Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần II
7
Trời không chuyển sang mùa đông. Tuyết đã
rơi trước lễ Đức mẹ, nhưng sau ngày lễ người ta lại có thể cho gia súc ra ăn cỏ
ngoài đồng. Gió nồm thổi suốt một tuần, trời ấm lại, mảnh đất lại tỉnh táo,
ngoài đồng cỏ, cỏ xanh cuối mùa loăn xoăn như rêu cố nở vớt những đóa hoa tươi
thắm.
Thời tiết ấm trở lại cho đến ngày lễ thánh
Misen. Sau đó lại bắt đầu rét ngọt, tuyết đổ xuống như trút, và mỗi ngày một
rét dữ. Lại rơi thêm một phần tư ác-sin tuyết. Trong các vườn rau hoang vắng
ven sông Đông, những chuỗi vết chân thỏ hình cánh hoa chạy qua bên dưới những
dãy hàng rào tuyết phủ đến ngọn, nom như những hình thêu rua trên áo các cô
gái. Phố xá không một bóng người.
Khói phân khô bốc lên tãi ra khắp thôn. Vài
con quạ đen tìm đến chỗ có người ở đi đi lại lại gần đống tro đổ ven đường. Xe
trượt tuyết chạy trong thôn vạch thành những đường ngoằn ngoèo trông như những
dải vải xanh bạc màu.
Một hôm trên bãi họp việc làng có một cuộc
họp: sắp đến ngày chia phần chặt củi. Dân trong thôn, kẻ áo da dài, người áo da
ngắn, đứng chen chúc bên thềm nhà hội đồng, những chiếc ủng dạ dẫm ken két. Vì
lạnh nên mọi người ùa cả vào trong nhà. Những người già cả, râu bạc như cước,
được trọng vọng thì được ngồi ở cái bàn bên cạnh lão ataman và viên thư ký. Còn
bọn Cô-dắc ít tuổi hơn, râu đủ các màu hoặc chưa có râu thì đứng túm tụm từng
đám, chuyện trò ầm ĩ qua những cái cổ ấm của áo lông cừu. Viên thư ký viết những
dòng li ti trên một tờ giấy. Lão ataman nhìn qua vai hắn xem hắn viết. Trong
khi đó căn phòng của nhà hội đồng ầm ĩ những giọng nói cố nén thầm:
- Cỏ bây giờ thì...
- Hừ-hừ... Cỏ ngoài bãi còn cho bò ngựa ăn
được, chứ trên đồng cỏ thì chỉ có loại linh lăng hương chẳng được tích sự gì.
- Thời các cụ xưa có thể thả bò ngựa cho ăn
cỏ tới Nô-en cơ đấy.
- Thế thì thú cho bọn Kalmys lắm nhỉ?
- Hừ-ừ-ừm...
- Cổ của lão ataman cứ như cổ chó sói ấy:
lão có xoay đầu được đâu!
- Lão bạnh cổ ấy ăn hốc lắm vào, béo như
con lợn, thật là của quỷ!
- Thế nào ông thông gia, ông sợ lạnh à? Sao
phải mặc một cái áo da ghê gớm như thế này...
- Hôm nay có thằng Di-gan bán chiếc áo
da...
- Một đêm Nô-en, bọn Di-gan ngủ trên đồng cỏ,
chẳng có gì đắp. Một thằng đắp cái lưới đánh cá, ruột già ruột non lạnh cứng cả
lại. Nó tỉnh dậy, thò một ngón tay qua mắt lưới, rồi bảo mẹ nó: “Hừ-hừ, mẹ ơi,
sao ngoài sân lạnh dữ đến thế này!”.
- Lạy Chúa tôi, đường trơn đến nơi rồi.
- Đến phải đóng móng sắt cho bò mất, chẳng
còn cách nào khác cả.
- Mấy hôm nọ mình đi chặt liễu trắng ở khe
Con quỷ, đẹp đẹp là...
- Zakha à, có cài khuy quần vào không...
Cóng sun lại thì cái mụ nhà bác đến tống cổ bác đi thôi.
- Này, bác Apdeit, bác chăn con bò mộng giống
của thôn đấy phải không?
- Tôi không nhận chăn nữa rồi. Mụ Paranca
Mrykhina chăn đấy. Mụ ta bảo: “Tôi góa chồng, chăn cho vui cửa vui nhà”. Tôi bảo:
“Chịu khó mà chăn, may ra còn sinh con đẻ cái...”.
- A-hà-hà-hà-hà!
- Ô-khồ khồ-khồ-khồ!
- Thưa các cụ bô lão! Cái chuyện chia củi
chúng ta sẽ giải quyết thế nào đây? Khẽ chứ nào!
- Tôi bảo rằng nếu có sinh con đẻ cái...
tôi sẽ làm bố đỡ đầu cho...
- Yên lặng một chút! Chúng tôi tha thiết đề
nghị!
Cuộc họp bắt đầu. Lão ataman vuốt cái
na-xê-ca [gậy
tượng trưng cho chức quyền ataman] lấm tấm hơi nước, réo họ tên những
người được chia, hơi lão thở ra trắng như khói và thỉnh thoảng lão lại đưa ngón
tay út lên gỡ những miếng băng nhỏ trên râu. Sau lưng lão, bên cái cửa luôn đập
thình thình, người ta chen chúc, hơi bốc ngùn ngụt, tiếng sì mũi ầm ĩ.
- Thứ năm không thể lấy làm ngày đốn củi được
đâu! - Gã Ivan Tomilin nghiêng cái đầu đội mũ cát-két màu lam của lính pháo
binh, xát xát hai cái tai đỏ tía, cố hét át tiếng lão ataman.
- Tại sao vậy?
- Này cái anh pháo thủ hạng bét kia, giứt
béng hai cái tai đi cho xong!
- Chúng ta sẽ khâu thay vào cho hắn hai tai
bò.
- Thứ năm, đến nửa thôn phải tập trung đi
chở cỏ rồi còn gì. Chúng ta hãy bàn cho kỹ đã!
- Thế thì đi đốn củi ngày chủ nhật vậy.
- Thưa các cụ bô lão!
- Chẳng sao cả!
- Chúc mọi sự tốt lành!
- Khư-ừ-ừ-ừ-ừ!
- Khô ồ-ồ-ồ ồ!
- Khà à-à-à-à!
Lão già Matvey Casulin vươn mình qua cái
bàn lung lay như răng bà lão, cầm cái nạng làm bằng gỗ tần bì nhẵn thín xỉa xỉa
về phía Tomilin. Lão bực tức rít lên:
- Cái chuyện cỏ hãy để lại đã! Có gì phải
lo cơ chứ? Việc ấy là việc chung... Anh vốn dĩ chỉ quen chọc gậy bánh xe mà
thôi. Anh bạn trẻ của tôi ạ, anh xuẩn vừa chứ! Đây này! Anh hãy xem! Đây này...
- Chính lão mới là cái thằng đến già mà vẫn
phải dựa vào trí khôn của láng giềng... - Gã cụt tay Aleksey đứng ở những hàng
sau nhô đầu lên phía trước nói liến thoắng. Gã nháy mắt lia lịa, bên má thủng lỗ
chỗ giật giật như lên cơn thần kinh.
Đã sáu năm nay, gã mang thù với lão Casulin
chỉ vì một mẩu đất cày dôi. Mùa xuân năm nào gã cũng nện cho lão già một trận,
mà của đáng tội, lão kia cũng chỉ chiếm của gã một mảnh đất bằng một phần tư
con chim sẻ, nhăn mặt một cái là có thể nhổ phẹt bãi nước bọt từ bên này sang
bên kia.
- Thôi câm đi, cái thằng kinh giật!
- Tiếc là quá xa, không với tới, nếu không
ông đã cho mày một quyền đổ máu mũi rồi!
- Này, cái thằng cụt tay nháy mắt!
- Thôi cả hai im đi, lại gây sự với nhau rồi!
- Có muốn cắn nhau thì cút ra sân mà cắn
nhau! Đúng thế đấy.
- Thôi đi, Aleksey, cậu xem kìa, lão già đã
hết hồn hết vía rồi, cái mũ lông trên đầu lão đang nảy bần bật lên kia kìa.
- Những ai đánh nhau cãi nhau thì cho vào
nhà giam!
Lão ataman đấm mạnh xuống chiếc bàn ọp ẹp:
- Tôi gọi cảnh sát bây giờ đây! Có im đi không!
Những tiếng ầm ầm lặng đi, lan dần xuống tới
những hàng cuối cùng rồi im hẳn.
- Thứ năm trời rạng là đi đốn củi ngay.
- Thưa các cụ bô lão, các cụ thấy thế nào?
- Mong mọi sự tốt lành!
- Cầu Chúa che chở!
- Ngày nay chúng nó không chịu nghe lời người
già nữa rồi...
- Không lo, rồi chúng nó sẽ phải vâng lời
thôi. Chẳng nhẽ không kiếm được cách nào trị chúng nó hay sao? Cái thằng Aliosa
thổ tả nhà tôi, định đánh cả tôi. Tôi đã làm cho nó phải câm miệng ngay: “Tao sẽ
ra trình với ông ataman và bô lão trong thôn, người ta sẽ lôi mày ra bãi họp việc
làng mà nện cho một trận...”. Thế là nó phải biết thân ngay, phải nằm rạp xuống
như ngọn cỏ dưới nước lũ.
- Còn việc này nữa, thưa các cụ bô lão, tôi
vừa nhận được lệnh của ông ataman trấn. - Lão ataman thôn đổi giọng, xoay xoay
đầu, cái cổ đứng của chiếc áo quân phục nâng hẳn lên, siết chặt lấy cổ lão. -
Thứ bảy này, những ai đến tuổi tráng đinh đều phải làm lễ tuyên thệ. Trước lúc
trời tối đã phải có mặt ở nhà hội đồng trấn.
Ông Panteley Prokofievich co bên chân thọt,
đứng bên cạnh ông thông gia ở chỗ cái cửa sổ sát với cửa ra vào. Miron Grigori
phanh chiếc áo da dài ngồi trên bậu cửa sổ, một nụ cười lấp loáng sau chòm râu
hung hung. Sương muối long lanh trên hai hàng mi ngắn cũn, trắng phếch. Những
cái nốt ruồi nâu to tướng mọng máu vì lạnh xám ngắt đi. Cạnh đấy, một đám Cô-dắc
trẻ hơn đứng túm tụm, nháy mắt cho nhau, mỉm cười. Lão Apdeit, biệt hiệu là Vua nói phét, kiễng chân đứng lắc lư giữa
đám với chiếc mũ lông đỉnh màu lam có đính chữ thập bạc của trung đoàn
Atamansky lật ra sau cái gáy phẳng lì. Apdeit cùng tuổi với ông Panteley
Prokofievich nhưng chưa có vẻ gì là già, cặp má lúc nào cũng đỏ hồng hồng như
quả táo chín.
Apdeit có đi lính trong trung đoàn ngự lâm
Atamansky. Lúc đi lão còn mang cái họ là Xinhilin, nhưng lúc về lão đã trở
thành... Vua nói phét.
Lão là người đầu tiên trong thôn được biên
chế vào trung đoàn Atamansky và một điều quái đản đã xảy ra với lão Cô-dắc này,
Apdeit đã lớn lên cũng như tất cả các thanh niên khác, chỉ phải cái hồi ít tuổi
hơi ngớ ngẩn một chút, nhưng đi lính về thì mồm mép liến thoắng không lúc nào
ngơi. Ngay hôm đầu, vừa về thôn, Apdeit đã bắt đầu kể cho mọi người nghe những
mẩu chuyện lạ lùng về thời gian lão đóng trong cung điện của vua Nga, và về những
việc phi thường lão đã làm ở Peterburg. Đầu tiên người ta còn kinh ngạc, há hốc
miệng ra nghe, tin là thật, nhưng sau cũng biết là Apdeit nói khoác. Quả thật từ
khi các cụ thành lập thôn này cho đến nay, chưa từng thấy có một tay nói khoác
như thế bao giờ. Khi đã có chứng cớ rành rành là những chuyện kỳ dị của lão đều
do lão bịa ra, người ta cười ngay vào mũi lão, nhưng lão cũng chẳng đỏ mặt (có
lẽ lão cũng có đỏ mặt đấy, nhưng vì da lão lúc nào cũng đã đỏ rồi nên người ta
không nhận ra thôi) và sau đó vẫn tiếp tục nói khoác như thường. Về già, lão
càng thêm điên cuồng rồ dại. Nếu bị hỏi vặn đến cứng lưỡi thì lão nổi khùng,
gây sự đánh nhau, nhưng nếu người ta lặng thinh, chỉ mỉm cười chế nhạo thì lão
càng một tấc đến trời, bất chấp những lời thiên hạ chế giễu.
Trong công việc làm ăn, Apdeit là một tay
Cô-dắc tháo vát, chăm chỉ cần cù, việc gì cũng làm đâu vào đó, có khi còn khôn
ngoan ranh ma nữa là khác. Nhưng hễ động đến chuyện lão đi lính ở trung đoàn
Atamansky... là bất cứ ai cũng phải khoát tay vì ngạc nhiên hay ôm bụng ngồi xuống
đất mà cười nôn ruột.
Hôm nay Apdeit lại lắc lư trên đôi ủng dạ
mòn gót, đứng giữa một đám Cô-dắc xúm đông chung quanh. Lão đưa mắt nhìn khắp
lượt rồi nói bằng một giọng trầm trầm đầy vẻ nghiêm trọng:
- Những thằng Cô-dắc ngày nay hoàn toàn là của
vứt đi. Loắt choắt, nhỏ bé, chẳng được tích sự gì cả. Bất cứ thằng nào cũng xỉ
mũi bẻ cái làm đôi được. Nói tóm lại... - Lão mỉm một nụ cười khinh bỉ, lấy mũi
ủng di di bãi nước bọt. - Ở trấn Vosenskaia tôi đã từng thấy những xương người
chết, đó mới thật là người Cô-dắc, đúng thế đấy!
- Đào được ở đâu thế, bác Apdeit? - Gã
Anikey mặt mũi nhẵn thín vừa hỏi vừa hích khuỷu tay vào gã đứng bên.
- Thôi ông bạn đồng ngũ ơi, tết nhất đến
nơi rồi, đừng khoác lác nữa làm gì. - Ông Panteley Prokofievich nheo cái mũi mỏ
quạ, lắc lắc chiếc vòng tai. Ông vốn không ưa những chuyện ba hoa.
- Không đâu ông bạn ạ, từ thủa cha sinh mẹ
đẻ đến giờ tôi có nói điều gì không đúng sự thật bao giờ đâu, - Apdeit tuyên bố
rất long trọng rồi ngạc nhiên giương mắt nhìn Anikey run bần bật như lên cơn sốt
rét. - Tôi đã được thấy những cái xương người chết ấy, hôm người ta làm nhà cho
cậu em vợ tôi. Vừa bắt đầu đào móng là quật lên được một ngôi mộ. Đúng là xưa
kia ven sông Đông, ở gần nhà thờ đã có một cái bãi tha ma.
- Thế những cái xương ấy như thế nào? - Ông
Panteley Prokofievich đã sắp sửa bỏ đi chỗ khác, nhưng lại bực mình hỏi thêm.
- Tay thì thế này này. - Apdeit vung rộng
hai tay như hai cái cào. - Còn cái đầu, thật đấy, tôi không nói ngoa đâu, chẳng
kém gì một cái nồi Ba Lan.
- Này bác Apdeit ạ, tốt nhất bác hãy kể cho
bọn trẻ nghe chuyện bác bắt tên cường đạo ở Saint Peterburg thì hơn. - Miron
Grigorievich xúi thêm rồi khép tà áo lông, tụt trên bậu cửa sổ xuống.
- Chuyện ấy thì có gì mà kể. - Apdeit vờ
khiêm tốn.
- Thôi kể đi bác!
- Tôi van bác đấy!
- Nể chúng tôi một chút, bác Apdeit!
- Thôi được câu chuyện đã xảy ra như thế
này này. - Apdeit húng hắng ho, lấy trong túi quần ra một túi thuốc lá. Rồi lão
khum khum bàn tay, dốc ra ít thuốc vụn và bỏ lại vào túi thuốc hai đồng tiền đồng
rơi trong đó ra. Xong đâu đó lão mới sung sướng đưa mắt nhìn một lượt tất cả những
người đứng nghe. - Có một tên hung thủ bị bắt vừa vượt ngục, trốn khỏi pháo
đài. Đã tìm khắp chốn khắp nơi mà chẳng thấy bóng vía nó đâu cả. Quan lớn quan
bé đều chẳng còn biết đằng nào mà lần. Chim trời cá nước, thế là biệt tăm biệt
tích! Đến đêm ngài sĩ quan giám thủ cho gọi mình. Mình bèn lên gặp... Phải...
Quan giám thủ nói: “Anh hãy vào cung bái yết hoàng đế bệ hạ... Hoàng đế cho vời
anh đấy”. Tất nhiên mình cũng có lo, nhưng vẫn cứ đến. Mình bước vào, đứng
nghiêm và Người, đấng Đại ân đại đức của chúng ta, đưa tay vỗ vai mình và bảo:
“Có chuyện thế này, Ivan Apdeit ạ, tên hung phạm nguy hiểm nhất đối với quốc
gia đã trốn mất rồi. Dù phải thăng thiên độn thổ, nhà ngươi cũng phải tìm bắt
cho được nó. Nếu không đừng vác mặt về trông thấy trẫm nữa!”. Mình bèn trả lời:
“Thần xin lĩnh chỉ, thánh thượng vạn tuế!”. Chà-à-à, các cậu ạ thật là một chuyện
làm mình tơi bời ruột gan... Mình bèn vào chuồng ngựa của hoàng đế, thắng những
con tuấn mã hạng nhất vào một chiếc troika
[Một loại xe
ba ngựa kéo, rất nhẹ, có thể dùng làm xe thi], thế là xuất phát, xuất
phát. - Apdeit châm thuốc hút, rồi đưa mắt nhìn một lượt những người đang cúi đầu
lắng nghe. Lão phấn khởi hẳn lên, cất giọng oang oang qua làn khói thuốc chập
chờn quanh đầu. - Ngày rong ruổi, đêm ruổi rong, đến ngày thứ ba thì tóm cổ được
cu cậu ở gần Moskva. Mình quẳng luôn anh bạn thân mến ấy lên xe rồi lại đường
cũ đánh nước mã hồi. Nửa đêm mới về đến nơi, từ đầu đến chân những bùn là bùn,
nhưng mình vẫn đi thẳng đến chỗ Ngài ngự. Tất cả các công tước, bá tước to nhỏ
đủ mọi kiểu không cho mình vào, nhưng mình vẫn cứ vào. Phải... Mình gõ cửa:
“Muôn tâu thánh thượng, thần xin phép được vào. Ngài ngự hỏi: “Ngươi là ai thế?”.
Mình thưa: “Tâu thánh thượng, thần đây, Ivan Apdeit đây”. Trong nhà lục đục loạn
cả lên, rồi mình nghe thấy chính Ngài ngự quát: “Bà Maria Fedorovna [tên cúng cơm của
hoàng hậu] đâu? Dậy mau lên, mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi
đấy?”...
Những hàng phía sau phá lên cười như nắc nẻ.
Viên thư ký đang đọc tờ thông báo về gia súc bị thất lạc bị tắc ở câu: “chân
trái vá trắng tới gót”. Lão ataman vươn cổ như con ngỗng, giương mắt nhìn đám
người đang cười ngặt nghẽo.
Apdeit bỏ chiếc mũ lông ra, cau mày, ngơ
ngác đưa mắt nhìn từng người một.
- Hượm đã nào!
- Ô-hô-ha-ha-ha!
- Chao ôi, chê-ê-ết cười được!
- Khặc-khặc-khă-khă-khặc!
- Apdeit, cái con chó hói, ô-hô-hô!
- “Mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy!”...
Ái chà chà!
Những người đến họp bắt đầu ra về. Những
cái ngưỡng cửa làm bằng gỗ ở thềm bị lạnh giá cọt kẹt mãi không thôi. Stepan
Astakhov cùng một gã Cô-dắc đang vật nhau trên đống tuyết bị dẫm nát bên cạnh
nhà hội đồng cho nóng người. Gã này cao lớn, chân dài nghêu, là chủ cái máy xay
gió kiểu Hà Lan.
- Bẻ quặt tay qua đầu! - bọn Cô-dắc đứng
vây quanh mách miếng.
- Stepan, lắc cho nó phọt cám ra đi!
- Cậu không đủ sức chộp được nó đâu! Thằng
cha này láu cá lắm đấy! - Lão Casulin thích quá, cứ nhảy cỡn như một con chim sẻ,
vì quá mải mê theo dõi, lão không biết rằng một giọt nước mũi sáng sáng rất to
đang lủng lẳng ở đầu cái mũi xám ngoét của lão.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét