỏi vang lên: ai thế nhỉ? Xẩy ra chuyện gì vậy? Và rồi đến tai Sukhov: thiếu
mất một thằng cha người Mondavi nhỏ con, đen đúa. Thằng Mondavi nào nhỉ? Chẳng
lẽ là cái thằng mà người ta bảo là gián điệp cho bọn Rumani, gián điệp thật?
Gián điệp thì đội nào chả có năm
sáu mống, song toàn gián điệp đểu. Hồ sơ thì ghi là gián điệp, nhưng trên thực
tế đó chỉ là những tù binh bình thường. Sukhov cũng thuộc loại gián điệp này.
Nhưng tên Mondavi nghe nói gián
điệp thật.
Viên trường toán nhìn vào bảng
danh sách, mặt xám xịt. Nếu một tên gián điệp mà trốn thoát, thì hắn - trưởng
toán, sẽ ra sao đây?
Còn đám đông và cả Sukhov thì
nổi điên lên. Nó là cái thá gì cơ chứ, đồ chó đẻ, quân sâu bọ, đồ mạt hạng, nó
rúc vào cái mả mẹ nào để cho các bố nó phải chờ thế này? Trời tối rồi, trăng
lên rồi, sao mọc rồi, còn thằng chó này vẫn không có mặt. Mẹ nó chứ, chắc nó
thấy làm chưa đã? Ngày làm việc quá ngắn, có mỗi mười một tiếng đồng hồ, từ lúc
nhá nhem sáng tới lúc xâm xẩm tối? Cứ đợi đấy, ông toà án ông ấy lại bồi thêm
một hạn nữa để được làm khổ sai cho sướng.
Cả Sukhov cũng thấy lạ, chẳng
hiểu sao lại có giống người cứ cắm đầu mà làm không biết gì đến kẻng đến còi
nghỉ nhỉ. Anh quên mất rằng chỉ vừa mới rồi anh cũng làm việc như thế, và còn thấy
bực mình vì người ta tập hợp ở trạm gác để ra về sớm quá. Bây giờ anh đứng chết
cóng ở ngoài trời cùng mọi người, cùng chửi bới với họ và có cảm giác, nếu
thằng Mondavi bắt họ chờ thêm một tiếng nữa, và nếu lính áp tải trả nó cho họ,
thì lập tức họ sẽ xé xác thằng này, như chó sói xé xác cừu non cho coi!
Mọi người đã thấm lạnh, không
một ai có thể đứng yên, người thì dậm chân tại chỗ, kẻ thì bước lên hai bước
rồi lại lùi xuống hai bước.
Mọi người bàn tán - liệu thằng
Mondavi ấy có chạy trốn không nhỉ? Nếu ban ngày mà trốn may còn không sao, chứ
mà đợi cho bọn lính rời tháp canh thì còn lâu con ạ. Họ sẽ tìm, không thấy vết
chân để lại ở chỗ rào kẽm gai chứng tỏ có người trốn ở đó, thì họ sẽ sới tung
toàn khu lên trong ba ngày và ba ngày lính canh không được rời chỗ. Thậm chí cả
tuần.
Lệnh ấy đã ban bố, ai tù lâu, kẻ
ấy biết. Mà nói chung, tù chạy thoát thì lính áp tải cũng rồi đời, cho nên họ
sẽ truy lùng đến cùng, bỏ ăn, bỏ ngủ. Đôi khi việc tìm kiếm kéo dài làm họ cáu
tiết, và kẻ mà họ tóm được cũng chẳng thể sống sót mà trở về. Họ bắn bỏ ngay
tại chỗ.
Sezar đang thuyết phục ông trung
tá:
- Chẳng hạn, anh còn nhớ cảnh
những cặp mắt kính treo trên cột buồm chứ?(14)
- Ờ... - ông trung tá đang hút
điếu thuốc của Sezar cho.
- Hay cảnh cái xe nôi trẻ con
lăn trên bậc thang, lăn từ từ, từ từ.
- Ờ... nhưng đời sống hải quân
trong phim cứ như thể trên sân khấu rối ấy.
- Ông cũng thấy đấy, chúng ta hư
hỏng vì các kĩ xảo quay hiện đại...
- Đám sỹ quan mười người như
một, rặt tuồng hư hỏng...
- Thì hoàn cảnh lịch sử nó thế
mà!
- Thế thì ai là người dẫn dắt họ
tới cuộc chiến đấu?... Với lại cảnh những con giòi trong những miếng thịt nom
kinh chết đi được. Giòi gì mà to như giun đất lúc trời mưa. Chẳng nhẽ tất cả
những cái đó đều có thật?
- Nhưng các phương tiện điện ảnh
làm sao quay được những vật nhỏ hơn thế được.
- Tôi lại nghĩ, giá mang cái thứ
thịt ấy vào trong trại, bỏ vào nồi thay cho món cá thối nhỉ, có khi chúng
mình...
- A a a! - đoàn tù gầm lên. - U
u u!
Họ nhìn thấy từ trong xưởng sửa
chữa ô tô có ba người bước ra, có nghĩa đã tìm được tên Mondavi.
- Ê ê ê! - đám đông đứng gần
cổng la ó, chửi bới.
Khi ba người này chạy tới gần,
thì:
- Đồ mắc dịch! Đồ súc vật! Đồ
chó đẻ! Đồ cứt đái, đồ ăn hại, đái nát!
Sukhov cũng hùa vào, hét tướng
lên:
- Đồ thổ tả!
Lấy mất hơn nửa giờ đồng hồ của
năm trăm con người, đâu phải chuyện đùa!
Tên Modavi chạy tới, mặt cúi
gằm, người trông như con chuột nhắt.
- Đứng lại! - tên lính áp tải hô
to. Và hắn ghi lại: - K-460. Anh đi đâu nãy giờ?
Và hắn tiến lại gần, quay báng
súng về phía tên Mondavi.
Từ đám đông một số người vẫn
chửi tiếp:
- Đồ vô lại, thằng con hoang,
quân khốn kiếp!
Những người khác trông thấy tên
trung sĩ quay báng súng, thì vội im bặt.
Thằng Mondavi cúi gằm mặt, không
nói năng gì và bước lùi lại trước mặt tên trung sĩ. Đội phó đội 32 tiến lên
trước nó, nói:
- Thằng khốn nạn leo lên cái giá
trát trần nhà để trốn tôi, thấy ấm quá lăn ra ngủ!
Nói rồi táng luôn một quả vào
gáy thằng Mondavi.
Bằng quả đấm ấy hắn ẩy được tên
Mondavi ra khỏi viên trung sĩ.
Tên Mondavi đang lảo đảo thì một
phạm người Hung xông lên cũng từ đội 32, lấy chân đá vào đít hắn (người Hung
không khóai dân Rumani lắm).
Việc này còn khổ nhục hơn làm
gián điệp nhiều con ạ. Gián điệp thì thằng óc bã đậu nào chẳng làm được. Đời
gián điệp sạch sẽ, vui vẻ, chứ cứ thử mươi năm trong trại tù khổ sai này xem!
Tên lính áp tải hạ súng xuống,
viên trưởng toán gào lên:
- Lùi khỏi cổng! X-ế-p h-à-ng
năm!
Bọn chó, lại đếm! Còn đếm gì nữa
nhỉ? Không đếm cũng đã rõ rồi còn gì. Đoàn tù làm ầm lên. Bây giờ họ đã quên
hẳn tên Mondavi, mọi tức giận trút hết lên đầu lính áp tải. Họ cũng chẳng thèm
lùi ra khỏi cổng nữa.
- Thế là thế nào?! - Trưởng toán
áp tải gào lên. - Muốn ngồi xuống tuyết hả? Tôi sẽ cho các anh ngồi và ngồi đến
sáng.
Thằng cha này nói là làm. Đã bao
lần chúng bắt anh em ngồi rồi. Thậm chí chúng còn bắt nằm xuống và chĩa súng
vào mặt. Tất cả những chuyện đó anh em đều biết cả. Bởi thế họ bước nhích ra
khỏi cổng một chút.
- Lùi xa ra! Lùi ra! - Tên lính
áp tải giục giã.
- Ừ mà bám vào cổng để làm chó
gì nhỉ, mấy thằng đầu đất? - Phạm ở các hàng cuối bắt đầu cáu phạm ở phía trên.
Bị lính canh và đám tù phía dưới
làm găng, cuối cùng những người này đành phải giạt ra khỏi cổng.
- X-ế-p h-à-n-g n-ă-m! Một! hai!
ba!
Trăng bây giờ mới thật tỏ. Nó
toả sáng và không còn tím đỏ. Nó đang ở chót vót trên cao.
Thế là mất mẹ nó buổi tối!...
thằng Mondavi khốn nạn. Lính áp tải khốn nạn. Cuộc đời khốn nạn...
Những người ở phía trên sau khi
đã được đếm, kiễng chân nhìn xuống hàng chót xem có ba người cuối cùng không.
Cả cuộc đời của họ lúc này phụ thuộc vào điều đó.
Và Sukhov nhìn thấy, ở hàng chót
không phải ba, mà là bốn người! Anh kinh hãi bủn rủn chân tay: dư ra một thằng!
bây giờ chúng nó lại bắt xếp hàng đếm lại từ đầu! Hoá ra là thằng mót rác
Fechiukov bỏ hàng của mình chạy tới chỗ ông trung tá để mót mẩu thuốc lá. Hắn
không kịp chạy về chỗ, nên đành đứng đại vào hàng chót, cho nên mới có một
người thừa ra.
Viên trưởng toán áp tải tức giận
cho hắn một cái bạt tai.
Thế mới đúng!
Hàng chót có ba người. Mọi
chuyện đã ổn thoả, lạy Chúa lòng lành!
- Lùi khỏi cổng! - Lính áp tải
lại ra lệnh.
Song lần này đám tù nhân không
làm ầm lên nữa, họ đã trông thấy lính ra khỏi trạm gác và đang bọc lấy khu vực
ngoài cổng.
Như vậy là chúng sắp cho ra.
Chả thấy bóng dáng bọn lãnh công
đâu, cả viên giám công nữa, chỉ thấy mấy đứa trẻ đang khuân củi.
Cổng bật mở, ở phía ngoài, cạnh
các rào gỗ chắn ngang, viên trưởng toán áp tải cùng với tên kiểm soát viên làm
nhiệm vụ đếm lại một lần nữa. Hắn gào to:
- Hàng một! hàng hai! hàng ba!
Lần này mà đếm đủ thì hắn sẽ cho
bọn lính ở trên các tháp canh xuống.
Từ mấy cái tháp canh này lần về
đến trại xa thấy mẹ! Ấy thế mà chúng cứ chờ cho tên tù cuối cùng ra khỏi cổng
mới gọi dây nói cho bọn lính canh xuống. Gặp tên trưởng toán sáng dạ một tí thì
hắn giải anh em về ngay, vì biết rằng họ có trốn đằng trời, còn bọn lính canh
thể nào chẳng đuổi kịp. Nhưng nếu gặp phải thẳng đầu đất, thì hắn bắt cả đoàn
phải chờ đến cùng, vì hắn sợ có ít lính để đối phó với tù. Hôm nay gặp phải một
thằng như vậy. Thế là phải chờ.
Suốt ngày ở ngoài trời băng giá,
những người tù chỉ còn nước chết vì lạnh. Chờ cho mọi chuyện được giải quyết,
họ đã phải đứng chịu trận cả một tiếng đồng hồ. Song điều làm họ bực mình chẳng
phải vì cái lạnh, mà vì buổi tối với bao nhiêu việc định làm, đã bị mất mất rồi.
- Trung tá, sao ông biết nhiều
thế về đời sống của hải quân Anh? - Những người đứng trong nhóm năm người bên
cạnh hỏi Buinovski.
- À, chả là tôi tôi đã sống gần
cả tháng trời trên một tuần dương hạm của Anh quốc, có riêng một phòng ở đó.
Khi ấy tôi là sĩ quan liên lạc trong đoàn hộ tống.
- Ra thế! Thế cũng đủ để họ táng
cho anh hai mươi nhăm năm tù.
- Không phải, các anh không biết
đấy thôi, tôi đâu có theo thuyết tự do phê phán tư tưởng của họ. Đấy là do tôi
đưa ra những ý kiến xác đáng về luật pháp nước ta.
(Rõ đồ ngu, Sukhov nghĩ bụng,
nhưng không nói ra lời. Thằng Senka Klevsin kia sống với người Mỹ có hai ngày
mà họ còn ấn cho những bốn năm, lão sống cả tháng trời trên tầu của họ, thì
không biết sẽ phải ở trong trại bao nhiêu năm đây?).
- Thế rồi sau chiến tranh có một
ông đô đốc hải quân Anh ma xui quỷ khiến thế nào lại gửi cho tôi một món quà
nhỏ làm kỉ niệm, đề dòng chữ “Để tỏ lòng biết ơn”. Tôi hoảng hồn, chửi um lên...
Thật lạ lùng, thật lạ lùng khi
ngắm nhìn cảnh tượng: một vùng thảo nguyên mênh mông trần trụi, cả một khu vực
bị bỏ hoang, tuyết lấp lánh dưới ánh trăng. Đám lính áp tải đã đứng vào vị trí
- mỗi tên cách nhau mười bước. Đứng kia là một bầy tù đen ngòm, và cũng mặc áo
bông đen như những tù nhân khác là S - 311, cái con người trước đây đã từng mặc
lễ phục trắng có gù vai kim tuyến và từng giao du với một ông đô đốc hải quân
Ăng lê. Thế mà bây giờ ông ta phải khiêng vữa với Fechiukov.
Mới biết, con người ta, lúc lên
voi, lúc xuống chó...
Đoàn áp tải đã sẵn sàng. Không
cần giáo đầu, trưởng toán lính áp tải cứ thế hô luôn:
- Bước đều, bước! Rảo chân lên!
Bây giờ thì kệ mẹ chúng mày -
rảo chân! Đứng bét tĩ thế này các bố đây đếch cần phải vội nữa. Đám tù, chẳng
cần nói cũng hiểu nhau: tụi bay bắt chúng tao chờ, bây giờ đến lượt bọn tao bắt
chúng bay phải chờ. Bọn bay chắc cũng cần sưởi ấm lắm chứ.
- Dồn bước lên! - Viên trưởng
toán quát to. - Dồn bước, hàng đầu dồn bước lên!
Mẹ mày, đợi đấy mà “dồn bước”!
Đoàn tù đi chậm chạp, đầu gục xuống như đi đưa đám.
Bọn ta bây giờ chẳng còn gì để
mà mất, đằng nào thì cũng về trại sau cùng. Chúng bay đã không chơi đẹp với tụi
tao, thì bây giờ tha hồ rát cổ bỏng họng.
Viên trưởng toán tiếp tục hò
hét, nhưng hắn cũng biết là vô ích: bọn tù không chịu đi nhanh.
Mà bắn chúng cũng không được, là
vì chúng vẫn giữ đúng luật, đi theo hàng. Lại chẳng có cái luật nào bắt tù phải
đi nhanh cả. (Buổi sáng điều giúp tù nhân sống được, ấy là trên đường tới chỗ
làm họ đi rất chậm. Tên nào đi nhanh thì khó mà sống nổi cho tới lúc mãn hạn.
Đi nhanh người sẽ nóng lên quá mức và như thế sẽ chẳng thọ được bao lâu).
Và thế là họ cứ chậm rãi bước
đều. Tiếng ủng dẵm tuyết nghe rào rạo. Người thì khẽ nói chuyện, kẻ im lặng.
Sukhov cố nghĩ xem buổi sáng mình còn chưa kịp làm việc gì ở trại.
Cuối cùng anh nghĩ ra - trạm xá.
Thật buồn cười, trong khi làm việc anh hoàn toàn chẳng còn nhớ tới nó nữa. Giờ
này trạm xá bắt đầu khám bệnh. Mình sẽ kịp, nếu bỏ bữa tối. Nhưng bây giờ có vẻ
như không còn nhức mỏi nữa. Và nhiệt độ xem ra cũng không cao... đến trạm xá
chỉ tổ phí thời gian. Chả cần tới lũ lang băm ấy bệnh cũng tự khỏi. Loại ấy mà
chữa chỉ tổ mặc áo sáu tấm sớm.
Trạm xá bây giờ không lôi cuốn
anh nữa. Điều anh quan tâm là kiếm thêm cái gì cho bữa tối. Toàn bộ hi vọng của
anh đặt vào gói đồ tiếp tế mà Sezar nhận tối nay. Đã lâu hắn chưa nhận được gói
nào.
Hàng lối của đoàn tù bất thình
lình thay đổi. Như một đợt sóng ập tới làm loạn hết nhịp bước, đoàn người chồm
về phía trước và tất cả cùng la hét, kêu gào ầm ĩ. Cái đuôi của nó - hàng chót
năm người, trong đó có Sukhov, không đi bình thường được nữa, mà phải chạy gằn
mới kịp những người đi trước. Đi được vài bước, lại chạy. Mãi tới khi đoàn
người vượt qua khỏi quả đồi Sukhov mới vỡ lẽ: bên trái họ, ở mãi tít trong thảo
nguyên, một đoàn người làm thành một dòng đen sẫm đang tiến tới cắt ngang đoàn
của anh. Nghe chừng họ cũng nhìn thấy đoàn anh nên cũng rảo cẳng chạy.
Chắc là bọn bên xưởng cơ khí. Ở
đó có khoảng ba trăm phạm. Hoá ra chúng cũng bị giữ lại.
Nhưng bị giữ lại vì chuyện gì
nhỉ? Đôi khi vì phải làm cho xong cái máy này, máy nọ.
Nhưng cánh bên ấy vẫn còn xôm
chán, chúng làm việc trong nhà nên được ấm cả ngày.
Nào, bây giờ thì ai thắng ai
đây! Anh em bắt đầu chạy, cố gắng guồng cho nhanh. Bọn lính áp tải cũng chạy
theo. Viên trưởng toán gào lên:
- Đừng có bỏ hàng ! Đằng sau
chạy lên cho kịp! Nhập vào đoàn đi!
Ơ cái thằng này, không thấy
người ta đang chạy hộc tiết ra đây à. Có im cái mồm đi không, chẳng lại cho một
nhát vào mặt bây giờ, cạc cạc gì thế không biết? Tất cả mọi người lúc này đều
đã quên mình nói gì, nghĩ gì, họ chỉ chú tâm tới mỗi một việc: phải vượt được
bọn kia và về đến trại trước!
Mọi cái lộn tùng phèo hết cả
lên, lúc này lính áp tải cùng về phe với phạm. Còn phe kia là cái đoàn tù đang
rắp tâm vượt trước họ.
Mọi người lập tức trở nên vui
vẻ, chan hoà. Những nỗi bực dọc, uất ức nguôi dần.
- Guồng lên, guồng lên! - cuối
hàng giục đầu hàng.
Đoàn của ta đã tới được đầu phố,
còn đoàn xưởng cơ khí khuất sau dãy nhà ở. Tuy không nhìn thấy nhau, song hai
đối thủ vẫn tiếp tục cuộc đua. Chạy giữa phố đoàn ta có lợi thế hơn đối thủ.
Đường bằng phẳng lính áp tải ở hai bên cũng đỡ bị vấp. Nhất định ta phải tới
trước chúng!
Một lí do nữa khiến quân ta phải
về trại sớm hơn bọn cơ khí, bởi vì bọn này bị khám đặc biệt kĩ. Kể từ cái vụ
cắt đầu nhau trong trại, trại trưởng cho rằng chính bọn ở xưởng cơ khí đánh dao
rồi tuồn vào trại. Bởi vậy lính canh khám rất kĩ rồi mới cho chúng vào trại.
Cuối thu vừa rồi lạnh như thế, đất cứng cả lại, vậy mà họ vẫn quát chúng:
- Toán cơ khí, cởi ủng ra! Cầm
ủng vào tay!
Thế là đám tù phải đứng chân
trần cho họ khám xét. Bây giờ thời tiết băng giá, tụi lính khám theo xác suất:
- Nào, cởi chân phải ra! Còn anh
kia - chân trái!
Tên tù cởi một bên ủng và cứ thế
nhẩy lò cò một chân, dốc ngược chiếc ủng kia lên, tháo tung cả giẻ quấn chân
cho bọn lính thấy là không có dao.
Sukhov nghe đồn, không biết có
đúng hay không, rằng tù nhân bên xưởng cơ khí đã giấu dao trong cái hai cột
bóng chuyền mà chúng khuân vào trại từ dạo hè - mỗi cột mười con.
Cho đến giờ thỉnh thoảng người
ta vẫn tìm thấy dao ở chỗ này chỗ nọ trong trại.
Họ rảo bước qua câu lạc bộ mới
xây, dãy nhà ở, xưởng thợ mộc và xưởng chế biến gỗ, rẽ sang đường dẫn thẳng tới
trạm gác của trại giam.
- Hu- gu -u! - cả đoàn tù nhất
loạt hô vang.
Quân ta đã tới đích trước - đó
là chỗ cắt nhau của hai con đường. Đám cơ khí bị tụt hậu mất khoảng trăm rưởi
mét trên con đường mé phải.
Bây giờ anh em có thể đi thong
thả. Ai cũng phấn khởi, hể hả. Sự hể hả của bầy thỏ: hoá ra vẫn còn có những
con vật khác sợ ta.
Đến trại rồi. Buổi sáng như thế
nào thì bây giờ vẫn như thế, vẫn trời tối đen, những ngọn đèn xung quanh hàng
rào trại, đặc biệt ở chỗ trạm gác thì dầy đặc. Chỗ lục soát tù sáng trưng như
ban ngày.
Nhưng anh em còn chưa đến được
chỗ đó...
- Đứng lại! - Viên trưởng toán
áp tải hô lên. Và sau khi đưa tiểu liên cho một tên lính, hắn chạy lại gần đoàn
tù (có lệnh cấm không được mang súng lại gần tù). - Những ai mang củi đứng bên
phải, vất ra đây! Những người đứng phía ngoài chả muốn giấu làm gì, một bó, hai
bó rồi ba bó bay trên không. Có vài người muốn tuồn bó của mình vào phía trong,
song những người bên cạnh ngăn lại:
- Làm như thế nó lại lấy hết củi
của mọi người bây giờ! Vất cho lẹ đi!
Kẻ thù chính của phạm là ai? Là
phạm khác. Nếu các phạm không cạnh cựa lẫn nhau, thì các sếp trên khó có thể
làm gì được họ.
- Đằng trước bước! - Viên trưởng
toán hô to.
Đoàn tù bước về phía trạm gác.
Trạm gác nằm ở chỗ cắt nhau của
năm con đường. Một tiếng trước ở đây đông nghẹt người của các đội tù khác từ
chỗ làm việc trở về. Nếu những con đường này xây xong và trở thành phố, thì chỗ
trạm gác và nơi khám xét tù sẽ trở thành quảng trường chính của thành phố. Bây
giờ các đoàn tù đổ về giống khi ấy các đoàn diễu hành tiến tới quảng trường
trong những ngày lễ hội.
Bọn giám thị đã có mặt ở trạm
gác và đang sưởi. Họ bước ra và dừng lại, dàn hàng ngang trên đường.
- Mở áo bông ra! Mở áo trấn thủ
ra!
Và những đôi tay bắt đầu làm
việc. Trong khi lục soát, trông như giám thị đang ôm lấy tù, vỗ vỗ hai bên sườn
họ. Giống y như cuộc khám xét ban sáng.
Bây giờ có cởi áo ra cũng cóc
sợ, sắp về tới nhà rồi!
Tất cả mọi tù nhân đều nói như
vậy - “về nhà”.
Cả ngày làm việc ngoài công
trường làm gì có thời gian để mà nghĩ tới nhà khác.
Họ đang khám những người ở hàng
đầu, Sukhov vội đi tới chỗ Sezar và nói với hắn:
- Sezar Markovich, khi nào khám
xong tôi sẽ chạy ngay tới phòng nhận đồ để giữ chỗ cho anh nhé?
Sezar quay lại. Bộ ria đen rậm
được cắt tỉa gọn của hắn trắng xoá phía dưới:
- Giữ chỗ làm gì hở Ivan
Denisovich? Sợ hôm nay tôi không nhận được đồ.
- Không sao, cũng chẳng mất gì.
Tôi sẽ đợi mười phút, nếu anh không tới thì tôi sẽ về phòng.
(Thực ra thì Sukhov nghĩ, cho dù
Sezar không nhận được đồ, anh vẫn có thể bán chỗ cho người khác).
Rõ ràng Sezar cũng mệt mỏi vì
ngóng đồ tiếp tế, hắn nói:
- Thôi được, Ivan Denisovich,
anh chạy đi giữ chỗ. Anh cứ đợi mười phút, đừng lâu hơn.
Họ sắp soát tới nơi rồi. Hôm nay
Sukhov không giấu gì trong người, nên anh chả có gì phải lo lắng. Anh ung dung
cởi cúc áo bông, rồi áo trấn thủ, tháo chiếc thắt lưng bằng vải bạt.
Mặc dù anh không giấu cái gì bị
cấm trong người, song tám năm tù đã cho anh một thói quen cẩn trọng. Anh thọc
tay vào cái túi ở đầu gối quần để biết chắc chắn là không có gì trong đó.
Song trong đó lại có mảnh dao
anh nhặt được ở công trường. Cũng là tiếc của thì nhặt vậy thôi, chứ cũng chẳng
có ý định mang về trại.
Anh không định mang nó về. Song
bây giờ đã trót mang về, vất đi thì tiếc. Là vì có thể mài nó thành một con dao
nhỏ dùng vào việc vá giầy hay cắt quần áo đều được. Gía như anh chủ định mang
nó về trại, thì anh đã cất giấu cẩn thận. Bây giờ, chỉ còn có hai hàng nữa, và
hàng năm người đầu đã tách ra, bước tới chỗ khám xét.
Cần phải quyết định chớp nhoáng:
hoặc là nấp sau toàn năm người đằng trước, ném mẹ mảnh dao xuống tuyết (tất
nhiên chúng sẽ tìm thấy vì dấu vết in rõ trên tuyết, song sẽ không biết là của
ai), hoặc là cứ liều mang theo người! Vì miếng sắt mẻ này có thể bị mười ngày
trong nhà đá, nếu như chúng cứ nhất định bảo đó là dao.
Nhưng có một con dao nhỏ cắt
quần áo anh có thể làm thuê, kiếm cho mình thêm chút bánh mì.
Vứt đi tiếc đứt ruột, Sukhov bèn
nhét nó vào một chiếc bao tay bông.
Đúng lúc đó hàng năm người đứng
trước anh được lệnh bước lên để khám xét. Dưới ánh đèn sáng trưng chỉ còn lại
ba người: Senka, Sukhov và chàng trai ở đội 32 lúc nãy đi lùng tên Mondavi.
Chỉ còn ba người mà những năm
tên giám thị, nên có thể giở trò láu cá: chọn một trong hai tên đứng ở bên
phải. Sukhov không chọn thằng cha còn trẻ, mặt mũi hồng hào, mà chọn lão già có
bộ ria muối tiêu. Tất nhiên lão già có kinh nghiệm hơn và dễ dàng tìm ra miếng
thép, nếu lão muốn. Nhưng cũng chính vì già, làm cái nghề khám xét lâu năm, nên
có thể lão đã chán ngấy.
Lúc đó Sukhov cởi cả hai bao
tay, một bao giấu miếng thép, một bao không, nắm cả vào một tay (anh cố tình để
chiếc bao không thò ra hơn một chút), tay kia anh cởi sợi giây thừng buộc áo,
phanh rộng áo trấn thủ, vén vạt áo bông và áo trấn thủ lên cao (anh chưa bao
giờ làm cái việc hạ mình như thế ở chỗ lục soát, song bây giờ anh muốn cho
chúng thấy là anh chả có giấu cái gì trong người cả - này, nhìn đi!). Theo
lệnh, anh bước tới chỗ lão già có bộ ria muối tiêu.
Lão giám thị ria muối tiêu vỗ
khắp hai bên và lưng, nắn cái túi nơi đầu gối - không có gì, lần hai vạt áo
bông và áo trấn thủ - cũng không có gì. Cho chắc hơn lão nắn cái bao tay mà
Sukhov cố tình để chìa ra hơn - bao tay không. Trong khi lão giám thị nắn bao
tay, thì Sukhov sợ thắt cả ruột cả gan. Chỉ cần lão nắn nốt cái bao thứ hai thì
chỉ còn nước nằm nhà đá với ba trăm gam bánh mì một ngày và chỉ được ăn một bữa
nóng vào ngày thứ ba. Ngay lập tức anh hình dung mình sẽ mình sẽ bị đói lả, bị
kiệt sức như thế nào ở đó, sẽ khó khăn như thế nào để có thể trở về với cái
trạng thái không đói, không no như hiện tại. Anh thầm cầu nguyện dồn dập, lộn
xộn: “Lạy chúa, hãy cứu lấy con! Đừng để con phải vào nhà đá!”.
Tất cả những ý nghĩ vụt qua đầu
Sukhov, trong khi lão giám thị đã nắn xong chiếc bao thứ nhất, đổi tay để nắn
cái thứ hai (nếu Sukhov giữ mỗi bên tay một chiếc bao, thì chắc chắn lão sẽ nắn
cả hai chiếc cùng lúc rồi). Nhưng ngay lúc đó viên trưởng giám thị - vì muốn
cho chóng xong việc, hướng về phía bọn lính áp tải, hô to:
- Nào, cho bọn xưởng cơ khí lên!
Và thế là, thay vì nắn chiếc bao
tay thứ hai, lão giám thị ria muối tiêu phẩy tay cho Sukhov đi qua.
Sukhov chạy vội để bắt kịp người
trong đội. Họ đã đứng thành hàng năm giữa hai hàng tay vịn bằng gỗ dài trông
như chỗ buộc ngựa ở ngoài chợ, được dựng lên để lùa đoàn tù vào trại.
Sukhov chạy nhẹ bâng, không cảm
thấy đất dưới chân mình nữa. Anh chẳng kịp khấn tạ ơn, chả còn lúc nào, bây giờ
thì không phải lúc nữa rồi.
Toán lính canh áp tải đoàn của
anh lúc này đứng dạt về một phía, nhường chỗ cho bọn lính áp tải đoàn tù của
xưởng cơ khí, và chờ viên trưởng toán. Những bó củi mà họ vất xuống trước lúc
khám xét được lính áp tải thu về cho mình, còn những bó bị bọn giám thị tước
ngay trong lúc khám thì làm thành một đống ngay cạnh trạm gác.
Trăng mỗi lúc một lên cao, trong
những đêm trăng sáng như thế này, băng giá càng dữ dằn hơn.
Viên trưởng toán áp tải đi vào
trong trạm gác để kí bàn giao bốn trăm sáu mươi ba phạm, hắn nói gì đó với
Priakha - phụ tá của Volkovoi. Tên này quát tướng lên:
- K - 460!
Anh chàng Mondavi nãy giờ đứng
lủi vào giữa đoàn, thở dài đánh sượt và bước ra khỏi hàng gỗ chắn phía bên
phái. Đầu hắn vẫn cúi gằm, hai vai so lại.
- Lại đây! - Priakha chỉ cho hắn
vòng qua chỗ buộc ngựa.
Tên Modavi đi vòng trở lại.
Priakha ra lệnh cho hắn để hai tay sau lưng và đứng chờ đó. Có nghĩa hắn đã bị
buộc tội toan đào tẩu. Họ sẽ cho hắn vào nhà đá. Trước cổng trại, bên trái và
bên phải, có hai tên lính gác. Cổng cao gấp ba lần chiều cao của người thường
mở ra một cách chậm chạp và có tiếng hô:
- Xếp hàng năm! (ở đây không cần
phải hò hét “lùi khỏi cổng”, bởi vì cổng vào trại bao giờ cũng mở vào trong,
như thế để tù khỏi xô đổ). Một! Hai! Ba!...
Vào lúc điểm danh buổi chiều
này, lúc phải chờ để qua cổng trại, lúc trở về sau cả một ngày trời hứng gió,
lạnh cóng và đói khát, thì cái món cháo rau loãng hoét, nhưng còn nóng, đối với
phạm chẳng khác nào đất hạn gặp mưa rào. Chỉ húp đánh xoạt một cái là sạch
nhẵn. Cái thứ nước lõng bõng ấy giờ đây đối với họ còn quý hơn tự do, quý hơn
cả cuộc đời đã qua và sắp tới của họ. Sau khi đã qua được hết các lần cửa, họ
sải những bước dài, ồn ào, phách lối - như những người lính từ mặt trận trở về
- tốt nhất nên tránh xa họ!
Tên cần vụ trên trại chỉ huy
nhìn thấy làn sóng tù đổ vào trại cũng phải phát khiếp. Từ sáu rưỡi sáng, lúc
điểm danh lần đầu, cho tới lúc này - sau khi đã điểm danh lại, phạm mới được
trở về với bản thân, anh ta thành người tự do. Họ đi qua cái cổng lớn bên
ngoài, cổng nhỏ bên trong, băng qua sân, qua hai hàng tay vịn bằng gỗ, rồi ùa
vào những nơi mà họ cần.
Tất cả mọi người đi tới chỗ họ
cần, trừ các đội trưởng. Họ bị tay trực ban giữ lại:
- Các đội trưởng lên Ban Kế
họach Sản xuất!
Tức là họ phải lên để nhận phần
việc cho ngày hôm sau.
Sukhov chạy qua khu nhà đá, giữa
các dãy phòng giam, đến bộ phận phát đồ tiếp tế. Còn Sezar đủng đỉnh đi về phía
khác, nơi có rất nhiều người bu quanh một cái cột, trên đó có đóng một tấm bảng
bằng ván ép. Tên tất cả những người có đồ tiếp tế được ghi bằng bút chì trên
tấm bảng này.
Trong trại giấy ít khi được dùng
đến. Người ta hay dùng ván ép hơn. Phần vì viết trên đó chữ nghĩa nom cứng cáp
và đúng hơn. Những tên kiểm công và cai ngục kiểm đầu tù cũng viết trên ván ép.
Phần làm như vậy tiết kiệm hơn, ngày hôm sau bảng được lau sạch và người ta lại
tiếp tục viết lên đó.
Những phạm nào không phải làm
việc ở bên ngoài có thể kiếm chác chút đỉnh xung quanh cái cột này. Họ đọc danh
sách xem ai có đồ tiếp tế, rồi chạy ra sân trại đón và thông báo ngay cho anh
ta số của gói đồ. Kiếm được cũng chẳng nhiều nhặn gì, mỗi lần cũng được đôi ba
điếu thuốc.
Sukhov tới phòng nhận đồ. Đó là
chái nhà một mái xây gắn vào trại, hành lang có vách ngăn. Hành lang phía ngoài
không có cửa, gió lạnh cứ thế thốc thẳng vào, song đứng ở đây cũng không đến
nỗi nào, vì có mái che ở trên. Mọi người đã đứng xếp hàng và ai cũng nép vào
tường. Sukhov đứng vào hàng. Có mười lăm người đứng trước anh, như vậy đến được
lượt mình cũng phải mất hơn một tiếng, vừa vặn tới giờ nghỉ. Nếu ai trong đoàn
của Sukhov mà có đồ, thì chắc chắn họ phải đi xem danh sách trước đã, như vậy
họ phải đứng sau anh.
Còn đám xưởng cơ khí đứng sau
anh là đương nhiên rồi. Hội này có thể phải xếp hàng tới lần thứ hai vào sáng
sớm mai thì mới nhận được đồ.
Những người đứng xếp hàng tay
cầm nào bao, nào túi. Phía trong, đằng sau cửa (bản thân Sukhov ở trong trại
này chưa một lần nhận được đồ tiếp tế, nhưng anh nghe thấy người ta nói lại) có
một tên giám thị nậy hòm đựng đồ tiếp tế bằng một cái rìu nhỏ, rồi lấy hết đồ
ra xem xét từng món một. Thứ thì hắn cắt, thứ thì bẻ, thứ nắn, thứ đổ ra. Nếu
là đồ nước đựng trong chai lọ thuỷ tinh hay hộp sắt tây thì hắn cứ thế đổ, mặc
anh lúc ấy vội khum hai tay hay giơ túi ra mà hứng. Họ không đưa chai lọ nguyên
cho người nhận, chẳng biết sợ cái gì.
Nếu có bánh kẹo, giò, hay cá
khô, thì thể nào bọn giám thị cũng cấu véo (cứ thử kêu ca, phàn nàn xem, chúng
sẽ bảo đồ của anh bị cấm, không được phép nhận và không đưa cho anh nữa). Người
nào nhận được đồ tiếp tế cũng phải biếu xén từ trên xuống dưới, bắt đầu từ bọn
giám thị. Sau khi lục soát kĩ gói đồ, nào chúng có đưa cái thùng gỗ cho ta đâu,
mà ta phải chất các thức vào trong bao, hay đựng bằng vạt áo khoác bông rồi
phắn ngay để người tiếp theo còn vào nhận. Lắm lúc vì họ giục ghê quá có người
còn bỏ sót thứ gì đó trên quầy, lúc ấy thì đừng có mất công trở lại mà tìm. Làm
gì còn ở đấy nữa.
Hồi còn ở Ust - Izima, Sukhov có
nhận được đồ tiếp tế đôi ba lần. Sau anh phải biên thư nói vợ đừng gửi nữa, vì
đến được tay anh còn lại cũng chẳng là bao, thà để ở nhà cho con nó ăn còn hơn.
Mặc dù hồi còn ở nhà anh nuôi cả gia đình dễ hơn là bây giờ ở đây anh tự nuôi
thân một mình, song anh cũng hiểu là những gói đồ đó đáng giá như thế nào,
không thể suốt mười năm ăn bớt phần của vợ con như thế. Thà anh chịu nhịn còn
hơn.
Nghĩ là thế, nhưng cứ mỗi lần
trong đội hay trong trại giam của anh có ai nhận được đồ tiếp tế - mà hầu như
ngày nào cũng có - anh vẫn cảm thấy tủi tủi vì người ấy không phải là anh.
Mặc dù nghiêm cấm vợ gửi đồ cho
mình, thậm chí cả vào dịp lễ Giáng sinh, và không bao giờ bén mảng tới cây cột
có treo cái bảng danh sách đó, trừ phi đi xem hộ cho những phạm khá giả hơn, -
không hiểu sao anh vẫn cứ ngóng chờ ai đó chạy tới bảo anh:
- Sukhov! Sao không đi nhận? Anh
có một gói đồ đấy!
Song chẳng có ai chạy tìm anh
cả...
Chính vì thế anh càng ít lí do
hơn mà nghĩ về cái làng Temgenyvo và cái nhà gỗ của mình.
Sống trong trại đầu tắt mặt tối
suốt từ lúc kẻng báo thức cho tới lúc tắt đèn đi ngủ, anh làm gì còn thời gian,
sức lực để mà nhớ tới những kỉ niệm ngọt ngào. Lúc này anh đang đứng giữa những
người đang trấn an cái bụng của mình bằng niềm hi vọng họ sắp được ngoạm những
miếng mỡ lợn muối, phết bơ lên những lát bánh mì hay uống cốc trà tướng pha
đường. Còn Sukhov thì chỉ có một mong muốn duy nhất: kịp về nhà ăn với đội của
mình để kịp húp bát súp loãng còn nóng, chứ để nó nguội thì thật uổng. Súp mà
nguội thì chỉ còn phân nửa so với súp nóng.
Anh tính toán, nếu Sezar không
tìm thấy tên mình trong bảng danh sách những người có đồ, thì anh ta đã về trại
từ lâu rồi và đang rửa ráy. Còn tìm thấy, thì chắc anh ta đang nhặt nhạnh bao,
túi, ca nhựa, chậu nhựa. Sukhov hứa đợi anh ta mười phút, đủ thời gian để anh
ta làm những việc đó.
Đứng ở trong hàng, Sukhov nghe
được một tin mới rằng chủ nhật này toàn trại không được nghỉ. Thế là họ lại
chiếm dụng một ngày chủ nhật nữa của phạm. Việc này chả có gì lạ, ai cũng biết tháng
nào có năm chủ nhật thì họ chỉ cho nghỉ ba, còn hai ngày xua tù nhân đi làm.
Vẫn biết là như vậy, nhưng nghe
được tin này anh vẫn thấy nôn nao, choáng váng: mất mất ngày chủ nhật của mình
ai mà chẳng thấy tiếc? Dù rằng, như mấy người trong hàng nói đúng, dù rằng có
được nghỉ, thì họ vẫn cứ nghĩ được ra việc cho phạm làm ngay ở trong trại, như
cất một cái nhà tắm mới, hay xây một bức tường để chắn không cho phạm đi qua
chỗ nào đó, hoặc quét dọn sân trại. Không thì lột đệm đem ra ngoài trời mà rũ
cho lũ rận chết rét.
Hoặc để cho người ta kiểm tra,
nhận diện mình xem có khớp với hồ sơ tài liệu hay không.
Hoặc họ bày ra cái trò kiểm điểm
đồ dùng của phạm. Thôi thì chổi cùn rế rách phải lôi ra sân tuốt tuột mất đến
cả nửa ngày trời.
Có lẽ điều làm các ông cấp trên
khó chịu nhất, đó là việc tù nhân ăn sáng xong lại tiếp tục ngủ vùi.
Hàng người dù chậm chạp, song
vẫn di chuyển. Có ba tên vừa tới, chả hỏi han ai, chen ngay lên hàng đầu. Một
tên là thợ cắt tóc trong trại, một tên là kế toán, còn tên thứ ba làm ở Ban Văn
hoá Giáo dục của trại. Đó không phải là loại phạm khố rách áo ôm, mà là loại
phạm có máu mặt, và cũng là những kẻ khốn nạn nhất hạng có mặt trong trại. Anh
em coi bọn này còn bẩn hơn cứt (chúng cũng coi anh em như vậy). Song cãi cọ với
bọn này chỉ vô ích:
chúng cấu kết với nhau và ăn
cánh với đám giám thị.
Đằng trước Sukhov còn mười người
nữa, sau anh có bẩy người. Bây giờ Sezar mới tới, cúi người bước vào, đầu đội
chiếc mũ lông mới của nhà gửi cho. (Lại nói chuyện mũ. Sezar đã đút lót cho kẻ
nào đó nên được đội chiếc mũ kiểu thành phố sạch sẽ, mới toanh của mình. Chứ
còn những tù nhân khác, thậm chí những người bị đưa thẳng từ mặt trận tới, cũng
bị lột mất mũ, thay vào là loại mũ da lợn bẩn thỉu, tồi tàn).
Sezar mỉm cười với Sukhov và
ngay lập tức bắt chuyện với một gã gàn dở đứng trong hàng và đọc báo suốt:
- A, a! Petr Mikhailych!
Tay bắt mặt mừng, họ cười
tươi như hoa. Gã gàn dở khoe:
- Xem đi, tôi có Tin tức buổi
chiều mới đây! Vừa nhận được bưu phẩm xong.
- Thế á!? - Lập tức Sezar chúi
mũi ngay vào tờ báo. Đèn trần thì lờ mà lờ mờ, họ đọc thế quái nào được những
chữ nhỏ li ti như thế kia nhỉ?
- Ở đây có một bài nhận xét hết
sức thú vị về buổi công diễn của Zavadski(15)...
Mấy cha người Moscva này, từ
đằng xa đã đánh hơi thấy nhau, giống in bọn chó. Và khi tới gần thì cứ xán vào
nhau mà ngửi lấy ngửi để theo kiểu của mình. Rồi anh nào anh ấy liến thoắng như
thể thi xem ai nói được nhiều hơn. Suốt cả câu chuyện chỉ có được vài từ tiếng
Nga, nghe họ cứ như dân LEstoni hay dân Rumani nói chuyện vậy.
Tuy nhiên, Sezar không quên mang
theo bao và túi.
- Sezar Marcovich... thế tôi đi
nhé - Sukhov nói giọng đơn đớt. - Tôi đã đi được chưa, hở anh?
- Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi,
- Sezar vểnh bộ ria đen khỏi tờ báo. - Có điều tôi đứng sau ai? Ai đằng sau tôi?
Sukhov chỉ cho hắn đứng sau ai
và trước ai, rồi không đợi Sezar nhớ tới bữa tối, anh hỏi luôn:
- Có mang bữa tối về cho anh
không?
(Tức là bữa tối đựng trong một
cái hộp được mang thẳng từ nhà ăn về trại xá. Thực ra việc làm này bị nghiêm
cấm và xung quanh nó hết luật nọ đến luật kia được ban ra. Nếu họ bắt được anh
mang thức ăn về phòng, lập tức họ sẽ đổ xuống đất, còn anh sẽ bị phạt nhốt nhà
đá. Cấm như vậy song anh em vẫn cứ lén mang bữa tối về, bởi nhiều khi có ai đó
bị kẹt công chuyện sẽ chả có cách nào kịp về ăn với đội của mình).
Sukhov hỏi Sezar, song trong
bụng lại nghĩ: “chả nhẽ ông lại bần tiện tới mức không biếu lại cho tôi xuất
tối được sao? Bữa tối nào có cái gì, cháo không, chỉ rặt canh rau loãng
hoét!...”.
- Không, không, - Sezar mỉm
cười, - anh cứ giữ lấy xuất của tôi mà ăn, Ivan Denisych!
Sukhov chỉ chờ có thế! Bây giờ
anh như con chim tự do lao vụt khỏi mái hiên nhà - và bay khắp khu trại.
Anh em phạm tản mát khắp mọi nơi
trong trại. Có một dạo trại trưởng ra một cái lệnh nghiêm cấm phạm đi lại một
mình trong trại, đi đâu cả đội phải xếp hàng cùng đi, trừ nhà xí và trạm xá là
những nơi toàn đội không thể vào cùng lúc được, thì có thể đi thành từng tốp
bốn năm người một. Mỗi tốp phải cử ra một toán trưởng, người này có trách nhiệm
đưa anh em đến nơi nào cần đến, đợi họ và lúc về cũng phải xếp hàng mà về.
Lão trại trưởng bắt mọi người
tuân theo cái luật kì cục này rất nghiêm ngặt, không một ai dám làm trái ý lão.
Anh nào lớ ngớ đi một mình để giám thị vồ được, thì nhà đá chờ anh ta là cái
chắc. Nhưng rồi lệnh đó bị cũng bị bãi bỏ. Không bị bỏ ngay lập tức, mà dần
dần, như tất cả những cái lệnh đao to búa lớn và thậm vô lí khác. Chẳng hạn,
khi chúng gọi một ai đó lên, chẳng nhẽ lại phải lôi cả đội lên theo, hay ai đó
đi lĩnh đồ tiếp tế cũng lại bắt cả đội đi cùng với mình. Hoặc người này muốn
tới Ban Văn hoá Giáo dục để đọc báo, song ai là người đi theo anh ta tới đó?
Còn người kia lại muốn đi chữa đôi ủng hay phơi quần áo. Rồi lại còn có những
tay chỉ muốn sang các trại khác để tán gẫu (việc này nghiêm cấm hơn cả), ai mà
quản cho được.
Bằng cái lệnh ấy viên trại
trưởng muốn cướp đi cái tự do cuối cùng, song hắn, cái lão bụng phệ ấy, đã
không đạt được.
Trên đường về, Sukhov chạm trán
một tên giám thị, anh vội bỏ mũ chào hắn rồi chuồn lẹ vào trại mình. Trong trại
hệt như đang họp chợ: kẻ kêu trong khi đi làm bị mất mất phần bánh mì và chửi
bới bọn cần vụ om sòm. Bọn này cũng chửi trả lại ác liệt. Cái góc của đội 104
không có ai.
Đối với Sukhov buổi tối nào đi
làm về mà cái nệm giường của mình không bị lật tung lên, ấy là một buổi tối may
mắn - chỗ của mình đã không bị lục soát.
Sukhov chạy về giường, vừa chạy
vừa cởi áo bông. Anh ném chiếc áo và bao tay có giấu miếng sắt rồi lần tay vào
bên trong nệm. Miếng bánh vẫn còn. May mà buổi sáng anh đã kịp khâu lại.
Bây giờ thì yên trí mà chạy ra
ngoài, tới nhà ăn ngay!
Anh chạy ngang qua sân trại,
không đụng một tên giám thị nào. Chỉ gặp anh em phạm đi ngược chiều đang cãi vã
nhau về khẩu phần.
Trên trời, trăng mỗi lúc một tỏ.
Những ngọn đèn mờ đi và bóng các trại đổ dài xuống sân.
Lối dẫn vào nhà ăn dưới một mái
che lớn, có bốn bậc thềm cũng nằm trong bóng tối. Nhưng phía trên có một chiếc
đèn chiếu sáng đung đưa trong giá lạnh. Xung quanh bóng đèn có những quầng sáng
trông như tán cầu vồng, không hiểu do khí trời lạnh hay do bóng đèn bẩn.
Viên trại trưởng còn ban bố một
cái lệnh khắc nghiệt nữa: tất cả các đội phải xếp hàng hai để đến nhà ăn, và
khi tới bậc thềm, trước cửa nhà ăn, các đội chuyển thành hàng năm đứng đó đợi
cho tới khi tên cần vụ nhà ăn cho vào bên trong. Bám chặt lấy công việc này là
tên Thọt. Cũng chẳng biết hắn chạy chọt như thế nào để được xếp vào loại phạm
tàn tật, chứ thực ra hắn đâu có đến nỗi nào. Hắn có một cái roi làm bằng cành
bạch dương và đứng trên bậc thềm nhà ăn vụt vào những ai không nghe lời hắn.
Song không phải ai hắn cũng đánh.
Mắt tên Thọt này rất tinh, hắn
có thể nhận ra trong bóng tối, đằng sau lưng, những ai cần phải tránh. Đó là
những người sẵn sàng cho hắn một quả vào mõm. Hắn chỉ đánh những kẻ hèn yếu.
Sukhov cũng đã bị hắn phang cho một lần rồi.
Gọi là “cần vụ”, song xét cho
cùng hắn là bố tướng! - hắn bắt thân với bọn đầu bếp!
Bữa tối nay có nhiều đội đến
cùng lúc, mãi mà bọn chúng không ổn định được trật tự. Phạm đứng đầy chật ở
ngoài hiên. Không có giám thị, chỉ có bọn đầu cứt là tên Thọt, tên tù giúp việc
cho hắn và tên quản lí nhà ăn đang hò hét hướng dẫn anh em.
Tên quản lí nhà ăn là một thằng
khốn, to như hộ pháp. Đầu hắn như quả bí ngô, vai ngang một thước. Hắn nhiều
sức lực tới mức không đi như người bình thường mà cứ nhún nhẩy như thể chân tay
hắn được gắn lò so. Hắn đội một chiếc mũ lông trắng không đánh số. Dân “bên
ngoài” cũng chằng có mấy người có được cái mũ như thế. Hắn còn mặc một chiếc áo
khoác lông cừu, số tù đính ở trên ngực nhỏ bằng con tem, - đây là sự nhượng bộ
đối với Volkovoi, - đằng sau lưng áo hoàn toàn không số. Tên quản lí nhà ăn
chẳng bao giờ chào hỏi một ai và tất cả các phạm đều sợ hắn. Cả ngàn sinh mạng
nằm trong một tay hắn. Có lần anh em tính cho hắn ăn trận đòn hội chợ, nhưng cả
bọn đầu bếp ùa ra cứu hắn, cái bọn mặt thịt nung núc ấy.
Bây giờ mà đội 104 đã vào nhà ăn
rồi thì gay to. Thằng Thọt này thuộc mặt cả trại, và chừng nào có mặt tên quản
lí nhà ăn, thì dù có trà trộn vào đội khác cũng đừng hòng lọt khỏi mắt hắn. Hắn
loại anh ra ngay. Cũng có người trèo qua hàng tay gỗ vịn đằng sau lưng tên Thọt
để lọt vào nhà ăn, song có tên quản lí ở đấy thì đừng có hòng thoát, hắn còn
tống cho anh một quả bắn sang tận trạm xá trại như chơi.
Phải chạy cho thật nhanh, thật
nhanh tới cái hiên kia, chen vào đám đông đen ngòm áo khoác bông, người nào
cũng giống như người nào, để xem xem đội 104 có còn đó không.
Nhưng người các đội đang đứng
chật cứng (không chen vào đâu được, thì sắp hết giờ rồi còn gì!), thật chẳng
khác gì một trận công đồn, tiến lên được một bậc, hai bậc, ba bậc, rồi bốn bậc,
lên tới hàng hiên rồi!
- Dừng lại, mấy thằng chó! -
Thằng Thọt gào lên, tay vung roi trên đầu những người đứng ở phía trên. - Có
lùi lại không, tao cho một nhát nát đầu bây giờ!
- Chúng tôi làm gì nào? - Những
người phía trên cũng gào lên. - Đằng sau họ chen lên đấy chứ!
Thì ai chẳng biết là đằng sau
chen lên, nhưng mấy cha ở trên nào có chống trả gì đâu, cũng muốn được chen bật
vào bên trong chết cha đi. Khi đó thằng Thọt cầm ngang cây gậy đưa lên ngực như
một thứ rào cản và dùng hết sức đẩy những người phía trên lùi lại. Tên giúp
việc cũng nắm lấy cây gậy đẩy giúp hắn, và tên quản lí nhà ăn không ngại bẩn
tay cũng nắm lấy cây gậy và không ngại bẩn mồm, chửi bới loạn xị ngậu.
Ba tên ra sức đẩy, sức lực chúng
có thừa, thì có bao nhiêu thịt chúng đớp hết cả, làm gì chẳng thừa sức. Những
người phía trên bị xô vào những người đằng sau, cả bọn cũng ngã xuống như những
con quay.
- Mẹ cha thằng Thọt! - Một vài
người trong đám đông chửi hắn, nhưng không dám chường mặt ra. Những người khác
im lặng ngã, im lặng đứng dậy, cố gắng cho thật nhanh để khỏi bị giẫm lên.
Các bậc thềm quang hẳn. Viên
quản lí quay vào bên trong nhà ăn, còn thằng Thọt thì đứng trên thềm gào thét:
- Xếp hàng năm, đồ con lừa, đã
bao nhiêu lần nói với chúng mày rồi hả!? Khi nào được thì người ta khắc cho vào!
Sukhov nhìn thấy ở tận trên cùng
hình như là cái đầu của Senka Klevsin. Anh mừng quá, vội vàng chen vai, huých
cánh, cố len lên trên, nhưng chỉ thấy toàn những lưng là lưng đang chuyển động
phía trước. Chẳng còn hơi sức đâu mà chen lên được.
- Đội hai mươi bẩy! - Thằng Thọt
hét, - đi vào!
Đội 27 chạy vọt qua các bậc
thềm, xô nhau tiến gần tới cửa nhà ăn. Những người đằng sau lại tiếp tục xô
lên, những người ở đằng sau nữa ra sức đẩy. Sukhov cũng lấy hết sức mà đẩy.
Bậc thềm rung chuyển, bóng đèn
mắc trên mái hiên đung đưa.
- Lại đẩy nhau, bọn khốn kiếp
này!
Thằng Thọt nổi cơn điên, thế là
cây gậy cứ thế phang xuống, kẻ trúng vai, người trúng lưng, lại ngã rạp xuống.
Lại quang quẻ.
Từ phía dưới Sukhov nhìn thấy
Pavlo đã tiến tới bên tên Thọt. Pavlo đảm nhiệm việc đưa đội vào nhà ăn. Turin
không thích dây vào những chỗ lộn xộn như thế này.
- Đội một lẻ bốn, xếp thành hàng
năm!- Pavlo đứng trên hét xuống. - Các bạn, tránh ra một chút để anh em đi qua!
Bạn bè cái củ chuối, đợi đấy!
- Ê, tránh cái lưng ra, cho qua
nào! Đội của tôi đấy! - Sukhov giật người đằng trước. Người này sẵn lòng cho
anh đi qua, song anh ta cũng bị kẹt cứng tứ phía.
Đám đông nghiêng ngả, bóp cổ
nhau để giành cho được bát súp rau loãng. Bát súp hợp pháp.
Khi đó Sukhov bèn xoay cách
khác: anh bám chặt lấy cầu tay vịn mé trái bậc thềm, đu người lên rồi chuyền
bổng sang phía bên kia. Chân anh đập phải đầu gối ai đó, họ đạp lại anh cùng
với những tiếng chửi rủa, nhưng anh đã lên được phía trên, đứng một chân trên
cái bậc trên cùng và đợi. Anh em trong đội nhìn thấy anh liền chìa tay ra đón.
Tên quản lí ngó ra ngoài cửa:
- Ê, Thọt, cho thêm hai đội vào!
- Đội một lẻ bốn! - Tên Thọt hô
to. - Còn mày, thằng khốn nạn kia, định lẻn đi đâu thế hả?!
Và ngọn roi lại vút trên cổ một
người đội khác.
- Một lẻ bốn! - Pavlo gào lên và
cho những người đội mình đi qua cửa.
- Ph-ù! - Sukhov đã lọt được vào
nhà ăn. Và không đợi Pavlo bảo, anh vội đi kiếm những chiếc khay không. Bên
trong nhà ăn, như mọi khi, khói bốc từng đám ở phía cửa ra vào, xung quanh bàn
ăn phạm ngồi chật cứng, như thể hạt hướng dương xếp trên đài hoa, còn ở lối đi
giữa các bàn người đi lại, tay bê những khay đầy chặt bát, chen lấn, xô đẩy lẫn
nhau..
Nhưng Sukhov, với ngần ấy năm tù
đày, đã quen với cảnh đó. Mắt tinh như mắt cú, ngay lập tức anh nhìn thấy S-208
bưng cái khay trên đó chỉ có năm bát, có nghĩa đó là khay cuối cùng của đội
hắn, nếu không thì tại sao khay lại không đầy?
Sukhov chạy lại phía hắn và ghé
vào tai hắn nói:
- Anh bạn! Xong cho tớ cái khay
nhé, tớ xếp hàng sau cậu đấy!
- Nhưng có người đứng ở cạnh cửa
tò vò xí phần rồi, tôi đã hứa...
- Tọng giầy vào mồm nó thì có.
Cho nó chờ, đứng đấy mà ngáp!
Sukhov đã dàn xếp xong.
Tay này bê khay tới bàn của
đội mình, bày bát lên, Sukhov giật vội lấy chiếc khay không.
Nhưng ngay lúc ấy tên xí trước
chiếc khay chạy tới, chộp lấy đầu kia của chiếc khay, giằng lại. Song hắn nhỏ
con và ốm yếu hơn Sukhov. Sukhov dùng chiếc khay đẩy mạnh về phía hắn khiến hắn
bắn văng vào cột nhà, tay rời khỏi chiếc khay. Sukhov cắp khay vào nách chạy vù
ra phía cửa sổ phát đồ ăn.
Pavlo đã đứng xếp hàng và đang
bực mình vì chưa kiếm được khay. Hắn mừng rơn khi nhìn thấy Sukhov mang khay
tới:
- Ivan Denisovich! - Hắn gọi và
đẩy đội phó đội 27. - Cho lên cái nào! Không có khay thì đứng ở đây làm gì? Tôi
có khay đây này!
Thằng lỏi con Gopchik cũng vác
về thêm một khay nữa, miệng cười toét:
- Các chú ấy không để ý, thế là
cháu chớp luôn!
Thằng Gopchik này sẽ trở thành
một phạm chân chính đây. Chỉ cần ba năm nữa thôi, đợi lớn thêm một chút, học đủ
được các mánh khoé, xảo thuật trong tù, thì bét nhất hắn cũng giành được cái
chân chia bánh mì, có khi còn hơn thế.
Chiếc khay thứ hai Pavlo bảo đưa
cho Ermolaiev - một phạm người Siberi to lớn (cũng bị tù vì tội bị quân Đức bắt
làm tù binh). Còn Gopchik được phái đi kiếm lấy cái bàn nào đã “dùng bữa” xong.
Sukhov đẩy chiếc khay qua lỗ cửa tò vò và đứng đơi.
- Một lẻ bốn! - Pavlo nói chõ
vào phía trong cửa.
Có tất cả năm lỗ cửa tò vò: ba
cửa phát đồ ăn chung, một cửa giành phát thức ăn cho những người ốm (có mười
tên đau dạ dày thực sự được phát đồ ăn đặc biệt, bọn trên bộ phận tài vụ thì do
chạy chọt mà lọt được vào danh sách này), còn một cửa để trả lại bát đĩa đã
dùng (ở cửa này chen chúc những kẻ mót thức ăn thừa, bọn liếm đĩa). Những lỗ
cửa tò vò không cao lắm, chỉ nhỉnh hơn thắt lưng một chút, nên mặt bọn đầu bếp
không nhìn rõ, chỉ thấy những cái tay cầm môi.
Một tên đầu bếp có bàn tay trắng
muốt, mềm mại, nhưng đầy lông và to tướng. Một võ sĩ quyền anh đúng hơn là một
đầu bếp. Hắn cầm lấy bút chì đánh dấu danh sách treo trên tường:
- Một lẻ bốn - hai mươi tư bát!
Thằng Panteliev cũng có mặt ở
trong nhà ăn. Hắn có đau ốm gì đâu, đồ chó đẻ.
Tên bếp cầm một cái môi to tướng
áng chừng múc được ba lít, khuấy đi khuấy lại vạc súp (chiếc vạc trước mặt hắn
còn mới, súp vừa đổ vào đầy gần tới miệng, hơi bốc nghi ngút).
Sau khi đổi sang chiếc môi múc
được 750 gram, hắn bắt đầu múc súp, nhưng không ấn môi sâu xuống dưới.
- Một, hai, ba, bốn...
Sukhov để ý ngó xem tô nào múc
trước khi cái kịp lắng xuống đáy vạc, tô nào lèo tèo tí cái, còn lại toàn nước.
Anh đặt mười bát lên khay và bê đi. Gopchik vẫy anh từ chiếc bàn cạnh dãy cột
thứ hai:
- Lại đây, chú Ivan Denisovich!
Lại đằng này!
Bê mấy bát súp tay không được
run. Sukhov tay bưng khay, bước như lướt, cố không va vào ai và cố không để súp
sánh ra ngoài:
- Ê, K- 902! Cẩn thận tí ông
bác!... Nhường đường nào, chàng trai!
Trong đám đông bưng một bát
không làm sánh, làm đổ đã là khó, đằng này những mười bát.
Cuối cùng khay súp cũng hạ cánh
an toàn xuống cuối chiếc bàn đã được Gopchik dọn sẵn, không rớt ra ngoài lấy
một giọt. Thêm nữa, Sukhov cũng đã chọn được cái góc để đặt khay, sao cho hai
bát súp có nhiều cái nhất ở ngay chỗ anh sẽ ngồi.
Và Ermolaev cũng mang tới mười
bát nữa. Gopchik chạy tới lỗ cửa tò vò, cùng Pavlo mỗi người bưng nốt hai bát.
Còn Kildigs bê một khay bánh mì tới. Hôm nay bánh được phát theo năng xuất -
người được hai trăm gram, người ba trăm, còn Sukhov được bốn trăm. Anh nhận lấy
phần của mình, chỗ bánh có nhiều cùi ngon, còn hai trăm gram của Sezar anh chọn
phần giữa bánh.
Bây giờ anh em trong đội từ khắp
các bàn chạy tới lĩnh xuất tối của mình, rồi ai kiếm được chỗ ở đâu thì ngồi
đấy mà ăn. Sukhov chia súp cho anh em, để ý xem ai đã nhận phần rồi và canh
chừng cái bát đã chọn sẵn cho mình. Anh cắm chiếc thìa vào một bát có nhiều
cái, coi như đã xí phần. Fechiukov là một trong những người đầu tiên tới nhận
phần rồi đi luôn: hắn biết chẳng hòng mong được thêm miếng thừa nào ở cái đội
này cả, tốt nhất lượn khắp nhà ăn, may ra còn kiếm được của bỏ mứa của ai đó -
của này lắm lúc bị vài người chạy tới giành giật chẳng khác gì lũ diều hâu.
Sukhov tính toán các suất chia
với Pavlo. Nghe chừng ổn thoả cả. Anh chọn một bát có nhiều cái cho đội trưởng
Turin. Pavlo đổ bát súp vào một cái cà mèn dẹt của quân đội Đức - thứ này nhét
vào phía trong áo khoác, sát chỗ ngực, dễ mang đi hơn.
Khay đựng đồ ăn được chuyển cho
đội khác. Pavlo ngồi xuống ăn khẩu phần đúp của mình.
Sukhov cũng có hai suất. Họ
không nói thêm một lời nào với nhau nữa. Giây phút thiêng liêng đã tới.
Sukhov cởi mũ, kẹp vào giữa hai
đầu gối. Anh lấy thìa ngoáy thử một bát, rồi bát kia. Không đến nỗi nào, còn
nhìn thấy thấp thoáng vài mẩu cá. Nhìn chung súp bữa tối bao giờ cũng loãng hơn
bữa sáng: bữa sáng phải cho phạm ăn no để mà làm việc, chứ bữa tối thì làm cái
quái gì, chỉ có việc lăn ra mà ngủ như chết, ăn thế nào chẳng được.
Sukhov bắt đầu ăn. Thọat đầu anh
húp thứ nước lõng bõng ở trên, húp cho cạn. Hơi ấm lan khắp cơ thể anh - toàn
thể lục phủ ngũ tạng của anh run rẩy đón chờ cái thứ nước súp này.
Ôi chà, mới ngon làm sao! Nó
đấy, cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đấy, tù nhân chỉ vì nó mà sống thôi đấy! Lúc
này Sukhov không còn thấy oán hận gì cả: cả cái thời hạn lê thê, cả cái ngày
dài đằng đẵng, cả cái chủ nhật không được nghỉ. Lúc này trong đầu anh chỉ một ý
nghĩ: sẽ qua được! Rồi ta sẽ qua được hết, Chúa trời mà thương rồi cũng sẽ tới
ngày mãn hạn!
Sau khi húp hết nước ở bát thứ
nhất, anh húp luôn bát thứ hai, sau đó trút hết chỗ cái của bát này sang bát
kia, dùng thìa vét cho sạch nhẵn. Như thế yên tâm hơn, khỏi phải canh chừng cái
bát thứ hai, khỏi phải giữ nó bằng tay, bằng mắt.
Rảnh mắt Sukhov ngó sang bát súp
của những người bên cạnh. Người ngồi bên trái anh nhận được một bát tinh những
nước là nước. Bọn khốn kiếp, chúng đối đãi với anh em cùng cảnh tù với mình như
thế đấy!
Sukhov bắt đầu ăn những miếng
bắp cải cùng những thứ còn lại trong bát. Anh còn được cả một củ khoai tây
trong cái bát mà Sezar cho anh. Một củ khoai tây không to lắm, loại khoai chết
rét, sường sượng, đã mất vị ngọt. Và chả có miếng cá nào, chỉ loáng thoáng vài
cái xương không dính thịt. Nhưng dù là một cái xương nhỏ, cái vây nhỏ, cũng cố
mà nhai, mà hít lấy chút nước ngọt - bổ lắm đấy. Tất nhiên, làm tất cả những
thứ đó mất thời gian thật, nhưng bây giờ Sukhov đâu có vội. Hôm nay là một ngày
lễ đối với anh: bữa trưa anh xoay được thêm một suất, bữa tối anh cũng lại kiếm
được thêm một suất nữa. Làm được việc này thì các việc còn lại đều có thể dẹp
đi được. Có điều phải tới chỗ thằng cha Latvi để mua lấy ít thuốc lá. Đến sáng
chắc sẽ chẳng còn sợi nào.
Sukhov ăn bữa tối không đụng đến
khẩu phần bánh mì: đã được hai suất súp, lại còn ăn thêm bánh mì thì bổ quá.
Bánh mì để dành cho sáng mai. Cái bụng là một kẻ vô ơn, rất mau quên việc thiện
ta làm cho nó, sáng mai lại nheo nhéo đòi ăn ngay cho mà xem.
Sukhov ăn sắp hết hai suất súp
của mình và chẳng buồn nhìn những người xung quanh, bởi chẳng còn cần thiết
nữa: anh không kiếm cách để săn lùng suất mới, chỉ ăn cái phần mình được hưởng.
Nhưng anh vẫn nhìn thấy ngay
trước mặt mình, cách một bàn, có một chỗ trống và ông già đeo biển số U-81 ngồi
xuống đó. Sukhov biết ông già này ở đội 64, và khi đứng xếp hàng cho Sezar ở
chỗ nhận đồ tiếp tế, anh được biết đội 64 hôm nay phải làm ở Khu Dịch Xá thay
cho đội 104 và suốt cả ngày họ phải làm ngoài trời không có chỗ sưởi, để chăng
giây thép gai giam giữ chính mình.
Người ta nói với Sukhov rằng ông
già này đã ngồi ở các trại giam, nhà tù không biết bao lâu rồi, chính quyền Xô
Viết đã có bao nhiêu năm nay, song chưa bao giờ ông được xét ân xá, cứ hết mười
năm, người ta lại bồi cho ông thêm mười năm nữa.
Bây giờ thì anh ngắm ông già kĩ
hơn. Khác với tất cả những ông già lưng gù trong trại, lưng của ông già này rất
thẳng, và khi ngồi ở bàn ăn trông ông như thể ngồi trên một cái ghế được lót
thêm cái gì đó cho cao thêm. Đã lâu rồi, trên cái đầu trọc của ông chả còn gì
để mà cạo - tóc tai rụng sạch vì cuộc sống quá sung sướng. Cặp mắt ông già
không đảo quanh nhà ăn để xem những việc đang xảy ra, mà nhìn đăm đăm vào một
cái gì đó ở phía trên đầu Sukhov, cái mà không một ai nhìn thấy. Ông từ tốn ăn
tô súp loãng bằng chiếc thìa gỗ đã mòn vẹt, song không gục mặt xuống bát như
những người khác, mà đưa thìa súp lên miệng mình.
Răng của ông không còn lấy một
chiếc, cả hàm trên, lẫn hàm dưới, ông dùng hai hàm lợi cứng như xương để nhai
bánh mì thay cho răng. Khuôn mặt ông mòn mỏi, song không đến nỗi yếu ớt, thiểu
não như bọn người tàn tật mất hết sức sống, mà đen xạm, trông như tạc bằng đá.
Và nhìn đôi tay to tướng, méo mó sần sùi, cũng có thể thấy được rằng ngần ấy
năm rất hiếm khi ông được làm công việc nhẹ. Song trong ông hằn rõ ý chí không
chịu khuất phục: ba trăm gram bánh mì ông không để xuống mặt bàn nhơ nhớp như
mọi người, mà đặt lên một miếng giẻ nhỏ được giặt sạch sẽ.
Nhưng Sukhov không có thời gian
để ngắm nghía ông già. Ăn xong anh liếm sạch thìa rồi nhét lại nó vào ống giầy
ủng, chụp mũ lên đầu, đứng dậy, cầm lấy khẩu phần bánh mì của mình và của
Sezar. Anh đi khỏi nhà ăn bằng một cửa khác. Ở đây cũng có hai tên cần vụ,
chúng đứng đó chỉ để làm mỗi một việc, mở chốt cửa cho anh em ra, rồi lại đóng
chốt cửa lại.
Sukhov ra khỏi nhà ăn với cái
bụng no và tự hài lòng về bản thân. Anh quyết định, dù sắp sửa tới giờ tắt đèn,
vẫn cứ phải tới chỗ thằng cha Latvi. Anh chạy thẳng tới trại số bảy, không rẽ
qua trại mình để cất bánh mì.
Trăng đã lên cao, trắng ngần,
trong trẻo như thể được cắt ra từ bầu trời. Và bầu trời cũng trong veo. Những
ngôi sao đó đây lấp lánh, sáng rỡ. Nhưng Sukhov lại càng ít thời gian để nhìn
lên trời mà ngắm trăng sao. Anh chỉ cảm thấy rõ một điều: băng giá không hề
giảm bớt.
Có ai đó nghe được từ những
người ở bên ngoài nói rằng ban đêm sẽ xuống tới âm ba mươi độ, còn đến sáng -
âm bốn mươi.
Từ rất xa trong thôn vẳng lại
tiếng máy cày, còn mé bên đường chiếc máy xúc rít lên. Từng bước chân người đi
trên sân trại đều để lại tiếng ủng nghiến tuyết răng rắc.
Trời lặng gió.
Thuốc lá sợi mà Sukhov mua, cũng
như mọi lần trước đây, - một rúp một cốc, mặc dù một cốc như vậy ở bên ngoài
phải tới ba rúp, có khi đắt hơn, nếu là thuốc ngon. Ở trong trại khổ sai mọi
thứ đều có giá riêng, không giống bất cứ ở đâu, là vì tiền không được phép giữ
ở trong trại, ít người có, nên chúng rất có giá. Anh em làm việc trong trại
nhưng không được trả lấy một xu (hồi ở trại Ust-Izma, Sukhov cũng còn được lĩnh
ba mươi rúp một tháng). Còn anh nào được gia đình gửi tiền qua bưu điện, thì
người ta cũng không cho nhận mà giữ lại cho vào trương mục cá nhân. Tiền đó có
thể rút tháng một lần để mua xà phòng giặt, bánh mốc, thuốc lá “Prima” trong
kho của trại. Nhưng mỗi lần mua đều phải làm đơn lên trại trưởng và chỉ được
mua đúng số hàng đã ghi trong đơn. Hàng mua rồi, thích hay không thích vẫn cứ
phải dùng, vì nếu không mua thì đằng nào tiền cũng mất, họ sẽ lấy ra khỏi
trương mục.
Sukhov kiếm được tiền bằng những
công việc vặt vãnh: khâu một đôi dép từ giẻ rách giá hai rúp, vá áo trấn thủ
giá cả thoả thuận.
Trại 7 không giống trại 9 của
anh, không ngăn thành hai phòng lớn. Ở trại này có một hành lang dài, dọc theo
đó trổ ra mười cái cửa của mười phòng riêng. Mỗi đội ở trong một phòng và mỗi
phòng kê bẩy cái giường tầng, có cầu tiêu riêng. Đội trưởng được một phòng nhỏ.
Đám mấy ông họa sĩ ở đây, sống
trong một cái phòng như thế.
Sukhov bước vào phòng nơi có anh
chàng người Latvi. Anh chàng này nằm ở giường tầng dưới, hai chân ghếch lên
thành giường, đang thao thao nói chuyện bằng tiếng Latvi với tay đồng hương bên
cạnh.
Sukhov tiến tới cạnh hắn.
- Xin chào.
- Chào - tên Latvi đáp lại,
nhưng không bỏ chân xuống. Gian phòng nhỏ, vì thế, hễ có ai vào là lập tức
thiên hạ vểnh tai lên nghe ngóng: ai tới, tới để làm gì. Cả hai người đều biết
như vậy, nên Sukhov thong thả ngồi xuống giường, bắt đầu con cà, con kê: sống
ra sao, khoẻ chứ? Vẫn thường. Hôm nay lạnh gớm nhỉ. Ừ.
Sukhov chờ cho mọi người tiếp
tục câu chuyện bỏ dở của mình (họ đang nói về chiến tranh ở Triều Tiên và cãi
nhau: không biết Trung Quốc nhẩy vào rồi, liệu chiến tranh thế giới có nổ ra
hay không).
Sukhov cúi xuống ghé vào tai tên
Latvi, hỏi:
- Có thuốc không?
- Có.
- Cho xem nào.
Tên Latvi nhấc chân khỏi thành
giường, hạ xuống sàn nhà và ngồi dậy. Tên này chúa keo kiệt. Hắn lúc nào cũng
sợ đổ thuốc vào cốc quá tay, dù số thuốc ấy chỉ cuộn được một điếu.
Hắn cho Sukhov xem cái túi
thuốc, rồi mở ra.
Sukhov bốc ra một ít sợi thuốc,
bỏ vào lòng bàn tay và thấy vẫn là thứ thuốc như lần trước, cũng mầu nâu vàng
và sợi cũng tơi như vậy. Anh đưa lên mũi ngửi - đúng là thứ thuốc ấy, nhưng anh
vẫn nói với tên Latvi:
- Có vẻ như không phải thuốc lần
trước.
- Vẫn thuốc ấy! Vẫn thuốc ấy! -
Tên Latvi cáu, - tôi chẳng có loại nào khác, lúc nào cũng chỉ một loại ấy thôi.
- Thôi, được rồi, được rồi, -
Sukhov chấp nhận, - cậu nhồi cho tớ một cốc, tớ hút thử, có thể sẽ lấy thêm cốc
nữa.
Anh nói “nhồi”, là vì tên này
chuyên có cái lối đổ sợi thuốc vào cốc, không chịu ấn xuống, cứ để lồng phồng
như vậy. Tên Latvi lôi từ dưới gối một túi thuốc khác to hơn gói ban đầu và mở
cái tủ nhỏ đầu giường, rút ra cái cốc nhựa. Cốc là cốc nhựa, nhưng Sukhov đã đọ
rồi, đựng đúng bằng cốc thuỷ tinh. Tên Latvi rũ thuốc bỏ vào cốc.
- Ấn xuống, cậu phải ấn nó xuống
chứ! - Sukhov nói với hắn và tự lấy tay ấn thuốc trong cốc xuống.
- Biết rồi! - Tên Latvi đổ quạu,
giằng lấy chiếc cốc, tự ấn thuốc xuống, nhưng nhẹ tay hơn, và lại đổ thuốc vào.
Trong khi đó Sukhov mở khuy áo
trấn thủ, lần tay vào bên trong lần lót chỗ để tờ giấy bạc.
Anh lấy ngón tay khẽ đẩy tờ giấy
bạc qua lần bông, tới cái lỗ nhỏ mà anh đã khoét và khâu lược lại vài mũi. Khi
tờ giấy bạc chạm vào cái lỗ nhỏ, anh lấy móng tay khẽ kéo chỉ, nới rộng ra, gấp
tờ giấy bạc nhỏ lại theo chiều dài, rồi rút nó ra khỏi lỗ. Hai rúp. Tờ giấy bạc
đã cũ, không còn kêu sột soạt.
Trong phòng lúc đó có tiếng
người kêu lên:
- Anh tưởng thằng già râu khốn
nạn thương anh lắm hả! Đến em ruột nó mà nó còn không tin, nữa là cái đồ quê mùa
dốt nát như anh!
Ở trong trại khổ sai được cái
sướng là tha hồ tự do phát ngôn. Chứ ở trại Uct-Izma, chỉ cần thầm thì với nhau
rằng ở bên ngoài đến diêm cũng không có bán, lập tức sẽ được nghỉ trong nhà đá
và lĩnh thêm một hạn mười năm nữa. Còn đây, có gào toáng lên về bất cứ điều gì
cũng chẳng có ma “ăng ten” nào đi bẩm báo, bọn an ninh cũng phẩy tay.
Có điều, làm quái gì có thời
gian mà nói về điều nọ, điều kia.
- Ê, sao đong lỏng thế hả, -
Sukhov càu nhàu.
- Được rồi, được rồi, thêm cho
đây này! - Tên Latvi bỏ thêm mấy sợi lên phía trên.
Sukhov rút cái túi đựng thuốc để
bên trong cái túi nhỏ anh khâu thêm vào bên trong áo khoác, đổ thuốc vào.
- Thôi được, cho một cốc nữa -
Sukhov quyết định, anh không hút thử nữa, vì không muốn hút điếu thuốc đậm đà đầu
tiên trong khi chạy hộc tốc về đội mình.
Anh tiếp tục cò kè với tên
Latvi, rồi đổ nốt cốc thứ hai vào túi, trả hai rúp, gật đầu chào hắn rồi đi ra.
Vừa bước ra tới sân anh co cẳng chạy về trại của mình để bắt kịp lúc Sezar mang
gói đồ tiếp tế về.
Nhưng lúc đó Sezar đã ngồi trên
giường tầng một của mình và ngó chăm chăm vào đống đồ. Hắn bầy tất cả các thứ
vừa nhận được ra giường và trên nóc cái tủ con đầu giường. Chỉ có điều chỗ đó
hơi bị tối vì ánh sáng đèn trần đã bị giường của Sukhov cản lại. Sukhov khom
mình lách vào giữa giường của Sezar và giường của ông trung tá. Anh chìa xuất
bánh mì bữa tối cho Sezar:
- Bánh của anh đây, Sezar
Markovich.
Anh không nói: “Sao, nhận được
rồi à?”, là bởi vì câu đó ngụ ý rằng anh đã xếp hàng hộ và bây giờ anh có quyền
nhận phần của mình. Anh hiểu mình có quyền, song anh không phải hạng bòn mót,
dù đã ở tù tới tám năm - và càng ở trong tù lâu anh càng cố giữ bằng được
nguyên tắc của mình.
Tuy nhiên, anh chẳng thể nào ra
lệnh cho đôi mắt của mình. Mắt anh, mắt người tù khổ sai, nhanh như mắt diều,
loáng một cái đã nhìn thấy hết những thứ mà Sezar bầy la liệt trên giường, trên
nóc tủ. Và mặc dù có những gói giấy mới mở nửa chừng, những cái bao chưa rạch,
nhưng thoáng nhìn và đánh hơi, Sukhov biết liền Sezar đã nhận được giò, sữa
hộp, cá xông khói, mỡ lợn muối, bánh mì sấy để dành được, bích quy có mùi vị
khác, hai kilô đường viên, có gói gì đó trông giống như gói bơ tươi, rồi thuốc
lá và ống tẩu, còn nữa, còn nữa.
Anh đã trông thấy tất cả ngần ấy
thứ chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi khi anh nói câu:
“Bánh mì của anh đây, Sezar
Markovich”.
Sezar thì cứ mê mẩn, mụ mẫm cả
người, hệt như kẻ say (ai nhận được thực phẩm tiếp tế cũng đều rơi vào tâm
trạng tương tự). Hắn phẩy tay về phía mấy miếng bánh mà Sukhov chìa ra:
- Cứ giữ lấy, Ivan Denhisych!
Một bát súp với hai trăm gram
bánh - cả một bữa tối đầy đủ. Đối với Sukhov đó là phần thưởng lớn cho cái công
xếp hàng của anh rồi. Ngay lập tức Sukhov gạt phăng cái ý nghĩ rằng anh có thể
được một chút gì đó trong cái đống đồ của Sezar. Không gì tệ hơn là hành hạ cái
dạ dầy vì những chuyện chả ra đâu vào đâu.
Mình còn có bốn trăm gram bánh,
cộng với hai trăm gram của Sezar, lại còn gần hai trăm gram nữa giấu trong đệm
- thế đủ rồi. Hai trăm gram mình sẽ gặm bây giờ, sáng mai được nhận năm trăm
năm mươi gram nữa, bốn trăm gram này mình mang đi làm - sống thế mới là sống
chứ! Còn chỗ giấu ở trong đệm hãng cứ để đấy. Cũng may mà mình kịp khâu nó vào,
chứ như thằng cha ở đội 75 đấy, để ở trong tủ, khóa hẳn hoi, bây giờ có mà kiện
lên Xô Viết Tối Cao!
Có nhiều người tưởng rằng người
nhận được đồ tiếp tế như một cái túi thắt miệng, cứ việc mở ra là xin được.
Nhưng xét cho cùng, thì đồ đến rồi đồ lại đi. Đôi khi, trước khi nhận được đồ
tiếp tế, một số người đã chẳng mừng húm khi mót được chút cháo thừa, hoặc có bị
bắn bỏ cũng cố mà hút cho bằng hết mẩu thuốc nhặt được. Vậy mà khi nhận được đồ
chẳng lẽ lại không biếu ông giám thị, anh đội trưởng, cả tay làm trực tiếp ở
chỗ cấp phát? Mà tên này, nếu không được gì, thì lần sau cứ đợi đấy, đồ gửi đến
nhưng cả tuần sau cũng không có tên trong danh sách. Khi mang đồ đến nhà kho để
gửi (phần khỏi mất cắp, phần khỏi bị trấn và phần vì thủ trưởng đã ra lệnh) -
sáng mai, trước giờ điểm danh, Sezar cũng phải mang tới đó để gửi - cũng lại
phải cúng cho thằng cha phụ trách ở đấy một phần khá, bằng không hắn gậm dần
gậm mòn của mình cũng chết. Cả ngày hắn ngồi ở đó, giống như con chuột gặm nhấm
thực phẩm của người khác, có mà tin hắn được khối! Rồi còn phải thưởng công cho
những người, như Sukhov chẳng hạn, và nếu muốn nhận được mấy thứ quần áo mà ta
giặt ở nhà tắm công cộng được sạch sẽ, tinh tươm, xếp gọn gàng, thì cũng phải
dúi cho bọn người ở đó chút đỉnh. Cũng còn phải biếu mấy cha hớt tóc nữa chứ,
bằng không hắn sẽ không chùi con dao cạo lên miếng vải giấy của hắn, mà chùi
thẳng vào đầu gối để trần của ta, nhiều thì không có, nhưng cũng phải vài ba
điếu thuốc. Rồi còn Ban Văn hoá Giáo dục, cũng phải tính đến để thư của ta
chúng để riêng ra, không làm mất. Còn nếu muốn được một ngày nằm khểnh trên giường
mà nghỉ ngơi thì phải mang biếu ông đốc tờ thứ gì đó. Rồi còn cả tay hàng xóm
dùng chung với ta cái tủ nhỏ đầu giường, như ông trung tá với Sezar chẳng hạn,
làm sao lại không cho được, là vì hắn sẽ đếm từng miếng ta bỏ vào miệng, cho
nên, đến một kẻ bần tiện nhất cũng không thoát được, vẫn phải bấm bụng mà cho
hắn.
Vì thế cứ kệ cho mọi người ghen
ghét, tị nạnh, những kẻ đứng núi này trông núi nọ, chứ Sukhov thì trải đời quá
rồi, anh hiểu rằng tuyệt không được ăn không của ai cái gì.
Anh tháo ủng và leo lên giường
của mình, rút từ trong bao tay miếng sắt, ngắm nghía nó.
Anh tính ngày mai sẽ cố kiếm một
hòn đá mài thật tốt và sẽ mài miếng sắt này thành một con dao nhỏ dùng cho việc
sửa chữa giầy dép. Mất khoảng ba bốn ngày gì đó, chịu khó mài vào sáng sớm và
buổi tối, anh sẽ có một con dao nhỏ có lưỡi sắc và cong. Nhưng từ giờ cho đến
mai anh phải giấu miếng sắt mẻ này đi đã. Anh sẽ nhét nó vào giữa thanh đòn
ngang và tấm gỗ giường. Và trong lúc ông trung tá chưa đi nằm (anh không muốn
bụi rơi xuống mặt ông), anh kéo tấm nệm nhồi không phải phoi bào, mà là mùn cưa
nặng chình chịch lên và giấu miếng sắt.
Những người hàng xóm của anh nằm
phía trên: anh chàng Tẩy lễ Aliosa và cặp Estoni nằm trên giường kế bên. Song
Sukhov không ngại họ.
Fechiukov đi ngang qua phòng,
khóc rưng rức. Vai hắn so lại, môi chảy máu.
Chắc hắn lại bị tẩn ở trong nhà
ăn vì tội giành nhau bát để liếm. Không nhìn ai và cũng chẳng cần giấu những
giọt nước mắt, hắn đi ngang qua đội, leo lên giường của mình, vùi mặt xuống đệm.
Xét cho cùng, hắn cũng thật đáng
thương. Chắc hắn không sống nổi cho tới khi mãn hạn.
Hắn không biết cách sống.
Vừa lúc ông trung tá xuất hiện,
phấn khởi, tay xách một cà mèn trà hãm đặc biệt. Trong trại có đặt hai thùng gỗ
đựng nước trà, song đó là thứ trà gì vậy? Nó âm ấm và cũng có màu của nước trà,
song nhạt thếch, lại bốc mùi gỗ mục do cái thùng đã tã thôi ra. Chứ thứ trà mà
Buinovski vừa pha, là trà xin được của Sezar, trà thứ thiệt, ông bỏ vào cà mèn
và chạy đi đổ nước sôi. Ông trung tá phởn ra mặt, thu xếp mặt tủ và đặt cà mèn
trà quý giá lên đó.
- Tí nữa thì bỏng tay vì cái vòi
nước sôi! - ông khóai trá khoe khoang.
Ở phía dưới Sezar bày các thức
ăn của hắn lên những tờ giấy trải ra trên giường. Sukhov đặt tấm nệm xuống để
khỏi phải nhìn thấy những thứ đó mà thêm não ruột.
Song một lần nữa không có Sukhov
là không xong việc. Sezar đứng dậy giữa hai bên giường, nhìn chằm chằm Sukhov,
mắt nháy nháy:
- Ivan Denhisych! cho tôi mượn
Cái mười ngày của anh với!
Cái mười ngày đây là con dao díp
nhỏ của Sukhov. Anh cũng lại giấu nó ở khe ván giường dưới tấm nệm. Trông chả
nhỉnh hơn ngón tay út mấy tí, nhưng cắt được cả miếng ba dọi dầy cỡ năm đốt
ngón tay. Chính Sukhov làm con dao này và luôn mài nó sắc bén.
Anh lại mò tay xuống phía dưới
đệm, rút con dao ra rồi đưa cho Sezar. Sezar gật đầu và ngồi khuất xuống phía
dưới.
Có một con dao như thế cũng kiếm
chác được chút đỉnh. Nhưng nó cũng có giá của mình.
Chỉ cần lộ ra là mười ngày nằm
nhà đá như bỡn. Chính vì vậy phải là kẻ không còn tính người mới có thể: cho
bọn này mượn con dao để bọn này cắt giò, còn đẳng ấy hả, đút phân vào mồm đằng
ấy nhé.
Thế là bây giờ Sezar lại nợ anh
nữa rồi.
Xong xuôi các khoản bánh biếc,
dao diếc, lúc này Sukhov mới lôi cái túi đựng thuốc lá ra.
Việc đầu tiên anh nhón lấy ít
sợi thuốc vừa đủ một điếu mà anh đã vay buổi sáng, đưa trả cho tên Estoni phía
giường bên, nói: “Cám ơn”.
Tên Estoni nhành môi ra, trông
như cười. Hắn lẩm bẩm cái gì đó với tay đồng hương thân tín và hai người quấn
một điếu hút thử xem thuốc của Sukhov ra làm sao.
Cứ thử thoải mái, thuốc của mỗ
đây chất lượng đâu kém thuốc các người. Sukhov cũng tính hút thử một điếu, song
cái đồng hồ bên trong anh nó báo với anh rằng chỉ tí nữa thôi là tới giờ điểm
danh ban đêm. Đây chính là thời điểm bọn giám thị đi rình mò khắp các trại xá. Nếu
muốn hút thuốc, thì ra ngoài hành lang mà hút, nhưng Sukhov lại không muốn ra,
ở trên giường tầng trên của mình anh cảm thấy ấm hơn. Trong trại xá vẫn chẳng
hề ấm hơn chút nào, vẫn những đám băng trông như màng nhện bám trên trần. Nhưng
lúc này xem ra vẫn còn chịu được, chứ đến đêm cứ gọi là run bần bật vì lạnh.
Sukhov lấy khoanh bánh mì hai
trăm gram bắt đầu bẻ từng miếng nhỏ bỏ vào miệng và lắng nghe cuộc trà đàm ở
phía dưới giữa ông trung tá và Sezar.
- Ăn đi, trung tá, ăn đi, cứ tự
nhiên! Cầm lấy miếng cá hun khói này, cả giò nữa này.
- Cám ơn, tôi đang ăn đây.
- Lấy bơ mà phết bánh mì. Bánh
mì gối Moscva chính hiệu đấy!
- Ái chà chà, không thể tin được
ở một nơi nào đó người ta vẫn làm bánh mì gối. Anh biết không, bữa tiệc ê hề
bất ngờ này làm tôi nhớ tới một chuyện. Lần ấy tôi tới Arkhanghelsk...
Tiếng ồn ở nửa bên kia trại xá
có tới cả trăm giọng, nhưng Sukhov Sukhov vẫn nghe được tiếng kẻng ở bên ngoài.
Chưa một ai nghe thấy cả. Và Sukhov còn nhìn thấy Kurnosenski, một tay giám thị
trẻ măng, người nhỏ thó, có bộ mặt hồng hào. Hắn nắm trong tay một tờ giấy, và
cứ nhìn cái cách hắn đi vào rõ ràng hắn tới trại không phải để bắt những người
hút thuốc trộm trong phòng hay đuổi phạm ra ngoài để kiểm tra, mà là tìm ai đó.
Kurnosenski rà soát lại trên tờ
giấy và hỏi:
- Một lẻ bốn ở đâu?
- Ở đây, - mọi người đáp lại.
Cặp Estoni vội dụi điếu thuốc,
giấu đi và lấy tay xua khói.
- Còn đội trưởng đâu?
- Anh cần gì? - Turin nằm trên
giường, chỉ đặt một chân xuống sàn.
- Mấy người trong đội anh đã
viết tường trình chưa?
- Họ đang viết! - Turin khẳng
định một cách chắc chắn.
- Đáng ra phải nộp rồi chứ.
- Khốn nhưng họ ít học, nên viết
cũng khó khăn lắm. (Đó là đội trưởng nói về Sezar và ông trung tá. Đội trưởng
cừ ra phết, bất cứ lúc nào cũng đối đáp đâu ra đấy). Với lại làm gì có bút, mực
cũng chả có.
- Phải có chứ.
- Nhưng bị tước mất rồi!
- Liệu cái mồm, đội trưởng, ông
mà nói lắm, tôi cho ông ngồi nhà đá đấy! - Kurnosenki doạ nạt, song không tỏ ra
tức giận. - Làm thế nào thì làm, sao cho sáng mai, trước giờ điểm danh, mấy tờ
trình phải nằm trên phòng giám thị rồi! Và phải viết rằng mấy cái đồ không được
phép dùng ấy đã đem nộp vào kho đồ cá nhân rồi, rõ chưa?
- Rõ.
(“Lão trung tá thoát rồi” -
Sukhov nghĩ bụng. Còn bản thân trung tá thì chẳng nghe thấy gì, còn mải ăn giò
và đấu hót).
- Còn một việc nữa, - tên giám
thị nói tiếp, - Đội anh có ai là S-311 không?
- Còn phải xem danh sách đã, -
đội trưởng đáp, cố ý lần chần. - Ai mà nhớ hết nổi mấy cái con số chó đẻ ấy
(đội trưởng vờ vịt cốt cứu Buinovski không phải vào nhà đá đêm nay, kéo dài
thời gian cho tới sáng mai, trước giờ điểm danh).
- Buinovski có đây không?
- Gì vậy? Tôi đây! - trung tá
lên tiếng từ phía dưới giường của Sukhov. Có những loại người nhanh nhẩu đoảng
như thế đấy!
- Anh phải không? Ờ, đúng rồi,
S-311. Đi!
- Đi đâu?
- Tự anh biết.
Ông trung ta thở dài đánh thượt,
miệng làu bàu. Lúc này, đối với ông dong một chiến hạm chạy trên biển vào đêm
giông bão chắc còn dễ hơn là dứt ra khỏi cuộc chuyện trò với bè bạn để vào nằm
một mình trong cái xà lim lạnh buốt đó.
- Bao nhiêu ngày vậy? - Ông
trung tá hỏi, giọng đã hạ.
- Mười. Nhanh lên nào!
Cùng lúc đó bọn cần vụ réo lên:
- Kiểm tra! kiểm tra! tất cả ra
ngoài!
Như thế có nghĩa viên giám thị
được cử xuống để kiểm tra phạm đã có mặt ở trại rồi.
Ông trung tá ngoái lại - mang áo
bông đi chăng? Nhưng chắc chúng sẽ lột ngay, chỉ để lại áo trấn thủ thôi. Đành
mặc như thế này mà đi vậy. Ông trung tá những tưởng Volkovoi đã quên (Volkovoi
chẳng quên ai và cái gì bao giờ) và tha cho mình, nên ông cũng chẳng chuẩn bị
giấu thuốc lá cho mình nữa. Bây giờ mà cầm ở tay sẽ bị tịch thu tức khắc lúc họ
khám xét trước khi quẳng ông vào nhà đá.
Tuy nhiên, trong lúc ông đội mũ,
Sezar đã kịp dúi cho ông vài điếu.
- Thôi, tạm biệt anh em, - trung
tá buồn rầu gật đầu chào anh em trong đội và đi theo viên giám thị.
Mấy người gọi với theo ông,
người thì bảo hãy giữ vững tinh thần, kẻ bảo đừng thối chí, - thì còn biết nói
gì hơn nữa? Chính anh em đội 104 đã xây khu xà lim đó, nên họ thông thuộc lắm:
bốn bức tường đá, sàn xi măng, không có lấy một lỗ cửa sổ, có lò sưởi đấy, song
cũng chỉ đủ làm tan lớp băng đóng trên trần nhà khiến cho nước chảy thành vũng
đọng ở sàn. Ngủ trên tấm phản trần, không chăn mềm, đệm gối, răng đánh cầm cập
suốt đêm. Bánh mì một trăm bẩy mươi lăm gram mỗi ngày và súp nóng chỉ ngày thứ
ba, ngày thứ sáu và ngày thứ chín mới được húp.
Mười ngày đêm! Mười ngày đêm
ngồi từ đầu đến cuối trong xà lim đá cũng có nghĩa cả cuộc đời còn lại sẽ phải
lê lết với bệnh tật. Mà nếu sống sót, thì bệnh ho lao cũng vĩnh viễn cột chặt
ta vào giường bệnh viện. Còn người nào bị cầm cố trong xà lim mười lăm ngày thì
coi như rồi đời - chỉ còn biết ngậm cười dưới ba thước đất.
Khi còn sống trong trại hãy mau
mắn cầu nguyện sao cho không rơi vào cái địa ngục trần gian ấy.
- Có định ra không thì bảo, tôi
đếm đến ba! - Tên trưởng trại xá gầm lên. - Sau ba tiếng ai không ra, tôi sẽ
ghi tên báo cáo lên công dân giám thị!
Trưởng trại là kẻ khốn nạn nhất
hạng. Cùng bị giam giữ với anh em tù mà lúc nào hắn cũng lên mặt thủ trưởng,
chẳng kiêng nể một ai. Ngược lại, ai cũng sợ hắn. Nếu không mách với giám thị,
thì hắn cũng thụi ta vào mặt. Hắn được coi là tàn phế vì mất một ngón tay trong
cuộc ẩu đả, còn nhìn bản mặt hắn - rõ là giống côn đồ. Mà hắn đúng là côn đồ
thứ thiệt, mang án hình sự, nhưng không hiểu sao người ta lại xử hắn theo luật
58/14, chính vì thế mà hắn rơi vào trại khổ sai này.
Hắn không nói rỡn, bây giờ hắn
sẽ ghi tên ta vào giấy, báo cáo lên giám thị, ta sẽ lĩnh đủ hai ngày theo chế
độ: ban ngày làm việc khổ sai, đêm vào nằm nhà đá.
Chỉ tới lúc này anh em mới lục
tục chậm chạp lê bước ra cửa, chỗ đứng túm tụm lại, chỗ nhảy từ các giường tầng
xuống trông như bầy gấu và ai cũng nhao ra phía cửa hẹp.
Sukhov tay cầm điếu thuốc đã
cuộn từ lâu, điếu thuốc anh thèm muốn chết, khéo léo nhảy xuống đất, xỏ hai
chân vào ủng và định đi ra, song lại thấy tội nghiệp cho Sezar. Anh đâu muốn
kiếm chác gì ở hắn, mà lúc này chỉ thấy thương hắn thực sự: thằng cha này quá
chăm lo cho bản thân. Hắn chả hiểu đời gì cả - nhận được đồ tiếp tế thì chớ nên
bầy hết cả ra đấy mà ngắm. Tốt nhất nên gửi vào kho trước giờ kiểm soát ban
đêm. Ăn thì lúc nào chả được.
Bây giờ hắn làm thế nào với đống
đồ bầy la liệt ra như thế? Cho tất cả vào một chiếc bao rồi mang ra chỗ xếp
hàng - chỉ tổ làm trò cười cho năm trăm con người trong trại. Nhưng nếu để lại,
thì chưa đầy một giờ đồng hồ kiểm tra con số, kẻ nào chạy về chỗ trước, kẻ ấy
sẽ nẫng cái bao ngay. (Ở trại Ust-Izma còn tệ hại hơn. Bọn lưu manh bao giờ
cũng đi làm về trước và khi anh em mò được tới phòng thì đồ đạc đã bị chúng dọn
sạch sẽ rồi).
Sukhov nhìn thấy Sezar lúng ta
lúng túng với các gói thức ăn, song đã muộn mất rồi. Hắn đang nhét giò và mỡ
muối vào trong áo, cố cứu vãn được cái gì hay cái ấy.
Sukhov thấy thương hại, bèn bày
cách cho hắn:
- Cứ ngồi tại chỗ, Sezar
Markovich, chờ cho tới người cuối cùng, ngồi vào chỗ tối ấy và chờ cho người
sau cùng đi ra. Khi bọn giám thị sục sạo các giường thì hãy đi ra. Nếu chúng
nhìn thấy, nhớ bảo là bị ốm. Còn tôi sẽ chạy ra trước tiên và quay trở vào
trước tiên. Cứ thế...
Nói rồi anh co cẳng chạy ra
ngoài.
Thọat đầu Sukhov phải khó nhọc
lắm mới chen qua được đám đông (tay lại còn phải giữ cho điếu thuốc không bị
bẹp). Trong hành lang chung cho cả hai khối của trại xá và trước cửa ra vào,
không ai muốn là người đầu tiên bước ra cả, một lũ ma lanh, mà cứ bám riết lấy
hai bên tường, chỉ chừa lại một lối nhỏ vừa một người đi: muốn thì cứ việc ra
ngoài trời lạnh, các bố cứ đứng ở đây cho ấm cái đã. Cả ngày phơi mặt ra băng
giá, bây giờ lại đứng thêm mười phút nữa cho chết rét chắc? Chả dại. Thằng nào
muốn chết, cho chết. Cánh tớ chờ thêm ít lâu nữa!
Giá phải lần khác thì Sukhov
cũng cố bám lấy tường đấy, nhưng lần này anh vọt ngay ra ngoài cửa, lại còn réo
lên ầm ĩ:
- Sợ gì chứ lũ ngốc? Chả lẽ chưa
thấy cái lạnh Siberi bao giờ chắc. Ra ngoài này mà sưởi mặt trời của sói! Ông
anh, cho xin tí lửa!
Anh châm thuốc ở trước cửa ra
vào rồi bước xuống bậc thềm trại. “Mặt trời của sói” - ở quê Sukhov người ta
gọi đùa như vậy để ám chỉ mặt trăng.
Trăng đã lên thật cao! chỉ chút
nữa thôi là tới đỉnh điểm, bầu trời bàng bạc phớt màu lá cây, những ngôi sao
thật tỏ, nhưng thưa thớt. Tuyết lấp lánh, những bức tường của trại xá cũng
trắng xoá, vì thế nên ánh sáng của những ngọn đèn chiếu trong trại không còn
chói gắt nữa.
Ở trại đằng kia, phía trước cửa,
đem sậm một dòng người đang xếp hàng. Cả trại khác nữa, cũng thế. Từ trại này
tới trại kia tiếng chuyện trò thưa thớt, chỉ thấy tiếng những bước chân dẫm
tuyết lạo xạo.
Trước cửa bậc thềm, mặt hướng
vào cửa trại xá, đã có năm người xếp thành hàng. Phía sau có ba người, Sukhov
nhập vào đội năm người thứ hai này. Đã có mấy lát bánh mì vào bụng, miệng lại
phì phèo điếu thuốc, đứng ở ngoài này cũng không đến nỗi nào.
Thuốc hút được. Tên Latvi không
bịp mình, vừa đậm lại vừa thơm.
Mọi người bước dần ra ngoài, bây
giờ đã có hai, ba hàng năm người rồi. Những ai ra xếp hàng trước, lúc này nổi
cáu: bọn khốn còn đứng bám tường làm cái gì chứ, định cho bố chúng nó chết rét
ngoài này chắc.
Không một ai trong đám phạm nhìn
thấy đồng hồ trong thời gian ở tù. Mà họ cần quái gì đồng hồ. Phạm chỉ cần biết
đã sắp tới hiệu lệnh báo thức chưa? Còn bao lâu nữa thì tới giờ điểm danh? Sắp
ăn trưa, ăn tối chưa? Sắp tới giờ tắt đèn chưa?
Họ bảo giờ điểm danh ban đêm vào
lúc chín giờ. Ấy là nói thế, chứ không bao giờ nó kết thúc vào lúc chín giờ,
thường chúng kiểm tra tới lần thứ hai, thứ ba và trước mười giờ đừng hòng mà
được ngủ. Còn kẻng báo thức họ bảo vào năm giờ sáng, thì cũng chỉ biết thế. Chả
trách cái tên người Monđavi đã lăn ra ngủ quên trước giờ nghỉ. Nơi nào có chỗ
sưởi ấm là phạm ta lăn ra mà ngủ ngay được. Trong tuần được ngủ quá ít, thế cho
nên vào ngày chủ nhật không phải đi làm toàn trại xá lăn ra ngủ như chết cả
lượt.
Mọi người đang đổ xuống bậc
thềm. Bọn giám thị cùng thằng trưởng trại, rặt một lũ súc vật, đang đá đít họ.
- Sao nào? - Những người xếp
hàng đầu la ó chửi bới. - Chúng bay tưởng chúng bay khôn lắm hả, lũ khốn nạn?
Tưởng lấy cứt mà đánh thành bơ được đấy hả? Ra ngoài này ngay từ đầu, thì có
phải xong rồi không.
Toàn trại đã ra hết bên ngoài.
Bốn trăm con người - tám mươi hàng năm người đứng nối đuôi nhau. Nhưng cũng chỉ
ở phía trên hàng ngũ còn tề chỉnh, phía dưới đuôi mọi người đứng túm tụm, chả
ra hàng ra lối.
- Ở dưới kia, xếp hàng vào! -
tên trưởng trại gào lên từ trên bậc thềm.
Nhưng còn lâu chúng mới nghe, lũ
quỷ sứ, đồ củ chuối!
Sezar bước ra khỏi cửa, so vai
rụt cổ, cố làm ra vẻ đau yếu. Đằng sau hắn là hai tên cần vụ ở nửa bên kia của
trại chín, và hai tên ở nửa trại bên này, cùng với một tên thọt nữa. Chúng làm
thành hàng năm người đầu tiên, chính vì thế Sukhov thành ra đứng ở hàng năm
người thứ ba. Chúng đuổi Sezar xuống phía cuối.
Tên giám thị bước ra ngoài hiên.
- X ế p h à n g n ă m! - Hắn gào
những người ở dưới đuôi, giọng hắn khoẻ thật.
- X ế p h à n g n ă m! - Trưởng
trại gào theo, giọng còn khoẻ hơn.
Nhưng bọn dưới đó vẫn không chịu
hiểu, đồ củ chuối!
Tên trưởng trại tức điên người,
vọt xuống phía dưới, chửi bới om xòm, đánh đấm túi bụi.
Nhưng xem hắn đánh những ai, rặt
bọn thỏ đế.
Cuối cùng đâu cũng vào đấy. Hắn
quay trở lại bắt đầu đếm cùng bọn giám thị:
- Một! hai! ba!
Hàng nào điểm xong, lập tức mọi
người ba chân bốn cẳng chạy vội vào trong trại xá. Thế là xong một ngày với các
sếp!
Xong có nghĩa là không phải đếm
lại lần thứ hai. Bọn óc bã đậu này, trán thì trông rõ rộng mà còn ngu hơn bất
cứ thằng chăn cừu nào. Thằng chăn cừu tuy thất học, chỉ biết chăn cừu thôi,
song trên đường về cũng còn biết thiếu đủ ra sao. Mấy tên khốn này có mà nhồi
vào đầu cũng chỉ đến thế.
Mùa đông năm ngoái trong trại
lại còn không có lấy nổi một cái lò sấy giầy nào, cho nên phạm phải để lại ủng
của mình trong phòng cả đêm. Đã thế còn bị đuổi ra ngoài kiểm tra tới ba bốn
bận. Chính vì vậy họ chả thèm mặc quần áo cho tử tế, cứ thế quấn chăn vào người
rồi ra xếp hàng. Tới năm nay người ta cho xây vài cái lò. Không phải cho tất cả
các đội một lúc, song cứ đôi ba ngày các đội lần lượt thay nhau sấy. Bởi thế,
nên hồi này, khi nào phải đếm lại, chúng để anh em ở bên trong trại, chỉ xua từ
nửa trại này sang nửa trại kia thôi.
Sukhov chạy vào bên trong, tuy
không phải người đầu tiên, nhưng mắt anh không rời tên phạm chạy vào trước.
Chạy tới giường của Sezar anh ngồi xuống, cởi ủng ra, leo lên một chiếc giường
gần lò sưởi, đặt đôi ủng của mình lên đó. Ở đây ai đến trước thì hưởng trước.
Sau đó anh quay lại giường
Sezar, ngồi xếp chân bằng tròn trên đó, một mắt để ý không cho tên nào ở phía
dưới thò tay lên thó đồ của hắn, một mắt canh chừng không cho tên nào đẩy đôi
ủng của anh ra để chiếm chỗ.
- Này! - Anh buộc phải hét toáng
lên, - mày, thằng tóc đỏ kia! Muốn được nện ủng vào mặt hả? Cứ việc đặt ủng của
mình vào, nhưng đừng có động đến của người khác!
Phạm lũ lượt đổ trở lại trại xá.
Ở đội 20 mọi người hò nhau:
- Đem ủng đi sấy!
Bây giờ người ta thả họ ra để đi
sấy ủng, rồi khóa cửa lại. Một lát sau những người này chạy về, đấm cửa thình
thình:
- Công dân giám thị ơi, mở cửa
cho chúng tôi với!
Nhưng bọn giám thị đã đi lên
trung tâm để đọ sổ sách với phòng tài vụ xem có thằng tù nào chạy trốn hay
không.
Hôm nay Sukhov cóc thèm để ý đến
mấy việc này. Kìa Sezar đang đi về giữa hai hàng giường, miệng suýt xoa:
- Cám ơn anh, Ivan Denhisych!
Sukhov gật đầu và nhanh như sóc,
anh leo lên giường của mình ở phía trên. Bây giờ có thể ăn nốt hai trăm gram
bánh, hoặc hút điếu thứ hai, hoặc lăn ra mà ngủ.
Nhưng Sukhov đâu muốn ngủ ngay,
bởi vì anh đã có được một ngày thật đẹp, nó khiến anh thấy vui vẻ quá.
Sắp giường chiếu - chuyện nhỏ:
chỉ việc kéo cái chăn đen đã bạc màu, rồi nằm lên đệm (lâu lắm rồi, có lẽ từ
năm bốn mốt, sau khi đi khỏi nhà tới giờ, anh chưa nằm ngủ trên vải trải giường
bao giờ. Và anh lấy làm lạ tại sao đàn bà lại cứ phải phiền phức vì khăn trải
giường thế nhỉ. Chỉ tổ mất công giặt), đặt đầu lên cái cái gói nhồi phoi bào, hai
chân đút vào áo trấn thủ, đắp chăn lên, phía trên đắp thêm chiếc áo bông nữa,
và thế là cám ơn Chúa, một ngày nữa lại qua rồi!
Cám ơn Chúa, vì không phải ngủ ở
xà lim, nằm ở đây cũng không đến nỗi nào.
Sukhov nằm, đầu hướng ra cửa sổ,
còn Aliosa nằm ở giường bên kia, cạnh anh, trở ngược đầu đuôi để hứng lấy ánh
sáng đèn. Anh ta lại đang đọc Phúc Âm.
Ngọn đèn điện cách chỗ họ không
xa, có thể đọc sách, thậm chí khâu vá quần áo cũng được.
Aliosa nghe thấy Sukhov thầm thì
cảm ơn Chúa, bèn quay lại.
- Ivan Denhisovich, tâm hồn anh
muốn cầu nguyện Chúa, tại sao anh không để cho nó làm việc đó nhỉ?
Sukhov liếc nhìn Aliosa, hai mắt
anh ta giống như hai ngọn nến, ấm áp. Anh thở dài:
- À, bởi vì những lời cầu nguyện
cũng giống như mấy cái đơn khiếu nại, cũng có thể đến được tay cấp trên, cũng
có thể chả bao giờ tới được, hoặc quay trở về với một chữ bên cạnh: “Bác đơn”.
Trước cửa văn phòng trụ sở trại
có đặt bốn chiếc hộp nhỏ màu đen niêm phong cẩn thận và hàng tháng có một người
được họ uỷ quyền tới mở các hòm lấy thư ra. Nhiều đơn từ ở trong mấy cái hòm đó
bị quẳng đi. Còn phạm ta thì cứ đợi, tính từng ngày, ngóng tin phản hồi.
Nhưng nào có thấy. Hoặc chỉ nhận
được mỗi chữ: “Bác đơn!”.
- Ivan Denisovich ạ, chính vì
anh cầu nguyện ít quá, lại không thành tâm, nhẫn nại, hoá cho nên những lời cầu
nguyện của anh chả bao giờ thành hiện thực được cả. Cầu nguyện phải thường
xuyên cơ. Ví như có đức tin, thì anh bảo núi chuyển, nó cũng phải chuyển.
Sukhov cười khẩy và cuốn thêm
một điếu thuốc nữa. Anh châm lửa nhờ ở cặp Estoni.
- Thôi đi Aliosa, đừng huyên
thuyên. Tớ chưa từng thấy núi chuyển, vả cả cả đời tớ đã nhìn thấy núi bao giờ
đâu. Còn các cậu ở Kavkaz, cả hội Tẩy lễ nhà các cậu cùng cầu nguyện, thế các
cậu đã nhìn thấy quả núi nào chuyển động chưa?
Mấy người Tẩy lễ này kể cũng
khổ: cầu nguyện Chúa thì có hại đến ai, ấy thế mà cả bọn đều bị lãnh hai mươi
lăm năm tù. Thì bây giờ nó là vậy, ai cũng hai mươi lăm năm tuốt tuột.
- Nhưng chúng tôi đâu có cầu
nguyện điều đó, Ivan Denhisych, - Aliosa khơi gợi. Hắn cầm cuốn sổ chép Phúc Âm
xán tới gần Sukhov, ngó sát mặt anh, - Trong tất cả mọi thứ trần tục, phù du,
chúng tôi chỉ cầu xin Thượng đế có được miếng ăn hàng ngày mà thôi: “Xin cho
chúng con đồ ăn ngày nào đủ ngày nấy!”
- Tức là khẩu phần hàng ngày, đúng
không? - Sukhov hỏi.
Nhưng Aliosa vẫn nói tiếp, ánh
mắt hắn thuyết phục nhiều hơn lời hắn nói, hắn đặt tay lên tay Sukhov, khẽ vuốt:
- Ivan Denicych! không nên cầu
nguyện vì một gói đồ tiếp tế hay một xuất cháo thừa. Những gì ta coi là quý giá
lại thấp hèn trước Chúa! Cần cầu nguyện những gì thuộc tâm linh: sao cho Đức
Chúa Lời lấy hết những cái ác trong tâm chúng ta...
- Nghe tớ nói chuyện này còn hay
hơn. Ở nhà thờ Polomensk chỗ chúng tớ có một cha cố...
- Đừng nói về ông cha đạo của
anh nữa! - Aliosa nài nỉ, thậm chí trán hắn nhăn lại vì đau đớn.
- Không, cậu hãng cứ nghe đã. -
Sukhov chống khuỷu tay nhỏm dậy. Cả vùng Polomensk chúng tớ không có ai giàu
bằng lão cha cố. Tiền công sửa cái mái nhà bình thường ra là ba mươi rúp một
ngày, riêng cha cố người ta phải lấy tới trăm rúp. Mặc dù người ngợm ục à ục
ịch, lão đi lại với ba mụ đàn bà ở ba thành phố khác nhau, hàng tháng trợ cấp
tiền cho họ, còn với người thứ tư thì lão sống như vợ chồng hẳn hoi. Lão nắm
thóp ông tổng giám mục, biếu xén ghê lắm, chẳng thế mà tất cả các ông cha cố mà
người ta cử đến địa phận đều bị lão đẩy đi hết, lão chẳng muốn chia chác với
ai...
- Anh nói về cha cố làm gì? Nhà
thờ Chính thống đã xa lìa Phúc Âm. Người ta đâu có bắt giam họ, tống họ vào tù,
ấy là vì người ta biết rằng họ đâu có đức tin thực sự.
Sukhov hút thuốc, bình thản nhìn
Aliosa đang bị kích động.
- Aliosa, - anh đẩy nhẹ tay hắn
ra, khói thuốc lá của anh bay vào mặt hắn. - Tớ đâu có chống lại Chúa, cậu hiểu
chứ. Tớ sẵn lòng tin vào Chúa. Có điều tớ không tin có thiên đàng và địa ngục.
Các người coi bọn này là lũ ngốc hay sao mà cứ hứa hươu hứa vượn mãi về thiên
đường với chả địa ngục? Đó là cái tớ ghét nhất.
Sukhov nằm trở lại, cẩn thận vẩy
tàn thuốc sau đầu, chỗ giữa đầu giường anh và cửa sổ, tránh không làm cháy đồ
của ông trung tá. Mải nghĩ, anh không nghe thấy Aliosa thì thầm gì nữa.
- Với lại, dù mình có cầu nguyện
bao nhiêu chăng nữa, cái hạn tù của mình đâu có ngắn bớt đi. Cứ phải lê cho
hết, từng ngày, từng ngày một, từ kẻng báo thức tới kẻng ngủ.
- Ấy, anh đừng nên cầu nguyện
điều đó! - Aliosa hoảng sợ. - Anh cần tự do để làm gì? Có tự do thì đức tin
cuối cùng còn sót lại trong anh, giống như chút hạt giống, sẽ mắc kẹt trong bụi
mận gai! Anh phải lấy làm mừng vì ở trong trại tù! Ở đây anh còn có thời gian
mà nghĩ đến linh hồn! Sứ đồ Paolo từng nói: “Các người khóc lóc gì vậy, muốn
làm nát lòng ta chăng? Ta chẳng những chịu trói, mà còn sẵn sàng chịu chết vì
danh Chúa Jesu”.
Sukhov im lặng nhìn trần nhà.
Chính anh cũng không còn biết mình có cần tự do hay không.
Lúc mới vào tù anh thèm được tự
do lắm, mỗi tối nằm tính xem mình đã ở tù được bao nhiêu lâu, thời hạn còn lại
bao lâu. Sau đó phát chán. Sau đó hiểu ra rằng những người như anh họ không thả
cho về nhà, mà bắt đi đầy. Vậy thì ở đây hay ở nơi đầy ải, chỗ nào khá hơn,
cũng chẳng rõ nữa.
Anh chỉ cầu xin Chúa trời có mỗi
một điều - được về nhà.
Nhưng mà họ không thả...
Aliosa không nói dối anh. Qua
ánh mắt, lời nói của hắn cũng đủ biết hắn mừng vì được ở tù.
- Nghe này, Aliosa, - Sukhov
giải thích cho hắn, - với anh thì được, Đấng Kitô bảo anh vào tù và anh ở tù là
vì Ngài. Chứ còn tôi, tôi ngồi tù vì lẽ gì? Vì việc năm một chín bốn mốt người
ta không chuẩn bị cho cuộc chiến tranh? Vì lẽ đó? Nhưng đấy có phải lỗi của tôi
đâu.
- Xem ra họ không kiểm tra lần
thứ hai...- Kildigs nằm trên giường nói xen vào.
- Ờ, ờ! - Sukhov hưởng ứng. -
Phải ghi lên cái ống ở đằng góc nhà: ngày này, tháng này trại không bị kiểm tra
lần thứ hai. - Anh ngáp và nói: - ngủ thôi.
Nhưng ngay lúc đó, trong trại
giam tĩnh mịch, an phận, bỗng vang lên tiếng động đằng sau cửa ra vào. Có hai
tên vừa nãy mang ủng đi sấy chạy vào hành lang hô hoán ầm ĩ:
- Kiểm tra lần hai!
Theo sát họ là viên giám thị:
- Tất cả sang phía bên kia!
Nhiều người đã ngủ. Họ càu nhàu,
lồm cồm ngồi dậy, xỏ chân vào ủng (họ vẫn đánh cả quần bông đi ngủ. Mặc quần
thường nằm trong chăn không chịu được, người cứ run cầm cập).
- Phù! Quân khốn nạn! - Sukhov
chửi, song anh cũng không bực mình cho lắm, vì chưa ngủ.
Sezar từ giường dưới đưa lên anh
hai chiếc bánh bích quy, hai cục đường và một lát giò tròn.
- Cám ơn, Sezar Markovich! -
Sukhov cúi xuống dưới, lối đi giữa hai dãy giường. - Anh đưa tôi cái bao tôi
cất dưới gối tôi cho. Cất trên trên này cho chắc. (Giường tầng trên không thể
với tay lên mà thuổng nhanh các thứ được, với lại giường của Sukhov ai mà thèm
nhòm ngó).
Sezar đưa lên phía trên cho
Sukhov cái bao màu trắng đan lưới của hắn. Sukhov nhét nó xuống dưới đệm và chờ
cho gần hết mọi người ra hành lang, vì như vậy anh đỡ phải dẫm chân trần lâu
dưới đất.
Nhưng tên giám thị đã gầm lên:
- Ê, người góc đằng kia!
Sukhov nhẹ nhàng nhảy chân trần
xuống sàn (là vì đôi ủng của anh cùng với vải quấn chân đang sấy trên lò sưởi,
lấy xuống tiếc lắm). Anh đã khâu biết bao đôi dép đi trong nhà, song toàn là
cho người khác, bản thân chẳng có lấy một đôi. Với lại anh cũng đã quen, việc
này cũng chóng thôi mà.
Vả chúng cũng sẽ bắt tuốt cả
dép, nếu ban ngày chúng mò thấy được.
Những người trong đội đến phiên
được sấy giầy, người đi dép, người để nguyên cả vải quấn chân, người dẫm chân
không.
- Nhanh chân lên! nhanh lên! -
tên giám thị quát tháo.
- Bọn bay muốn ăn gậy lắm hả, đồ
mắc dịch! - tên trưởng trại có mặt tức thì.
Tất cả bị dồn sang nửa kia của
trại và những người ra cuối cùng phải đứng ở ngoài hành lang. Sukhov đứng ở
ngoài đó, áp người sát vào tường gần nhà vệ sinh. Sàn nhà ướt át dưới chân anh,
một ngọn gió buốt lạnh luồn vào từ chỗ cửa ra vào.
Mọi người đã bị đuổi hết sang
nửa bên kia nhà và tên giám thị cùng với tên trưởng trại xá lại đi lục soát xem
còn ai ở lại nấp trong bóng tối. Bởi vì đếm không đủ tù - khốn nạn, đếm thừa tù
- cũng khốn nạn. Thế là lại phải kiểm lại từ đầu.
Hai tên sục sạo, sục sạo chán
rồi quay trở lại chỗ cửa.
- Một, hai, ba, bốn... - Bây giờ
thì chúng nhanh chóng cho từng hàng năm người vào một.
Sukhov là người thứ mười tám qua
vòng kiểm soát, anh phóng vội về giường. Đặt một chân lên mép giường tầng dưới,
anh tung người và đánh soạt một cái đã ở trên chỗ của mình.
Tốt rồi. Hai chân lại đút vào
hai tay áo bông, đắp chăn lên người và trên cùng là áo trấn thủ.
Ngủ thôi! Bây giờ anh em phạm ở
nửa nhà bên sẽ bị lùa sang bên này. Họ cứ việc kiểm, chả động dạng gì đến mình.
Sezar trở về giường. Sukhov đưa
xuống trả hắn cái bao đựng đồ ăn.
Aliosa cũng đã quay về. Hắn
chẳng khôn gì cả. Có cái gì cũng cho mọi người, mà bản thân nào có kiếm được gì.
- Cầm lấy, Aliosa! - Anh đưa hắn
một chiếc bánh bích quy.
Aliosa nhoẻn miệng cười:
- Cám ơn anh. Anh đã chẳng có...
- Ăn đi! Tớ chẳng có, nhưng tớ
còn kiếm được.
Và anh bỏ miếng giò vào miệng.
Răng anh nhai miếng giò! Răng đang nhai. Ôi chao cái vị của thịt. Nước của
thịt. Thịt chính hiệu. Nó đang trôi xuống bụng.
Nhoằng một cái, miếng giò đã
biến mất.
Những thứ còn lại, Sukhov nghĩ
bụng, mình sẽ ăn trước giờ điểm danh buổi sáng.
Và anh kéo tấm chăn mỏng, đã lâu
không giặt, trùm đầu. Lúc này anh đã không còn nghe thấy ở các lối đi giữa các
dãy giường mỗi lúc một chật cứng tù nhân của nửa trại bên: họ chờ người ta đang
lục soát chỗ của họ.
Sukhov nhắm mắt ngủ và anh thấy
thật hài lòng. Ngày hôm nay thật may mắn: không phải vào nhà đá, đội của anh
không bị lùa đi làm ở Khu Dịch Xá, bữa trưa anh gặt hái được thêm một bát cháo,
đội trưởng nâng được năng xuất cho anh em, xây tường thật vui vẻ, qua mặt được
bọn kiểm soát miếng sắt mẻ, kiếm được tí chút của Sezar, lại còn mua được cả thuốc
lá. Và không bị bệnh. Cơn đau buổi sáng đã qua khỏi.
Một ngày đã qua gần như không
một điều phiền muộn. Có thể coi là một ngày hạnh phúc.
Trong hạn tù của anh, từ tiếng
kẻng này tới tiếng kẻng khác, có ba nghìn sáu trăm năm mươi ba ngày như thế.
Vì vướng mấy năm nhuận, nên bị
dôi thêm ba ngày...
Hết
* Bap-tit - một giáo phái thuộc
Cơ đốc Tân giáo (Tin Lành) xuất hiện đầu thế kỷ XVII (hiện truyền bá rộng rãi ở
Mỹ). Giáo phái này giản lược sự sùng bái và tổ chức nhà thờ; Lễ rửa tội tiến
hành cho người lớn vì cho rằng rửa tội cho con trẻ chưa có ý thức là sự lừa dối
và nhạo báng đức tin. (ND)
** Viatich - dân tộc thiểu số
Đông Slavơ sinh sống ở thượng lưu và trung lưu sông Oka.
-------------
Chú thích:
1. Barak - nhà ghép bằng gỗ
trong khu trại giam. Tuỳ theo diện tích và sự phân chia của cấp trên, mỗi nhà
có từ một vài tới nhiều đội tù ở. Ở đây chúng tôi dùng từ “trại” chỉ nhà giam
đó. Trại số chín, nơi Sukhov ở, chia làm hai ngăn và có tới hơn 400 người
(khoảng 20 đội).
2. Buslat - áo khoác bông không
tay, chúng tôi dịch là áo trấn thủ.
3. Osobyi lager - Trại giam đặc
biệt , tức trại có quy chế đặc biệt hà khắc.
4. Volkov - tiếng Nga có nghĩa
là chó sói.
5. Điều 58 - một điều khoản nổi
tiếng trong bộ Luật hình sự Xô Viết, bao trùm một phạm vi rất rộng những tội
danh được gọi là “chống Xô Viết”: gián điệp, phá họai, tuyên truyền chống chế
độ... và được giải thích để bao quát toàn bộ những hành động của “bất cử phần
tử nguy hiểm nào về mặt xã hội”. Dưới thời Stalin điều khoản này được áp dụng
rộng rãi và bừa bãi cho cả những ai bị tình nghi là bất mãn xã hội.
6. “Công nhân tự do” - volnye -
chỉ những người ở “bên ngoài” (na vole), mà hầu hết là cựu tù nhân mãn hạn,
nhưng bị tước quyền trở về quê quán. Họ ở lại sinh sống trong các vùng gần các
khu trại giam và làm việc trên các công trường xây dựng.
7. Tên Ivan gọi thân mật.
8. Cựu giáo - giáo phái li khai
khỏi Giáo hội Chính thống Nga, không chấp nhận một số cải cách do Giáo trưởng
Nikon đề ra ở thế kỷ XVII. Những tín đồ cựu giáo bị ngược đãi cả ở thời kỳ Xô
Viết.
9. Tướng Bendera - Stepan
Bendera, người lãnh đạo cuộc nổi dậy của binh lính ở Tây Ukrain. Thời kì đầu
chiến tranh Bendera hợp tác với quân Đức chống lại Liên Xô, song sau đó ông
không còn ảo tưởng về nước Đức Quốc xã nữa và tiến hành chiến tranh du kích
trên lãnh thổ Liên Xô. Năm 1959 bị ám sát tại Đức..
10. Trên các công trường xây
dựng ở Nga, người ta không xách vữa bằng sô, mà dùng một cái máng gỗ (hoặc sắt
tây, có tay cầm ở hai đầu để khiêng, trông giống như một chiếc cáng. Ở đây
chúng tôi dịch là cáng, hoặc máng.
11. Sergei Kirov - uỷ viên Bộ
chính trị và là Bí thư Thành ủy Leningrad. Ông bị ám sát năm 1934. Cái
chết của ông tạo cớ cho những vụ bắt bớ, đàn áp tập thể, mở đầu cho chiến dịch
đại thanh trừng năm 1936-1938 ở Liên Xô.
12. Nguyên văn : “Ê,
Stakhanovich!” - Stankhnovich là tên một công nhân đạt danh hiệu anh hùng lao
động toàn Liên Bang năm 1935, trở thành điển hình cho toàn quốc học tập. Phong
trào Stankhanovich được nhân rộng rãi trong nhiều thập niên tại Liên Xô.
13. Mỗi Xa-gien bằng 2,134m.
14. Hai người đang nói về phim
Chiến hạm Potemkin của đạo diễn điện ảnh Xô Viết nổi tiếng Eizenstein thực hiện
năm 1925. Phim nói về cuộc nổi loạn của thuỷ thủ trên chiến hạm Potemkin trong
phong trào nổi dậy chống Nga Hoàng bất thành tại Nga năm 1905. Tác phẩm điện
ảnh này đã trở thành cổ điển trong làng điện ảnh thế giới, nó có ảnh hưởng
không nhỏ tới trường phái điện ảnh hiện thực. Đây cũng là một trong những cuốn
phim đầu tiên sử dụng kĩ xảo montage (cắt dán).
15. Iuri Zavadski (...) - nhà
họat động sân khấu nổi tiếng của Liên Xô.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét