Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần II
1
Gia phả nhà Sergey Platonovich còn ghi được
những ông tổ xa xưa. Dưới triều hoàng đế Petr đệ nhất*, có lần một chiếc thuyền
chở lương khô và thuốc súng của Nga hoàng xuôi theo sông Đông ra biển Azop. Trên
thượng lưu sông Đông, gần cửa nhánh Khop, có thị trấn Trigonac, dân ở đây
chuyên đầu trộm đuôi cướp. Bọn Cô-dắc trong thị trấn đã lợi dụng đêm tối đánh
úp chiếc thuyền, chém cổ tên lính gác đang ngủ gà ngủ gật, cướp hết lương khô
và thuốc súng, còn thuyền thì họ đánh chìm xuống sông.
*[(1672 - 1725) Hoàng đế nước Nga, đã đánh bại
quân Thụy-Điển ở Poltava, xây dựng thủ đô mới Peterburg, áp dụng văn minh
phương Tây vào nước Nga, và làm cho nước Nga trở thành một cường quốc lớn ở
châu Âu]
Theo lệnh Nga hoàng, quân đội ở Voronez đã
kéo đến đốt trụi thị trấn “cường đạo” Trigonac ấy, và trong khi chiến đấu đã giết
không chùn tay những tên Cô-dắc tham gia đánh cướp chiếc thuyền.
Đại úy Yakirka cùng bốn mươi gã Cô-dắc bị bắt.
Quan quân đã đóng những chiếc giá trên bè, treo cổ tất cả, rồi thả cho trôi xuống
hạ lưu, hòng dùng những chiếc đu ấy để răn đe các trấn đang sôi sục muốn làm loạn
ở miền dưới.
Mười năm sau, một số người Cô-dắc mới di cư
đến và cả những người sống sót sau vụ tàn sát, lại đến sinh cơ lập nghiệp ở
ngay chỗ xưa kia những ngôi nhà của thị trấn Trigonac đã chìm trong khói lửa.
Trấn này lại mỗi ngày một lớn mạnh và đã đắp
được một dãy lũy chiến đấu vây quanh thị trấn. Cũng từ hồi ấy, một tên thám tử
là lão mu-gích Mokhov Nhikiska nhận sắc lệnh của chính quỷền Nga hoàng từ
Voronez đến đây làm tai mắt cho hoàng triều. Lão buôn bán trăm thứ đồ lặt vặt cần
dùng trong đời sống hàng ngày của người Cô-dắc như cán dao, thuốc lá, đá lửa.
Lão mua bán cả những đồ ăn cắp và mỗi năm lão lại đi Voronez hai lần, ngoài miệng
thì nói là để cất hàng, nhưng thật ra chỉ để báo cáo, chẳng hạn tình hình trong
trấn tạm thời vẫn yên tĩnh, dân Cô-dắc chưa âm mưu phạm thêm một tội ác nào.
Dòng họ những tên lái buôn Mokhov chính là
bắt nguồn từ lão Mokhov Nhikiska này. Họ đã sinh cơ lập nghiệp vững vàng trên mảnh
đất Cô-dắc này. Hạt giống của họ đã bay đến trấn này, đã bám rễ ở đây như loài
cỏ dại “móng ngựa”, rồi không ai có tài nào nhổ hết. Con cháu nhà Mokhov đã gìn
giữ như một vật thiêng liêng tờ chứng chỉ gần mục nát mà tỉnh trưởng Voronez đã
trao cho ông tổ của họ, khi lão được phái đến cái trấn làm loạn này. Tờ chứng
chỉ ấy đã được cất trong một cái tráp gỗ đặt trên ổ tượng thánh. Chưa biết chừng
nó còn giữ được đến ngày nay, nếu mồ ma ông nội Sergey Platonovich, nó không bị
đốt ra tro cùng với cái tráp trong một đám cháy lớn. Lão già này máu mê cờ bạc,
của chìm của nổi có bao nhiêu nướng sạch rồi bị phá sản. Sau đó lão cũng xây đựng
lại được cơ nghiệp, nhưng thần lửa đã thiêu hết, thành thử đến đời Sergey
Platonovich, tay này đã phải làm lại từ đầu. Sau khi chôn xong thằng bố bán
thân bất toại, lão đã bắt tay vào kinh doanh với độc một đồng rúp cóc gặm. Đầu
tiên lão lang thang qua các thôn mua lông lợn và lông gà vịt. Sau năm năm sống
cơ cực, năm năm lừa gạt, bòn mót từng đồng xu nhỏ của bà con Cô-dắc các thôn
lân cận, gã buôn lông lợn Seriốtca [Tên dùng để gọi Sergey một cách coi thường] đã
nghiễm nhiên biến thành “ông” Sergey Platonovich, hầu như chỉ một sớm một chiều.
Lão mở ngay ở trấn một quán hàng tạp hóa nhỏ, lấy con gái lão cố đạo dở điên dở
dại, đào mỏ được một món hồi môn không phải là nhỏ, rồi khai trương một cửa
hàng vải, Sergey Platonovich bước vào nghề buôn vải thật là đúng lúc. Vùng tả
ngạn sông Đông toàn là đất khô cằn, nếu không là cát thì cũng là đất sét rắn như
đá. Vì thế, theo lệnh chính quyền quân khu, người Cô-dắc các trấn bên ấy đã phải
di cư sang hữu ngạn từng thôn một. Trấn Kratnokuskaia mới thành lập đã lớn lên
vùn vụt, nhà cửa mọc như nấm. Sát bên những khu đất cũ của bọn địa chủ, hai bên
các sông Tria, Chernaia và Florovka, những thôn mới thi nhau mọc lên ở những
khe, những khoảng đất trũng trên đồng cỏ, cho mãi tới rìa các làng của người
Ukraina: Bà con các nơi ấy thường phải đi hàng năm chục vec-xta hoặc xa hơn nữa
mới mua được hàng, thế mà nay lại thấy ngay một cửa hiệu với những cái giá bằng
gỗ thông mới tinh, xếp đầy các thứ vải vóc tơ lụa thơm phức. Vì thế nên việc
buôn bán của Sergey Platonovich mỗi ngày một kéo rộng ra như một chiếc
accordeon. Ngoài các thứ hàng vải vóc lão còn buôn tất cả các thứ cần thiết cho
cuộc sống đơn giản ở nông thôn: đồ da, muối, dầu hỏa, hàng tạp hóa. Thời gian gần
đây, lão còn cung cấp cả máy móc nông nghiệp. Những chiếc máy gặt, máy cày, máy
quạt thóc, máy sàng thóc đã từ nhà máy Arsaisky đến xếp hàng ngay ngắn bên cửa
hiệu hai cánh màu xanh lá cây, mùa hè rất mát. Làm thế nào mà đếm được xem
trong hầu bao người ta có bao nhiêu tiền, nhưng chắc chắn là công việc buôn bán
đã đem lại cho con người thừa tài xoay xở Sergey Platonovich những món lời
không phải nhỏ. Ba năm sau, lão mở thêm một nơi thu mua và chứa lúa mì, rồi một
năm sau, khi mụ vợ thứ nhất của lão qua đời, lão lại bắt tay vào xây một nhà
máy xay chạy bằng hơi nước.
Trong bàn tay ngăm ngăm, đầy những lông
thưa nhưng đen bóng, Sergey Platonovich đã nắm rất chặt thôn Tatarsky cùng các
thôn lân cận. Chẳng có nhà nào không phải ký tên trên mảnh giấy màu xanh lá
cây, viền hoa màu da cam nhận thực còn chịu của Sergey Platonovich một món tiền
mua máy gặt hoặc tư trang cho con gái về nhà chồng (sắp đến ngày con gái mình
phải về nhà người ta rồi mà kho thu mua Paramonovsky lại dìm giá lúa mì quá hạ,
thành thử cũng đành tặc lưỡi: “Ông Sergey Platonovich, ông cho tôi mua chịu vậy!”).
Nhưng thiếu gì những chuyện khác nữa... Nhà máy xay có chín công nhân, cửa hiệu
thuê bảy người, thêm kẻ hầu người hạ trong nhà bốn người nữa, hai chục miệng ăn
ấy đều trông mong vào sự ban ơn của lão lái buôn. Mụ vợ trước để lại cho lão
hai đứa con: đứa con gái tên là Lida và thằng con trai tên là Vladimir, kém chị
nó hai tuổi, bị bệnh tràng nhạc, người héo hon phờ phạc. Anna Ivanovna, người vợ
kế mũi hỉn, khô quắt, chẳng đẻ đái gì cả. Tâm trạng một người đàn bà mãi không
có đứa con nào để có chỗ dốc hết lòng yêu thương của mình, cùng cái tính cáu kỉnh
bực bội mà mụ tích lũy đã lâu năm (sắp ba mươi tư tuổi mụ mới về làm vợ Sergey
Platonovich), tất cả những cái ấy hai đứa con chồng đã phải chịu đựng hết. Tính
tình nóng nảy của mẹ kế đã ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục hai đứa trẻ.
Còn người bố thì quan tâm đến con cũng chẳng hơn gì mức lão để ý tới anh coi ngựa
Nikita hay chị nấu bếp. Công việc làm ăn và các chuyến đi nơi này nơi nọ đã
choán hết thời gian nhàn rỗi của lão: khi thì Moskva, khi thì Nhitnhi, khi thì
Uriupinskaia, khi thì chợ phiên ở các trấn. Thế là hai đứa trẻ cứ lớn lên chẳng
có ai chăm nom dạy dỗ. Mụ Anna Ivanovna vốn thờ ơ ghẻ lạnh, nên cũng chẳng tìm
cách đi sâu vào những điều thầm kín trong tâm hồn con trẻ, hơn nữa công việc
trong nhà lại bề bộn, nên mụ càng không có tâm trí nào làm việc ấy. Vì thế hai
chị em Lida chẳng giống nhau chút nào cả, tính tình mỗi đứa một khác, chẳng có
vẻ gì là cùng một bố mẹ sinh ra. Vladimir càng lớn lên càng cô độc, ủ rũ, mắt
nhìn quằm quặm, vẻ mặt nghiêm nghị như ông cụ non, Lida thì luôn luôn lởn vởn
chỗ bọn hầu phòng, nấu bếp, mấy ả phóng đãng, nếm đủ mùi đời, vì thế đã sớm để
ý tới mặt trái của cuộc sống. Mấy ả đàn bà ấy đã gây cho Lida một tính tò mò
không lành mạnh, ngay từ khi nó còn là một cô bé rụt rè và ngượng nghịu. Thế là
Lida đã lớn lên tự do, chẳng bị ai ngăn giữ, cứ như một bụi sao hoa mọc hoang
trong rừng.
Năm tháng thủng thẳng trôi qua.
Như bao giờ cũng vậy, người già thì ngày
càng già, con con trẻ thì cứ lớn lên mơn mởn như cỏ xanh.
Rồi một hôm trong khi uống trà buổi tối,
Sergey Platonovich đã vô cùng ngạc nhiên khi lão để ý nhìn con gái lão. (Hồi ấy,
Lida đã tốt nghiệp trung học, và đã kịp trở thành một cô gái khá xinh). Lão
nhìn con, cái tách đựng nước trà màu hổ phách cứ nảy bần bật trong tay: “Sao nó
giống mồ ma mẹ nó thế. Lạy Chúa tôi, giống như lột ấy!”.
- Lida, nào, quay lại cho bố ngắm cái!
Lão đâu có biết rằng ngay từ nhỏ, con gái
lão đã giống mẹ nó như đúc.
...Vladimir Mokhov là một học sinh lớp năm,
gầy gò, có khuôn mặt vàng ệch của một đứa bé bệnh hoạn. Nó đang đi trong sân
nhà máy xay. Nó mới cùng chị nó về đây nghỉ hè chưa được mấy ngày. Cũng như mọi
lần, Vladimir vừa về nhà là tới thăm ngay nhà máy xay để nhìn ngang nhìn dọc,
láng cháng giữa những người bê bết bột mì, nghe tiếng những cái trục cán, những
bánh răng quay ầm ầm đều đặn, những cu-roa chạy loạt xoạt. Nó phổng mũi trước
những lời xì xào cung kính của mấy người Cô-dắc đến làm phu khuân vác:
- Cậu chủ, sẽ hưởng thừa tự của ông chủ đấy...
Nó đi rón rén, tránh những đống phân bò và
những cái xe tải để rải rác khắp sân. Vladimir đã ra tới cửa hàng rào mới nhớ rằng
nó còn chưa xem phòng máy. Nó bèn quay trở lại.
Gần một cái phuy đỏ đựng dầu hỏa đặt cạnh cửa
phòng máy, ba người đang xắn quần móng lợn lên đến đầu gối, nhào một bãi đất
sét tròn rất to: anh thợ máy cán Timofey, anh thợ cân biệt hiệu là “Bồi” [Một cây trong bộ
bài tây, còn gọi là “Trếch”] và anh phụ thợ cán Davydka, một anh
chàng còn trẻ có hàm răng trắng lóa.
- A-a-a, cậu chủ!... - “Bồi” chào Vladimir
bằng giọng chế nhạo.
- Chào các anh.
- Chào cậu cậu Vladimir Sergeevich!
- Các anh làm gì đấy?...
- Nhào bùn chứ còn làm gì nữa? - Davydka cười
nhạt bực bội cố rút chân ra khỏi chất bùn đặc sệt nhớp nháp, sặc mùi phân bò. -
Ông cụ nhà cậu tiếc một đồng rúp, không chịu thuê vài mụ đàn bà, lại bắt chúng
tôi phải làm. Thật là thần giữ của! - Davydka nói thêm, hai chân vẫn dẫm ộp oạp.
Vladimir đỏ mặt. Nó cảm thấy ghét cay ghét
đắng cái gã Davydka lúc nào cũng nhăn nhăn nhở nhở, ghét cái giọng khinh bạc,
ghét cả hai hàm răng trắng nhởn của gã.
- Sao lại thần giữ của?
- Còn gì nữa? Hà tiện vắt cổ chày ra nước. Ỉa
ra rồi lại ăn vào được, - Davydka giải thích gọn lỏn rồi lại mỉm cười.
“Bồi” và Timofey cũng cười đồng tình.
Vladimir cảm thấy bị xúc phạm đau nhói như kim châm. Nó nhìn Davydka bằng cặp mắt
lạnh như tiền.
- Sao vậy, như thế là anh không vừa ý có phải
không?
- Cậu đứng vào đây, nhào một lát rồi sẽ biết.
Có thằng ngu xuẩn nào mà lại vừa ý được? Phải đưa ông cụ nhà cậu tới đây, lắc
cho cái bụng của ông ấy nhỏ bớt đi mới được!
Davydka nặng nề đi vòng tròn, người lắc lư,
chân nhấc lên rất cao. Lúc này nụ cười của anh ta đã vui vẻ và chẳng còn chút
gì ác ý nữa.
Vladimir khoan khoái cảm thấy trước sự
thích thú sau khi tìm ra câu trả lời cần thiết. Nó đảo đi đảo lại các ý nảy ra
trong óc và cuối cùng đã lựa chọn xong.
- Được - Nó nói tách bạch từng tiếng, - Tôi
sẽ nói lại với cha tôi rằng các anh bất mãn với công việc.
Nó liếc nhìn vào mặt Davydka và, bất giác
kinh ngạc trước tác động của lời mình vừa nói: Davydka dành môi ra cười gượng gạo
nom đến là thảm hại, còn mặt hai người kia thì nhăn như bị. Cả ba lầm lì nhào đống
đất sét nhão trong một lát, chẳng ai nói gì thêm.
Cuối cùng Davydka không dán mắt xuống hai
bàn chân nhớp nhúa của mình nữa, anh ta ngước nhìn lên và nói bằng một giọng
van lơn, nhưng đầy vẻ bực bội.
- Tôi chỉ nói đùa một câu thôi mà, cậu
Vladimir ạ... Thật đấy, chỉ nói cho vui thôi...
- Tôi sẽ thưa lại với cha tôi những lời anh
vừa nói.
Vladimir cảm thấy nước mắt nó trào ra vì nhục
cho mình, cho bố, cho cả cái mỉm cười thảm hại của Davydka. Nó bước khỏi chỗ
cái phuy dầu.
- Cậu Vladimir! Cậu Vladimir Sergeevich! -
Davydka hốt hoảng kêu lên rồi nhảy ra khỏi đống bùn, làm cho ống quần tụt cả xuống
hai cẳng chân lấm bê bết đến đầu gối.
Vladimir đứng lại. Davydka hổn hển chạy tới
trước mặt nó.
- Cậu đừng nói với ông chủ nhé. Tôi chỉ nói
đùa thôi mà... Tôi ngu xuẩn quá, xin cậu thứ lỗi cho tôi... Thật đấy, tôi chẳng
có ý bậy bạ gì đâu? Chỉ nói đùa thôi mà...
- Thôi được. Tôi sẽ không nói nữa! -
Vladimir cau mày quát lên rồi đi về phía cửa hàng rào.
Thế là ý nghĩ thương hại Davydka đã chiếm
phần thắng. Vladimir đi bên dãy hàng rào sơn trắng, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi.
Từ trong căn lò rèn dựng ở góc sân nhà máy xay vang ra những tiếng búa đập rộn
rã: một nhát trên sắt, trầm và chắc hai nhát trên cái đe dội tiếng, kèm theo tiếng
búa nảy.
- Cậu dây vào nó làm gì hử? - Vladimir đi
đã khá xa còn nghe thấy cái giọng trầm cố nén thấp của “Bồi”. - Không dây vào
thì việc gì phải ngửi thối.
“Thằng chó chết này, nó lại dám cắn càn, -
Vladimir tức sôi lên, nghĩ thầm. - Mình sẽ nói hay không nói bây giờ”.
Nó ngoái cổ lại, thấy Davydka vẫn nhe hai
hàm răng trắng nhởn ra cười như mọi khi, bèn quyết định: “Mình sẽ nói!”.
Trên cái bãi bên cạnh cửa hiệu có chiếc xe
tải thắng một con ngựa, con ngựa bị buộc vào một cái cột. Một bầy trẻ đang đuổi
đàn chim sẻ lông xám xám ríu rít trên mái nhà kho để các đồ chữa cháy.
Từ trên sân thượng vẳng xuống cái giọng nam
trung sang sảng của gã sinh viên Boiarykin. Ngoài ra còn có một giọng rè rè,
khàn khàn, không biết của ai.
Vladimir bước lên thềm nhà. Giàn nho dại
đung đưa rung rinh trên đầu nó, những đám cành lá xum xuê đan vào nhau trên thềm
và trên sân thượng, rủ lủng lẳng từ những hình chạm xanh trên đường gờ của hàng
hiên, nom như những cái mũ lồm xồm màu xanh da trời.
Boiarykin lắc lắc cái đầu cạo nhẵn thín,
xám ngoét, nói với gã giáo viên Balanda ngồi bên cạnh hắn, gã này còn trẻ mà đã
râu ria xồm xoàm:
- Tôi vốn là con một gia đình nông dân Cô-dắc
do đó đã có sẵn một lòng căm ghét hoàn toàn tự nhiên đối với tất cả các giai cấp
được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng trong khi đọc cuốn sách của ông ta, thì ông
thử tưởng tượng xem, tôi đã thương hại một cách lạ lùng các tầng lớp đang chết
dần chết mòn này. Bản thân tôi đã hầu như biến thành một anh chàng quý tộc và địa
chủ, tôi hân hoan đi sâu nghiên cứu lý tưởng của người phụ nữ thuộc tầng lớp ấy,
tôi ủng hộ các quyền lợi của họ. Tóm lại là chẳng làm thế quái nào hiểu được nữa!
Đấy, ông bạn thân mến ạ, thiên tài là như thế đấy! Ngay đến niềm tin cũng có thể
thay đổi được.
Balanda mân mê cái ngù của chiếc dây lưng lụa,
chỉ mỉm một nụ cười nhạo báng, mắt gã cứ đăm đăm nhìn những đường hoa đỏ thêu bằng
sợi len dưới gấu áo sơ-mi của gã. Linda ngả người nằm thuồn thuỗn trên chiếc ghế
bành. Xem ra cô nàng không cảm thấy chút hứng thú gì đối với câu chuyện giữa
hai gã. Vẫn với cặp mắt lúc nào cũng như đang mất một vật gì, đang tìm kiếm một
vật gì, Lida chán ngán nhìn cái đầu xám ngoét, sẹo ngang sẹo dọc của Boiarykin.
Vladimir cúi chào, bước qua, rồi tới gõ cửa
phòng làm việc của bố. Sergey Platonovich đang ngồi trên chiếc ghế bành bọc da
dùng khi hóng mát, giở xem tập “Của cải của nước Nga” [Tạp chí xuất bản Peterburg từ khoảng 1890 rồi
trở thành cơ quan của đảng Dân túy, phản đối chủ nghĩa Mác] số tháng
Sáu. Một con dao bằng xương vàng khè bị rơi nằm trên sàn.
- Con có việc gì đấy?
Vladimir rụt cổ, xốc lại một cách bực bội
cái áo sơ-mi đang mặc.
- Con vừa ở nhà máy xay về... - Nó bắt đầu
nói, giọng hơi ngần ngại, nhưng chợt nhớ tới nụ cười nhạo báng với hàm răng trắng
nhởn của Davydka, bèn vừa nhìn cái bụng căng tròn của bố dưới chiếc ghi-lê bằng
tusso, vừa kiên quyết nói tiếp. - Con
nghe thấy thằng Davydka nói rằng...
Sergey Platonovich chăm chú nghe rồi nói:
- Ta sẽ đuổi cổ nó. Thôi con ra ngoài đi. -
Rồi lão è è trong họng, cúi xuống nhặt con dao.
Tối tối, giới trí thức trong thôn thường tụ
tập ở nhà Sergey Platonovich: Boiarykin, một sinh viên trường Đại học kỹ thuật
Moskva; gã giáo viên ho lao Balanda, một anh chàng gầy nhom, luôn luôn bị cái
thói tự ái làm tình làm tội, ả nhân tình cùng ở với gã là nữ giáo viên Marfa
Gerasimovna, người tròn xoay, tuổi không còn ít nữa nhưng chẳng có vẻ gì là
già, cái váy lót bao giờ cũng mặc thòi ra ngoài, nom hết sức khó coi; chủ sự
nhà dây thép, một thằng cha cổ quái, vợ chẳng có, con thì không, người hôi như
tổ cú luôn luôn nặc mùi xi đóng dấu và mùi nước hoa rẻ tiền. Viên trung úy kỵ
binh trẻ tuổi Epghênhi Litnhitki ở cái trại gần đây với bố là một địa chủ quý tộc,
năm thì mười họa cũng có tạt vào chơi. Chiều chiều họ lên sân thượng uống trà
và kéo dài những câu chuyện vô vị. Mỗi khi cái chuỗi những lời tán gẫu thẫn thờ
đứt quãng, một người nào đó trong đám khách khứa lại ra lên dây cót cái máy hát
đắt tiền nạm đá quý của chủ nhà.
Họa hoằn lắm, nhân những ngày lễ lớn,
Sergey Platonovich cũng muốn làm ra vẻ một chút để che mắt thế gian: lão mời
khách đến ăn, cho họ uống những thứ rượu quý, cho ăn trứng cá chiên tươi đặc biệt
đặt mua trong dịp này ở Bataisk cùng những đồ nhắm ngon nhất. Ngày thường thì
lão sống rất bủn xỉn. Chỉ có một thứ duy nhất mà Sergey Platonovich không tiếc
đối với lão là sách. Lão thích đọc sách và điều gì lão cũng muốn tìm hiểu bằng
bộ óc bám dai như cỏ dại của lão.
Người chung vốn buôn bán với Sergey
Platonovich là Emelian Konstatinovich Atepin, một người tóc vàng, có chòm râu
nhọn hoắt và cặp mắt lươn ti hí. Ít khi Atepin đến nhà Mokhov. Hắn lấy một mụ nữ
tu đã bỏ nhà tu kín Ust-Medvedisk. Hai vợ chồng ăn ở với nhau mười lăm năm trời,
đẻ được tám đứa con. Phần nhiều hắn chỉ ru rú xó nhà. Atepin đã từ một tên thư
ký trung đoàn leo lên một địa vị nào đó trong xã hội, vì thế hắn đã đem về gia
đình cả một lối sống mốc meo, khúm núm, xu nịnh. Có mặt bố, những đứa con chỉ
dám đi rón rén, nói thầm thì. Sáng sáng, lau rửa xong, chúng nó lại vào đứng xếp
hàng trong phòng ăn, bên dưới chiếc đồng hồ treo tường đen sì, to lù lù như một
cái quan tài. Người mẹ đứng sau đàn con. Từ trong phòng ngủ vừa vẳng ra tiếng
húng hắng ho là tất cả đều bắt đầu lao nhao nguyện kinh bằng đủ mọi giọng,
nhưng giọng nào cũng giả dối: “Lạy Chúa, cầu Chúa cứu vớt con chiên của
Chúa...”, rồi “Lạy cha”.
Vợ con Atepin vừa nguyện kinh xong thì hắn
cũng vừa kịp mặc xong quần áo. Hắn nheo cặp mắt lá răm bước ra phòng ăn, rồi
giơ bàn tay mũm mĩm không đeo găng, làm cứ như một ông tổng giám mục. Bầy trẻ lần
lượt tới hôn tay bố. Atepin hôn qua má vợ, rồi nói với âm “tr” phát âm rất sai.
- Bà Polotka, đã pha “chà” chưa?
- Tôi pha rồi đấy, ông Emelian
Konstatinovich ạ.
- Cho đặc đặc vào nhé!
Hắn giữ sổ sách kế toán của cửa hiệu. Dưới
những chữ “Thu” và “Chi” viết đậm nét, trong sổ nào cũng đầy những chữ và con số
viết rất bay bướm, những chữ và con số của một viên thư ký. Lão đọc tờ “Tin tức
thị trường”, mắt chẳng sao mà cũng kẹp vào cái mũi sần sùi một cặp kính không gọng.
Đối với người làm hắn nói năng rất lịch sự
- Bác Ivan Petrovich, bác để giúp cho cái
ông người Tavria [Tavria xưa nay là Krym] này ít vải chúc bâu nhé.
Vợ hắn gọi hắn là ông Emelian
Konstatinovich, các con hắn gọi hắn là cha yêu, còn người làm trong cửa hiệu
thì gọi hắn là Chacha. [Biệt hiệu này chế giễu cái tật của Atepin nói trệch âm
“tr” thành âm “ch”]
Hai lão cố đạo là cha Visarion và trưởng
giáo Pankrati thì có thù cũ nên không đi lại chơi bời với Sergey Platonovich.
Nhưng trong cuộc sống hai người cũng chẳng ăn ý gì với nhau. Cha Pankrati vốn
tính ngang ngạnh, hay thưa kiện và hay xúi nguyên giục bị, chia rẽ những người
sống gần mình. Cha Visarion tính tình lại hồ hởi nên không thích và lảng tránh
trưởng giáo vì lão thấy trưởng giáo quá kiêu ngạo và chỉ hay kiếm chuyện. Cha
Visarion góa vợ, sống với một mụ quản gia người Ukraina. Lão bị giang mai nên nói
cứ ồm ồm giọng mũi.
Trừ gã giáo viên Balanda, tất cả mọi người
đều có nhà riêng trong thôn. Ngay trên bãi, ngôi nhà to lù lù sơn xanh da trời
của Mokhov đứng vênh vang với cái mái tôn bóng nhoáng. Trước mặt, ngay giữa
bãi, cửa hiệu của lão nằm dài ngang ngạnh với cái cửa thông suốt và tấm biển
treo đã bạc màu:
“HÃNG BUÔN MOKHOV S.P VÀ ATEPIN E.C”
Sát cạnh cửa hiệu là dãy nhà kho có hầm vừa
dài vừa thấp. Cách đó chừng hai mươi xa-gien là bức tường bao bằng gạch ôm
quanh nhà thờ như một cái nhẫn, cùng ngôi nhà thờ có cái mái hình cầu nom chẳng
khác gì một củ hành khổng lồ màu xanh lá cây đã quá già. Bên kia nhà thờ là
ngôi nhà trường quét vôi trắng, trang nghiêm với cái dáng của một công thự.
Ngoài ra còn có hai ngôi nhà đẹp: ngôi nhà màu xanh da trời có dãy hàng rào sơn
cùng màu của cha Pankrati, còn ngôi nhà màu nâu (cho khỏi giống) có dãy tường
bao chạm trổi và một cái ban-công rất rộng là của cha Visarion. Ngôi nhà nhỏ của
Atepin, xây hai tầng, cầu kỳ nhưng dơ dáng, nằm từ góc phố này đến góc phố kia.
Sau ngôi nhà này là nhà bưu điện, những cái mái rơm hay mái tôn trên những căn
nhà của bà con Cô-dắc, cái lưng xuôi xuôi của nhà máy xay với những con gà trống
bằng sắt tây gỉ trên mái.
Mọi người sống tự cách biệt với toàn thế giới
bên ngoài, cửa ngoài cửa trong đều cài then đóng kín. Tối tối, nếu không đi
thăm ai, người ta lại chốt cửa, thả những con chó xích, và trong cái thôn chết
lặng chỉ còn nghe thấy tiếng mõ cầm canh của tuần phiên.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét