Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016

Thành phố hồn rỗng - tác giả Ransom Riggs (Ch 11 - hết)

Ransom Riggs

Thành phố hồn rỗng


Dịch giả: Lê Đình Chi

Chương 11

Vậy là tình hình như sau: mọi thứ phụ thuộc vào một con bồ câu. Qua đêm nay không biết chúng tôi sẽ được an toàn dưới sự chăm lo của một Chủ Vòng Thời Gian hay bị tiêu hóa dở dang trong bộ ruột tối om của một con hồn rỗng; không biết cô Peregrine có được cứu chữa không hay chúng tôi sẽ lang thang vô định trong cảnh địa ngục này cho tới khi thời gian của bà cạn kiệt; không biết tôi có được sống để thấy lại ngôi nhà hay bố mẹ mình hay không - tất cả đều phụ thuộc vào một con bồ câu hom hem đặc biệt.
Tôi bước đi dẫn đầu nhóm, cảm nhận xem có hồn rỗng hay không, song con bồ câu mới là nhân vật thực sự dẫn đường cho chúng tôi, nó kéo mạnh sợi dây buộc như một con chó săn lần theo hơi mồi. Chúng tôi rẽ trái khi con chim bay sang trái, và sang phải khi nó ngoặt sang phải, ngoan ngoãn như một bầy cừu, thậm chí cả khi làm thế đồng nghĩa với việc dò dẫm đi theo những con phố lỗ chỗ hố bom khiến chúng tôi trật mắt cá, hay ngổn ngang mảnh vỡ của những tòa nhà bị phá tan tành, những đầu mũi sắt nhọn lởm chởm của chúng hiện lên lờ mờ trong ánh lửa chập chờn lay động, chĩa về phía cổ họng chúng tôi.
Trải qua những biến cố kinh hoàng của tối hôm đó, tôi còn vượt quá cả cái ngưỡng kiệt sức. Đầu tôi ong ong thật lạ lùng. Đôi chân tôi kéo lê nhọc nhằn. Tiếng bom nổ rầm rầm đã lặng xuống, những chiếc còi cuối cùng cũng im hẳn, và tôi tự hỏi liệu có phải tất cả những âm thanh của ngày tận thế đó đã giúp tôi tỉnh táo. Giờ đây, trong không trung mù mịt khói đầy ắp những âm thanh nhẹ nhàng hơn: nước phun ra từ các đường ống vỡ, tiếng tru rên rỉ của một con chó bị mắc kẹt, những giọng nói khản đặc than vãn cầu cứu. Thỉnh thoảng những người đồng hành lại hiện ra từ bóng tối, những thân hình trông như những hồn ma trốn thoát từ một thế giới nào đó ở sâu bên dưới, đôi mắt mắt rực lên đầy sợ hãi và ngờ vực, cắp chặt dưới cánh tay những món đồ vật khác nhau - máy thu thanh, đồ bạc khoắng được, một cái hộp mạ vàng, một bình tro cốt. Người chết bê người chết trên tay.
Chúng tôi tới chỗ một ngã ba đường thì dừng lại, con bồ câu đang cân nhắc xem sang trái hay phải.
Cô gái thì thầm cổ vũ:
- Thôi nào, Winnie. Cô bồ câu ngoan. Chỉ đường cho chúng ta đi.
Enoch chen vào thì thầm:
- Nếu mày không tìm thấy cô Wren, tao sẽ tự tay xiên mày lên nướng.
Con chim vụt lên không, nhao về bên trái. Melina nhìn trừng trừng Enoch.
- Cậu là đồ khốn, - cô nói.
- Quan trọng là kết quả, - cậu ta đáp.
Cuối cùng, chúng tôi tới một ga tàu điện ngầm. Con bồ câu dẫn chúng tôi qua lối vào vòm cuốn tới một phòng vé, và tôi đang chực nói: Chúng ta sẽ đi tàu điện ngầm, con chim khôn ngoan đấy, thì nhận ra phòng vé vắng tanh và quầy bán vé đóng cửa. Mặc dù không có vẻ gì sẽ sớm có chuyến tàu ghé qua nhà ga này, chúng tôi vẫn dấn bước tiến tới qua một cái cổng không bị chăng xích khóa, đi theo một hành lang đầy những tờ thông báo đang bong dần ra và những viên gạch men trắng sứt mẻ, tới một cầu thang chạy sâu xuống, tại đây chúng tôi đi theo vòng xoáy trôn ốc xuống sâu mãi lòng đất được thắp sáng bằng điện đang rì rầm của thành phố.
Tại mỗi chiếu nghỉ, chúng tôi đều phải bước vòng quanh những người đang ngủ, quấn mình trong chăn: ban đầu là từng người riêng, rồi tới từng nhóm nằm như những que diêm bị rải ra, rồi sau nữa, khi chúng tôi xuống tới nơi sâu nhất, cả một biển người chật ních tràn ra khắp ke ga tàu điện ngầm - hàng trăm người chen chúc giữa một vách tường và các đường ray, nằm co ro trên sàn, nằm dài trên các băng ghế, lún người vào những chiếc ghế gấp. Những người nếu không phải đang ngủ thì cũng đu đưa ru những đứa trẻ trên tay, đọc những cuốn sách bìa mềm, chơi bài, cầu nguyện. Không phải họ đang đợi tàu; chẳng có chuyến tàu nào sắp đến. Họ đang tránh bom, và nơi này là hầm trú ẩn của họ.
Tôi cố dùng trực cảm tìm hồn rỗng, nhưng có quá nhiều khuôn mặt, quá nhiều hình dáng. May mắn, nếu như chúng tôi có còn lại ít nhiều may mắn, biết đâu sẽ giúp chúng tôi tồn tại thêm trong một thời gian.
Giờ thì sao đây?
Chúng tôi cần con bồ câu định hướng giúp, song nó có vẻ hơi bối rối - giống như tôi, nó có vẻ bị đám đông làm rối trí - vì thế chúng tôi đành đứng đợi, tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng ú ớ lẩm bẩm của những người đang ngủ vang lên rì rầm thật kỳ lạ quanh chúng tôi.
Sau một phút, con bồ câu cứng người lại và bay về phía các đường ray, rồi làm căng dây buộc ra và nhào trở lại đậu trên bàn tay Melina như một con quay.
Chúng tôi rón rén đi vòng qua các thân người tới rìa ke ga, rồi nhảy xuống khe sâu nơi đặt các đường ray. Các tuyến ray mất hút vào trong các đường hầm ở hai đầu nhà ga. Tôi có cảm giác nặng nề là tương lai của chúng tôi nằm đâu đó ở một trong những cái miệng khổng lồ tối om đang há ngoác ra này.
- Ồ, tớ hy vọng chúng ta sẽ không phải mò mẫm vào trong kia, - Olive nói.
- Tất nhiên là phải, - Enoch nói. - Chúng ta phải dò dẫm mọi cống rãnh sẵn có thì mới gọi là một kỳ nghỉ đúng nghĩa chứ.
Con bồ câu nhao về phía bên phải.
Chúng tôi bắt đầu lần đi theo đường ray. Tôi nhảy tránh một vũng nước đọng váng dầu và một đoàn chuột cống rào rào chạy tránh khỏi hai bàn chân tôi, khiến Olive kêu thét lên nhào vào vòng tay Bronwyn. Đường hầm há hoác ra trước mặt chúng tôi, tối đen đầy đe dọa. Tôi cảm thấy sẽ rất bất lợi nếu chạm trán một con hồn rỗng ở nơi này. Ở đây chẳng có bức tường nào để leo lên, không có ngôi nhà nào để chui vào trú, không có nắp mộ nào để đậy lại sau lưng chúng tôi.
Đường hầm dài hun hút, thẳng tắp và chỉ được chiếu sáng bằng vài bóng đèn đỏ yếu ớt ở từng quãng cách xa nhau.
Tôi bước nhanh hơn.
Màn đêm khép lại quanh chúng tôi.
* * *
Khi còn bé, tôi hay chơi trốn tìm với bố. Tôi luôn là người đi trốn, còn ông đi tìm. Tôi thực sự giỏi trò đi trốn, chủ yếu vì không như phần lớn những đứa trẻ bốn năm tuổi, tôi có khả năng - mà hồi đó cũng kể là đặc biệt - giữ mình cực kỳ im lặng trong một khoảng  thời gian dài, và cũng vì tôi không hề bị ám ảnh bởi bất cứ thứ gì giống như hội chứng sợ bị giam giữ: tôi có thể thu mình chui rúc vào khoảng không gian chật chội nhất trong buồng kho sau nhà và ở yên đó trong hai mươi hay ba mươi phút, không phát ra một âm thanh nào, tận hưởng một thời gian tuyệt vời chưa từng có.
Đó là lý do hẳn sẽ khiến bạn nghĩ tôi không có rắc rối nào với những không gian khép kín tối mò. Hoặc là lý do ít nhất cũng làm bạn nghĩ một đường hầm vốn dùng để chứa các đoàn tàu, đường ray và chẳng có gì khác sẽ giúp tôi dễ xoay xở hơn so với nơi về cơ bản là một nghĩa địa mở, mọi thứ mang âm hưởng Halloween tràn ngập khắp ngóc ngách. Ấy thế nhưng, càng đi sâu vào đường hầm, tôi càng bị đè nặng bởi cảm giác sợ hãi lành lạnh ướt át cứ từ từ dâng lên - một cảm giác khác hẳn thứ cảm giác tôi dùng để phát hiện đám hồn rỗng; đây chỉ đơn giản là một linh cảm xấu. Và thế là tôi hối hả dẫn cả đám đi nhanh hết mức mà người chậm nhất trong chúng tôi có thể bước đi, thúc giục Melina cho tới khi cô gắt tôi lùi lại, một dòng adrenaline đầy kích động đều đều tiết ra giúp kìm chân cơn kiệt sức của tôi.
Sau một cuốc đi bộ dài và vài chỗ rẽ hình chữ Y trong đường hầm, con bồ câu dẫn chúng tôi tới một đoạn đường ray không được sử dụng, gạch đã bung vỡ, những vũng nước tù đọng trải rộng trên sàn hầm. Áp lực của những đoàn tàu chạy qua các đường hầm ngoài xa đẩy vào không khí xung quanh như những hơi thở từ khí quản một sinh vật khổng lồ nào đó.
Thế rồi, từ xa phía trước chúng tôi, một chấm sáng nhỏ xíu chập chờn hiện ra, nhỏ xíu nhưng lớn lên rất nhanh. “Tàu!”, Emma la lên, và chúng tôi tản ra tựa dán lưng vào các vách tường. Tôi bịt hai tai lại, cứ ngỡ phải nghe tiếng ầm ầm điếc tai của động cơ tàu điện ngầm ở cự ly gần, nhưng âm thanh đó chẳng bao giờ vang lên - tất cả những gì tôi có thể nghe thấy là một tiếng rên rỉ khe khẽ, mà tôi khá chắc chắn đang vang lên từ trong đầu mình. Đúng lúc ánh sáng tràn ngập đường hầm, quầng sáng trắng lóa của nó bao trùm lấy chúng tôi, tôi đột nhiên cảm thấy áp lực trong tai mình và ánh sáng biến mất.
Chúng tôi loạng choạng ngơ ngẩn rời khỏi vách tường. Giờ đây đường ray và gạch lát dưới chân chúng tôi đều mới tinh, như thể vừa mới được lắp đặt. Đường hầm có vẻ ít đậm mùi nước tiểu hơn. Những bóng đèn lắp dọc đường đã trở nên sáng hơn, và thay vì cung cấp thứ ánh sáng ổn định, chúng chập chờn - vì đó không phải là các bóng đèn điện mà là những ngọn đèn ga.
- Chuyện gì vừa xảy ra vậy? - tôi hỏi.
- Chúng ta đã vào một Vòng Thời Gian, - Emma nói.
- Nhưng thứ ánh sáng kia là gì vậy? Tớ chưa bao giờ thấy cái gì tương tự.
- Lối vào mọi Vòng Thời Gian đều có đặc trưng của chúng, - Millard nói.
- Có ai biết chúng ta đang ở đâu không? - tôi hỏi.
- Tớ đoán là nửa sau thế kỷ mười chín, - Millard nói. - Trước năm 1863, không hề có hệ thống đường tầu ngầm nào ở London cả.
Thế rồi, từ đằng sau chúng tôi, một quầng sáng nữa xuất hiện - lần này cùng với một luồng gió nóng bỏng và tiếng gầm như sấm động.
- Tàu kìa!
Emma lại la lên, và lần này thì đúng thật. Chúng tôi tựa mình áp sát vào các vách tường trong khi đoàn tàu vùn vụt lao qua trong một cơn cuồng phong của tiếng ồn, ánh sáng và khói phụt ra mù mịt. Trông nó giống một đoàn tàu với đầu máy hơi nước thu nhỏ hơn là một đoàn tàu điện ngầm hiện đại. Thậm chí còn có cả một toa dành cho nhân viên ở cuối đoàn tàu, tại đó một người đàn ông có bộ râu đen rậm cầm một cây đèn lồng cháy leo lét trên tay há hốc miệng kinh ngạc nhìn chúng tôi trong khi đoàn tàu rầm rầm lao đi rồi biến mất sau khúc quanh kế tiếp.
Cái mũ lưỡi trai của Hugh đã bị thổi bay khỏi đầu cậu và bị xéo nát. Cậu tới nhặt cái mũ lên, phát hiện ra nó đã rách tan, cậu giận dữ ném nó xuống.
- Tớ chả quan tâm đến cái Vòng này, - cậu ta nói. - Chúng ta mới chỉ ở đây có mười giây mà nó đã tìm cách giết chúng ta rồi. Hãy làm những gì chúng ta cần làm rồi xuốn xéo khỏi đây thôi.
- Tớ không thể tán thành hơn, - Enoch nói.
Con bồ câu dẫn chúng tôi đi tiếp theo đường ray. Sau chừng mười phút, nó dừng lại, kéo dây hướng về một thứ trông như bức tường trơn. Chúng tôi không hiểu tại sao cho tới khi tôi nhìn lên và phát hiện thấy một cái cửa bị ngụy trang một phần nằm nơi vách tường tiếp giáp trần đường hầm, ở trên cao sáu mét.
Vì dường như không còn cách nào khác để tới chỗ cái cửa, Olive liền tháo giày ra và bay lên để quan sát gần hơn.
- Trên cửa có một cái khóa, - cô nói. - Một cái khóa mã số.
Cũng có một cái lỗ vừa cỡ một con bồ câu được khoét qua góc dưới tấm cửa, nhưng chẳng ích gì với chúng tôi - chúng tôi cần mã số.
- Có ý tưởng nào về mã số không? - Emma hỏi, hướng tới tất cả mọi người.
Cô được đáp lại bằng những cái nhún vai và những ánh mắt ngơ ngác.
- Không, - Millard nói.
- Chúng ta sẽ phải đoán. - Emma nói.
- Biết đâu lại là sinh nhật tớ. - Enoch nói. - Thử ba-một-hai-chín-hai xem.
- Tại sao lại có ai đó biết sinh nhật cậu nhỉ? - Hugh lên tiếng.
Enoch cau mày.
- Cứ thử đi.
Olive quay vòng nhập số hết tới lại lui, rồi thử mở khóa.
- Xin lỗi nhé, Enoch.
- Thế còn ngày Vòng Thời Gian của chúng ta thì sao nhỉ? - Horace đề xuất. - Chín-ba-bốn-không.
Cũng không phải.
- Sẽ không phải là một thứ dễ đoán như ngày tháng đâu. - Millard nói. - Như thế sẽ làm hỏng mục đích lắp khóa.
Olive bắt đầu thử những cách phối hợp ngẫu nhiên. Chúng tôi đứng dưới quan sát, mỗi lần thử thất bại lại thêm lo lắng. Trong lúc đó, cô Peregrine lặng lẽ chui ra khỏi áo khoác của Bronwyn và nhảy tới chỗ con bồ câu, vốn đang lạch bạch đi đi lại lại quanh đầu sợi dây buộc vào chân nó, mổ mổ xuống đất. Khi trông thấy cô Peregrine, con chim cố nhảy tránh đi, nhưng cô phụ trách bèn đuổi theo, cổ họng phát ra những tiếng gừ gừ mơ hồ đầy đe dọa. Con bồ câu đập cánh bay lên vai Melina, tránh khỏi tầm với của cô Peregrine. Cô Peregrine đứng dưới chân Melina, kêu quang quác về phía nó. Hành động này có vẻ làm con bồ câu cực kỳ bất an.
- Cô P, cô định làm gì thế? - Emma nói.
- Tớ nghĩ bà ấy muốn biết gì đó từ con chim, - tôi nói với Melina.
- Nếu con bồ câu biết đường, - Millard nói,  -có lẽ nó cũng biết cả mã số nữa.
Cô Peregrine quay sang cậu ta và kêu ré lên, sau đó lại nhìn con bồ câu và kêu to hơn nữa. Con bồ câu cố trốn sau gáy Melina.
- Có lẽ con bồ câu biết mã số nhưng không biết cách nói cho chúng ta, - Bronwyn nói, - nhưng nó có thể nói với cô Peregrine, vì cả hai đều nói ngôn ngữ của chim, và sau đó cô Peregrine có thể cho chúng ta biết.
- Hãy để con bồ câu của cậu nói chuyện với con chim của bọn tớ, - Enoch nói.
- Chẳng có gì phải sợ cả, - Emma nói. - Cô P sẽ không bao giờ làm hại một con chim khác. Điều đó vi phạm quy tắc của các Chủ Vòng.
Đôi mắt Melina mở to, sau đó nheo lại.
- Con chim đó là một Chủ Vòng sao?
- Cô ấy là cô phụ trách của bọn tớ! - Bronwyn nói. - Alma LeFay Peregrine.
- Đầy rẫy ngạc nhiên, phải không nào? - Melina nói, rồi phá lên cười với vẻ khó có thể nói là thân thiện. - Các cậu có Chủ Vòng của mình ở ngay đây, vậy còn cần tìm một người khác làm gì?
- Đó là một câu chuyện dài. - Millard nói. - Tóm lại chỉ cần biết rằng Chủ Vòng của bọn tớ cần sự giúp đỡ mà chỉ một Chủ Vòng khác làm được.
- Chỉ cần để con bồ câu đó xuống đất để cô P có thể nói chuyện với nó! - Enoch nói.
Cuối cùng, đầy miễn cưỡng, Melina đồng ý.
- Thôi nào, Winnie, cô gái ngoan.
Cô nhấc con bồ câu khỏi vai và nhẹ nhàng đặt nó xuống dưới chân, rồi để dây buộc con chim xuống dưới giày và giẫm lên để nó không bay đi được.
Tất cả mọi người vây quanh để quan sát trong khi cô Peregrine tiến tới chỗ con bồ câu. Nó tìm cách bỏ chạy nhưng bị sợi dây giữ lại. Cô Peregrine sấn tới trước mặt nó, hết cùng cục lại quàng quạc. Cảnh tượng hệt như quan sát một cuộc hỏi cung. Con bồ câu rúc đầu vào dưới cánh và bắt đầu run bần bật.
Sau đó, cô Peregrine mổ vào đầu nó.
- Này! - Melina nói. - Dừng lại!
Con bồ câu vẫn rúc đầu như cũ và không trả lời, vậy là cô Peregrine lại mổ nó, mạnh hơn.
- Đủ rồi! - Melina la lên, và vừa nhấc giày lên khỏi sợi dây, cô vừa cúi xuống con bồ câu. Song cô còn chưa kịp chạm tay vào con chim, cô Peregrine đã nhanh chân chộp lấy sợi dây, kẹp chặt nó xuống trong khi lấy mỏ ngậm chặt một bên chân thanh mảnh của con bồ câu rồi nhảy đi, con bồ câu không ngớt kêu rít lên và vùng vẫy.
Melina nổi cáu.
- Quay lại đây! - cô tức giận la lên, định đuổi theo hai con chim thì bị Bronwyn giữ lại.
- Đợi đã! - Bronwyn nói. - Tớ tin chắc cô P biết mình đang làm gì…
Cô Peregrine dừng lại xa hơn một quãng phía dưới đường ray, tránh xa tầm với của bất cứ ai. Con bồ câu vùng vẫy trong mỏ bà, còn Melina vủng vẫy trong tay Bronwyn, cả hai đều vô vọng. Cô Peregrine có vẻ đợi con bồ câu mệt mỏi và khuất phục, nhưng sau đó bà trở nên nóng nảy và bắt đầu ngậm lấy chân con bồ câu và vung nó quay tít trong không khí.
- Làm ơn, cô P! - Olive la lên. - Cô sẽ giết nó mất!
Tôi định lao tới và tự gỡ chúng ra, nhưng hai con chim đã biến thành một đám lờ mờ chỉ thấy chân với mỏ, và không ai có thể lại đủ gần để tách riêng chúng ra. Chúng tôi kêu lên, nài nỉ cô Peregrine dừng lại.
Cuối cùng, bà cũng dừng. Con bồ câu rơi khỏi mỏ bà và lảo đảo đứng trên hai chân, quá choáng váng để có thể bay lên nổi. Cô Peregrine quàng quạc với nó hệt như lúc trước, và lần này con bồ câu chiêm chiếp trả lời.
Sau đó, cô Peregrine lấy mỏ mổ xuống đất ba lần, rồi mười lần, rồi năm lần.
Ba-một-không-năm.
Olive thử tổ hợp số. Cái khóa kêu tách rồi mở ra, cánh của mở vào trong, rồi một chiếc thang dây tuột xuống vách tường chạm tới tận sàn.
Cuộc hỏi cung của cô Peregrine đã có hiệu quả. Bà đã làm những gì cần làm để giúp tất cả chúng tôi, và vì thế, chúng tôi có thể bỏ qua cách hành xử của bà - nếu như không vì chuyện xãy ra tiếp theo. Bà lại xách chân con bồ câu đang đờ đẫn lên, có vẻ nổi cáu, và quăng mạnh nó vào tường.
Tất cả chúng tôi đều thảng thốt kêu lên kinh hoàng. Tôi bị sốc đến nỗi không nói nên lời. Melina vùng ra khỏi Bronwyn để chạy tới nhặt con bồ câu lên. Con chim oặt xuống từ trên tay cô gái, cổ bị gãy.
- Ôi con chim của tôi, cô ấy đã giết nó! - Bronwyn kêu lên.
- Chúng ta đã phải trải qua từng ấy chuyện để bắt được nó, - Hugh nói, - và giờ nhìn xem.
- Tôi sẽ vặn cổ Chủ Vòng của các người! - Melina rít lên, phát cuồng vì phẫn nộ.
Bronwyn lại tóm lấy tay cô.
- Không, cậu không được làm thế! Dừng lại!
- Chủ Vòng của các người là đồ man rợ! Nếu bà ta cư xử kiểu đó, chẳng thà chúng ta sống cùng lũ xác sống còn hơn!
- Thu lại câu cậu vừa nói ngay! - Hugh gắt lên.
- Không đời nào! - Melina nói.
Thêm nhiều lời lẽ gay gắt trao qua đổi lại. Thiếu chút nữa đã có một cuộc ẩu đả. Bronwyn giữ lấy Melina, Emma và tôi giữ Hugh, cho tới khi cơn hăng máu của họ dịu xuống, cho dù sự phẫn nộ thì chưa.
Không ai tin nổi điều cô Peregrine vừa làm.
- Có gì ghê gớm đâu nhỉ? - Enoch nói. - Đó chỉ là một con bồ câu ngu ngốc.
- Không, không phải, - Emma nói, thẳng thừng trách cứ cô Peregrine. - Con chim đó là bạn của cô Wren. Nó đã hàng trăm tuổi rồi. Nó đã được nói tới trong Những truyện kể. Và giờ nó chết rồi.
- Bị giết hại, - Melina nói, và cô nhổ nước bọt xuống đất. - Người ta gọi như thế khi có kẻ giết ai đó mà không có lý do.
Cô Peregrine thản nhiên nhặt một con ve dưới cánh, như thể bà không hề nghe thấy những lời vừa rồi.
- Có gì đó xấu xa đã xâm nhập vào cô ấy. - Olive nói. - Thế này không giống cô Peregrine chút nào.
- Cô ấy đang thay đổi, - Hugh nói, - trở nên nhiều chất động vật hơn.
- Hy vọng trong cô ấy vẫn còn chút nhân tính để mà cứu vớt. - Millard ảm đạm nói.
Tất cả chúng tôi cũng đều hy vọng như thế.
Chúng tôi leo lên khỏi đường hầm, mỗi người đều chìm trong những suy nghĩ đầy âu lo của riêng mình.
* * *
Đằng sau cánh cửa là một hành lang dẫn tới một dãy bậc thang đưa đến một hành lang khác và một cánh cửa khác, mở vào một căn phòng tràn ngập ánh sáng ban ngày và chất đầy quần áo: những chiếc giá, tủ tường, tủ đứng đầy ắp quần áo. Cũng có hai tấm bình phong gỗ để đứng sau thay đồ, vài tấm gương gắn trên giá đứng, và một bàn may với máy khâu và những xấp vải. Nơi này nửa như cửa hiệu, nửa như xưởng may - và là một thiên đường với Horace, cậu ta nhào vào trong và reo lên:
- Tôi ở trên thiên đường rồi!
Melina lầm lì đi sau củng, không nói gì với ai.
- Nơi này là gì vậy? - tôi hỏi.
- Một phòng cải trang, - Millard trả lời, - được thiết kế để giúp các vị khách đặc biệt tới thăm hòa lẫn vào những người bình thường của Vòng này.
Cậu ta chỉ ra một tấm hình minh họa được đóng khung mô tả cách mặc trang phục của thời kỳ đó.
- Nhập gia tùy tục! - Horace nói, đồng thời hăm hở lao về phía một giá treo quần áo.
Emma yêu cầu tất cả thay quần áo. Ngoài việc giúp chúng tôi hòa lẫn vào thực tại, quần áo mới có thể đánh lạc hướng tất cả những gã xác sống đang săn lùng chúng tôi.
- Nhưng giữ áo len của các cậu lại bên trong, đề phòng có thêm rắc rối tìm đến với chúng ta.
Bronwyn và Olive thay sang những bộ váy giản dị ở sau một tấm bình phong. Tôi đổi cái quần bê bết tro và ướt sũng mồ hôi của mình cũng như cái áo khoác lấy một bộ đồ hơi cọc cạch nhưng tương đối sạch sẽ. Ngay lập tức cảm thấy không thoải mái, tôi tự hỏi làm thế nào suốt bao thế kỷ người ta có thể liên tục mặc những thứ quần áo cứng nhắc, bó buộc kiểu này được.
Millard mặc vào một bộ đồ nom khá bảnh bao và ngồi xuống trước một cái gương.
- Trông tớ thế nào? - cậu ta hỏi.
- Như một anh chàng vô hình mặc quần áo, - Horace đáp.
Millard thở dài, nấn ná lại trước gương thêm một chút, rồi cởi đồ ra và lại biến mất. Cơn hào hứng ban đầu của Horace đã nguội xuống.
- Bộ sưu tập ở đây thật kinh khủng, - cậu ta phàn nàn. - Nếu như quần áo không bị nhậy cắn thì cũng bị vá víu bằng những mảnh vải chẳng ăn nhập gì! Tớ chán ngấy cảnh trông như một đứa nhóc lang thang ngoài phố rồi.
- Những đứa trẻ đường phố sẽ hòa lẫn vào quang cảnh xung quanh, - Emma nói từ sau màn chắn thay đồ của mình. - Những quý ông nhóc con đội mũ chóp cao thì không.
Emma trở ra đi một đôi giày bệt màu đỏ sáng bóng và một chiếc váy ngắn tay màu xanh lơ dài vừa quá gối.
- Cậu nghĩ thế nào? - cô nói, xoay người làm chiếc váy bay phồng lên.
Trông cô giống như Dorothy từ Phù thủy xứ Oz, chỉ có điều dễ thương hơn. Song tôi không biết phải nói với cô điều này thế nào trước mặt mọi người, nên thay vì thế tôi dành cho cô một nụ cười toe ngượng nghịu và giơ ngón tay cái lên.
Cô bật cười.
- Cậu thích à? Chậc, thế thì quá tệ, - cô nói kèm theo một nụ cười bẽn lẽn. - Tớ sẽ chịu đựng nó như một cái ngón tay đau vậy.
Rồi một thoáng buồn bã lướt qua trên khuôn mặt cô, như thể cô cảm thấy có lỗi vì đã cười - vì đã có cho dù chỉ một khoảnh khắc vui vẻ sau những gì đã xảy ta với chúng tôi và những gì còn phải giải quyết - và cô lại chui vào sau bình phong.
Tôi cũng cảm thấy thế: nỗi sợ hãi, sức nặng của những cảnh kinh hoàng chúng tôi đã thấy, những cảnh tượng cứ liên tục lặp đi lặp lại thành một vòng tròn bất tận khủng khiếp trong tâm trí tôi. Nhưng người ta không thể từng giây từng phút đều cảm thấy khổ sở, tôi muốn nói với cô như thế. Cười không làm những điều tồi tệ trở nên tệ hơn, và khóc cũng chẳng làm chúng bớt đi. Cười không có nghĩa là bạn không quan tâm hay bạn đã lãng quên. Nó chỉ có nghĩa bạn là con người. Nhưng tôi cũng không biết phải nói ra ý nghĩ này thế nào.
Khi quay ra, Emma mặc trên người một chiếc áo trông như bao tải, tay áo rách tươm và một cái váy dài chấm bàn chân. (Trông giống những đứa trẻ đường phố hơn nhiều). Song cô vẫn giữ lại đôi giày đỏ. Emma sẽ không bao giờ cưỡng lại được sự cám dỗ của một chút lấp lánh, dù là rất nhỏ.
- Thế còn cái này? - Horace nói, vung vẩy một bộ tóc giả phồng màu cam cậu ta tìm thấy. - Nó thì giúp ai đó hòa lẫn vào những người bình thường kiểu gì được đây?
- Vì có vẻ như chúng ta sẽ tới một lễ hội hóa trang, - Hugh nói, ngước mắt nhìn lên một bức áp phích trên tường quảng cáo cho một lễ hội.
- Đợi chút! - Horace nói, tới đứng cạnh Hugh dưới tấm áp phích. - Tớ đã nghe nói tới nơi này rồi! Một Vòng Du Lịch cũ!
- Vòng Du Lịch là cái gì vậy? - tôi hỏi.
- Trước đây cậu có thể tìm chúng trong khắp thế giới người đặc biệt, - Millard giải thích, - chúng được đặt theo chiến lược tại những thời điểm, địa điểm quan trọng về mặt lịch sử. Chúng tạo thành một Chuyến Tham Quan Lớn, từng có thời được coi là một phần thiết yếu trong việc giáo dục bất cứ người đặc biệt được nuôi dạy tử tế nào. Tất nhiên, đó là chuyện của rất nhiều năm trước rồi, khi việc ra ngoài vẫn còn tương đối an toàn. Tớ không nghĩ là vẫn còn cái Vòng nào kiểu này sót lại.
Thế rồi cậu ta im bặt, chìm trong ký ức về một thời tươi đẹp hơn.
Khi ai nấy đều đã thay đồ xong, chúng tôi để quần áo thế kỷ hai mươi của mình dồn lại thành một đống và đi theo Emma qua một cánh cửa khác, ra ngoài một con hẻm đầy ắp rác và những cái thùng rỗng. Tôi nhận ra âm thanh của một lễ hội hóa trang ngoài xa: những tiếng hỗn độn chẳng thành giai điệu gì của đàn ống, tiếng reo hò ầm ĩ của một đám đông. Ngay cả trong trạng thái căng thẳng và kiệt sức, tôi vẫn cảm thấy phấn khích. Từng có lúc đây là một nơi những người đặc biệt từ những nơi xa xôi trên khắp hành tinh tìm đến để chiêm ngưỡng. Bố mẹ tôi thậm chí còn chưa bao giờ đưa tôi tới công viên Disney.
Emma đưa ra yêu cầu quen thuộc:
- Ở sát nhau. Quan sát Jacob và tớ để nhận tín hiệu. Không nói gì với ai hết, và không nhìn vào mắt ai cả.
- Làm thế nào chúng ta biết phải đi đâu? - Olive hỏi.
- Chúng ta sẽ phải nghĩ như các Chủ Vòng, - Emma nói. - Nếu cậu là cô Wren, cậu sẽ ẩn náu ở đâu?
- Còn ở đâu nữa ngoài London? - Enoch nói.
- Giá như ai đó đừng có giết hại con bồ câu, - Bronwyn nói, cay đắng nhìn chằm chằm vào cô Peregrine.
Cô phụ trách đứng trên các viên đá lát ngước nhìn lên chúng tôi, song không ai muốn chạm đến bà. Nhưng chúng tôi vẫn phải giữ cho bà khuất khỏi tầm mắt, vì thế Horace quay lại căn phòng cải trang và lấy một cái túi vải bạt. Cô Peregrine không mấy hào hứng với cách thu xếp này, nhưng khi đã nhận ra rõ ràng là không ai chịu nhấc bà lên - và Bronwyn, giờ đây dường như hoàn toàn ghê tởm bà, lại càng không - bà bèn chui vào trong và để Horace buộc túi lại bằng một sợi dây da.
* * *
Chúng tôi theo những âm thanh chếnh choáng của lễ hội qua một mớ bòng bong những đường hẻm chật chội, nơi những người bán hàng từ trên những chiếc xe gỗ thả xuống nào rau củ, nào những bao ngũ cốc bụi bặm và cả những con thỏ vừa giết thịt; những đứa trẻ và những con mèo gầy trơ xương lẩn lút rình mò với đôi mắt cồn cào đói, và những người phụ nữ với khuôn mặt nhem nhuốc kiêu hãnh ngồi chồm hỗm bên các rãnh nước gọt khoai tây, tạo ra từng núi vỏ ngồn ngộn. Dù chúng tôi đã cố hết sức lách qua mà không gây chú ý, tất cả họ dường như đều quay lại nhìn chăm chăm khi chúng tôi đi qua: những người bán hàng, lũ trẻ, những người phụ nữ, đám mèo hoang, những con thỏ đã chết với đôi mắt trắng dã bị treo ngược đu đưa.
Thậm chí trong bộ quần áo mới phù hợp với thời đại của mình, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng mình không ở đúng nơi đúng chỗ. Tôi chợt nhận ra rằng, muốn hòa lẫn vào một nơi nào đó, không những trang phục mà cả tác phong cư xử cũng phải ăn nhập, mà cả các bạn tôi lẫn tôi đều không có dáng vẻ buông thõng vai và ánh mắt đảo lia lịa như những người này. Trong tương lai, nếu muốn giấu mình hữu hiệu như đám xác sống, tôi sẽ phải trau dồi thêm kỹ năng diễn xuất của mình.
Chúng tôi càng đi xa, lễ hội càng trở nên ầm ĩ hơn, và các thứ mùi cũng trở nên nặng hơn - thịt nấu quá lửa, hạt nướng, phân ngựa, phân người, và khói từ những cái bếp than, tất cả trộn lẫn vào nhau thành thứ mùi ngọt ngào một cách nôn mửa tới mức làm cả không khí đặc quánh lại. Cuối cùng, chúng tôi tới một quảng trường rộng, lễ hội đang diễn ra đúng cao trào rộn rã, đầy ắp người và những căn lều màu sắc rực rỡ, nhiều hoạt động tới mức đôi mắt tôi khó có thể thu vào cùng một lúc. Toàn bộ khung cảnh ập vào các giác quan của tôi như một đợt công kích. Có những người làm trò nhào lộn, đi trên dây, các nghệ sĩ phóng dao, người diễn trò nuốt lửa cũng như các hình thức tạp kỹ đường phố đủ loại. Một tay lang băm rao bán các loại thuốc độc quyền từ sau một chiếc xe:
- Một loại thuốc bổ quý hiếm để bảo vệ đường ruột chống lại các loại ký sinh, nấm mốc có hại và mùi khó ngửi đây!
Tranh giành sự chú ý trên một sân khấu đó là một nhà trình diễn to mồm mặc áo đuôi tôm và một con vật to tướng với bộ dạng thời tiền sử, làn da xám xịt của nó rũ xuống bên ngoài bộ xương thành từng nếp nhăn nheo. Trong lúc chúng tôi len lỏi thành một hàng trong đám đông đi ngang qua trước sân khấu, tôi phải mất đúng mười giây mới nhận ra đó là một con gấu. Nó đã bị cạo lông, trói vào một cái ghế và bắt mặc một cái váy phụ nữ, và trong khi đôi mắt con gấu lồi ra trên đầu, người đàn ông cười nhăn nhở và giả bộ phục vụ trà cho nó, đồng thời ngoạc mồm hét, “Thưa quý bà quý ông! Xin giới thiệu quý bà xinh đẹp nhất trên toàn xứ Wales!” - câu giới thiệu giúp ông ta giành được một tràng cười ầm ĩ từ đám đông. Tôi có phần hy vọng con gấu sẽ bứt được xích ra và chén ông ta ngay tại đó, trước mặt bàn dân thiên hạ.
Để cự lại cái cảm giác chóng mặt do toàn bộ cơn điên loạn như trong mơ này gây ra, tôi thò tay vào túi để áp lên màn hình phẳng nhẵn của chiếc điện thoại, nhắm mắt lại trong giây lát, rồi lẩm bẩm với chính mình, “Ta là một nhà du hành vượt thời gian. Đây là thực. Ta, Jacob Portman, đang du hành thời gian”.
Ngay thực tại này cũng đã đủ kinh ngạc. Có lẽ còn đáng kinh ngạc hơn nữa, việc du hành vượt thời gian đã không làm đầu óc tôi vỡ tung; và nhờ một phép mầu nào đó tôi vẫn chưa biến thành một gã điên không ngừng huênh hoang lảm nhảm ở góc phố. Tâm lý con người linh hoạt hơn nhiều so với những gì tôi hình dung, có khả năng mở rộng để thu nhận đủ loại nghịch lý và cả những điều dường như bất khả thi. May thay cho tôi.
- Olive! - Bronwyn la lên. - Rời khỏi đó ngay!
Tôi ngước nhìn lên và thấy cô lôi Olive rời khỏi chỗ một anh hề đang cúi xuống nói chuyện với cô bé.
- Tớ đã bảo cậu không biết bao nhiêu lần rồi, đừng bao giờ nói chuyện với người bình thường!
Nhóm chúng tôi đủ đông để việc giữ mọi người bên nhau có thể trở thành một thách thức, nhất là tại một nơi như nơi này, đầy ắp những trò giải trí được bày ra rất đúng tủ để mê hoặc trẻ con. Bronwyn vào vai bà mẹ nghiêm khắc, dồn chúng tôi lại bất cứ khi nào một ai đó trong chúng tôi tách ra để tới ngắm nghía kỹ hơn một dãy những chiếc chong chóng màu sắc sực sỡ hay những chiếc kẹo vừa làm xong còn bốc hơi nghi ngút. Olive là người dễ bị phân tâm nhất, và thường xuyên có vẻ quên mất rằng chúng tôi đang trong cảnh nguy hiểm vô cùng. Chỉ có thể giữ nhiều đứa trẻ đến thế trong hàng vì họ thực sự không phải là những đứa trẻ - vì có một bản chất nào đó già dặn hơn bên trong họ, tranh đấu lại và giữ cân bằng với những thôi thúc trẻ con của họ. Với những đứa trẻ thực sự, tôi tin chắc việc duy trì kỷ luật hẳn đã là vô vọng.
Suốt một hồi chúng tôi lang thang vô định, tìm kiếm bất cứ ai trông giống như cô Wren, hay bất cứ nơi nào có vẻ là chỗ những người đặc biệt có thể dùng để ẩn náu. Nhưng cái gì ở đây cũng có vẻ đặc biệt - toàn bộ Vòng Thời Gian này, với tất cả sự lạ lùng hỗn loạn của nó, là màn ngụy trang hoàn hảo cho những người đặc biệt. Ấy thế nhưng, ngay cả ở đây, người ta vẫn hướng sự chú ý vào chúng tôi, đầu họ thoáng quay theo khi chúng tôi đi ngang qua. Tôi bắt đầu bị hoang tưởng. Có bao nhiêu người trong đám đông quanh chúng tôi là gián điệp cho đám xác sống - hay chính là xác sống? Tôi đặc biệt cảnh giác anh hề, kẻ Bronwyn đã kéo Olive rời khỏi. Hắn cứ liên tục xuất hiện trở lại. Chúng tôi chắc chắn phải gặp hắn đến năm lần chỉ trong từng ấy phút: tha thẩn ở đầu một con hẻm, nhìn chằm chằm xuống từ một ô cửa sổ, dõi theo chúng tôi từ một căn lều chụp ảnh, mái tóc rối bù và lớp hóa trang kinh khủng tương phản một cách lạ lùng với phông nền vẽ cảnh đồng quê yên bình. Có vẻ như hắn có mặt khắp nơi trong cùng lúc.
- Lang thang ngoài nơi trống trải thế này chẳng tốt chút nào. - tôi nói với Emma. - Chúng ta không thể cứ lòng vòng mãi. Mọi người đang để ý tới chúng ta. Những tên hề.
- Hề ư? - cô hỏi lại. - Dù sao đi nữa, tớ đồng ý với cậu, nhưng thật khó biết phải bắt đầu từ đâu giữa cảnh điên rồ này.
- Chúng ta nên bắt đầu tại nơi luôn là phần đặc biệt nhất của bất cứ lễ hội nào, - Enoch nói, - chen vào giữa hai chúng tôi. - Màn biểu diễn phụ.
Cậu ta chỉ tay về phía một mặt phông cao trang trí lòe loẹt ở góc quảng trường.
- Những màn biểu diễn phụ và những người đặc biệt đồng hành với nhau chẳng khác gì sữa và bánh giòn. Hay hồn rỗng và xác sống.
- Họ hay làm vậy, - Emma nói, - những đám xác sống cũng biết thế. Tớ tin chắc cô Wren không giữ được tự do lâu đến thế bằng cách ẩn náu ở những nơi hiển nhiên như vậy.
- Cậu có ý tưởng nào hay hơn chăng? - Enoch nói.
Chúng tôi không có, và vì thế chúng tôi chuyển hướng về phía màn biểu diễn phụ.
Tôi nhìn lại sau để tìm kiếm tên hề đáng ngờ, nhưng hắn đã khuất dạng vào đám đông.
Ở vị trí cuộc biểu diễn phụ, một tay hoạt náo viên lễ hội tóc đầy gàu đang gân cổ lên qua một cái loa, hứa hẹn hình ảnh “những sai lầm kinh khủng nhất của thiên nhiên mà luật pháp cho phép mang ra trình diễn” với giá tiền cực rẻ. Màn trình diễn được gọi là Đại Hội Những Điều Kỳ Dị Của Nhân Loại.
- Nghe như vài dạ tiệc tớ từng tham dự, - Horace nói.
- Một số trong những “điều kỳ dị” này có thể là năng lực đặc biệt, - Millard nói, - trong trường hợp đó họ có thể biết ít nhiều về cô Wren. Theo tớ như thế cũng đáng tiền mua vé vào xem.
- Chúng ta làm gì có tiền mua vé vào, - Horace nói, moi một đồng xu xây xước từ trong túi áo ra.
- Từ khi nào chúng ta phải trả tiền để vào xem một màn biễu diễn phụ nhỉ? - Enoch nói.
Chúng tôi đi theo Enoch vòng ra đằng sau nơi trình diễn màn biểu diễn phụ, tại đây mặt tiền trông như một bức tường đã nhường chổ cho một cái lều to phồng phềnh. Chúng tôi đang tìm một kẽ hở để chui qua thì một cánh cửa vải được kéo vào, một người đàn ông và một người phụ nữ mặc lịch sự lao ra, người đàn ông đỡ người phụ nữ, người phụ nữ đang quạt lấy quạt để.
- Tránh ra! - người đàn ông hét to. - Người phụ nữ này cần không khí!
Trên cửa có một tấm biển ghi: CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI BIỂU DIỄN.
Chúng tôi lách vào trong và lập tức dừng lại. Một cậu bé mặt mũi bình thường ngồi trên một cái ghế đẩu mặt bọc múi phồng gần lối vào, có vẻ giữ vai trò chính thức nào đó.
- Các cậu là người biểu diễn à? - cậu ta hỏi. - Không được phép vào trừ phi là người biểu diễn.
Emma làm ra vẻ phật ý nói:
- Tất nhiên chúng tớ là người biểu diễn. - và để thể hiện, cô tạo ra một ngọn lửa nhỏ xíu trên đầu ngón tay mình rồi gí nó vào mắt để dập tắt.
Cậu nhóc nhún vai, không hề bị ấn tượng.
- Vậy thì vào đi.
Chúng tôi đi qua trước mặt cậu ta, chớp mắt, mắt chúng tôi chậm chạp thích nghi với bóng tối. Nơi diễn ra màn trình diễn phụ là một mê lộ trần thấp tạo thành từ những tấm vải bạt - một hành lang được thắp sáng bằng đuốc tạo thành hiệu ứng thật huyền ảo cứ sau hai mươi hay ba mươi bước chân lại rẽ ngoặt, để cứ sau mỗi góc rẽ chúng tôi lại đối diện với một “sự ghê rợn của tự nhiên” mới. Một dòng khán giả, một số phá lên cười, một số khác tái mét run lẩy bẩy, loạng choạng đi qua bên cạnh chúng tôi theo hướng ngược lại.
Vai trò dọa nạt đầu tiên đều là những màn trình diễn điển hình cho các cuộc trình diễn phụ ở hội chợ, và không có gì thực sự đặc biệt: một người “minh họa” cả người kín mít hình xăm; một phụ nữ có râu vuốt bộ râu cằm dài của mình và cười khúc khích; một người đàn ông vào vai cái gối đâm kim, dùng những chiếc kim đâm xuyên vào mặt mình, rồi dùng một cái búa đóng đinh vào hai cái lỗ mũi mình. Trong khi tôi nghĩ cảnh này thực sự ấn tượng, các bạn tôi, một số từng đi khắp châu Âu để biểu diễn cùng cô Peregrine, không kìm nổi ngáp vì chán.
Dưới tấm biển ghi NHỮNG NGƯỜI DIÊM KỲ DIỆU, một người đàn ông với hàng trăm hộp diêm dán trên bộ đồ đang mặc cọ người vào một người đàn ông khác dính đầy que diêm trên quần áo, làm lửa cháy bùng lên trên đám que diêm trước ngực ông này trong khi ông ta loạng choạng giả bộ kinh hoàng.
- Toàn nghiệp dư. - Emma lẩm bẩm trong lúc dẫn chúng tôi tới chỗ màn trình diễn tiếp theo.
Những sự kỳ lạ ngày càng trở nên lạ lùng hơn. Có một cô gái mặc chiếc váy dài có tua quấn một con trăn khổng lồ quanh người, con trăn trườn đi và uốn mình múa theo lệnh cô gái. Emma thừa nhận rằng việc này ít nhất cũng gần đến mức đặc biệt, vì khả năng thôi miên rắn là một điều chỉ các syndrigasti mới có thể làm được. Nhưng khi Emma có nói về cô Wren với cô gái này, cô ta lừ mắt nhìn chúng tôi đầy thù địch và con trăn của cô ta phì phì nhe nanh ra, còn chúng tôi đành đi tiếp.
- Chuyện này chỉ phí thời gian, - Enoch nói. - Thời gian của cô Peregrine đang cạn kiệt mà chúng ta lại đang lượn lờ tại một lễ hội! Thế sao không mua ít kẹo rồi ăn cho thỏa thích luôn nhỉ?
Song chỉ còn thêm một trò kinh dị nữa để xem, vì thế chúng tôi đi tiếp. Sân khấu cuối cùng gần như trống trơn, ngoại trừ một cái phông trơn, một cái bàn nhỏ có bày hoa, và một tấm bảng đặt trên giá ghi: NGƯỜI GẤP NỔI TIẾNG THẾ GIỚI.
Một người phục vụ bước lên sân khấu, kéo theo một chiếc va li. Ông ta đặt va li xuống rồi rời đi.
Một đám đông tập trung lại. Cái va li nằm đó, giữa sân khấu. Khán giả bắt đầu la lối, “Bắt đầu diễn đi!” và “Mang trò kinh dị ra đây!”.
Cái va li nhúc nhích. Rồi nó bắt đầu lắc lư, lắc tới lắc lui cho tới khi lật nghiêng sang một bên. Đám đông dồn lại gần sâu khấu, dán mắt vào nó.
Các chốt khóa va li bật ra, và thật từ từ, chiếc va li bắt đầu mở. Một đôi mắt trắng dã hé lộ khuôn mặt - của một người đàn ông trưởng thành, với bộ ria được xén tỉa gọn gàng và một đôi kính mắt tròn nhỏ, bằng cách nào đó ông đã gập mình vào trong một chiếc va li to không hơn thân mình tôi.
Đám đông vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, tràng hoan hô mỗi lúc một to khi nhân vật kỳ dị kia lộ diện, từng chi một, và bước ra khỏi chiếc va li nhỏ tới mức khó tin. Ông ta rất cao và gầy nhom như một cây cọc trồng đậu - quả thực là gầy đến mức báo động, như thể xương ông ta sắp chọc qua da đến nơi. Ông ta quả là một dấu chấm than hình người, nhưng thể hiện phong cách đường hoàng tới mức tôi không thể cười ông ta được. Ông ta nghiêm nghị quan sát đám đông đang reo hò đoạn cúi chào thật thấp.
Sau đó, người đàn ông dành một phút để cho thấy tứ chi của mình có thể uốn cong theo mọi cách kỳ lạ - đầu gối ông ta gập lại tới mức mũi bàn chân chạm tới tận môi, rồi hông ông ta gập lại để đầu gối chạm ngực - sau nhiều tràng hoan hô và nhiều cái cúi chào nữa, màn trình diễn kết thúc.
Chúng tôi nấn ná lại sau khi đám đông tản đi. Người Gấp đang xuống khỏi sân khấu thì Emma nói với ông ta:
- Ông là người đặc biệt, phải không nào?
Người đàn ông dừng lại. Ông ta từ tốn quay sang nhìn cô với vẻ khó chịu cao ngạo.
- Cháu nói gì cơ? - ông ta nói với khẩu âm Nga đặc sệt.
- Xin lỗi phải làm phiền ông thế này, nhưng chúng tôi cần tìm cô Wren. - Emma nói. - Chúng tôi biết bà ấy ở đâu đó tại đây.
- Hừ! - người đàn ông nói, gạt cô đi bằng một âm thanh nửa cười cợt nửa khạc nhổ.
- Đây là chuyện khẩn cấp! - Bronwyn năn nỉ.
Người Gấp khoanh tay lại thành một chữ X xương xẩu và nói:
- Tôi hông hỉu các cháu nói gì, - rồi rời khỏi sân khấu.
- Giờ thì sao đây? - Bronwyn hỏi.
- Chúng ta tiếp tục tìm. - Emma nói.
- Thế nhỡ không tìm thấy cô Wren thì sao? - Enoch hỏi.
- Chúng ta tiếp tục tìm. - Emma nói qua hai hàm răng siết chặt. - Mọi người hiểu chứ?
Mọi người đều hiểu quá rõ. Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Nếu khả năng này không thành công - nếu cô Wren không ở đây hoặc chúng tôi không sớm tìm thấy bà - thì tất cả nỗ lực đã bỏ ra đều là công cốc, và chúng tôi sẽ đánh mất cô Peregrine, hệt như thể chúng tôi chưa bao giờ tới London.
Chúng tôi ra khỏi khu biểu diễn phụ theo đường đã vào, ủ rũ, đi qua các sân khấu giờ đã trống không, qua trước cậu nhóc có khuôn mặt tẻ ngắt, rời khỏi cái lều để bước ra ánh sáng bên ngoài. Chúng tôi đang đứng bên ngoài lối ra, không biết nên làm gì tiếp theo, thì cậu nhóc có khuôn mặt tẻ ngắt ló ra khỏi tấm cửa vải.
- Gặp rắc rối à? - cậu ta hỏi. - Màn trình diễn không hợp khẩu vị sao?
- Nó… rất được. - tôi nói để tống khứ cậu ta đi.
- Không đủ đặc biệt với các cậu à? - cậu ta hỏi.
Câu hỏi thu hút được sự chú ý của chúng tôi.
- Cậu nói sao? - Emma hỏi.
- Wakeling và Rookery, - cậu nhóc nói, chỉ tay ra đằng sau chúng tôi, về phía góc xa của quảng trường. - Đó là nơi diễn ra màn trình diễn thực sự.
Rồi cậu ta nháy mắt với chúng tôi và chui trở vào trong lều.
- Thật bí hiểm, - Hugh nói.
- Có phải cậu ta nói đặc biệt không? - Bronwyn hỏi.
- Wakeling và Rookery là gì vậy? - tôi hỏi.
- Một địa điểm, - Horace nói. - Nơi nào đó trong vòng này, có lẽ vậy.
- Có thể là một ngã ba, - Emma nói, và cô nhấc tấm cửa lều lên để hỏi cậu nhóc xem ý cậu ta có phải vậy không - song cậu ta đã đi khỏi.
Thế là chúng tôi lên đường chen qua đám đông, hướng về phía góc quảng trường đằng xa cậu nhóc đã chỉ, chút hy vọng mong manh cuối cùng của chúng tôi bấu víu cả vào hai cái tên phố lạ lùng thậm chí chúng tôi còn chẳng dám chắc có tồn tại hay không.
* * *
Có một nơi, nằm quá quảng trường vài khối nhà, tại đó tiếng ồn ào của đám đông lắng hẳn và được thay thế bằng tiếng loảng xoảng chan chát của xưởng thợ, và thứ mùi đặc quánh của thịt nướng và chất thải động vật được thay thế bằng một thứ mùi còn kinh khủng hơn nhiều và không định nổi tên. Băng qua một dòng chất thải đặc sệt có tường chắn, chúng tôi đi vào khu vực của các nhà máy và công xưởng, của các ống khói đang tống thứ vật chất đen ngòm lên bầu trời, và đây là nơi chúng tôi tìm thấy phố Wakeling. Chúng tôi đi bộ theo một chiều xuống phố Wakeling, để tìm Rookery cho tới khi phố này kết thúc tại một đường cống lộ thiên khổng lồ được Enoch cho hay là sông Fleet, rồi quay lại đi theo chiều ngược lại.
Khi chúng tôi đi quá vị trí chúng tôi rẽ vào phố Wakeling ban đầu, con phố này bắt đầu uốn cong và chạy ngoằn ngoèo, các nhà máy, công xưởng thu dần lại thành các văn phòng chật chội và những tòa nhà khiêm nhường với mặt tiền vô hồn và không có biển hiệu gì, cứ như thể một khu vực được xây dựng có chủ ý để trở thành vô danh.
Cảm giác bất an tôi bị ám ảnh nãy giờ càng trở nên trầm trọng hơn. Sẽ thế nào nếu chúng tôi bị giăng bẫy - bị lừa tới khu vực khuất nẻo này của thành phố để bị phục kích mà không ai nhìn thấy? Con phố uốn éo rồi chạy thẳng trở lại, thế rồi tôi đâm sầm vào Emma, cô vẫn đi ngay trước tôi song vừa đột ngột dừng lại.
- Có chuyện gì vậy? - tôi hỏi.
Thay vì trả lời, cô chỉ chỉ tay. Đằng trước, tại một ngã ba, có một đám đông. Cho dù ở chỗ lễ hội trời nóng đến phát ngốt, rất nhiều người trong đám đông vẫn xúng xính trong áo khoác và khăn quàng. Họ đang tập trung lại quanh một tòa nhà, và đứng đó ngước nhìn lên tòa nhà trong tâm trạng ngỡ ngàng đến sững sờ - cũng hệt như chúng tôi vào lúc này. Bản thân tòa nhà chẳng có gì đặc biệt - bốn tầng, ba tầng trên chỉ là những dãy cửa sổ tròn, hẹp, như một tòa nhà văn phòng cũ. Kỳ thực, tòa nhà này gần như giống hết các tòa nhà gần nó, với một ngoại lệ: nó hoàn toàn chìm ngập trong băng. Băng bao bọc ngoài các cửa sổ và cửa ra vào. Những trụ băng rủ xuống như những chiếc răng nanh từ tất cả các khung cửa và gờ tường. Tuyết tràn ngập trên các bậc cửa, dồn thành từng đống lớn trên vỉa hè. Trông như thể một cơn bão tuyết đã giáng xuống tòa nhà - từ bên trong.
Tôi nhìn chăm chăm vào một tấm biển tên phố bị tuyết phủ lên: PH… R… KERY.
- Tớ biết nơi này. - Melina nói. - Đây là văn khố đặc biệt, nơi lưu trữ tất cả các hồ sơ chính thức của chúng ta.
- Làm thế nào cậu biết được? - Emma hỏi.
- Cô Thrush đang chuẩn bị cho tớ trở thành trợ lý thứ hai của nữ thủ thư tại đây. Kỳ thi rất khó khăn. Tớ đã học trong suốt hai mươi mốt năm.
- Và đây cũng là nơi Hội đồng Chủ Vòng Thời Gian được triệu tập để xem xét chi li các quy định hằng năm, - Millard nói.
- Hội đồng Chủ Vòng họp ở đây à? - Horace hỏi. - Thật xoàng xĩnh quá. Tớ cứ nghĩ phải là một lâu đài hay nơi nào tương tự cơ.
- Nơi được chọn phải không nổi bật, - Melina nói. - Nó được chọn để cậu không thể phát hiện ra được.
- Thế thì họ đã che giấu nó quá dở rồi, - Enoch nói.
- Như tớ nói rồi, nơi này không phải lúc nào cũng bị băng bao phủ.
- Vậy theo cậu chuyện gì đã xảy ra ở đây? - tôi hỏi.
- Không gì tốt đẹp, - Millard nói. - Không gì tốt đẹp hết.
Chắc chắn chúng tôi cần phải lại gần và khám phá, song như vậy không có nghĩa là chúng tôi cần hối hả lao tới như một lũ ngốc. Chúng tôi nán lại quan sát từ ngoài xa. Người ta tới rồi đi. Một số thử cạy cửa nhưng nó đã đóng băng cứng ngắc. Đám đông thưa đi ít nhiều.
- Tích, tích, tích. - Enoch nói. - Chúng ta đang lãng phí thời gian đấy.
Chúng tôi len qua những người còn lại trong đám đông và đặt chân lên đoạn vỉa hè đóng băng. Tòa nhà phả ra hơi lạnh, chúng tôi rùng mình, đút hết tay vào túi để chống lại cái lạnh này. Bronwyn dùng sức mạnh của cô để kéo mở cửa, và cánh cửa bị giật bung ra, bản lề bay tung - nhưng hành lang mở ra sau đó đã hoàn toàn bị băng che kín. Khối băng trải kín từ bức tường này đến bức tường kia, từ sàn tới trần, và ăn sâu vào trong tòa nhà thành một màu xanh mờ đục. Tình hình tương tự với các cửa sổ: tôi lau lớp sương đọng trên một khung kính rồi một khung kính khác, và qua cả hai khung kính tôi cũng chỉ nhìn thấy băng. Cứ như thể một dòng sông băng đã hình thành đâu đó trong lòng nơi này, và những cái lưỡi băng giá của nó thè ra bất cứ chỗ nào có khoảng mở.
Chúng tôi thử đủ cách có thể nghĩ ra được để chui vào trong. Chúng tôi đi vòng quanh tòa nhà tìm xem có cửa ra vào hay cửa sổ nào không bị băng chặn, nhưng mọi lối vào tiềm tàng đều đầy ự băng. Chúng tôi nhặt đá và gạch lên, cố đập vỡ băng, nhưng thứ băng này có độ cứng gần như siêu nhiên - thậm chí cả Bronwyn cũng không thể khoét sâu được vào nó hơn vài phân.
Millard lục lọi trong cuốn Những truyện kể để tìm xem có thông tin nào về tòa nhà không, song chẳng có gì, chẳng thấy bí mật nào.
Cuối cùng, sau khi cân nhắc, chúng tôi quyết định chấp nhận một rủi ro. Chúng tôi đứng chụm thành nửa vòng tròn quanh Emma để che kín cô khỏi tầm mắt, và cô đốt nóng hai bàn tay mình, áp chúng lên bức tường băng che kín lối vào. Sau một phút, hai bàn tay bắt đầu ngập vào trong băng, nước tan ra chảy xuống thành vũng dưới chân chúng tôi. Nhưng quá trình này diễn ra chậm chạp kinh khủng, và sau năm phút, cô cũng chỉ tiến sâu vào được tới khuỷu tay.
- Với tốc độ này, sẽ phải mất hết tuần mới đi tới cuối hành lang được, - cô nói, rút hai cánh tay ra khỏi băng.
- Cậu có nghĩ cô Wren thực sự ở trong đó không? - Bronwyn hỏi.
- Chắc chắn phải vậy. - Emma kiên quyết nói.
- Tớ thấy cơn lây lan sự lạc quan này thực sự đáng kinh ngạc, - Enoch nói. - Nếu cô Wren ở trong kia, thì bà ấy hẳn là đông cứng rồi.
Emma nổi xung lên với cậu ta.
- Tận thế và u ám! Sụp đổ và tan hoang! Tớ nghĩ hẳn cậu sẽ thấy hạnh phúc nếu thế giới chấm dứt vào ngày mai, chỉ để cậu có thể nói Tớ đã bảo mà ấy nhỉ!
Enoch chớp mắt nhìn cô, kinh ngạc, rồi nói rất bình thản:
- Cậu có thể chọn sống trong một thế giới tưởng tượng nếu cậu thích, cô bạn thân mến, nhưng tớ là một người thực tế.
- Nếu có lúc nào đó cậu từng đưa ra không chỉ là sự chỉ trích đơn thuần, - Emma nói, - nếu có lúc nào đó cậu từng đưa ra dù chỉ một đề xuất hữu ích trong lúc khó khăn, thay vì chỉ nhún vai trước viễn cảnh thất bại và chết chóc, thì chắc tớ có thể chịu đựng được thái độ lúc nào cũng bi quan của cậu! Nhưng vì đã như thế…
- Chúng ta đã thử mọi cách rồi! - Enoch chặn ngang. - Tớ còn có thể đề xuất gì đây?
- Có một điều duy nhất chúng ta chưa thử, - Olive lên tiếng, xen vào từ phía sau nhóm của chúng tôi.
- Là gì? - Emma hỏi.
Olive quyết định làm thay vì nói với chúng tôi. Rời khỏi vủa hè, cô bé đi vào giữa đám đông, quay mặt về phía tòa nhà, rồi lấy hết sức gọi to:
- Xin chào, cô Wren! Nếu bà ở trong đó, làm ơn hãy ra đi! Chúng cháu cần bà…
Không để cô bé kịp nói hết, Bronwyn đã ngăn lại, và phần cuối câu nói của Olive được hét vào cánh tay cô gái mạnh mẽ.
- Cậu mất trí à? - Bronwyn nói, ôm Olive lôi trở lại chỗ chúng tôi. - Cậu sắp làm tất cả chúng ta bị bại lộ đấy!
Cô để Olive đứng xuống vỉa hè và định trừng phạt cô bé thêm nữa thì nước mắt bắt đầu ròng ròng chảy xuống trên khuôn mặt cô bé.
- Chúng ta bị phát hiện thì đã làm sao? - Olive nói.  - Nếu chúng ta không thể tìm được cô Wren và không thể cứu cô Peregrine, thì dù cả một đội quân xác sống ập tới chúng ta ngay bây giờ cũng có quan trọng gì?
Một người phụ nữ bước ra khỏi đám đông và lại gần chúng tôi. Bà đã lớn tuổi, lưng còng vì tuổi tác, khuôn mặt bị che khuất một phần dưới chiếc mũ trùm của áo khoác.
- Cô bé này không sao chứ? - bà hỏi.
- Em ấy không sao ạ, cảm ơn bà, - Emma đáp khá cộc cằn.
- Có đấy! - Olive nói. - Chẳng có gì ổn cả! Tất cả những gì chúng cháu từng muốn là sống bình yên trên hòn đảo của mình, và rồi những kẻ xấu tới, làm hại cô phụ trách của chúng cháu. Giờ đây tất cả những gì chúng cháu muốn làm là giúp cô ấy, thế mà chúng cháu còn chẳng thể làm nổi việc đó!
Olive cúi đầu xuống và bắt đầu khóc nức nở thật thương tâm.
- Được rồi, - người phụ nữ nói, - thật tốt là các cháu đã tới tìm ta.
Olive ngước nhìn lên, sụt sịt và hỏi:
- Tại sao lại thế ạ?
Và rồi người phụ nữ biến mất. Chỉ vậy thôi. Bà biến mất khỏi bộ trang phục của mình, và áo khoác của bà, đột nhiên rỗng không, rơi xuống vỉa hè với một tiếng vút nhẹ nhàng. Tất cả chúng tôi đều quá sững sờ đến nỗi chẳng nói được gì - cho tới khi một con chim nhỏ nhảy ra từ dưới các nếp áo khoác.
Tôi cứng người lại, không chắc liệu tôi có nên tìm cách bắt nó hay không.
- Có ai biết đó là loại chim gì không? - Horace hỏi.
- Tớ tin rằng đó là một con hồng tước, - Millard nói.
Con chim vỗ vỗ cánh, lao lên không trung và bay đi, biến mất ra đằng sau hông tòa nhà.
- Đừng để mất dấu nó! - Emma la lên, và tất cả chúng tôi cùng chạy lao theo con chim, loạng choạng trượt ngã trên băng, vòng ra sau hông nhà vào con hẻm ngập tuyết nằm giửa tòa nhà bị đóng băng và ngôi nhà kế bên nó.
Con chim đã biến mất.
- Khỉ thật! - Emma nói. - Nó đâu rồi?
Thế rồi một chuỗi âm thanh lạ lùng vang lên từ mặt đất dưới chân chúng tôi: tiếng kim loại va đập lanh canh, những giọng nói, và một tiếng ồn như nước phun. Chúng tôi gạt tuyết ra và tìm thấy hai cánh cửa gỗ được gắn vào vách gạch, như lối vào một tầng hầm đựng than vậy.
Những cánh cửa này không có then cài. Chúng tôi kéo mở chúng ra. Bên trong có những bậc thang dẫn xuống bóng tối, các bậc thang đều phủ một lớp băng đang nhanh chóng tan ra, nước đang òng ọc chảy xuống một lỗ cống không thể trông thấy nào đó, phát ra âm thanh thật to.
Emma cúi khom người xuống và gọi vào bóng tối.
- Xin chào? Có ai trong đó không?
- Nếu các cháu đang tới, - một giọng nói vọng lại từ xa, - thì tới nhanh lên!
Emma kinh ngạc đứng thẳng dậy. Rồi hỏi to:
- Bà là ai?
Chúng tôi đợi một câu trả lời. Không có.
- Chúng ta còn đợi gì nữa đây? - Olive lên tiếng. - Đó chính là cô Wren!
- Chúng ta không rõ, - Millard nói. - Chúng ta đâu có biết chuyện gì đã xảy ra ở đây.
- À, tớ sẽ đi tìm hiểu, - Olive nói, và chưa kịp ngăn cản, cô bé đã đi xuống cửa hầm, luồn qua, bồng bềnh nhẹ nhàng hạ xuống đáy hầm.
- Tớ vẫn còn sống! - giọng cô vọng lên chế giễu chúng tôi từ trong bóng tối.
Bị nỗi xấu hổ thôi thúc, chúng tôi phải đi theo cô bé, bước xuống các bậc thang, và tìm thấy một hành lang chạy xuyên qua băng dày. Nước lạnh cóng nhỏ tong tỏng từ trên trần xuống, chạy dọc theo các vách tường thành một dòng liên tục. Và bên trong nói cho cùng cũng không hoàn toàn tối đen - ánh sáng mờ dịu hắt ra từ sau một chỗ rẽ của hành lang phía trước.
Chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân đi lại gần. Một cái bóng xuất hiện trên vách tường phía trước chúng tôi. Rồi một thân hình mặc áo khoác xuất hiện từ sau chỗ rẽ, hiện lên trong quầng sáng.
- Xin chào, các bạn trẻ, - người này nói. - Ta là Balenciaga Wren, và ta rất vui là các cháu ở đây.

Chương 12


Ta là Balenciaga Wren.
Nghe thấy những lời này cũng giống như mở nút một cái chai khí nén. Ban đầu là cảm giác nhẹ nhõm - những tiếng kêu thảng thốt, tiếng cười rúc rích - và sau đó là niềm vui tuôn trào: Emma và tôi nhảy lên ôm chầm lấy nhau; Horace quỳ gối xuống và giơ cao hai cánh tay như muốn thốt lên Ơn Chúa! không thành tiếng. Olive phấn khích tới mức bay vút lên không dù vẫn đi đôi giày trọng lực, lắp bắp, “Chúng… chúng… chúng cháu cứ tưởng sẽ không… không bao giờ được thấy một Chủ Vòng nữa… nữa!”.
Cuối cùng thì cô Wren đây rồi. Mấy ngày trước, với chúng tôi bà chỉ là một Chủ Vòng không mấy tiếng tăm của một Vòng Thời Gian ít được biết đến, nhưng sau đó bà đã dần trở thành một huyền thoại: theo những gì chúng tôi biết, bà là Chủ Vòng cuối cùng còn sống và tự do, một biểu tượng sống của hy vọng, thứ tất cả chúng tôi đang khao khát. Và bà đây, ngay trước mặt chúng tôi, bằng xương bằng thịt và yếu ớt. Tôi nhận ra bà từ bức ảnh của Addison, chỉ có điều giờ đây không còn chút màu đen nào lưu lại trên mái tóc bạc trắng của bà, ôm lấy hai khóe miệng bà như những dấu ngoặc đơn, còn đôi vai bà còng xuống như thể bà không chỉ già, mà còn bị đè nén dưới một gánh nặng ghê gớm; sức nặng của tất cả niềm hy vọng khổ sở từ chúng tôi dồn hết lên bà.
Bà Chủ Vòng kéo mũ trùm áo khoác của mình lên trở lại và nói:
- Ta cũng rất mừng khi được gặp các cháu, các cháu thân mến, nhưng các cháu cần vào trong ngay lập tức; ở ngoài này không an toàn.
Bà quay người tập tễnh bước vào trong hành lang. Chúng tôi xếp thành hàng, lạch bạch bước đi sau lưng bà qua đường hầm xuyên trong băng như một bầy vịt con đi theo mẹ, chân trơn trượt, hai cánh tay dang ra vụng về giữ thăng bằng để tránh trượt ngã. Đó chính là ảnh hưởng của một Chủ Vòng lên những đứa trẻ đặc biệt: chỉ nguyên sự hiện diện của một người - thậm chí là một người chúng tôi mới vừa gặp - cũng lập tức làm chúng tôi thấy an tâm.
Nền dưới chân dốc dần lên, dẫn chúng tôi đi qua những chiếc lò im ắng bám đầy sương giá, vào một căn phòng rộng, cả căn phòng, từ sàn tới trần, từ tường bên này qua tường bên kia, đều đóng băng cứng, ngoại trừ đường hầm chúng tôi đang đi, được trổ qua chính giữa khối băng. Lớp băng dày nhưng trong suốt, và đôi chỗ tôi có thể nhìn sâu đến sáu hay chín mét vào trong lớp băng mà hình ảnh chỉ hơi bị méo đi một chút. Căn phòng có vẻ là một nơi tiếp đón, từng hàng ghế lưng thẳng kê đối diện với một cái bàn làm việc đồ sộ và vài chiếc tủ đựng hồ sơ, tất cả đều chìm trong hàng tấn băng. Ánh sáng ban ngày màu xanh được lọc qua băng chiếu vào qua một dãy ô cửa sổ không thể với tới, bên kia chúng là đường phố, một đám xám mờ nhòa nhòa.
Một trăm con hồn rỗng có thể bỏ ra cả tuần công phá lớp băng đó mà vẫn chưa thể với tới chúng tôi. Nếu không tính tới lối vào qua đường hầm, nơi này có thể coi là một pháo đài hoàn hảo. Hoặc vậy, hoặc một nhà tù hoàn hảo.
Trên các bức tường treo hàng chục chiếc đồng hồ, những chiếc kim bất động của chúng chỉ đủ loại thời điểm khác nhau. (Có lẽ để theo dõi thời gian tại các Vòng khác nhau chăng?).
Phía trên chúng, các biển chỉ đường hướng dẫn tới một số phòng làm việc:

- PHÓ THƯ KÝ SỰ VỤ TẠM THỜI
- PHÒNG LƯU TRỮ CÁC HỒ SƠ ĐỒ HỌA
- CÁC VẤN ĐỀ KHẨN CẤP CHUNG
- BAN LÀM HOANG MANG VÀ TRÌ HOÃN

Qua cánh cửa dẫn vào văn phòng Sự vụ Tạm thời, tôi thấy một người đàn ông bị kẹt trong băng. Ông ta bị đông cứng trong tư thế cúi rạp xuống, như thể đang cố gỡ chân ra khi băng bao trùm lên phần còn lại của người mình. Người đàn ông đã ở đó một thời gian dài. Tôi rùng mình và nhìn đi chổ khác.
Đường hầm kết thúc tại một cầu thang lạ lùng có lan can, không hề bị đóng băng nhưng phủ đầy những tờ giấy rời. Một cô gái đứng trên một trong các bậc thấp nhất, quan sát chúng tôi dò dẫm trơn trợt lại gần không chút hào hứng. Cô gái có mái tóc dài được rẽ ngôi giữa một cách nghiêm chỉnh và dài xuống tận hông, liên tục điều chỉnh đôi kính mắt tròn nhỏ, và đôi môi mỏng dính có vẻ như chưa bao giờ uốn cong lên thành nụ cười lấy một lần.
- Althea! - cô Wren nghiêm khắc nói. - Em không được phép lang thang ra ngoài thế này trong khi lối vào đang mở - bất cứ ai cũng có thể lọt vào tận đây!
- Vâng, thưa cô phụ trách, - cô gái nói, sau đó hơi gật đầu. - Họ là ai vậy, thưa cô?
- Đây là những người do cô Peregrine quản lý. Ta đã kể với em về họ rồi đấy.
- Họ có mang theo một chút thức ăn nào không ạ? Hay là thuốc? Hay bất cứ thứ gì hữu dụng? - Cô gái nói thật chậm chạp như chì chiết, giọng nói của cô cũng nặng nề hệt như vẻ mặt.
- Không thêm câu hỏi nào nữa cho tới khi em đã đóng lối vào lại, - cô Wren nói. - Giờ thì khẩn trương lên!
- Vâng, thưa cô. - cô gái nói, và không có vẻ gì là khẩn trương, cô ta kiêu kỳ bước đi theo đường hầm, vừa đi vừa đưa hai bàn tay cà lên các vách tường băng.
- Rất xin lỗi về chuyện đó, - cô Wren nói. - Althea không cố ý tỏ ra cứng đầu; chỉ đơn giản là nó sinh ra đã bướng bỉnh. Song cô bé khiến lũ sói phải dè chừng, và chúng ta rất cần cô bé. Chúng ta sẽ chờ ở đây cho tới khi cô bé quay lại.
Cô Wren đứng ở bậc thang dưới cùng, và trong khi bà cúi người xuống, tôi gần như có thể nghe thấy những chiếc xương già nua của bà kêu răng rắc. Tôi không biết bà nói khiến lũ sói phải dè chừng là có ý gì, nhưng có quá nhiều câu cần hỏi, vì thế câu đó sẽ phải đợi.
- Cô Wren, làm thế nào bà biết được chúng cháu là ai? - Emma hỏi. - Chúng cháu chưa bao giờ nói ra mà.
- Đó là việc một Chủ Vòng cần phải biết, - bà đáp. - Ta có những quan sát viên trên cây từ đây tới tận biển Ireland. Và bên cạnh đó, các cháu rất nổi tiếng! Chỉ có một vị Chủ Vòng duy nhất có các học viên an toàn lành lặn thoát được khỏi cuộc tập kích của những kẻ biến chất, đó là cô Peregrine. Nhưng ta không biết bằng cách nào các cháu đi xa được tới tận đây mà chưa bị bắt - và bằng cách nào các cháu tìm được ta trong lãnh địa đặc biệt này!
- Có một cậu bé ở chỗ lễ hội chỉ đường cho bọn cháu tới đây, - Enoch nói. Cậu ta giơ một bàn tay lên ngang cằm mình. - Cao khoảng từng này thì phải? Và đội một cái mũ ngớ ngẩn ấy ạ?
- Một trong những người cảnh giới của chúng ta, - cô Wren gật đầu nói. - Nhưng làm thế nào các cháu tìm được cậu ấy?
- Chúng cháu bắt được một trong những con bồ câu do thám của bà, - Emma nói đầy tự hào, - và nó đã dẫn chúng cháu tới Vòng Thời Gian này.
(Cô lờ đi chuyện cô Peregrine đã giết nó)
- Những con bồ câu của ta! - Cô Wren thốt lên. - Nhưng làm thế nào các cháu biết được về chúng? Lại còn bắt được một con nữa?
Thế rồi Millard bước lên trước. Cậu ta đã mượn chiếc áo khoác ngoài Horace lấy từ phòng cải trang để khỏi bị lạnh cóng, và cho dù cô Wren không có vẻ gì ngạc nhiên khi thấy một cái áo khoác lơ lửng trong không khí, bà đã rất kinh ngạc khi cậu nhóc vô hình mặc nó nói:
- Cháu suy đoán ra vị trí bầy chim từ Những truyện kể về người đặc biệt, nhưng lần đầu tiên chúng cháu nghe nói đến chúng là ở một trại động vật trên đỉnh núi của bà, từ một con chó rất tự phụ.
- Nhưng đâu có ai biết vị trí trại động vật của ta!
Lúc này cô Wren gần như đã quá kinh ngạc để có thể nói nên lời, và vì mỗi câu trả lời chúng tôi cung cấp cho bà chỉ làm nảy ra thêm nhiều câu hỏi, chúng tôi liền kể lại toàn bộ câu chuyện cho bà nghe nhanh hết mức có thể, từ lúc chúng tôi thoát khỏi hòn đảo trên những con thuyền không mui bé tẹo.
- Chúng cháu đã suýt chết đuối, - Olive nói.
- Và bị bắn, bị ném bom, bị hồn rỗng ăn thịt, - Bronwyn nói.
- Và bị một đoàn tàu chạy trong đường hầm cán qua, - Enoch nói.
- Và bị một cái tủ đè bẹp, - Horace nói, cau có nhìn cô gái có năng lực điều khiển từ xa.
- Chúng cháu đã phải đi một chuyến dài qua vùng đất nguy hiểm, - Emma nói, - tất cả để tìm người có thể giúp cô Peregrine. Chúng cháu rất hy vọng người đó có thể là bà, cô Wren.
- Chúng cháu thực sự trông đợi điều đó, - Millard nói.
Cô Wren phải mất một lúc mới lấy lại được giọng nói, và ngay cả lúc đó, giọng bà vẫn lạc đi vì xúc động.
- Các cháu thật can đảm, tuyệt vời. Các cháu chính là phép mầu, mỗi người trong các cháu, và bất cứ Chủ Vòng nào cũng thật may mắn được gọi các cháu là học trò của mình. - Bà dủng tay áo khoác lau nước mắt. - Ta rất buồn khi phải nghe những gì đã xảy ra với cô Peregrine của các cháu. Ta không biết bà ấy rõ lắm, vì ta có thể coi như một người đã nghỉ hưu, song ta hứa với các cháu điều này: chúng ta sẽ cứu bà ấy trở lại. Bà ấy và tất cả các chị em của chúng ta!
Cứu bà ấy trở lại ư?
Đến lúc đó tôi mới nhớ cô Peregrine vẫn bị nhốt trong cái túi Horace đang cầm. Cô Wren vẫn chưa nhìn thấy bà!
Horace nói:
- Sao chứ, bà ấy ở ngay đây mà! - và cậu ta để cái túi xuống, tháo dây buộc.
Một khoảnh khắc sau, cô Peregrine tập tễnh chui ra, choáng váng sau khi trải qua từng ấy thời gian trong bóng tối.
- Có tổ tiên chứng giám! - cô Wren thốt lên. - Nhưng… ta nghe nói bà ấy đã bị đám xác sống bắt đi rồi!
- Cô ấy đã bị bắt, - Emma nói, - rồi sau đó chúng cháu đã giành lại được cô ấy.
Cô Wren kích động tới mức bà bước tới mà không dùng gậy chống, và tôi đã phải đỡ lấy khuỷu tay bà để giữ bà khỏi bổ nhào.
- Alma, có phải thực là cô đấy không?
Cô Wren nói không kịp thở, và khi thăng bằng trở lại, bà hối hả bước tới nâng cô Peregrine lên.
- Này, Alma? Có phải cô trong đó không?
- Chính là cô ấy! - Emma nói. - Đó chính là cô Peregrine!
Cô Wren giơ con chim ra xa một tầm cánh tay, xoay nó sang bên này rồi bên kia trong khi cô Peregrine kêu ré lên.
- Hừm, hừm, hừm, - cô Wren vừa thở vừa nói, đôi mắt bà nheo lại, môi mím chặt căng thẳng. - Có gì đó không ổn với cô phụ trách của các cháu.
- Cô ấy bị thương, - Olive nói. - Bị thương ở bên trong.
- Cô ấy không thể trở lại hình người nữa, - Emma nói.
Cô Wren nghiêm nghị gật đầu, như thể bà đã hình dung ra việc này.
- Đã bao lâu rồi?
- Ba ngày, - Emma nói. - Kể từ khi chúng cháu cứu cô ấy về từ tay đám xác sống.
Tôi nói:
- Con chó của bà nói với chúng cháu là nếu cô Peregrine không sớm trở lại là người, bà ấy sẽ không bao giờ còn có thể trở lại nữa.
- Phải, - cô Wren nói. - Addison đã rất đúng về chuyện đó.
- Con chó cũng nói chỉ một Chủ Vòng khác mới có thể giúp cô ấy, - Emma nói.
- Cái đó cũng đúng.
- Cô ấy đã thay đổi, - Bronwyn nói. - Cô ấy không còn là chính mình nữa. Chúng cháu cần cô P trước đây trở lại!
- Chúng ta không thể để chuyện này xảy ra với cô ấy! - Horace nói.
- Vậy thì sao? - Olive nói. - Bây giờ bà có thể làm ơn biến cô ấy thành người được không ạ?
Chúng tôi đã vây quanh cô Wren và đang gây sức ép với bà, nỗi tuyệt vọng của chúng tôi hiện rõ. Cô Wren giơ hai bàn tay lên ra hiệu im lặng.
- Ta ước gì việc đó đơn giản đến vậy, - bà nói, - hay nhanh chóng đến vậy. Khi một Chủ Vòng ở trong lốt chim quá lâu, bà ấy sẽ trở nên cứng lại, như một bó cơ nguội lạnh. Nếu chúng ta tìm cách cố uốn nắn bà ấy trở lại nguyên hình quá gấp gáp, bà ấy sẽ gãy. Bà ấy cần được nhẹ nhàng chỉnh lại về hình dạng thực của mình; từng chút một như nặn chỉnh đất sét vậy. Nếu ta điều trị cho bà ấy suốt đêm, có thể ta sẽ hoàn tất công việc vào sáng mai.
- Nếu cô ấy còn nhiều thời gian đến thế. - Emma nói.
- Hãy cầu mong là vậy. - cô Wren nói.
Cô gái tóc dài quay trở lại, chậm rãi bước về phía chúng tôi, đưa hai bàn tay cọ dọc theo vách tường hầm băng. Bất cứ nơi nào hai bàn tay chạm vào, từng lớp băng mới chồng lên nhau lại hình thành. Đường hầm sau lưng cô gái đã hẹp dần lại chỉ còn rộng vài chục phân; chẳng mấy chốc nữa nó sẽ bị bịt lại hoàn toàn, và chúng tôi sẽ bị bưng kín bên trong.
Cô Wren vẫy cô gái tới.
- Althea! Chạy lên lầu trước chúng ta và báo y tá chuẩn bị một phòng khám. Ta sẽ cần tới tất cả các phương thuốc ta có!
- Khi nói tới phương thuốc, ý cô là các dung dịch, nước sắc hay các hỗn dịch của cô ạ?
- Tất cả! - cô Wren to tiếng. - Và nhanh lên, đây là trường hợp khẩn cấp!
Thế rồi tôi thấy cô gái để ý tới cô Peregrine, và đôi mắt cô mở to ra một chút - phản ứng rõ rệt nhất tôi từng thấy từ cô gái này trước bất cứ cái gì - rồi cô bắt đầu bước lên cầu thang.
Lần này, cô gái chạy.
* * *
Tôi cầm lấy tay cô Wren, đỡ bà trong khi chúng tôi leo lên cầu thang. Tòa nhà có bốn tầng, và chúng tôi đang hướng lên tầng cao nhất. Ngoài giếng cầu thang, đây là phần duy nhất của tòa nhà còn có thể tiếp cận được; các tầng khác đều đã bị băng đóng kín, những bức tường băng bịt chặt những căn phòng và hành lang tại đó. Trên thực tế, chúng tôi đang leo lên trong phần lõi rỗng của một tầng băng khổng lồ.
Tôi liếc nhìn vào một vài căn phòng đóng băng trong khi chúng tôi hối hả đi ngang qua chúng. Những trụ băng lớn đã làm các cánh cửa bật tung khỏi bản lề, và giữa những mảnh vỡ của chúng, tôi có thể thấy bằng chứng của một cuộc tấn công: đồ đạc bị hất đổ, ngăn kéo bị giật mở tung, từng đống giấy trắng xóa như tuyết trên sàn. Một khẩu súng máy dựng vào một cái bàn làm việc, chủ nhân của nó bị đông cứng lại trong khi bay trên không. Một người đặc biệt ngồi sụp xuống trong góc, người lỗ chỗ lỗ đạn. Như những nạn nhân của Pompeii, bị cố định lại trong băng thay vì tro.
Thật khó tin nổi một cô gái lại là người gây ra tất cả việc này. Ngoại trừ các Chủ Vòng, Althea hẳn là một trong những người đặc biệt mạnh nhất tôi từng gặp qua.
Tôi nhìn lên vừa đúng lúc thấy cô gái biến mất sau chiếu nghỉ phía trên chúng tôi, mái tóc dài lòa xòa sau lưng cô như một dư ảnh mơ hồ.
Tôi bẻ một trụ băng nhỏ khỏi tường.
- Cô ấy thực sự đã làm tất cả chuyện này sao? - tôi vừa hỏi vừa xoay xoay nó trong bàn tay mình.
- Đúng thế đấy, - cô Wren vừa nói vừa thở hổn hển bên cạnh tôi. - Cô bé là - đúng hơn, từng là - thực tập sinh của Trưởng Ban Gây Hoang mang Và Trì hoãn, khi bọn biến chất tấn công tòa nhà, cô bé đang ở đây thực hiện nhiệm vụ. Vào lúc ấy, cô bé chưa biết nhiều về năng lực của mình ngoài việc hai bàn tay nó tỏa ra hơi lạnh khác thường. Cứ theo lời Althea kể, năng lực của cô bé là thứ trở nên hữu dụng vào những ngày mùa hè nóng bức, nhưng cô bé chưa bao giờ nghĩ về nó như một vũ khí phòng thủ cho tới khi hai con hồn rỗng bắt đầu ăn thịt người trưởng ban ngay trước mắt nó. Trong cơn hoảng sợ tột độ, cô bé đã vận ra một nguồn sức mạnh trước đó nó không hề biết, làm đông cứng căn phòng - và cả lũ hồn rỗng - rồi sau đó là cả tòa nhà, tất cả chỉ trong có vài phút.
- Vài phút! - Emma nói. - Cháu không tin.
- Ta ước gì lúc đó ta có mặt ở đây để chứng kiến việc đó, - cô Wren nói, - dù nếu có mặt, chắc ta cũng đã bị bắt cóc cùng các Chủ Vòng khác có mặt tại đây lúc đó - cô Nightjar, cô Finch và cô Crow.
- Băng của cô ấy không ngăn được bọn xác sống sao? - tôi hỏi.
- Nó đã chặn được rất nhiều gã trong bọn chúng, - cô Wren nói. - Ta đoán là vài gã vẫn còn ở lại với chúng ta, bị đóng băng trong tòa nhà. Song bất chấp tổn thất, đám xác sống cuối cùng cũng đạt được điều chúng tới tìm kiếm. Trước khi toàn bộ tòa nhà đóng băng, chúng đã đưa được các Chủ Vòng ra ngoài theo mái nhà. - Cô Wren cay đắng lắc đầu. - Ta xin lấy tính mạng thề rằng sẽ có một ngày ta đích thân tống tiễn những kẻ đã làm thương tổn các chị em của ta xuống địa ngục.
- Vậy là toàn bộ năng lực của cô ấy cũng chẳng ích gì, - Enoch nói.
- Althea đã không thể cứu được các Chủ Vòng, - cô Wren nói, - nhưng cô bé đã tạo ra nơi này, và thế là đáng cảm ơn lắm rồi. Không có nơi này, chúng ta đã chẳng còn chỗ nào trú ẩn nữa. Ta đã dùng tòa nhà làm căn cứ hoạt động của chúng ta trong mấy ngày vừa qua, mang về đây những người còn sống sót từ các Vòng bị tấn công mà ta tìm được. Đây là pháo đài của chúng ta, là nơi duy nhất an toàn cho những người đặc biệt trên toàn London.
- Thế còn nỗ lực của bà thì thế nào ạ? - Millard hỏi. - Con chó nói bà tới đây để giúp các chị em của mình. Bà có gặp may không?
- Không, - bà khẽ nói. - Những nỗ lực của ta đã không thành công.
- Có lẽ Jacob có thể giúp được bà đấy, cô Wren, - Olive nói. - Cậu ấy rất đặc biệt.
Cô Wren nhìn sang tôi.
- Vậy ư? Và năng lực của cậu là gì nào, chàng trai?
- Cháu có thể thấy lũ hồn rỗng, - tôi nói, hơi bối rối. - Và cảm nhận được chúng.
- Và đôi khi giết chúng nữa, - Bronwyn nói thêm. - Nếu chúng cháu không tìm thấy bà, cô Wren, Jacob sẽ giúp chúng cháu vượt qua đám hồn rỗng canh giữ các Vòng Trừng Phạt để chúng cháu có thể giải cứu các Chủ Vòng bị giam tại đó. Thực ra, có khi cậu ấy có thể giúp bà…
- Các cháu thật tốt quá, - cô Wren nói, - nhưng các chị em của ta không phải đang bị giam trong các Vòng Trừng Phạt, hay bất cứ nơi nào gần London, ta biết chắc vậy.
- Không ư? - tôi hỏi.
- Không, và chưa bao giờ. Câu chuyện về các Vòng Trừng Phạt là một mánh khóe được tung ta để giăng bẫy các Chủ Vòng mà lũ biến chất chưa bắt được trong cuộc tấn công của chúng. Như ta chẳng hạn. Và thiếu chút nữa nó đã thành công. Như một kẻ ngốc, ta lao thẳng vào bẫy của chúng - nói gì thì nói, các Vòng Trừng Phạt là các nhà tù! Thật may là ta đã thoát được, chỉ phải lĩnh vài vết sẹo.
- Vậy các Chủ Vòng bị bắt đã bị đưa đi đâu ạ? - Emma hỏi.
- Cho dù biết ta cũng sẽ không nói cho các cháu, vì đó không phải là vấn đề của các cháu, - cô Wren nói. - Bổn phận của những đứa trẻ đặc biệt không phải là lo cho an nguy của các Chủ Vòng - chính chúng ta mới phải lo cho an nguy của các cháu.
- Nhưng thưa cô Wren, như thế thật không công bằng, - Millard bắt đầu, nhưng bà đã cắt ngang cậu ta bằng một câu cụt lủn:
- Ta không nghe cự nự gì về chuyện đó!
Và tất cả kết thúc tại đây.
Tôi bị sốc trước lời từ chối đột ngột này, đặc biệt khi xem xét đến việc nếu lúc trước chúng tôi không lo lắng cho an nguy của cô Peregrine - và mạo hiểm tính mạng của chúng tôi để đưa bà tới đây! - hẳn bà đã bị kết án phải chịu giam hãm dưới hình hài một con chim suốt phần đời còn lại. Vì thế có vẻ như bổn phận của chúng tôi là phải lo lắng, vì các Chủ Vòng rõ ràng đã không làm đủ tốt việc đảm bảo cho các Vòng Thời Gian của họ khỏi bị tấn công. Tôi không thích bị gạt sang bên như thế, và nếu đánh giá qua đôi lông mày đang nhíu lại của Emma, thì cả cô cũng không - nhưng nói ra thành lời như thế thì quả là thô lỗ đến mức không thể nghĩ tới, vì vậy leo cầu thang xong, chúng tôi rơi vào sự im lặng đầy lúng túng.
Chúng tôi lên tới cầu thang. Chỉ có vài cánh cửa trên tầng này bị đóng băng. Cô Wren đón cô Peregrine từ Horace và nói:
- Lại đây nào, Alma, xem xem chúng ta có thể làm gì cho cô nào.
Althea xuất hiện từ một khung cửa mở, khuôn mặt đỏ ửng, ngực phập phồng.
- Phòng của cô đã sẵn sàng, thưa cô phụ trách. Đã có mọi thứ cô yêu cầu.
- Tốt, tốt, - cô Wren nói.
- Nếu chúng cháu có thể làm bất cứ điều gì để giúp bà, - Bronwyn nói, - bất cứ điều gì…
- Tất cả những gì ta cần là thời gian và tĩnh lặng, - cô Wren đáp. - Ta sẽ cứu cô phụ trách của các cháu, các cô cậu trẻ tuổi. Lấy tính mạng của ta đảm bảo, ta sẽ làm.
Rồi bà quay đi, mang theo cô Peregrine đi vào phòng với Althea.
Không biết phải làm gì khác, chúng tôi đi theo bà và xúm lại quanh cánh cửa vẫn hơi hé mở.
Chúng tôi thay nhau ngó vào trong. Trong một căn phòng ấm cúng được thắp sáng lờ mờ bằng đèn dầu, cô Wren ngồi trong một chiếc ghế bập bênh, ôm cô Peregrine trong lòng. Althea đứng trộn các lọ đựng chất lỏng tại một bàn thí nghiệm. Cứ chốc chốc cô gái lại nhấc một lọ lên và lắc, rồi đi tới chỗ cô Peregrine và đưa cái lọ vào dưới mỏ bà - gần giống như đưa qua đưa lại lọ thuốc muối amoni dưới mũi một người ngất xỉu. Trong suốt thời gian đó, cô Wren đung đưa ghế bập bênh và vuốt ve bộ lông cô Peregrine, hát cho bà một bài hát ru nhẹ nhàng, du dương:
- Eft kaa vangan soorken, eft ka vangan soorken, malaaya
- Đó là ngôn ngữ của người đặc biệt cổ xưa, - Millard thì thầm. - Về nhà, về nhà đi… hãy nhớ lấy bản ngã của mình… đại loại như vậy.
Cô Wren nghe thấy tiếng cậu ta bèn nhìn lên, rồi phẩy tay xua chúng tôi đi. Althea đi tới đóng cửa lại.
- À, thế đấy, - Enoch nói. - Tớ có thể thấy chúng mình không được hoan nghênh tại đây.
Sau ba ngày cô phụ trách phụ thuộc vào chúng tôi trong mọi việc, đột nhiên chúng tôi lại trở thành người thừa. Cho dù rất biết ơn cô Wren, bà vẫn làm chúng tôi ít nhiều cảm thấy như chúng tôi là những đứa bé con vừa bị bắt phải lên giường đi ngủ.
- Cô Wren biết phải làm gì, - một giọng nói đặc khẩu âm Nga vang lên sau lưng chúng tôi. - Tốt hơn hãy để yên cho cô làm.
Chúng tôi quay lại thì thấy Người Gấp như que củi ở chỗ lễ hội đang đứng đó, hai cánh tay xương xẩu khoanh lại.
- Là ông! - Emma nói.
- Chúng ta lại gặp nhau, - Người Gấp nói, giọng ông ta trầm trầm như vọng từ lòng đại dương. - Tên tôi là Sergei Andropov, và tôi là chỉ huy đội quân kháng chiến đặc biệt. Lại đây, tôi sẽ dẫn các cô cậu đi xem nơi này.
* * *
- Tôi biết ngay ông ấy là người đặc biệt mà! - Olive nói.
- Không, cậu biết cái gì, - Enoch nói. - Cậu chỉ nghĩ ông ta đặc biệt thôi.
- Tôi biết các cô cậu là những người đặc biệt ngay khi nhìn thấy các cô cậu, - Người Gấp nói. - Đáng lẽ các cô cậu phải bị bắt từ lâu rồi mới đúng, làm thế nào thoát được vậy?
- Vì chúng cháu khôn, - Hugh nói.
- Ý cậu ấy là may mắn, - tôi nói.
- Nhưng chủ yếu là đói, - Enoch nói. - Ở đây có đồ ăn không ạ? Cháu có thể chén hết tất cả một con bán lừa cao cổ.
Nghe nói tới thức ăn, dạ dày tôi sôi lên như một con thú hoang. Chưa ai trong chúng tôi được ăn gì từ sau chuyến tàu tới London, thời điểm đó có vẻ như hàng thiên niên kỷ trước rồi.
- Tất nhiên, - Người Gấp nói. - Lối này.
Chúng tôi bước sau ông ta đi theo hành lang.
- Vậy hãy cho cháu biết về đội quân đặc biệt này của ông nào, - Emma nói.
- Chúng ta sẽ nghiền nát đám xác sống và giành lại những gì thuộc về chúng ta. Trừng phạt chúng vì đã bắt cóc các Chủ Vòng của chúng ta.
Người đàn ông mở một cánh cửa ra ngoài hành lang, dẫn chúng tôi qua một phòng làm việc đổ nát, trong đó nhiều người nằm ngủ dưới sàn nhà và dưới gầm các bàn làm việc. Khi chúng tôi bước đi vòng quanh họ, tôi nhận ra vài khuôn mặt tại lễ hội: cậu bé có khuôn mặt bình thường, cô gái thôi miên trăn có mái tóc uốn quăn.
- Họ đều là những người đặc biệt sao? - tôi hỏi.
Người Gấp gật đầu:
- Được cứu về từ các Vòng khác, - ông ta nói, giữ một cánh cửa mở ra để chúng tôi vào.
- Thế còn ông? - Millard hỏi. - Ông từ đâu tới?
Người Gấp dẫn chúng tôi vào một phòng chờ, để chúng tôi có thể trò chuyện mà không quấy rầy những người đang ngủ, một căn phòng trong đó nổi bật hai cánh cửa gỗ đồ sộ khảm biểu tượng của hàng chục loài chim.
- Ta đến từ vùng đất hoang đầy tuyết lạnh lẽo, còn xa hơn vùng Hoang Vu Băng Giá. - ông kể. - Mấy trăm năm trước, khi đám hồn rỗng đầu tiên ra đời, chúng tấn công nhà của ta trước nhất. Mọi thứ bị phá hủy. Tất cả mọi người trong làng bị giết. Bà già. Trẻ nhỏ. Tất cả.
Ông vung bàn tay chém không khí.
- Ta trốn trong thùng đánh kem để làm bơ, thở qua một cọng rơm, trong khi em trai ta bị giết ngay trong nhà ta. Sau đó, ta tới London để trốn khỏi bọn hồn rỗng. Nhưng chúng lại tới.
- Thật kinh khủng, - Bronwyn nói. - Cháu xin chia buồn với ông.
- Rồi một ngày chúng ta sẽ báo thù, - người đàn ông nói, mặt tối sầm.
- Ông đã nói thế rồi, - Enoch lên tiếng. - Vậy đội quân của ông có bao nhiêu người?
- Ngay lúc này là sáu, - người đàn ông nói, chỉ tay về phía căn phòng chúng tôi vừa rời khỏi.
- Sáu người ư?! - Emma nói. - Ý ông là… họ?
Tôi không biết nên cười hay nên khóc nữa.
- Thêm các cháu nữa sẽ là mười bảy. Chúng ta lớn mạnh rất nhanh.
- Ái chà, ái chà, ái chà. - tôi thốt lên. - Chúng cháu không tới đây để gia nhập bất cứ đội quân nào hết.
Người Gấp dành cho tôi một cái nhìn có thể khiến địa ngục cũng phải đông cứng, rồi quay đi và mở hai cánh cửa ra.
Chúng tôi theo ông ta vào một căn phòng, trong đó chiếm vị trí nổi bật là một chiếc bàn đồ sộ hình bầu dục, mặt bàn bằng gỗ được đánh bóng như gương.
- Đây là nơi họp Hội đồng Chủ Vòng Thời Gian, - Người Gấp nói.
Khắp quanh chúng tôi là chân dung những người đặc biệt nổi tiếng thời xưa, không phải là những bức tranh lồng khung mà được vẽ trực tiếp lên các bức tường bằng sơn dầu, than chì và chì sáp. Bức chân dung gần chỗ tôi đứng nhất là một khuôn mặt với đôi mắt mở to nhìn chăm chăm và cái miệng há to, bên trong là một vòi phun nước thực sự có thể hoạt động được. Quanh cái miệng là một câu đề từ viết bằng tiếng Hà Lan, Millard đang đứng cạnh tôi bèn dịch ra: “Từ miệng các tiền bối của chúng ta tuôn ra một nguồn trí tuệ”.
Gần đó là một câu đề từ khác, lần này bằng tiếng La Tinh. “Ardet nec consomitur”, Melina đọc:
- Bị thiêu đốt nhưng không bị phá hủy.
- Thật hợp làm sao, - Enoch nói.
- Tớ không thể tin nổi mình đang thực sự ở đây, - Melina nói. - Tớ đã nghiên cứu và mơ về nơi này suốt bao nhiêu năm.
- Nó chỉ là một căn phòng, - Enoch nói.
- Với cậu thì có thể. Với tôi, nó là trái tim của cả thế giới người đặc biệt.
- Một trái tim đã bị móc ra ngoài, - ai đó mới xuất hiện lên tiếng, tôi bèn đưa mắt nhìn quanh thì thấy một anh hề đang sải bước về phía chúng tôi - cũng chính là người đã lén bám theo chúng tôi ở lễ hội.
- Cô Jackdaw (Quạ gáy xám) đã đứng ở ngay chỗ của cậu khi bà bị bắt. Chúng tôi tìm thấy cả một nắm lông của bà trên sàn.
Ông ta có khẩu âm Mỹ. Ông ta dừng lại cách chúng tôi vài bước chân và đứng đó, miệng nhai không ngừng, một bàn tay chống hông.
- Là họ phải không? - anh hề hỏi Người Gấp, đồng thời giơ một cái chân gà tây chỉ về phía chúng tôi.
- Chúng ta cần các chiến binh, không phải những đứa trẻ.
- Tôi một trăm mười hai tuổi rồi, - Melina nói.
- Phải, phải, tôi đã nghe tất cả những lời này trước đây rồi, - người mặc đồ hề nói. - Mà nhân đây, tôi có thể nhận ra ngay các cô cậu là người đặc biệt ở chỗ lễ hội. Các cô cậu đúng là nhóm người đặc biệt nhất tôi từng trông thấy.
- Tôi cũng đã nói điều tương tự với họ, - Người Gấp nói.
- Thật không hiểu nổi làm thế nào đám trẻ này đi được cả quãng đường từ xứ Wales tới đây mà không bị bắt, - người mặc đồ hề nói. - Thực ra, chuyện này thật đáng ngờ. Có chắc không ai trong số các cô cậu là xác sống không đấy?
- Sao ông dám nói thế! - Emma nói.
- Chúng cháu đã bị bắt, - Hugh nói đầy tự hào, - nhưng mấy gã xác sống bắt chúng cháu không còn sống để kể về chuyện đó nữa đâu.
- À phải, còn tôi là vua Bolivia đây, - người mặc đồ hề nói.
- Đó là sự thật! - Hugh gắt lên, mặt đỏ phừng phừng.
Người mặc đồ hề giơ hai bàn tay lên.
- Được rồi, được rồi, bình tĩnh lại, cậu bé! Tôi tin chắc Wren sẽ không để các cô cậu vào nếu các cô cậu không được phép. Thôi nào, chúng ta hãy làm bạn, nếm thử một cái chân gà tây nào.
Ông ta không phải mời hai lần. Chúng tôi đều đã quá đói để tự ái lâu.
Người mặc đồ hề dẫn chúng tôi tới một cái bàn bày đầy thức ăn - vẫn là những món hạt luộc và thịt nướng đã cám dỗ chúng tôi ở chỗ lễ hội. Chúng tôi xúm lại quanh bàn và ăn ngấu nghiến không chút ngượng ngập. Người Gấp ăn năm quả anh đào và một mẩu bánh mì nhỏ, rồi tuyên bố chưa bao giờ no đến thế trong suốt cuộc đời mình. Bronwyn đi đi lại lại dọc theo bức tường, cắn cắn các ngón tay, quá lo lắng để có thể ăn được.
Khi chúng tôi ăn xong, cái bàn là một bãi bừa bộn đầy xương bị gặm trơ trụi và các vết mỡ, người mặc đồ hề ngả lưng ra ghế và nói:
- Rồi, hỡi các bạn trẻ đặc biệt, câu chuyện của các cô cậu là sao nào? Tại sao các cô cậu lại đi cả chặng đường từ xứ Wales tới đây?
Emma lau miệng và nói:
- Để giúp Chủ Vòng của chúng cháu.
- Và khi bà ấy được giúp rồi thì sao? - người mặc đồ hề hỏi. - Đến lúc ấy thì sao?
Tôi nãy giờ vẫn bận rộn quệt nốt nước xốt gà tây bằng mẩu bánh mì cuối cùng, nhưng lúc này tôi ngước nhìn lên. Câu hỏi thật thẳng thắn, đưa ra thật đơn giản - thật hiển nhiên - đến mức tôi không thể tin nổi chưa ai trong chúng tôi đặt ra trước đây.
- Đừng nói thế, - Horace nói. - Ông sẽ làm chúng cháu gặp đen đủi đấy.
- Wren là một người tạo ra phép mầu, - người mặc đồ hề nói. - Không có gì phải lo lắng cả.
- Cháu hy vọng ông nói đúng, - Emma nói.
- Tất nhiên là thế rồi. Vậy kế hoạch của các cô cậu là gì? Các cô cậu sẽ ở lại giúp chúng tôi chiến đấu, hiển nhiên rồi, nhưng các cô cậu sẽ ngủ ở đâu? Không phải với tôi, phòng tôi là phòng đơn. Hiếm khi có ngoại lệ lắm. - Ông nhìn Emma và nhướng một bên mày lên. - Hãy nhớ tôi nói là hiếm khi nhé.
Đột nhiên, tất cả mọi người đều nhìn về phía các bức vẽ trên tường hay chỉnh lại cổ áo - ngoại trừ Emma, mặt cô chuyển sang xanh như tàu lá. Có thể chúng tôi vốn bẩm sinh bi quan, và cơ hội thành công của chúng tôi có vẻ quá nhỏ nhoi tới mức chúng tôi chẳng bao giờ bận tậm tự hỏi sẽ làm gì nếu thực sự chữa lành được cho cô Peregrine - hay có lẽ những biến cố căng thẳng trong mấy ngày vừa qua đã quá liên tục và dồn dập tới mức chúng tôi chưa bao giờ có cơ hội để ngẫm nghĩ. Dù là thế nào đi nữa, câu hỏi của người mặc đồ hề đã làm chúng tôi ngỡ ngàng.
Sẽ thế nào nếu chúng tôi thực sự vượt qua được thử thách này? Chúng tôi sẽ làm gì nếu cô Peregrine bước vào phòng, ngay tức thì, trở lại là con người cũ?
Cuối cùng, Millard đưa ra một câu trả lời.
- Cháu đoán là chúng cháu sẽ lại quay về phía Tây, trở lại nơi xuất phát. Cô Peregrine sẽ tạo ra một Vòng Thời Gian khác cho chúng cháu. Một nơi chúng cháu sẽ không bao giờ bị tìm ra.
- Thế ư? - người mặc đồ hề nói. - Các cô cậu định trốn? Thế còn tất cả các Chủ Vòng khác thì sao - những người không được may mắn đến thế? Còn Chủ Vòng của tôi thì sao?
- Cứu cả thế giới không phải là việc của chúng cháu, - Horace nói.
- Không phải chúng ta đang tìm cách cứu cả thế giới. Chỉ tất cả cộng đồng người đặc biệt thôi.
- À, đó cũng không phải việc của chúng cháu. - Horace có vẻ yếu ớt và thủ thế, ngượng ngập vì bị dồn vào thế phải nói như vậy.
Người mặc đồ hề cúi ra trước trên ghế và nhìn chăm chăm vào chúng tôi.
- Vậy đó là việc của ai đây?
- Chắc chắn phải có ai khác, - Enoch nói. - Những người được trang bị tốt hơn, được rèn luyện cho những việc kiểu này…
- Điều đầu tiên những kẻ biến chất thực hiện ba tuần trước là tấn công Nhà Bảo vệ Người Đặc biệt. Trong chưa tới một ngày, họ đã bị nện tan tành. Vì họ đã biến mất, và giờ đây cả các Chủ Vòng của chúng ta cũng thế, việc bảo vệ cộng đồng người đặc biệt sẽ được giao vào tay ai đây nhỉ? Những người như cậu và tôi, thế đấy. - Người mặc đồ hề ném cái chân gà tây của mình xuống. - Đám hèn nhát các người làm tôi phát tởm. Ăn mất cả ngon.
- Họ đang mệt mỏi sau chuyến đi dài, - Người Gấp nói. - Để họ nghỉ ngơi đã.
Người mặc đồ hề phẩy tay trong không khí như một thầy giáo.
- À ờ. Không ai chứa chấp miễn phí cả. Tôi không quan tâm các cô cậu ở đây một giờ hay một tháng, chừng nào các cô cậu ở đây, các cô cậu sẽ phải sẵn sàng chiến đấu. Các cô cậu là một đám khẳng khiu thảm hại, nhưng các cô cậu đều là người đặc biệt, vì thế tôi biết tất cả các cô cậu đều có tài năng ẩn giấu. Hãy cho tôi thấy các cô cậu có thể làm gì nào!
Ông ta đứng dậy đi về phía Enoch, một cánh tay vươn ra như thể sắp lục soát các túi áo của Enoch để tìm năng lực đặc biệt của cậu ta.
- Cậu kia, - ông ta nói. - Thể hiện năng lực của cậu đi!
- Cháu sẽ cần một người chết để thể hiện, - Enoch nói.
- Kẻ đó có thể là cậu, nếu cậu dám chạm một ngón tay lên tôi.
Người mặc đồ hề quay sang phía Emma.
- Vậy còn cô thì thế nào, cô bé thân mến, - ông ta nói, vậy là Emma giơ một ngón tay lên và làm một ngọn lửa nhảy múa trên đầu ngón tay như một ngọn nến sinh nhật. Người mặc đồ hề bật cười và nói, - Khiếu hài hước! Tôi thích đấy, - và bước tới chỗ hai anh em mù.
- Họ có thần giao cách cảm, - Melina nói, đứng chắn giữa người mặc đồ hề và hai anh em kia. - Họ có thể nhìn được bằng đôi tai của mình, và luôn biết người kia nghĩ gì.
Người mặc đồ hề vỗ tay.
- Cuối cùng thì cũng có thứ gì đó hữu ích! Họ sẽ là người cảnh giới cho chúng ta, để một người ngoài lễ hội, giữ người còn lại ở đây. Nếu ngoài đó có gì không ổn, chúng ta sẽ biết ngay!
Ông ta bước qua Melina. Hai anh em thu mình lại tránh xa ông ta.
- Ông không thể chia tách họ! - Melina nói. - Joel-và-Peter không thích bị tách rời.
- Còn tôi không thích bị những con quái vật vô hình săn lùng. -  người mặc đồ hề nói, và ông ta bắt đầu lôi cậu anh khỏi cậu em.
Hai cậu bé lồng tay vào nhau và rên rỉ lớn tiếng, lưỡi khua lạch cạch, mắt đảo lia lịa cuống cuồng. Tôi sắp sửa can thiệp thì hai anh em họ tách rời nhau và bật ra hai tiếng hét đồng thời to và chói tai tới mức tôi sợ đầu mình sẽ vỡ tung ra. Đĩa trên bàn vỡ tan tành, tất cả mọi người phủ phục xuống, đưa hai tay lên bịt tai, và tôi nghĩ tôi có thể nghe thấy tiếng nứt vỡ răng rắc lan đi trong khối băng ở các tầng nhà bị đóng băng bên dưới.
Khi các tiếng vọng lặng xuống, Joel-và-Peter bám chặt lấy nhau trên sàn nhà, run bần bật.
- Thử nhìn xem ông đã làm gì! - Melina gắt lên với ông hề.
- Chúa lòng lành, thật ấn tượng! - ông hề nói.
Bằng một bàn tay, Bronwyn chộp cổ ông ta nhấc bổng lên.
- Nếu ông còn quấy rầy chúng tôi, - cô bình thản nói, - tôi sẽ ấn đầu ông xuyên qua tường.
- Xin… lỗi… về… chuyện… đó… - ông hề thều thào qua khí quản bị bóp nghẹt. - Thả… tôi… xuống… được… chứ?
- Thôi nào, Wyn, - Olive nói. - Ông ấy nói xin lỗi rồi.
Bronwyn miễn cưỡng buông ông ta xuống. Người đàn ông mặc đồ hề ho sặc và vuốt phẳng lại bộ đồ đang mặc.
- Có vẻ tôi đã đánh giá nhầm về các cô cậu, - ông ta nói. - Các cô cậu sẽ là những thành viên bổ sung tuyệt vời cho đội quân của chúng tôi.
- Tôi nói với ông rồi, chúng tôi không gia nhập đội quân ngớ ngẩn của các ông, - tôi nói.
- Mà dù sao đi nữa, mục đích chiến đấu là gì nào? - Emma nói. - Các ông thậm chí còn chẳng biết các Chủ Vòng đang ở đâu.
Người Gấp đứng dậy khỏi ghế để vươn lên cao sừng sững phía trên chúng tôi.
- Mục đích là, - ông nói, - nếu những kẻ biến chất bắt được hết những Chủ Vòng còn lại, sẽ không thể chặn nổi chúng nữa.
- Có vẻ như vốn đã không thể ngăn nổi chúng rồi, - tôi nói.
- Nếu cậu nghĩ như thế đã là không thể ngăn nổi, thì cậu vẫn chưa thấy gì đâu, - ông hề nói. - Và nếu cậu nghĩ chừng nào Chủ Vòng của các cô cậu còn tự do mà chúng lại thôi săn lùng các cô cậu, thì cậu còn ngu hơn vẻ ngoài đấy.
Horace đứng dậy hắng giọng.
- Ông vừa mới đưa ra kịch bản tồi tệ nhất, - cậu ta nói. - Gần đây, tôi đã nghe rất nhiều kịch bản về tình huống xấu nhất được đưa ra. Nhưng tôi chưa được nghe lấy một lập luận nào về kịch bản của tình huống khả quan nhất.
- À, cái này hẳn là hay đây, - ông hề nói. - Tiếp tục đi, cậu nhóc mơ mộng, hãy để chúng ta cùng nghe nào.
Horace hít một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm.
- Bọn xác sống muốn các Chủ Vòng, và giờ chúng đã có họ - hay ít nhất cũng là phần lớn họ. Giả sử như đó là tất cả những gì lũ xác sống cần, và bây giờ chúng có thể tiến hành tiếp các kế hoạch ma quỷ của chúng. Và chúng làm được: chúng trở thành các siêu xác sống, hay bán thần, hay bất cứ cái gì chúng đang vươn tới. Và sau đó chúng sẽ không còn cần đến các Chủ Vòng Thời Gian, đến những đứa trẻ đặc biệt, và không cần đến các Vòng Thời Gian nữa, thế nên chúng sẽ đi chỗ khác để trở thành các bán thần và để chúng ta yên. Và sau đó mọi chuyện không chỉ trở lại bình thường, mà còn tốt hơn trước đây, vì không còn ai tìm cách ăn thịt chúng ta hay bắt cóc các Chủ Vòng của chúng ta nữa. Và khi đó, rất có thể, thỉnh thoảng cứ lâu lâu chúng ta lại được phép đi du lịch nước ngoài như chúng ta từng làm, và ngắm nhìn thế giới một chút, rồi đặt chân lên mặt cát ở đâu đó không lạnh lẽo và có bầu trời xám xịt suốt ba trăm ngày mỗi năm. Trong trường hợp đó, ở đây và chiến đấu để làm gì? Chúng ta sẽ tự lao mình vào lưỡi kiếm của chúng trong khi mọi thứ rất có thể rồi sẽ ổn thỏa cả mà không cần đến sự can thiệp của chúng ta.
Trong giây lát, không ai nói gì. Sau đó người đản ông mặc đồ hề bắt đầu phá lên cười. Ông ta cười, cười mãi, những tiếng cười ngặt nghẽo của ông ta vang vọng theo các bức tường, cho tới khi cuối cùng ông ta ngã lăn khỏi ghế.
Sau đó Enoch nói:
- Tớ đơn giản là chẳng có lời nào để nói cả. Đợi đã… không… có đấy! Horace, đó là ý nghĩ mơ tưởng ngây ngô và hèn nhát khó tin nhất tớ từng nghe thấy.
- Nhưng điều đó là có thể, - Horace khăng khăng.
- Phải. Và cũng có thể Mặt Trăng được làm bằng pho mát. Chỉ đơn giản là không thể thế được.
- Tôi có thể chấm dứt tranh cãi ngay bây giờ, - Người Gấp nói. - Các cô cậu muốn biết lũ xác sống sẽ làm gì chúng ta khi chúng được tự đo làm bất cứ điều gì phải không? Lại đây, tôi sẽ chỉ cho các cô cậu.
- Chỉ dành cho những cái dạ dày mạnh mẽ thôi, - ông hề nói, liếc mắt nhìn Olive.
- Nếu họ có thể chịu đựng được, thì cháu cũng có thể, - cô nói.
- Cảnh báo rồi nhé, - ông hề nhún vai. - Đi theo chúng tôi.
- Tôi sẽ không đi theo các ông, dù là rời một con tàu đắm. - Melina nói, cô vừa giúp hai anh em mù run lẩy bẩy đứng dậy.
- Vậy thì ở lại, - ông hề nói. - Những ai không muốn chìm theo con tàu, mời đi theo chúng tôi.
* * *
Người bị thương nằm trên những chiếc giường không đồng bộ trong một căn phòng bệnh tạm bợ, do một y tá với một con mắt bằng thủy tinh phồng lồi ra trông coi. Có ba bệnh nhân, nếu bạn có thể gọi họ như vậy - một người đàn ông và hai phụ nữ. Người đàn ông nằm nghiêng, bị căng trương lực cơ bán phần, thì thào và chảy nước dãi. Một trong hai phụ nữ nhìn chằm chằm vô thức lên trần, trong khi người còn lại quằn quại dưới tấm chăn, rên khe khẽ, bị giày vò trong một cơn ác mộng nào đó. Một số trong đám trẻ đứng ngoài cửa nhìn vào, giữ khoảng cách phòng trường hợp thứ những người này mắc phải có thể lây lan.
- Hôm nay họ thế nào? - Người Gấp hỏi y tá.
- Xấu đi, - người y tá nói, hối hả đi từ giường này qua giường khác. - Bây giờ tôi giữ cho họ ngủ liên tục bằng thuốc an thần. Nếu không họ chỉ la lối ầm lên thôi.
Họ không bị vết thương nào trông thấy được. Không có băng gạc thấm máu, chân tay không bị bó bột, không có những cái chậu đầy ắp thứ chất lỏng đỏ ngầu. Căn phòng trông giống như một cơ sở phụ của một trại tâm thần hơn là của một bệnh viện.
- Họ bị sao vậy? - tôi hỏi. - Họ bị thương trong cuộc tấn công à?
- Không, được cô Wren mang về đây, - người y tá trả lời. - Bà tìm thấy họ bị bỏ rơi trong bệnh viện, nơi đám xác sống đã biến thành một thứ phòng thí nghiệm y học. Những tạo vật đáng thương bị dùng làm vật thí nghiệm trong những thử nghiệm không thể mô tả bằng lời của chúng. Những gì các cô cậu thấy là kết quả.
- Chúng tôi tìm thấy hồ sơ của họ, - ông hề nói. - Họ bị đám xác sống bắt cóc từ nhiều năm trước. Từ lâu bị coi là đã chết.
Người y tá lấy một tấm bảng kẹp từ trên tường cạnh giường người đàn ông thì thào.
- Người này, Benteret, được cho là thông thạo một trăm ngôn ngữ, nhưng bây giờ ông ấy chỉ nói mỗi một từ - nhắc đi nhắc lại mãi.
Tôi rón rén lại gần hơn, quan sát môi ông ta. Gọi, gọi. gọi, ông ta đang mấp máy. Gọi, gọi, gọi.
Thật vô nghĩa. Ông ta đã mất trí.
- Người nằm kia, - người y tá vừa nói vừa chỉ tấm bảng kẹp về phía người phụ nữ đang rên rỉ. - Hồ sơ của cô ấy nói cô ấy có thể bay, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cô ấy nhúc nhích dù chỉ một phân khỏi cái giường đó. Còn về cô gái còn lại, đáng lẽ cô ấy phải vô hình. Nhưng giờ thì hiện rõ mồn một như ban ngày.
- Họ có bị tra tấn không? - Emma hỏi.
- Hiển nhiên rồi, họ bị tra tấn tới mất trí! - ông hề nói. - Bị tra tấn cho tới khi họ quên mất cách để trở thành người đặc biệt!
- Ông có thể tra tấn tôi cả ngày, - Millard nói. - Tôi sẽ chẳng bao giờ quên cách trở thành vô hình cả.
- Cho họ thấy các vết sẹo đi, - ông hề nói với bà y tá.
Bà y tá đi tới chỗ bệnh nhân nữ nằm bất động và kéo chăn xuống. Có những vết sẹo mảnh màu đỏ chạy dọc trên bụng cô gái, dọc theo bên cổ, dưới cằm cô, mỗi vết sẹo dài bằng khoảng một điếu thuốc lá.
- Khó mà gọi đây là bằng chứng của tra tấn được, - Millard nói.
- Vậy thì cậu gọi nó là gì? - bà y tá phẫn nộ hỏi.
Tảng lờ câu hỏi của bà, Millard nói:
- Còn có nhiều sẹo nữa không, hay đây là tất cả những gì cô ấy có?
- Còn xa mới là vậy, - bà y tá nói, rồi vén tấm chăn lên để lộ đôi chân cô gái, chỉ ra những vết sẹo đằng sau đầu gối cô, ở mé trong đùi, và dưới gan bàn chân cô.
Millard cúi xem xét bàn chân.
- Một vị trí thật lạ lùng, bà không thấy thế sao?
- Cậu đang làm gì thế, Mill? - Emma hỏi.
- Hừm, - Enoch nói. - Để cậu ta đóng vai Sherlock nếu cậu ta muốn. Tớ lại thấy khoái trò này.
- Tại sao chúng ta không cắt mười chỗ khác nhau trên người cậu ta nhỉ? - ông hề nói. - Sau đó chúng ta sẽ xem cậu ta có nghĩ đó là tra tấn hay không!
Millard đi ngang qua phòng tới giường người đàn ông thì thào:
- Tôi có thể xem xét ông ấy chứ?
- Tôi chắc là ông ấy không phản đối đâu? - bà y tá nói.
Millard nhấc chăn của người đàn ông để lộ đôi chân ra. Dưới gan một bàn chân trần, người đàn ông này cũng bị một vết sẹo giống hệt cô gái bất động.
Bà y tá ra dấu về phía người phụ nữ đang quằn quại.
- Cô ấy cũng có một vết sẹo như thế, nếu đó là thứ cậu tìm kiếm.
- Đủ rồi đấy, - Người Gấp nói. - Nếu đó không phải là tra tấn thì là cái gì hả?
- Khám phá, - Millard nói. - Những vết cắt này rất chính xác và mang tính phẫu thuật. Không phải để gây đau đớn, thậm chí có thể còn được thực hiện trong điều kiện gây mê nữa. Lũ xác sống đang tìm kiếm thứ gì đó.
- Và đó là cái gì? - Emma hỏi, cho dù có vẻ cô sợ cậu trả lời.
- Có một câu nói từ xa xưa về bàn chân một người đặc biệt, - Millard nói. - Có ai trong các cậu còn nhớ không?
Horace dẫn ra:
- Bàn chân một người đặc biệt là cánh cửa dẫn vào linh hồn người đó, - cậu ta nói. - Chỉ là một câu người ta nói với trẻ con để chúng đi giày khi ra ngoài chơi thôi.
- Có thể là thế, mà cũng có thể là không, - Millard nói.
- Đừng có lố bịch thế! Cậu nghĩ chúng đang tìm kiếm…
- Linh hồn họ. Và chúng đã tìm được.
Ông hề phá lên cười to.
- Thật là một chuyện vô lý. Chỉ vì họ mất đi năng lực mà cậu nghĩ linh hồn thứ hai của họ đã bị lấy đi sao?
- Phần nào. Chúng ta biết lũ xác sống đã quan tâm tới linh hồn thứ hai từ nhiều năm nay rồi.
Thế rồi tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa Millard và tôi trên tàu hỏa, và tôi nói:
- Nhưng chính cậu đã bảo tớ rằng linh hồn đặc biệt là thứ cho phép chúng ta đi vào các Vòng Thời Gian. Vậy nếu những người này không còn linh hồn của họ, làm cách nào họ ở đây được?
- À, họ không thực sự ở đây, phải không nào? - Millard nói. - Ý tớ là tâm trí họ chắc chắn đang ở nơi khác.
- Giờ thì cậu đang níu lấy một cọng rơm rồi, - Emma nói. - Tớ nghĩ cậu đã đi đủ xa rồi đấy, Millard.
- Chịu đựng tớ chỉ thêm một lát nữa thôi, - Millard nói. Lúc này cậu ta đang đi đi lại lại, trở nên phấn khích. - Tớ không cho rằng các cậu đã nghe qua về thời một người bình thường đi hẳn vào trong một Vòng Thời Gian, đúng không nào?
- Không, vì ai cũng biết điều đó là không thể, - Enoch nói.
- Gần như không thể, - Millard nói. - Việc này không dễ dàng và chẳng đẹp đẽ gì, nhưng nó đã được thực hiện, một lần. Một thí nghiệm trái phép do chính em trai cô Peregrine thực hiện, tớ tin là vậy, vào những năm trước khi ông ta hóa điên và thành lập ra nhóm ly khai mà sau này sẽ trở thành đám xác sống.
- Vậy tại sao tớ chưa bao giờ nghe nói về chuyện này nhỉ? - Enoch hỏi.
- Vì nó rất gây tranh cãi và các kết quả ngay lập tức bị che giấu, để không ai có thể tìm cách lặp lại chúng. Dù sao đi nữa, hóa ra người ta có thể đưa một người bình thường vào trong Vòng Thời Gian, nhưng người đó cần phải được đẩy vào, và chỉ một người có sức mạnh của Chủ Vòng Thời Gian mới làm nổi chuyện đó. Nhưng vì những người bình thường không có linh hồn thứ hai, họ không thể thích nghi được với những nghịch lý nội tại của một Vòng Thời Gian, và bộ óc họ trở nên bị rối loạn. Họ trở thành những sinh thể sống thực vật chảy nước dãi ròng ròng, căng trương lực cơ ngay từ khoảnh khắc bước vào. Không khác mấy những con người khốn khổ trước mắt chúng ta.
Một khoảnh khắc trôi qua trong im lặng trong khi những lời Millard nói được ghi nhận. Thế rồi Emma đưa hai bàn tay che lấy miệng, và khẽ nói:
- Ôi, khỉ thật. Cậu ấy có lý.
- À, thế đấy, - ông hề nói. - Trong trường hợp đó, tình hình còn xấu hơn chúng ta từng nghĩ.
Tôi cảm thấy không khí đang biến hết ra khỏi căn phòng.
- Tớ không dám chắc mình theo kịp, - Horace nói.
- Cậu ấy nói lũ quái vật đã đánh cắp linh hồn của họ! - Olive hét lên, rồi cô bé khóc nức nở chạy lại chỗ Bronwyn, gục mặt vào áo khoác cô.
- Những người đặc biệt này không bị mất đi năng lực của họ, - Millard nói. - Năng lực của họ bị cướp đi, bị rút ra cùng với linh hồn của họ, rồi sau đó được truyền cho đám hồn rỗng. Điều này cho phép đám hồn rỗng đủ tiến hóa để xâm nhập vào các Vòng Thời Gian, một bước phát triển cho phép thực hiện những cuộc tấn công gần đây của chúng vào thế giới người đặc biệt, và thúc đẩy đám xác sống bắt cóc thêm nhiều người đặc biệt hơn nữa để rút linh hồn của họ ra, để rồi chúng sẽ cải tạo thêm nhiều hồn rỗng nữa, và cứ thế tiếp tục, thành một vòng quay tàn ác.
- Thế thì chúng không chỉ muốn các Chủ Vòng, - Emma nói. - Mà cả chúng ta nữa, và linh hồn của chúng ta.
Hugh đứng ở chân giường của người đàn ông luôn thì thào, con ong cuối cùng của cậu giận dữ bay vù vù quanh cậu.
- Tất cả những đứa trẻ đặc biệt chúng đã bắt cóc trong những năm qua… chẳng lẽ đây là điều chúng đã làm với họ? Tớ cứ nghĩ họ chỉ đơn giản là trở thành thức ăn cho hồn rỗng. Nhưng chuyện này… chuyện này còn ghê tởm hơn nghìn lần.
- Ai dám nói là chúng không định rút cả linh hồn của các Chủ Vòng nữa? - Enoch nói.
Những lời này làm chúng tôi lạnh gáy. Ông hề quay sang Horace và nói:
- Giờ thì kịch bản trong trường hợp khả quan nhất của cậu là như thế nào rồi, chàng trai?
- Đừng có giễu tôi, - Horace đáp. - Tôi cắn đấy.
- Tất cả ra ngoài! - bà y tá ra lệnh. - Có linh hồn hay không, những người này cũng đang bệnh. Đây không phải chỗ để cãi nhau.
Chúng tôi cau có bước theo hàng ra ngoài hành lang.
- Được rồi, ông đã cho chúng tôi thấy màn trình diễn rùng rợn, - Emma nói với ông hề và Người Gấp, - và chúng tôi cũng kinh hoàng như mong muốn rồi. Giờ hãy nói cho chúng tôi biết các ông muốn gì?
- Đơn giản thôi, - Người Gấp nói. - Chúng tôi muốn các cô cậu ở lại và chiến đấu cùng chúng tôi.
- Chúng tôi chỉ định cho các cô cậu thấy làm điều đó cũng phù hợp với lợi ích của các cô cậu đến mức nào, - ông hề nói.
Ông ta vỗ lên lưng Millard.
- Song người bạn của các cô cậu đây đã làm một việc còn tốt hơn những gì chúng tôi có thể.
- Ở lại đây và chiến đấu vì cái gì? - Enoch nói. - Các Chủ Vòng thậm chí còn chẳng ở London, ít nhất cô Wren đã nói vậy.
- Quên London đi! London đi tong rồi! - ông hề nói. - Trận chiến ở đây đã kết thúc. Chúng ta thua. Ngay khi cô Wren cứu được tất cả những người đặc biệt còn lại từ các Vòng Thời Gian bị hủy hoại này, chúng ta sẽ thu xếp hành lý và lên đường, tới những vùng đất khác, những Vòng Thời Gian khác. Chắc chắn ngoài kia vẫn còn nhiều người sống sót, những người đặc biệt giống như chúng ta, với tinh thần chiến đấu vẫn còn cháy rực bên trong.
- Chúng ta sẽ xây dựng một đội quân, - Người Gấp nói. - Một đội quân thật sự.
- Về việc tìm xem các Chủ Vòng ở đâu, - ông hề nói, - không có gì khó cả. Chúng ta sẽ bắt một gã xác sống và tra tấn buộc hắn khai ra. Bắt hắn chỉ cho chúng ta trên Bản đồ Các Ngày.
- Ông có một Bản đồ Các Ngày sao? - Millard hỏi.
- Chúng tôi có hai bản. Cậu biết đấy, tàng thư đặc biệt nằm ở dưới nhà.
- Quả là tin tốt đấy. - Millard nói, giọng đầy phấn khởi.
- Bắt một gã xác sống là chuyện nói dễ hơn làm, - Emma nói. - Và chúng nói dối, tất nhiên rồi. Dối trá là điều chúng giỏi nhất.
- Vậy chúng ta sẽ phải bắt hai gã và so sánh những lời dối trá của chúng, - ông hề nói. - Chúng rất hay lảng vảng quanh đây, vì vậy lần tiếp theo chúng ta thấy một gã, a lê hấp! Chúng ta sẽ tóm hắn.
- Không cần thiết phải đợi, - Enoch nói. - Chẳng phải cô Wren nói có những gã xác sống ngay trong tòa nhà này sao?
- Hẳn rồi, - ông hề nói, - nhưng chúng bị đóng băng rồi. Chết cứng như đinh đóng cửa vậy.
- Như thế không có nghĩa là không thể thẩm vấn chúng. - Enoch nói, một nụ cười hết cỡ nở rộng trên khuôn mặt cậu ta.
Ông hề quay sang Người Gấp.
- Tôi thực sự bắt đầu thích các cô cậu kỳ lạ này rồi đấy.
- Vậy các cô cậu ủng hộ chúng tôi chứ? - Người Gấp hỏi. - Các cô cậu ở lại và chiến đấu chứ?
- Tôi đâu nói thế, - Emma nói. - Hãy cho chúng tôi một phút để bàn bạc.
- Còn bàn bạc gì nữa? - ông hề nói.
- Tất nhiên rồi, cứ việc bàn bạc bao lâu cũng được. - Người Gấp nói, đoạn kéo ông hề đi theo xuống hành lang. - Lại đây nào, tôi sẽ pha cà phê.
- Được thôi. - ông hề miễn cưỡng nói.
Chúng tôi xúm lại hội ý, chúng tôi đã làm thế quá nhiều lần kể từ khi những rắc rối của chúng tôi bắt đầu, chỉ có điều lần này thay vì to tiếng la lối với nhau, tuần tự từng người lên tiếng. Tính chất nghiêm trọng của chuyện này đã làm tất cả chúng tôi trở nên nghiêm túc.
- Tớ nghĩ chúng ta cần chiến đấu, - Hugh nói. - Bây giờ, khi đã biết đám xác sống đang làm gì với chúng ta, tớ sẽ không thể sống yên được nếu chúng ta cứ quay về nhà như trước đây, và cố giả bộ như tất cả những chuyện này không hề xảy ra. Chiến đấu là cách danh dự duy nhất.
- Trong sống sót cũng có danh dự, - Millard nói. - Người đặc biệt chúng ta đã sống sót qua thế kỷ hai mươi nhờ lẩn trốn chứ không phải chiến đấu - vì thế có lẽ tất cả những gì chúng ta cần là một cách ẩn mình tốt hơn.
Sau đó, Bronwyn quay sang Emma và nói:
- Tớ muốn biết cậu nghĩ thế nào?
- Phải, tớ muốn biết những gì Emma nghĩ, - Olive nói.
- Tớ cũng vậy. - Enoch nói, khiến tôi ngạc nhiên.
Emma hít một hơi dài, rồi nói.
- Những gì xảy ra thật khủng khiếp cho các Chủ Vòng khác. Những gì xảy ra với họ là một tội ác, và tương lai của người đặc biệt chúng ta có thể phụ thuộc vào việc giải cứu họ. Nhưng khi đã cân nhắc tất cả, tớ không có ràng buộc về lòng trung thành với các Chủ Vòng khác, cũng như những đứa trẻ đặc biệt khác. Lòng trung thành đó chỉ thuộc về người phụ nữ tớ đã nợ mạng sống, cô Peregrine, và chỉ mình cô Peregrine thôi. - Cô ngừng lời và gật đầu, như để kiểm tra và xác nhận lại sự đúng đắn của chính những lời mình nói, rồi tiếp tục, - Và, có các loài chim làm chứng, khi cô trở lại là mình như cũ, tớ sẽ làm bất cứ điều gì cô cần tớ làm. Nếu cô bảo chiến đấu, tớ sẽ chiến đấu. Nếu cô muốn giấu chúng ta tới một Vòng Thời Gian ở đâu đó, tớ cũng sẽ chấp nhận. Dù thế nào đi nữa, quan điểm của tớ không bao giờ thay đổi: cô Peregrine biết rõ nhất.
Những người khác cùng ngẫm nghĩ những lời này.
Cuối cùng Millard nói:
- Nói rất sáng suốt, tiểu thư Bloom.
- Cô Peregrine biết rõ nhất! - Olive reo lên.
- Cô Peregrine biết rõ nhất! - Hugh hùa theo.
- Tớ không quan tâm cô Peregrine nói gì, - Horace nói. - Tớ sẽ chiến đấu.
Enoch cố nín cười.
- Cậu ấy à?
- Ai cũng nghĩ tớ là kẻ nhất gan. Đây là cơ hội để tớ chứng minh là họ nhầm.
- Đừng có vứt tính mạng cậu đi vì vài trò đùa nhắm vào cậu, - Hugh nói. - Ai thèm băn khoăn chuyện người khác nghĩ sao chứ?
- Không chỉ có vậy, - Horace nói. - Còn nhớ hình ảnh tớ mơ thấy hồi còn ở Cairnhoim chứ? Tớ đã thoáng thấy nơi các Chủ Vòng bị giam giữ. Tớ không thể chỉ cho các cậu thấy trên một tấm bản đồ, nhưng tớ tin chắc điều này, tớ sẽ biết ngay khi tớ trông thấy nơi ấy. - Cậu ta lấy ngón trỏ gõ lên trán. - Những gì tớ có ở đây có thể sẽ giúp những người đó tránh khỏi nhiều rắc rối. Và cứu cả các Chủ Vòng khác nữa.
- Nếu một vài người chiến đấu và một số ở lại đằng sau, - Bronwyn nói, - tớ sẽ bảo vệ những ai ở lại. Bảo vệ luôn là bổn phận của tớ.
Rồi sau đó Hugh quay sang tôi và nói:
- Thế còn cậu thì sao, Jacob?
Lập tức tôi cảm thấy miệng khô rang.
- À, - tôi nói, - tớ…
- Chúng ta hãy đi dạo một chút, - Emma nói, luồn tay vòng lấy tay tôi. - Cậu và tớ cần nói chuyện.
* * *
Chúng tôi chậm rãi bước xuống cầu thang, không nói gì với nhau cho tới khi xuống tới chân cầu thang và bức tường băng uốn cong, tại đó Althea đã cho đông cứng lối ra khỏi đường hầm. Chúng tôi ngồi xuống cạnh nhau và nhìn vào khối băng hồi lâu, vào những hình dáng bị giam trong đó, mờ ảo, méo mó trong ánh sáng đang tối dần, bị treo lơ lửng như những quả trứng cổ đại trong khối hổ phách xanh lơ. Chúng tôi ngồi, và tôi có thể đoán từ sự im lặng tích tụ giữa hai chúng tôi rằng đây sẽ lả một cuộc trò chuyện nặng nề - một cuộc trò chuyện không ai trong chúng tôi muốn mở lời trước.
Cuối cùng, Emma lên tiếng:
- Thế nào?
Tôi nói:
- Tớ giống những người khác, tớ muốn biết cậu nghĩ gì.
Cô bật cười, như người ta vẫn cười khi có chuyện gì đó không những không hài hước mà còn khó cư xử, rồi nói:
- Tớ không hoàn toàn chắc vậy.
Cô nói đúng, nhưng tôi vẫn thúc giục cô nói ra.
- Thôi nào.
Emma đặt một bàn tay lên đầu gối tôi, rồi lại thu về. Cô bồn chồn. Ngực tôi thắt lại.
- Tớ nghĩ đã đến lúc cậu về nhà, - cuối cùng cô lên tiếng.
Tôi chớp mắt. Phải mất một khoảnh khắc để tôi thuyết phục bản thân là cô đã thực sự nói thế.
- Tớ không hiểu, - tôi lúng túng.
- Chính cậu đã nói cậu được đưa tới đây vì lý do nào đó, - cô hối hả nói, mắt nhìn chằm chằm xuống lòng mình, - và đó là để giúp cô Peregrine. Bây giờ có vẻ cô sẽ được cứu. Nếu cậu có nợ cô ấy gì đó, thì món nợ đã được trả. Cậu đã giúp chúng tớ nhiều hơn những gì cậu có thể tưởng tượng. Và bây giờ là lúc để cậu trở về nhà.
Những lời cô nói bất chợt ào tới, như thể đó là một niềm đau cô đã mang trong mình từ lâu, và cuối cùng thật nhẹ nhõm khi có thể rũ bỏ được chúng.
- Đây là nhà tớ, - tôi nói.
- Không, không phải, - cô khăng khăng, lúc này quay sang nhìn tôi. - Thế giới người đặc biệt đang chết dần, Jacob. Đó là một giấc mơ đã lụi tàn. Và cho dù bằng cách nào đó, nhờ một phép mầu nào đó, chúng ta có thể cầm vũ khí chống lại những kẻ biến chất kia và chiến thắng, chúng ta cũng sẽ chỉ còn là cái bóng của chính mình trước đây; một đống hỗn độn tan nát. Cậu có một ngôi nhà - một ngôi nhà không bị hủy hại - bố mẹ cậu còn sống, và ít hay nhiều, họ cũng yêu cậu.
- Tớ đã nói với cậu rồi. Tớ không muốn những thứ đó. Tớ chọn hiện tại này.
- Cậu đã hứa, và đã giữ lời. Và giờ chuyện đó đã kết thúc, và đã tới lúc cậu trở về nhà.
- Đừng có nói vậy nữa! - tôi gắt lên. - Tại sao cậu cứ xua đuổi tớ thế?
- Vì cậu có một ngôi nhà thực sự, một gia đình thực sự, và nếu cậu nghĩ có bất cứ ai trong bọn tớ lại đi chọn thế giới này thay vì những điều đó - bất cứ ai lại không từ bỏ các Vòng Thời Gian, sự trường thọ và năng lực đặc biệt của bọn tớ từ lâu cho dù chỉ để nếm trải qua những gì cậu có - thì cậu quả thực là sống trong mộng rồi. Tớ thấy thực sự phát ốm lên khi nghĩ cậu có thể vứt bỏ tất cả những thứ đó đi, mà vì cái gì kia chứ?
- Vì cậu, đồ ngốc! Tớ yêu cậu!
Tôi không tin nổi mình đã nói thế. Cả Emma cũng không - miệng cô há ra.
- Không, - cô nói, lắc đầu như thể muốn xóa đi những lời tôi nói. - Không, như thế sẽ chẳng giúp gì cả.
- Nhưng đúng thế! - tôi nói. - Cậu nghĩ tại sao tớ ở lại thay vì về nhà? Không phải vì ông nội tớ hay vì một cảm nhận ngu ngốc nào đó về trách nhiệm - không hẳn vậy - hay vì tớ ghét bố mẹ hay không thích ngôi nhà của tớ và tất cả những thứ tiện nghi gia đình tớ có. Tớ ở lại vì cậu.
Cô không nói gì trong giây lát, chỉ gật đầu rồi nhìn đi chỗ khác, đưa hai bàn tay lùa lên mái tóc, để lộ một vệt bột bê tông trắng xóa lúc trước tôi đã không để ý thấy, làm cô đột nhiên có vẻ già đi.
- Đó là lỗi của tôi, - cuối cùng cô lên tiếng. - Đáng lẽ tôi không nên hôn cậu. Có lẽ tôi đã làm cậu tin vào một điều không phải thật.
Những lời nói này làm tôi đau nhói, và tôi vô thức lùi lại, như thể để tự vệ.
- Đừng nói thế với tớ nếu cậu không có ý như vậy, - tôi nói. - Có thể tớ không có nhiều kinh nghiệm hẹn hò, nhưng đừng đối xử với tớ như một kẻ thua cuộc ngớ ngẩn hoàn toàn vô dụng trước mặt một cô gái đẹp. Không phải cậu khiến tớ ở lại. Tớ ở lại vì tớ muốn thế - và vì cảm xúc tớ có với cậu cũng thực như bất cứ điều gì khác tớ từng cảm thấy.
Tôi để những lời này lơ lửng giữa hai chúng tôi trong giây lát, cảm thấy sự thật trong đó.
- Cậu cũng cảm thấy như vậy, - tôi nói. - Tớ biết thế.
- Tớ xin lỗi, - cô nói. - Tớ xin lỗi, như thế thật tàn nhẫn, và đáng lẽ tớ không nên nói thế.
Đôi mắt cô ươn ướt, và cô đưa bàn tay lên gạt nước mắt. Emma đã cố thể hiện mình thật cứng rắn, nhưng giờ tấm bình phong bên ngoài đang rơi xuống.
- Cậu nói đúng, - cô nói. - Tớ quan tâm đến cậu rất nhiều. Đó là lý do vì sao tớ không thể nhìn cậu vứt bỏ tính mạng đi một cách vô ích.
- Không đâu!
- Chết tiệt, Jacob, có đấy! - cô nóng nảy tới mức vô thức làm bùng lên một ngọn lửa trên tay mình - và thật may là bàn tay đó đã rời khỏi đầu gối tôi. Cô vỗ hai bàn tay vào nhau, dập tắt ngọn lửa, rồi đứng dậy. Chỉ tay vào khối băng, Emma nói:
- Cậu nhìn thấy chậu cây trên bàn làm việc đằng kia không?
Tôi có thấy. Và gật đầu.
- Lúc này nó xanh tươi, nhờ được băng bảo quản. Nhưng bên trong nó đã chết. Và ngay khi băng tan, nó sẽ úa nâu rồi mủn nát. - Cô nhìn thẳng vào mắt tôi. - Tớ cũng giống cái cây đó.
- Không hề, - tôi nói. - Cậu… hoàn hảo.
Khuôn mặt cô căng ra thành một vẻ kiên nhẫn gắng gượng, như thể đang giải thích điều gì đó với một đứa trẻ đầu đất. Cô lại ngồi xuống, cầm lấy bàn tay tôi, đưa nó lên áp vào gò má mịn màng của mình.
- Cái này ư? - cô nói. - Đó là một sự dối trá. Đây không thực là tớ. Nếu cậu có thể nhìn thấy tớ đúng như con người thực của tớ, cậu sẽ không còn yêu tớ nữa.
- Tớ không quan tâm tới chuyện đó…
- Tớ là một bà già! - cô nói. - Cậu nghĩ chúng ta giống nhau, nhưng không phải. Con người mà cậu nói cậu yêu này ư? Cô ta thực sự là một mụ phù thủy, một bà lão ẩn nấp trong thân hình một cô gái. Cậu là một thiếu niên - một cậu bé - một chú nhóc nếu so sánh với tớ. Cậu không bao giờ hiểu nổi thế là thế nào đâu, luôn kề cận cái chết vào mọi lúc. Và không nên hiểu. Tớ chưa bao giờ muốn cậu hiểu. Cậu vẫn còn cả cuộc đời để nhìn về phía trước, Jacob. Tớ đã sống hết cuộc đời của mình rồi. Và một ngày kia - có lẽ sẽ sớm thôi - tớ sẽ chết và trở về với cát bụi.
Cô nói ra tất cả với sự quả quyết lạnh lùng tới mức tôi biết cô tin vào điều đó. Cô đau khổ khi phải nói ra những lời này, tôi đau khổ khi phải nghe chúng, nhưng tôi hiểu vì sao cô lại làm thế. Theo cách của mình, cô đang cố cứu tôi.
Dù sao cũng thật đau đớn - một phần vì tôi biết cô nói đúng. Nếu cô Peregrine bình phục, như vậy tôi coi như đã làm điều tôi định làm: tìm hiểu bí mật của ông nội tôi, trả món nợ của gia đình tôi với cô Peregrine; sống cuộc sống phi thường tôi vẫn hằng mơ - hay ít nhất là một phần của cuộc sống đó. Và vào thời điểm như vậy, ràng buộc duy nhất còn lại của tôi là với bố mẹ tôi. Còn về Emma, tôi chẳng hề bận tậm về chuyện cô lớn hơn tôi, hay khác tôi, nhưng cô đã quyết định là tôi nên bận tâm về điều đó, và có vẻ chẳng thể nào thuyết phục cô khác đi được.
- Có lẽ khi tất cả chuyện này kết thúc, - cô nói, - tớ sẽ gửi thư cho cậu, rồi cậu hồi âm. Và có lẽ một ngày nào đó cậu lại có thể tới gặp tớ.
Một lá thư. Tôi nghĩ tới cái hộp bụi bặm tôi đã tìm thấy trong phòng cô, những lá thư ông nội viết. Vậy với cô tôi chỉ là vậy thôi sao? Một ông già bên kia đại dương? Một ký ức? Và tôi nhận ra tôi sắp sửa theo chân ông nội mình theo cách tôi chưa bao giờ nghĩ là có thể. Về nhiều khía cạnh, tôi đang sống cuộc sống của nội. Và rất có thể một ngày kia sự cảnh giới hồn rỗng của tôi sẽ trở nên quá chểnh mảng, tôi sẽ già đi, đãng trí, và sẽ chết như ông nội. Và Emma sẽ tiếp tục sống mà không có tôi, không có ai trong hai ông cháu tôi, và đến một ngày có thể ai đó sẽ tìm thấy những lá thư của tôi trong ngăn tủ tường của cô, trong một chiếc hộp bên cạnh những lá thư của ông nội tôi, và băn khoăn tự hỏi chúng tôi là thế nào với cô.
- Thế nếu cậu cần tớ thì sao? - tôi nói. - Nếu lũ hồn rỗng quay lại thì sao?
Nước mắt đầm đìa trên má cô.
- Chúng tớ sẽ xoay xở được bằng cách nào đó, - cô nói. - Xem nào, tớ không thể nói thêm gì về chuyện này nữa. Thành thật mà nói, tớ không nghĩ trái tim tớ có thể chịu đựng nổi. Chúng mình có thể lên gác và nói với những người khác về quyết định của cậu không?
Tôi nghiến chặt quai hàm, đột nhiên bực bội về việc cô thúc ép tôi quá đáng.
- Tớ chưa quyết định gì hết, - tôi nói. - Mà là cậu.
- Jacob, tớ vừa nói với cậu…
- Phải, cậu nói với tớ. Nhưng tớ chưa quyết định.
Cô khoanh tay lại.
- Thế thì tớ có thể đợi.
- Không, - tôi nói và đứng dậy. - Tớ cần ở một mình một lát.
Rồi tôi lên cầu thang mà không có cô đi cùng.

Chương 13


Tôi lặng lẽ bước qua các hành lang. Tôi đứng bên ngoài phòng họp của các Chủ Vòng một lúc, lắng nghe những giọng nói rì rầm vọng ra qua cánh cửa, song tôi không bước vào. Tôi ghé đầu nhìn vào phòng điều trị và thấy bà y tá đang ngủ gật trên một chiếc ghế đẩu giữa mấy người đặc biệt chỉ còn một linh hồn. Tôi hé mở cánh cửa phòng cô Wren và thấy bà đang ngồi đu đưa ru cô Peregrine trong lòng, nhẹ nhàng đưa các ngón tay vuốt ve bộ lông con chim. Tôi không nói gì với bất cứ ai.
Lang thang qua những hành lang vắng tanh và những phòng làm việc bị phá tanh bành, tôi cố hình dung xem ở nhà sẽ thế nào, nếu tôi lựa chọn quay trở lại sau tất cả chuyện này. Tôi sẽ nói gì với bố mẹ. Nhiều khả năng là không gì hết. Dù thế nào họ cũng sẽ chẳng bao giờ tin tôi. Tôi chắc sẽ nói tôi đã hóa điên, viết cho bố một lá thư đầy ắp những chuyện điên rồ, rồi lên một chiếc thuyền vào bờ và bỏ chạy. Họ sẽ gọi đó là một phản ứng do stress. Rồi quy nó cho một chứng rối loạn tưởng tượng nào đó để rồi thay đổi tiến trình trị liệu của tôi theo đúng hướng này. Trách cứ bác sĩ Golan vì đã đề xuất cho tôi đi tới Wales. Bác sĩ Golan, kẻ họ sẽ chẳng bao giờ nghe nói tới nữa. Bố mẹ tôi chắc sẽ nói hắn đã rời thị trấn, vì hắn là một kẻ dối trá, một gã lang băm đáng lẽ chúng tôi không bao giờ nên tin tưởng. Và tôi sẽ trở lại là thằng bé Jacob tôi nghiệp bị sang chấn tâm lý, một đứa trẻ con nhà giàu tâm thần không ổn định.
Nghe có vẻ giống một án tù. Dẫu vậy, nếu lý do quan trọng nhất để tôi nán lại trong thế giới đặc biệt lại không còn muốn tôi nữa, thì tôi không thể hạ mình lẽo đẽo bám lấy cô được. Tôi có sự tự tôn của bản thân.
Tôi có thể ở lại Florida trong bao lâu, khi giờ tôi đã nếm qua mùi vị cuộc sống đặc biệt này? Tôi không còn bình thường như trước nữa - hay đúng hơn là giờ tôi đã biết tôi chưa bao giờ bình thường. Tôi đã thay đổi. Và ít nhất điều đó cũng cho tôi chút hy vọng: rằng ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, tôi vẫn có thể tìm ra cách để sống một cuộc sống phi thường.
Phải, tốt nhất nên ra đi. Thực sự là thế. Nếu thế giới này đang chết dần và chẳng thể làm gì cho nó nữa, thế thì còn gì cho tôi ở đây nữa? Chạy và trốn cho tới khi không còn lại nơi nào an toàn để đi, không còn Vòng Thời Gian nào để duy trì tuổi trẻ nhân tạo của các bạn tôi. Chứng kiến họ chết. Đỡ lấy Emma khi cô gục xuống và vỡ nát trên tay tôi.
Điều đó sẽ giết tôi còn nhanh hơn bất cứ con hồn rỗng nào có thể.
Vậy thì được rồi, tôi sẽ đi. Cứu vãn những gì còn lại từ cuộc đời cũ của tôi. Tạm biệt, những người đặc biệt. Tạm biệt, thế giới đặc biệt.
Thế là tốt nhất.
Tôi lang thang cho đến khi tới một nơi các căn phòng chỉ đóng băng một nửa, khối băng đã dâng lên tới nửa chiều cao trần nhà như nước tràn vào một con tàu đắm rồi sau đó dừng lại, để các mặt bàn và chụp đèn nhô lên như những tay bơi đang ngập ngừng. Bên ngoài các khung cửa sổ đóng băng, mặt trời đang lặn xuống. Những cái bóng đổ dài theo các bức tường và nhân lên nhiều lần trong các giếng cầu thang, và khi ánh sáng tắt dần, chúng trở nên xanh hơn, nhuộm mọi thứ quanh tôi thành màu xanh đại dương sâu thẳm.
Tôi chợt nghĩ đây nhiều khả năng là buổi tối cuối cùng của tôi trong thế giới người đặc biệt. Buổi tối cuối cùng của tôi với những người bạn tốt nhất tôi từng có. Buổi tối cuối cùng của tôi với Emma. Tại sao tôi lại trải qua nó một mình như thế này? Vì tôi buồn, và Emma đã làm tổn thương lòng kiêu hãnh của tôi, và tôi cần dằn dỗi.
Đủ rồi.
Đúng lúc quay người để rời khỏi phòng, tôi cảm thấy nó: cảm giác quặn thắt quen thuộc trong bụng.
Một con hồn rỗng.
Tôi dừng lại, chờ đợi thêm một cơn đau nữa. Tôi cần thêm thông tin. Cường độ của cơn đau tương ứng với độ gần của con hồn rỗng, và tần suất những cơn đau xuất hiện tỷ lệ với sức mạnh của hắn. Khi hai con hồn rỗng mạnh mẽ truy đuổi chúng tôi, Cảm Giác là một cơn đau quằn quại không gián đoạn, nhưng lúc này phải một hồi lâu trôi qua tôi mới cảm thấy một cơn đau nữa - phải gần một phút - và khi nó xuất hiện, cảm giác đau thật mơ hồ, đến mức tôi thậm chí còn không chắc mình đã cảm thấy nó.
Tôi chậm chạp bò ra khỏi phòng, đi xuống hành lang. Khi đi qua khung cửa kế tiếp, tôi cảm thấy cơn đau thứ ba: lúc này mạnh hơn một chút, nhưng vẫn chỉ như một tiếng thì thầm.
Tôi thử mở cánh cửa ra thật thận trọng và khẽ, nhưng nó bị đóng băng chặt cứng. Tôi phải giật mạnh cánh cửa, sau đó rung lắc, rồi đá vào nó, cuối cùng cánh cửa cũng mở tung ra, để lộ khung cửa và một căn phòng đóng băng tới tận ngang ngực. Tôi thận trọng tới gần khối băng và nhìn qua, và thậm chí cả trong ánh sáng yếu ớt, tôi cũng thấy ngay một con hồn rỗng. Nó đang nằm phục dưới sàn, hai con mắt đen như mực bị bọc kín trong băng. Chỉ còn nửa trên cái đầu của nó nhô lên khỏi băng; phần còn lại của con quái vật, những phần nguy hiểm, cái miệng há ngoác và tất cả răng cũng như lưỡi của nó đều bị giữ lại dưới mặt băng. Con quái vật chỉ còn sống thoi thóp, tim nó chậm lại tới mức gần như ngừng, đập chừng một lần mỗi phút. Với mỗi nhịp đập yếu ớt tôi lại cảm thấy một cơn đau nhói.
Tôi đứng ngoài cửa phòng và nhìn nó chằm chằm, kinh ngạc và ghê tởm. Nó bất tỉnh, bất động, hoàn toàn có thể tấn công. Thật dễ dàng leo lên mặt băng và đâm mũi một trụ băng vào đầu con hồn rỗng - và nếu ai đó khác biết nó ở đây, tôi tin chắc họ sẽ làm như thế. Nhưng có điều gì đó chặn tôi lại. Sinh vật này giờ đây không còn là mối đe dọa cho bất cứ ai nữa. Tất cả các hồn rỗng tôi từng tiếp xúc đều để lại một dấu ấn trên tôi. Tôi nhìn thấy khuôn mặt thối rữa của chúng trong những giấc mơ của mình. Không mấy chốc nữa tôi sẽ về nhà, nơi tôi sẽ không còn là Jacob kẻ giết hồn rỗng nữa. Tôi không muốn mang theo cả gã này với mình. Đây không còn là chuyện của tôi nữa.
Tôi lùi ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
* * *
Khi tôi quay trở lại phòng họp, trời đã gần tốt mịt bên ngoài, và căn phòng tối om. Cô Wren không cho phép thắp những ngọn đèn khí ga lên vì sợ ánh đèn bị trông thấy từ dưới đường, tất cả mọi người bèn xúm lại quanh mấy cây nến tại chiếc bàn lớn hình bầu dục, một số ngồi trên ghế, số khác ngồi gác tréo chân ngay trên bàn, rì rầm trò chuyện khe khẽ và chăm chú nhìn xuống cái gì đó.
Khi các cánh cửa nặng nề kêu lên ken két, tất cả quay sang nhìn tôi.
- Cô Wren? - Bronwyn lên tiếng đầy hy vọng, thẳng người lên trên ghế và nheo mắt.
- Chỉ là Jacob thôi, - một bóng đen khác nói.
Sau một dàn đồng ca những tiếng thở dài thất vọng, Bronwyn nói, “À, chào Jacob”, rồi chuyển sự chú ý trở lại bàn.
Trong khi bước về phía họ, tôi trao đổi ánh mắt với Emma. Theo dõi ánh mắt cô, tôi thấy điều gì đó non nớt, lộ liễu - tôi hình dung rằng đó là nỗi sợ rằng quả thực tôi đã quyết định làm điều cô thúc giục tôi làm. Sau đó, ánh mắt cô đờ dại đi, và cô lại nhìn xuống.
Tôi phần nào hy vọng Emma đã thấy thương tôi và nói trước với những người khác rằng tôi chuẩn bị rời đi rồi. Nhưng hiển nhiên là cô đã không nói - tôi vẫn chưa nói gì với cô. Dẫu vậy, dường như cô biết, chỉ từ việc quan sát khuôn mặt tôi khi tôi đi vào phòng.
Rõ ràng những người khác không biết gì. Họ đã quá quen thuộc với sự hiện diện của tôi, thậm chí họ đã quên rằng điều đó đang bị xem xét. Tôi lấy hết can đảm và yêu cầu mọi người chú ý.
- Đợi một chút, - một giọng nói có khẩu âm nặng trịch vang lên, trong ánh nến tôi nhìn thấy cô gái điều khiển trăn và con trăn của cô đang nhìn tôi. - Cậu này vừa nói rất nhiều điều vớ vẩn về nơi tôi từ đó tới. - Cô này quay sang chiếc ghế duy nhất cạnh bàn còn trống và nói, - Chúng tôi gọi nơi đó là Simhaladvipa - nhà của sư tử.
Từ chiếc ghế trống, Millard đáp:
- Tớ xin lỗi, nhưng trong đó viết rõ ràng trên giấy trắng mực đen: Vùng đất Serendip. Các chuyên gia vẽ bản đồ đặc biệt tạo ra thứ này không phải loại người đi bịa chuyện!
Sau đó, tôi lại gần hơn thì thấy họ đang trao đổi về cái gì. Đó là một tấm Bản đồ Các Ngày, cho dù là một phiên bản lớn hơn nhiều so với tấm bản đồ chúng tôi đã mất ngoài biển. Tấm bản đồ này phủ kín cả chiều ngang mặt bàn và dày như một viên gạch để dựng đứng.
- Tôi biết quê nhà của mình, và tên nơi đó là Simhaladvipa! - cô gái thôi miên trăn khăng khăng, và con trăn tháo mình ra khỏi cổ cô, lao vút đi qua bàn và đập mũi vào Bản đồ, chỉ vào một hòn đảo hình giọt nước ở ngoài khơi Ấn Độ. Tuy nhiên, trên tấm bản đồ này Ấn Độ được gọi là Malabar, và hòn đảo, mà tôi biết là Sri Lanka, được viết đè lên một dòng chữ đề Vùng Đất Serendip.
- Tranh luận chỉ vô ích, - Millard nói. - Có những nơi nhiều tên như thể lấy tên từng người dân để đặt cho nó vậy. Giờ hãy làm ơn bảo con trăn của cậu lui ra, nếu không nó sẽ làm nhàu trang giấy mất.
Cô gái thôi miên trăn đằng hắng rồi lẩm bẩm gì đó, và con trăn thu mình về trở lại quấn quanh cổ cô. Từ đầu đến cuối, tôi không thể đừng nhìn chăm chăm vào cuốn sách. Tập sách chúng tôi để mất cũng đã rất ấn tượng, cho dù tôi mới thấy nó khi giở ra có một lần vào ban đêm, trong ánh lửa màu cam nhảy múa khi ngôi nhà dành cho những đứa trẻ đặc biệt đang bốc cháy. Tập bản đồ này có kích cỡ khác hẳn. Không chỉ lớn hơn nhiều, tập sách này còn được trang trí cầu kỳ đến mức khiến tập sách kia trông chẳng khác gì một tập giấy vệ sinh bọc bìa da. Những tấm bản đồ đầy màu sắc được vẽ trên các trang của tập sách, làm từ một thứ vật liệu nào đó bền hơn giấy, có lẽ là da dê, và rìa được thếp vàng. Những hình minh họa sinh động, các ghi chú và những cụm văn bản giải thích chen kín các rìa trang.
Millard để ý thấy tôi nhìn tập bản đồ đầy ngưỡng mộ liền nói:
- Thật kinh ngạc phải không nào? Có lẽ ngoại trừ Bộ Luật Người Đặc Biệt, thì ấn bản này của Bản đồ là tập sách đẹp nhất trong cả thế giới đặc biệt. Cả một đội các chuyên gia vẽ bản đồ, họa sĩ và thợ đóng sách đã dành ra cả cuộc đời để tạo nên nó, và người ta kể đích thân Perplexus Anomalous đã vẽ một số trong các bản đồ. Tớ vẫn muốn tận mắt nhìn thấy nó từ khi còn bé tẹo. Ồ, tớ vui lắm!
- Đây quả là một kiệt tác. - tôi nói, và đúng là vậy.
Thay vì làm hỏng niềm vui của Millard với tuyên bố buồn của mình, tôi quyết định có thể đợi thêm chút nữa. Tôi sẽ không đi đâu hết ít nhất cho tới khi trời sáng, và tôi muốn tận hưởng thêm vài phút nữa bên các bạn tôi mà không bị những điều ảm đạm hơn đè nặng. Tôi rón rén ngồi xuống cạnh Millard và đưa các ngón tay trượt dưới trang sách, có khổ lớn tới mức cần đến cả hai bàn tay tôi cũng như hai bàn tay của cậu ta để lật trang.
Chúng tôi cúi xuống Bản đồ. Tôi bị nó thu hút - nhất là những phần xa xôi và ít được biết đến. Tất nhiên, châu Âu và số lượng lớn Vòng Thời Gian ở đây được xác định chu đáo, nhưng càng cách xa, thông tin càng trở nên thưa thớt. Từng mảng lớn ở châu Phi chỉ đơn giản là trống trơn. Vùng đất chưa được biết tới. Tương tự là Siberia, cho dù bản đồ Các Ngày có tên riêng dành cho vùng Viễn Đông nước Nga: Vùng Rộng Lớn Cô Độc Xa Xăm.
- Có các Vòng Thời Gian ở những vùng này không? - Olive hỏi, chỉ tay vào một khoảng trống trải rộng trên phần lớn Trung Quốc. - Ở đó cũng có những người đặc biệt như chúng ta chứ?
- Chắc chắn là có, - Millard nói. - Thuộc tính đặc biệt do gene quyết định chứ không phải địa lý. Nhưng chỉ có điều là phần lớn của thế giới đặc biệt còn chưa được khám phá.
- Tại sao lại chưa?
- Tớ đoán vì chúng ta quá bận rộn với việc sinh tồn.
Tôi chợt nghĩ việc sống còn đã loại trừ rất nhiều thứ, trong đó khám phá và yêu không phải là ngoại lệ.
Chúng tôi lật thêm các trang, tìm kiếm những vùng trắng. Có rất nhiều, và tất cả đều có những cái tên lạ lùng. Vương Quốc Than Khóc Của Cát. Vùng Đất Được Tạo Ra Trong Cơn Giận. Một Nơi Cao Đầy Sao. Tôi đọc thầm những cái tên này, đánh giá sự hợp lý của chúng. Tại các vùng rìa lẩn khuất những nơi đáng sợ Bản đồ gọi là các vùng Hoang Vu. Cực Bắc Scandinavia là vùng Hoang Vu Băng Giá. Trung bộ Borneo: vùng Hoang Vu Ngột Ngạt. Phần lớn bán đảo Ả Rập: vùng Hoang Vu Tàn Nhẫn.
Có những nơi chẳng hề được thể hiện. New Zealand. Hawaii. Floria, chỉ đơn thuần là một cái bướu nhỏ xíu chưa nhô hẳn ra khỏi bàn chân nước Mỹ, gần như không thể nhìn thấy. Nhìn vào Bản đồ Các Ngày, thậm chí cả những nơi nghe có vẻ cấm đặt chân đến cũng thổi bùng lên trong tôi một mong ước lạ lùng. Nó làm tôi nhớ lại những buổi chiều cách đây đã lâu trải qua bên ông nội nghiên cứu những tấm bản đồ lịch sử trên tạp chí Địa lý Quốc gia - những tấm bản đồ được vẽ từ rất lâu trước khi xuất hiện máy bay và vệ tinh nhân tạo, khi các camera phân giải cao chưa thể nhìn tới tận từng ngóc ngách của thế giới. Khi hình dạng của những đường bờ biển ngày nay thật quen thuộc vẫn chỉ là phỏng đoán. Khi độ sâu và kích thước của những vùng biển băng giá và những khu rừng rậm rạp được tập hợp lại từ những lời đồn đại, các truyền thuyết và những chuyến lang thang nhớn nhác của các đoàn thám hiểm đã mất đến nửa số thành viên trong quá trình khám phá chúng.
Trong khi Millard lang thang theo lịch sử của Bản đồ, tôi dùng ngón tay lần theo một sa mạc rộng mênh mông không đường đi ở châu Á. Nơi Tạo Vật Có Cánh Không Kết Thúc Chuyến Bay Của Nó. Tại đây còn cả một thế giới còn cần khám phá, và tôi mới chỉ bới qua loa trên bề mặt của nó. Ý nghĩ này làm tôi tràn đầy nuối tiếc - nhưng cũng có cả một cảm giác nhẹ nhõm đáng hổ thẹn. Nói cho cùng, tôi sẽ lại được thấy nhà mình, và bố mẹ mình. Và có thể sự thôi thúc khám phá chỉ vì để khám phá xưa kia đúng là thật trẻ con. Có sự lãng mạn trong cái chưa biết, nhưng một khi nơi nào đó đã được khám phá, ghi chép lại và đưa lên bản đồ, nó bị thu lại, chỉ còn là một hiện thực phủ bụi trong một cuốn sách, mất đi sự bí hiểm. Thế nên có lẽ tốt hơn nên để lại một số vùng trắng trên bản đồ. Hãy để thế giới giữ lại một phần phép mầu của mình, thay vì ép buộc nó tiết lộ ra đến bí mật cuối cùng.
Có thể thỉnh thoảng phải băn khoăn tự hỏi lại tốt hơn.
Và tôi nói với họ. Đợi thêm nữa cũng chẳng ích gì.
- Tớ sắp rời khỏi đây, - tôi nói. - Khi tất cả chuyện này kết thúc, tớ sẽ quay về nhà.
Có một khoảnh khắc im lặng vì sốc. Cuối cùng Emma cũng bắt gặp ánh mắt tôi, và tôi có thể thấy đôi mắt cô ướt nhòa.
Rồi Bronwyn đứng dậy khỏi bàn và đưa hai cánh tay ôm chầm lấy tôi.
- Người anh em, - cô nói. - Chúng tớ sẽ nhớ cậu lắm.
- Tớ cũng sẽ nhớ các cậu, - tôi nói. - Nhiều hơn những gì tớ có thể nói.
- Nhưng tại sao? - Olive nói, lơ lửng bay lên ngang tầm mắt tôi. - Có phải tớ khó chịu quá không?
Tôi đưa bàn tay đặt lên đầu cô bé và đẩy cô xuống sàn trở lại.
- Không, không, không có gì liên quan tới cậu cả, - tôi nói. - Cậu rất tuyệt, Olive.
Emma bước tới.
- Jacob tới đây để giúp chúng ta, - cô nói. - Nhưng cậu ấy phải quay trở lại cuộc sống cũ của mình, nó vẫn luôn ở đó chờ cậu ấy.
Những đứa trẻ có vẻ hiểu. Không có sự tức giận. Phần lớn họ dường như thực sự mừng cho tôi.
Cô Wren ló đầu vào phòng để cập nhật nhanh tình hình cho chúng tôi - mọi thứ diễn ra rất tuyệt, bà nói. Cô Peregrine đang bình phục. Đến sáng bà sẽ sẵn sàng. Rồi cô Wren lại lui ra.
- Ơn Chúa, - Horace nói.
- Cảm ơn các loài chim, - Hugh nói.
- Cảm ơn Chúa và các loài chim, - Bronwyn nói. - Tất cả những con chim trên tất cả những cái cây trong tất cả các khu rừng.
- Cảm ơn cả Jacob nữa, - Millard nói. - Chúng ta không bao giờ có thể làm được đến chừng này nếu không có cậu ấy.
- Thậm chí chúng ta còn chẳng thể rời nổi khỏi hòn đảo, - Bronwyn nói. - Cậu đã làm rất nhiều cho chúng tớ, Jacob.
Tất cả họ đều tới và ôm hôn tôi, tất cả, từng người một. Rồi họ rời đi, chỉ còn lại Emma, và cô ôm hôn tôi cuối cùng - một cái ôm hôn thật dài, vừa ngọt ngào vừa cay đắng thật giống với lời tạm biệt.
- Yêu cầu cậu rời đi là điều khó khăn nhất tớ từng phải làm, - cô nói. - Tớ rất vui vì cậu đã tới. Tớ không nghĩ tớ sẽ có đủ sức mạnh để yêu cầu thêm nữa.
- Tớ ghét chuyện này, - tôi nói. - Tớ ước gì có một thế giới mà chúng ta có thể bình yên ở bên nhau.
- Tớ biết, - cô nói. - Tớ biết, tớ biết.
- Tớ ước… - tôi bắt đầu nói.
- Đừng nói nữa. - cô nói.
Nhưng tôi vẫn nói.
- Tớ ước gì cậu có thể về nhà cùng tớ.
Cô nhìn đi chỗ khác.
- Cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với tớ nếu tớ làm điều đó mà.
- Tớ biết.
Emma không thích những cuộc chia tay kéo dài. Tôi có thể cảm thấy cô đang cố gồng mình lên, cố đè nén nỗi đau trong lòng.
- Vậy nhé, - cô nói với giọng công việc. - Lên kế hoạch chút. Khi cô Peregrine trở lại hình người, cô sẽ dẫn cậu trở lại chỗ lễ hội, xuống đường hầm, và khi cậu đi qua phòng thay đồ, cậu sẽ trở lại hiện tại. Cậu nghĩ mình có thể xoay xở được từ đó chứ?
- Tớ nghĩ là được, - tôi nói. - Tớ sẽ gọi cho bố mẹ tớ. Hoặc tới một đồn cảnh sát, hay làm gì đó. Tớ tin chắc đến giờ này hẳn đã có thông báo tìm kiếm dán ảnh của tớ tại tất cả các đồn cảnh sát Anh rồi, tớ hiểu bố tớ lắm.
Tôi cười khẽ, vì nếu không làm thế có khi tôi đã bắt đầu khóc.
- Thế thì ổn, - cô nói.
- Thế là ổn, - tôi nói.
Chúng tôi nhìn nhau, chưa hoàn toàn sẵn sàng chia tay, nhưng không biết chắc phải làm gì khác. Bản năng thôi thúc tôi hôn cô, nhưng tôi kìm mình. Chuyện này không còn được phép nữa.
- Cậu đi đi, - cô nói. - Nếu cậu không bao giờ nghe nói gì về bọn tớ nữa, thì một ngày nào đó cậu sẽ có thể kể lại câu chuyện của chúng ta. Cậu có thể kể cho các con cậu về chúng ta. Hay các cháu cậu. Và chúng tớ sẽ không hoàn toàn bị quên lãng.
Lúc ấy tôi biết rằng, từ giờ trở đi, mỗi lời trao đổi giữa chúng tôi sẽ gây đau khổ, sẽ thấm đẫm và mang dấu ấn nỗi đau của khoảnh khắc này, và tôi cần rút lui ngay bây giờ hoặc nó sẽ không bao giờ dừng lại. Vậy là tôi buồn bã gật đầu, ôm hôn cô thêm lần nữa, rồi rút lui vào một góc để ngủ, vì tôi rất, rất mệt.
Sau một hồi, những người khác lôi đệm và chăn vào trong phòng, xếp thành một chỗ ngủ quanh tôi, và chúng tôi xúm lại sát nhau để lấy hơi ấm chống lại cái lạnh đang ngấm dần. Nhưng trong khi những người khác bắt đầu nằm xuống, tôi nhận ra mình không tài nào ngủ được, dù đã rất kiệt quệ, và tôi đứng dậy đi đi lại lại trong phòng một hồi, quan sát những đứa trẻ từ ngoài xa.
Tôi cảm thấy rất nhiều điều từ khi cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu - vui, sợ, hy vọng, kinh hoàng - nhưng cho tới nay, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Bronwyn đã gọi tôi là người anh em, nhưng nghe cách gọi ấy không còn ổn nữa. Khá lắm tôi cũng chỉ là một người anh em họ đời thứ hai so với họ. Emma nói đúng: tôi không bao giờ có thể hiểu. Họ đã quá già, đã chứng kiến quá nhiều. Còn tôi tới từ một thế giới khác.
Giờ đã đến lúc trở về.
* * *
Cuối cùng, tôi ngủ thiếp đi trong tiếng băng kêu răng rắc, nứt lách cách ở các tầng nhà bên dưới chúng tôi và tầng áp mái phía trên. Ngôi nhà sống dậy trong những tiếng động này. Đêm hôm đó, đêm của những giấc mơ lạ lùng, gấp gáp.
Tôi lại về nhà, làm tất cả những điều tôi từng làm. Ăn ngấu nghiến một chiếc hamburger đồ ăn nhanh - to, nâu, béo ngậy. Ngồi cạnh lái xe trong chiếc Crown Vic của Ricky, chiếc radio lọc xọc mở thật to. Tại cửa hàng tạp hóa cùng bố mẹ tôi, lao xuống những dãy giá bày hàng dài chiếu sáng quá chói chang, và Emma ở đó, đang làm mát hai bàn tay trong nước đá ở quầy bán cá, nước tan ra chảy khắp nơi. Cô không nhận ra tôi.
Rồi tôi đang ở trung tâm trò chơi, nơi tôi tổ chức sinh nhật lần thứ mười hai, bắn một khẩu súng nhựa. Các thân người nổ tung, những quả bóng đựng đầy máu.
Jacob cậu ở đâu.
Rồi đến trường. Thầy giáo đang viết trên bảng, nhưng các chữ cái chẳng tạo nên ý nghĩa nào. Rồi tất cả cùng đứng bật dậy, hối hả lao ra ngoài. Có gì đó không ổn. Một tiếng động chói tai vang lên rồi lắng xuống. Tất cả mọi người đứng im, đầu ngẩng lên trời.
Không kích.
Jacob Jacob cậu ở đâu.
Một bàn tay đặt lên vai tôi. Một ông già. Một người không có mắt. Tới để lấy cắp mắt của tôi. Không phải một người - một thứ - một con quái vật.
Giờ là chạy. Đuổi theo con chó già của tôi. Nhiều năm trước nó đã vùng khỏi tôi, chạy đi khi dây dắt vẫn buộc cổ và làm sợi dây quấn quanh một cành cây trong lúc cố đuổi theo một con sóc lên cây. Và tự làm mình chết ngạt. Chúng tôi mất hai tuần lang thang khắp khu vực lân cận gọi tên nó. Và tìm thấy con chó sau ba tuần. Snuffles già khốn khổ.
Lúc này tiếng còi vang lên điếc tai. Tôi chạy và một chiếc xe lao tới bên cạnh, đón tôi lên. Bố mẹ tôi ở trong xe, mặc đồ nghiêm chỉnh. Họ không nhìn tôi. Các cửa xe khóa lại. Chúng tôi lao đi và bên ngoài nóng đến ngột thở, nhưng máy sưởi lại được bật và các cửa xe đóng kín, radio thì mở to nhưng toàn chỉnh vào đoạn nhiễu giữa các đài phát.
Mẹ, chúng ta đi đâu đây.
Bà không trả lời.
Bố, sao chúng ta lại dừng ở đây.
Rồi chúng tôi ra ngoài, đi bộ, và tôi lại thở được. Một nơi đầy màu xanh. Có mùi cỏ mới cắt. Những người mặc đồ đen tụ tập lại quanh một cái hố trên mặt đất.
Một chiếc quan tài để mở trên một cái bệ. Tôi nhìn vào trong. Nó trống rỗng, chỉ có một vết ố nhớt như dầu chầm chậm lan rộng ra dưới đáy. Làm đen kịt nền xa tanh trắng.
Nhanh lên, đóng nắp lại! Hắc ín đen ngòm sủi bọt trào ra từ các đường rãnh và khe nứt rồi nhỏ giọt xuống cỏ và chìm vào trong đất.
Jacob con đâu rồi, nói gì đi chứ.
Trên bia ghi: ABRAHAM ERZA PORTMAN.
Tôi vấp chân ngã nhào vào huyệt mộ mở toang của ông, bóng tối cuộn lên nuốt chửng lấy tôi, và tôi cứ rơi mãi vào một nơi không đáy, và rồi tôi ở đâu đó dưới lòng đất, một mình, đang lang thang qua hàng nghìn đường hầm kết nối đan vào nhau, và tôi cứ lang thang, xung quanh thật lạnh, lạnh đến nỗi tôi sợ da mình sẽ đông cứng và xương tôi sẽ gãy rời, khắp nơi đều có những con mắt vàng khè quan sát tôi từ trong bóng tối.
Tôi đi theo giọng nói của ông. Yakob, lại đây. Đừng sợ.
Đường hầm dốc lên trên và ở phía cuối có ánh sáng, và một người đàn ông trẻ đang đứng trước miệng đường hầm, bình thản đọc sách. Trông anh ta cũng giống tôi, hay gần như giống tôi, và có thể anh ta chính là tôi, tôi thầm nghĩ, nhưng sau đó anh ta lên tiếng, và đó là giọng của ông nội tôi. Ông có thứ này muốn chỉ cho cháu.
Trong giây lát tôi bật dậy bừng tỉnh trong bóng tối và biết mình đang mơ, nhưng tôi không biết mình đang ở đâu, chỉ là tôi không còn ở trên giường nữa, cũng không ở trong phòng họp với những người khác. Tôi đã đi tới một nơi khác, và căn phòng tôi đang ở chỉ toàn một màu đen, phía dưới tôi là băng, và bụng tôi đau thắt lại…
Jacob lại đây cháu đâu rồi.
Một giọng nói từ bên ngoài, phía cuối hành lang - giọng người thật, không phải từ một giấc mơ.
Và rồi tôi lại ở trong mơ, ngay bên ngoài những dây chắn của một võ đài quyền Anh, và trên võ đài, trong ánh sáng và khói mờ, ông nội tôi đang đối đầu với một con hồn rỗng.
Họ đi vòng quanh nhau. Ông nội tôi trẻ trung và nhanh nhẹn trên đôi chân mình, cởi trần, một bàn tay cầm dao. Con hồn rỗng còng xuống và vặn vẹo, những cái lưỡi của nó vung vẩy trong không khí, quai hàm há ra nhểu những giọt đen sì xuống đệm võ đài. Nó vung một cái lưỡi ra và ông nội tôi nhanh nhẹn tránh khỏi.
Đừng chống lại cơn đau, đó là chìa khóa, ông nội tôi nói. Nó đang nói với cháu một điều. Hãy chào đón nó, để nó nói với cháu. Cơn đau nói: Xin chào, tôi chẳng là ai khác ngoài cậu; tôi thuộc về hồn rỗng, nhưng tôi cũng là cậu.
Con hồn rỗng lại vung lưỡi quất ông. Ông nội tôi đã tính trước, chuẩn bị để đón nhận cú đòn. Sau đó, con hồn rỗng tấn công lần thứ ba, và ông nội tôi lao tới với con dao của mình, thế là đoạn đầu cái lưỡi đen sì của con hồn rỗng rơi xuống thảm võ đài, bị cắt đứt lìa và quằn quại vặn vẹo.
Chúng là những sinh vật ngu ngốc. Rất dễ khống chế. Hãy nói với chúng, Yakob. Và ông nội tôi bắt đầu nói, nhưng không phải bằng tiếng Anh, cũng không phải tiếng Ba Lan hay bất cứ ngôn ngữ nào tôi từng nghe thấy ngoài những giấc mơ của mình. Nghe như tiếng ga xì xì từ yết hầu, những âm thanh được tạo thành từ cái gì đó khác chứ không phải cổ họng hay khuôn miệng.
Và con quái vật không đi lại nữa, chỉ lắc lư ở nơi nó đứng, có vẻ như bị thôi miên. Vẫn tiếp tục nói thứ tiếng vô nghĩa kinh khủng của mình, ông nội tôi hạ dao xuống và rón rén lại gần nó. Ông tới càng gần, con quái vật càng trở nên ngoan ngoãn hơn, cuối cùng nó quỳ phục xuống thảm. Tôi tưởng nó sắp sửa nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi thì bất thình lình nó thoát khỏi phép thôi miên mà ông nội tôi đã áp lên nó, đoạn lao tới bằng tất cả những cái lưỡi của mình, đánh gục ông tôi. Thấy ông ngã xuống, tôi liền nhấc những sợi dây thừng chăng quanh võ đài lên và lao về phía ông, và con hồn rỗng tránh ra xa. Ông nội tôi đang nằm ngửa trên thảm, còn tôi quỳ gối xuống cạnh ông, bàn tay tôi đặt lên khuôn mặt ông, còn ông đang thì thầm gì đó với tôi, máu trào ra sủi bọt trên môi ông, tôi bèn cúi xuống sát hơn để nghe ông nói. Cháu hơn ông, Yakob, ông nói. Cháu còn hơn ông ngày xưa.
Tôi có thể cảm thấy tim ông đập chậm lại.
Và bằng cách nào đó, lắng nghe nó cho tới khi trọn một giây trôi qua giữa các nhịp đập. Rồi mười giây. Rồi…
Jacob cậu ở đâu.
Tôi lại giật mình bừng tỉnh. Lần này có ánh sáng trong phòng. Sáng rồi, chỉ mới hừng đông. Tôi đang quỳ gối trên mặt băng của căn phòng bị băng phủ kín một nửa, và bàn tay tôi không phải đang áp lên khuôn mặt ông nội mà đặt trên đỉnh đầu con hồn rỗng bị mắc kẹt, với bộ óc bò sát chậm chạp của nó. Đôi mắt nó mở to và nhìn tôi, tôi nhìn thẳng lại vào đôi mắt này. Tao thấy mày.
- Jacob! Cậu đang làm gì thế? Tớ đã tìm cậu khắp nơi!
Đó là Emma, cô hối hả gọi vào từ ngoài hành lang.
- Cậu đang làm gì thế? - cô lại hỏi. Cô không thể thấy con hồn rỗng. Không hề biết nó ở trong này. Tôi nhấc bàn tay lên khỏi đầu nó, trượt lùi ra xa.
- Tớ không biết, - tôi nói. - Tớ nghĩ mình đang mộng du.
- Không quan trọng, - cô nói. - Lại đây nhanh lên, cô Peregrine sắp biến hình!
* * *
Chen chúc trong căn phòng nhỏ là tất cả những đứa trẻ và cả những nhân vật kinh dị trong màn trình diễn phụ, tất cả đều tái nhợt và hồi hộp, áp vào tường hay phủ phục dưới sàn nhà thành một vòng rộng bao quanh hai Chủ Vòng Thời Gian, hệt như những kẻ tham dự một trận chọi gà bất hợp pháp. Emma và tôi lách vào giữa họ và thu mình vào một góc, dán mắt vào cảnh tượng sắp diễn ra. Căn phòng là một đống lộn xộn: chiếc ghế bập bênh cô Wren đã ngồi cả đêm cùng cô Peregrine giờ bị lật nghiêng sang một bên, cái bàn bày đầy những lọ và cốc có mỏ bị đẩy vào tường không chút khách khí. Althea đứng trên mặt bàn, cầm khư khư một cái lưới được buộc vào cây sào, sẵn sàng sử dụng nó.
Giữa sàn nhà là cô Wren và cô Peregrine. Cô Wren đang quỳ gối, giữ chặt cô Peregrine xuống ván sàn, hai bàn tay bà đều đi găng dày của người dạy chim ưng, người vã mồ hôi, hát khẽ bằng Cổ Ngữ Đặc Biệt, trong khi cô Peregrine kêu quang quác và cố chồm lên. Nhưng cho dù cô Peregrine có vùng lên mạnh đến cỡ nào, cô Wren cũng không buông ra.
Đến một lúc nào đó trong đêm, thông điệp nhẹ nhàng của cô Wren đã trở nên giống như một màn vật biểu diễn giữa các loài khác nhau kết hợp với lễ trừ tà. Nửa chim của cô Peregrine đã chiếm ưu thế mạnh mẽ trong bản thể của bà tới mức nó từ chối bị đuổi đi trong hòa bình. Cả hai Chủ Vòng đều đã phải chịu những vết thương nhẹ: lông của cô Peregrine  rụng khắp nơi, còn cô Wren bị một vết cào chạy dọc xuống một bên mặt. Đó là một cảnh thật đáng ngại, và nhiều đứa trẻ đã há hốc miệng vì sốc khi chứng kiến. Với đôi mắt hoang dại và hung dữ, con chim cô Wren đang ấn chặt xuống sàn là một tạo vật chúng tôi gần như không nhận ra nổi. Có vẻ thật khó tin là chuyện khôi phục lại cô Peregrine trọn vẹn như trước đây lại có thể xuất phát từ màn trình diễn bạo lực này, nhưng Althea vẫn luôn mỉm cười nhìn chúng tôi, dành cho chúng tôi những cái gật đầu động viên như thể nói: Gần được rồi, chỉ cần ghì chặt xuống sàn thêm một chút nữa thôi!
Cho dù là một bà lão gầy gò, cô Wren đã khống chế rất chắc cô Peregrine. Nhưng rồi con chim lấy mỏ mổ vào cô Wren và nắm tay cô Wren tuột ra, và bằng một cách đập cánh thật mạnh, cô Peregrine thiếu chút nữa đã thoát khỏi hai bàn tay cô Wren. Đám trẻ phản ứng bằng những tiếng la hét và tiếng kêu thảng thốt. Song cô Wren rất nhanh, bà nhổm dậy kịp thời để tóm lấy chân cô Peregrine và kéo ấn xuống ván sàn như trước, làm lũ trẻ thảng thốt kêu lên còn to hơn. Chúng tôi không quen phải thấy Chủ Vòng của mình bị đối xử kiểu này, và Bronwyn quả thực đã phải ngăn Hugh không lao vào cuộc vật lộn để bảo vệ bà.
Cả hai Chủ Vòng lúc này có vẻ đều đã kiệt sức, nhưng cô Peregrine kiệt sức hơn; tôi có thể thấy sức lực của bà giảm dần. Phần người trong bà có vẻ đang thắng thế so với phần chim.
- Cố lên, cô Wren! - Bronwyn hô to.
- Bà làm được mà, cô Wren! - Horace gọi. - Mang cô ấy trở lại với chúng cháu đi!
- Làm ơn! - Althea nói. - Chúng tôi yêu cầu im lặng tuyệt đối.
Sau một hồi lại, cô Peregrine không chống cự nữa mà nằm xòe cánh dưới sàn, há mỏ thở, lồng ngực phủ đầy lông vũ phập phồng. Cô Wren bỏ tay khỏi con chim và ngồi xổm xuống. - Việc đó sắp diễn ra rồi, - bà nói, - và khi nó diễn ra, ta không muốn ai trong các cháu lao tới đây ôm lấy bà ấy. Chủ Vòng của các cháu nhiều khả năng sẽ rất bối rối, và ta muốn khuôn mặt đầu tiên bà ấy thấy, giọng nói đầu tiên bà ấy nghe là của ta. Ta cần giải thích cho bà ấy những gì đã xảy ra.
Rồi bà đập hai bàn tay lên ngực và thì thầm:
- Trở lại với chúng tôi, Alma. Hãy trở lại, người chị em. Hãy trở lại với chúng tôi.
Althea từ trên bàn bước xuống và cầm một tấm chăn lên, giơ nó ra và giơ lên che trước cô Peregrine để chắn bà khỏi tầm mắt. Khi các Chủ Vòng từ hình dạng chim trở lại thành người, họ khỏa thân; tấm chăn là để đảm bảo không ai nhìn thấy cảnh đó.
Chúng tôi đợi trong sự căng thẳng ngạt thở, trong khi một chuỗi những âm thanh lạ lùng kế tiếp nhau vang lên từ sau tấm chăn: một tiếng không khí xì ra, một âm thanh nghe như ai đó đang vỗ tay một cái, thật mạnh, rồi cô Wren đứng bật dậy loạng choạng lùi một bước.
Trông bà có vẻ kinh hoàng - miệng há hốc, và cả Althea cũng há hốc miệng. Rồi cô Wren nói:
- Không, không thể là thế này!
Althea loạng choạng ngất xỉu, để rơi tấm chăn xuống. Và tại đó, trên sàn nhà, chúng tôi thấy một cơ thể con người, nhưng không phải của một phụ nữ.
Người đàn ông này trần truồng, cuộn tròn lại, quay lưng về phía chúng tôi. Ông ta bắt đầu cựa quậy, duỗi người ra, rồi cuối cùng đứng dậy.
- Đó là cô Peregrine sao? - Olive hỏi. - Cô ấy trở lại trông kỳ quá.
Rõ ràng là không phải. Người đứng trước mặt chúng tôi chẳng có chút tương đồng nào với cô Peregrine. Ông ta là một người đàn ông bé nhỏ còm cõi với hai đầu gối nổi cục, đầu hói và cái mũi như một cục tẩy dùng dở, và ông ta hoàn toàn trần trụi từ đầu đến chân với một lớp gel dính, trong mờ. Trong khi cô Wren há hốc miệng nhìn người đàn ông và quờ quạng với tìm thứ gì đó để bám vào, tất cả những người khác bắt đầu la lớn trong choáng váng và phẫn nộ:
- Ông là ai? Ông là ai? Ông đã làm gì cô Peregrine?
Chậm rãi, thật chậm rãi, người đàn ông đưa hai bàn tay lên mặt và lau mắt. Sau đó, ông ta mở mắt ra lần đầu tiên.
Cả hai tròng mắt đều trắng dã, vô hồn.
Tôi nghe thấy ai đó kêu thét lên.
Rồi thật bình thản, ông ta nói:
- Tên ta là Caul. Và tất cả các người giờ là tù binh của ta.
* * *
- Tù binh ư! - Người Gấp nói và bật cười. - Ý hắn là sao, chúng ta là tù binh à?
Emma hét lên với cô Wren:
- Cô Peregrine đâu rồi? Người đàn ông này là ai, và bà đã làm gì với cô Peregrine?
Cô Wren dường như đã mất khả năng nói.
Trong lúc sự bối rối của chúng tôi biến thành choáng váng và phẫn nộ, chúng tôi ào ào trút câu hỏi về phía người đàn ông bé quắt. Hắn chịu đựng chúng với vẻ hơi chán ngán, đứng giữa phòng, hai bàn tay dè dặt khum vào che chỗ kín.
- Nếu các người thực sự để ta nói, ta sẽ giải thích tất cả, - hắn nói.
- Cô Peregrine đâu? - Emma lại hét lên, run người vì phẫn nộ.
- Đừng lo, - Caul nói, - bà ta đang an toàn tại nơi giam giữ của chúng ta. Chúng ta đã bắt cóc bà ta nhiều ngày trước, trên hòn đảo của các người.
- Vậy con chim chúng tôi đã cứu lên từ tàu ngầm, - tôi nói, - đó là…
- Đó là ta, - Caul nói.
- Không thể! - cô Wren thốt lên, cuối cùng cũng nói được trở lại. - Xác sống không thể biến thành chim được!
- Về nguyên tắc chung thì đúng là thế. Nhưng Alma là chị gái ta, các người thấy đấy, và dù không đủ may mắn để được thừa kế chút tài năng khống chế thời gian nào như bà ta, ta cũng được chia sẻ hầu hết những năng lực vô dụng của chị mình - khả năng biến thành một con chim săn mồi bé nhỏ xấu xa. Ta đã làm khá tuyệt khi vào vai bà ta, các người không nghĩ thế sao? - Và hắn hơi cúi chào. - Bây giờ, ta có thể phiền các người tìm giúp một cái quần được không? Các người bắt gặp ta trong tình thế thật bất lợi cho ta.
Lời yêu cầu của hắn bị lờ đi. Trong khi đó, đầu tôi quay cuồng. Tôi nhớ từng có lần cô Peregrine nói bà có hai em trai - thực ra tôi đã thấy ảnh của họ, khi cả ba chị em còn đang được cô Avocet nuôi dạy. Rồi tôi nhớ lại những ngày chúng tôi đã trải qua cùng con chim chúng tôi tin là cô Peregrine; tất cả những gì chúng tôi đã trải qua, mọi thứ chúng tôi đã thấy. Cô Peregrine bị nhốt trong lồng mà Golan đã ném xuống đại dương - đó là người thật, trong khi con chim chúng tôi “cứu” lên lại là em trai bà. Giờ thì những điều tàn nhẫn cô Peregrine đã làm gần đây trở nên sáng tỏ - đó không phải là cô Peregrine - song tôi vẫn còn đến cả triệu câu hỏi.
- Suốt thời gian đó, - tôi nói. - Tại sao ông lại giữ nguyên hình chim? Chỉ để theo dõi chúng tôi sao?
- Mặc dù quãng thời gian dài quan sát cuộc cãi vã trẻ con của chúng mày phải nói là đáng kinh ngạc một cách không thể chối cãi, ta đúng là còn hy vọng chúng mày có thể giúp ta một việc chưa hoàn tất. Khi chúng mày giết đám người của ta ở vùng nông thôn, ta rất ấn tượng. Chúng mày đã chứng tỏ bản thân khá biết xoay xở. Tất nhiên, thuộc hạ của ta đã có thể ập tới và bắt chúng mày vào bất cứ lúc nào sau đó, nhưng ta nghĩ tốt hơn hãy để chúng mày được tung tăng tự do một thời gian để xem biết đâu sự khôn ngoan của chúng mày lại dẫn bọn ta tới chỗ Chủ Vòng duy nhất liên tục thành công thoát khỏi tay bọn ta.
Nói tới đây, hắn quay sang cô Wren và cười hết cỡ.
- Xin chào, Balenciaga. Thật vui lại được gặp bà.
Cô Wren rên lên và đưa bàn tay phẩy phẩy quạt cho mình.
- Lũ ngốc, lũ đần độn, lũ ngớ ngẩn! - ông hề gắt lên. - Các cô cậu đã dẫn chúng tới thẳng chỗ chúng tôi!
- Và như một món phụ trội thú vị, - Caul nói, - bọn ta đã ghé thăm cả trại động vật của bà nữa! Người của ta tới đó không lâu sau khi ta và lũ nhóc rời đi; những cái đầu nhồi rơm của con bán lừa cao cổ và con chó boxer đó trông sẽ thật tuyệt vời trên nóc lò sưởi của ta.
- Đồ quái vật! - cô Wren rít lên, và bà bật lùi tựa vào bàn, đôi chân không còn đứng vững nữa.
- Ôi, con chim của tôi! - Bronwyn kêu lên, mắt mở to. - Fiona và Claire!
- Mày sẽ sớm gặp lại chúng thôi, - Caul nói. - Ta đã giam chúng cẩn thận.
Tất cả bắt đầu sáng tỏ một cách khủng khiếp. Caul biết rằng hắn sẽ được chào đón tới trại động vật của cô Wren khi đóng giả cô Peregrine, và khi bà Chủ Vòng không có nhà để bị bắt, hắn thúc đẩy chúng tôi lần theo bà, tới London. Theo nhiều cách, chúng tôi đã bị thao túng ngay từ đầu - từ khoảnh khắc chúng tôi lựa chọn rời hòn đảo và tôi lựa chọn đi cùng mọi người. Thậm chí cả câu chuyện hắn chọn để Bronwyn đọc trong suốt buổi tối đầu tiên trong rừng về người khổng lồ hóa đá cũng là một thủ đoạn thao túng. Hắn muốn chúng tôi tìm ra Vòng Thời Gian của cô Wren, trong khi chúng tôi cứ nghĩ chính mình đã giải mã ra bí mật về nó.
Những ai không choáng váng lùi lại vì kinh hoàng trong chúng tôi thì cũng sôi lên phẫn nộ. Một số người la lên cần giết Caul, và hối hả tìm kiếm các đồ vật sắc nhọn để làm việc này, trong khi số ít còn giữ được bình tĩnh cố gắng ngăn họ lại. Trong suốt thời gian đó, Caul đứng bình thản, đợi cho cơn kích động lắng xuống.
- Ta nói được chứ? - hắn lên tiếng. - Ta không hoan nghênh bất cứ ý tưởng nào về chuyện giết ta. Các người có thể, tất nhiên; chẳng ai ngăn được các người. Nhưng sẽ dễ dàng cho các người hơn nhiều nếu ta không bị tổn thương khi thuộc hạ của ta tới. - Hắn làm bộ xem giờ từ một cái đồng hồ đeo tay không hề tồn tại trên cổ tay mình. - À phải, - hắn nói, - giờ thì chúng phải ở đây rồi - phải rồi, khoảng lúc này - bao vây tòa nhà, kiểm soát mọi lối ra có thể, kể cả mái nhà. Và ta muốn nói thêm là chúng có năm mươi sáu người, và tất cả đều được vũ trang đến tận răng. Quá cả răng nữa. Các người đã bao giờ thấy một khẩu pháo cỡ nhỏ có thể làm gì với một thân thể trẻ con chưa? - Hắn nhìn thẳng vào Olive và nói, - Nó sẽ biến mày thành thịt băm, bé yêu.
- Ông đang nói khoác! - Enoch nói. - Chẳng có ai ngoài kia cả!
- Ta cam đoan với các người là có đấy. Họ đã theo dõi ta sát sao kể từ khi chúng ta rời khỏi hòn đảo bé tẹo chán ngắt của chúng mày, và ta đã ra tín hiệu cho họ ngay thời điểm Balenciage lộ diện trước chúng ta. Lúc đó là cách đây mười hai giờ - quá đủ thời gian để tập hợp một lực lượng tấn công.
- Cho phép tôi xác nhận chuyện này, - cô Wren nói, và bà rời khỏi phòng để tới chỗ phòng họp của các Chủ Vòng, các cửa sổ ở đó bị băng bịt kín chủ yếu từ bên ngoài, và vài ô cửa có những đường hầm như ống kính viễn vọng được đục chảy qua khối băng được gắn gương cho phép chúng tôi nhìn xuống đường phố bên dưới.
Trong lúc chờ đợi bà quay lại, ông hề và cô gái thôi miên trăn tranh cãi cách tốt nhất để tra tấn Caul.
- Theo tôi chúng ta nên nhổ các móng chân hắn ra trước tiên, - ông hề nói. - Sau đó gí que cời lò nung nóng vào mắt hắn.
- Ở nơi tôi đến, - cô gái thôi miên trăn nói, - hình phạt cho kẻ phản bội là bôi mật ong lên kín người, trói vào một cái thuyền không mui, và thả xuống một ao nước tù. Lũ ruồi sẽ ăn sống nuốt tươi kẻ đó.
Caul đứng bẻ cổ từ bên này qua bên kia và duỗi dài hai cánh tay với vẻ buồn chán.
- Xin lỗi nhé, - hắn nói. - Phải làm một con chim quá lâu thường làm cơ bắp bị gò bó.
- Mày nghĩ bọn tao đang đùa chắc? - ông hề nói.
- Ta nghĩ các người là đồ nghiệp dư, - Caul nói. - Nếu các người tìm ra vài mầm măng, ta có thể chỉ cho các người thấy một thứ thực sự tồi tệ. Cho dù thứ băng này có vẻ thú vị, nhưng ta thực lòng đề xuất các người tránh khỏi nhiều phiền toái. Ta nói vậy là vì các người, vì chân thành quan tâm tới sự an lành của các người.
- Phải rồi, - Emma nói. - Các ông quan tâm đến thứ gì mà đánh cắp linh hồn của những người đặc biệt đó?
- À phải. Ba nhà tiên phong. Sự hy sinh của họ là cần thiết - tất cả vì sự tiến bộ, cô em thân mến ạ. Điều bọn ta đang cố gắng làm là giúp các giống loài đặc biệt tiến bộ, cô em thấy đấy.
- Thật là trò đùa, - cô nói. - Các người chẳng là gì ngoài những kẻ thèm khát quyền lực bệnh hoạn!
- Ta biết tất cả chúng mày đều quá được bao bọc và thiếu dạy dỗ, - Caul nói, - nhưng chẳng lẽ các Chủ Vòng của chúng mày không dạy chúng mày về lịch sử loài người sao? Những người đặc biệt chúng ta từng giống như các vị thần tung hoành trên trái đất! Những người khổng lồ - các vị vua - những người cai trị chân chính của thế giới! Nhưng theo các thế kỷ và thiên niên kỷ, chúng ta phải chịu đựng sự suy thoái khủng khiếp. Chúng ta hòa lẫn với người bình thường tới mức độ mà dòng máu thuần đặc biệt của chúng ta đã bị pha loãng đi tới độ gần như chẳng còn gì. Và giờ hãy nhìn lại chúng ta xem, chúng ta đã trở nên suy thoái đến thế nào! Chúng ta ẩn trốn trong những xó xỉnh tạm bợ như thế này, sợ hãi chính lũ người chúng ta đáng lẽ cai trị, bị chững lại ở một trạng thái trẻ con vĩnh viễn bởi hội đồng những kẻ bao biện này - những người đàn bà này! Chúng mày không thấy họ đã hạ thấp chúng ta thế nào sao? Chúng mày không thấy nhục nhã sao? Chúng mày liệu có ý thức được về quyền lực đáng lẽ phải thuộc về chúng ta không? Chẳng lẽ chúng mày không cảm thấy dòng máu của những người khổng lồ đang chảy trong huyết quản mình?
Lúc này hắn đã đánh mất vẻ dửng dưng, khuôn mặt trở nên đỏ lựng.
- Bọn ta không phải đang tìm cách xóa sổ thế giới người đặc biệt - bọn ta đang tìm cách cứu nó!
- Có đúng thế không? - ông hề nói, rồi bước tới trước Caul và nhổ thẳng vào mặt hắn. - Vậy đấy, chúng mày có một cách làm điều đó thật quái gở.
Caul dùng mu bàn tay chùi bãi nhổ.
- Ta biết nói lý với các người sẽ chỉ vô ích. Đám Chủ Vòng đã nhồi nhét những lời dối trá và tuyên truyền cho các người trong suốt cả trăm năm qua. Ta nghĩ tốt hơn nên rút lấy linh hồn của các người và bắt đầu lại từ đầu.
Cô Wren quay trở lại.
- Hắn nói thật, - bà nói. - Chắc phải có tới năm mươi tên lính ngoài kia. Tất cả đều có vũ khí.
- Ôi, ôi, ôi, - Bronwyn rên lên, - chúng ta làm gì đây?
- Bỏ cuộc, - Caul nói. - Lặng lẽ rồi đi.
- Chúng có bao nhiêu gã ngoài kia cũng không quan trọng, - Althea nói. - Chúng sẽ không bao giờ vượt qua được khối băng của tôi.
Khối băng! Tôi đã gần như quên bẵng mất. Chúng tôi đang ở trong một pháo đài băng!
- Đúng thế! - Caul hân hoan nói. - Cô bé hoàn toàn đúng, chúng không thể tiến vào. Vì thế sẽ có một cách nhanh chóng, không đau đớn để giải quyết chuyện này, đó là các người tự làm tan băng ngay bây giờ, hoặc là sẽ có một cách lâu dài, bướng bỉnh, chậm chạp, chán ngắt và buồn thảm, được gọi là một cuộc vây hãm, theo đó trong nhiều tuần, nhiều tháng, người của ta sẽ đứng canh bên ngoài trong khi chúng ta ở đây, lặng lẽ đói lả dần đến chết. Có lẽ các người sẽ bỏ cuộc khi đã đủ tuyệt vọng và đói. Hoặc có thể các người sẽ bắt đầu ăn thịt lẫn nhau. Dù thế nào đi nữa, nếu người của ta phải đợi lâu đến thế, khi xông được vào, chúng sẽ tra tấn tất cả các người đến chết cho đến kẻ cuối cùng, điều đó thì kiểu gì chúng cũng sẽ làm được. Và nếu bọn ta buộc phải thực hiện theo cách chậm chạp, chán ngắt và buồn thảm, thì hãy làm ơn, vì lũ trẻ, mang tới cho ta một cái quần.
- Althea, tìm một cái quần chết tiệt nào đó cho hắn! - cô Wren nói. - Nhưng không được phép, trong bất cứ hoàn cảnh nào, làm chảy khối băng này!
- Vâng, thưa cô, - Althea đáp, và cô đi ra ngoài.
- Bây giờ, - cô Wren quay sang Caul và nói. - Đây là những gì chúng ta sẽ làm. Ngươi bảo thuộc hạ của mình để chúng ta an toàn rời khỏi đây, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi. Nếu chúng ta phải làm thế, ta cam đoan với ngươi chúng ta sẽ làm, và chúng ta sẽ ném cái xác thối tha của ngươi ra qua một cái hố đục qua băng, mỗi lần một miếng. Mặc dù ta tin chắc thuộc hạ của ngươi sẽ không thích chuyện đó cho lắm, nhưng chúng ta sẽ có rất nhiều thời gian để cân nhắc bước hành động tiếp theo của mình.
Caul nhún vai và nói:
- Ồ, được thôi.
- Thật sao? - cô Wren hỏi.
- Ta cứ nghĩ ta có thể dọa được bà, - hắn nói, - nhưng bà nói đúng, ta thích không bị giết hơn. Vậy hãy đưa ta tới một trong những cái hố đục qua băng, và ta sẽ làm như bà đã yêu cầu, ra lệnh xuống cho người của ta.
Althea quay lại cầm theo một cái quần và ném nó cho Caul, y liền mặc nó vào. Cô Wren chỉ định Bronwyn, ông hề và Người Gấp áp giải Caul, trang bị cho họ những trụ băng gãy làm vũ khí. Với các mũi nhọn của trụ băng chĩa vào lưng hắn, chúng tôi tiến ra ngoài hành lang. Nhưng khi chúng tôi đang chen chúc dồn cục lại để đi qua phòng làm việc tối om dẫn sang phòng họp của các Chủ Vòng thì tai họa xảy ra. Ai đó vấp chân vào một tấm thảm trải sàn và ngã sụp xuống, rồi tôi nghe thấy tiếng xô đẩy vang lên trong bóng tối. Emma thắp một ngọn lửa lên vừa đúng lúc thấy Caul túm tóc lôi Althea rời xa khỏi chúng tôi. Cô gái vùng vẫy đấm đá trong khi Caul kề một trụ băng nhọn hoắt vào cổ cô và hét lên:
- Lùi lại, nếu không tao sẽ đâm cái này xuyên qua cổ con nhóc!
Chúng tôi đi theo Caul từ một khoảng cách an toàn. Hắn lôi Althea đang không ngừng quẫy đạp vào phòng họp, rồi lôi cô lên cái bàn bầu dục, tại đó hắn ghì chặt lấy Althea, trụ băng kề sát sạt vào mắt cô gái và hét lên:
- Đây là những yêu cầu của tao!
Tuy nhiên, hắn chưa kịp đi xa hơn, Althea đã đánh bật trụ băng khỏi tay hắn. Trụ băng bay đi và cắm phập đầu nhọn xuống các trang của tập Bản đồ Các Ngày. Trong khi mồm hắn còn nguyên hình chữ O vì kinh ngạc, bàn tay Althea đã đập thẳng vào đằng trước quần của hắn, và chữ O há rộng ra nhăn nhó vì choáng váng.
- Xông lên! - Emma hét to, rồi cô cùng tôi và Bronwyn lao về phía họ, băng qua các cánh cửa gỗ. Nhưng khi chúng tôi chạy, khoảng cách phải băng qua trong căn phòng rộng đó dường như vươn dài ra, và chỉ trong vài giây cuộc đấu giữa Althea và Caul đã xoay sang một chiều hướng mới: Caul buông Althea ra và ngã vật xuống bàn, hai cánh tay hắn duỗi ra cố với lấy trụ băng. Althea ngã theo hắn ôm chặt lấy đùi hắn - và một lớp băng đang lan ra nhanh chóng trên nửa dưới người Caul, làm hắn tê liệt từ hông trở xuống, và làm hai bàn tay Althea đông cứng vào chân hắn. Hắn đã móc được một ngón tay quanh trụ băng, rồi cả bàn tay, và vừa rên lên vì nỗ lực và đau đớn, hắn vừa rút nó ra khỏi tập Bản đồ và xoay nửa trên người đi cho tới khi chĩa được mũi nhọn của trụ băng xuống trên lưng Althea. Hắn hét lên bảo cô bé dừng lại, buông hắn ra và làm tan băng, nếu không hắn sẽ đâm nó vào cô.
Lúc này chúng tôi chỉ còn cách họ vài mét, nhưng Bronwyn túm lấy Emma và tôi rồi giữ chúng tôi lại.
Caul gào lên:
- Dừng lại! Dừng trò này lại!
Trong khi khuôn mặt hắn méo mó vì đau đớn, lớp băng ào ào lan tới trên ngực hắn, trùm lên vai hắn. Chỉ trong vài giây nữa thôi, hai cánh tay và bàn tay hắn cũng sẽ bị đóng băng. Althea đã không dừng lại.
Và rồi Caul ra tay - hắn đâm trụ băng vào lưng cô bé. Cô gái cứng người lại vì sốc, rồi thét lên. Cô Wren chạy tới chỗ họ, gọi to tên Althea trong khi lớp băng đã bao trùm phần lớn cơ thể Caul bắt đầu rút lại rất nhanh. Khi cô Wren tới chỗ họ, hắn gần như đã hoàn toàn thoát khỏi nó, Nhưng rồi băng ở khắp nơi cũng tan ra - co lại rồi biến mất cũng nhanh như tính mạng Althea - băng trên tầng áp mái tan ra chảy giọt xuống rồi trút như mưa qua trần nhà trong khi máu của chính Althea chảy xuống cơ thể cô. Lúc này cô bé đang nằm trong vòng tay cô Wren, yếu ớt, lả dần.
Bronwyn lao lên bàn, một bàn tay cô chộp lấy cổ Caul, món vũ khí của hắn bị bóp vụn thành tuyết trong bàn tay còn lại của cô. Chúng tôi có thể nghe thấy băng ở các tầng nhà bên dưới mình cũng đang chảy ra, sau đó băng biến mất khỏi các cửa sổ. Chúng tôi ùa tới nhìn ra ngoài, và có thể thấy nước ào ào tuôn từ các cửa sổ thấp hơn ra phố, ngoài đó, những tên lính mặc quân phục ngụy trang tác chiến đô thị màu xám đang bám vào các trụ đèn và trụ nước cứu hỏa để khỏi bị dòng nước lạnh buốt cuốn trôi.
Sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng ủng của chúng nện rầm rầm trên cầu thang bên dưới và lao xuống từ nóc nhà phía trên đầu, và chỉ lát sau chúng ùa vào với súng trên tay, quát tháo la hét. Một số trong đám lính mang kính nhìn đêm đeo trên đầu, và tất cả chúng đều có vũ khí đầy người - những khẩu súng máy gọn nhẹ, súng ngắn có kính ngắm bắn laser, dao găm cận chiến. Cần đến ba tên trong bọn chúng để lôi Bronwyn ra khỏi Caul, hắn khò khè phều phào qua cổ họng thiếu chút nữa bị bóp nát:
- Lôi chúng đi, và không cần phải nhẹ tay!
Cô Wren la lớn, cầu xin chúng tôi tuân lệnh - “Hãy làm như chúng nói nếu không chúng sẽ làm hại các cháu đấy!” - nhưng bà không chịu buông Althea ra, vậy là đám lính lấy bà làm gương; chúng giật Althea ra và đá cô Wren ngã lăn ra sàn, và một tên lính bắn khẩu súng ngắn liên thanh lên trần để dọa chúng tôi. Khi tôi thấy Emma sắp tạo ra một quả cầu lửa bằng hai bàn tay cô, tôi chộp lấy tay cô và khẩn khoản bảo cô không nên làm vậy - “Đừng, làm ơn đừng, chúng sẽ giết cậu mất!” - rồi một báng súng nện vào ngực tôi, làm tôi ngã vật ra sàn, há hốc miệng hổn hển. Một gã lính bẻ quặt hai bàn tay tôi ra sau lưng rồi trói lại.
Tôi nghe thấy chúng đếm, Caul đọc tên từng người trong chúng tôi, đảm bảo cả Millard cũng bị bắt - bởi vì tất nhiên vào lúc này, sau khi đã trải qua ba ngày vừa qua với chúng tôi, hắn đã biết tất cả chúng tôi, biết mọi thứ về chúng tôi.
Tôi bị lôi dậy, và tất cả chúng tôi bị đẩy qua các cánh cửa ra hành lang. Loạng choạng bước đi cạnh tôi là Emma, mái tóc dính máu, tôi bèn thì thầm, “Làm ơn hãy chỉ làm những gì chúng bảo”, và dù cô không thừa nhận, tôi biết cô nghe tôi. Vẻ mặt cô đầy ắp phẫn nộ, sợ hãi và choáng váng - và tôi nghĩ cả thương hại nữa, cho tất cả những gì tôi vừa để tuột mất khỏi tay mình.
Trong giếng cầu thang, các sàn nhà và bậc cầu thang phía dưới trở thành một dòng sông nước sủi bọt trắng, một dòng xoáy của những con sóng dồn đuổi nhau. Bên trên là lối ra duy nhất. Chúng tôi bị xô leo lên cầu thang, qua một cánh cửa và bước vào ánh sáng ban ngày chói chang, trên mái nhà. Tất cả đều ướt, lạnh cóng, bị nỗi kinh hoàng làm cho im bặt.
Tất cả trừ Emma.
- Các người đang đưa chúng tôi đi đâu? - cô hỏi.
Caul tới cạnh cô, nhăn nhở cười thẳng vào mặt cô trong khi một gã lính giữ lấy hai bàn tay cô đang bị còng ra sau lưng.
- Một nơi rất đặc biệt, - Caul nói, - nơi sẽ không có một giọt linh hồn đặc biệt nào của các người bị lãng phí.
Emma nao núng, hắn liền phá lên cười rồi quay đi, vươn hai cánh tay lên quá đầu và ngáp. Từ vai hắn nhô ra hai khối mấu lồi, trông như gốc của những cái cánh bị cắt bỏ: dấu hiệu bên ngoài duy nhất cho hay kẻ xảo trá này có quan hệ với một Chủ Vòng Thời Gian.
Những tiếng hét vang lên từ một tòa nhà khác. Thêm nhiều gã lính nữa. Chúng đang bắc một cây cầu rút qua giữa các mái nhà.
- Thế còn con bé đã chết thì sao? - một gã lính hỏi.
- Thật tiếc, đúng là lãng phí, - Caul tặc lưỡi nói. - Ta những muốn ăn tối bằng linh hồn của nó. Bản thân món linh hồn đặc biệt cũng chẳng có vị gì, - hắn nói, hướng về chúng tôi. - Thành phần tự nhiên của nó quả thực hơi sền sệt và nhão nhoét, nhưng nếu đánh trộn lên với một chút xíu sốt remoulade rồi phết lên thịt trắng thì cũng khá ngon.
Rồi hắn phá lên cười thật to một hồi lâu. Trong lúc chúng giải chúng tôi đi, từng người một, qua cây cầu rút, tôi cảm thấy cơn quặn thắt quen thuộc trong bụng - rất nhẹ nhưng đang mạnh dần lên, còn chậm nhưng đang nhanh dần lên - con hồn rỗng - lúc này đã thoát khỏi đống băng, đang chậm rãi sống lại.
* * *
Mười gã lính lăm lăm súng giải chúng tôi ra khỏi Vòng Thời Gian, đi qua các căn lều lễ hội và khu trình diễn phụ cũng như những người đi dự lễ hội đang há hốc miệng ngạc nhiên, đi xuống các đường hẻm đầy những thỏ với những gian hàng và người bán hàng, những đứa trẻ đầu đường xó chợ tròn mắt nhìn theo chúng tôi, vào phòng cải trang, đi qua đống quần áo chúng tôi đã vứt bỏ lại, rồi xuống đường hầm tàu điện ngầm. Đám lính thúc chúng tôi đi, cáu gắt quát chúng tôi giữ im lặng (cho dù suốt nhiều phút chẳng ai hé lấy một lời), giữ đầu cúi xuống và đi theo hàng không thì sẽ bị nện bằng súng.
Caul không còn đi cùng chúng tôi - hắn đã ở lại sau cùng phần đông đám lính để “dọn dẹp”, theo tôi thì có nghĩa là lùng sục trong Vòng Thời Gian để tìm bắt những người đang lẩn trốn và lạc mất. Lần cuối cùng, chúng tôi thấy, hắn đang xỏ chân vào một đôi ủng kiểu dáng hiện đại và mặc trên người một chiếc áo khoác quân đội, hắn bảo đã chán ngấy khuôn mặt của chúng tôi nhưng sẽ gặp chúng tôi “ở phía bên kia”, cũng chẳng biết nghĩa là gì.
Chúng tôi đi ngang qua chỗ thời gian dịch chuyển, và lại tiến lên theo dòng thời gian - nhưng không phải tới chỗ nào đó kiểu như những đường hầm tôi đã quen. Các thanh ray và tà vẹt giờ đều bằng kim loại, và ánh sáng trong hầm cũng khác, không còn là bóng đèn sợi đốt đỏ quạch mà là những bóng đèn huỳnh quang nhấp nháy tỏa ra thứ ánh sáng xanh lục nhợt nhạt. Sau đó, chúng tôi chui ra khỏi đường hầm, tới ke ga, và tôi hiểu ra lý do: chúng tôi không còn ở thế kỷ mười chín, thậm chí không còn ở thế kỷ hai mươi. Đám đông người lánh nạn tìm nơi trú ẩn giờ đã biến mất; nhà ga gần như vắng tanh. Cầu thang xoáy trôn ốc chúng tôi từng dùng để đi xuống đã biến mất, được thay thế bằng một thang máy. Một màn hình LED có chữ điện tử chạy cuốn treo phía trên ke ga: THỜI GIAN TỚI CHUYẾN TIẾP THEO: 2 PHÚT. Trên tường là tấm áp phích giới thiệu một bộ phim tôi vừa xem mùa hè vừa rồi, ngay trước khi ông nội tôi qua đời.
Chúng tôi đã để năm 1940 ở lại sau lưng. Tôi đã trở lại hiện đại.
Vài đứa trẻ nhận ra điều này với vẻ mặt ngạc nhiên và sợ hãi, như thể sợ rằng họ sẽ già đi chỉ sau vài phút, nhưng với phần lớn trong số họ, tôi nghĩ cú sốc do bất ngờ bị bắt sẽ không giảm sút bởi một chuyến đi không trông đợi tới hiện tại; họ đang lo bị rút mất linh hồn chứ không phải sợ tóc bạc đi hay da có đốm đồi mồi.
Đám lính dồn chúng tôi lại giữa ke ga để đợi tàu. Tiếng giày bước đi nặng nề vang lên hướng về phía chúng tôi. Tôi đánh liều ngoái lại liếc nhìn và thấy một cảnh sát đi tới. Đằng sau ông ta, vừa bước ra khỏi thang máy, còn có ba người nữa.
- Này! - Enoch la lên. - Cảnh sát, lại đây!
Một gã lính đấm vào bụng Enoch, cậu ta gập móp người lại.
- Ở đây mọi thứ ổn chứ? - người cảnh sát ở gần nhất hỏi.
- Họ bắt chúng cháu! - Bronwyn nói. - Họ không phải là lính thật sự, họ là…
Và rồi cô cũng bị nện vào bụng, dù cú đánh có vẻ không hề khiến cô đau. Điều khiến cô dừng lại không nói thêm nữa chính là gã cảnh sát gỡ cặp kính râm mắt to ra để lộ đôi mắt trắng dã vô hồn. Bronwyn co mình lại.
- Một chút lời khuyên đây, - gã cảnh sát nói. - Không ai tới giúp chúng mày đâu. Người của bọn ta ở khắp nơi. Chấp nhận điều đó đi, như vậy sẽ dễ dàng hơn cho tất cả mọi người.
Những người bình thường bắt đầu vào ga đông dần. Đám lính kẹp chặt lấy chúng tôi từ mọi phía, giữ vũ khí của chúng giấu kín.
Một đoàn tàu xì xì lao vào ga, đông chật người. Những cánh cửa điện xịch mở, và một dòng hành khách úa ra. Đám lính bắt đầu đẩy chúng tôi về phía toa tàu gần nhất, mấy gã cảnh sát đi trước xua mấy người hành khách còn lại trong toa ra.
- Tìm toa khác đi! - chúng gắt gỏng. - Ra ngoài!
Mấy hành khách cằn nhằn nhưng liền làm theo. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người đằng sau chúng tôi trên ke ga đang cố gắng chui vào toa, và vài gã trong đám lính vốn quây kín quanh chúng tôi buộc phải tách ra để chặn họ lại. Và lúc đó vừa khéo có đủ sự hỗn loạn - người ta tìm cách đóng những cánh cửa lại nhưng mấy gã cảnh sát giữ chúng mở cho tới khi còi báo động bắt đầu reo; đám lính xô đẩy chúng tôi tới trước mạnh đến mức làm Enoch trượt chân, khiến những đứa trẻ khác vấp chân vào cậu ta như một phản ứng dây chuyền - thế là Người Gấp, với hai cổ tay quá gầy tới mức đã có thể tháo được còng ra, quyết định thoát khỏi nó và chạy đi.
Một phát súng vang lên, rồi phát súng thứ hai, và Người Gấp loạng choạng đổ nhào xuống đất. Đám đông dạt ra trong cơn hoảng loạn, người ta la hét, giẫm đạp lên nhau để tránh khỏi đường đạn, và tình thế từ chỗ vốn chỉ lộn xộn đã trở thành một màn hỗn loạn cực độ.
Sau đó, chúng xô đẩy, đấm đá dồn chúng tôi lên tàu. Bên cạnh tôi, Emma đang chống cự, khiến gã lính đẩy cô lại gần. Thế rồi tôi thấy hai bàn tay bị còng của cô lóe sáng màu cam, và cô đưa tay ra sau chộp lấy hắn. Gã lính ngã lăn ra đất, gào thét, một cái lỗ hình bàn tay đã cháy thấu qua bộ đồ ngụy trang của gã. Sau đó, gã lính đang đẩy tôi vung báng súng của hắn lên và đang chực nện nó xuống cổ Emma thì một bản năng trỗi dậy trong tôi, tôi liền huých vai vào lưng hắn.
Hắn loạng choạng.
Emma nung chảy còng của cô, nó rơi xuống khỏi tay cô như một đống kim loại méo mó nóng đỏ. Gã lính giám sát tôi lúc này quay súng chĩa vào tôi, gầm lên tức tối, nhưng hắn chưa kịp bắn, Emma đã xông tới từ phía sau và chụp hai bàn tay vào hai bên mặt hắn, các ngón tay cô nóng tới mức chúng ngập vào hai má hắn như lướt qua bơ mềm. Gã lính buông rơi súng và đổ sập xuống, gào rú.
Tất cả chuyện này diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng vài giây.
Tiếp theo, thêm hai gã lính xông tới chúng tôi. Lúc này gần như tất cả những người khác đã ở trên tàu - ngoại trừ Bronwyn và hai anh em mù, vốn chưa lúc nào bị còng tay và lúc này chỉ đang đứng lồng tay vào nhau. Thấy chúng tôi sắp bị bắn chết, Bronwyn làm một điều tôi không bao giờ có thể hình dung nổi cô sẽ làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào: cô tát mạnh vào mặt cậu anh, rồi tóm lấy cậu em và thô bạo lôi mạnh khỏi cậu anh.
Vào khoảnh khắc mối liên hệ giữa họ bị cắt đứt, hai anh em bật lên một tiếng thét dữ dội tới mức nó tạo thành một cơn cuồng phong. Cơn cuồng phong lao qua nhà ga đầy uy lực - thổi bạt Emma và tôi lại đằng sau, đánh vỡ kính của đám lính, âm thanh gần như vượt quá tần số đôi tai tôi nghe được, khiến cho tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là một tiếng rít chói tai Eeeeeeee…
Tôi nhìn thấy tất cả các ô cửa sổ của đoàn tàu vỡ tung, và các màn hình LED tan tành thành mảnh sắc như dao, còn những bóng đèn ống bằng thủy tinh chạy dọc nóc nổ tan tành, khiến chúng tôi chìm vào màn đêm tối đen như mực trong khoảnh khắc, sau đó những ánh đỏ nhấp nháy cuồng loạn của đèn báo khẩn cấp bật sáng.
Tôi đã bị ngã ngửa ra, không khí như bị ép hết ra khỏi phổi, đôi tai tôi ong ong. Có thứ gì đó đang nắm lấy cổ áo kéo tôi lùi lại, cách xa khỏi đoàn tàu, và tôi không còn biết làm thế nào nhúc nhích tay chân mình để cưỡng lại. Dưới tiếng ong ong trong tai, tôi có thể phân biệt được những giọng nói gấp gáp đang la lên. “Đi, đi mau!”
Tôi cảm thấy thứ gì đó lành lạnh ươn ướt áp vào sau gáy mình, rồi tôi bị lôi vào trong một buồng điện thoại. Emma cũng ở đó, khoanh tròn trong góc, nửa bất tỉnh.
- Co chân lên, - tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc nhắc mình, và một tạo vật lông lá lùn tịt với cái mõm tẹt và quai hàm bành bạnh từ đằng sau tôi lon ton chạy tới.
Là con chó. Addison.
Tôi thu chân vào trong buồng điện thoại, tôi đã đủ tỉnh táo trở lại để cử động, nhưng chưa nói được.
Điều cuối cùng tôi thấy trong ánh đèn đỏ quạch chập chờn ma quái là cô Wren bị đẩy lên toa tàu và những cánh cửa đóng sập lại, và tất cả các bạn tôi đang ở bên trong cùng với bà, co ro trước họng súng, bị đóng khung lại bởi những ô cửa sổ tàu đã vỡ hết kính, bị những kẻ có đôi mắt trắng dã vây quanh.
Rồi đoàn tàu rầm rầm chuyển bánh lao vào bóng tối, và mất hút.
* * *
Tôi giật mình tỉnh dậy vì một cái lưỡi đang liếm lên mặt mình.
Con chó.
Cửa buồng điện thoại đã bị đóng lại, và ba chúng tôi đang co quắp chen chúc dưới sàn ở bên trong.
- Cậu đã bị ngất, - con chó nói.
- Chúng đi rồi, - tôi nói.
- Phải, nhưng chúng ta không thể ở lại đây. Chúng sẽ quay lại tìm cậu. Chúng ta phải đi.
- Tôi nghĩ tôi chưa đứng dậy được đâu.
Con chó bị một vết rách trên mũi, và mất một miếng to ở một bên tai. Cho dù đã làm những gì để tới đây, nó hẳn cũng đã phải trải qua địa ngục.
Tôi cảm thấy cái gì đó rung rung cọ cọ vào chân, nhưng quá mệt để nhìn xem đó là gì. Đầu tôi đang nặng như đá tảng.
- Đừng có ngủ lại nữa, - con chó nói, rồi nó quay sang Emma và bắt đầu liếm mặt cô.
Lại cảm giác rung rung đó. Lần này tôi nhích người với tay lần tới chỗ nó.
Đó là chiếc điện thoại di động của tôi. Điện thoại của tôi đang rung. Tôi không thể tin nổi chuyện này. Tôi moi nó ra khỏi túi quần. Pin đã gần hết, tín hiệu gần như không có. Màn hình hiện dòng chữ: BỐ (177 CUỘC GỌI NHỠ).
Nếu không phải đang choáng váng đến thế, nhiều khả năng tôi đã không trả lời. Vào bất cứ lúc nào một gã đàn ông lăm lăm súng trong tay cũng có thể tới kết liễu chúng tôi. Không phải là thời điểm hay cho một cuộc trò chuyện với bố. Nhưng lúc này tôi suy nghĩ không được tỉnh táo, và mỗi lần điện thoại đổ chuông, phản xạ không điều kiện hình thành từ lâu của tôi là nhận máy.
Tôi bấm nút TRẢ LỜI. “A lô?”
Một tiếng khóc nấc nghẹn vang lên ở đầu bên kia. Sau đó:
- Jacob? Có phải con đấy không?
- Là con đây.
Nghe giọng tôi hẳn phải thảm hại lắm. Một tiếng khàn khàn yếu ớt.
- Ôi, Chúa ơi, ôi, Chúa ơi. - bố tôi nói.
Ông đã không trông đợi tôi trả lời, có khi còn tưởng tôi chết rồi và lúc này ông chỉ gọi vì một phản ứng bản năng do đau khổ mà ông không thể từ bỏ được.
- Bố không… con đã ở đâu… chuyện gì đã xảy ra… con đang ở đâu, con trai?
- Con ổn cả, - tôi nói. - Con còn sống. Ở London.
Tôi không biết vì sao tôi lại nói với ông câu cuối cùng. Tôi đoán vì tôi cảm thấy mình nợ ông một chút sự thật. Thế rồi có vẻ như bố tôi quay đầu khỏi ống nghe để gọi to với ai đó:
“Là Jacob! Nó ở London!”.
Rồi ông quay lại với tôi:
- Bố mẹ còn tưởng con chết rồi.
- Con biết. Ý con là con không thấy ngạc nhiên. Con xin lỗi vì đã bỏ đi như thế. Con hy vọng không làm bố mẹ quá sợ.
- Con làm bố mẹ sợ muốn chết, Jacob. - Bố tôi thở hắt ra, một âm thanh kéo dài, run rẩy tổng hợp của sự nhẹ nhõm, không tin nổi và bực bội. - Bố mẹ cũng đang ở London. Sau khi cảnh sát không thể tìm thấy con trên đảo… dù sao thì cũng không quan trọng nữa, chỉ cần con nói cho bố mẹ biết con đang ở đâu, bố mẹ sẽ tới đón con!
Emma bắt đầu cựa mình. Cô mở mắt ra và nhìn tôi, lờ đờ như thể đang mơ màng đâu đó sâu tít bên trong và dõi mắt nhìn về phía tôi qua hàng dặm não bộ và cơ thể.
Addison nói:
- Tốt, tốt lắm, giờ hãy ở lại cùng chúng tôi. - rồi bắt đầu quay sang liếm bàn tay cô.
Tôi nói vào điện thoại:
- Bố, con không thể tới được. Con không thể kéo bố vào chuyện này.
- Ôi Chúa ơi, bố biết mà. Con nghiện ma túy đúng không? Nghe này, cho dù con đang dính vào với ai, bố mẹ cũng có thể giúp. Chúng ta không nhất thiết phải lôi cảnh sát vào việc này. Bố mẹ chỉ muốn con trở về thôi.
Thế rồi mọi thứ chợt tối om đi trong đầu tôi trong một giây, và khi tỉnh lại, tôi cảm thấy một cơn đau quặn thắt dữ dội trong bụng, tới mức tôi đánh rơi điện thoại xuống.
Addison ngẩng đầu lên nhìn tôi.
- Có chuyện gì thế?
Đúng lúc đó tôi thấy một cái lưỡi dài, đen ngòm áp vào bên ngoài lớp kính buồng điện thoại. Rồi cái lưỡi thứ hai, cái thứ ba nhanh chóng gia nhập cùng nó.
Con hồn rỗng. Con hồn rỗng đã thoát ra khỏi băng. Nó đã bám theo chúng tôi.
Con chó không thể nhìn thấy, song nó hiểu ngay qua vẻ mặt tôi.
- Là một trong bọn chúng phải không?
Tôi nói không thành lời, Phải. Addison liền co rúm vào một góc.
- Jacob? - giọng nói lí nhí của bố tôi vọng ra từ trong điện thoại. - Jacob, con có ở đó chứ?
Những cái lưỡi bắt đầu quấn quanh buồng điện thoại, vây lấy chúng tôi. Tôi không biết phải làm gì, chỉ biết mình phải làm gì đó, vậy là tôi cựa quậy đôi bàn chân, chống bàn tay lên tường, và gồng mình cố đứng dậy.
Thế rồi tôi mặt đối mặt với nó. Những cái lưỡi tủa ra như nan quạt từ cái miệng há ngoác đầy răng sắc như dao của nó. Đôi mắt nó đen sì, chảy ra nước còn đen hơn, và chúng đang nhìn chằm chằm vào tôi, chỉ cách mặt kính vài phân. Con hồn rỗng bật ra một tiếng gầm gừ trầm trầm từ sâu dưới cổ họng làm tôi nhũn cả người, và phần nào trong tôi ước gì con quái vật sẽ chỉ giết tôi và làm thật nhanh việc đó để tất cả cơn đau và nỗi kinh hoàng này chấm dứt.
Con chó sủa lên lên mặt Emma.
- Dậy đi! Chúng tôi cần cô, cô gái! Đốt lửa lên!
Nhưng Emma không thể nói hay đứng dậy, và chỉ có ba chúng tôi dưới ga tàu điện ngầm này, cộng thêm hai phụ nữ mặc áo mưa đang lùi lại, bịt mũi để tránh khỏi mùi hôi tanh của hồn rỗng.
Thế rồi buồng điện thoại, toàn bộ buồng điện thoại với tất cả chúng tôi trong đó, nghiêng ngả hết bên này lại sang bên kia, và tôi nghe thấy những cái chốt gắn nó xuống sàn kêu răng rắc và bung ra. Dần dà, con hồn rỗng nhấc chúng tôi lên khỏi mặt đất - mười lăm phân, rồi ba mươi, rồi sáu mươi - để rồi lại đập mạnh chúng tôi xuống, làm các khung kính buồng điện thoại vỡ tan, khiến mảnh thủy tinh rơi rào rào như mưa lên chúng tôi.
Thế rồi chẳng còn gì ngăn cách giữa con hồn rỗng và tôi nữa. Không còn lấy một phân, một tấm kính nào. Những cái lưỡi của nó vặn vẹo chui vào trong buồng, quấn quanh cánh tay tôi, hông tôi, rồi quanh cổ tôi, siết chặt dần chặt dần cho tới khi tôi không thể thở nổi.
Đó là lúc tôi biết mình đã chết. Và vì tôi đã chết, tôi chẳng thể làm gì nữa, tôi ngừng tranh đấu. Tôi thả lỏng tất cả các cơ, nhắm mắt lại, và buông xuôi theo cơn đau đang bùng lên trong bụng mình như một màn pháo hoa.
Thế rồi một chuyện lạ lùng xảy ra: cơn đau không còn đau nữa. Cảm giác đau biến đổi, trở thành một thứ khác. Tôi đắm mình vào trong nó, và nó bao bọc lấy tôi, và dưới bề mặt đục ngầu của nó, tôi khám phá ra một thứ lặng lẽ và dịu dàng.
Một lời thì thầm.
Tôi lại mở mắt. Con hồn rỗng lúc này có vẻ như bị đông cứng, nhìn tôi trừng trừng. Tôi trừng trừng nhìn lại, không sợ hãi. Tầm nhìn của tôi lấm tấm những điểm đen vì thiếu oxy, nhưng tôi không cảm thấy đau.
Vòng quấn quanh cổ tôi của con hồn rỗng lỏng ra. Tôi hít thở lần đầu tiên sau nhiều phút, bình tĩnh và sâu. Rồi lời thì thầm tôi tìm thấy bên trong từ bụng tôi di chuyển lên, đi qua cổ tôi rồi qua đôi môi, tạo ra một âm thanh nghe không giống như một ngôn ngữ, nhưng ý nghĩa của nó thì dường như từ lúc sinh ra tôi đã hiểu.
Lùi.
Ra.
Con hồn rỗng thu những cái lưỡi lại. Rút tất cả vào trong cái miệng rộng hoác của nó và khép quai hàm lại. Rồi hơi cúi đầu xuống - một cử chỉ gần như quy phục.
Rồi nó ngồi xuống.
Emma và Addison từ dưới sàn ngước lên nhìn tôi, kinh ngạc trước sự yên ắng bất ngờ.
- Chuyện gì vừa xảy ra vậy? - con chó hỏi.
- Không có gì phải sợ cả, - tôi nói.
- Nó đi rồi sao?
- Chưa, nhưng giờ nó sẽ không làm hại chúng ta nữa.
Con chó không hỏi làm sao tôi biết được; chỉ gật đầu, được giọng nói của tôi đảm bảo.
Tôi mở cửa buồng ra và giúp Emma đứng dậy.
- Cậu đi được chứ? - tôi hỏi cô. Cô đưa một cánh tay ôm quanh hông tôi, tựa người vào tôi, và chúng tôi cùng nhau nhấc một bước.
- Tớ sẽ không rời khỏi cậu, - tôi nói. - Dù cậu có thích thế hay không.
Cô thì thầm vào tai tôi.
- Tớ yêu cậu, Jacob.
- Tớ cũng yêu cậu, - tôi thì thầm lại.
Tôi cúi xuống cầm điện thoại lên.
- Bố ạ?
- Tiếng ồn đó là gì vậy? Con đang ở cùng ai thế?
- Con ở đây. Con ổn cả.
- Không, con không ổn. Cứ ở yên đó.
- Bố, con phải đi. Con xin lỗi.
- Không. Đừng ngắt máy, - bố tôi nói. - Con đang bối rối, Jake.
- Không. Con giống ông nội. Con sở hữu thứ ông có.
Đầu bên kia im lặng một lát. Rồi:
- Làm ơn về nhà đi con.
Tôi hít một hơi. Có quá nhiều điều cần nói mà lại không có thời gian để nói ra. Đành phải nói thế này:
- Con hy vọng một ngày nào đó con sẽ có thể về nhà. Nhưng trước mắt có những việc con cần phải làm. Con chỉ muốn bố biết con yêu bố và mẹ, và con không hề làm những việc này để bố mẹ phải buồn.
- Bố mẹ cũng yêu con, Jake, và nếu là ma túy, hay bất cứ cái gì khác, bố mẹ cũng không quan tâm. Bố mẹ sẽ giúp con vượt qua. Như bố đã nói, con đang bối rối thôi.
Rồi tôi ngắt máy, và nói một thứ ngôn ngữ tôi không hề từng biết là mình biết, tôi ra lệnh cho con hồn rỗng đứng dậy.
Ngoan ngoãn như một cái bóng, nó làm theo.

                                                               Hết
---------------------
Xem tiếp : Thư viện Linh Hồn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét