Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần II
16
Các cuộc họp ở nhà Stokman bắt đầu thưa dần.
Trời sắp sang xuân. Bà con trong thôn đều sửa soạn cho công việc đồng áng mùa
xuân. Đến họp được chỉ có mấy anh chàng ở nhà máy xay. “Bồi” và Davydka cùng
anh thợ máy Kotliarov. Anh em đã gặp nhau hôm thứ năm tuần Thánh [Tuần trước lễ Phục
sinh], lúc trời sắp tối. Stokman ngồi ở bàn thợ, anh dùng một chiếc
dũa nhỏ giũa một cái nhẫn bạc làm bằng một đồng nửa rúp. Một dé ánh sáng của vừng
mặt trời sắp lặn chiếu qua cửa sổ, in lên sàn một cái khung vuông đầy bụi, màu
hồng hồng vàng vàng. Kotliarov loay hoay với cái kìm bấm.
- Hôm nọ tôi có mặt ở nhà lão chủ, tôi đã đến
đấy để nói về chuyện cái pít-tông. Cần phải đem đi Minlerovo, vì chỉ ở đấy mới
có thể chữa đến nơi đến chốn, chứ chúng mình ở đây thì làm gì được? Rạn một vết
bằng ngần này này. - Kotliarov giơ ngón tay út ra hiệu kích thước của vết rạn,
không biết để ai xem.
- Hình như ở đấy có một nhà máy lớn phải
không? - Stokman hỏi, nhưng tay anh vẫn giũa, bụi bạc rất mịn rơi lăn tăn chung
quanh ngón tay anh.
- Có một lò Máctanh. Năm ngoái tôi đã có dịp
đến đấy.
- Anh em thợ có đông không?
- Đông vô kể, đến bốn trăm ấy.
- Thế đời sống của họ thế nào? - Stokman vẫn
vừa làm việc vừa hỏi. Đầu anh lắc lắc, giọng anh tách bạch từng tiếng như người
cà lăm cố gắng gượng nói như bình thường.
- Họ sống sung túc lắm. Không phải là cái
giai cấp vô sản của anh đâu, mà là... cứt mới đúng.
- Sao lại thế? - “Bồi” thấy lạ bèn hỏi. Hắn
ngồi bên cạnh Stokman, những ngón tay vừa ngắn vừa thô đan vào nhau trên đầu gối.
Chàng thợ cán Davydka cứ đi lại lại trong
gian xưởng, bột mì bám đầy trên tóc làm đầu hắn nom như bạc. Đôi ủng mũi nhọn
thốc phoi tiện bắn tung ra. Hắn mỉm cười lắng nghe tiếng loạt soạt vang lên kèm
theo mùi dầu mỡ. Davydka có cảm tưởng như mình đang đi trong một khe núi, lá rụng
đỏ tía. Lớp lá lún xuống rất êm, và bên dưới là chất đất ẩm của khe núi, non trẻ,
co dãn.
- Đó là vì tất cả chúng nó đều sống có của
ăn của để. Thằng nào cũng có một ngôi nhà nhỏ riêng, có vợ và mọi mặt thỏa mãn
sung sướng khác. Ngoài ra trong số ấy một nửa lại theo bọn Báp-tít. [Còn gọi là giáo
phái Tây lễ, một giáo phái của đạo Thiên chúa, chủ trương người lớn tin đạo rồi
mới chịu lễ rửa tội]. Chính lão chủ nhà máy lại là thằng truyền đạo
của chúng nó. Thế là tay nọ rửa tay kia, mà cả hai tay đều đầy cáu ghét, lấy xẻng
cạo cũng không thể nào sạch được.
- Anh Kotliarov nầy, bọn Báp-tít là thế nào
nhỉ? - Davydka nghe thấy một từ ngữ lạ bèn đứng lại hỏi.
- Bọn Báp-tít ấy à? Bọn chúng nó tin Thượng
đế theo kiểu riêng của chúng nó. Cũng đại loại như bọn Pô-li-pôn ấy mà. [Tên gọi nhại những
người theo Cựu giáo]
- Mỗi thằng xuẩn ngu đều có một cách riêng
để mất trí. - “Bồi” nói thêm.
- Thôi để mình kể nhé. Thế là mình đến gặp
Sergey Platonovich, - Kotliarov nói tiếp câu chuyện đã bắt đầu. Đến nhà lão thì
thấy Atepin “Chacha” ngồi ở đấy rồi. Lão bảo: “Anh hãy chờ ở phòng ngoài đã”.
Mình bèn ngồi đợi. Qua cửa phòng có thể nghe thấy câu chuyện họ nói với nhau.
Lão chủ nói với Atepin rằng có lẽ chiến tranh với người Đức sắp nổ ra đến nơi,
và lão còn đọc thêm một đoạn trong sách. Còn “Chacha” thì cậu có biết hắn ta trả
lời ra sao không? Hắn ta bảo: “Tất nhiên tôi không thể đồng ý với ông về chuyện
chiến “chanh” được”.
Kotliarov nhại giọng Atepin giống quá, làm
Davydka há hốc miệng ra cười một tiếng ngắn, nhưng anh chàng chợt nhìn thấy vẻ
mặt nhạo báng của “Bồi”, lại thôi ngay. Kotliarov tiếp tục kể lại câu chuyện
anh được nghe:
- Hắn bảo: “Không thể có chiến “chanh” với nước Nga được vì nước Đức sống
bằng lúa mì của chúng ta”. Đến lúc ấy lại có một thằng nữa nói, nhưng tôi nghe
giọng nói, không nhận được ra là ai, mãi sau mới biết là thằng con lão địa chủ
Litnhitki, một tên sĩ quan. Thằng này nói: “Chiến tranh sẽ nổ ra giữa nước Đức
và nước Pháp để tranh dành những vườn nho, còn chúng ta thì chẳng có gì dính
dáng đến chuyện ấy”.
- Anh Stokman này, anh thấy thế nào hả? -
Kotliarov hỏi Stokman.
Stokman đưa tay ra xa, chú ý ngắm nghía chiếc
nhẫn đã giũa xong và trả lời như cho qua chuyện:
- Tôi không biết đoán trước chuyện sau này
đâu.
- Chúng nó choảng nhau thì chúng mình cũng
chẳng yên thân. Dù muốn hay không, hễ xảy ra chuyện gì mình sẽ bị nắm tóc lôi
vào cuộc thôi, - “Bồi” suy luận.
- Về chuyện này, các bạn ạ, vấn đề là như
thế này này... - Stokman vừa nói vừa nhẹ nhàng lấy lại cái kìm trong tay
Kotliarov.
Giọng anh nghiêm trang, rõ ràng là anh định
giảng giải cặn kẽ.
“Bồi” co lại cho thoải mái, hai chân trượt
từ bàn thợ xuống. Trên khuôn mặt Davydka, cặp môi chúm lại vẫn chưa che kín mấy
cái răng bàn cuốc đẫm nước bọt. Với những lời lẽ rõ, gọn, chắc như đinh đóng cột
mà anh vẫn quen dùng, Stokman phác ra bức tranh về tình hình các nước tư bản đấu
tranh với nhau để dành thị trường và thuộc địa.
Cuối cùng Kotliarov nóng nảy ngắt lời
Stokman:
- Anh hãy hượm đã nào, nhưng chúng ta thì
có gì dính dáng vào những chuyện ấy?
- Cả cậu lẫn những anh chàng khác cũng như
cậu đều sẽ nhức đầu vì những kẻ khác say rượu đấy, - Stokman mỉm cười.
- Anh còn trẻ con gì nữa mà không biết, -
“Bồi” nói ác, - tục ngữ từ xưa đã có câu: “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”!
- Hừ-ừm, - Kotliarov nhăn mặt, cố gỡ cả một
khối rất to những ý nghĩ rối như tơ vò.
- Cái thằng Litnhitki ấy, nó mò đến nhà lão
Mokhov làm gì thế? Định ngấp nghé con gái lão ta hay sao? - Davydka hỏi.
- Của ấy đã qua tay thằng ăn thừa tự nhà
Korsunov rồi còn gì? - “Bồi” vẫn ác khẩu.
- Anh nghe thấy không, Kotliarov? Thằng sĩ
quan ấy gí mũi vào đấy làm gì thế?
Kotliarov giật mình đánh thót, cứ như bị
người ta lấy roi quật vào đầu gối.
- Cái gì hử? Cậu bảo sao?
- Ngủ gật đấy à? Ông già? Đang nói về thằng
Litnhitki đấy.
- Nó ra ga mà. Nhưng còn có chuyện mới lạ
này nữa: mình ở trong ấy bước ra thì thấy trên thềm có một anh chàng, các bạn
có đoán được ra là ai không? Thằng Griska nhà Melekhov. Nó cầm một cái roi nhỏ
đứng đấy. Mình hỏi: “Cậu đến đây làm gì thế, Grigori?”. Nó trả lời: “Tôi đưa
công tử Litnhitki ra ga Minlerovo”.
- Nó đánh xe cho nhà ấy đấy - Davydka nói
xen vào.
- Nó đến ăn cơm thừa của nhà địa chủ.
- “Bồi” ạ, cậu đúng là một con chó xích, bất
kỳ thấy ai cũng sủa.
Câu chuyện lắng đi một chút. Kotliarov đứng
dậy ra về.
- Anh vội đi nhà thờ phải không? - “Bồi”
nói chọc theo.
- Mình thì ngày nào cũng đi lễ.
Stokman tiễn ba người khách quen ra về, rồi
khóa cửa gian xưởng, đi vào nhà trong.
Đêm lễ Phục sinh, những đám mây ưỡn những bộ
ngực đen sì che kín bầu trời, mưa lộp bộp từng giọt. Bóng tối đầy hơi ẩm đè nặng
lên thôn xóm. Trên sông Đông, ngay từ lúc hoàng hôn, băng đã nứt với những tiếng
rên rỉ kéo dài lan dần ra xa. Tảng băng đầu tiên bị cái khối khổng lồ những miếng
băng vụn ép lại bắt đầu ngoi lên khỏi mặt nước với những tiếng ràn rạt. Băng nứt
liền một đoạn bốn vec-xta, cho tới khúc đầu tiên sau khi con sông chảy ra khỏi
thôn.
Rồi băng bắt đầu trôi. Theo nhịp chuông nhà
thờ dóng dả đều đặn, những cánh đồng băng trên sông Đông xô vào nhau, tan vỡ,
làm rung chuyển cả hai bên bờ. Băng trôi đến quãng sông Đông ngoặt sang trái
thì tắc lại. Tiếng nổ ầm ầm và tiếng nứt ràn rạt của những tảng băng xô vào
nhau vang đến trong thôn. Thanh niên kéo đàn kéo lũ đến bên trong tường bao nhà
thờ, trên cái sân lốm đốm những vũng băng tan nhấp nhoáng. Từ trong nhà thờ, tiếng
đọc kinh sang sảng vang ra tới thềm, rồi từ thềm ra sân. ánh đèn nến ngày hội
lung linh vui vẻ sau chấn song các cửa sổ. Trong khi đó, bên trong dãy tường
bao bọn con trai sờ nắn cấu chí bọn con gái, còn bọn con gái chốc chốc lại khe
khẽ rít lên. Họ hôn nhau, họ thầm thì kể cho nhau nghe những chuyện bù khú.
Từ những thôn xa có, gần có, dân Cô-dắc đến
dự buổi lễ thánh vui tươi. Họ đứng chen chúc trong phòng giữ đồ thánh của nhà
thờ. Kiệt sức vì mệt và vì không khí ngột ngạt trong phòng, người ta lăn ra ngủ
trên những chiếc ghế dài, trên các bậu cửa sổ, hoặc ngay trên sàn nhà.
Có những người ngồi trên những ngưỡng cửa sổ
cũ nát hút thuốc, bàn tán về chuyện thời tiết nắng mưa, chuyện công việc đồng
áng mùa xuân.
- Bao giờ thì bà con thôn bác bắt đầu ra đồng?
- Có lẽ đến thánh Tôma thì bắt đầu.
- Nếu thế thì tốt lắm, vì đồng cỏ bên bác
có nhiều cát.
- Mấy năm nay đất đã được thấm nhiều nước.
- Năm ngoái chúng tôi cày thấy giòn như sụn
ấy, cả một dải thượng đẳng điền thẳng cánh cò bay.
- Đunka, ở chỗ nào thế? - Có tiếng léo nhéo
bên dưới thềm nhà giữ đồ thánh.
Cạnh cửa hàng rào nhà thờ, có tiếng lầu bầu,
khàn khàn và thô bạo:
- Chúng mày không kiếm được chỗ nào khác mà
hôn nhau à? Chà hai đứa này... Xéo khỏi chỗ này ngay, quân đốn mạt dơ dáy! Làm
gì mà động cỡn lên thế?
- Ông đang thiếu đôi hay sao? Đến kiếm con
chó cái nhà tôi mà hôn vậy, - Trong bóng tối có một giọng con trai đang vỡ tiếng
cãi lại.
- Cho-o-ó cái à? Này ông cho mày biết...
Rồi có tiếng chân chạy lép nhép, tiếng cười
rộ và tiếng váy con gái loạt soạt.
Nước nhỏ trên mái xuống từng giọt, lanh lảnh
như tiếng thủy tinh. Rồi lại vẫn cái giọng chậm rề rề, lệt sệt như bùn đất đen:
- Hôm kia tôi có đến mặc cả mua cái cày ở
nhà Prokho, tôi đã trả mười hai rúp mà lão còn chưa chịu bán. Với thằng cha ấy
thì không bớt được đồng nào đâu.
Những tiếng hàng rào, lạo sạo, răng rắc vẫn
rền đều trên khắp sông Đông. Hình như dưới kia, bên ngoài thôn, có một người
đàn bà trang sức lộng lẫy, rất khỏe, cao như một cây tiêu huyền, đang vừa đi vừa
loạt soạt những cái vạt váy to lạ lùng.
Đến nửa đêm, khi bóng tối đã đặc sệt như nước
mứt hoa quả, bỗng thấy Mitka Korsunov cưỡi một con ngựa không đóng yên phi đến
bên tường bao nhà thờ. Nó xuống ngựa, buộc dây cương lên bờm ngựa, rồi đưa tay
vỗ vỗ con ngựa vừa chạy còn đương hăng. Nó đứng lại một lát, lắng nghe tiếng vó
ngựa dẫm lọp ọp dưới đất, rồi sửa lại dây lưng, bước vào trong sân. Lên đến thềm
nhà thờ, nó bỏ cái mũ lông xuống, cúi cái đầu cạo dành món tóc như hình một cái
ngoặc đơn không đều đặn để làm lễ. Lễ xong, nó xô đẩy những người đàn bà, len tới
trước bàn thờ. Ở bên trái là cánh đàn ông chen chúc nhau như một đàn cừu đen,
còn bên phải là những mầu sặc sỡ của quần áo phụ nữ. Mitka đưa mắt tìm thấy bố
đang đứng trên hàng đầu, bèn len tới gần. Miron Grigorievich vừa đưa tay lên
làm dấu phép thì Mitka nắm lấy khuỷu tay ông, ghé sát miệng vào cái tai đầy
lông lá của ông, khẽ nói:
- Cha ơi, cha ra ngoài kia một lát.
Cánh mũi phập phồng, Mitka lách qua cả một
hàng rào người dày đặc, nồng nặc đủ mọi thữ mùi: mùi khói nến lờm lợm, mùi những
cơ thể đàn bà đầm đìa mồ hôi, mùi cải mả của những bộ quần áo cất kín quá lâu
(các bộ quần áo này chỉ được lôi từ dưới đáy hòm ra nhân dịp lễ Thiên chúa
giáng sinh hay lễ Phục sinh), mùi da giầy ướt mùi băng phiến, mùi những chất
bài tiết từ những cái dạ dày đói meo qua tuần chay.
Ra đến ngoài thềm, Mitka tì ngực vào vai bố
và nói:
- Con Natalia chết mất!
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét