Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

Tìm lại chính mình (Ch 7)

Tìm lại chính mình
(Tall in the West)

Tác giả: Vechel Howard
Người dịch: Nguyễn Thị Xuân Phương
NXB Văn Nghệ - 1988


7

Jenks bán con ngựa cùng bộ yên cương và khẩu súng ở Brownsville rồi tiếp tục đi đến cảng Isabel trên một chiếc xe ngựa.
Khi xe chạy qua đồng cỏ, anh và người đánh xe có thể nhìn thấy những căn nhà trước khi đến cảng. Con đường ngoằn ngoèo theo một lạch nước tù rồi chạy vào một lối đi hẹp giữa hai đường xe lửa. Một cơn gió nóng từ vịnh thổi vào cuốn theo một đám bụi khổng lồ.
Cảng Isabel không có gì nhiều ngoài một kho chứa hàng, một cột đèn thon nhỏ bằng đá, vài túp lều và một cửa hiệu nhỏ bé. Jenks xin phép được ngủ ở nhà kho chứa hàng trong khi chờ đợi con tàu chở da. Thế là anh đã ở lại đấy gần một tuần lễ, trước khi anh thức dậy vào một buổi sáng và nhìn thấy những cột buồm nhô lên trên mũi đất dài và thấp của hòn đảo ngang qua hồ nước mặn ở gần biển.
Đến trưa, con tàu nhả một đám khói đen lên bầu trời, rồi theo nước thủy triều, nó tiến vào bờ. Đó là một con tàu có guồng ở bên hông với những cột buồm từ mũi đến lái; nó là một con tàu màu trắng, dơ bẩn được đặt tên là Fall River với một đoàn thủy thủ người Ái Nhĩ Lan.
Trong suốt thời gian ở lại cảng Isabel để chờ tàu, thỉnh thoảng Jenks cảm thấy hoài nghi về kế hoạch đi trên con tàu ấy. Anh vẫn nhận thấy rằng anh giống như một người trôi dạt giữa đại dương mà không biết đâu là đất liền gần nhất để anh có thể bám vào; dù sao định hướng được một nơi nào đấy cũng còn tốt hơn là không có gì cả. Và cái tên ấy, cái tên du dương bằng tiếng Tây Ban Nha ấy - California - cứ tiếp tục ngân lên trong tâm trí anh. Jenks nghe thấy nó trong những giấc mơ của anh, một lần nữa anh lại thấy những cảnh sắc mờ ảo trong màn sương, thấp thoáng khuôn mặt đẹp và u buồn của người thiếu phụ.
Tàu Fall River rẽ vào bến nơi có những kiện da bò chất thành đống. Vải vóc và giầy ống được chuyển xuống ký gửi tại một cửa tiệm bán đồ sắt để chuyển đến cho những thương gia ở Brownsville; đồng thời những kiện da bò được đưa lên tàu.
Jenks đi lên cầu tàu cùng với viên quản lý của nhà kho chứa hàng. Khi thuyền trưởng của con tàu và viên quản lý làm công việc giấy tờ của họ, Jenks xin thuyền trưởng cho mình đi nhờ đến California.
Viên thuyền trưởng tên là Mulberry. Vóc dáng của ông thấp, nở nang với cặp mắt xanh lạnh lùng; ông có vẻ là người có văn hóa. Cách nói chuyện của ông cầu kỳ và chính xác. Mulberry hiểu rõ những đường viền kim tuyến trên bộ đồng phục màu trắng cũng như cấp bậc của ông không những ở trên những người dưới quyền cchir huy của ông, mà còn trên tất cả những người ở vùng duyên hải, đặc biệt là những vùng bờ biển không thuộc New Orleans. Rõ ràng thuyền trưởng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn ông đẹp trai với cung cách nói năng lịch sự và y phục đẹp đẽ bước lên tàu của ông ở cái hải cảng xa xôi hẻo lánh này. Sự có mặt của Jenks đe dọa mặc cảm tự tôn của Mulberry, do đó ông lập tức cắt đặt công việc để tỏ rõ quyền lực của mình. Ông nói với Jenks rằng số tiền mà anh đưa không đủ để trả tiền lộ phí đến California; rồi với bộ điệu hờ hững, khinh thường, ông giao cho anh công việc đốt lò. Ông cho biết một người thợ đốt lò của ông đã nhảy tàu ở New Orleans và công việc đòi hỏi một người khỏe mạnh, ông nghĩ rằng Jenks có thể có đủ khả năng để làm công việc ấy.
Jenks nhận lời ngay. Thuyền trưởng gọi một sĩ quan đến để giải thích cho Jenks rõ bổn phận của mình và chỉ chỗ ngủ cho anh. Ngay lúc ấy, con tàu lùi lại và rời khỏi bến, nó lượn một vòng quanh hồ nước mặn để trở đầu rồi hướng ra khơi.
Thế là Jenks bắt đầu làm việc vào buổi trưa nóng như thiêu đốt ấy; anh phải chịu đựng tám giờ đồng hồ ở cái hỏa ngục của lò đốt máy trong khi họ đi dọc theo bờ biển Mexico. Lúc Jenks lên boong tàu thì thuyền trưởng đang đứng cạnh cầu thang dẫn xuống ca bin. Ông mặc bộ đồng phục trắng tinh và đang hút một điếu xì gà. Cặp mắt lạnh lùng của Mulberry nhìn Jenks, ông nói:
- Này Jenks, khoảng một giờ nữa, chúng ta sẽ thả neo và đến sáng sẽ có một chiếc xà lan từ nhà máy đồ hộp Tamaulipas chở da đến. Anh có muốn theo chiếc xà lan ấy để vào bờ không?
- Không. - Jenks đáp.
- Hãy vui lòng nói “thưa ông” khi tiếp chuyện với tôi, Jenks ạ!
- Thưa ông! - Jenks nhắc lại.
- Anh có nhận thấy công việc ở lò đốt máy không quá khó khăn và không đòi hỏi phải suy nghĩ nhiều không, hở Jenks?
- Tôi không nhận thấy thế, thưa ông. - Jenks đáp.
- Tôi rất hài lòng, bởi vì anh sẽ được chứng kiến cái hỏa ngục của lò đốt máy. Còn việc vào bờ trên chiếc xà lan ấy là chuyện đùa thôi, Jenks ạ. Ồ, thực vậy, anh sẽ thấy  là tôi hơi có tính khôi hài đấy! - Mulberry nói và một lần nữa, ông cười lớn.
Jenks nhìn ông ta rồi nói:
- Vâng, thưa ông.
Khi thuyền trưởng quay lưng, anh đi dọc theo boong tàu nóng nực về phòng ngủ ở mũi tàu.
Buổi sáng, sau khi thu nhận những kiện da bò của xứ Mexico xong, con tàu hướng mũi về phía Đông Nam, vượt qua mặt nước màu đồng của vịnh Mexico. Đã nhiều ngày qua, trời không một ngọn gió, thuyền trưởng nổi giận vì số than phải đốt tốn rất nhiều. Rồi một ngọn gió nổi lên và chuyển thành cơn gió lớn trước khi tất cả thủy thủ kịp kéo buồm. Sau đấy, trong nhiều ngày, con tàu được ngọn gió đẩy đi, riêng Jenks - anh đã học tập được những kiến thức về hàng hải. Anh tin chắc rằng trước đây anh không phải là một thợ đốt lò hay là một thủy thủ, bởi vì mặc dù con tàu dường như quen thuộc với anh, nhưng việc leo lên thang dây, kéo chão cột buồm, trả lời tiếng chuông báo, tiếng còi tàu và việc xúc than bằng xẻng thì anh chưa hề biết đến. Chúng không giống như việc cưỡi ngựa hay bắn súng - những công việc này đối với anh rất tự nhiên - anh biết rằng đó là một phần đời sống của anh.
Tàu Fall River lướt trên mặt biển Caribbean đến phía nam của Cuba, Haiti và quần đảo Windward Islands rồi chạy quanh đảo Trinidad để bắt đầu hành trình dài xuống bờ biển phía Nam của châu Mỹ. Giờ đây, trong suốt những ngày nắng chói chang của miền xích đạo, thuyền trưởng Mulberry vênh vang tự đắc đi lại trên tàu, ông chõ mũi vào tất cả mọi việc, phạt roi thủy thủ đoàn với những lời lẽ châm biếm sâu cay. Thuyền trưởng là một người tàn nhẫn và trâng tráo. Các thủy thủ nhận biết sự bạc đãi và đánh đập mà ông ta đối xử với họ; nhưng họ không hiểu được những lời mỉa mai văn hoa bóng bẩy của ông ta. Thế là càng ngày, ông chủ của tàu Fall River càng tìm cách quấy nhiễu Jenks, bởi vì dần dà thủy thủ đã suy tôn anh như một người lãnh đạo của họ, và ngay cả các sĩ quan rõ ràng cũng đối xử với anh một cách kính trọng.
Những lúc có gió thuận thì tàu chỉ chạy bằng buồm để tiết kiệm nhiên liệu. Còn Jenks, sau khi được một sĩ quan lái tàu huấn luyện, anh học cách điều khiển tàu. Bất cứ lúc nào Jenks làm công việc của tài công, thuyền trưởng Mulberry luôn luôn có mặt ở buồng lái. Khi mặt biển yên tĩnh và thời cơ thuận tiện, ông thường ngồi đọc sách ở cái bàn làm việc có tấm hải đồ và nhả khói xì gà Havana thơm phức. khắp căn phòng. Thỉnh thoảng, ông ngừng đọc, ngước lên nhìn Jenks và bắt chuyện với anh. Một ngày kia, Mulberry hỏi Jenks:
- Này Jenks, anh đã đọc Lucretius chưa?
- Tôi không biết về việc ấy, thưa ông. -Jenks đáp.
- Anh nói như thế có nghĩa là gì? - Thuyền trưởng hỏi. - Theo tôi nghĩ, nếu anh đã đọc Lucretius thì anh phải biết chứ, Jenks?
- Vâng, thưa ông.
- Anh từ đâu đến đây hả Jenks?
- Texas.
- Anh có chắc thế không? - Thuyền trưởng hỏi. - Giọng nói của anh không hẳn là người ở vùng ấy. Và tôi phải nhắc anh một lần nữa là anh phải luôn luôn nói “thưa ông” khi tiếp chuyện với tôi, hiểu chứ, Jenks?
- Vang, thưa ông.
- Tôi không hề nghĩ rằng anh là người ở Texas. - Thuyền trưởng nói. - Tôi cá rằng tên của anh cũng không phải là Jenks. Anh đã làm việc gì thế, có phải anh chạy trốn với một số tiền nào đó không, Jenks? Mà có lẽ không phải thế, với dáng dấp đẹp đẽ của anh, thì anh chỉ là một người nghèo tập sự mà thôi. Anh đã giết một người nào đấy, đúng chứ Jenks? Và pháp luật đuổi theo anh bén gót khi anh bước lên tầu của tôi, phải không?
- Tôi không hề biết gì về việc ấy. - Jenks đáp.
Cặp mắt của thuyền trưởng lóe lên, ông nhẹ giọng yêu cầu:
- Tại sao anh từ chối nói “thưa ông” với tôi? Phải chăng anh cho rằng tôi không xứng đáng để được anh gọi như thế? Có phải không, tên đốt lò kia?
- Không phải như thế, thưa ông. - Jenks nói.
- Thế thì tôi thề có Chúa, từ nay trở đi không những anh phải kết thúc bất cứ điều gì anh nói với tôi bằng từ “thưa ông”, mà trước đó anh cũng phải nói “thưa ông” với tôi nữa. Hiểu chưa, Jenks.
- Thưa ông, tôi đã hiểu, thưa ông. - Jenks nói bằng một giọng lãnh đạm.
- Bây gì, hãy nghe đây, Jenks! - thuền trưởng tiếp. - Đối với mỗi từ “thưa ông” mà anh quên nói thì anh sẽ bị trói vào cột buồm và nhận một roi trên lưng. Anh rõ chứ?
- Thưa ông, tôi đã rõ, thưa ông. - Jenks đáp lại một cách mềm mỏng.
Từ đấy trở đi, thuyền trưởng Mulberry theo dõi Jenks. Ông đã bắt đầu một trò chơi và tin chắc phần thắng sẽ về mình. Ông âm mưu thả lỏng Jenks; có khi ông giả vờ niềm nở, dễ dãi với hy vọng Jenks sẽ lơ là và quên dùng từ “thưa ông” khi trả lời ông. Có lúc ông lại làm bộ giận dữ, hỏi dồn, hy vọng Jenks sẽ cuống; lúc khác ông lại vờ như đãng trí khi nói chuyện với Jenks nhằm làm cho anh lầm tưởng rằng tâm trí ông đang để tận nơi nào. Nhưng tất cả mưu chước ấy đều không đạt kết quả gì. Mỗi khi nói với Mulberry, Jenks luôn bắt đầu và kết thúc bằng từ “thưa ông”. Thuyền trưởng nhận thấy thỉnh thoảng Jenks ngừng lại, làm như đã đáp xong câu hỏi của ông, rồi sau đấy anh mới nói thêm tiếng “thưa ông” cuối cùng. Những lúc ấy, thuyền trưởng đã để lộ chân tướng của mình - mắt ông lóe lên đắc thắng khi ông ngước nhìn Jenks, nhưng tiếng “thưa ông” cuối cùng của anh đã làm ông đỏ mặt và bỏ đi nơi khác, hoặc ông lại cúi nhìn xuống quyển sách của mình, miệng lầm bầm những lời nguyền rủa.
Trong lúc tàu Fall River đi xuống những vùng biển xanh tươi của Nam Mỹ để hướng về mũi Horn, thì tính khí của thuyền trưởng Mulberry trở nên tồi tệ tương  ứng với thời tiết càng lúc càng xấu đi. Thay vì cho tàu vào cảng Rio hoặc Montevideo để lấy thêm than và rau quả tươi thì thuyền trưởng cho tàu chạy thẳng về phía Nam. Ông nói với các sĩ quan rằng: bởi vì số lượng than mà họ đã dùng rất ít, do đó số than còn lại đủ dùng cho đến Valparaiso, vả lại trái cây, rau tươi và sự tự do trên bờ là những thứ xa hoa mà không một người nào dưới quyền của ông xứng đáng được hưởng.
Thế là tầu tiếp tục đi qua bờ biển quạnh hiu Tierra del Fuego, rồi vào eo biển Drake và vào biển Antarctic; giờ đây họ phải dùng cả than lẫn buồm để vượi qua mặt biển mênh mông giá buốt. Chân mang đôi giầy ống đẹp của xứ Anh Cát Lợi, người đàn ông tên Jenks - người đã là một kỵ sĩ, một thợ săn bò rừng, hoặc bất cứ là ai đi nữa - thì anh ta cũng đang xúc than, khỏe như lực sĩ Samson trong cái hỏa ngục của lò đốt máy và nhanh nhẹn như một thủy thủ khi người ta yêu cầu anh leo lên cột buồm. Anh là một người thợ đốt lò và là một thủy thủ gan dạ. Khi mọi người run rẩy vì cái lạnh của vùng biển Nam cực thì dường như chỉ mình Jenks có thể đưa tàu vượt qua mũi Horn.
Họ ở trong eo biển Drake năm ngày thì gặp một trận bão, cơn giận dữ hung bạo của khu vực cuối cùng của trái đất hầu như cuốn phăng con tàu khỏi mặt biển. Cánh buồm chính trên cột buồm bị xé rách tả tơi trước khi họ có thể cuốn nó lại. Mặc dù cơn gió lớn đã xé rách cánh buồm, Jenks cũng tình nguyện leo lên cột buồm trong cơn gió thét để cắt mảnh vải tả tơi ấy ra khỏi trục buồm.
Trong lúc Jenks làm việc thì thuyền trưởng Mulberry đứng trên cầu chỉ huy chăm chú nhìn Jenks. Đã hai lần ông đưa loa phóng thanh lên và gọi “Jenks”, nhưng cả hai lần tiếng ông đều bị gió cuốn đi trước khi đến được tai Jenks trên cột buồm.
Sau đấy, có một lúc gió lặng trong khoảnh khắc, Mulberry lại thét gọi Jenks qua loa phóng thanh.
Lần này Jenks nghe thấy tiếng gọi của thuyền trưởng, anh thét lại: “Thưa ông, vâng, thưa ông”.
Những người khác nghe tiếng Jenks trả lời và nhìn nét mặt của Mulberry khi ông quay lưng đi vào ca bin lái, họ nhận thấy rằng thuyền trưởng đã biết mình thất bại.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét