Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

Thành phố hồn rỗng - tác giả Ransom Riggs (Ch 8 - Ch10)

Ransom Riggs

Thành phố hồn rỗng


Dịch giả: Lê Đình Chi

Phần Hai

Nếu có ai đó đang quan sát trong khi chuyến tàu tám giờ ba mươi xình xịch lăn bánh vào ga và dừng lại xì hơi nước mù mịt, hẳn họ không hề thấy gì bất thường ở nó: chẳng có gì bất thường ở những người soát vé và những người gác cửa toa loay hoay mở các then cửa rồi kéo cửa mở vào trong; ở đám đông đàn ông và phụ nữ, một số mặc quân phục, hối hả tuôn ra từ các cửa toa rồi hòa lẫn vào đám đông ken chặt dưới sân ga; thậm chí ở cả tám đứa trẻ mệt mỏi nặng nhọc bước xuống từ một trong các toa hạng nhất của đoàn tàu rồi đứng chớp mắt trong ánh sáng mờ mịt dưới ke ga, quay lưng vào nhau, xúm lại thành một vòng để che chở lẫn nhau, ngây người ra trước không gian mênh mông ồn ã mù mịt khói chúng đang đứng.
Vào một ngày bình thường, bất cứ nhóm trẻ nào trông có vẻ bơ phờ ngơ ngác như lạc đường thế này hẳn cũng được vài người lớn nhân hậu tìm đến hỏi xem có chuyện gì xảy ra, hay chúng có cần giúp đỡ hay không, hay bố mẹ chúng ở đâu. Nhưng ngày hôm nay trên ke ga đông nghịt hàng trăm đứa trẻ, tất cả đều có vẻ bơ phờ ngơ ngác. Vì thế, không ai để ý nhiều tới cô bé con với mái tóc nâu xõa rối và đôi giày có khuy cũng như chuyện đôi giày của cô bé không chạm hẳn xuống mặt đất. Không ai để ý đến cậu bé có khuôn mặt tròn vành vạnh đội mũ mềm có lưỡi trai, hay con ong mật bay ra từ miệng cậu, tìm hiểu thứ không khí ám muội khói bên ngoài, rồi bay lại vào trong nơi nó đã từ đó bay ra.
Không có ánh mắt nào dừng lại lâu ở cậu bé với đôi mắt thâm quầng, hay nhìn thấy hình nhân bằng đất sét nhô lên từ túi áo sơ mi của cậu bé chỉ để bị cậu dùng ngón tay ấn xuống. Cũng tương tự với cậu bé chỉn chu trong bộ đồ đầy bùn nhưng được cắt may rất đẹp và đội một chiếc mũ chóp cao bị ép móp méo, khuôn mặt ủ rũ hốc hác vì mất ngủ, cậu ta đã không cho phép mình chợp mắt dù chỉ chốc lát vào ban ngày vì quá sợ những giấc mơ của mình.
Cũng không ai làm gì hơn một cái liếc mắt đến cô gái vạm vỡ mặc áo khoác và chiếc váy giản dị, có thân hình như xây bằng gạch và đang cõng trên lưng một chiếc rương to gần bằng người mình. Không ai trong số những người thấy cô gái có thể đoán được cái rương nặng kinh khủng đến mức nào, hay nó chứa gì bên trong, hay vì sao có một loạt lỗ nhỏ được trổ vào một bên thành. Hoàn toàn bị bỏ qua không ai nhìn đến là cậu bé đứng cạnh cô gái, quấn kín người trong khăn quàng và mũ trùm áo khoác đến mức không hở ra chút da thịt nào, cho dù lúc này là đầu tháng Chín và trời vẫn còn ấm.
Rồi còn có cậu bé người Mỹ, nom bình thường đến mức gần như chẳng đáng để mắt tới; với vẻ bề ngoài quá bình thường khiến ánh mắt mọi người thờ ơ bỏ qua cậu - ngay cả khi cậu quan sát họ, chân đứng kiễng lên, cổ vươn ra, ánh mắt lướt qua khắp ke ga như một người cảnh vệ. Cô gái cạnh cậu ta đứng với hai bàn tay úp vào nhau, che giấu một tia lửa bướng bỉnh viền quanh móng tay cô đỏ hồng, điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra khi cô bực mình. Cô gái cố vẩy vẩy ngón tay như người ta tìm cách dập tắt một que diêm, rồi thổi vào nó. Thấy không ăn thua, cô đưa ngón tay ngậm vào miệng và để một bụm khói bay ra từ mũi. Cũng không ai trông thấy chuyện đó.
Trên thực tế, không ai để ý nhìn đám trẻ từ toa hạng nhất của chuyến tàu lúc tám giờ ba mươi xuống đủ kỹ lưỡng để nhận ra điều gì đặc biệt ở chúng. Và như vậy cũng tốt.

Chương 8


Emma huých khuỷu tay vào tôi.
- Thế nào rồi?
- Tớ cần thêm một phút nữa, - tôi nói.
Bronwyn đã đặt cái rương của cô xuống và lúc này tôi đang đứng lên trên nó, đầu nhô lên cao hơn hẳn đám đông, đưa mắt nhìn qua trên mộtbiển những khuôn mặt không ngừng chuyển động. Ke ga dài đông nghịt trẻ con. Chúng nhộn nhạo qua lại như những con a míp dưới một chiếc kính hiển vi, hết hàng này tới hàng khác mất hút dần vào một đám khói mờ mờ. Những đoàn tàu đen trũi không ngừng xì xì nhô lên sừng sững hai bên ke, nóng lòng muốn nuốt chửng lấy chúng.
Tôi có thể cảm thấy ánh mắt các bạn tôi đang hướng cả vào lưng tôi, dõi theo tôi trong lúc tôi quan sát đám đông. Họ cho rằng tôi phải biết liệu ở đâu đó trong đám đông khổng lồ không ngừng di chuyển này có những con quái vật rình rập để giết chúng tôi hay không - và tôi được trông đợi phải biết điều đó chỉ bằng cái nhìn; bằng cách đánh giá một cảm giác mơ hồ nào đó trong bụng. Thường khi một hồn rỗng có mặt ở gần, tôi luôn cảm thấy đau đớn rõ ràng, nhưng tại một nơi rộng mênh mông như chỗ này - giữa hàng trăm người - lời cảnh báo tôi cảm thấy có thể chỉ là một lời thì thầm, một chút nhói lên khe khẽ dễ dàng bị bỏ qua.
- Liệu lũ xác sống có biết chúng ta sẽ tới không? - Bronwyn hỏi, thật khẽ vì sợ bị một người bình thường - hay tệ hơn, một gã xác sống - nghe thấy. Chúng có tai mắt khắp nơi trong thành phố, hay ít nhất là những chuyện xảy ra đã khiến chúng tôi tin như vậy.
- Chúng ta đã giết hết những kẻ trong chúng có thể biết chúng ta sẽ đi đâu, - Hugh nói đầy tự hào. - Hay đúng hơn là tớ đã giết chúng.
- Nghĩa là chúng sẽ lùng tìm chúng ta còn dữ hơn, - Millard nói. - Và giờ chúng sẽ không chỉ muốn con chim - chúng còn muốn trả thù.
- Đó là lý do chúng ta không thể đứng đây lâu hơn nữa, - Emma nói, gõ nhẹ vào chân tôi. - Cậu sắp xong chưa?
Sự tập trung của tôi bị gián đoạn. Tôi mất dấu nơi mình đang quan sát trong đám đông. Lại phải bắt đầu lại.
- Thêm một phút nữa, - tôi nói.
Với riêng tôi, không phải lũ xác sống làm tôi lo ngại nhất mà là đám hồn rỗng. Cho đến giờ tôi đã giết hai gã trong bọn chúng, và mỗi cuộc chạm trán trước đó đều thiếu chút nữa là đặt dấu chấm hết cho tôi. Vận may tôi có, nếu đó là thứ đã giúp tôi sống sót tới tận lúc này, hẳn đã phải cạn kiệt. Đó là lý do vì sao tôi quyết tâm không bao giờ để bị một con hồn rỗng làm mình bất ngờ nữa. Tôi sẽ làm mọi điều trong khả năng của mình để cảm nhận chúng từ xa và tránh mọi sự tiếp xúc. Tất nhiên, bỏ chạy khỏi một cuộc chiến đấu thì chẳng vinh quang gì, nhưng tôi chẳng quan tâm tới vinh quang. Tôi chỉ muốn sống sót.
Thế nên mối nguy hiểm thực sự không phải là những thân người trên ke ga, mà là những cái bóng lẩn khuất giữa chúng và đằng sau chúng; là bóng tối tại các góc khuất. Đó là nơi tôi tập trung chú ý vào. Sự tập trung đem đến cho tôi một thứ cảm nhận ngoài cơ thể, để đưa cảm nhận của tôi len lỏi vào trong đám đông, sục sạo những góc khuất đằng xa nhằm tìm kiếm những dấu vết nguy hiểm. Mấy ngày trước tôi vẫn chưa làm được thế này. Khả nằng điều hướng cảm nhận đó như một chiếc đèn pha - điều này hoàn toàn mới.
Tôi tự hỏi tôi còn có thể khám phá thêm gì nữa về bản thân mình đây?
- Chúng ta ổn, - tôi nói, bước xuống khỏi chiếc rương. - Không có hồn rỗng.
- Cái đó thì tớ cũng nói được, - Enoch hầm hừ. - Nếu có, đến giờ chúng đã chén sạch chúng ta rồi!
Emma kéo tôi sang bên.
- Nếu chúng ta muốn có một cơ hội để chiến đấu ở đây, cậu cần phải nhanh hơn.
Nghe có vẻ như đòi hỏi một người vừa mới học bơi đi thi đấu Olympic.
- Tớ đang làm hết sức, - tôi nói.
Emma gật đầu.
- Tớ biết thế.
Cô quay sang những người khác và bật ngón tay đánh tách để thu hút sự chú ý.
- Chúng ta hãy tới chỗ buồng điện thoại kia, - cô vừa nói vừa chỉ tay về phía một buồng điện thoại cao màu đỏ nằm ở phía đối diện của ke ga, chỉ có thể thấy thấp thoáng qua đám đông bận rộn qua lại.
- Chúng ta gọi cho ai đây? - Hugh hỏi.
- Con chó đặc biệt đã nói tất cả các Vòng Thời Gian tại London đã bị tấn công và các Chủ Vòng bị bắt cóc, - Emma nói, - nhưng chúng ta không thể chỉ đơn giản tin luôn vào lời nó, phải không nào?
- Cậu có thể gọi tới một Vòng Thời Gian sao? - tôi hỏi đầy sửng sốt. - Bằng điện thoại?
Millard giải thích là Hội đồng Chủ Vòng Thời Gian duy trì liên lạc bằng điện thoại, cho dù việc này chỉ có thể được sử dụng trong ranh giới thành phố.
- Cơ chế hoạt động của nó thật tài tình, nếu tính tới tất cả các khác biệt về thời gian, - cậu ta nói. - Việc chúng ta sống trong cácVòng Thời Gian không có nghĩa là chúng ta bị mắc kẹt lại ở thời Đồ Đá!
Emma cầm lấy bàn tay tôi và yêu cầu những người khác cũng nắm lấy bàn tay nhau.
- Điều cốt yếu là chúng ta cần ở cạnh nhau, - cô nói. - London rất rộng, và ở đây không có nơi tìm trẻ lạc cho những đứa trẻ đặc biệt đâu.
Chúng tôi len qua đám đông, bàn tay nắm lấy nhau, thành một hàng như thân rắn hơi uốn cong hình parabol, Olive bồng bềnh nhấp nhổm ở giữa như một nhà du hành vũ trụ bước đi trên Mặt Trăng.
- Em mất trọng lượng à? - Bronwyn hỏi cô bé. - Em cần đôi giày nặng hơn, chích chòe bé bỏng.
- Em luôn biến thành một cái lông vũ khi không có được những bữa ăn đúng nghĩa, - Olive nói.
- Bữa ăn đúng nghĩa sao? Chúng ta vừa ăn như những ông vua còn gì!
- Em thì không, - Olive nói. - Họ không có bánh nhân thịt.
- Với một kẻ trốn chạy thì cậu kén cá chọn canh quá đấy, - Enoch nói. - Dù thế nào đi nữa, vì Horace đã tiêu phí hết sạch tiền của chúng ta, cách duy nhất để chúng ta kiếm thêm đồ ăn là đi ăn cắp hoặc tìm ra một Chủ Vòng còn chưa bị bắt cóc để nấu cho chúng ta chút gì đó.
- Chúng ta vẫn còn tiền, - Horace cự lại, xóc xóc những đồng xu trong túi áo cậu ta. - Cho dù không đủ để mua bánh nhân thịt. Có thể chúng ta mua được một cái bánh khoai tây.
- Nếu tớ phải ăn một cái bánh khoai tây nữa, tớ sẽ biến thành một cái bánh khoai tây mất, - Olive nhăn nhó.
- Không thể có chuyện đó đâu, cô bé, - Bronwyn nói.
- Sao chứ? Cô Peregrine có thể biến thành chim mà!
Một cậu bé chúng tôi đi ngang qua quay sang nhìn chằm chằm. Bronwyn bực bội suỵt Olive. Nói ra bí mật của chúng tôi trước mặt những người bình thường là điều bị cấm ngặt, cho dù những điều đó nghe có vẻ hoang đường tới mức có lẽ chẳng ai tin vào chúng.
Chúng tôi chen vai lách qua đám trẻ con cuối cùng để tới chỗ buồng điện thoại.
Nó chỉ đủ lớn để ba người chui vào, vì thế Emma, Millard vàHorace chen chúc chui vào trong khi đám còn lại xúm quanh cửa buồng. Emma nhấc điện thoại, Horace moi mấy đồng xu cuối cùng của chúng tôi ra khỏi túi áo, còn Millard lật giở tìm kiếm trong một cuốn danh bạ dày cộp treo lủng lẳng ở đầu một sợi dây.
- Các cậu đùa chắc? - tôi vừa nói vừa cúi người vào trong buồng. - Có cả các Chủ Vòng trong cuốn danh bạ sao?
- Các địa chỉ được đưa ra ở đây đều là giả, - Millard nói, - và cuộc gọi sẽ không được kết nối trừ phi cậu huýt sáo đúng đoạn mật mã.
Cậu ta xé ra một danh sách rồi đưa cho Emma.
- Thử gọi số này đi. Millicent Thrush.
Horcace nhét một đồng xu vào khe và Emma quay số. Sau đó, Millard cầm lấy ống tổ hợp, huýt sáo một điệu chim hót vào ống rồi đưa trả lại cho Emma. Cô lắng nghe một lát, rồi cau mày.
- Nó chỉ đổ chuông thôi, - cô nói. - Không ai nhấc máy cả.
- Đừng lo! - Millard nói. - Đây chỉ là một trong rất nhiều số thôi. Để tớ tìm một số khác...
Bên ngoài buồng điện thoại, đám đông lúc trước di chuyển qua lại liên tục quanh chúng tôi đã chậm dần rồi dừng lại, bị tắc nghẽn ở đâu đó ngoài tầm mắt. Ke ga đã chật hết cỡ. Những đứa trẻ bình thường chen chúc khắp quanh chúng tôi, trò chuyện huyên thuyên với nhau, la hét, xô đẩy - và một đứa, đứng ngay cạnh Olive, bắt đầu khóc ngằn ngặt. Cô bé buộc tóc đuôi ngựa có đôi mắt đỏ sưng mọng, một tay ôm một cái chăn, bàn tay kia cầm một chiếc va li sờn rách bằng các tông. Được găm lên áo đầm của cô bé là một tờ ghi chú với các chữ cái và con số được tô khuôn cỡ lớn.
115-201
London → Sheffield
Olive quan sát cô bé khóc lóc cho tới khi đôi mắt của chính cô cũng bắt đầu ầng ậng ướt. Cuối cùng, Olive không thể chịu đựng hơn nữa bèn hỏi xem có chuyện gì. Cô bé kia nhìn đi chỗ khác, giả bộ không nghe thấy gì.
Olive không hiểu.
- Có chuyện gì thế? - cô lại hỏi. - Có phải bạn khóc vì bạn bị bán đi không? - Cô chỉ vào tờ ghi chú trên áo đầm của cô bé kia. - Đó là giá của bạn à?
Cô bé kia tìm cách tránh đi nhưng bị bức tường người chắn lại.
- Tớ rất muốn mua bạn và giúp bạn được tự do, - Olive nói tiếp, - nhưng tớ sợ là bọn tớ đã tiêu sạch cả tiền để mua vé tàu rồi và thậm chí chẳng còn đủ tiền mua bánh nhân thịt nữa chứ đừng nói gì tới nô lệ. Tớ rất tiếc.
Cô bé kia quay ngoắt lại đối diện với Olive.
- Tôi không bị bán! - cô bé nói, giậm chân bành bạch.
- Bạn chắc chứ?
- Phải! - cô bé kia hét lên, và trong lúc bực bội giật phăng tờ ghi chú khỏi áo đầm và ném nó đi. - Tôi chỉ không muốn tới sống ở vùng nông thôn ngu ngốc, thế thôi.
- Tớ cũng không muốn rời khỏi nhà mình, nhưng chúng tớ buộc phải làm thế, - Olive nói. - Nhà chúng tớ đã bị một quả bom phá tan.
Khuôn mặt cô bé kia dịu lại.
- Nhà tớ cũng thế. - Cô đặt va li xuống và chìa bàn tay ra. - Tớ xin lỗi vì đã cáu. Tên tớ là Jessica.
- Tớ là Olive.
Hai cô bé bắt tay như hai quý ông.
- Tớ thích cái áo đầm của cậu, - Olive nói.
- Cảm ơn cậu, - Jessica nói. - Còn tớ thích cái... cái ở trên đầu cậu.
- Vương miện của tớ! - Olive đưa tay lên sờ vào nó. - Cho dù nó không phải bằng bạc thật.
- Không sao đâu. Nó đẹp lắm.
Olive mỉm cười rộng tới mức tôi chưa từng bao giờ thấy cô bé mỉm cười như thế, rồi một tiếng còi thật to vang lên và một giọng nói ồm ồm vang lên lạo xạo qua loa phóng thanh.
- Tất cả các em nhỏ lên tàu! - giọng nói thông báo. - Giờ hãy ngoan và trật tự nào!
Đám đông lại tiếp tục nhúc nhích quanh chúng tôi. Chỗ này chỗ kia, những người lớn giúp lũ trẻ lên tàu, và tôi nghe thấy một người nói, “Đừng lo, các cháu sẽ sớm gặp lại bố mẹ thôi!”.
Và đó là lúc tôi hiểu ra tại sao lại có nhiều trẻ con ở đây đến thế. Chúng đang được sơ tán. Trong số hàng trăm đứa trẻ có mặt tại nhà ga sáng nay, chỉ có tôi và các bạn tôi xuống tàu. Những đứa trẻ khác đang rời đi, được đưa ra khỏi thành phố vì sự an toàn của chúng – và xét từ những chiếc áo khoác mùa đông và những chiếc va li lèn chặt đến căng phồng một số đứa trẻ cầm theo, rất có thể sẽ là trong một thời gian dài.
- Tớ phải đi rồi, - Jessica nói, và Olive chưa kịp chào tạm biệt thì người bạn mới của cô bé đã bị đám đông cuốn về phía một đoàn tàu đang đợi.
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó, Olive đã gặp và mất người bạn bình thường duy nhất cô bé từng có.
Jessica ngoái lại nhìn trong khi lên tàu. Vẻ mặt buồn rầu của cô bé dường như muốn nói: Mình sẽ ra sao đây?
Chúng tôi quan sát cô bé ra đi và băn khoăn tự hỏi điều tương tự về bản thân mình.
* * *
Bên trong buồng điện thoại, Emma cau mày bực bội nhìn ống nghe.
- Không có ai trả lời cả, - cô nói. - Tất cả các số điện thoại chỉ toàn đổ chuông.
- Số cuối cùng đây, - Millard nói, đưa cho cô một trang danh bạ khác được xé ra. - Bắt tréo ngón tay cầu may mắn đi.
Tôi chăm chú nhìn Emma trong khi cô quay số, nhưng rồi phía sau lưng tôi có sự xáo động mạnh, tôi quay lại thì nhìn thấy một người đàn ông mặt đỏ lựng đang vung vẩy một cái ô về phía chúng tôi.
- Chúng mày đang chơi đùa gì thế hả? - ông ta nói. - Chui ra khỏi cái buồng điện thoại đó và leo lên tàu ngay!
- Chúng cháu vừa xuống tàu xong, - Hugh nói. - Chúng cháu không định lên một chuyến tàu khác!
- Và chúng mày đã làm gì với các nhãn ghi số của chúng mày rồi hả? - người đàn ông quát tướng lên, nước bọt văng ra từ môi ông ta. - Đưa ra đây ngay lập tức, nếu không thề có Chúa tao sẽ cho chở chúng mày tới một nơi ít dễ chịu hơn xứ Wales nhiều!
- Biến ngay đi, - Enoch nói, - nếu không chúng tôi sẽ tống ông xuống địa ngục ngay lập tức!
Khuôn mặt người đàn ông đỏ sậm lại tới mức tôi nghĩ một mạch máu trên cổ ông ta sắp vỡ bung. Rõ ràng ông ta không quen bị trẻ con vặc lại kiểu này.
- Tao đã bảo là chui ra khỏi cái buồng điện thoại đó! - ông ta rống lên, rồi vung cái ô lên cao quá đầu như cây rìu của một đao phủ, ông ta quật nó xuống đường dây cáp chạy từ đỉnh buồng điện thoại vào tường, làm nó đứt đôi với một tiếng phựt! thật to. Điện thoại im bặt!
Emma ngẩng đầu lên khỏi ống nghe, sôi lên trong cơn phẫn nộ âm thầm.
- Nếu ông ta muốn dùng điện thoại đến thế, - cô nói, - bọn mình hãy nhường nó lại cho ông ta.
Trong khi cô, Millard và Horace loay hoay lách ra khỏi buồng, Bronwyn chộp lấy hai bàn tay người đàn ông và bẻ quặt chúng ra sau lưng ông ta.
- Dừng lại! - ông ta la lối. - Bỏ tao ra!
- À, tôi sẽ bỏ ông ra, - Bronwyn nói, rồi cô nhấc ông ta lên, ném ông ta cắm đầu vào trong buồng điện thoại, rồi ngáng đóng cửa bằng cái ô của ông ta. Người đàn ông gào thét và đấm thình thình lên mặt kính, nhảy lên nhảy xuống như một con ruồi béo ị bị nhốt trong một cái chai. Cho dù nán lại quanh đó và cười cợt ông ta hẳn sẽ rất vui nhưng ông ta đã thu hút quá nhiều sự chú ý rồi, và lúc này nhiều người lớn đang từ khắp nơi trong ga dồn về phía chúng tôi. Đã đến lúc rời đi.
Chúng tôi nắm lấy bàn tay nhau và hối hả chạy về phía cửa xoay, một đám đông người bình thường ùa theo đằng sau. Một tiếng còi tàu rít lên và được vọng lại bên trong chiếc rương của Bronwyn, cô Peregrine đang bị quăng đi quật lại trong đó như quần áo trong máy giặt. Hai chân không đủ bám đất để chạy, Olive bèn bám vào cổ Bronwyn, cô bị kéo lê đằng sau như một quả bóng bay xì hơi một nửa bị kéo theo một sợi dây.
Một vài người lớn ở gần lối ra hơn chúng tôi, và thay vì chạy vòng tránh họ, chúng tôi cố gắng lao thẳng qua.
Không ổn.
Người đầu tiên chặn chúng tôi là một phụ nữ to béo vung chiếc ví lên quật xuống đầu Enoch, rồi ngáng chân cậu ta. Khi Emma cố lôi bà ta ra, hai người đàn ông chộp lấy hai cánh tay cô và đè cô xuống sàn. Tôi đang định nhảy vào giúp cô thì người đàn ông thứ ba chộp lấy hai cánh tay tôi.
- Ai đó làm gì đi chứ! - Bronwyn kêu lên.
Tất cả chúng tôi đều biết ý cô muốn nói gì, nhưng đều không rõ ai trong chúng tôi còn được tự do hành động. Thế rồi một con ong vo vo bay qua trước mũi Enoch và cắm vòi vào hông người phụ nữ đang ngồi cưỡi lên cậu ta, bà này kêu ré lên rồi nhảy bật dậy.
- Phải! - Enoch reo lên. - Nhiều ong nữa vào!
- Chúng mệt rồi! - Hugh gắt lại. - Chúng chỉ mới vừa đi ngủ sau khi cứu mạng các cậu lần vừa rồi!
Nhưng cậu ta có thể thấy là không có cách nào khác - hai cánh tay Emma đã bị ghì chặt, Bronwyn đang bận rộn bảo vệ cả cái rương của cô lẫn Olive chống lại ba người soát vé đang tức giận, và còn nhiều người lớn nữa đang trên đường đến - vậy là Hugh bắt đầu đấm ngực như thể cố nuốt vào một miếng thức ăn bị nghẹn. Một khoảnh khắc sau đó, cậu ta ợ ra một tiếng, và chừng mười con ong bay ra khỏi miệng cậu ta. Chúng bay vài vòng trên đầu Hugh, rồi tìm được phương hướng và bắt đầu đốt tất cả những người lớn xuất hiện.
Mấy người đang ghì lấy Emma buông cô xuống và bỏ chạy. Người đàn ông đang giữ tôi bị đốt vào đúng chóp mũi, ông ta la ầm lên và vung vẩy hai cánh tay như bị quỷ ám. Chẳng mấy chốc, tất cả đám người lớn đều bỏ chạy, cố chống đỡ lại những kẻ tấn công tí hon với cú đốt khủng khiếp bằng đủ loại vũ điệu múa may kỳ cục trước sự hân hoan của tất cả những đứa trẻ vẫn còn ở trên ke ga, chúng cười vang, hoan hô và giơ tay lên nhại lại những cử chỉ lố bịch của những người lớn tuổi hơn.
Trong khi tất cả mọi người đều mất tập trung như vậy, chúng tôi nhổm dậy, lao qua cửa quay và chạy ra ngoài hòa vào một buổi chiều London náo động.
* * *
Chúng tôi ngơ ngác giữa sự hỗn loạn của các con phố. Có vẻ như chúng tôi đã bị ném vào một bình chất lỏng đang khuấy tung, quay cuồng với các phần tử: các quý ông, quý bà, những người lao động, binh lính, những đứa trẻ đường phố và những người hành khất, tất cả đều hối hả lao đi có mục đích theo mọi hướng, đan qua đan lại quanh những chiếc xe hơi bé nhỏ đang nhả khói phì phì và những người bán dạo đẩy xe hàng đang lớn tiếng rao, những người biểu diễn trên đường phố đang thổi kèn, những chiếc xe buýt bấm còi inh ỏi và rùng mình dừng lại để đổ thêm người lên những vỉa hè đông ứ. Chứa đựng tất cả những gì vừa được liệt kê là khe hẻm được tạo thành từ các dãy nhà có hàng cột phía mặt tiền chạy dài hút tầm mắt theo một con phố nửa chìm trong bóng râm, mặt trời lúc chiều tà đã hạ thấp và tắt dần, bị làn khói của London làm mờ xuống thành một thứ quầng sáng âm u, một ngọn đèn chập chờn xuyên qua màn sương mù.
Chóng mặt trước cảnh tượng này, tôi khép hờ mắt lại và để Emma kéo đi trong khi đút bàn tay còn tự do vào trong túi áo để chạm lên mặt kính lạnh lẽo của chiếc điện thoại tôi vẫn cầm theo.
Tôi nhận ra cử chỉ này trấn an tôi một cách lạ lùng. Chiếc điện thoại của tôi là một thứ kỷ vật vô dụng từ tương lai, song cũng là một vật thể chứa đựng một sức mạnh nhất định - nó là sợi dây mong manh kết nối thế giới lạ lùng này với thế giới lành mạnh và quen thuộc tôi từng thuộc về; một thứ luôn nói với tôi mỗi khi tôi chạm vào nó: Cậu ở đây và điều này có thực, không phải cậu đang mơ và cậu vẫn là cậu, và theo cách nào đó nó khiến cho mọi thứ quanh tôi chuyển động bớt chóng vánh hơn.
Enoch từng đi học tại London và tuyên bố vẫn còn biết đường phố tại đây, vì thế cậu ta dẫn đường. Chúng tôi phần lớn đi theo các ngõ hẻm và những con đường sau, thành ra thành phố thoạt đầu giống như một mê cung của những bức tường xám xịt và những đường máng xối, sự vĩ đại của nó chỉ thỉnh thoảng hé lộ khi chúng tôi băng qua các đại lộ rồi trở lại ngay sự an toàn của những nơi khuất bóng. Chúng tôi biến điều này thành ra một trò chơi, phá lên cười, chạy đua với nhau qua các ngõ hẻm. Horace giả bộ như đang đi trên dây, rồi nhảy lên thật nhẹ nhàng và cúi chào như một vũ công, đồng thời nhấc mũ lên. Chúng tôi cười như hóa rồ, nhẹ dạ đến khó tin, phần nào vì không tin nổi chúng tôi có thể đi xa được đến thế - vượt qua biển, qua rừng, qua khỏi nanh vuốt những con hồn rỗng luôn ngoác miệng hăm dọa và những toán xác sống sát thủ, tất cả trên con đường tới London.
Chúng tôi rời xa khỏi nhà ga, rồi sau đó dừng lại trong một ngõ hẻm cạnh mấy thùng rác để thở lấy hơi. Bronwyn đặt cái rương xuống và đưa cô Peregrine ra, bà liền lắc lư nhảy đi như người say trên những viên đá lát đường. Horace và Millard bật cười.
- Có gì tức cười vậy? - Bronwyn nói. - Có phải là lỗi của cô P đâu nếu cô ấy thấy chóng mặt.
Horace dang rộng hai cánh tay ra hào hứng.
- Chào mừng tới London xinh đẹp! - cậu ta nói. - Lớn hơn nhiều so với những gì cậu mô tả, Enoch. Và phải rồi, cậu mô tả thế nào nhỉ! Trong suốt bảy mươi lăm năm: “London, London, London! Thành phố vĩ đại nhất trên trái đất”.
Millard cầm một cái nắp thùng rác lên.
- London! Nơi ẩn náu tuyệt diệu nhất sẵn có trên đời!
Horace bỏ mũ ra.
- London! Nơi thậm chí chuột cũng đội mũ chóp cao!
- Ồ, tớ đâu có nói nhiều đến thế, - Enoch nói.
- Có đấy! - Olive nói. - “À, ở London người ta không làm thế đâu”, cậu vẫn nói thế còn gì. Hay là, “Ở London, thức ăn ngon hơn nhiều!”.
- Hiển nhiên lúc này không phải chúng ta đang du ngoạn một vòng thành phố! - Enoch cự nự. - Các cậu thích đi theo những ngõ hẻm hay là bị lũ xác sống phát hiện?
Horace tảng lờ cậu ta.
- London: nơi mọi ngày đều là ngày nghỉ... với người hót rác! - Cậu ta phá lên cười, và tiếng cười của cậu ta thật dễ lây. Chẳng mấy chốc, gần như tất cả chúng tôi đều cười khúc khích - kể cả Enoch.
- Tớ đoán là tớ có tô vẽ lên tí chút, - cậu ta thừa nhận.
- Tớ chẳng thấy có gì thú vị đến thế về London, - Olive cau mày nói. - Nơi này bẩn thỉu, hôi hám và đầy những người xấu xa, thô bạo làm trẻ con khóc, và tớ ghét nó! - Cô cau mặt lại tức giận và nói thêm, - Và tớ thấy đói kinh khủng! - khiến chúng tôi càng cười dữ hơn.
- Những  người ở ga không xấu xa, - Millard nói. - Nhưng họ đã nhận được những gì họ xứng đáng nhận! Tớ sẽ không bao giờ quên khuôn mặt người đàn ông đó khi Bronwyn nhét ông ta vào buồng điện thoại.
- Hay người phụ nữ kinh khủng đó khi bà ta bị một con ong đốt vào mông! - Enoch nói. - Tớ sẵn sàng trả tiền để thấy lại cảnh đó.
Tôi đưa mắt nhìn Hugh, trông đợi cậu ta góp chuyện, nhưng cậu ta đang quay lưng lại phía chúng tôi, đôi vai rung lên.
- Hugh? - tôi hỏi. - Cậu không sao chứ?
Cậu ta quay đi tránh.
- Chẳng ai thèm để ý, - cậu ta nói. - Chẳng buồn bận tâm để ý tới anh chàng Hugh khốn khổ, anh ta chỉ ở đây để cứu mạng tất cả mọi người mà chẳng ai thèm cảm ơn lấy một lời!
Ngượng ngùng, chúng tôi lên tiếng cảm ơn và xin lỗi cậu ta.
- Xin lỗi, Hugh.
- Xin cảm ơn lần nữa, Hugh.
- Cậu là anh hùng trong cảnh gian nguy của bọn tớ, Hugh.
Cậu ta quay sang đối diện với chúng tôi.
- Chúng là bạn tớ, các cậu biết đấy.
- Thì chúng tớ vẫn là thế mà! - Olive nói.
- Không phải các cậu - mà là bầy ong của tớ! Chúng chỉ đốt được một lần, sau đó sẽ chết, cả tổ. Và giờ tớ chỉ còn lại Henry, và nó không bay được vì mất một bên cánh.
Cậu ta chìa bàn tay ra và chậm rãi xòe mở các ngón tay, và trên lòng bàn tay Hugh là Henry, đang vẫy bên cánh duy nhất khi trông thấy chúng tôi.
- Thôi nào, anh bạn, - Hugh thì thầm với nó. - Đến lúc về nhà rồi.
Cậu ta thè lưỡi ra, đặt con ong lên đó, rồi ngậm miệng lại. Enoch vỗ vai cậu ta.
- Tớ sẽ làm chúng sống lại cho cậu, nhưng tớ không chắc liệu có hiệu quả với những sinh vật bé như thế hay không.
- Dù sao cũng cảm ơn cậu, - Hugh nói, rồi cậu ta hắng giọng và chùi má thật mạnh, như thể khó chịu bởi những giọt nước mắt đã làm lộ cảm xúc của mình.
- Chúng ta sẽ tìm cho cậu thêm ong ngay khi chữa lành cho cô P, - Bronwyn nói.
- Nhân nói đến chuyện đó, - Enoch nói với Emma, - cậu có liên lạc được với Chủ Vòng nào qua cái điện thoại đó không?
- Không một ai, - Emma đáp, rồi ngồi xuống một thùng rác lộn ngược, đôi vai thõng xuống. - Tớ đã thực sự hy vọng chúng ta ít nhất cũng gặp may được một lần. Nhưng không.
- Vậy thì có vẻ con chó đã nói đúng, - Horace nói. - Những Vòng Thời Gian lớn tại London đã rơi vào tay kẻ thù của chúng ta. - Cậu ta cúi đầu vẻ nghiêm trọng. - Điều xấu nhất đã xảy ra. Tất cả các Chủ Vòng của chúng ta đã bị bắt cóc.
Tất cả chúng tôi cùng cúi đầu, chẳng còn tâm trạng cười đùa nữa.
- Trong trường hợp đó, - Enoch nói, - Millard, tốt hơn cậu nên nói cho bọn tớ tất cả những gì cậu biết về các Vòng Trừng Phạt đi. Nếu đó là nơi các Chủ Vòng Thời Gian đang bị giam, chúng ta sẽ phải tổ chức một cuộc giải cứu.
- Không, - Millard nói. - Không, không, không.
- Không ư, ý cậu là sao? - Emma hỏi.
Millard phát ra một âm thanh tắc nghẹn từ trong cổ họng và bắt đầu thở hổn hển thật lạ.
- Ý tớ là... chúng ta không thể...
Có vẻ cậu ta không thể nói ra lời.
- Có gì không ổn với cậu ấy thế nhỉ? - Bronwyn nói. - Mill, có chuyện gì thế?
- Tốt hơn cậu nên giải thích ngay lập tức ý cậu nói “không” là sao? - Emma nói đầy đe dọa.
- Bởi vì chúng ta sẽ chết, thế đấy! - Millard nói, giọng vỡ ra.
- Nhưng ở chỗ trại động vật cậu nói nghe có vẻ dễ dàng lắm cơ mà! - tôi nói. - Như thể chúng ta có thể nhảy valse vào một Vòng Trừng Phạt vậy...
Millard đang thở rất gấp, hoảng loạn - và điều đó làm tôi hãi hùng. Bronwyn tìm thấy một cái túi giấy nhăn nhúm và bảo cậu ta thở vào đó. Khi đã trấn tĩnh lại chút ít, cậu ta trả lời.
- Vào được một Vòng loại này cũng tương đối dễ, - cậu ta nói, thật chậm rãi, cố kiểm soát nhịp thở của mình. - Quay trở ra thì gian nan hơn nhiều. Nghĩa là quay ra mà sống sót. Con chó chỉ nói đến các Vòng Trừng Phạt, nhưng còn những thứ tồi tệ hơn nữa. Những dòng sông lửa... đám người Viking khát máu... hơi bệnh dịch đặc quánh đến mức không thể nổi... và thêm vào tất cả những thứ đó, như một món xúp hổ lốn của quỷ sứ, là vô số xác sống và hồn rỗng chẳng ai đếm xuể!
- À, quả là kỳ ảo! - Horace vừa nói vừa giơ hai bàn tay lên. - Cậu biết đấy, đáng lẽ cậu có thể nói cho bọn tớ sớm hơn - như lúc còn ở trại động vật, khi chúng ta đang lên kế hoạch cho tất cả chuyện này!
- Liệu có tạo ra khác biệt nào không, Horace? - Millard hít thở thêm vài lần với cái túi. - Nếu tớ làm cho nơi đó nghe có vẻ khủng khiếp hơn, liệu các cậu có lựa chọn để mặc cho thời hạn quay lại hình người của cô Peregrine trôi qua không?
- Tất nhiên là không, - Horace nói. - Nhưng đáng lẽ cậu nên nói thật với bọn tớ.
Millard thả rơi cái túi xuống. Sức lực đã quay trở lại với cậu ta, cùng với nó là sự tin tưởng.
- Tớ thừa nhận là tớ đã ít nhiều hạ thấp những nguy hiểm trong các Vòng Trừng Phạt. Nhưng tớ chưa bao giờ nghĩ chúng ta thực sự phải đi vào trong đó! Bất chấp những lời thông báo ảm đạm của con chó khó chịu đó về tình hình tại London, tớ đã tin chắc chúng ta sẽ tìm thấy ít nhất một Vòng Thời Gian chưa bị tấn công ở đây, với Chủ Vòng vẫn còn tồn tại và có thể trông cậy vào. Và theo tất cả những gì chúng ta biết, thì vẫn còn khả năng đó! Làm sao chúng ta có thể đoan chắc tất cả họ đã bị bắt cóc? Chúng ta đã tận mắt nhìn thấy các Vòng Thời Gian bị tấn công của họ chưa? Sẽ thế nào nếu điện thoại của các Chủ Vòng chỉ đơn giản là bị... cắt đường dây?
- Tất cả họ sao? - Enoch chế giễu.
Thậm chí cả Olive, Olive luôn luôn lạc quan, cũng lắc đầu khi nghe tới đó.
- Vậy cậu đề xuất thế nào, Millard? - Emma nói. - Rằng chúng ta đi xem qua lần lượt các Vòng Thời Gian tại London và hy vọng tìm thấy ai đó vẫn ở nhà chăng? Và cậu nói sao về khả năng những kẻ biến chất, những kẻ đang săn lùng chúng ta, sẽ để mặc các Vòng Thời Gian đó không canh gác?
- Tớ nghĩ chúng ta sẽ có cơ hội sống sót qua đêm nay hơn nếu chúng ta dành nó vào việc chơi trò roulette Nga, - Enoch nói.
- Tất cả những gì tớ muốn nói, - Millard nói, - là chúng ta không có bằng chứng nào...
- Cậu còn muốn thêm bằng chứng nào nữa? - Emma hỏi. - Những vũng máu chăng? Một đống lông vũ của các Chủ Vòng bị vặt ra chăng? Cô Avocet đã nói với chúng ta là cuộc tấn công của những kẻ tha hóa bắt đầu ở đây nhiều tuần trước. Cô Wren rõ ràng tin rằng tất cả các Chủ Vòng tại London đã bị bắt cóc - liệu cậu có biết rõ hơn cô Wren, một Chủ Vòng, hay không? Và giờ chúng ta đang ở đây, trong khi không Vòng Thời Gian nào trả lời điện thoại gọi tới. Thế nên làm ơn nói cho tớ biết tại sao đi từ Vòng này qua Vòng khác có thể là gì ngoài một sự lãng phí thời gian nguy hiểm theo kiểu tự sát đây.
- Đợi một phút nào... đúng rồi! - Millard reo lên. - Thế còn cô Wren thì sao?
- Bà ấy thì sao cơ? - Emma hỏi lại. - Chẳng lẽ cậu không nhớ con chó nói gì với bọn mình à? Cô Wren tới London mấy hôm trước khi bà nghe nói những người chị em Chủ Vòng của mình đã bị bắt cóc.
- Thế thì sao?
- Nếu bà ấy vẫn còn ở đây thì sao?
- Thì đến giờ này nhiều khả năng bà ấy cũng bị bắt rồi! - Enoch nói.
- Thế nếu chưa thì sao? - Giọng Millard tràn ngập hy vọng. - Bà ấy có thể giúp cô Peregrine - và như vậy chúng ta sẽ không phải mon men tới gần các Vòng Trừng Phạt nữa!
- Và theo cậu chúng ta làm thế nào tìm được bà ấy đây? - Enoch la lên lanh lảnh. - Đứng trên các nóc nhà gọi tên bà ấy ầm lên chắc? Đây không phải là Cairnholm; đây là một thành phố với hàng triệu người!
- Những con bồ câu của bà ấy, - Millard nói.
- Nhắc lại xem nào?
- Chính lũ bồ câu đặc biệt của cô Wren đã báo cho bà biết các Chủ Vòng đã bị bắt đi đâu. Nếu chúng biết nơi tất cả các Chủ Vòng bị đưa tới, vậy thì hẳn chúng phải biết cô Wren đang ở đâu. Nói cho cùng, chúng thuộc về bà ấy cơ mà.
- Ái chà! - Enoch nói. - Thứ duy nhất hay gặp hơn các quý bà trung niên mặt mũi bình thường ở đây là những bầy bồ câu. Và cậu muốn đi khắp London để tìm chính xác một bầy nào đó sao?
- Nghe có vẻ hơi điên rồ, - Emma nói. - Xin lỗi, Mill, nhưng tớ không thấy cách đó có thể thành công.
- Thế thì may cho các cậu là tớ đã dành thời gian trên tàu vào tìm hiểu thay vì tán dóc. Ai đưa cho tớ quyển Những truyện kể nào!
Bronwyn lấy cuốn sách từ trong rương ra và đưa nó cho Millard. Cậu ta hồ hởi đón lấy, lật giở các trang.
- Có rất nhiều câu trả lời có thể tìm thấy trong này, - cậu ta nói, - chỉ cần các cậu biết cần tìm cái gì.
Cậu ta dừng lại ở một trang rồi gõ ngón tay lên đầu trang.
- A ha! - cậu ta reo lên, xoay cuốn sách lại để chỉ cho chúng tôi thấy thứ mình vừa tìm được.
Tiêu đề câu chuyện là “Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul”.
- Chúa ban phước cho tớ, - Bronwyn nói. - Có lẽ nào đó chính là những con bồ câu chúng ta đang nói tới?
- Nếu chúng được nhắc tới trong Những truyện kể, gần như chắc chắn chúng là những con bồ câu đặc biệt, - Millard nói, - và liệu có thể có bao nhiêu bầy bồ câu đặc biệt đây?
Olive vỗ tay reo lên:
- Millard, cậu giỏi quá!
- Xin cảm ơn, phải, tớ biết thế mà.
- Đợi đã, tớ không hiểu, - tôi nói. - Nhà thờ Thánh Paul là gì vậy?
- Đến tớ cũng biết, - Olive nói. - Nhà thờ Lớn!
Rồi cô bé đi tới cuối con hẻm, đưa tay chỉ lên một mái vòm lớn nhô cao lên ngoài xa.
- Đó là giáo đường lớn và tráng lệ nhất ở London, - Millard nói, - và nếu tớ đoán không sai, đó cũng là nơi bầy bồ câu của cô Wren cư ngụ.
- Hãy hy vọng là chúng có nhà, - Emma nói. - Và chúng có tin tốt cho chúng ta. Gần đây chúng ta đã quá thiếu thứ đó rồi.
* * *
Trong khi chúng tôi đi vòng vèo qua một mê cung những đường phố hẹp về phía Nhà thờ Lớn, một sự im lặng ủ ê bao trùm lên chúng tôi. Suốt hồi lâu không ai nói gì, chỉ còn lại tiếng giày chúng tôi giẫm lên vỉa hè và những âm thanh của thành phố: máy bay, tiếng xe cộ đi lại ầm ì không ngớt, những tiếng còi vang lên nối tiếp nhau trên đủ cung bậc xung quanh.
Càng đi xa nhà ga, chúng tôi càng thấy nhiều bằng chứng về những trận bom đã giội xuống London. Mặt tiền các tòa nhà bị mảnh bom phá lỗ chỗ. Những khung kính cửa sổ vỡ tan tành. Những đường phố lấp lánh rải đầy mảnh kính vỡ. Bầu trời lấm chấm những khí cầu nhỏ màu bạc căng phồng được buộc xuống đất bằng những sợi cáp dài.
- Khí cầu phòng thủ, - Emma nói khi cô thấy tôi nghển cổ nhìn về phía một quả. - Máy bay ném bom Đức chạm phải các sợi cáp trong đêm và rơi xuống.
Rồi chúng tôi tới trước một cảnh hủy diệt kỳ lạ đến mức tôi phải dừng lại và há hốc miệng nhìn - không phải vì một sở thích ngắm nghía quái gở nào đó, mà vì bộ óc của tôi không tài nào hiểu nổi nếu không xem xét kỹ hơn. Một hố bom mở ra toang hoác suốt bề rộng của con phố như một cái miệng khủng khiếp với hai hàm răng là vỉa hè vỡ nát. Ở một bên rìa, vụ nổ đã xé toang bức tường mặt tiền của một tòa nhà song lại để phần bên trong gần như còn nguyên vẹn. Trông như một ngôi nhà búp bê, tất cả các căn phòng bên trong đều mở toang ra ngoài phố: phòng ăn với bàn ăn vẫn đang bày sẵn cho một bữa ăn; những bức ảnh gia đình bị hất nghiêng trong một lối đi song vẫn treo trên móc; một cuộn giấy vệ sinh bị bật tung ra và gặp một cơn gió nhẹ bay lên lất phất trong không khí như một lá cờ trắng dài.
- Có phải họ quên không xây xong nó không? - Olive hỏi.
- Không phải, ngốc ạ, - Enoch nói. - Nó bị trúng bom.
Trong giây lát trông Olive như thể sắp khóc, nhưng rồi khuôn mặt cô bé trở nên đầy phẫn nộ, cô liền giơ nắm tay lên trời và la lớn:
- Hitler xấu xa! Chấm dứt cuộc chiến tranh ghê tởm này và đi cả đi!
Bronwyn vỗ lên cánh tay cô bé.
- Suỵt. Hắn không nghe thấy cậu được đâu, cô bé.
- Thật không công bằng, - Olive nói. - Tớ chán máy bay, bom và chiến tranh lắm rồi!
- Ai chả thế, - Enoch nói. - Thậm chí cả tớ.
Thế rồi tôi nghe thấy Horace hét toáng lên, tôi liền quay ngoắt lại và thấy cậu ta chỉ tay vào thứ gì đó trên đường. Tôi chạy tới xem là gì, rồi tôi cũng thấy và đứng khựng lại, cứng đờ, trong đầu thầm la lên Chạy mau! nhưng đôi chân tôi nhất định không nghe theo.
Đó là một đống đầu người xếp thành hình kim tự tháp. Chúng cháy đen, toàn những hốc, miệng há hoác, mắt bị hun nóng nhắm chặt, chảy ra và đọng lại thành giọt như một con quái vật nhiều đầu ghê rợn nào đó. Thế rồi Emma tới xem, thảng thốt kêu lên và quay mặt đi; Bronwyn tới và bắt đầu nức nở; Hugh nôn khan rồi đưa tay lên che mắt; và cuối cùng đến lượt Enoch, cậu ta có vẻ chẳng chút chấn động, bình thản dùng giày đá đá vào một trong những cái đầu và chỉ ra rằng chúng chỉ là ma nơ canh làm bằng sáp đã bị bắn ra từ cửa kính trưng bày của một cửa hiệu tóc giả bị trúng bom. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy có chút ngượng ngùng nhưng không hiểu sao vẫn kinh hoàng như trước, vì dù những cái đầu này không phải thật, chúng cũng đại diện cho thứ tương tự đang bị vùi lấp trong đống đổ nát quanh chúng tôi.
- Đi thôi - Emma nói. - Nơi này chỉ là một nấm mồ.
Chúng tôi đi tiếp. Tôi cố dán mắt xuống đất, nhưng không thể nào làm ngơ được trước tất cả những thứ khủng khiếp chúng tôi đi ngang qua. Một đống đổ nát nham nhở cuồn cuộn khói, người lính cứu hỏa duy nhất được phái tới dập nó buông thõng tay thua cuộc, người đầy vết bỏng rộp, mệt mỏi, vòi nước cạn khô. Ấy thế nhưng anh ta vẫn đứng quan sát nó, như thể khi không còn nước, giờ đây công việc của anh ta là làm nhân chứng.
Một đứa trẻ ngồi trong xe nôi bị bỏ một mình trên phố đang khóc thét.
Bronwyn không kìm được lòng, bèn đi chậm lại.
- Chúng ta không thể giúp họ bằng cách nào đó sao?
- Sẽ chẳng có gì khác biệt cả, - Millard nói. -- Những người này thuộc về quá khứ, và không thể thay đổi được quá khứ.
Bronwyn buồn bã gật đầu. Cô biết điều đó đúng nhưng cần phải được nghe ai đó nói nó ra. Chúng tôi gần như không thuộc về nơi đây, và cũng bất lực như những hồn ma.
Một đám mây tro vần vũ cuộn lên, che khuất người lính cứu hỏa và đứa bé. Chúng tôi đi tiếp, ngột ngạt trong đám bụi bị gió cuộn tung lên đem tới, bột bê tông nát vụn bám lên quần áo chúng tôi, còn mặt chúng tôi thì trắng bệch như xương.
* * *
Chúng tôi hối hả băng qua các khối nhà đổ nát nhanh hết mức có thể, rồi ngỡ ngàng khi các con phố sống lại quanh mình. Chỉ cách địa ngục có vài bước chân, người ta đang hối hả đi tới chỗ làm việc, sải bước trên vỉa hè, sống trong những tòa nhà vẫn có điện và còn đủ cửa sổ, tường. Rồi chúng tôi rẽ vào một góc phố và mái vòm Nhà thờ Lớn hiện ra, kiêu hãnh, đồ sộ bất chấp những vệt đá nhuốm đen vì khói và vài vòm cuốn đổ sụp. Như linh hồn của chính thành phố, chỉ vài quả bom thì chẳng thể đánh sập được Nhà thờ Thánh Paul.
Cuộc săn tìm của chúng tôi bắt đầu từ một quảng trường gần Nhà thờ Lớn, nơi những người già ngồi trên các băng ghế đang cho bồ câu ăn. Thoạt đầu thật hỗn loạn: chúng tôi ùa tới, nháo nhào vồ tóm trong khi lũ bồ câu bay vụt lên. Những người già bất bình cằn nhằn, và chúng tôi rút lui để chờ lũ chim quay trở lại. Chúng cuối cùng cũng quay trở lại, vì bồ câu không phải loài vật khôn ngoan nhất trên trái đất này, đến khi đó tất cả chúng tôi thay nhau làm ra vẻ thản nhiên đi qua giữa bầy của chúng, tìm cách bất ngờ bắt lấy chúng, đưa tay xuống chộp. Tôi nghĩ Olive, vốn nhỏ người và nhanh nhẹn, hay Hugh, nhờ mối liên hệ đặc biệt của cậu với một loài sinh vật có cánh khác, có thể sẽ may mắn ít nhiều, nhưng cả hai đều một phen ê chề. Millard cũng chẳng may mắn hơn, mà đấy là lũ chim còn không thể trông thấy cậu ta. Đến khi tới lượt tôi, hẳn lũ bồ câu đã phát chán với việc chúng tôi quấy quả chúng, vì ngay khoảnh khắc tôi bước chân vào quảng trường, tất cả chúng cùng vụt bay lên và đồng loạt trút xuống một trận mưa bom chất thải khiến tôi phải nhào tới một vòi phun nước để gột cả đầu.
Cuối cùng, chính Horace là người bắt được một con chim. Cậu ta ngồi xuống cạnh những người già, rắc hạt cho tới khi lũ chim lượn tới quanh mình. Rồi từ từ cúi người ra trước, cậu ta vươn hai cánh tay ra bình tĩnh hết mức có thể và chộp lấy hai chân một con chim.
- Bắt được mày rồi! - cậu ta reo lên.
Con chim đập cánh và cố thoát đi, nhưng Horace giữ thật chắc. Cậu ta mang con chim lại chỗ chúng tôi.
- Làm sao chúng ta biết được nó có đặc biệt hay không? - cậu ta nói, lật ngửa con chim lên để kiểm tra phần bụng xem có tấm thẻ nào không.
- Mang nó tới cho cô Peregrine xem, - Emma nói. - Cô sẽ biết.
Thế là chúng tôi mở chiếc rương của Bronwyn ra, thả con bồ câu vào trong với cô Peregrine, rồi đóng nắp lại. Con bồ câu kêu rít lên như thể nó đang bị xé ra thành từng mảnh.
Tôi nhăn mặt và lớn tiếng, “Bình tĩnh nào, cô P!”.
Khi Bronwyn lại mở nắp rương, một đám lông bồ câu phất phơ bay lên không, nhưng con bồ câu thì chẳng thấy đâu nữa.
- Ôi không, cô ấy đã ăn thịt nó! - Bronwyn la lên.
- Không đâu, - Emma nói. - Hãy nhìn xuống phía dưới cô ấy.
Cô Peregrine đứng dậy bước sang một bên, và bên dưới bà là con bồ câu, vẫn còn sống nhưng đờ đẫn.
- Thế nào? - Enoch hỏi. - Có phải là một con chim của cô Wren không?
Cô Peregrine dùng mỏ thúc vào con chim và nó bay vụt đi. Sau đó bà nhảy ra khỏi rương, tập tễnh nhảy vào quảng trường, và bằng một tiếng kêu thật to xua nốt những con bồ câu còn lại dạt cả đi. Thông điệp của bà đã rõ: không chỉ con bồ câu Horace bắt được không đặc biệt, mà những con còn lại cũng thế. Chúng tôi cần tiếp tục tìm kiếm.
Cô Peregrine tập tễnh về phía Nhà thờ Lớn và nóng nảy đập cánh. Chúng tôi bắt kịp bà trên các bậc thềm nhà thờ. Tòa nhà vươn lên sừng sững trên đầu chúng tôi, các tháp chuông cao vút kề hai bên mái vòm khổng lồ. Cả một đạo quân các thiên thần bị ám đen muội khói giương mắt nhìn xuống chúng tôi từ trên những cái bệ bằng cẩm thạch.
- Làm thế nào chúng ta kiểm tra được hết cả chỗ này chứ? - tôi hỏi thành tiếng.
- Từng phòng một, - Emma nói.
Một tiếng động lạ lùng làm chúng tôi sững lại trước cửa. Nghe như tiếng còi chống trộm của xe hơi ngoài xa, âm thanh lên cao rồi trầm xuống thành từng đợt dài, chậm rãi. Nhưng tất nhiên không thể có cái còi chống trộm của xe hơi nào vào năm 1940. Đó là còi báo động phòng không. Horace cau có.
- Bọn Đức đang tới! - cậu ta kêu lên. - Cái chết từ trên trời!
- Chúng ta không biết nó có nghĩa là gì, - Emma nói. - Có thể là báo động nhầm, hay một cuộc diễn tập.
Nhưng các con phố và quảng trường đã nhanh chóng vắng tanh: những người già đang gấp báo của họ lại và rời khỏi các băng ghế.
- Có vẻ họ không nghĩ đó là một cuộc diễn tập, - Horace nói.
- Từ khi nào chúng ta bắt đầu sợ vài quả bom vậy? - Enoch nói. - Hãy thôi nói như một bà già người thường đi.
- Tớ có cần nhắc để cậu nhớ hay không đây, - Millard nói, - rằng đây không phải là thứ bom chúng ta vẫn quen. Không như những quả bom rơi xuống Cairnholm, chúng ta sẽ không biết chúng rơi xuống đâu!
- Càng thêm lý do để tìm thứ chúng ta tới tìm, nhanh lên nào! - Emma nói, và cô dẫn chúng tôi vào trong.
* * *
Không gian bên trong Nhà thờ Lớn thật đồ sộ - có vẻ như còn rộng lớn hơn bên ngoài tới mức phi lý - và cho dù nó đã bị hư hại, vài tín đồ bạo gan vẫn quỳ gối rải rác đây đó âm thầm cầu nguyện. Ban thờ bị chôn vùi dưới một đống đổ nát. Tại vị trí một quả bom xuyên qua mái, ánh mặt trời rọi xuống thành từng chùm rộng. Một người lính đơn độc ngồi trên một cột trụ bị đổ, ngước mắt chăm chú nhìn lên trời qua mái nhà bị thủng.
Chúng tôi tha thẩn bước đi, những mảnh bê tông và ngói vỡ kêu rào rạo dưới chân chúng tôi.
- Tớ chẳng trông thấy gì cả, - Horace than vãn. - Trong này có đủ chỗ trốn cho cả mười nghìn con bồ câu!
- Đừng nhìn, - Hugh nói. - Hãy lắng nghe.
Chúng tôi dừng lại, căng tai ra để nghe những tiếng cu cu quen thuộc của bồ câu. Song chỉ có tiếng rền rĩ không ngừng của còi báo động phòng không, và dưới âm thanh đó là một chuỗi tiếng răng rắc trầm đục như sấm rền. Tôi tự nhủ cần giữ bình tĩnh, song tim tôi vẫn nện thình thình như đánh trống.
Bom đang rơi xuống.
- Chúng ta cần đi thôi, - tôi nói, cơn hoảng hốt làm giọng tôi nghẹn lại. - Chắc phải có hầm trú ẩn gần đây. Một nơi an toàn để chúng ta ẩn náu.
- Nhưng chúng ta đã gần tới đích rồi! - Bronwyn nói. - Không thể bỏ cuộc lúc này được!
Một tiếng răng rắc sụp đổ nữa vang lên, lần này ở gần hơn, và những đứa trẻ khác cũng bắt đầu cảm thấy bất an.
- Có thể Jacob có lý, - Horace nói. - Chúng ta hãy tìm một nơi an toàn để trú ẩn cho tới khi trận ném bom kết thúc. Sau đó chúng ta có thể tìm kiếm thêm.
- Chẳng nơi nào thực sự an toàn cả, - Enoch nói. - Những quả bom đó thậm chí có thể xuyên xuống những cái hầm ở dưới sâu.
- Chúng không thể xuyên qua một Vòng Thời Gian, - Emma nói. - Và nếu có một truyện kể về Nhà thờ Lớn này, rất có thể ở đây có lối vào của một Vòng Thời Gian.
- Có thể, - Millard nói, - có thể, có thể. Đưa tớ quyển sách để tớ tìm xem.
Bronwyn mở rương ra và đưa Millard cuốn sách.
- Để tớ xem nào, - cậu ta nói, giở các trang ra cho tới khi đến “Những con bồ câu ở Nhà thời Thánh Paul”.
Bom đang rơi xuống và chúng ta lại đọc truyện, tôi thầm nghĩ. Mình đã bước chân vào vương quốc của sự điên rồ mất rồi.
- Nghe cho kỹ này! - Millard nói. - Nếu có lối vào một Vòng Thời Gian gần đây, câu chuyện có thể sẽ cho chúng ta biết cách tìm ra nó. May mà câu chuyện này cũng ngắn.
Một quả bom rơi xuống bên ngoài. Sàn nhà rung chuyển và vôi vữa rơi như mưa từ trên trần xuống. Tôi nghiến chặt hai hàm răng và cố tập trung vào nhịp thở của mình. Không chút hốt hoảng, Millard hắng giọng.
- “Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul!” - cậu ta bắt đầu đọc với giọng to, vang.
- Chúng ta biết tên truyện rồi! - Enoch nói.
- Làm ơn đọc nhanh hơn đi! - Bronwyn giục.
- Nếu các cậu không thôi ngắt lời tớ, chúng ta sẽ ở đây cả đêm đấy, - Millard nói, rồi cậu ta đọc tiếp. - Ngày xửa ngày xưa vào thời của người đặc biệt, rất lâu trước khi có những tòa tháp, gác chuông hay bất cứ công trình cao nào tại thành phố London, có một bầy bồ câu nảy ra trong đầu ý muốn có một nơi cao, đẹp để trú ngụ, xa phía trên sự ồn ào náo động của xã hội loài người. Chúng cũng biết cần xây nơi đó như thế nào, vì bồ câu là các nhà xây dựng tự nhiên, và thông minh hơn nhiều so với những gì ta nghĩ. Nhưng cư dân tại London xa xưa không quan tâm đến việc xây những công trình cao, vì vậy một đêm nọ những con bồ câu chui vào buồng ngủ của một trong những người cần cù nhất chúng có thể tìm được và thì thầm vào tai ông ta bản thiết kế một tòa tháp huy hoàng.
Vào buổi sáng, người đàn ông thức giấc trong tâm trạng cực kỳ phấn khích. Ông ta đã mơ - hoặc nghĩ là vậy - về một nhà thờ nguy nga tráng lệ với một đỉnh chóp đồ sộ vươn cao sẽ mọc lên từ quả đồi cao nhất thành phố. Vài năm sau, với cái giá khổng lồ đối với con người, công trình được xây dựng. Đó là một tòa tháp vô cùng đồ sộ, có tất cả các kiểu ngóc ngách, lỗ hốc nơi lũ bồ câu có thể sinh sống, và chúng rất hài lòngvới bản thân.
Thế rồi tới một ngày người Viking cướp phá thành phố và đốt trụi tòa tháp tới tận nền, thế là lũ bồ câu lại phải tìm một kiến trúc sư khác, thì thầm vào tai người đó, rồi kiên nhẫn chờ đợi một ngọn tháp nhà thờ mới được xây lên - lần này còn cao và đồ sộ hơn ngọn tháp đầu tiên. Và tòa tháp được xây lên, rất đồ sộ và rất cao. Và sau đó cũng bị đốt trụi.
Mọi thứ diễn ra như thế suốt hàng trăm năm, các tòa tháp bị đốt và lũ bồ câu thì thầm những thiết kế cho các tòa tháp còn đồ sộ hơn, cao hơn cho các thế hệ kiến trúc sư tìm thấy cảm hứng trong đêm kế tiếp nhau. Cho dù các kiến trúc sư này chẳng bao giờ nhận ra món nợ của họ với những con chim, họ vẫn đối xử với chúng rất tử tế, cho phép chúng đậu xuống bất cứ chỗ nào chúng thích, trong các gian giáo đường và các tháp chuông, như những vật lấy khước và bảo trợ cho nhà thờ đúng với vai trò thực của chúng.
- Những cái này chẳng ích lợi gì cả, - Enoch nói. - Tìm đến phần có lối vào Vòng đi!
- Tớ đang đọc tới chỗ tớ đọc tới! - Millard cấm cẳn.
- Cuối cùng, sau khi rất nhiều tòa tháp đến rồi đi, bản thiết kế của bầy bồ câu trở nên tham vọng tới mức phải mất rất nhiều thời gian để tìm ra một người đủ thông minh để thực hiện. Khi cuối cùng chúng cũng tìm được, nhưng người này cự lại, tin rằng ngọn đồi bị nguyền rủa vì đã có quá nhiều nhà thờ bị đốt trụi ở đó trong quá khứ. Dù ông ta cố xua ý tưởng này ra khỏi đầu, bầy bồ câu vẫn liên tục trở lại, hết đêm này qua đêm khác, để thì thầm nó vào tai ông ta. Song ông ta vẫn không chịu hành động, Vậy là lũ chim tìm đến ông ta vào ban ngày, điều chúng chưa từng làm trước đó, và nói với người đàn ông bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng rộn tiếng cười của chúng rằng ông ta là người duy nhất có khả năng xây dựng tòa tháp của chúng, và chỉ đơn giản là ông ta phải làm điều đó. Nhưng người đàn ông từ chối và xua lũ chim ra khỏi nhà mình, hét lên, “Xùy, xéo đi, lũ chim bẩn thỉu!”.
Lũ bồ câu, bị sỉ nhục và đầy hiềm thù, ám ảnh người đàn ông cho tới lúc ông ta hầu như hóa điên - bám theo ông ta tới bất cứ đâu, kéo quần áo, giật tóc ông ta, làm bẩn đồ ăn của ông ta bằng lông đuôi của chúng, gõ vào cửa sổ nhà ông ta ban đêm để ông ta không ngủ nổi - cho tới một ngày ông ta phải quỳ gối xuống và la lên, “Ôi các ngài bồ câu! Tôi sẽ xây bất cứ cái gì các ngài yêu cầu, miễn là các ngài canh chừng nó và gìn giữ để nó không cháy trụi”.
Lũ bồ câu băn khoăn suy nghĩ về chuyện này. Trao đổi với nhau, chúng đi tới kết luận chúng đã có thể là những người bảo vệ tốt hơn cho các tòa tháp trong quá khứ nếu chúng không hào hứng với việc xây tháp thái quá tới vậy, và thề sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ các tòa tháp trong tương lai. Vậy là người đàn ông xây công trình, một nhà thờ lớn đồ sộ nguy nga với hai tòa tháp và một mái vòm. Công trình thật tráng lệ, và cả người lẫn bồ câu đều hài lòng với những gì họ tạo ra tới mức trở thành những người bạn chí thân; người đàn ông không bao giờ đi đâu trong suốt phần đời còn lại của mình mà không có một con bồ câu ở kề bên để tư vấn cho ông. Thậm chí khi ông qua đời lúc đã rất già và hạnh phúc, bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới. Và tới tận ngày này, bạn vẫn sẽ tìm thấy nhà thờ lớn họ xây dựng tọa lạc trên quả đồi cao nhất London, những con bồ câu vẫn trông coi công trình. - Millard gập sách lại. - Hết.
Emma thốt lên tuyệt vọng.
- Phải rồi, nhưng trông coi từ đâu mới được chứ?
- Trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, - Enoch nói, - nó cũng vô tích sự chẳng kém gì một câu chuyện về lũ mèo trên Mặt Trăng.
- Tớ chả hiểu đầu cua tai nheo gì cả, - Bronwyn nói. - Có ai hiểu không?
Tôi gần như có thể - cảm thấy gần chạm tới gì đó trong câu nhắc tới “khu đất bên dưới” - nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: Lũ bồ câu đang ở dưới địa ngục sao?
Thế rồi một quả bom nữa rơi xuống, làm rung chuyển cả công trình, và từ trên cao đột nhiên vang lên tiếng đập cánh phành phạch. Chúng tôi nhìn lên và thấy ba con bồ câu hoảng hốt bay vụt ra từ nơi ẩn náu nào đó trên các xà mái. Cô Peregrine kêu lên đầy phấn khích - như thể muốn nói: Là chúng đấy!- Bronwyn liền nâng bà lên, rồi tất cả chúng tôi cùng ùa theo mấy con chim. Chúng bay xuống dọc chiều dài giáo đường chính, rồi ngoặt gấp, biến mất qua một khung cửa.
Chúng tôi tới chỗ khung cửa đó muộn hơn vài giây. Tôi nhẹ nhõm khi thấy nó không mở ra ngoài, nếu vậy chúng tôi sẽ không bao giờ có hy vọng bắt được mấy con chim, và ra một giếng cầu thang, dẫn xuống những bậc thang xoáy trônốc.
- Ái chà! - Enoch thốt lên, vỗ vỗ hai bàn tay mập mạp ngắn ngủn. - Giờ chúng đã tự rúc vào bẫy - tự nhốt mình dưới tầng hầm!
Chúng tôi hối hả lao xuống cầu thang. Dưới chân cầu thang là một căn phòng rộng sáng lờ mờ, tường và sàn đều bằng đá. Căn phòng lạnh lẽo, ẩm thấp và gần như tối om vì điện đã bị cắt, vì thế Emma thắp lửa trên bàn tay cô và đưa lên chiếu ra xung quanh, cho tới khi có thể thấy rõ thực trạng của nơi này. Dưới chân chúng tôi, trải ra trên khắp mặt sàn giữa các bức tường là những tấm bia cẩm thạch có khắc chữ. Tấm bia dưới chân tôi khắc:
GIÁM MỤC ELDRIDGE THORNBRUSH, MẤT NĂM 1721.
- Đây không phải là tầng hầm, - Emma nói. - Đây là một hầm mộ.
Một cơn ớn lạnh lan ra khắp người tôi, tôi bèn bước lại gần ánh sáng và hơi ấm từ ngọn lửa của Emma.
- Ý cậu là có những người được chôn dưới sàn à? - Olive hỏi , giọng run rẩy.
- Thế thì sao? - Enoch nói. - Chúng ta hãy đi bắt mấy con bồ câu mắc dịch đó trước khi một trong những quả bom vùi chúng ta dưới sàn.
Emma quay một vòng, hướng ánh sáng chiếu lên các bức tường.
- Chúng nhất định phải ở đâu đó dưới này. Không còn lối ra nào ngoài cầu thang đó.
Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng đập cánh. Tôi cứng người lại. Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn và hướng nó về phía tiếng động. Ánh sáng chập chờn cô tạo ra hắt xuống một ngôi mộ nắp phẳng nhô lên khỏi mặt sàn chừng một mét. Giữa ngôi mộ và tường là một khoảng trống mà chúng tôi không thể thấy được phía sau từ chỗ chúng tôi đang đứng; một nơi ẩn náu lý tưởng cho một con chim.
Emma đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng rồi ra dấu bảo chúng tôi  đi theo.
Chúng tôi bò qua căn phòng. Đến gần ngôi mộ, chúng tôi tản rộng ra, vây lấy nó từ ba phía.
Sẵn sàng chưa? Emma mấp máy môi.
Những người còn lại gật đầu. Tôi giơ ngón cái lên. Emma rón rén bước tới ngó vào đằng sau ngôi mộ - và mặt cô ỉu xìu. “chẳng có gì cả!”, cô nói, thất vọng giậm chân xuống sàn.
- Tớ không hiểu! - Enoch nói. - Lúc nãy chúng ở ngay đây mà!
Tất cả chúng tôi cùng bước tới xem. Rồi Millard nói:
- Emma! Làm ơn chiếu sáng lên mặt mộ nào!
Cô làm theo, và Millard đọc to những gì được khắc trên đó lên thành tiếng:
NƠI ĐÂY AN NGHỈ NGÀI CHRISTOPHER WREN, NGƯỜI XÂY DỰNG NHÀ THỜ LỚN NÀY.
- Wren! - Emma thốt lên. - Một trùng hợp lạ lùng làm sao!
- Tớ không nghĩ đây là trùng hợp ngẫu nhiên, - Millard nói. - Ông ta nhất định có liên quan tới cô Wren. Có thể là bố bà ấy!
- Rất thú vị, - Enoch nói, - nhưng nó có thể giúp chúng ta tìm ra bà ấy hay lũ bồ câu của bà ấy thế nào đây?
- Đó chính là điều tớ đang muốn lý giải, - Millard lẩm nhẩm một mình, đi đi lại lại một chút và nhắc lại một câu trong truyện: “bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới”.
Thế rồi tôi nghĩ tôi nghe thấy một con bồ câu kêu cu cu.
- Suỵt! - tôi nói, và ra hiệu bảo mọi người lắng nghe.
Âm thanh đó lại vang lên vài giây sau, từ góc phía sau mộ. Tôi đi vòng tới đó và quỳ xuống, và đúng lúc ấy tôi để ý thấy một cái lỗ nhỏ trên sàn dưới chân mộ, chỉ to cỡ lọt nắm tay - đủ lớn để một con chim chui vừa.
- Lại đây! - tôi nói.
- À, ngạc nhiên thật! - Emma thốt lên, đưa ngọn lửa của cô tới phía trên cái lỗ. - Có lẽ đó là “khu đất bên dưới” chăng?
- Nhưng cái lỗ bé quá, - Olive nói. - Làm sao chúng ta có thể lôi lũ chim ra khỏi đó được?
- Chúng ta có thể đợi chúng chui ra, - Horace nói, rồi một quả bom rơi xuống rất gần, đến mức làm mắt tôi hoa lên mờ tịt, hai hàm răng va lập cập.
- Không cần phải thế! - Millard nói. - Bronwyn, cậu có thể làm ơn mở mộ của ngài Wren ra được không?
- Không! - Olive kêu lên. - Tớ không muốn thấy bộ xương mục của ông ấy!
- Đừng lo, cô bé yêu quý, - Bronwyn nói, - Millard biết cậu ấy đang làm gì.
Cô đặt hai bàn tay lên rìa nắp mộ và bắt đầu đẩy, và tấm nắptrượt mở ra theo tiếng kèn kẹt chậm rãi. Mùi bốc lên không phải thứ tôi lường đến - không phải của cái chết, mà của hơi mốc và đất lâu năm. Chúng tôi xúm lại xung quanh và nhìn vào trong.
- À, ngạc nhiên thật, - Emma nói.

Chương 9


Nơi đáng lẽ phải có một cỗ quan tài lại có một cái thang dẫn xuống bóng tối. Chúng tôi cùng ngó vào trong ngôi mộ vừa mở.
- Không có chuyện tớ trèo xuống dưới đó đâu nhé! - Horace nói.
Nhưng rồi ba cú bom làm rung chuyển tòa nhà, làm các mảnh bê tông rơi như mưa xuống đầu chúng tôi, và đột nhiên Horace leo qua bên tôi, chộp lấy cái thang.
- Xin lỗi, làm ơn tránh đường cho tớ, người mặc bảnh nhất đi đầu tiên!
Emma tóm lấy tay áo cậu ta.
- Tớ có ánh sáng, thế nên tớ sẽ đi đầu tiên. Rồi Jacob sẽ theo sau, phòng khi có... những thứ đó ở dưới kia.
Tôi thoáng nở một nụ cười yếu ớt, chỉ nguyên ý nghĩ đó đã làm hai đầu gối tôi mềm nhũn. Enoch nói:
- Ý cậu là những thứ khác ngoài chuột cống, vi khuẩn tả và tất cả những thứ điên rồ vẫn hay tồn tại dưới các hầm mộ hả?
- Có gì dưới đó cũng chẳng quan trọng, - Millard ảm đạm nói. - Chúng ta sẽ phải đối diện với nó, vậy thôi.
- Được lắm, - Enoch nói. - Nhưng tốt hơn cô Wren cũng nên có dưới đó, vì các vết chuột cống cắn không khỏi nhanh đâu.
- Những vết hồn rỗng cắn thậm chí còn khó lành hơn, - Emma nói, rồi cô đặt chân lên thang.
- Cẩn thận, - tôi nói. - Tớ sẽ ở ngay trên cậu.
Cô chào tôi bằng bàn tay bốc cháy của mình.
- Thêm một lần xuống hố nữa nào, - cô nói, và bắt đầu leo xuống.
Sau đó đến lượt tôi.
- Các cậu đã bao giờ leo xuống một lòng mộ mở toang giữa một trận oanh tạc, - tôi nói, - và chỉ ước gì mình ở yên trên giường chưa?
Enoch đá vào giày tôi.
- Thôi nhùng nhằng đi.
Tôi bám vào gờ mộ và đặt chân lên thang. Và trong chốc lát thoáng nghĩ tới tất cả những điều vui vẻ, nhàm chán có thể tôi đã thực hiên trong mùa hè của mình nếu cuộc đời tôi diễn ra khác đi. Trại tennis. Tập thuyền buồm. Những cái giá bày hàng. Thế rồi, nhờ một nỗ lực ý chí khổng lồ, tôi buộc mình leo xuống.
Chiếc thang dẫn xuống một đường hầm. Đường hầm cụt ở một đầu, còn ở hướng đối diện chạy hun hút vào bóng tối. Không khí lạnh lẽo, ngột ngạt với một thứ mùi lạ lùng, giống như mùi quần áo bị bỏ mặc cho mục nát trong một tầng hầm ngập nước. Mặt đá thô ráp của bờ tường đọng những giọt hơi ẩm có nguồn gốc bí hiểm chảy dài xuống.
Trong lúc Emma và tôi đợi tất cả mọi người leo xuống, hơi lạnh dần dà len lỏi ngấm vào trong tôi. Những người khác cũng cảm thấy điều đó. Khi Bronwyn xuống tới nơi, cô mở cái rương của mình ra và phân phát những chiếc áo len làm từ lông những con cừu đặc biệt chúng tôi đã được tặng tại trại động vật. Tôi xỏ một chiếc qua đầu. Cái áo ôm trùm lấy tôi như một cái bao tải, hai ống tay áo dài quá các ngón tay tôi, còn gấu áo thì lơ lửng trùm xuống gần đầu gối, song ít nhất nó cũng ấm.
Giờ thì cái rương của Bronwyn đã rỗng không, và cô bỏ nó lại. Cô Peregrine tiếp tục hành trình bên trong áo khoác của cô gái, trên thực tế bà đã biến nó thành tổ của mình. Millard nhất quyết đòi mang quyển Những truyện kể trong tay, bất chấp sự nặng nề, cồng kềnh của nó, vì cậu ta có thể sẽ cần tham khảo tới cuốn sách vào bất cứ lúc nào, Millard nói vậy. Song tôi nghĩ cuốn sách đã trở thành tấm lá chắn an toàn cho cậu ta, và cậu ta nghĩ về nó như một cuốn sách kỳ bí mà chỉ mình cậu ta đọc được.
Chúng tôi là một nhóm thật lạ lùng.
Tôi bước lên trước để cảm nhận xem trong bóng tối có hồn rỗng hay không. Lần này, tôi có một cảm giác đau thắt trong bụng thật mới mẻ, dù rất nhẹ, như thể một con hồn rỗng đã có mặt ở đây rồi rời khỏi, và tôi đang cảm thấy dư vị của nó. Song tôi không đả động gì tới cảm giác này; chẳng có lý do gì để làm tất cả mọi người lo lắng không cần thiết.
Chúng tôi bước đi. Tiếng bước chân chúng tôi giẫm lên những viên gạch ướt vọng lại vô tận về hai đầu đường hầm. Chẳng có cách nào để lẩn trốn bất cứ thứ gì đang chờ đợi chúng tôi.
Thỉnh thoảng, từ phía trước, chúng tôi lại nghe thấy một tiếng đập cánh hay tiếng kêu của bồ câu, và chúng tôi rảo chân nhanh lên một chút. Tôi có cảm giác thật bất an là chúng tôi đang bịdẫn tới một bất ngờ khủng khiếp nào đó. Gắn trên các bức tường là những tấm bia đá như những tấm bia chúng tôi đã thấy trong hầm mộ, nhưng xa xưa hơn, chữ khắc bên trên hầu hết đã mờ hẳn. Rồi chúng tôi đi ngang qua một chiếc quan tài không huyệt mộ, được đặt trên sàn - rồi cả một đống những chiếc quan tài như thế được xếp chồng lên nhau tựa vào một bức tường như những chiếc thùng đựng đồ chuyển nhà bị bỏ đi.
- Chỗ này là thế nào vậy? - Hugh thì thào.
- Quá tải nghĩa địa, - Enoch nói. - Khi người ta cần chỗ cho các khách hàng mới, họ đào các vị khách hàng cũ lên rồi nhét bọn họ xuống dưới này.
- Một lối vào Vòng Thời Gian mới kinh khủng làm sao, - tôi nói. - Thử hình dung đến việc phải đi qua chỗ này mỗi khi cậu muốn vào hay ra mà xem!
- Cũng chẳng khác mấy so với đường hầm trong mộ đá của chúng ta, - Millard nói. - Những lối vào Vòng đáng sợ có một mục đích - những người bình thường có xu hướng tránh xa chúng, vậy là những người đặc biệt chúng ta có được chúng cho riêng mình.
Thật hợp lý. Thật khôn ngoan. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: Có những người chết ở khắp nơi và tất cả họ đã mục nát, xương xẩu và đã chết, và ôi Chúa ơi...
“Ái chà”, Emma thốt lên, và cô đột ngột dừng lại, khiến tôi đâm sầm vào cô và những người khác dồn đống lại sau lưng tôi.
Cô giơ ngọn lửa của mình chiếu sang một bên, để lộ ra một khung cửa vòm trên tường. Cánh cửa hơi hé mở, nhưng qua kẽ hở chỉ có thể thấy toàn bóng tối.
Chúng tôi lắng nghe. Suốt một hồi lâu không có âm thanh nào ngoài hơi thở của chúng tôi và tiếng nước nhỏ giọt ngoài xa. Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng động, nhưng không phải loại chúng tôi trông đợi - không phải tiếng đập cánh hay tiếng cào cào bàn chân của một con chim - mà là một âm thanh của con người.
Ai đó đang khóc, rất khẽ.
- Xin chào? - Emma gọi. - Ai ở đó vậy?
- Làm ơn đừng làm đau tôi, - một giọng nói vọng ra.
Hay đó là hai giọng nói nhỉ?
Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn. Bronwyn dò dẫm bước tới trước lấy bàn chân đạp vào cửa. Cánh cửa mở vào một căn phòng nhỏ toàn xương là xương. Xương đùi, xương cẳng chân, xương sọ - những phần cơ thể bị đào từ dưới mộ lên của hàng trăm người, lổn nhổn chồng chất.
Tôi loạng choạng lùi lại, xây xẩm mặt mày vì sốc.
- Xin chào? - Emma nói. - Ai nói đấy? Ra mặt đi nào!
Thoạt đầu, tôi không thể nhìn thấy gì trong đó ngoài những đống hài cốt, nhưng rồi tôi nghe thấy một tiếng sụt sịt và đưa mắt nhìn theo hướng âm thanh lên đỉnh đống xương, có hai cặp mắt đang chớp chớp nhìn vào chúng tôi từ trong bóng tối âm u ở phía trong gian phòng.
- Không có ai ở đây cả, - một giọng nói khẽ cất lên.
- Đi đi, - giọng nói thứ hai vang lên. - Chúng tôi chết rồi.
- Không, các cậu chưa chết, - Enoch nói, - và tôi phải biết chứ!
- Ra khỏi đó đi, - Emma dịu dàng nói. - Chúng tôi sẽ không làm hại các bạn đâu.
Cả hai giọng nói đồng thời lên tiếng.
- Hứa nhé?
- Chúng tôi hứa, - Emma nói.
Những cái xương bắt đầu chuyển động. Một cái xương sọ tách rời ra khỏi đống hài cốt và rơi cạch xuống sàn, lăn đi dừng lại dưới chân tôi, hai hốc mắt ngước lên nhìn tôi chằm chằm. Xin chào, tương lai, tôi thầm nghĩ.
Thế rồi hai cậu bé loay hoay lổm ngổm bò trên đống xương ra vùng ánh sáng. Làn da họ tái nhợt như người chết, và họ nhìn chúng tôi với đôi mắt quầng đen đảo qua đảo lại đến chóng mặt trong hốc mắt.
- Tôi là Emma, đây là Jacob, và đây là các bạn của chúng tôi, - Emma nói. - Chúng tôi là những người đặc biệt và sẽ không làm hại các cậu.
Hai cậu bé bò rạp xuống như những con vật hoảng loạn, không nói gì, mắt đảo liên hồi, dường như nhìn khắp nơi nhưng lại chẳng nhìn đâu cả.
- Có gì không ổn với họ vậy? - Olive thì thào. 
Bronwyn suỵt cô bé.
- Đừng thô lỗ.
- Các cậu có thể cho chúng tôi biết tên được không? - Emma hỏi, giọng cô thật dịu dàng ngọt ngào.
- Tớ là Joel và Peter, - cậu bé lớn hơn nói.
- Cậu là ai? - Emma hỏi lại. - Joel hay Peter?
- Tớ là Peter và Joel, - cậu bé nhỏ hơn nói.
- Bọn này không có thời gian đùa đâu, - Enoch nói. - Có con chim nào ở đây với các cậu không? Các cậu có thấy con chim nào bay qua không?
- Lũ bồ câu thích ẩn nấp, - cậu bé lớn hơn nói.
- Trên tầng áp mái, - cậu bé nhỏ hơn thêm vào.
- Tầng áp mái nào? - Emma hỏi. - Ở đâu?
- Trong nhà chúng tôi, - cả hai cậu bé đồng thanh nói, và cùng đưa cánh tay lên chỉ xuống lối đi tối om. Họ có vẻ luôn phối hợp với nhau khi nói, và nếu một câu dài hơn vài ba từ, một người sẽ bắt đầu còn người kia kết thúc, và giữa hai người không hề có khoảng gián đoạn nào có thể phát hiện được. Tôi cũng nhận thấy bất cứ khi nào một người nói còn người kia không nói, người không nói sẽ cử động miệng đúng theo những từ người kia nói với sự đồng bộ hoàn hảo - như thể họ cùng chia sẻ một bộ óc.
- Các cậu có thể làm ơn chỉ đường cho chúng tôi tới nhà các cậu được không? - Emma hỏi. - Dẫn chúng tôi đến chỗ tầng áp mái của các cậu ấy?
Joel-và-Peter lắc đầu và lại rút lui vào bóng tối.
- Có chuyện gì vậy? - Bronwyn hỏi. - Sao các cậu lại không muốn đi?
- Chết chóc và máu! - một cậu bé kêu lên.
- Máu và gào thét! - cậu kia kêu lên.
- Gào thét và máu và những cái bóng biết cắn! - cả hai cùng kêu lên.
- Hoan hô! - Horace thốt lên rồi quay ngoắt lại. - Tớ sẽ gặp lại tất cả mọi người trên hầm mộ. Hy vọng là tớ không bị dẹp lép vì một quả bom!
Emma chộp lấy tay áo Horace.
- Ồ không, cậu không đi đâu hết! Cậu là người duy nhất trong chúng ta đã bắt được một trong những con bồ câu đáng nguyền rủa đó.
- Cậu không nghe họ nói à? - Horace nói. - Cái Vòng đó đầy ắp những cái bóng biết cắn - chỉ có thể là một thứ. Hồn rỗng!
- Nó đã từng đầy ắp chúng, - tôi nói. - Nhưng có thể là từ nhiều ngày trước rồi.
- Lần cuối cùng các cậu ở trong nhà của mình là từ khi nào? - Emma hỏi hai cậu bé.
Vòng Thời Gian của họ đã bị tấn công, họ giải thích theo cách lạ lùng và ngắt quãng của mình, nhưng hai người họ đã chạy thoát được vào các hầm mộ và ẩn náu giữa những đống hài cốt. Họ không thể nói được đã bao lâu rồi. Hai ngày chăng? Hay ba ngày? Họ đã mất hết khái niệm về thời gian trong bóng tối dưới này.
- Ôi, hai cậu bé khốn khổ! - Bronwyn nói. - Các cậu đã phải chịu đựng những nỗi kinh hoàng khủng khiếp biết chừng nào!
- Các cậu không thể ở đây mãi được, - Emma nói. - Các cậu sẽ già đi nếu không sớm tìm tới được một Vòng Thời Gian khác. Chúng tớ có thể giúp các cậu - nhưng trước hết chúng ta phải bắt được một con bồ câu đã.
Hai cậu bé nhìn vào đôi mắt đảo loạn của nhau và có vẻ đang trao đổi mà không nói ra lấy một lời. Họ đồng thanh nói:
- Theo chúng tớ.
Họ trượt từ trên đống xương xuống và bắt đầu đi xuống đường hầm. Chúng tôi theo sau. Tôi không thể rời mắt khỏi họ: họ lạ lùng một cách đáng kinh ngạc. Hai cậu bé luôn nắm lấy tay nhau, và cứ đi vài bước, họ lại phát ra những âm thanh lọc tọc thật lớn bằng lưỡi của mình.
- Họ làm gì vậy? - tôi thì thầm.
- Tớ nghĩ đó là cách họ nhìn, - Millard nói. - Cũng giống như cách những con dơi nhìn trong bóng tối. Âm thanh họ phát ra sẽ phản xạ lên các vật thể rồi trở lại chỗ họ, tạo ra một bức tranh trong đầu họ.
- Chúng tôi là những người định vị bằng tiếng vang, - Joel-và-Peter nói.
Có vẻ như họ cũng rất thính tai.
Lối đi rẽ nhánh, rồi lại rẽ nhánh lần nữa. Đến một chỗ tôi đột nhiên cảm thấy áp lực trong tai mình và phải nuốt nước bọt để giải tỏa nó. Đó là lúc tôi biết chúng tôi đã rời khỏi năm 1940 và bước vào một Vòng Thời Gian. Cuối cùng chúng tôi đến đầu tận cùng, một bức tường chắn ngang với những bậc đặt chân theo phương thẳng đứng đục vào trong tường. Joel-và-Peter đứng dưới chân tường và chỉ lên một chấm ánh sáng ban ngày nhỏ xíu phía trên đầu.
- Nhà của chúng tôi... - cậu bé lớn hơn nói.
- Ở trên kia, - cậu bé nhỏ hơn nói.
Và khi họ nói xong, họ lại rút lui vào trong bóng tối.
* * *
Các bậc đặt chân đều bám đầy rêu trơn tuột rất khó leo, và tôi buộc phải leo thật chậm nếu không sẽ có nguy cơ bị ngã. Chúng tôi leo lên bức tường để tới một khung cửa tròn vừa người chui lọt trên trần, ở đó chỉ có một tia sáng chiếu xuống. Tôi luồn tay vào khe trống và đẩy qua bên, cánh cửa trượt mở ra như một cửa sập máy ảnh, để lộ một đường ống tròn xây bằng gạch vươn cao lên khoảng sáu đến chín mét tới một mảng trời hình tròn. Tôi đang ở dưới đáy giả của một cái giếng giả.
Tôi nâng mình chui vào lòng giếng rồi leo lên. Đến nửa chừng tôi phải dừng lai nghỉ ngơi, tựa lưng vào phía đối diện của lòng giếng. Khi cảm giác bỏng rát trong các bó cơ đã dịu xuống, tôi leo nốt phần còn lại của quãng đường, trèo lên khỏi miệng giếng và đáp xuống một đám cỏ.
Tôi đang ở trong sân một ngôi nhà trông có vẻ xập xệ. Bầu trời tuyền một sắc vàng bệnh tật, nhưng không hề có khói bốc lên, cũng chẳng có tiếng động cơ nào. Chúng tôi đang ở vào một thời kì xa xưa hơn, trước chiến tranh - thậm chí là trước khi xuất hiện xe hơi. Không khí lạnh buốt, và những bông tuyết la đà rơi xuống rồi tan ra dưới đất.
Emma là người tiếp theo leo lên khỏi giếng, rồi đến Horace. Emma đã quyết định chỉ ba chúng tôi đi thám hiểm ngôi nhà. Chúng tôi không biết sẽ tìm thấy điều gì trên này, và nếu cần khẩn trương rời đi, tốt nhất nên là một nhóm nhỏ có thể di chuyển nhanh. Không ai bên dưới tranh cãi; những lời Joel-và-Peter cảnh báo về máu và những bóng ma đã làm họ sợ chết khiếp. Chỉ có Horace cảm thấy không vui, cứ lẩm bẩm một mình mãi là cậu ta ước gì chưa bao giờ vồ được con bồ câu đó ngoài quảng trường.
Bronwyn từ bên dưới vẫy tay với chúng tôi rồi đóng cái nắp tròn dưới đáy giếng lại. Mặt trên cái nắp được sơn để trông giống như mặt nước - thứ nước đen sậm, bẩn thỉu bạn sẽ không bao giờ muốn thả xô múc nước ăn xuống. Thật thông minh.
Ba chúng tôi xúm lại sát nhau và nhìn quanh. Khoảng sân và ngôi nhà đã tàn tạ thê thảm vì bị bỏ bẵng lâu ngày. Cỏ mọc quanh giếng đã bị giẫm rạp xuống, nhưng ở những chỗ khác cỏ đã mọc thành từng khóm còn cao hơn cả một số khung cửa sổ dưới tầng trệt. Một cái chuồng chó mục nát đã đổ sụp một phần nằm ở một góc, còn gần đó là một giàn dây phơi đổ sập xuống đang dần bị các bụi cây dại nuốt chửng.
Chúng tôi đứng đó chờ đợi, nghe ngóng động tĩnh của những con bồ câu. Từ phía bên kia các bức tường của ngôi nhà, tôi có thể nghe thấy tiếng móng ngựa gõ xuống mặt đường. Không, chắc chắn đây không thể là London khoảng năm 1940.
Thế rồi ở một ô cửa sổ trên lầu, tôi thấy một tấm rèm nhúc nhích.
- Ở trên kia! - tôi khẽ thì thầm, chỉ tay về phía đó.
Tôi không biết liệu một con chim hay một người đã làm điều đó, nhưng cũng đáng để kiểm tra. Tôi bắt đầu hướng tới một cánh cửa ra vào dẫn vào trong nhà, đang ra hiệu bảo những người còn lại đi theo thì vấp phải thứ gì đó. Một thân hình nằm dưới đất, có một tấm vải đen che kín từ đầu tới tận mắt cá chân. Một đôi giày sờn rách thò ra ở cuối tấm vải, mũi giày chĩa lên trời. Có một tấm thẻ màu trắng gài vào một vết nứt trên đế giày, trên đó có những dòng chữ viết bằng nét nắn nót:

Ông A. F. Crumbley
Vốn người Tỉnh Ngoài
Thà già trước tuổi còn hơn bị bắt sống
Xin đề nghị để thi thể của mình được thả xuống sông Thames.

- Gã khốn khổ đen đủi, - Horace thì thầm. - Ông ta từ nông thôn tới đây, có lẽ sau khi Vòng Thời Gian của chính ông ta bị tấn công - chỉ để rồi bắt gặp cảnh Vòng Thời Gian ông ta chạy trốn tới cũng bị tấn công luôn.
- Nhưng tại sao họ lại để ông Crumbley khốn khổ nằm phơi ra thế này? - Emma thì thào.
- Vì họ đã phải vội vã rời đi, - tôi nói.
Emma cúi xuống, đưa tay tới mép tấm vải phủ lên ông Crumbley. Tôi không muốn nhìn nhưng không thể đừng được, và tôi hơi quay mặt đi chỗ khác, song rồi lại ngó lại qua khe các ngón tay. Tôi những tưởng sẽ thấy một cái xác tàn tạ, nhưng ông Crumbley trông nguyên vẹn một cách hoàn hảo và trẻ trung đến mức đáng kinh ngạc, có lẽ chỉ khoảng bốn mươi hay năm mươi tuổi, mái tóc đen chỉ mới ngả xám quanh thái dương. Mắt ông ta nhắm nghiền, bình yên, như thể ông ta chỉ đang ngủ. Có thể nào ông ta đã thực sự già đi, giống như quả táo héo quắt tôi cầm theo từ Vòng Thời Gian của cô Peregrine.
- Này, ông chết rồi hay đang ngủ vậy? - Emma hỏi. Cô dùng ủng đá nhẹ vào tai người đàn ông, và cả bên đầu ông ta sụt xuống vụn ra thành bụi.
Emma thảng thốt há hốc miệng và buông tấm vải xuống. Crumbley đã trở thành một cái khối khô khốc mang hình dạng của ông ta, dễ nát vụn đến mức một cơn gió mạnh cũng có thể thổi ông ta tan biến.
Chúng tôi để ông Crumbley khốn khổ đang vỡ vụn lại đằng sau và đi tới chỗ cửa ra vào. Tôi cầm lấy tay nắm cửa rồi xoay. Cánh cửa mở ra, và chúng tôi bước vào một phòng giặt. Có những món đồ trông có vẻ vừa mới giặt để trong một cái hòm mây, một bảng giặt treo gọn gàng phía trên một cái chậu. Nơi này bị bỏ hoang chưa lâu lắm.
Cảm Giác ở đây vẫn còn mạnh, song chỉ là dư vị. Chúng tôi mở một cánh cửa khác và bước vào một phòng khách. Ngực tôi thắt lại. Ở đây có bằng chứng rõ ràng của một cuộc ẩu đả: đồ đạc bị lật nhào, vỡ nát, tranh ảnh bị hất rơi khỏi mặt lò sưởi, những mảng giấy dán tường bị xé bung ra thành từng dải.
Thế rồi Horace lẩm bẩm, “Ôi không”, và tôi nhìn theo ánh mắt cậu ta hướng lên phía trên, tới một vết sẫm làm đổi màu một mảng trần gần như hình tròn. Có điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra trên lầu.
Emma nhắm nghiền mắt lại.
- Chỉ nghe thôi, - cô nói. - Lắng nghe mấy con chim và đừng nghĩ về điều gì khác cả.
Chúng tôi nhắm mắt lại và lắng nghe. Một phút trôi qua. Rồi cuối cùng một tiếng cu cu mơ hồ của một con chim bồ câu. Tôi mở mắt ra để xem âm thanh đó từ đâu tới.
Cầu thang.
Chúng tôi nhẹ nhàng leo lên cầu thang, cố không làm vang lên những tiếng cọt kẹt dưới chân mình. Tôi có thể cảm thấy tiếng tim đập thình thịch trào lên cổ họng, ở thái dương. Tôi có thể chịu đựng được những cái xác cũ kỹ mục nát. Nhưng tôi không dám chắc liệu mình có chịu nổi một cảnh tàn sát hay không.
Lối đi trên lầu ngổn ngang những mảnh vỡ. Một cánh cửa, bị rứt ra khỏi bản lề, nằm gãy vụn. Phía trong khung cửa vỡ là một đống rương hòm và tủ bị đổ lổng chổng; một nỗ lực chặn cửa bất thành.
Trong căn phòng tiếp theo, tấm thảm trắng thấm đầy máu - máu đã thấm qua sàn ngấm xuống tận trần nhà bên dưới. Nhưng chủ nhân của chỗ máu đổ ra ở đó đã biến mất từ lâu.
Cánh cửa cuối cùng trên lối đi không có dấu vết bị vũ lực tác động. Tôi cảnh giác đẩy cửa ra. Đôi mắt tôi lướt qua quanh phòng: có một tủ quần áo, một tủ ngăn kéo với những bức tượng người nhỏ được bày cẩn thận trên nóc, rèm cửa viền đăng ten phất phơ ở một ô cửa sổ. Thảm trải sàn sạch sẽ. Mọi thứ đều không bị xáo trộn.
Thế rồi đôi mắt tôi nhìn về phía chiếc giường cùng những thứ nằm trên đó, và tôi loạng choạng lùi lại tựa người vào khung cửa. Nằm dưới những tấm chăn trắng là hai người đàn ông, có vẻ đang ngủ - và giữa họ là hai bộ xương người.
- Bị già đi, - Horace nói, hai bàn tay run rẩy đưa lên cổ. - Hai người trong số họ già đi nhanh hơn đáng kể so với những người khác.
Những người đàn ông trông có vẻ đang ngủ cũng đã chết như ông Crumbley dưới sân, Horace nói, và nếu chúng tôi chạm vào họ, họ cũng sẽ vụn nát ra tương tự.
- Họ đã từ bỏ, - Emma thì thầm. - Họ đã phát chán với việc chạy trốn và họ bỏ cuộc.
Cô nhìn họ với thái độ thương hại pha lẫn ghê tởm.
Cô nghĩ họ yếu đuối và hèn nhát - nghĩ rằng họ đã chọn cách dễ dàng. Song tôi không đừng được thầm nghĩ liệu có phải những người đặc biệt này chỉ đơn giản là biết nhiều hơn chúng tôi về những gì đám xác sống đã làm với những người bị chúng bắt. Rất có thể nếu biết chúng tôi cũng đã lựa chọn cái chết.
Chúng tôi dạt ra ngoài lối đi. Tôi cảm thấy chóng mặt, buồn nôn, và tôi muốn ra khỏi ngôi nhà này - song chúng tôi chưa thể rời đi được. Vẫn còn một cầu thang cuối cùng cần leo lên.
Ở trên đầu cầu thang, chúng tôi tìm thấy một chiếu nghỉ bị hư hại ám khói. Tôi hình dung ra những người đặc biệt chống đỡ được đợt tấn công đầu tiên vào ngôi nhà này đã tập trung tại đây để làm nơi chống cự cuối cùng. Có thể họ đã tìm cách dùng lửa để chống lại những kẻ biến chất - hoặc có thể chính chúng đã tìm cách dùng khói hun họ. Dù là thế nào đi nữa, có vẻ như ngôi nhà thiếu chút nữa đã bị đốt trụi.
Chui qua một khung cửa thấp, chúng tôi bước vào tầng áp mái chật chội có tường dốc thoai thoải. Mọi thứ đều đã cháy đen. Lửa đã tạo ra những lỗ thủng toang hoác trên mái nhà.
Emma thúc Horace:
- Chúng ở đâu đó quanh đây, - cô khẽ nói. - Hãy sử dụng phép mầu của cậu đi, chàng bắt chim.
Horace nhón chân bước tới giữa phòng và réo rắt gọi:
- Ở đđâââyyy, bồ câu, bồ câu, bồ câu...
Thế rồi, từ sau lưng mình, chúng tôi nghe thấy một tiếng đập cánh và một tiếng gù gù bị bóp nghẹt. Quay lại, chúng tôi thấy không phải một con bồ câu mà là một cô gái mặc váy đen, thấp thoáng chìm lẫn vào bóng tối.
- Đây là thứ các người tìm kiếm hả? - cô gái nói, giơ một cánh tay ra một luồng sáng mặt trời. Con bồ câu quằn quại trong bàn tay cô ta, vùng vẫy cố thoát ra.
- Phải! - Emma nói. - Ơn Chúa là cậu đã bắt được nó!
Cô bước về phía cô gái kia, hai bàn tay chìa ra để đón lấy con bồ câu, song cô gái quát lớn, “Dừng lại đó!”, rồi búng ngón tay. Một tấm thảm trải sàn cháy đen bay vụt lên từ dưới chân Emma, lôi theo hai bàn chân cô, làm cô ngã vật ra sàn.
Tôi lao vội tới chỗ Emma.
- Cậu không sao chứ?
- Quỳ gối xuống! - cô gái gắt lên với tôi. - Đặt hai bàn tay mày lên đầu!
- Tớ không sao, - Emma nói. - Làm như cô ta nói đi. Cô ta có thể dịch chuyển đồ vật từ xa và rõ ràng thần kinh không được ổn định lắm.
Tôi quỳ xuống cạnh Emma và đặt hai bàn tay ra sau gáy. Emma cũng làm tương tự. Horace, run lẩy bẩy và lặng thinh, nặng nề ngồi xuống và chống hai lòng bàn tay xuống sàn.
- Chúng tôi không định làm hại gì cậu cả, - Emma nói. - Chúng tôi chỉ đuổi theo con bồ câu thôi.
- À, tao biết chính xác chúng mày đang đuổi theo cái gì, - cô gái đáp kèm theo tiếng cười khinh bỉ. - Loại chúng mày không bao giờ chịu bỏ cuộc, phải không nào?
- Loại chúng tôi ư? - tôi nói.
- Bỏ vũ khí xuống và hất chúng tới đây! - cô gái gắt gỏng.
- Chúng tôi chẳng có vũ khí nào cả, - Emma bình thản nói, cố hết sức để không làm cô gái nổi nóng hơn nữa.
- Chuyện này sẽ dễ dàng hơn cho chúng mày nếu chúng mày không coi tao là đồ ngốc! - cô gái la lên. - Chúng mày yếu ớt và chẳng có sức mạnh nào của chính mình, vì thế chúng mày trông cậy vào súng và những thứ vũ khí khác. Giờ hãy để chúng xuống sàn!
Emma quay đầu lại và thì thầm:
= Cô ấy nghĩ bọn mình là xác sống!
Tôi gần như bật cười thành tiếng.
- Chúng tôi không phải là xác sống. Chúng tôi là người đặc biệt!
- Chúng mày không phải là những kẻ mắt trắng đục đầu tiên tới đây săn bồ câu, - cô gái nói, - cũng không phải là những kẻ đầu tiên tìm cách đóng giả những đứa trẻ đặc biệt. Và cũng không phải là những kẻ đầu tiên tao giết! Giờ hãy bỏ vũ khí của chúng mày xuống sàn trước khi tao vặn cổ con bồ câu này - rồi sau đó vặn cổ chúng mày!
- Nhưng chúng tôi không phải là xác sống! - tôi khăng khăng. - Hãy nhìn đồng tử trên mắt chúng tôi nếu cậu không tin chúng tôi!
- Mắt chúng mày chẳng có ý nghĩa gì cả! - cô gái nói. - Kính giả áp tròng là trò lừa bịp xưa nhất trong sách - và tin tao đi, tao biết tất cả những trò đó!
Cô gái bước một bước về phía chúng tôi, và đi vào vùng ánh sáng. Căm thù hiện rõ trên mắt cô. Cô gái trông chẳng khác gì một cậu con trai, ngoại trừ chiếc váy, với mái tóc ngắn và bộ hàm khỏe mạnh. Ánh mắt cô đờ đẫn vô hồn như một người đã nhiều ngày không ngủ; một người lúc này đang làm mọi việc dựa vào bản năng và sự kích động. Một người ở tình trạng đó sẽ không thể tử tế với chúng tôi, và cũng không kiên nhẫn.
- Chúng tôi là những người đặc biệt, tôi xin thề! - Emma nói. - Đợi đã... tôi sẽ cho cậu thấy!
Cô đưa một bàn tay ra khỏi đầu và chuẩn bị phát lửa thì một trực cảm đột ngột làm tôi chộp lấy cổ tay cô.
- Nếu có hồn rỗng gần đây, chúng sẽ cảm thấy ngọn lửa đó, - tôi nói. - Tớ nghĩ chúng có thể cảm nhận được chúng ta giống như cách tớ cảm thấy chúng, nhưng sẽ dễ dàng hơn nhiều cho chúng khi chúng ta dùng đến năng lực của mình. Điều đó cũng giống như kích hoạt chuông báo độngvậy.
- Nhưng cậu đang sử dụng năng lực của cậu, - cô bực bội nói. - Và cô ta cũng đang dùng năng lực của mình!
- Năng lực của tớ thụ động, - tôi nói. - Tớ không thể tắt nó đi được, vì thế nó không để lại nhiều dấu vết. Còn về cô ta, có thể chúng đã biết cô ta ở đây rồi. Có thể cô ta không phải là thứ chúng muốn.
- Thật tiện lợi làm sao! - cô gái nói với tôi. - Và mày định nói đó là năng lực của mày sao? Cảm nhận thấy các sinh vật của bóng tối?
- Cậu ấy có thể nhìn thấy chúng nữa, - Emma nói. - Và giết chúng.
- Các người cần bịa ra những lời dối trá khá hơn, - cô gái nói. - Không ai dù chỉ có nửa bộ não lại mắc lừa mấy lời vừa rồi.
Đúng lúc chúng tôi đang nói về năng lực của tôi, một Cảm Giác mới lại bùng lên thật đau đớn bên trong tôi. Tôi không còn chỉ cảm nhận thấy dư vị còn lại của một con hồn rỗng, mà sự hiện diện thực sự của một trong số chúng.
- Có một gã gần đây, - tôi nói với Emma. - Chúng ta cần rời khỏi đây.
- Không đâu, nếu không có con chim.
Cô gái bắt đầu băng qua phòng về phía chúng tôi.
- Đã đến lúc bắt đầu, - cô gái nói. - Tao đã cho chúng mày quá đủ cơ hội để chứng minh bản thân. Dù sao đi nữa, tao bắt đầu thấy thích giết chúng mày. Sau những gì chúng mày đã làm với các bạn tao, có vẻ như tao thấy điều đó bao nhiêu cũng không đủ!
Cô gái dừng lại cách chúng tôi vài bước chân và giơ bàn tay còn tự do của mình lên, có lẽ để chuẩn bị kéo phần còn lại của mái nhà đổ ụp xuống đầu chúng tôi. Nếu như chúng tôi cần có hành động nào đó, thì nó phải được thực hiện ngay lúc này. Đang quỳ phục, tôi bật dậy, lao hai cánh tay ra trước và đâm sầm vào cô gái, hất cô ta ngã lăn ra sàn. Cô gái hét lên trong cơn ngạc nhiên đầy tức giận. Tôi ấn nắm tay mình vào lòng bàn tay còn tự do của cô gái, để cô ta không thể khép các ngón tay lại được. Cô gái buông rời con chim ra, và Emma chộp lấy nó. Rồi Emma và tôi đứng dậy, hối hả lao về phía cánh cửa đang mở. Horace vẫn còn choáng váng ngồi đờ ra dưới sàn.
- Đứng dậy chạy mau! - Emma quát cậu ta.
Tôi đang cầm lấy cánh tay Horace kéo cậu ta dậy thì cánh cửa đóng sầm lại trước mặt tôi và một chiếc tủ cháy sém bay bổng lên khỏi góc phòng và lao vút qua phòng. Cạnh tủ nện vào đầu tôi, làm tôi ngã vật ra, kéo theo Emma cùng ngã xuống.
Cô gái nọ đang nổi điên, la lối ầm ĩ. Tôi tin chắc chúng tôi chỉ còn vài giây để sống. Thế rồi Horace đứng dậy và lấy hết sức hét to:
- Melina Manon!
Cô gái cứng người lại.
- Mày vừa nói gì?
- Tên cô là Melina Manon, - cậu ta nói. - Cô sinh ra tại Luxembourg năm 1899. Cô tới sống với cô Thrush (Chim hét) năm mười sáu tuổi, và đã ở đây suốt từ hồi đó.
Horace đã làm cô gái bất ngờ. Cô ta cau mày, sau đó vung bàn tay thành một đường vòng cung. Cái tủ vừa thiếu chút nữa đập tôi ngất xỉu bay đi trong không trung rồi dừng lại, lơ lửng ngay trên đầu Horace. Nếu cô gái để nó rơi xuống, cái tủ sẽ đè nát cậu ta.
- Mày chuẩn bị kỹ lắm, - cô gái nói, - nhưng bất cứ gã xác sống nào cũng có thể biết tên và nơi sinh của tao. Thật không may cho mày, tao không còn thấy những trò lừa gạt của chúng mày thú vị nữa.
Dẫu vậy, trông cô gái có vẻ chưa sẵn sàng giết cậu ta.
- Bố cô là một nhân viên ngân hàng, - Horace hối hả nói thật nhanh. - Mẹ cô rất đẹp nhưng sặc mùi hành, một tình trạng suốt đời bà ấy không thể làm gì để trị cho hết được.
Cái tủ lắc lư trên đầu Horace. Cô gái nhìn cậu ta chằm chằm, đôi lông mày nhíu lại, bàn tay giơ lên trên không.
- Năm lên bảy, cô thích mê một con ngựa Ả Rập, - Horace nói tiếp. - Bố mẹ cô không có điều kiện mua một con vật xa xỉ như vậy, thay vì thế họ mua cho cô một con lừa. Cô đặt tên cho nó là Habib, có nghĩa là yêu quý. Và cô thực sự yêu quý nó.
Miệng cô gái há hốc ra. Horace nói tiếp.
- Mười ba tuổi cô nhận ra mình có thể điều khiển các đồ vật chỉ bằng cách sử dụng ý nghĩ. Cô bắt đầu với những món đồ nhỏ, kẹp giấy hay tiền xu, rồi sau đó là những thứ ngày càng lớn hơn. Nhưng cô không bao giờ dùng ý nghĩ nhấc Habib lên được, vì năng lực của cô không có tác dụng trên sinh vật. Khi gia đình cô chuyển nhà, cô nghĩ năng lực đó đã hoàn toàn biến mất, vì cô không còn có thể di chuyển được bất cứ cái gì nữa. Nhưng đó chỉ là vì cô chưa biết rõ ngôi nhà mới. Một khi đã quen thuộc với nó, ghi nhớ nó trong đầu, cô có thể di chuyển các đồ vật trong nhà.
- Làm thế nào cậu biết được tất cả những chuyện đó? - Melina hỏi, thảng thốt nhìn cậu ta.
- Vì tôi nằm mơ về cô, - Horace nói. - Đó là điều tôi có thể làm.
- Chúa ơi, - cô gái thốt lên, - cậu là người đặc biệt.
Rồi cái tủ nhẹ nhàng hạ xuống sàn.
* * *
Tôi loạng choạng đứng dậy, chỗ đầu bị cái tủ đập trúng đau rần rật.
- Cậu chảy máu kìa!
Emma kêu lên, bật dậy để xem xét vết thương của tôi.
- Tớ không sao, tớ không sao, - tôi nói, né tránh khỏi cô.
Cảm Giác đang biến chuyển trong người tôi, và bị chạm vào trong lúc đó khiến cho việc giải đoán nó trở nên khó hơn do tiến trình bị gián đoạn.
- Xin lỗi về cái đầu của cậu, - Melina Manon nói. - Tớ nghĩ mình là người đặc biệt duy nhất còn sót lại!
- Có cả một nhóm chúng tớ dưới cái giếng của cậu, trong đường hầm của hầm mộ, - Emma nói.
- Thật sao? - mặt Melina sáng lên. - Thế thì vẫn còn hy vọng!
- Từng có đấy, - Horace nói. - Nhưng nó vừa bay qua cái lỗ trên mái nhà của cậu rồi.
- Ý cậu là... Winnifred sao?
Melina đưa hai ngón tay vào miệng và thổi sáo. Một khoảnh khắc sau, con bồ câu xuất hiện, bay xuống qua lỗ thủng và đậu lên vai cô gái.
- Kỳ diệu! - Horace thốt lên và vỗ tay. - Sao cậu làm vậy được?
- Winnie là bạn thân của tớ, - Melina nói. - Ngoan ngoãn như một con mèo nhà vậy.
Tôi lấy mu bàn tay chùi bớt máu trên trán, rồi chọn cách mặc kệ cảm giác đau. Giờ không phải lúc để đau. Tôi nói với cô gái:
- Cậu có nói là bọn xác sống từng tới đây săn lùng những con bồ câu.
Melina gật đầu.
- Chúng và đám quái vật của chúng tới đây ba đêm trước. Bao vây nơi này, bắt cô Thrush cùng một nửa học viên tại đây, sau đó đốt nhà. Tớ nấp trên mái. Kể từ lúc đó, ngày nào bọn xác sống cũng quay lại từng nhóm nhỏ săn lùng Winnifred và bạn bè của nó.
- Và cậu đã giết chúng? - Emma hỏi.
Melina nhìn xuống sàn.
- Tớ đã nói vậy, đúng không nào?
Cô quá kiêu hãnh để thừa nhận mình đã nói dối. Cũng chẳng quan trọng.
- Vậy thì không phải chỉ có chúng ta tìm kiếm cô Wren, - Emma nói.
- Nghĩa là bà ấy vẫn còn tự do, - tôi nói.
- Có thể, - Emma nói. - Có thể.
- Chúng tớ nghĩ con bồ câu có thể giúp được chúng ta, - tôi nói. - Chúng ta cần tìm cô Wren, và bọn tớ nghĩ con chim biết cách.
- Tớ chưa bao giờ nghe nói tới cô Wren nào cả, - Melina nói. - Tớ chỉ cho Winnie ăn khi nó tới sân nhà chúng tớ. Tớ và nó là bạn. Phải không nào, Winnie?
Con chim gù gù đầy hạnh phúc trên vai cô gái. Emma tới gần Melina và nói với con bồ câu.
- Bạn biết cô Wren chứ? - cô nói to thành tiếng. - Bạn có thể giúp chúng tôi tìm bà ấy không? Cô Wren ấy?
Con chim bay lên khỏi vai Melina, rồi vỗ cánh vút qua phòng về phía cửa. Nó kêu cu cu và vỗ cánh, rồi bay trở lại.
Đường này, con bồ câu dường như nói vậy.
Chừng đó là đủ bằng chứng với tôi.
- Chúng ta cần mang con chim theo, - tôi nói.
- Không đâu, nếu không có tớ, - Melina nói. - Nếu Winnie biết cách tìm ra bà Chủ Vòng này thì tớ cũng sẽ đi cùng.
- Không phải là ý tưởng hay đâu, - Horace nói. - Chúng tớ đang thực hiện một sứ mệnh nguy hiểm, cậu thấy đấy...
Emma cắt ngang cậu ta.
- Giao con chim cho chúng tớ. Chúng tớ sẽ quay lại tìm cậu, tớ hứa đấy.
Một cơn đau đột ngột dội lên làm tôi thở dốc và cúi gập người lại. Emma vội lao tới bên tôi. 
- Jacob! Cậu không sao chứ?
Tôi không thể nói. Thay vì thế, tôi loạng choạng tới bên cửa sổ, gồng mình đứng thẳng người lên, hướng Cảm Giác của tôi ra ngoài, về phía mái vòm Nhà thờ Lớn nhô lên trên các mái nhà chỉ cách đó có vài khối nhà, rồi xuống dưới đường, nơi những cỗ xe ngựa lọc cọc chạy qua. Phải, ở đó. Tôi có thể cảm thấy chúng đang tới gần từ một phố nhánh cách nơi này không xa.
Chúng. Không phải một con hồn rỗng, mà là hai.
- Chúng ta phải đi thôi, - tôi nói. - Ngay bây giờ.
- Làm ơn nào, - Horace nài nỉ cô gái. - Bọn tớ nhất định phải có con bồ câu!
Melina bật ngón tay, và cái tủ thiếu chút nữa đã giết tôi lại bay lên khỏi sàn.
- Tớ không cho phép điều đó, - cô gái nói, nheo mắt lại và hướng về phía cái tủ chỉ để đảm bảo chúng tôi hiểu nhau. - Nhưng nếu cho tớ đi cùng, các cậu sẽ có luôn cả Winnie. Nếu không...
Cái tủ xoay tròn trên một cái chân bằng gỗ, rồi nghiêng đi và rơi rầm xuống một bên.
- Được rồi, - Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt. - Nhưng nếu cậu làm bọn tớ chậm lại, chúng tớ sẽ lấy con chim và bỏ cậu lại sau.
Melina cười gằn, rồi với một cái vẫy tay của cô, cánh cửa bật mở.
- Muốn sao cũng được.
* * *
Chúng tôi lao xuống cầu thang nhanh đến mức dường như bàn chân chúng tôi không chạm vào các bậc thang. Trong hai mươi giây, chúng tôi đã quay trở lại dưới sân, bước qua ông Crumbley quá cố, rồi chui xuống giếng. Tôi dẫn đầu, đạp xuống cái nắp giả đáy giếng thay vì mất thời gian kéo nó trượt mở ra. Cái nắp vỡ tan, rời ra khỏi các bản lề và rơi xuống tung ra từng mảnh.
- Mọi người ở dưới cẩn thận! - tôi gọi, rồi tuột mất chỗ bám trên những chỗ đặt chân bằng đá ướt và loạng choạng ngã nhào vào bóng tối.
Hai cánh tay mạnh mẽ bắt lấy tôi - chính là Bronwyn - rồi đặt chân tôi xuống sàn. Tôi cảm ơn cô, tim đập thình thình.
- Có chuyện gì trên đó vậy? - Bronwyn hỏi. - Các cậu có bắt được con bồ câu không?
- Chúng tớ có nó rồi, - tôi nói trong khi Emma và Horace xuống tới nơi, và một tiếng hoan hô vang lên từ những người bạn của chúng tôi. - Đó là Melina, - tôi nói, chỉ vào cô gái, và đó là tất cả thời gian dành cho việc giới thiệu.
Melina vẫn ở trên đỉnh dãy bậc thang, bận rộn với thứ gì đó.
- Xuống đi nào! - tôi gọi lớn. - Cậu đang làm gì thế?
- Câu giờ cho chúng ta! - cô gái lớn tiếng trả lời, rồi kéo một cái nắp gỗ đậy trên miệng giếng cho nó kín lại, rồi khóa, che kín nốt nhưng tia sáng cuối cùng. Trong lúc cô gái leo xuống trong bóng tối, tôi giải thích về mấy con hồn rỗng đang săn lùng chúng tôi. Trong cơn hốt hoảng của tôi, lời giải thích biến thành, “ĐI NGAY CHẠY HỒN RỖNG NGAY”, một thông điệp rất hiệu quả dù không được rõ ràng cho lắm, và khiến mọi người hoảng loạn cả lên.
- Làm sao chúng ta chạy được nếu không nhìn thấy gì cả! - Enoch la lên. - Thắp lửa lên, Emma!
Cô đã không thắp lửa vì những gì tôi cảnh báo trên tầng áp mái.
Lúc này có vẻ là thời điểm phù hợp để củng cố lại lời nhắc nhở đó, tôi liền nắm lấy cánh tay cô và nói:
- Đừng! Chúng có thể dễ dàng phát hiện chính xác chỗ chúng ta!
Tôi nghĩ hy vọng lớn nhất của chúng tôi là làm chúng lạc đường trong mê cung đường hầm như mạng nhện này.
- Nhưng chúng ta không thể cứ chạy bừa trong bóng tối được! - Emma nói.
- Tất nhiên, - cậu bé có khả năng định vị bằng tiếng vọng bé hơn nói.
- Chúng tớ có thể, - cậu lớn hơn nói.
Melina quờ quạng đi tới chỗ giọng nói của họ vang lên.
- Các chàng trai! Các cậu còn sống! Là tớ đây, Melina đây!
Joel-và-Peter nói:
- Bọn tớ cứ nghĩ các cậu đã...?
- Chết hết...
- Đến người cuối cùng rồi.
- Tất cả mọi người nắm lấy tay nhau nào! - Melina nói. - Để hai cậu ấy dẫn đường!
Vậy là tôi nắm lấy tay Melina trong bóng tối, còn Emma nắm lấy tay tôi, rồi cô tìm tay Bronwyn, và cứ như thế cho tới khi chúng tôi tạo thành một chuỗi người, hai anh em trai mù dẫn đầu. Rồi Emma phát lệnh, hai cậu bé bắt đầu chạy từ tốn, kéo chúng tôi lao sâu vào bóng tối. Chúng tôi rẽ trái. Giẫm bì bõm qua những vũng nước đọng. Rồi từ đường hầm phía sau lưng chúng tôi vọng tới tiếng đổ vỡ, ám chỉ một điều duy nhất: mấy con hồn rỗng đã đập vỡ nắp giếng.
- Chúng chui vào rồi! - tôi kêu lên.
Tôi gần như có thể cảm thấy chúng đang thu người lại, loay hoay chui xuống lòng giếng. Một khi đã xuống được tới dưới đường hầm bằng phẳng và chạy được, chúng sẽ nhanh chóng đuổi kịp chúng tôi. Chúng tôi mới chỉ qua một nhánh rẽ trong hệ thống đường hầm - chưa đủ để đánh lạc hướng chúng. Còn xa mới gần đủ.
Và cũng chính vì thế những lời Millard nói ngay sau đó với tôi nghe đúng là mất trí:
- Dừng lại! Mọi người dừng lại!
Hai cậu bé mù nghe theo cậu ta. Chúng tôi dồn đống lại sau lưng họ, vấp chân và vội vã dừng lại.
- Có chuyện quái quỷ gì với cậu thế? - tôi la lên. - Chạy mau!
- Rất xin lỗi, - Millard nói, - nhưng tớ vừa chợt nghĩ ra - một trong số chúng ta sẽ phải đi qua lối ra khỏi Vòng trước khi hai anh bạn định vị bằng tiếng vọng đây hay cô bạn kia đi qua, nếu không họ sẽ quay trở ra hiện tại còn chúng ta thì tới năm 1940, và chúng ta sẽ bị tách rời khỏi nhau. Để họ đi cùng chúng ta tới năm 1940, một người trong chúng ta cần phải đi đầu tiên và mở đường.
- Các cậu không phải từ hiện tại tới sao? - Melina lúng túng hỏi.
- Từ năm 1940, như cậu ấy nói, - Emma đáp. - Nhưng ngoài đó bom đang rơi như mưa. Cậu có thể sẽ muốn ở lại đấy.
- Nắn gân hay lắm, - Melina nói, - các cậu không rũ bỏ được tớ dễ dàng thế đâu. Ở hiện tại chắc còn tồi tệ hơn - xác sống nhan nhản khắp nơi! Đó là lý do vì sao tớ không bao giờ rời khỏi Vòng Thời Gian của cô Thrush.
Emma bước tới trước và kéo tôi đi theo.
- Được rồi! Chúng mình sẽ đi đầu tiên!
Tôi giơ cánh tay còn tự do quờ quạng như một kẻ mù lòa trong bóng tối.
- Nhưng tớ chẳng nhìn thấy gì cả!
Cậu bé định vị bằng tiếng vọng lớn hơn nói:
- Chỉ cách phía trước có hai mươi bước thôi, cậu...
- Không thể nhầm được, - cậu nhỏ hơn nói.
Thế là chúng tôi khó nhọc bước về phía trước, đưa tay ra quờ quạng. Chân đá phải thứ gì đó làm tôi vấp loạng choạng. Vai trái tôi cọ vàotường.
- Đi cho thẳng nào! - Emma nói, kéo tôi sang phải.
Bụng tôi quặn lên. Tôi có thể cảm nhận được: mấy con hồn rỗng đang chui xuống giếng. Lúc này đây, cho dù chúng không thể cảm nhận thấy chúng tôi, vẫn còn năm mươi phần trăm khả năng chúng chọn đúng ngã rẽ trong đường hầm và tìm ra chúng tôi.
Không còn thời gian để dò dẫm loanh quanh nữa. Chúng tôi phải chạy.
- Khỉ thật, - tôi nói. - Emma, cho tớ chút ánh sáng nào!
- Rất vui lòng!
Cô buông bàn tay tôi ra và tạo nên một ngọn lửa lớn đến mức tôi cảm thấy tóc bên phải đầu mình bị cháy sém. Tôi nhìn thấy điểm chuyển tiếp ngay lập tức. Nó ở trước mắt chúng tôi, được đánh dấu bằng một đường thẳng đứng vạch trên vách đường hầm. Chúng tôi đồng loạt chạy ào về phía nó.
Vào khoảnh khắc chúng tôi băng qua bên đường vạch, tôi cảm thấy áp lực trong tai. Chúng tôi đã trở lại năm 1940.
Chúng tôi hối hả chạy qua các hầm mộ, ngọn lửa Emma hắt những cái bóng ma quái lên các bức tường, hai cậu bé mù tặc lưỡi thật lớn tiếng và hô to “Trái!” hoặc “Phải!” mỗi khi chúng tôi tới các ngã rẽ trong đường hầm.
Chúng tôi chạy qua những chồng quan tài, những đống hài cốt chất cao. Cuối cùng, chúng tôi quay lại chỗ đầu cụt và chiếc thang dẫn lên hầm mộ. Tôi đẩy Horace lên trước mình, rồi Enoch, sau đó đến lượt Olive cởi giày ra và bay bổng lên.
- Chúng ta chậm quá! - tôi hét to.
Phía dưới lối đi, tôi có thể cảm thấy chúng đang tới. Có thể nghe thấy những cái lưỡi của chúng đập xuống sàn đá, kéo chúng tới trước. Có thể hình dung ra hàm chúng bắt đầu chảy ra thứ chất nhớt đen sì vì háo hức trước con mồi chúng sắp được giết.
Rồi tôi nhìn thấy chúng. Một chuyển động mơ hồ trong bóng tối phía xa.
Tôi hét to, “Đi!” và lao tới cái thang, là người leo lên cuối cùng. Khi tôi gần lên tới đỉnh, Bronwyn chìa tay xuống kéo tôi lên khỏi mấy nấc thang cuối cùng, và rồi tôi đã ở trong hầm mộ cùng tất cả những người khác.
Vừa rên to thành tiếng, Bronwyn vừa nhấc tấm nắp đá đậy trên mộ Christopher Wren lên và thả nó xuống chỗ cũ. Chưa tới hai giây sau, một thứ gì đó đập thật mạnh vào mặt dưới tấm đá, làm tấm nắp đá nặng trịch bị nâng lên. Nó sẽ không cầm chân được đám hồn rỗng lâu - nhất là khi có tới hai gã.
Chúng đang ở rất gần. Các tín hiệu báo động vang lên gấp gáp trong tôi, bụng tôi đau quặn như uống phải a xít. Chúng tôi lao vùn vụt lên cầu thang xoáy trôn ốc và trở ra giáo đường. Lúc này bên trong nhà thờ tối om, thứ ánh sáng duy nhất là một quầng sáng kỳ lạ màu cam hắt vào qua các khung cửa sổ với lớp kính ố bẩn. Trong giây lát tôi nghĩ đó là những tia sáng cuối cùng của hoàng hôn, nhưng rồi sau đó, khi chúng tôi chạy về phía lối ra, tôi thoáng thấy bầu trời qua mái nhà thủng vỡ.
Đêm đã buông xuống. Bom vẫn rơi, nổ lục bục như những nhịp tim đập không đều.
Chúng tôi chạy ra ngoài.

Chương 10


Chúng tôi sững lại kinh hoàng trên các bậc thềm Nhà thờ Lớn, từ nơi này, có vẻ như cả thành phố đã bắt lửa. Bầu trời là một vầng lửa màu da cam đủ sáng để có thể đọc sách. Quảng trường nơi chúng tôi đã săn đuổi lũ bồ câu biến thành một cái hố sâu bốc khói nghi ngút khoét sâu xuống mặt đá lát. Những tiếng còi ầm ĩ vang lên như một giọng ca nữ cao, làm đối trọng với tông trầm của những quả bom liên tục nổ, âm vực của chúng giống tiếng người một cách quái gở, nghe như thể tất cả các linh hồn tại London đã leo lên nóc nhà của họ cùng gào thét lên nỗi tuyệt vọng chung. Rồi nỗi kinh hoàng nhường chỗ cho sợ hãi và sự khẩn cấp của việc bảo tồn sinh mạng, và chúng tôi vội vã chạy từ các bậc cấp ngổn ngang mảnh đổ vỡ xuống phố - băng qua quảng trường bị phá hủy, vòng qua một chiếc xe buýt hai tầng trông như thể đã bị bóp nát trong nắm tay một người khổng lồ giận dữ - chạy đến đâu tôi không biết, cũng chẳng quan tâm, miễn là xa khỏi cái Cảm Giác đang dần trở nên mạnh hơn, kinh khủng hơn trong tôi sau mỗi khoảnh khắc trôi qua.
Tôi ngoái lại nhìn cô gái có khả năng điều khiển bằng ý nghĩ, lúc ấy đang cầm tay hai anh em mù lôi đi trong khi hai cậu bé vẫn tiếp tục tặc lưỡi. Tôi định bảo cô thả cho hai con bồ câu bay đi để chúng tôi có thể theo sau nó - nhưng tìm được cô Wren vào lúc này liệu có ích gì, trong lúc đám hồn rỗng đang truy đuổi chúng tôi? Chúng tôi sẽ tới chỗ bà chỉ để rồi bị giết trước cửa nhà bà, và đẩy cả tính mạng của bà vào vòng nguy hiểm. Không, trước hết chúng tôi cần đánh lạc hướng đám hồn rỗng đã. Hay tốt hơn là giết chúng.
Một người đàn ông đội mũ sắt thò đầu ra khỏi một khung cửa và la lớn, “Các cháu nên tìm chỗ ẩn nấp đi!” rồi lại rụt vào bên trong.
Hẳn rồi, tôi nghĩ, nhưng nấp đâu bây giờ? Chúng tôi có thể ẩn nấp trong các đống đổ nát và cảnh hỗn loạn xung quanh mình, và với quá nhiều tiếng ồn và biến cố gây phân tâm ở khắp nơi, lũ hồn rỗng sẽ không tìm thấy chúng tôi. Song chúng tôi vẫn ở quá gần chúng, dấu vết của chúng tôi vẫn còn quá mới. Tôi cảnh báo các bạn mình không được dùng đến năng lực đặc biệt trong bất cứ hoàn cảnh nào, rồi Emma và tôi dẫn họ đi vòng vèo qua các con phố, hy vọng làm vậy sẽ khiến việc lần theo chúng tôi khó khăn hơn.
Dẫu vậy, tôi vẫn cảm thấy chúng đang tới. Lúc này chúng đã ra ngoài không gian mở, ra khỏi nhà thờ, lùa theo chúng tôi, vô hình với tất cả ngoại trừ tôi. Tôi tự hỏi đến cả tôi liệu cũng có thể thấy chúng ở đây, trong bóng tối được không: những sinh vật của bóng tối trong một thành phố chìm trong bóng tối.
Chúng tôi chạy cho tới khi phổi tôi bỏng rát. Cho tới khi Olive không thể bắt kịp chúng tôi nữa, và Bronwyn phải bế cô bé. Chúng tôi lao qua những dãy dài các ô cửa sổ tối đen mở trừng trừng như những con mắt không mi. Qua một thư viện trúng bom lả tả tro và giấy cháy đang rơi xuống. Qua một nghĩa địa bị trúng bom, những cư dân London đã bị lãng quên từ lâu, bị đào lên rồi ném lên các thân cây, nhăn nhở cười trong bộ áo liệm đã mục nát. Một cái đu vặn vẹo méo mó nằm giữa một sân chơi biến thành hố bom. Những cảnh tượng kinh hoàng cứ chồng chất lênnhau, không thể nào hiểu nổi, những chiếc máy bay ném bom thỉnh thoảng lại thả pháo để soi sáng tất cả với thứ ánh sáng trắng thuần khiết, chói lòa như cả nghìn chiếc đèn flash máy ảnh cùng lóe lên. Như thể để nói: Nhìn đi. Hãy nhìn những gì chúng ta tạo ra.
Những cơn ác mộng trở thành hiện thực, tất cả chúng. Như chính lũ hồn rỗng.
Đừng nhìn đừng nhìn đừng nhìn
Tôi thấy ghen tị với hai anh em mù, họ được bước đi trong một khung cảnh mà nhân từ thay không chứa đựng chi tiết nào; một thế giới dưới dạng mạng lưới. Trong một thoáng, tôi tự hỏi liệu những giấc mơ của họ ra sao - nếu như quả thực họ có mơ.
Emma chạy bên cạnh tôi, mái tóc lượn sóng dính đầy bụi bay phần phật sau lưng.
- Mọi người đều kiệt sức rồi, - cô nói. - Chúng ta không thể tiếp tục thế này được!
Cô có lý. Thậm chí cả người khỏe nhất trong chúng tôi giờ cũng đang loạng choạng, và chẳng mấy chốc nữa đám hồn rỗng sẽ bắt kịp chúng tôi, và chúng tôi sẽ phải đối diện với chúng giữa phố. Sẽ là một cuộc tắm máu. Chúng tôi cần tìm nơi ẩn náu.
Tôi dẫn cả bọn về phía một dãy nhà. Vì đám phi công máy bay ném bom nhiều khả năng sẽ nhằm vào một ngôi nhà sáng đèn vui vẻ hơn là một ngôi nhà khác lờ mờ trong bóng tối, tất cả các nhà đều tắt đèn tối om - tất cả đèn thắp sáng trên cửa ra vào đều tắt, mọi ô cửa sổ đều đen kịt. Một ngôi nhà không có ai sẽ là nơi an toàn nhất cho chúng tôi, nhưng khi tắt đèn tối om thế này, chẳng thể nào biết được nhà nào có người ở, nhà nào không. Chúng tôi sẽ phải chọn ngẫu nhiên một nhà.
Tôi dừng mọi người lại trên đường.
- Cậu làm gì thế? - Emma nói, thở hổn hển lấy hơi. - Cậu điên à?
- Có thể lắm, - tôi nói, rồi tôi nắm lấy Horace, đưa tay chỉ về phía dãy nhà, rồi nói, - Chọn đi.
- Cái gì? - cậu ta hỏi. - Sao lại là tớ?
- Vì tớ tin tưởng vào lựa chọn ngẫu nhiên của cậu hơn của chính tớ.
- Nhưng tới chưa bao giờ mơ về chỗ này cả! - cậu ta phản đối.
- Có khi cậu mơ rồi mà không nhớ đấy, - tôi nói. - Chọn đi.
Hiểu ra không có cách nào chối được, cậu ta khó nhọc nuốt khan, nhắm mắt lại trong một giây, rồi quay người chỉ vào một ngôi nhà phía sau chúng tôi.
- Nhà kia.
- Tại sao? - tôi hỏi.
- Vì cậu bắt tớ chọn! - Horare cáu kỉnh nói.
Đâm lao thì phải theo lao.
* * *
Cửa trước bị khóa. Không vấn đề gì: Bronwyn bẻ gãy tay nắm cửa và ném nó ra ngoài phố, cánh cửa tự động kèn kẹt mở ra. Chúng tôi đi vào một lối đi tối om, hai bên treo những dãy ảnh gia đình, những khuôn mặt không tài nào nhìn rõ được. Bronwyn đóng cửa lại và chặn bằng một cái bàn cô tìm thấy trên lối đi.
- Ai đó? - một giọng nói từ sâu hơn bên trong ngôi nhà vang lên.
Chết tiệt. Nhà này không chỉ có chúng tôi.
- Đáng lẽ cậu phải chọn một ngôi nhà không người ở chứ, - tôi nói với Horace.
- Tớ sẽ nện cậu nhừ tử cho mà xem, - Horace lẩm bẩm.
Không còn thời gian để đổi nhà nữa. Chúng tôi sẽ phải giới thiệu mình với những người đang ở đây và hy vọng họ thân thiện.
- Ai ngoài đó vậy? - giọng nói kia hỏi. - Chúng cháu không phải kẻ trộm, bọn Đức hay thứ gì như vậy đâu, - Emma nói. - Chúng cháu chỉ tìm chổ trú ẩn ở đây thôi!
Không có câu trả lời.
- Ở lại đây, - Emma nói với những người khác, rồi cô kéo tôi đi theo xuống lối đi. - Chúng cháu tới để chào thôi! - cô gọi lớn tiếng và thân thiện. - Làm ơn đừng bắn!
Chúng tôi đi tới cuối lối đi, rẽ vào trong góc, và ở đó có một cô bé đang đứng trên ngưỡng cửa. Một bên tay cô bé cầm một cây đèn bão đã vặn nhỏ, tay kia cầm một con dao mởthư, và đôi mắt đen cứng cỏi của cô bồn chồn nhìn qua nhìn lại giữa Emma và tôi.
- Chẳng có gì có giá trị ở đây cả! - cô bé nói. - Ngôi nhà này đã bị cướp rồi.
- Tôi đã nói rồi, chúng tôi không phải kẻ trộm! - Emma nói, cảm thấy bị xúc phạm.
- Và tôi nói các người đi đi. Nếu các người không đi, tôi sẽ la lên… và bố tôi sẽ tới mang theo… súng và những thứ khác!
Trông cô gái vừa trẻ con vừa trưởng thành trước tuổi. Mái tóc cô cắt ngắn ngang vai và mặc một chiếc váy bé gái với những chiếc cúc trắng to chạy dọc xuống đằng trước, song có gì đó trong vẻ ngoài lạnh lùng như tạc bằng đá của cô làm cho cô dường như già hơn, từng trải hơn so với tuổi mười hai hay mười ba.
- Làm ơn đừng la lên, - tôi nói, không nghĩ tới ông bố nhiều khả năng chỉ là tưởng tượng của cô mà tới những thứ khác có thể tìm đến.
Thế rồi một giọng nói khẽ vang lên đằng sau cô gái, vọng ra qua ngưỡng cửa cô rõ ràng đang muốn chắn ngang.
- Ai ngoài đó vậy, Sam?
Khuôn mặt cô gái cau lại bực bội.
- Chỉ là vài đứa trẻ thôi, - cô nói. - Chị đã bảo em giữ im lặng rồi kia mà, Esme.
- Họ có dễ mến không? Em muốn gặp họ!
- Họ sắp sửa rời đi rồi.
- Chúng tôi thì rất đông mà các cậu chỉ có hai người thôi, - Emma nói, ngả bài. - Chúng tôi sẽ ở lại đây một chút, và sẽ là như thế. Cậu sẽ không la lối, còn chúng tôi sẽ không lấy cắp thứ gì hết.
Đôi mắt cô gái lóe lên những tia giận dữ, rồi tắt ngấm. Cô gái biết mình sẽ thua cuộc.
- Được rồi, - cô ta nói, - nhưng cứ thử làm bất cứ điều gì xem, tôi sẽ la lên rồi đâm thứ này vào bụng các người.
Cô gái yếu ớt giơ con dao mở bì thư lên, rồi hạ xuống để nó bên hông.
- Cũng công bằng thôi, - tôi nói.
- Sam? - giọng nói khe khẽ lại vang lên. - Bây giờ có chuyện gì xảy ra vậy?
Cô gái - Sam - miễn cưỡng bước tránh sang bên, để lộ ra một buồng tắm chập chờn theo ánh sáng nhảy múa của những ngọn nến. Có một chậu rửa, một bồn cầu và một bồn tắm, và trong bồn tắm có một cô bé chừng năm tuổi. Cô bé nhô đầu lên khỏi mép bồn tò mò nhìn chúng tôi.
- Đây là em gái tôi, Esme, - Sam nói.
- Xin chào! - Esme lên tiếng, cầm một con vịt cao su chĩa về phía chúng tôi lắc lư. - Bom không thể trúng được các anh chị khi các anh chị ở trong bồn tắm, các anh chị có biết điều đó không?
- Chị không biết, - Emma đáp.
- Đó là chỗ an toàn của nó, - Sam thì thầm. - Chúng tôi luôn ở đây trong mọi cuộc công kích.
- Chẳng phải các cậu sẽ an toàn hơn dưới một hầm trú ẩn sao? - tôi hỏi.
- Những nơi đó thật kinh khủng, - Sam nói.
Những người còn lại đã chán chờ đợi và bắt đầu bước xuống lối đi. Bronwyn ló vào qua khung cửa và vẫy tay chào.
- Chị vào đi! - Esme hân hoan lên tiếng.
- Em dễ tin người quá, - Sam trách móc. - Rồi có ngày em sẽ gặp một người xấu và lúc đó sẽ phải ân hận.
- Các anh chị này đâu có xấu, - Esme nói.
- Đừng trông mặt mà bắt hình dong.
Thế rồi Hugh và Horace ló mặt vào qua khung cửa, tò mò khi thấy chúng tôi đã gặp những ai, rồi Olive chui qua giữa chân họ và ngồi xuống giữa sàn nhà, và chẳng mấy chốc tất cả chúng tôi đều đã chen chúc trong phòng tắm, kể cả Melina và hai anh em mù, lúc này đang đứng co ro đối diện với góc nhà. Thấy nhiều người đến vậy, hai chân Sam run rẩy, và cô gái nặng nề ngồi phịch xuống bồn cầu, hoàn toàn bị áp đảo - song em gái cô thì lại cực kỳ hào hứng, hỏi tên tất cả mọi người khi họ vào.
- Bố mẹ em đâu? - Bronwyn hỏi.
- Bố đang đi bắn kẻ xấu trong chiến tranh, - Esme nói đầy tự hào. Cô bé làm bộ cầm một khẩu súng trường rồi hét, “Bùm!”
Emma nhìn Sam.
- Cậu bảo bố cậu ở trên gác cơ mà, - cô nói thẳng thừng.
- Các người đột nhập vào nhà chúng tôi, - Sam nói.
- Phải.
- Còn mẹ cậu? - Bronwyn hỏi. - Bà ấy đâu?
- Mất lâu rồi, - Sam nói, có vẻ không có chút cảm xúc nào. - Vì thế khi bố ra trận, người ta đã định đưa chúng tôi tới với người thân ở chỗ khác - và vì em gái bố ở Devon là người keo kiệt kinh khủng và chỉ chịu nhận một trong hai chúng tôi, người ta định đưa Esme và tôi tới những nơi khác nhau. Nhưng chúng tôi nhảy xuống tàu và quay trở lại.
- Chúng em sẽ không để bị chia cắt, - Esme tuyên bố. - Chúng em là chị em.
- Và cậu sợ nếu tới một hầm trú ẩn người ta sẽ tìm ra hai chị em? - Emma nói. - Và sẽ đưa hai người đi?
Sam gật đầu.
- Tôi sẽ không để chuyện đó xảy ra.
- Ở trong bồn tắm an toàn lắm, - Esme nói. - Có lẽ mọi người cũng nên vào trong này.  Như thế tất cả chúng ta sẽ an toàn.
Bronwyn đưa bàn tay áp lên tim.
- Cảm ơn em, nhưng bọn chị sẽ không bao giờ vừa được đâu!
Trong khi những người khác nói chuyện, tôi dồn sự tập trung vào bên trong, cố cảm nhận đám hồn rỗng. Chúng không còn chạy nữa. Cảm Giác đã ổn định, nghĩa là chúng không lại gần cũng không ra xa hơn, mà nhiều khả năng đang lục tìm gần đây. Tôi coi đây là một dấu hiệu tốt; nếu biết chúng tôi ở đâu, hẳn chúng đã lao thẳng tới rồi. Dấu vết của chúng tôi đã mờ nhạt. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là nấp im một lúc, sau đó chúng tôi có thể đi theo con bồ câu tới chỗ cô Wren.
Chúng tôi xúm lại chen chúc nhau trên sàn phòng tắm, lắng nghe bom rơi xuống những khu vực khác trong thành phố. Emma tìm thấy ít cồn xoa bóp trong tủ thuốc, cô nhất định đòi lau sạch và băng bó vết thương trên đầu tôi. Rồi Sam bắt đầu ngân nga một giai điệu nào đó tôi biết nhưng không nhớ nổi tên, còn Esme chơi với con vịt của cô bé trong bồn tắm, thế rồi Cảm Giác, một cách rất từ từ, bắt đầu dịu xuống. Trong vài phút ngắn ngủi dài lê thê căn phòng tắm chập chờn này trở thành một thế giới riêng biệt; một cái kén cách xa khỏi rắc rối và chiến tranh.
Nhưng cuộc chiến bên ngoài từ chối bị tảng lờ lâu. Súng phòng không nổ ràn rạt. Mảnh đạn cào kèn kẹt như móng vuốt qua mái nhà. Những quả bom rơi xuống gần hơn, cho tới khi tiếng nổ của chúng kéo theo những âm thanh trầm hơn, đáng sợ hơn - tiếng những bức tường rầm rầm đổ xuống. Olive ôm chặt lấy mình. Horace đưa các ngón tay lên bịt tai. Hai cậu bé mù rên rỉ và giậm chân. Cô Peregrine rúc sâu vào trong các nếp áo khoác của Bronwyn, còn con bồ câu run bần bật trong lòng Melina.
- Các cậu dẫn chúng ta vào trò điên loạn gì thế này? - Melina nói.
- Tớ đã cảnh báo cậu rồi, - Emma đáp.
Nước trong bồn tắm của Esme dập dềnh theo mỗi tiếng nổ. Cô bé nắm chặt lấy con vịt cao su và bắt đầu khóc. Tiếng nức nở của cô bé tràn ngập căn phòng. Sam ngân nga to hơn, thỉnh thoảng lại dừng lại thì thầm, “Em an toàn, Esme, em được an toàn ở đây”, giữa các giai điệu, nhưng Esme chỉ càng khóc dữ hơn.
Horace bỏ các ngón tay ra khỏi tai và tìm cách phân tán sự chú ý của Esme bằng cách tạo thành bóng các con vật trên tường - một con cá sấu hàm há ra lại ngậm vào, một con chim vỗ cánh bay - nhưng cô bé hầu như không để ý đến. Thế rồi người mà tôi chẳng bao giờ trông đợi sẽ bận tâm tới việc giúp một cô bé cảm thấy vui vẻ hơn lại bước tới bên bồn tắm.
- Nhìn này, - Enoch nói, - anh có một người tí hon thích cưỡi con vịt của em, và cậu ta cũng vừa cỡ.
Từ trong túi, cậu ta lấy ra một người tí hon bằng đất cao gần chục phân, người cuối cùng còn lại từ những gì cậu ta đã tạo ra tại Cairnholm. Những tiếng nức nở của Esme dịu xuống khi cô bé quan sát cậu ta uốn cong chân người tí hon bằng đất và đặt nó ngồi lên thành bồn tắm. Sau đó, Enoch ấn ngón cái vào khuôn ngực tí xíu của người đất, anh chàng tí hon liền sống dậy.
Khuôn mặt Esme sáng lên thích thú khi người đất đứng dậy và bước đi theo thành bồn.
- Tiếp nào, - Enoch nói. - Cho cô bé thấy mày có thể làm gì.
Người đất nhảy lên và đập hai gót chân vào nhau, sau đó cúi chào một cách hơi bộ tịch quá. Esme cười vang và vỗ tay, và khi một quả bom rơi gần chỉ giây lát sau đó làm người đất mất thăng bằng và rơi tõm vào trong bồn, cô bé chỉ càng cười dữ hơn.
Một cơn ớn lạnh đột nhiên cuộn lên sau gáy tôi, làm da đầu tôi sởn gai ốc, rồi Cảm Giác bùng lên trong tôi thật nhanh chóng và dữ dội khiến tôi phải rên lên và cúi gập người lại. Những người khác nhìn thấy, lập tức hiểu ra như thế nghĩa là gì.
Chúng đang tới. Chúng đang lao tới rất nhanh.
Tất nhiên là thế rồi: Enoch đã dùng năng lực của cậu ta, và thậm chí tôi còn chẳng nghĩ tới việc ngăn cậu ta lại. Chẳng khác gì chúng tôi vừa bắn lên một quả pháo hiệu.
Tôi loạng choạng đứng dậy, cảm giác đau đớn dồn dập tấn công tôi thành từng cơn làm tôi kiệt sức. Tôi cố hét lên - Đi, chạy mau! Chạy ra sau nhà! - nhưng không thể nói ra lời. Emma đặt hai bàn tay lên hai vai tôi.
- Trấn tĩnh lại đi, Jacob yêu quý, chúng tớ cần cậu!
Rồi thứ gì đó nện thình thình vào cửa trước, mỗi cú nện đều vang vọng lại khắp ngôi nhà.
- Chúng ở đây rồi! - cuối cùng tôi cũng nói được thành lời, nhưng tiếng cánh cửa rung bần bật trên các bản lề đã nói rõ hộ tôi.
Tất cả mọi người đứng bật dậy và chen chúc nhau ào ra ngoài lối đi thành một đám hoảng loạn. Chỉ có Sam và Esme vẫn ở yên chổ cũ, không hiểu gì, người co rúm lại. Emma và tôi phải lôi Bronwyn rời khỏi bồn tắm.
- Chúng ta không thể cứ bỏ mặc họ như thế! - cô kêu lên khi chúng tôi kéo cô ra phía cửa.
- Có, chúng ta có thể! - Emma nói. - Họ sẽ ổn thôi, họ không phải là người đám hồn rỗng truy đuổi!
Tôi biết đúng là như thế, song tôi cũng biết đám hồn rỗng sẽ xé tan tành mọi thứ trên đường đi của chúng, kể cả hai cô bé bình thường.
Bronwyn đấm vào tường trong cơn phẫn nộ, để lại một vết hõm sâu hình nắm tay. “Tớ xin lỗi”, cô nói với hai cô gái, rồi để Emma đẩy mình ra lối đi. Tôi loạng choạng chạy theo họ, bụng quặn thắt.
- Khóa cửa lại và đừng mở cho bất cứ ai! - tôi nói lớn, rồi ngoái lại nhìn một lần thoáng qua khuôn mặt Sam qua khung cửa đang đóng lại, đôi mắt cô bé mở to, đầy kinh hoàng.
Tôi nghe thấy một cửa sổ bị đập vỡ ngoài tiền sảnh. Một thôi thúc tò mò gần như tự sát làm tôi liếc nhìn qua góc tường. Một đống xúc tu đang quằn quại trườn qua các rèm cửa được kéo kín. Rồi Emma cầm lấy tay tôi và lôi tôi đi - theo một lối khác - vào một căn bếp - qua cửa sau - ra một khu vườn phủ đầy tro bụi - lao xuống một con hẻm nơi những người khác đang chạy thành một nhóm rời rạc.
Thế rồi ai đó nói “Nhìn kìa, nhìn kìa!”, và, vừa chạy tôi vừa ngẩng đầu lên thì thấy một con chim trắng khổng lồ đang lơ lửng thật cao phía trên con phố.
Enoch nói: “Mìn, đó là một quả mìn!”, và thứ lúc trước trông như một đôi cánh nhẹ mong manh đột nhiên hiện nguyên hình rõ ràng là một chiếc dù, và vật thể tròn trĩnh màu bạc treo bên dưới nó chứa đầy thuốc nổ; một tử thần đang thản nhiên bồng bềnh hạ xuống mặt đất. Đám hồn rỗng ào ra ngoài. Tôi có thể thấy chúng ngoài xa, đang băng qua khu vườn, những cái lưỡi vung vẩy trong không khí. Quả mìn hạ xuống cạnh ngôi nhà với một tiếng cạch nhẹ nhàng.
- Nằm xuống! - tôi hét lên.
Chúng tôi không có cơ hội chạy đi tìm nơi ẩn nấp. Tôi vừa kịp nằm phục xuống đất thì một quầng sáng chói lòa và một âm thanh nghe như mặt đất vừa bị xẻ toang ra cùng một làn sóng xung kích với luồng gió nóng hừng hực ép hết không khí ra khỏi phổi tôi. Tiếp theo, một trận mưa mảnh vỡ đen kịt quật dữ dội xuống lưng tôi. Tôi thu hai đầu gối co lên ngực, cho mình thật nhỏ lại.
Sau đó, chỉ còn lại gió, tiếng còi và một âm vang ong ong trong tai tôi. Tôi há hốc miệng hớp không khí và sặc sụa vì bụi đang bay cuộn lên. Kéo cổ áo len lên che kín mũi và miệng để lọc bụi, tôi từ từ hít thở trở lại.
Tôi đếm lại tứ chi của mình: hai cánh tay, hai chân.
Tốt.
Tôi chầm chậm ngồi dậy và nhìn quanh. Tôi không thể thấy gì nhiều qua đám bụi, nhưng tôi nghe thấy các bạn mình đang gọi nhau. Có tiếng Horace, rồi Bronwyn. Rồi Hugh. Và Millard.
Emma đâu rồi?
Tôi gọi tên cô. Cố đứng dậy và lại ngồi vật xuống. Đôi chân tôi còn nguyên vẹn song đang run bần bật; chúng không mang nổi trọng lượng của tôi.
Tôi lại gọi lớn.
- Emma!
- Tớ đây!
Đầu tôi quay ngoắt về phía giọng nói của cô. Cô hiện ra từ trong làn khói.
- Jacob! Ôi Chúa ơi. Tạ ơn Chúa.
Cả hai chúng tôi đều run rẩy. Tôi đưa hai cánh tay ôm lấy cô, đưa hai bàn tay lần khắp người cô để đảm bảo cô vẫn còn nguyên vẹn.
- Cậu ổn cả chứ? - tôi hỏi.
- Phải. Còn cậu?
Hai tai tôi đau điếng, hai buồng phổi đau rát và lưng tôi nhức nhối ở những chổ bị mảnh vỡ đập vào, nhưng cơn đau trong bụng đã biến mất. Ngay khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, như thể ai đó đã tắt một cái công tắc trong người tôi, và vậy là Cảm Giác tan biến. Đám hồn rỗng đã bị bốc thành hơi.
- Tớ ổn cả, - tôi nói. - Tớ ổn cả.
Ngoại trừ những vết sây sát và rách da thịt, cũng như những người còn lại trong chúng tôi. Cả nhóm chúng tôi tập tễnh xúm lại và so sánh các vết thương. Tất cả đều là những vết thương nhẹ.
- Đây quả là một thứ phép mầu, - Emma nói, lắc đầu không tin nổi.
Thậm chí thực tế này còn khó tin hơn khi chúng tôi nhận ra khắp nơi quanh mình là đinh sắt và những mảnh bê tông, cùng các mảnh gỗ sắc như dao, nhiều mảnh bị vụ nổ làm cắm sâu vào đất cả chục phân. Enoch tập tễnh đi tới chỗ một chiếc ô tô đậu gần đó, các khung cửa kính tan tành, khung xe bị mảnh mìn cắm vào chi chít đến nỗi trông giống như bị một khẩu súng máy xả đạn vào.
- Đáng lẽ bọn mình phải chết rồi, - cậu ta ngỡ ngàng, đút ngón tay vào một trong những cái lỗ. - Tại sao bọn mình lại không thủng lỗ chỗ nhỉ?
Hugh nói:
- Là cái áo của cậu, anh bạn, - rồi đi tới chỗ Enoch và nhổ một cái đinh xuống từ lưng chiếc áo len dính đầy đất cát của cậu ta.
- Và áo của cậu nữa, - Enoch nói, nhổ một mảnh kim loại cạnh sắc lởm chởm ra từ áo của Hugh.
Thế rồi tất cả chúng tôi cùng kiểm tra lại áo len của mình. Găm vào mỗi chiếc áo đều có những mảnh kính dài nhọn hoắt, những mảnh kim loại đáng lẽ đã xuyên thấu qua người chúng tôi - nhưng lại không thể. Những chiếc áo len đặc biệt ngứa ngáy, không vừa vặn của chúng tôi không kỵ lửa hay kỵ nước, như cô bán lừa cao cổ đã đoán. Chúng chống đạn. Và chúng đã cứu mạng chúng tôi.
- Tớ chưa bao giờ mơ mình lại nợ mạng sống một món trang phục kinh khủng thế này, - Horace nói, mân mê chất len của chiếc áo giữa các ngón tay. - Tớ không biết mình có thể dùng loại len này may một cái áo vest thay cho thứ này được không.
Sau đó Melina xuất hiện, con bồ câu đậu trên vai cô, bên cạnh cô là hai anh em mù. Với khả năng cảm nhận như những chiếc máy dò sóng âm của mình, hai cậu bé đã tìm thấy một bức tường thấp bằng bê tông cường lực - nghe có vẻ rất cứng - và kéo Melina nấp vào đằng sau nó đúng lúc quả bom nổ. Như vậy chỉ còn hai cô bé bình thường kia là chưa thấy đâu. Nhưng khi bụi lắng xuống và ngôi nhà của họ - hay những gì còn lại của nó - hiện ra trong tầm mắt, mọi hy vọng tìm thấy họ còn sống dường như đều tiêu tan. Tầng trên ngôi nhà đã sập, dẹp lép đè ụp lên tầng dưới. Những gì còn lại là bộ khung trơ trụi của những thanh xà cây cột nhô ra và một đống đổ nát bốc khói.
Dù vậy Bronwyn vẫn hối hả chạy ngay về phía ngôi nhà, gọi lớn tên hai chị em. Tôi đờ đẫn nhìn cô chạy đi.
- Chúng ta đã có thể giúp họ mà lại không giúp, - Emma cay đắng nói. - Chúng ta bỏ mặc họ chết.
- Làm gì thì cũng chẳng đem lại chút khác biệt nào, - Millard nói. - Cái chết của họ đã được ghi trong lịch sử rồi. Cho dù chúng ta có cứu sống họ hôm nay, sẽ có chuyện gì đó xảy đến với họ ngày mai. Một quả bom khác. Một vụ đâm xe buýt. Họ thuộc về quá khứ, và quá khứ luôn tự điều chỉnh nó, cho dù chúng ta có can thiệp thế nào đi nữa.
- Đó là lý do tại sao cậu không thể trở về quá khứ và giết chú nhóc Hitler để ngăn chiến tranh xảy ra, - Enoch nói. - Lịch sử tự điều chỉnh cho nó. Chẳng phải thật thú vị sao?
- Không, - Emma gắt lên, - và cậu là một gã khốn vô tâm khi nói về việc giết trẻ con vào một lúc thế này. Hay vào bất cứ lúc nào.
- Cậu nhóc Hitler, - Enoch nói. - Và nói về lý thuyết Vòng Thời Gian sẽ tốt hơn lao vào những cơn cuồng loạn vô tích sự.
Cậu ta nhìn theo Bronwyn, cô đang leo lên đống đổ nát, bới tìm trong những mảnh vỡ, ném hết mảnh này đến mảnh khác ra đủ hướng. Cô quay lại và vẫy tay về phía chúng tôi.
- Lại đây! - cô gọi lớn.
Enoch lắc đầu.
- Ai đó làm ơn lôi cậu ấy về đây nào. Chúng ta còn một Chủ Vòng cần phải tìm nữa.
- Lại đây! - Bronwyn hét lên, lần này còn lớn tiếng hơn. - Tớ có thể nghe thấy một trong hai chị em họ!
Emma nhìn tôi.
- Đợi đã. Cậu ấy nói gì nhỉ?
Và rồi tất cả chúng tôi cùng chạy tới với cô.
* * *
Chúng tôi tìm thấy cô em gái dưới một mảnh trần vỡ. Nó đã rơi thẳng xuống đập vào bên trên bồn tắm, làm cái bồn bị vỡ nhưng không hoàn toàn bẹp xuống. Co ro bên trong là Esme - ướt, nhem nhuốc, và bị chấn động nặng nề, nhưng còn sống. Cái bồn đã bảo vệ cho cô bé, đúng như chị gái cô đã hứa.
Bronwyn nhấc mảng trần sập lên đủ cao để Emma thò tay vào kéo Esme ra. Cô bé ôm chặt lấy Emma, run rẩy khóc nức nở.
- Chị em đâu? - cô bé hỏi. - Sam đâu rồi?
- Bình tĩnh nào, cô bé, bình tĩnh nào, - Emma nói, không ngừng đu đưa cô bé. - Các anh chị sẽ đưa em tới bệnh viện. Sam sẽ đến sau.
Đó là một lời nói dối, tất nhiên rồi, và tôi có thể thấy trái tim Emma tan nát khi cô phải nói ra những lời này. Nguyên chuyện chúng tôi còn sống sót và cả cô bé cũng vậy đã là hai phép mầu trong một đêm. Trông đợi phép mầu thứ ba nữa có vẻ quá tham lam. Nhưng rồi vẫn có phép mầu thứ ba xảy ra, hay điều gì đó tương tự như thế: chị cô bé trả lời.
- Chị đây, Esme! - một giọng nói vọng tới từ phía trên.
- Sam! - cô bé reo lên, và tất cả chúng tôi cùng ngước nhìn lên.
Sam đang treo lủng lẳng trên một xà gỗ trong cấu trúc rui mái nhà. Thanh xà đã bị gãy và nằm chúc xuống bốn mươi lăm độ. Sam ở gần phía đầu thấp nhất, song vẫn quá cao để bất cứ ai trong chúng tôi với tới.
- Buông tay ra! - Emma nói. - Bọn tớ sẽ đỡ cậu!
- Tớ không thể!
Thế rồi tôi nhìn kỹ hơn và thấy rõ vì sao cô bé không thể, và thiếu chút nữa tôi ngất xỉu. Hai cánh tay và hai chân đều đang đu đưa tự do. Không phải cô bé đang bám vào thanh xà, mà đang cố gỡ người ra khỏi nó. Cô gái đã bị thanh xà đâm xuyên qua giữa thân mình. Ấy vậy nhưng đôi mắt cô vẫn mở, và cô đang chớp mắt đầy lanh lợi về phía chúng tôi.
- Có vẻ tớ bị mắc kẹt, - cô bình tĩnh nói.
Tôi tin chắc Sam có thể chết bất cứ lúc nào. Cô đang bị sốc nên không hề cảm thấy đau, song chẳng mấy chốc nữa lượng adrenaline tràn ngập trong người cô sẽ tan biến, và cô sẽ ngất xỉu rồi chết.
- Ai đó gỡ chị em xuống đi! - Esme khóc lóc.
Bronwyn làm theo lời cầu xin của cô bé. Cô leo lên một cầu thang đổ nát để tới chổ trần nhà bị phá hỏng, sau đó vươn tay ra nắm lấy thanh xà. Cô kéo, kéo mãi, và bằng sức mạnh ghê gớm của mình khiến thanh xà bị gập xuống cho tới lúc đầu xà gãy gần chạm tới đống đổ nát phía dưới. Nhờ vậy, Enoch và Hugh có thể cầm lấy đôi chân đang vùng vẫy của Sam rồi thật nhẹ nhàng đẩy cô bé về phía trước cho tới khi cô được giải thoát khỏi cây xà với một tiếng phực! và đứng xuống trên hai chân.
Sam đờ đẫn nhìn lỗ thủng trên ngực. Cái lỗ tròn trịa một cách hoàn hảo với đường kính gần mười lăm xăng ti mét, cũng giống như thanh xà đã đâm xuyên qua người cô, ấy thế nhưng chuyện này không có vẻ làm cô bé bận tâm nhiều. Esme vùng ra khỏi tay Emma và chạy tới chổ chị gái.
- Sam! - cô bé reo lên, dang hai cánh tay ôm vòng quanh eo cô gái bị thương. - Ơn Chúa là chị ổn cả!
- Chị không nghĩ thế đâu! - Olive nói. - Chị không nghĩ là chị em ổn cả đâu!
Nhưng Sam chỉ lo lắng cho Esme, chứ không phải cho bản thân. Sau khi đã ôm chặt em gái, Sam quỳ gối xuống, giữ cô bé cách xa một tầm cánh tay, xem xét các vết xây xước, bầm tím.
- Hãy nói cho chị biết em đau ở đâu, - cô nói.
- Tai em ong ong. Đầu gối em bị xước. Và bụi bay vào mắt em… - Rồi Esme bắt đầu run bần bật và khóc, cú sốc trước những gì vừa diễn ra lại ám ảnh cô bé.
Sam nựng nịu ôm chặt lấy em gái, dỗ dành:
- Thôi mà, thôi mà…
Thật vô lý khi bất cứ chức năng nào trong cơ thể của Sam vẫn còn vận hành được. Lạ hơn nữa, vết thương của cô thậm chí còn chẳng chảy máu, và không có thứ gì ghê rợn hay những mảnh ruột lòi ra ngoài như trong các bộ phim kinh dị. Ngược lại, Sam trông như một con búp bê giấy vừa bị một cái đục lỗ khổng lồ xuyên qua.
Dù tất cả mọi người đều rất trông đợi một lời giải thích, chúng tôi quyết định để hai chị em họ được riêng tư cùng nhau, và đứng kinh ngạc nhìn chằm chặp từ một khoảng cách vừa phải.
Tuy thế, Enoch lại không dành cho họ sự lịch thiệp tương tự.
- Xin lỗi nhé, - cậu ta nói, chen vào không gian riêng tư của họ, - nhưng cậu có thể làm ơn giải thích làm thế nào cậu lại vẫn còn sống không?
- Chẳng có gì nghiêm trọng cả, - Sam nói. - Dù cái váy của tớ có vẻ không qua nổi chuyện này.
- Chẳng có gì nghiêm trọng ư? - Enoch thốt lên. - Tớ có thể nhìn xuyên qua người cậu!
- Cũng hơi phiền phức một chút, - cô gái thừa nhận, - nhưng rồi nó sẽ kín lại sau khoảng một ngày thôi. Những chuyện thế này luôn diễn ra mà.
Enoch cười như hóa rồ.
- Những chuyện thế này?
- Nhân danh tất cả những gì đặc biệt, - Millard khẽ nói. - Cậu biết điều này nghĩa là gì phải không nào?
- Cô ấy là một trong số chúng ta, - tôi nói.
* * *
Chúng tôi có những câu hỏi. Rất nhiều câu hỏi. Và khi nước mắt của Esme bắt đầu khô hẳn, chúng tôi thu hết can đảm để hỏi.
Sam có nhận ra cô là người đặc biệt không?
Cô gái biết mình khác biệt, cô trả lời, song chưa bao giờ nghe đến khái niệm người đặc biệt.
Cô đã bao giờ sống trong một Vòng Thời Gian chưa?
Chưa, (“Một cái gì cơ?”), nghĩa là độ tuổi cô bé cũng vừa bằng vẻ bề ngoài của mình. Mười hai tuổi, cô bé đáp.
Chẳng lẽ chưa từng có Chủ Vòng nào tới tìm cô bé?
- Một lần từng có người tới, - cô bé trả lời. - Có những người khác giống tớ, nhưng để gia nhập cùng họ tớ sẽ phải bỏ Esme lại.
- Esme không thể… làm được bất cứ điều gì sao? - tôi hỏi.
- Em có thể đếm ngược từ một trăm bằng giọng vịt, - Esme lên tiếng giữa những lần thút thít, rồi bắt đầu thể hiện bằng những tiếng quàng quạc, - Một trăm, chín mươi chín, chín mươi tám…
Chưa kịp đếm tiếp, Esme đã bị tiếng còi ngắt lời, cái còi này có âm thanh cao chói tai và di chuyển rất nhanh về phía chúng tôi. Một chiếc xe cứu thương nghiêng thành rẽ vào con hẻm và hối hả phóng về phía chúng tôi, đèn pha đã bị dán kín phần lớn chỉ để những khe sáng hẹp như châm bằng đinh ghim chiếu ra. Chiếc xe phanh kít dừng sững lại ngay gần chỗ chúng tôi, tắt còi hụ, và một người lái xe chui ra khỏi xe.
- Có ai bị thương không? - người lái xe hỏi trong lúc hối hả chạy tới chỗ chúng tôi.
Người này mặc một bộ đồng phục xám nhàu nhĩ, trên đầu đội một cái mũ sắt sứt mẻ, và cho dù anh ta có vẻ rất sung sức, khuôn mặt anh ta lại hốc hác như thể đã nhiều ngày qua chưa ngủ.
Nhìn thấy lỗ thủng trên ngực Sam, người lái xe đang chạy liền đứng chựng lại.
- Ôi Chúa ơi!
Sam đứng dậy.
- Không có gì đâu ạ, thật đấy! - cô bé nói. - Cháu không sao cả!
Và để cho thấy mình hoàn toàn ổn ra sao, cô bé đưa nắm tay vào trong cái lỗ vài lần rồi lại rút ra, rồi nhảy lên vung tay xoạc chân một lần. Người lái xe cứu thương ngất xỉu.
- Hừm. - Hugh thốt lên, đưa bàn chân hất hất người đàn ông vừa ngã lăn ra. - Chắc cô bé nghĩ mấy quý ông này hẳn phải cứng cỏi hơn.
- Vì rõ ràng ông ta không thể giúp gì được nữa, theo tớ chúng ta nên mượn cái xe cứu thương của ông ta, - Enoch nói. - Không thể biết được con bồ câu đó sẽ dẫn chúng ta tới đâu trong thành phố. Nếu phải đi xa, có thể chúng ta sẽ mất cả đêm đi bộ để tới chỗ cô Wren.
Horace, đang ngồi trên một mảng tường, đứng bật dậy.
- Đó là một ý tưởng rất hay! - cậu ta nói.
- Đó là một ý tưởng đáng trách! - Bronwyn nói. - Các cậu không thể đánh cắp một chiếc xe cứu thương, những người bị thương cần nó!
- Chúng ta là những người bị thương, - Horace rên rỉ. - Chúng ta cần nó!
- Khó có thể coi hai chuyện này là một!
- Thánh Bronwyn! - Enoch mỉa mai. - Chẳng lẽ cậu lo lắng cho sự an nguy của những người bình thường tới mức mạo hiểm tính mạng cô Peregrine để bảo vệ vài người trong số họ sao? Một nghìn người bọn họ không đáng bằng một mình cô ấy! Hay một người trong chúng ta, nếu muốn nói tới chuyện này!
Bronwyn thảng thốt há hốc miệng.
- Lẽ nào có thể nói thế trước mặt…
Sam hiên ngang bước về phía Enoch, trên khuôn mặt không hề có chút hài hước nào.
- Nhìn đây, cậu kia, - cô bé nói, - nếu cậu dám nói lần nữa tính mạng em gái tôi vô giá trị, tôi sẽ nện cậu nhừ tử.
- Bình tĩnh nào, tớ không định nói tới em gái cậu. Tớ chỉ có ý là…
- Tôi biết chính xác ý cậu là gì. Và tôi sẽ nện cậu nhừ tử nếu cậu lại dám nói thế.
- Tớ xin lỗi nếu tớ đã đụng chạm đến sự nhạy cảm mong manh của cậu, - Enoch nói, cao giọng trong cơn bực bội, - nhưng cậu chưa bao giờ có một Chủ Vòng và chưa bao giờ sống trong một Vòng Thời Gian, và vì vậy cậu không thể hiểu nổi rằng hiện tại - ngay lúc này đây - không phải là thật, nếu nói cho chính xác. Đây là quá khứ. Cuộc sống của tất cả những người bình thường trong thành phố này đều đã được sống qua rồi. Số phận của họ đã được định đoạt từ trước rồi, cho dù chúng ta có đánh cắp bao nhiêu xe cứu thương đi chăng nữa! Vì thế việc này chẳng có chút quan trọng quái nào cả, cậu hiểu chưa.
Trông có vẻ ít nhiều lúng túng, Sam không nói gì, nhưng tiếp tục nhìn Enoch hằn học.
- Dù vậy đi nữa, - Bronwyn nói, - làm người khác phải chịu khổ sở không cần thiết là không đúng. Chúng ta không được lấy xe cứu thương!
- Nghe thì đúng đắn và tử tế lắm, nhưng hãy nghĩ tới cô Peregrine nào! - Millard nói. - Cô ấy có lẽ không còn quá một ngày.
Nhóm chúng tôi có vẻ bị chia thành hai nhóm tương đương, lấy cắp xe cứu thương hay tiếp tục đi bộ, vì thế chúng tôi quyết định biểu quyết. Bản thân tôi phản đối việc lấy xe, nhưng chủ yếu vì các con đường đã chi chít hố bom đến mức tôi không biết làm thế nào chúng tôi có thể lái chiếc xe đi được. Emma là người đếm số biểu quyết.
- Ai ủng hộ lấy xe cứu thương? - cô hỏi.
Vài cánh tay giơ lên.
- Còn phản đối?
Đột nhiên có một tiếng bụp thật to vang lên từ phía xe cứu thương, tất cả chúng tôi đều quay lại nhìn thì thấy cô Peregrine đứng cạnh xe trong khi một trong các lốp sau xe đang xì hơi. Cô Peregrine đã biểu quyết bằng mỏ của bà, bằng cách dùng nó chọc thủng lốp xe cứu thương. Giờ thì không ai còn có thể sử dụng nó - dù là chúng tôi hay những người bị thương - và cũng chẳng còn lý do để tranh cãi hay trì hoãn thêm nữa.
- À, thế là mọi thứ đơn giản hẳn, - Millard nói. - Chúng ta đi bộ.
- Cô Peregrine! - Bronwyn kêu lên. - Làm sao cô có thể?
Tảng lờ sự bất bình của Bronwyn, cô Peregrine tập tễnh nhảy tới chỗ Melina, nhìn lên con bồ câu trên vai cô, và kêu rít lên. Thông điệp đã rõ ràng: Đi thôi!
Chúng tôi có thể làm gì đây? Thời gian đang bị lãng phí.
- Hãy đi cùng chúng tớ, - Emma nói với Sam. - Nếu vẫn còn chút công lý trên thế giới, chúng ta sẽ được ở một nơi an toàn trước khi trời sáng.
- Tớ nói với mọi người rồi, tớ sẽ không bỏ em gái tớ lại, - Sam trả lời. - Các cậu sắp tới một nơi con bé không vào được, phải không nào?
- Tớ… tớ không biết, - Emma lúng túng. - Có thể…
- Tớ không quan tâm là thế nào, - Sam lạnh lùng nói. - Và sau những gì vừa thấy, tớ không còn muốn gặp lại các cậu nữa.
Emma lùi lại, mặt hơi tái đi. Cô hạ giọng khẽ hỏi:
- Vì sao?
- Nếu thậm chí cả những người bị ruồng bỏ và chà đạp như các cậu còn không thể có được chút cảm thông cho người khác, - cô bé nói, - thì chẳng còn chút hy vọng nào cho thế giới này nữa.
Và cô bé quay đi, đưa Esme về phía xe cứu thương.
Emma phản ứng như thể cô vừa bị tát, đôi má cô đỏ bừng. Cô chạy theo Sam.
- Không phải tất cả chúng tớ đều nghĩ như Enoch! Còn về cô Chủ Vòng của chúng tớ, tớ tin chắc cô không có ý làm điều cô đã làm!
Sam quay ngoắt lại để đối diện với cô.
- Đó không phải là vô tình! Tớ lấy làm mừng là em gái tớ không hề giống tất cả các cậu. Có Chúa chứng giám, ước gì tớ cũng không.
Cô bé lại quay đi, và lần này Emma không đi theo. Với đôi mắt thương tâm, cô nhìn Sam bỏ đi, rồi thõng vai đi theo những người khác. Vậy là cành ô liu hòa giải cô chìa ra đã biến thành một con rắn và cắn cô. Bronwyn cởi áo len của cô ra và để cái áo xuống đống đổ nát.
- Lần sau khi bom bắt đầu rơi xuống, hãy mặc cái này cho em gái cậu, - cô nói với Sam. - Cái áo sẽ giúp cô bé được an toàn hơn cái bồn tắm.
Sam không nói gì; thậm chí cũng chẳng nhìn. Cô bé đang cúi xuống người lái xe cứu thương, lúc này đang ngồi dậy và lẩm bẩm:
- Tôi đã có giấc mơ lạ lùng nhất…
- Làm thế thật ngu ngốc, - Enoch nói với Bronwyn. - Giờ cậu chẳng còn áo len nữa.
- Cậu im mồm lại, - Bronwyn đáp. - nếu từng làm điều gì tốt đẹp cho người khác, có lẽ cậu sẽ hiểu.
- Tớ từng làm một việc tử tế cho một người khác, - Enoch nói, - và việc đó thiếu chút nữa đã khiến chúng ta bị hồn rỗng ăn thịt!
Chúng tôi lí nhí nói những lời tạm biệt không được đáp lại rồi lặng lẽ lần vào bóng tối. Melina đỡ lấy con bồ câu trên vai rồi tung lên trời. Nó bay đi một quãng ngắn trước khi sợi dây cô gái buộc vào bàn chân nó bị kéo căng ra và con chim bay liệng lơ lửng, chững lại trong không trung như một con chó đang kéo căng dây dắt. “Cô Wren ở phía này”, Melina nói, hất hàm về hướng con chim đang kéo cô đi. Chúng tôi bèn đi theo cô gái cùng con bồ câu của cô vào ngõ hẻm.
Tôi sắp sửa vào vai trò cảnh giới hồn rỗng, vị trí lúc này của tôi đang ở gần phía đầu nhóm, thì có điều gì đó thôi thúc tôi liếc mắt trở lại phía hai chị em. Tôi quay lại vừa kịp lúc để thấy Sam bế Esme vào trong xe cứu thương, rồi cúi người xuống đặt một nụ hôn lên mỗi bên đầu gối trầy xước của cô bé. Tôi tự hỏi điều gì rồi sẽ xảy đến với họ. Sau này, Millard có nói với tôi thực tế là không ai trong số họ từng nghe nói tới Sam - và một người với năng lực đặc biệt độc nhất vô nhị như thế chắc hẳn phải được biết đến rộng rãi - cũng có nghĩa là nhiều khả năng cô bé đã không sống sót nổi qua chiến tranh.
Toàn bộ biến cố này đã thực sự tác động mạnh tới Emma. Tôi không biết vì sao với cô việc chứng tỏ với một người xa lạ rằng chúng tôi tử tế lại quan trọng đến thế, trong khi chúng tôi biết mình là vậy - song dường như cô bị bận tâm trước những lời nói cho rằng chúng tôi là gì đó thấp kém hơn các thiên thần đang sống trên thế gian, rằng bản thân của chúng tôi có nhiều cung bậc phức tạp hơn. “Họ không hiểu”, cô cứ nhắc đi nhắc lại mãi.
Ấy thế nhưng, tôi thầm nghĩ, có thể họ hiểu đấy.
--------------
Còn tiếp 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét