Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 6 - phần 2)

Harold Robbins

Người lữ hành kỳ dị

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn
NXB Văn học - 1987


Quyển sáu. Chuyện của Đêvit Ulf (phần 2)


10

Vừa theo mẹ vào bếp, Đêvit vừa liếc nhìn cái bàn ở phòng ăn. Có năm chỗ được dọn cả thẩy.
- Mẹ chẳng bảo trước gì cả là mẹ sẽ có khách nhiều đến thế.
Mẹ anh đang ngó nhìn vào một cái nồi trên bếp, không hề ngoảnh lại.
- Một cô gái tử tế ăn cơm với người đàn ông trẻ lần đầu tiên mà không cần đi với bố mẹ hả mày?
Đêvit cố nén cho khỏi phát rên lên. Mọi chuyện sẽ còn tồi tệ hơn là anh tưởng.

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 6 - phần 1)

Harold Robbins

Người lữ hành kỳ dị

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn
NXB Văn học - 1987 


Quyển sáu. Chuyện của Đêvit Ulf (phần 1)

1

Đêvit Ulf bước vào phòng khách sạn của mình, để nguyên cả quần áo, quăng mình nằm phịch xuống giường, ngửa mặt lên nhìn cái trần nhà tối sầm. Đêm có vẻ như đã kéo dài đến một nghìn năm, thậm chí mặc dầu anh biết rõ là mới chỉ hơn một giờ sáng. Anh vừa thấy mệt nhoài, vừa thấy không mệt. Người anh nhẹ lâng lâng, đồng thời không hiểu sao, lại thấy mệt mỏi ủ rũ. Anh cảm thấy rạo rực đắc thắng; đồng thời lại có một cảm giác cay đắng mơ hồ về một thất bại không thể nào hiểu được đang khuấy động trong anh.

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 5)

Harold Robbins

Người lữ hành kỳ dị

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn
NXB Văn học -1987


Quyển năm. Jonas - 1935

1

Tôi kéo cái cần lái vào lòng, hơi lệch sang trái một chút. Cùng lúc đó, tôi mở hết khóa ga. Chiếc CA - 4 lao vụt lên trời theo nửa vòng lộn, hệt như một mũi tên rời khỏi cung. Tôi cảm thấy rõ trọng lực đè gí tôi xuống ghế, làm máu rung lên bần bật trong các mạch máu ở hai cánh tay tôi. Tôi cho máy bay lao ra bằng ở đỉnh vòng lộn. Nhìn lại bảng đồng hồ, tôi thấy đang ở tốc độ một trăm mét giây. Chúng tôi đang bay bùn vụt trên Đại Tây Dương, bỏ Long Aixlơn rất xa lại phía sau.
Cúi về phía trước, tôi gõ gõ vào vai viên phi công quân đội ngồi trước mặt tôi.

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 4 - phần 2)

Harold Robbins


Người lữ hành kỳ dị


Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn
NXB Văn học - 1987

Quyển bốn. Chuyện của Raina Malovi (phần 2)

12

Raina đang trồng cây chuối, lộn đầu xuống dưới, dán lưng vào tường khi Giăcơ bước vào. Ông đứng sững lại, ngắm nhìn cái thân hình thon thả của cô trong bộ quần áo nịt đen của diễn viên ba-lê, mái tóc vàng tỏa xuống sàn, sáng ngời.
- Em đang làm gì thế này? - Ông nhã nhặn hỏi.
Cô mỉm một nụ cười ở tư thế lộn ngược với ông.
- Em đang đứng bằng đầu mà.
- Anh cũng có thể thấy thế. Nhưng tại sao vậy?

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 4 - phần 1)

Harold Robbins

Người lữ hành kỳ dị

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn
Nhà XB Văn học -1987

Quyển bốn. Chuyện của Raina Malovi (phần 1)

1

Raina cẩn thận gấp tờ tạp chí lại, bẻ một góc cái trang đang đọc dở lên để đánh dấu, rồi đặt nó xuống tấm vải trắng mỏng cô đang đáp.
- Cậu có cần gì không Raina thân yêu? - Giọng Ilenơ khẽ khàng thốt lên từ cái ghế bành cạnh giường.
Raina ngoảnh đầu nhìn sang cô. Mặt Ilenơ gầy đi vì lo lắng.
- Không. Mấy giờ rồi.
Ilenơ cúi xuống nhìn đồng hồ của mình.
- Ba giờ.
- Ồ. Thế bác sĩ bảo mấy giờ ông ấy đến?

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2017

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 3)

Người Lữ Hành Kỳ Dị

Tác giả: Harold Robbins
Người dịch: Mạnh Hà - Thanh Sơn

Quyển ba. Gionơx - 1930

1

Ánh đèn của thành phố Lox Angiơlex đã hiện ra trước cánh phải máy bay. Tôi ngoảnh sang Băz ngồi bên cạnh.
- Ta sắp tới nhà rồi!
Bộ mặt có cái mũi tẹt và hếch của anh chàng giãn ra trong một nụ cười. Anh ta nhìn đồng hồ.
- Tớ nghĩ chúng mình đã lập được một kỷ lục đấy!
- Vất mẹ cái kỷ lục ấy đi! - Tôi đáp. - Tớ cần nhất là được hợp đồng chở thư ấy.
Băz gật đầu.
- Giờ thì chắc chắn như đinh đóng cột là ký được nó rồi. - Anh chàng cúi người tới, vuốt ve cái bảng điều khiển. - Em bé này đã đảm bảo cho bọn ta.

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 2)

Người Lữ Hành Kỳ Dị

Tác giả: Harold Robbins
Người dịch: Mạnh Hà - Thanh Sơn
NXB Văn Học - 1987

Quyển hai. Chuyện của Nevada Smith

1

Khi Nêvađa quặt xe khỏi quốc lộ, rẽ vào một con đường đất lấm bụi dẫn tới ràn súc vật thì đã chín giờ tối. Anh dừng xe trước cửa tòa nhà lớn, bước ra. Anh đứng lặng lẽ một hồi lâu, lắng nghe tiếng cười đùa từ sòng bạc ồn ào vọng lại.
Một người đàn ông bước ra hàng hiên, nhìn anh:
- Chào Nêvađa.
Nêvađa đáp, vẫn không quay lại:
- Chào cậu, Chaly. Mấy bà bỏ chồng ngó bộ trửng giỡn quá hả.

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

Người lữ hành kỳ dị - Harold Robbins (Q 1)

Người Lữ Hành Kỳ Dị

Tác giả: Harold Robbins
Người dịch: Mạnh Hà - Thanh Sơn
NXB Văn Học - 1987

Mục lục

Quyển một. Giônơx - 1925
Quyển hai. Chuyện của Nevada Smith
Quyển ba. Giônơx - 1930
Quyển bốn. Chuyện của Raina Malovi
Quyển năm. Giônơx - 1935
Quyển sáu. Chuyện của Đêvit Ulf
Quyển bẩy. Giônơx - 1940
Quyển tám. Gienny Dentơn
Quyển chín. Giônơx - 1945

Nguyên bản tiếng Pháp: THE CARPETBAGGER

Người dịch: Mạnh Hà, Thanh Sơn

Quyển một. Giônơx - 1925

1

Khi Renô hiện ra phía dưới tôi, mặt trời bắt đầu lặn dần xuống sa mạc Nêvađa trắng xóa. Tôi từ từ nghiêng cánh chiếc Oaco, nhằm thẳng hướng đông. Tôi nghe rõ tiếng gió rít vèo vèo qua các thanh giằng và mỉm cười một mình. Cụ già hẳn sẽ điên người lên khi nom thấy cái của này đây. Nhưng rõ ràng là chẳng cái gì khiến cho cụ ấy bực được cả. Cụ không phải tốn một xu về cái máy bay này. Tôi chơi súc sắc được nó.

Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương kết)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

Phần Bốn

51

Grenouille chỉ đi khi đêm xuống. Giống như bắt đầu chuyến đi, gã tránh các thành phố, đường xá, ngủ khi ngày vừa bắt đầu, thức dậy khi chiều tối và tiếp tục đi. Trên đường đi tìm thấy gì gã ăn nấy, cỏ, nấm, hoa, chim chóc chết, giun đất. Gã đi xuyên qua vùng Provence, vượt sông Rhône từ phía Nam Orange bằng một cái thuyền lấy cắp, theo dòng Ardèche đi sâu vào vùng núi Cévennes, rồi ngược dòng Allier về hướng Bắc.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 41 - 50)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

41

Nhưng ở Grasse có một người không tin vào sự bình yên. Ông ta tên là Antoine Richis, đệ nhị tổng lý thành phố, dinh cơ bề thế của ông tọa lạc ngay đầu Rue Droite.
Ông Richis góa vợ, có một con gái tên là Laure. Tuy chưa đến 40 và còn đầy sức sống, ông định đợi thêm ít lâu nữa mói nghĩ đến chuyện tục huyền. Trước hết lo dựng vợ gả chồng cho cô con gái đã. Và không phải là bất cứ ai đâu nhé, phải là môn đăng hộ đối cơ.

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 36 - 40)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

36

Grenouille tìm thấy trên Rue de la Louve, không xa Porte des Fénéants, một xưởng nhỏ làm nước hoa và xin vào làm.
Được biết là ông chủ, Maitre parfumeur Honoré Arnulfi đã chết vào mùa đông vừa rồi, còn lại một mình bà vợ góa tóc đen, nhanh nhẩu, chừng ba mươi tuổi, tiếp tục việc kinh doanh với sự giúp đỡ của một người thợ phụ.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 31 - 35)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

31

Hôm sau, trong lúc ngài Marquis đang dạy gã vài thế đứng, vài điệu bộ và bước nhảy tối thiểu cho buổi ra mắt sắp tới trước đông người thì Grenouille giả lên cơn chóng mặt, nhào xuống ghế dài và ngộp thở như thể không còn tí sức nào.
Ngài Marquis quýnh lên. Ngài réo gia nhân mang quạt và cái máy thông gió loại gọn nhẹ tới, trong lúc lũ gia nhân hối hả chạy tìm thì ngài quỳ xuống một bên Grenouille, dùng khăn tẩm nước hoa đồng thảo của ngài quạt cho gã, kêu gọi, nói trắng ra là van xin gã đứng dậy, đừng có nhè lúc này mà chết, nếu được, xin đợi đến ngày mốt, bằng không thì sẽ cực kỳ phương hại cho sự sống còn của lý thuyết fluidum letale.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 26 - 30)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

26

Nơi diễn ra sự phóng đãng là cái vương quốc bên trong người gã chứ không thể ở đâu khác, ngay từ khi mới lọt lòng gã đã chôn vào đấy tất cả những đường nét của tất cả mọi mùi mà gã đã gặp. Để phấn chấn, trước hết gã gọi hồn những mùi đầu tiên nằm xa lắc, xa lơ, cái mùi thù địch ẩm ướt trong phòng ngủ ở nhà Madame Gaillard, cái mùi da khô đét của bà, cái mùi chua như dấm của cha Terrier, mùi mồ hôi ấm tình mẫu tử của chị vú Bussie hớt ha hớt hải, mùi xác chết ở Cimetìere des Innocents, mùi chết chóc của mẹ gã. Gã lặn ngụp trong ghê tởm và thù ghét, tóc dựng đứng vì nỗi khiếp sợ đầy khoái cảm.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 21 - 25)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

21

Nó muốn đi ngay xuống miền nam để học ở đó những kỹ thuật mới như ông già đã nói. Nhưng đâu có thể được. Nó chỉ là một đứa học nghề có nghĩa là chẳng là cái thớ gì cả. Nghiêm khắc mà nói, Baldini giải thích sau khi nỗi mừng rỡ ban đầu vì Grenouille sống lại qua đi, nghiêm khắc mà nói thì nó còn kém cả sự chẳng ra cái thớ gì, vì một đứa học việc đúng đắn phải có được gốc gác chính thức đàng hoàng, họ hàng cùng giai tầng xã hội và một giao kèo học nghề mà cả ba thứ đó nó đều không có. Tuy vậy Baldini vẫn muốn giúp nó một ngày kia có được chứng chỉ thợ lành nghề chỉ vì đã cân nhắc cái năng khiếu không dễ có của Grenouille, phẩm hạnh tốt của nó trong tương lai và vì lòng tốt không bờ bến của ông, một điều mà nó không bao giờ có thể phủ nhận, dù rằng lòng tốt ấy thường đem hại đến cho ông.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 16 - 20)

Patrick Süskind


Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016


16

Sáng hôm sau ông đi ngay tới tìm Grimal. Trước hết ông trả tiền tấm da lừa và trả đúng giá, không cằn nhằn cũng không mặc cả. Rồi ông mời Grimal đi uống một chai vang trắng ở quán Tour d’Argent để thương lượng mua lại gã học việc Grenouille. Tất nhiên ông không lộ ra tại sao lại cần nó và để làm gì. Ông bịa ra là được đặt một số lượng da tẩm nước hoa mà ông cần phải có một thợ phụ không rành nghề giúp mới làm xuể. Một gã cho gì chịu nấy, làm giúp ông những việc đơn giản nhất, cắt da vân vân. Ông gọi thêm một chai vang nữa và đề nghị trả Grimal hai mươi livre bồi thường do những phiền toái gây ra khi thiếu Grenouille. Hai mươi livre là một số tiền kếch sù cho nên Grimal đồng ý ngay. Họ trở lại xưởng thuộc da và lạ lùng thay Grenouille đã đợi sẵn ở đó với gói hành lý đâu vào đấy. Baldini trả hai mươi livre, dẫn nó theo, chắc chắn là đã làm một vụ buôn bán tuyệt nhất trong đời.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 11 - 15)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

11

Đúng là ông Baldini có cởi áo khoác tẩm nước hoa đại ra thật nhưng chỉ do thói quen. Đã từ lâu mùi nước hoa đại không cản trở gì ông trong việc ngửi vì đã cả chục năm nay áo ông tẩm mùi này nên ông chẳng còn cảm thấy nó nữa. Ông đã khóa cửa phòng làm việc và đã đòi được yên tĩnh nhưng không ngồi vào bàn viết để nghĩ ngợi và chờ cảm hứng vì ông biết rõ hơn Chénier rằng ông sẽ chẳng có cảm hứng nào cả, vì thật sự ông chưa từng có cảm hứng bao giờ. Đúng là ông đã già và suy nhược, đúng thế, và không còn là một nhà làm nước hoa có tài nữa nhưng ông biết rằng trong đời ông chưa bao giờ là một nhà làm nước hoa giỏi cả.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 8, 9, 10)

Patrick Süskind

Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016

8

Vào ngày 1 tháng Chín 1783,  thành phố Paris đốt pháo bông ở Pont Royal kỷ niệm ngày đăng quang của Đức Vua. Tuy không ngoạn mục bằng lần mừng hôn lễ của Ngài Ngự hay cái lần đốt pháo bông đẹp như truyện cổ tích mừng sinh hạ thái tử nhưng dẫu sao cũng gây ấn tượng mạnh. Người ta gắn lên cột buồm tàu bè những bánh xe vẽ hình mặt trời màu vàng. Từ trên cầu, những cái gọi là con bò lửa phun lửa như sao sa xuống dòng sông. Trong khi khắp nơi pháo đại nổ inh tai và pháo chuột đì đẹt trên đường đá thì pháo bông vọt lên trời, vạch những bông huệ trắng trên nền trời đen thẫm. Cả mấy ngàn người, vừa trên cầu vừa trên hai bờ sông, thích thú theo dõi cảnh ngoạn mục với những tiếng “Ồ”, “Chà”, “hoan hô” thậm chí cả “vạn tuế” nữa, dù Đức Vua ở ngôi đã ba mươi tám năm và đã từ lâu không còn được ưa thích như xưa. Pháo bông làm nổi cả những điều như thế đấy.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 5, 6, 7)

Patrick Süskind


Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016


5

Khách quan mà nói thì nó đâu có gì đáng sợ. Khi lớn thì nó chẳng to cao đặc biệt , không khỏe, xấu đấy, nhưng đâu xấu ghê gớm đến nỗi người ta phải sợ nó. Nó không hung hăng, không nham hiểm, không lén lút, không khiêu khích. Nó còn thích sống tách biệt nữa kia. Còn trí thông minh của nó cũng chẳng có gì ghê gớm. Mãi năm lên ba nó mới biết đứng, nói chữ đầu tiên lúc lên bốn, đó là chữ “cá”, buột ra như thể một tiếng vọng trong một lúc kích thích bất chợt khi từ xa một người bán cá đi tới Rue de Charonne lớn tiếng rao hàng. Những tiếng kế tiếp nó thốt ra là “cây quỳ thiên trúc”, “chuồng dê”, “cái lá xoăn”, và  “Jacqueslorreux”, cái chữ sau cùng là tên một người phụ việc vườn tược cho nữ tu viện Filles de la Croix ở gần đó, thỉnh thoảng vẫn làm cho Madame Gaillard những việc nặng và nổi tiếng vì trong đời chưa hề tắm lần nào.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 2, 3, 4)

Patrick Süskind


Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016


2

Ít tuần sau chị vú Jeanne Bussie, tay xách giỏ, đứng trước cổng tu viện và nói với cha Terrier ra mở cổng - cha đầu hói, chừng năm mươi tuổi và thoang thoảng mùi dấm - “Đây!”, rồi đặt giỏ xuống ngưỡng cửa.
- Cái gì vậy? - cha Terrier hỏi và cúi xuống giỏ ngửi vì nghĩ trong ấy có gì ăn được.
- Thằng lộn giống của cái mụ giết con ở Rue aux Fers!
Ông cha khều ngón tay trong giỏ và ló ra mặt đứa bé đang ngủ.

Mùi Hương - Patrick Süskind (Chương 1)

Patrick Süskind


Mùi Hương

Lê Chu Cầu dịch
NXB Văn học - 2016


Phần Một

1

Vào thế kỷ 18, ở nước Pháp có một gã thuộc loại thiên tài nhưng cũng đáng ghê tởm nhất của thời đại không hiếm những nhân vật thiên tài và đầy kinh tởm. Cuộc đời gã được thuật lại ở đây. Gã tên là Jean-Baptiste Grenouille, nếu mà tên tuổi của gã nay bị rơi vào lãng quên, chứ không như những tên tuổi thiên tài kinh tởm khác kiểu De Sade, Saint Just, Fouché, Bonapartre v.v..., thì nhất định không phải vì Grenouille kém những kẻ đồi bại nổi tiếng ở trên ở tính kiêu ngạo, coi rẻ con người, vô đạo đức, nói gọn là bất kể Thượng Đế, mà chỉ bởi thiên tài và khát vọng duy nhất của gã giới hạn trong một lãnh vực không để lại dấu vết nào trong lịch sử cả: đó là vương quốc phù du của hương thơm.

Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 27 - hết)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 27

Thứ Sáu 27 Tháng Năm - Thứ Năm ngày 16 tháng Sáu 2005 

Amanda Einstein vẫn còn sống. Bây giờ bà đã tám mươi tư tuổi và sống trong một căn phòng hạng nhất tại khách sạn sang trọng ở Bali do con trai cả của bà, Allan sở hữu và điều hành.
Allan Einstein năm mươi tuổi, khá thông minh, giống như Mao, cậu em trẻ hơn mình một tuổi. Nhưng trong khi Allan đã trở thành một chuyên gia kinh doanh (thật) và cuối cùng là giám đốc khách sạn (ông đã được mẹ trao cho khách sạn vào ngày sinh nhật thứ bốn mươi của mình), thì Mao, em trai ông lại theo ngành kỹ thuật. Ban đầu, sự nghiệp của ông không được tốt lắm, vì Mao quá cầu kỳ về chi tiết. Ông đã làm việc trong một công ty dầu hàng đầu của Indonesia với nhiệm vụ bảo đảm chất lượng của hệ thống sản xuất. Sai lầm của Mao là ở chỗ ông đã làm đúng như thế. Đột nhiên, tất cả các quản lý bậc trung trong công ty thấy rằng họ không còn kiếm chác thêm được khi đặt hàng sửa chữa, vì chẳng cần phải sửa chữa gì nữa. Hiệu quả của công ty dầu tăng 35% và Mao trở thành người bị ghét nhất trong công ty. Khi sự tẩy chay của các đồng nghiệp trở thành mối đe dọa trực tiếp, Mao Einstein thấy khôn ra thì mình nên rút lui và kiếm việc khác ở Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Ông làm việc rất hiệu quả ở đó, trong khi ở công ty Indonesia mọi người thở phào trở về tình trạng cũ.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 26)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 26 

1968 - 1982 

Yury Popov Borisovich sống và làm việc ở thành phố Sarov tại Nizhny Novgorod, khoảng 350km về phía đông Moskva. 
Sarov là một thành phố bí mật, có khi còn bí mật hơn điệp vụ Hutton. Thậm chí không được phép gọi nó là Sarov mà bằng một cái tên không mấy lãng mạn là Arzamas-16. Hơn nữa, toàn bộ thành phố đã được tẩy xóa khỏi mọi bản đồ. Sarov cùng lúc vừa tồn tại, vừa không tồn tại, tùy  vào việc ta đề cập đến thực tế hay cái gì khác. Gần giống như Vladivostok trong vài năm từ 1953 trở đi, dù nó ngược nhau.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 25)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 25 

Thứ Sáu 27 tháng Năm 2005 

Trong 25 phút, khó có thể từ Eskilstuna đến tận Falköping. Sau một đêm trằn trọc không yên giấc, công tố viên Conny Ranelid phải dậy từ bình minh để kịp tới trang trại Bellringer lúc 10 giờ. Và cuộc gặp gỡ không thể kéo dài hơn một tiếng, nếu không ông lại trễ giờ. Dù sao, buổi họp báo đã trót được thông báo là bắt đầu từ ba giờ chiều.
Conny Ranelid chỉ chực khóc khi ngồi sau tay lái trên đường E20 bên ngoài Örebro. Chiến thắng vĩ đại của Tư pháp, cuốn sách của ông lẽ ra sẽ được đặt tên như thế. Chao ơi! Nếu trời có mắt thì sét phải đánh vào cái trang trại chết tiệt đó và thiêu cháy hết bọn người ấy. Rồi sau đó công tố viên Ranelid thích nói gì thì nói với cánh nhà báo.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 24)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 24

Thứ Năm 26 Tháng Năm 2005 

Bây giờ, tất cả những gì công tố viên Ranelid có thể làm là gắng giữ cái gì có thể giữ trong sự nghiệp và thể diện của mình. Theo nguyên tắc: “phòng còn hơn chữa”, ông đã sắp xếp một cuộc họp báo ngay buổi chiều hôm đó để tuyên bố hủy bỏ lệnh bắt giữ ba người đàn ông và người phụ nữ trong vụ ông già trăm tuổi mất tích.
Công tố viên Ranelid giỏi rất nhiều thứ, trừ việc thừa nhận thiếu sót và sai lầm của mình. Lời mở đầu cuộc họp báo cấp tốc cũng như thế. Công tố viên xoay sang giải thích ngược hẳn lại về thông tin Allan Karlsson và các bạn được thừa nhận là không bị bắt giữ nữa (người ta đã tình cờ tìm thấy họ ngay trong chiều nay ở Västergötland), tuy họ có lẽ vẫn có tội, công tố viên đã làm đúng, chỉ có điều mới là bằng chứng đã làm thay đổi tính chất sự việc nên lệnh bắt giữ tạm thời không còn giá trị.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 23)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 1

Năm 1968 

Nhiệm vụ của Allan tại Đại sứ quán Indonesia tại Paris chẳng cam go gì. Đại sứ mới, bà Amanda Einstein, dành cho ông một phòng riêng với một chiếc giường và nói bây giờ Allan tự do làm gì tùy thích. 
- Nhưng nếu anh làm phiên dịch giúp cho thì tốt quá, phòng khi chẳng may em phải gặp gỡ người từ các nước khác. 
Allan đáp, xét tính chất công việc thì không thể loại trừ tình huống xấu như vậy. Người nước ngoài đầu tiên chắc đang đợi ngay ngày hôm sau, nếu Allan hiểu đúng.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 21-22)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 21

Thứ Năm 26 Tháng 5, 2005 

Per-Gunnar Gerdin vẫn còn ngủ nướng khi Chánh Thanh tra Göran Aronsson trở lại trang trại Bellringer và kinh ngạc phát hiện ra Allan Emmanuel Karlsson đang ngồi trên võng ngoài hiên gỗ rộng. 
Benny, Người Đẹp và Buster bận rộn mang nước vào chuồng mới của Sonya trong nhà kho. Julius đã để râu, nhờ thế nhóm cho phép ông đi cùng với Bosse đến Falkoping để mua các thứ. Allan ngủ quên trên võng đến khi Chánh Thanh tra tới đánh thức. 
- Chắc cụ là Allan Karlsson? - ông Chánh Thanh tra Aronsson hỏi.

Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 20)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 20 

1953-1968 

Mao Trạch Đông đã cấp cho Allan và Herbert hộ chiếu giả của Anh (ông có thể làm được điều đó). Từ Thẩm Dương, họ đáp  máy bay qua Thượng Hải, Hồng Kông và Malaysia. Chẳng bao lâu sau, hai kẻ đào tẩu từ Gulag đã được ngồi dưới bóng dù trên bãi biển cát trắng cách Ấn Độ Dương vài mét.
Tất cả sẽ hoàn hảo nếu cô phục vụ, thực ra đầy thiện ý, không nhầm lẫn lung tung hết cả. Dù Allan và Herbert có gọi uống thứ gì thì cũng bị đưa cho cái khác. Đấy là nếu họ có gì để uống, vì đôi khi cô phục vụ biến mất tăm trên bãi biển. Lần cuối cùng Allan gọi một vodka và Coca-Cola (“nhiều vodka hơn cola một chút”) thì lại được Pisang Ambon, một thứ rượu chuối xanh len lét.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 19)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 19 

Thứ Tư ngày 11 tháng Năm - Thứ Tư ngày 25 tháng Năm 2005 

Những kẻ đào tẩu và người bị xem là đã chết ở trại Bellringer đã cố gắng ẩn giấu khá thành công. Trang trại nằm cách đường chính 200 mét, và từ góc nhìn đó, trang trại và nhà kho nằm thẳng một hàng che khuất cái sân, làm thành một khu vực tự do cho Sonya. Nó có thể đi dạo giữa nhà kho và vạt rừng nho nhỏ đằng sau trang trại, mà không bị người đi trên đường chính nhìn thấy.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 18)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 1

1953 

Trong năm năm và ba tuần, tất nhiên Allan đã học tiếng Nga khá chuẩn nhưng lại quên sạch chỗ tiếng Trung Quốc. Bến cảng là một nơi thực sự sống động, và Allan đánh bạn với những thủy thủ trở về, người có thể cập nhật cho ông về những gì đã xảy ra trên thế giới.
Một trong những điều đã xảy ra là Liên Xô đã nổ quả bom nguyên tử của mình một năm rưỡi sau cuộc gặp của Allan với Stalin, Beria và Yury Borisovich tốt bụng. Phương Tây nghi ngờ họ hoạt động gián điệp, bởi vì quả bom dường như được xây dựng theo nguyên tắc y hệt như kiểu Mỹ. Nhưng Allan thì nhớ lại hồi ở trên tàu ngầm, trong khi tu vodka thẳng từ chai, Yury thực sự đã có bao nhiêu gợi ý.
- Tôi ngờ rằng, Yury Borisovich đáng mến là một tổ sư về nghệ thuật vừa uống rượu vừa nghe chuyện cùng lúc, - ông nói.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 17)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 17

Thứ Ba 10 tháng Năm, 2005 

Mặt trời mùa xuân rực rỡ suốt chín ngày và mặc dù buổi sáng còn mát mẻ, Bosse đã dọn bàn ăn sáng trên hiên.
Benny và Người Đẹp dẫn Sonya ra khỏi xe vào cánh đồng đằng sau trang trại. Allan và Pike Gerdin ngồi trong sofa võng đu đưa nhẹ nhàng. Một người đã 100 tuổi, còn người kia cảm thấy mình già trăm tuổi. Đầu đau nhoi nhói, chỗ xương sườn bị gãy làm cho gã khó thở. Cánh tay phải của gã không cử động được, và tồi tệ nhất là vết thương sâu hoắm ở chân phải. Benny đến và gợi ý rằng tí nữa gã nên thay băng ở chân, nhưng tốt nhất là dùng trước một ít thuốc giảm đau loại mạnh. Sau đó, có thể dùng đến morphine vào buổi tối nếu cần thiết.

Thứ Hai, 7 tháng 8, 2017

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 16)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 16
     
1948-1953 
      
Người đàn ông trên ghế đá công viên vừa mới chào Mr. Karlsson bằng tiếng Anh, từ đó Allan đã rút ra hai kết luận. Thứ nhất, ông ta không phải người Thụy Điển, nếu không thì ông ta có thể sẽ cố gắng nói tiếng Thụy Điển. Thứ hai, ông ta biết Allan là ai, bởi vì đã gọi được tên.
Người đàn ông ăn mặc lịch sự, đội chiếc mũ màu xám có vành đen, áo khoác màu xám, đi giày đen. Ông ta có lẽ là một doanh nhân. Trông ông ta thân thiện và chắc chắn có mục đích. Vì vậy, Allan đáp, bằng tiếng Anh.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 15)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 15 

Thứ Hai 9 Tháng Năm, 2005 

- Đây là ba triệu, anh yêu quí. Em cũng muốn nhân cơ hội này xin lỗi anh vì cách em cư xử trong chuyện tiền nong của bác Frasse. 
Benny nói thẳng vào vấn đề khi gặp Bosse lần đầu tiên sau ba mươi năm. Thậm chí bác đã trao túi tiền trước khi họ có thời gian để bắt tay nhau. Và bác tiếp tục, bằng một giọng nghiêm túc, trong khi ông anh trai vẫn còn đang thở hổn hển: 
- Còn bây giờ em sẽ nói với anh hai điều. Đầu tiên là bọn em thực sự cần sự giúp đỡ của anh, bởi vì bọn em đã gây ra chuyện bê bối lắm. Và thứ hai là số tiền mà em đã đưa cho anh là của anh, anh đã kiếm được nó. Nếu anh phải nộp bọn em thì cứ làm như vậy, dù sao tiền vẫn là của anh.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 14)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 14

Thứ Hai ngày 9 tháng Năm năm 2005 

Khi Chánh Thanh tra Aronsson báo cáo những phát hiện mới nhất cho công tố viên Conny Ranelid ở Eskilstuna, công tố viên ngay lập tức quyết định ra lệnh bắt giữ Allan Karlsson, Julius Jonsson, Benny Ljungberg và Gunilla Björklund.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 13)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 13

1947-1948 

Allan đã trải qua những đêm chẳng dễ chịu gì khi nằm úp sấp trên thùng xe tải trên đường tới Teheran. Trời thì lạnh quá mà chẳng có sữa dê đặc biệt để sưởi ấm. Thêm nữa, hai tay ông còn bị trói sau lưng.
Cũng dễ hiểu vì sao Allan mừng khi cuộc hành trình kết thúc. Đó là vào cuối buổi chiều khi chiếc xe tải dừng lại trước cổng chính một tòa nhà lớn màu nâu ở giữa thủ đô.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 12)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 12

Thứ Hai 9 Tháng Năm 2005

Nhóm bạn ở Trang trại Bên Hồ nhận ra rằng đã đến lúc phải lên chiếc xe tải dọn nhà của họ để ra đi lập tức. Nhưng trước tiên, họ còn có một số nhiệm vụ không thể không làm.
Người Đẹp mặc áo mưa có mũ trùm và đi găng tay cao su, lôi cái vòi phun ra rửa sạch phần còn lại của tên côn đồ mà Sonya đã ngồi chết bẹp. Nhưng trước hết, cô gỡ khẩu súng lục trong bàn tay phải của người đàn ông đã chết và cẩn thận đặt nó trên hiên (sau đó cô đã quên béng mất), với mũi súng chĩa vào thân cây linh sam lớn cách đó bốn mét. Ai mà biết lúc nào nó bị cướp cò.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 11)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 11

1945-1947 

Cố gắng hết sức để tỉnh táo lại trong một giây sau khi đã quất hết một chai tequila, đó là những gì Phó Tổng thống Harry S. Truman đã làm. Sự ra đi đột ngột của Tổng thống Roosevelt có nghĩa là tất nhiên, phó Tổng thống phải bỏ bữa ăn tối dễ chịu với Allan và ra lệnh đi ngay lập tức đến Washington và Nhà Trắng. Allan bị bỏ lại ở nhà hàng và phải tranh luận mất một lúc với trưởng nhóm bồi bàn để khỏi phải tự trả hóa đơn. Cuối cùng, trưởng nhóm bồi bàn chấp nhận lập luận của Allan là Tổng thống xứng đáng được coi là tài sản tín chấp và dù sao anh ta cũng biết Truman đang sống ở đâu.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 10)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 10

Thứ Hai 9 Tháng Năm, 2005 

Thùng Gỗ ngồi bên ngoài siêu thị ở Rottne bốn ngày liền để tìm kiếm, thứ nhất là Ốc Vít, thứ hai là một lão già trăm tuổi, một phụ nữ tóc đỏ trông như cựu người mẫu, một gã cột tóc đuôi ngựa (nếu không chẳng phân biệt được) và một chiếc Mercedes. Đấy không phải là sáng kiến của hắn mà là của Ông Chủ. Sau cuộc trò chuyện may mắn với đứa em trai chỉ huy nhóm Bạo Lực ở Braås về việc lão già trăm tuổi chắc chắn đã ở bên ngoài phòng y tế ở Småland giữa đêm, Thùng Gỗ đã ngay lập tức báo cáo với sếp. Thế là Ông Chủ đã ra lệnh theo dõi siêu thị lớn nhất của thị trấn. Ông Chủ chỉ ra rằng một người đi lại ở Rottne vào giữa đêm tất phải trú ngụ ở đâu đó lân cận, và sớm hay muộn thế nào cũng đói và khi thức ăn hết thì phải đi mua thêm. Logic rất hợp lý. Không phải ngẫu nhiên mà Ông Chủ thành ông chủ. Nhưng tất nhiên đó là bốn ngày trước.

Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2017

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 9)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 9

1939-1945 

Ngày 1 tháng Chín năm 1939, con tàu treo cờ Tây Ban Nha của Allan bỏ neo tại bến cảng ngoài New York. Allan đã định ghé mắt vào một nước lớn ở phương Tây rồi lên tàu đi tiếp, nhưng cùng ngày đó những đồng minh của tổng tư lệnh đã tiến vào Ba Lan và chiến tranh lại bùng phát ở châu Âu. Con tàu Tây Ban Nha đã bị bắt giữ, sau đó bị tịch thu và phải phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ cho đến khi hòa bình năm 1945.

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất - Jonas Jonasson (ch 8)

Jonas Jonasson

Ông trăm tuổi trèo qua cửa sổ và biến mất

Người dịch: Phạm Hải Anh

Chương 8

Thứ Ba ngày 3 tháng Năm - thứ Tư 4 tháng Năm 2005 

Sau cuộc họp báo buổi chiều, Thùng Gỗ ngồi xuống với một ly bia để suy nghĩ. Nhưng hắn không thể nghĩ ra điều gì hợp lí. Có phải Ốc Vít đã bắt đầu bằng việc bắt cóc ông già trăm tuổi? Hay chuyện đó không liên quan gì? Suy nghĩ làm Thùng Gỗ nhức đầu, vì vậy hắn ngừng lại và gọi điện cho Ông Chủ, báo cáo với ông rằng chưa có gì đáng để báo cáo. Hắn được lệnh ở lại Malmköping và chờ lệnh tiếp theo.