Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

Đồi Thỏ - Richard Adams -.Phần II. Trên ngọn đồi Watership

Phần II. Trên ngọn đồi Watership


Chương 18. Ngọn Đồi Watership


Những gì giờ đã được chứng minh trước kia vốn chỉ là tưởng tượng.
(Cuộc hôn nhân giữa thiên đường và địa ngục của William Blake)
*
Đó 1à vào buổi tối ngày hôm sau.
Cái vách dốc đứng của ngọn đồi Watership quay mặt về phía bắc, suốt từ sáng tinh mơ vẫn chìm trong bóng râm, bây giờ mời nhận được ánh mặt trời từ phía tây được khoảng một giờ trước khi trời tối. Một bức tường dốc đứng cao khoảng một trăm thước, kéo dài gần hai trăm thước tính từ hàng cây thưa thớt mọc dưới chân núi lên đến đỉnh đồi nơi độ dốc thoai thoải hơn. ánh nắng, ngập tràn và mềm mại, rắc những gợn vàng lên mặt đất lún phún lớp cỏ xanh, lên những bụi kim tước và thủy tung, cả những bụi cây còi cọc xác xơ vì gió. Nhìn từ trên đỉnh đồi, ánh mặt trời dường như ôm trọn cả sườn dốc phía dưới vẫn còn đang ngái ngủ và hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng dưới lớp cỏ, giữa những bụi cây và khóm rừng rậm rạp nhẵn dấu chân lũ bọ cánh cứng, nhện và chuột chù đang săn mồi, ánh nắng chuyển động như ngọn gió đang nhảy múa ở giữa khiến chúng nhốn nháo chạy loăng quăng. Những luồng ánh sáng đỏ lập lòe trong đám rễ cây, soi rõ cả những chi tiết trên những chiếc cánh có màng, hắt những bóng dài sau những cái chân đầy lông tơ nhỏ xíu, chia từng vạt đất trơ trụi thành vô số những hạt nhỏ. Các loại côn trùng hòa tấu những khúc nhạc của đôi cánh và thanh quản, thôi thì đủ loại từ tiếng vo vo, rù rì cho đến những tiếng o o inh ỏi khi không khí bắt đầu ấm dần lên dưới ánh hoàng hôn. Có âm sắc cao hơn nhưng lại bình thản hơn những âm thanh hỗn tạp, đó là tiếng hót của những con chim cổ vàng, hồng tước và sẻ lục vang lên giữa những bụi cây. Chim chiền chiện bay cao hơn, chít chiu hót trong không gian ngào ngạt mùi hương phía trên những dãy núi. Từ chỏm núi, đây đó khoảng không xanh biếc mênh mông có vẻ bất động bị phá vỡ bởi những cụm khói cuộn bay lên trời và chớp sáng mỏng manh nhỏ xíu của những mảnh thủy tinh dưới nắng. Xa xa phía dưới là những cánh đồng xanh rì trồng lúa mì, những đồng cỏ phẳng lặng chỉ có vài con ngựa đang gặm cỏ và màu xanh thăm thẳm của rừng cây. Nơi này, cũng giống như những cánh rừng hoang ven chân núi, thường trở nên náo động khi đêm về, nhưng ở độ cao cách biệt này, đã quay trở về với sự yên tĩnh vĩnh hằng, sự dữ dộì của chúng đã được làn không khí ở giữa làm dịu lại.
Dưới chân vách núi phủ đầy cỏ, Cây Phỉ và các bạn đồng hành của chú đang nằm thu mình dưới những cành thấp mọc lòa xòa của hai, ba cây suốt. Suốt từ sáng hôm qua đến giờ chúng đã vượt qua một chặng đường dài khoảng năm cây số. Vận may vẫn còn ở bên chúng bởi vì tất cả những kẻ rời cánh đồng thỏ ra đi vẫn còn sống sót. Chúng đã vượt qua hai con suối và lang thang trong nỗi thắc thỏm đầy sợ hãi trong những khu rừng sâu ở phía tây Ecchinswell. Chúng đã nghỉ trên một đống rơm ở Starveall, một nhà kho bỏ hoang rồi bị đánh thức bởi cuộc tấn công của một bầy chuột. Xám Bạc và Gạc Nai với sự giúp đỡ của Tóc Giả đã làm tất cả để yểm trợ các bạn chạy ra ngoài, cho đến khi tất cả đã ra khỏi nhà kho, chúng mới bắt đầu tháo chạy. Gạc Nai bị chuột cắn vào chân trước và vết thương nham nhở đúng theo kiểu chuột gặm làm chú ta rất khó chịu và đau đớn. Men theo một hồ nước nhỏ, chúng đăm đăm dõi theo một con chim bắt cá lớn lông màu xám lao xuống, khỏa nước trong lùm lau lách cho đến khi một đàn vịt trời từ đâu bay lên với tiếng kêu quang quác làm cả bọn được phen hoảng hồn. Cả bọn đi hơn một nửa dặm đường nữa thì tới một đồng cỏ rộng mênh mông không có chỗ nào có thể ẩn náu, tâm trạng lúc nào cũng nơm nớp chờ đợi một cuộc tấn công khác nhưng nó đã không tới. Chúng nghe thấy tiếng reo u u kỳ quái của một cột điện cao thế trong bầu không khí mùa hè và chắc đã không dám đi phía dưới nếu Thứ Năm không cam đoan rằng chiếc cột sẽ không làm gì hại đến chúng. Bây giờ thì chúng ngả lưng dưới gốc cây suốt, đánh hơi trong tâm trạng mệt mỏi và đầy hoài nghi về cái vùng đất xa lạ, trơ trụi bao quanh chúng.
Kể từ khi rời cánh đồng thỏ đầy những cái bẫy của bọn Anh Thảo Vàng, cả bọn đã trở nên thận trọng hơn, nhạy bén hơn - một đàn thỏ ngoan cuờng, lì lợm, hiểu nhau và phối hợp cùng nhau. Không còn những cuộc cãi vã nữa. Sự thật về cánh đồng thỏ là một cú sốc tàn nhẫn nhưng nhờ vậy chúng trở nên gần gũi nhau hơn, tin tưởng vào nhau và biết cách trân trọng khả năng của mỗi người. Bây giờ chúng biết rằng cuộc sống của chúng phụ thuộc vào chính những điều này chứ không phải bất cứ một điều gì khác, và chúng sẽ không lãng phí bất cứ thứ gì mà chúng đã phải vất vả cùng nhau mới có được. Bất chấp những nỗ lực của Cây Phỉ bên chiếc bẫy, không chú nào trong bọn mà không đau buồn khi nghĩ rằng Tóc Giả đã chết và tự hỏi, như Mâm Xôi, không biết chuyện gì sẽ xảy ra với chúng. Nếu không có Cây Phỉ, Mâm Xôi, Gạc Nai và Nồi Đất thì Tóc Giả chắc chắn đã chết rồi. Thiếu đi bản tính quật cường của mình, Tóc Giả có lẽ cũng không thể sống nổi, bởi vì ai khác trong bọn chúng có thể kiên quyết không nằm lại mà vẫn lên đường sau khi đã chịu đựng những đau đớn khôn cùng như thế? Bây giờ thì không còn ai thắc mắc gì về sức mạnh của Tóc Giả, về tầm nhìn của Thứ Năm, về sự khôn ngoan của Mâm Xôi và cả quyền lực của Cây Phỉ nữa. Khi bọn chuột kéo đến, Gạc Nai và Xám Bạc đã vâng lệnh Tóc Giả mà đứng ra cản bọn chuột. Những chú còn lại thì răm rắp đi theo Cây Phỉ khi chú đánh thức chúng dậy, không một lời giải thích bảo chúng hãy mau ra bên ngoài nhà kho. Sau đó, Cây Phỉ nói rằng chẳng có gì đáng nói trong chuyện này và cả bọn hãy băng qua đồng cỏ, thế là dưới sự chỉ đạo của Xám Bạc chúng đi qua đồng cỏ, có Bồ Công Anh đi trước thăm dò. Và khi Thứ Năm nói rằng cái cây sắt kia là vô hại thì tất cả đều tin chú.
Dâu Tây đã có một khoảng thời gian khó khăn. Nỗi khổ riêng khiến chú trở nên mụ mị, bất cẩn và chú day dứt khôn nguôi về cái vai trò của mình ở chốn cũ. Bản thân chú thì ẻo lả, lười biếng và quen được ăn ngon hơn là chú có can đảm thừa nhận. Tuy vậy, chú không dám mở miệng than phiền, đơn giản là bởi vì chú quyết định sẽ chứng tỏ những gì mình có thể làm và không muốn bị bỏ lại phía sau. Chú cũng tỏ ra là mình hữu ích khi ở trong rừng vì có khả năng thích ứng với rừng rậm tốt hơn những chú còn lại.
- Anh biết đấy, rồi Dâu Tây sẽ ổn thôi, nếu chúng ta cho cậu ấy cơ hội, - Cây Phỉ nói như thế với Tóc Giả khi chúng dừng lại bên hồ.
- Thì hắn buộc phải thế rồi, - Tóc Giả nói. - cái thằng công tử bột ấy.
Bởi vì theo tiêu chuẩn của chú, Dâu Tây hẳn là kiểu cách và sạch sẽ quá đáng.
- Thôi nào, tôi không muốn cậu ta bị ai hăm dọa đâu đấy Tóc Giả ạ. Điều đó đâu có giúp ích gì cho cậu ta.
Điều này thì Tóc Giả cũng đành tặc lưỡi đồng ý nhưng không khỏi sưng sỉa mặt mày một chút. Tuy vậy, bản thân chú cũng thay đổi, không còn độc đoán và hống hách như trước. Lần sập bẫy vừa rồi làm cho chú yếu đi và mau xuống sức. Chính chú là người đã phát hiện ra lũ chuột lúc ở nhà kho, vì không ngủ yên giấc nên tiếng sột soạt của lũ chuột đã làm chú thức dậy. Chú không muốn để Gạc Nai và Xám Bạc tham chiến một mình nhưng cảm thấy buộc phải để cái phần khó khăn nhất ấy cho bọn kia. Lần đầu tiên trong đời, Tóc Giả phát hiện mình cũng có tính kiềm chế và cẩn trọng.
Khi mặt trời sà xuống thấp rồi chạm vào một đầu cái đai bằng mây cuối chân trời, Cây Phỉ nhảy ra khỏi những cành cây và cẩn thận quan sát cả sườn dốc bên dưới. Đoạn chú chăm chú nhìn lên cao, qua những tổ kiến, lên cái sườn núi trải rộng và vươn cao trên đầu. Thứ Năm và Quả Sồi cũng theo chú chạy ra ngoài và cúi xuống nhấm nháp trên một vạt hồng đậu. Đây là một món ăn mới mẻ đối với tất cả, nhưng cả bọn không cần ai bảo với chúng là món ăn này khá ngon và nó khiến chúng phấn chấn hơn hẳn. Cây Phỉ quay lại, nhập bọn cùng chúng giữa những bông hoa oải hương lớn màu đỏ tươi với những đường gân hồng hồng.
- Thứ Năm à, - chú lên tiếng hỏi. - để xem anh hiểu có đúng không nhé. Em muốn chúng ta trèo lên tận nơi này, bất kể đường xa thế nào và tìm thấy được nơi nương náu ở trên đỉnh núi. Hiểu như thế có đúng không?
- Đúng đấy anh Cây Phỉ ạ.
- Nhưng đỉnh núi thì cao lắm. Từ đây anh còn chẳng trông thấy nữa là. Trên đấy chắc là trống trải và lạnh lắm đấy.
- Dưới lòng đất thì không thể: đất ở đấy nhẹ và xốp đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng đào hang khi tìm ra đúng địa điểm.
Cây Phỉ trầm ngâm cân nhắc lần nữa.
- Có một cái gì đó bắt đầu làm anh lo lắng. Chúng ta đang ở đây, ai nấy đều mệt lử cò bợ. Anh biết chắc sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta ở lại đây. Không có chỗ nào để chạy trốn hết, chúng ta chẳng biết gì về vùng này mà lại không thể chui xuống đất. Nhưng cũng không thể ép mọi người phải trèo lên trên kia vào tối nay được. Như thế thậm chí còn nguy hiểm hơn.
- Chúng ta buộc phải đào hang, phải không? - Quả Sồi hỏi. - Nơi này cũng trống trải như vùng thạch nam mà chúng ta đi qua, cây cối không thể che giấu chúng ta khỏi bất cứ con vật nào săn mồi trên bốn chân.
- Lần nào chúng ta đến thì cũng vậy thôi mà. - Thứ Năm lên tiếng.
- Tôi không có ý định phản đối gì đâu, Thứ Năm ạ, - Quả Sồi phân trần. - nhưng chúng ta cần có hang. Sẽ thật là một nơi dừng chân tồi tệ nếu như chúng ta không thể chui xuống đất được.
- Trước khi tất cả đi lên đỉnh, - Cây Phỉ nói. - chúng ta cần tìm hiểu sơ qua xem nơi này như thế nào đã. Tôi sẽ đích thân đi xem xét một vòng và sẽ cố sẽ đi nhanh hết sức mình, mọi người hãy cứ hy vọng vào điều tốt đẹp nhất cho đến khi tôi quay về. Dù sao thì hai người cũng nên nghỉ ngơi và ăn một cái gì đó.
- Anh không thể đi một mình. - Thứ Năm nghiêm nghị nói.
Bởi vì mỗi đứa trong bọn đều sẵn sàng đi với chú mặc dù chú nào chú nấy đều đã mệt nhoài sau chặng đường dài nên Cây Phỉ đành nhân nhượng và chọn Bồ Công Anh cùng Đầu Gỗ vì chúng có vẻ ít mệt hơn những chú khác. Chúng bắt đầu đi lên sườn núi chầm chậm, len lỏi tìm đường giữa các bụi rậm và búi cỏ, thỉnh thoảng lại dừng lại tiếp tục đánh hơi và quan sát động tĩnh trên đồng cỏ trải dài ra hai phía xa đến ngút tầm mắt.
Con người đi với tư thế thẳng đứng. Đối với chúng ta, leo lên một cái dốc thẳng đứng thật khó khăn mệt nhọc, bởi vì ta luôn phải khom người về phía trước để giữ thăng bằng lại và không hề có đà. Loài thỏ không gặp phải vấn đề như vậy. Chân trước của nó làm trụ cho toàn bộ cơ thể theo phương ngang, đôi chân sau to khỏe làm nốt công việc còn lại. Chúng tạo thành thế quá cân bằng khi đẩy lên đồi một khối lượng nhẹ ở phía trước. Loài thỏ có thể chạy nhanh lên dốc. Trong thực tế, chúng có rất nhiều lực dồn ra phía sau nên khi xuống dốc chúng cảm thấy bất tiện hơn, và đôi lúc, khi chạy xuống dốc, chúng thường lăn lông lốc. Mặt khác, con người với chiều cao thường từ 1,5 đến 1,8 mét nên khi lên dốc có thể nhìn toàn cảnh. Đối với con người, con đường núi có thể dốc và gồ ghề khó đi nhưng xét cho cùng thì vẫn bằng phẳng, và anh ta có thể chọn hướng di một cách dễ dàng từ cái “tháp” cao 1,8 mét trong khi di chuyển. Sự căng thẳng và lo lắng của loài thỏ khi leo đồi thì hoàn toàn khác, vì thế, từ những điều đó mà các bạn, những độc giả của tôi sẽ có được đôi chút kinh nghiệm nếu bạn đến đây. Vấn đề chính của thỏ không phải là sự mệt mỏi về thể xác. Khi Cây Phỉ nói rằng cả bọn chúng đều mệt mỏi là chú có ý rằng bọn chúng đang trong trạng thái căng thẳng vì nỗi lo sợ và cảm giác không an toàn kéo dài.
Mỗi khi ở trên mặt đất, trừ khi thông thuộc địa hình chung quanh ở gần hang, thỏ bao giờ cũng sống trong một nỗi sợ triền miên. Nỗi sợ này lên đến một mức độ nào đó sẽ khiến cho toàn thân chúng trở nên đờ đẫn, tê liệt bởi chứng tharn, như cách nói của thỏ. Cây Phỉ và các bạn đồng hành đã di chuyển liên tục suốt gần hai ngày qua. Trong thực tế, từ khi chúng rời khỏi cánh đồng thỏ nơi quê nhà vào năm ngày trước đó, chúng đã phải đối mặt với hết nguy hiểm này đến nguy hiểm khác. Tất cả từng bị đẩy đến sát mép vực, thỉnh thoảng lại phải bắt đầu từ con số không và cứ thế, nằm đại xuống bất cứ luống cỏ dài nào mà chúng tìm được. Tóc Giả và Gạc Nai từng bị đổ máu và những chú khác biết rất rõ. Điều làm cho Cây Phỉ, Bồ Công Anh và Đầu Gỗ lo ngại chính là sự trống trải mênh mông và xa lạ của vùng núi này, ở đây chúng không có khả năng phóng tầm mắt thật xa phía trước. Chúng không nhảy qua mà luồn dưới những lớp cỏ nhuộm đỏ ánh mặt trời giữa đám côn trùng bị đánh thức đang di chuyển và ánh sáng rừng rực như lửa. Cỏ gợn sóng nhấp nhô xung quanh chúng. Bọn thỏ nhìn qua những tổ kiến và cảnh giác nhìn quanh những lùm cây tục đoạn. Chúng không thể biết rõ là chóp núi còn cách chúng bao xa. Cứ mỗi lần lên được đến đỉnh dốc thì lại thấy còn có một cái đỉnh khác cao hơn. Đối với Cây Phỉ mà nói, nơi đây đường như dành cho loài chồn, hoặc có thể là loài cú trắng, bởi vì chúng có thể bay dọc theo những cái vách dốc đứng trong ánh sáng nhập nhoạng, nhìn thấu vào phía trong với đôi mắt sắc lạnh, sẵn sàng quay ngoắt sang bên cạnh chừng một mét và có thể lao xuống bất cứ cái gì đang di chuyển. Nhiều loại thú rình đợi con mồi của mình, nhưng chỉ có cú trắng là kẻ đi tìm và bao giờ nó cũng đến trong yên lặng.
Trong khi Cây Phỉ vẫn đi lên dốc, gió nam bắt đâu nổi lên và hoàng hôn tháng Sáu nhuộm đỏ rực cả một góc trời. Cây Phỉ giống như tất cả những thú hoang khác, không lạ lẫm gì với việc ngẩng lên quan sát bầu trời. Cái mà chú vẫn nghĩ là bầu trời chính là đường chân trời, thường bị đám cây cối và hàng rào làm đứt đoạn. Bây giờ với cái đầu ngẩng cao, chú thấy mình đang nhìn lên phía đỉnh núi, bên kia đường chân trời, những đám mây tích nhuốm màu đỏ ối đang lặng lẽ trôi. Chuyển động của chúng gây cảm giác bất an, không như chuyển động của lá cây, ngọn cỏ hay của thỏ. Cả một tảng mây vĩ đại trôi đều đều, không tiếng động và bao giờ cũng đi về một hướng. Chúng không thuộc về thế giới của Cây Phỉ.
“Ôi Thần Mặt trời”, Cây Phỉ nghĩ khi quay đầu một lát ngắm ánh hào quang sáng rực ở chân trời phía tây, “có phải người gửi chúng con vào sống giữa những đám mây kia không? Nếu ngài đã nói thật với Thứ Năm thì làm ơn hãy giúp con tin tưởng nó”. Đúng lúc ấy chú nhìn thấy Bồ Công Anh, đang phóng như bay về phía trước, ngồi trên hai chân sau lên một cái tổ kiến đùn hiện lên rõ trên nền trời. Giật nảy mình, chú phóng đến đó.
- Bồ Công Anh, xuống đi! - chú kêu lên. - Tại sao cậu lại ngồi ở đây?
- Bởi vì tôi có thể nhìn ra xa. - Bồ Công Anh đáp, với một niềm vui đầy phấn khích. - Lại đây mà coi này! Anh có thể nhìn thấy toàn thế giới.
Cây Phỉ đến bên bạn. Có một cái tổ kiến khác ở gần đấy và chú bắt chước Bồ Công Anh, ngồi thẳng lưng trên hai chân sau đưa mắt nhìn bốn phía. Chú nhận ra rằng nơi chúng ngồi gần như là đất bằng. Trong thực tế, cái dốc không bằng phẳng hơn con đường mà chúng đã đi qua, nhưng vì luôn đắm chìm trong những suy tư về mối nguy hiểm nơi địa hình trống trải nên chú đã không nhận ra sự thay đổi. Chúng đã lên tới đỉnh của dãy núi. Nằm trên bãi cỏ, chúng có thể nhìn ra xa theo mọi hướng. Chung quanh chúng đâu đâu cũng trống trải. Nếu có bất cứ vật gì chuyển động chúng có thể nhìn ra ngay tức khắc: và chính tại nơi mà mặt đất kết thúc, bầu trời lại mở ra. Một con người, một con cáo thậm chí cả một con thỏ chạy qua đây cũng có thể bị phát hiện ngay. Thứ Năm nói đúng. Ở trên cao này chúng có thể phát hiện bất cứ mối nguy hiểm nào khi nó đến gần.
Gió thổi tung bộ lông của chúng và làm lớp cỏ nằm bẹp xuống mang theo mùi cỏ xạ hương và cây thuốc bách bệnh. Vẻ hiu quạnh nơi nay cũng giống như một sự giải thoát và một ân huệ. Độ cao, bầu trời và khoảng cách xâm chiếm đầu óc chúng và chúng bỏ đi trong ánh hoàng hôn.
- Ôi Thần Mặt trời của núi đồi! - Bồ Công Anh thống thiết kêu lên. - Hẳn người đã làm nên nơi này cho chúng con.
- Thần Mặt trời có thể đã tạo ra nơi này, nhưng Thứ Năm mới là người chỉ ra nơi này cho chúng ta. - Cây Phỉ nói. - Hãy chờ cho đến khi chúng ta đưa Thứ Năm lên đây. Hỡi Thứ Năm vĩ đại!
- Thế Đầu Gỗ đâu? - Bất thần Bồ Công Anh hỏi.
Mặc dầu ánh sáng vẫn còn khá tỏ, vẫn không trông thấy Đầu Gỗ ở bất cứ chỗ nào quanh đấy. Sau khi chăm chú nhìn quanh được một lúc, hai chú chạy qua một cái gò đất nhỏ cách đấy không xa và tìm kiếm lần nữa. Nhưng chúng chẳng tìm thấy gì ngoài một con chuột đồng vùa chui ra khỏi hang và bắt đầu sục sạo giữa một bãi cỏ đang ra hạt.
- Chắc nó đi xuống rồi. - Bồ Công Anh nói.
- Phải, dù nó đã xuống dưới kia hay chưa thì chúng ta cũng không thể tiếp tục đi tìm nó. -  Cây Phỉ đáp. - Những người kia đang đợi chúng ta và rất có thể họ đang gặp nguy hiểm. Phải đi xuống ngay.
- Dù vậy, thật là mất mặt nếu để lạc mất nó, - Bồ Công Anh ca thán. - khi mà sau cả một chặng đường dài để đến được dãy núi của Thứ Năm chúng ta đã không để rơi rụng một ai. Đúng là đồ xuẩn ngốc, lẽ ra chúng ta không nên mang nó lên đây. Nhưng mà ở đây làm gì có thứ gì có thể giữ chân nó mà chúng ta lại không thể biết được nhỉ?
- Không, tôi chắc là nó đã quay về. - Cây Phỉ nói. - Tôi không biết là Tóc Giả sẽ nói gì với chú ta đây? Tôi hy vọng cậu ta sẽ không đánh Đầu Gỗ một trận nữa. Tốt hơn cả, chúng ta nên đi xuống.
- Thế anh có định đưa mọi người lên đây ngay tối nay không? - Bồ Công Anh hỏi.
- Tôi cũng không biết nữa. - Cây Phỉ đáp. - Còn có một vấn đề. Có thể tìm thấy chỗ trú ẩn ở đâu?
Hai chú tiến về phía đỉnh núi dốc đứng. Ánh nắng đã nhạt màu dần. Chúng xác định phương hướng nhờ những bụi cây còi cọc mà chúng đã đi qua trên đường leo lên đỉnh. Những bụi cây như thế này hình thành một thứ giống như là ốc đảo khô hạn - một đặc điểm nhỏ thường thấy nơi vùng núi. Có đến sáu, bảy bụi cây gai và hai ba cây cơm cháy mọc lên ở cả phía trên và phía dưới một bờ đất. Giữa chúng là mặt đất trơ thịt và những tảng đá phấn trơ khấc phơi ra cái màu trắng bẩn thỉu, vàng vọt dưới một cây cơm cháy đang trổ những bông hoa màu kem. Khi đến gần, chúng trông thấy Đầu Gỗ đang ngồi dưới gốc một bụi cây gai, lau mặt bằng hai chân trước.
- Chúng tôi tìm anh nãy giờ. - Cây Phỉ nói. - Anh rúc vào xó xỉnh nào vậy?
- Tôi xin lỗi anh, Cây Phỉ ạ. - Đầu Gỗ đáp giọng ngoan ngoãn. - Tôi đang xem xét những cái hang này. Tôi nghĩ có thể chúng cần cho chúng ta.
Trên bờ đất thấp dưới chân chú ta có ba cái lỗ hang nhỏ. Trong đó có hai cái bằng phẳng hơn trên mặt đất, giữa những cái rễ cây cứng quèo đầy mấu. Không thấy có dấu vết thức ăn hay phân của loài vật nào. Rõ ràng những cái hang này đã bị bỏ không.
- Thế cậu đã xuống dưới đó xem thử chưa? - Cây Phỉ hỏi, nghếch mũi đánh hơi.
- Có, tôi có xuống rồi. Cả ba cái. Hang nông và khá là gồ ghề nhưng không thấy mùi chết chóc hoặc bệnh tật gì cả mà có vẻ ổn lắm. Tôi nghĩ thế là cũng chấp nhận được đối với chúng ta, tất nhiên là chỉ tạm thời.
Trong bóng chiều chạng vạng, một con chim én bay trên đầu, cất tiếng kêu dáo dác và Cây Phỉ quay về phía Bồ Công Anh kêu to.
- Có tin, có tin! Mau xuống đưa tất cả lên đây.
Và như vậy, mọi việc đã xoay theo chiều hướng tốt, đến Đầu Gỗ, một chú thỏ “làng nhàng”, cũng đủ may mắn tìm được trong vùng núi hoang sơ một chỗ trú có thể cứu được một hoặc hai người bạn, bởi vì lũ thỏ khó có thể ngủ cả đêm nơi trống trải dù ở trên hay dưới chân núi mà không bị tấn công bởi kẻ thù hay cái gì khác.

Chương 19. Nỗi Sợ Hãi Trong Bóng Tối


Ai ở phòng bên cạnh đó? Ai vậy?
Một người mệt mỏi
Với một thông điệp đã đến lúc phải trả lời cho một người trong đó
Ta sẽ sớm biết hắn chứ?
Phải đúng thế, và hắn mang đến điều đó; và ông sẽ sớm được gặp hắn.
(Ai trong căn phòng bên cạnh của Thomas Hardy)
*
Những cái hang thỏ này bên trong gồ ghề lổn nhổn - “Nhưng thế này cũng là quá tốt đối với những kẻ phiêu bạt như chúng ta”, Tóc Giả bình luận - những những kẻ kiệt sức và phải lang thang ở một nơi xa lạ thì nào có quan tâm gì mấy đến chuyện nhà với cửa.

(Tóc Giả dùng chữ hlessil và trong nhiều đoạn trong câu chuyện này tôi chuyển nghĩa thành kẻ lang thang, thợ nạo, kẻ không nhà. Hlessil chỉ một con thỏ sống ở trên mặt đất không có hang. Những con thỏ đực sống một mình và thỏ chưa kết đôi thường lang thang trong một thời gian dài, đặc biệt là vào mùa hè. Trong bất cứ tình huống nào thì thỏ đực cũng không làm công việc đào hang, mặc dù chúng có thể cào một cái lỗ nông để núp hoặc tái sử dụng những cái hang đã có sẵn. Công việc đào hang thực sự chủ yếu thuộc về trách nhiệm của thỏ cái để chuẩn bị nơi ở cho đàn con.)

Ít nhất thì nơi đây cũng có đủ chỗ trú cho mười hai chú thỏ và lòng hang khá khô ráo, hai lối đi - quanh những bụi cây gai - dẫn thẳng xuống hang vắt lên trên một tầng đá phấn. Loài thỏ không nằm thành hàng trong chỗ ngủ của chúng và cái lòng hang cứng quèo, hầu như toàn sỏi đá này khá là bất tiện vời những kẻ chưa quen. Tuy vậy, những cái hang thỏ trên bờ đất có những lối đi theo hình cánh cung này dẫn xuống tầng đá vôi và rồi quanh co ngược trở lại những cái hang có nền đất nện. Nơi đây không có những lối đi giao nhau, nhưng bọn thỏ đã quá mệt chẳng hơi đâu quan tâm đến chuyện đó. Bốn chú ngủ trong một hang, ấm cúng và an toàn. Cây Phỉ vẫn còn thức thêm một lúc nữa, liếm vào cái chân vừa cứng vừa mềm oặt của Gạc Nai. Chuyên tâm khi thấy cái chân không bị nhiễm trùng, nhưng tất cả những gì mà chú nghe được về loài chuột đã khiến chú phải coi xem Gạc Nai đã ngủ được một giấc chưa và có giữ cho chân khỏi bị dơ cho đến khi vết thương lành không. “Đó là người thứ ba trong chúng ta bị thương, nhưng mà suy cho cùng, mọi chuyện còn có thể xấu hơn nữa”, chú nghĩ thầm rồi chìm dần vào giấc ngủ.
Đêm tháng Sáu ngắn ngủi trôi qua trong vài giờ. Ánh sáng nhanh chóng quay trở lại trên đỉnh núi cao nhưng bọn thỏ vẫn nằm im không cựa quậy. Sau khi trời sáng được một lúc bọn thỏ vẫn tiếp tục ngủ say, không hề bị quấy rầy trong sự img lặng sâu thẳm hơn tất cả những gì chúng từng biết. Ngày nay, trong rừng và giữa cánh đồng, mức độ tiếng ồn cao hơn vào ban ngày - quá cao đối với sức chịu đựng của một số loài vật. Chỉ có rất ít nơi cách xa những tiếng ồn do con người tạo ra - tiếng xe hơi, xe buýt, xe máy, xe kéo và tàu hỏa. Từ một khoảng cách xa, âm thanh ở một vùng có con người sinh sống vào buổi sáng vẫn vang lên thật rõ rệt. Những người muốn thu lại giọng hót của loài chim thường làm như vậy vào lúc sớm tinh mơ - trước sáu giờ nếu có thề. Chẳng bao lâu sau, những âm thanh từ xa vọng lại xâm chiếm không gian trong rừng đã trở nên quá thường xuyên và quá to. Trong vòng năm mươi năm qua sự tĩnh lặng của những vùng đất hẻo lánh này đã bị phá hủy. Nhưng ở đây, tại xứ Watership Down này, chỉ còn lại dấu vết mơ hồ của những âm thanh ban ngày đó.
Vào lúc Cây Phỉ thức giấc thì mặt trời đã lên cao, tuy chưa lên đến đỉnh núi. Ở trong cùng một hang với chú là Gạc Nai, Thứ Năm và Nồi Đất. Chú nằm ở gần cửa hang nhất và không định đánh thức bọn kia dậy khi lẻn ra lối đi. Ra đến bên ngoài, chú dừng lại, vòng ra sau một cái cây để phóng uế, đoạn nhảy qua một bụi cây gai chạy ra bãi cỏ. Phía dưới, cả một vùng đất được phủ một tấm mền bằng làn sương mù đùng đục buổi sáng và mọi vật dần dần hiện hình rõ hơn. Đó đây và ở xa xa hiện lên hình dáng những hàng cây và mái nhà, từ đó dải sương mù kéo thành vệt dài đổ xuống như sóng gợn từ những tảng đá. Bầu trời trong vắt xanh thắm không một gợn mây, thẫm dần thành màu hoa cà dọc theo đường viền nơi chân trời. Không trung tịnh không có một hơi gió và bọn nhện đã rình rang đi lại trong bãi cỏ. Hôm nay sẽ là một ngày nắng nóng đây.
Cây Phỉ đi với cái lối nhởn nhơ thông thường của bọn thỏ khi kiếm ăn; với năm hoặc sáu bước nhảy chậm, đung đưa cả thân hình dọc bãi cỏ, dừng lại nhìn quanh quất, ngồi thẳng lưng tai dựng đứng, sau đó bận rộn nhấm nhá một cái gì đó một lúc rồi lại di chuyển đi xa vài mét. Lần đầu tiên sau bao ngày qua chú mới lại có được cảm giác thư thái an lành. Chú bắt đầu tự hỏi không biết chúng đã hiểu được bao nhiêu về mảnh đất mới mẻ này.
“Thứ Năm nói đúng”, chú ngẫm nghĩ, “Đây chính là nơi dành cho chúng ta. Nhưng mọi người cũng cần phải quen với nó và nếu chúng ta càng ít phạm sai lầm thì mọi việc rồi ra sẽ tốt đẹp hơn. Mình tự hỏi chuyện gì xảy ra với những chú thỏ đào ra những cái hang này? Có phải họ ngừng chạy hay chỉ đơn giản chuyển đi chỗ khác? Nếu có thể tìm được họ thì họ sẽ có khối chuyện để nói cho chúng ta biết đây”.
Đúng lúc ấy chú nhìn thấy một chú thỏ vừa ngập ngừng ló ra khỏi một cái hang ở cách xa chỗ chú nhất. Đó là Mâm Xôi. Lại chú nữa cũng ra ngoài phóng uế, sau đó vươn vai vài cái rồi nhảy vào một chỗ tràn ngập ánh nắng và dùng tai quạt quạt mấy cái. Khi chú bắt đầu ăn cỏ thì Cây Phỉ đến gần, nằm xuống bên cạnh nhá nhá cái gì đó giữa những búi cỏ dài, rồi nhẩn nha đến bất cứ nơi nào mà bạn chú thích. Hai chú tung tăng nhảy đến một bãi cây miugốt khoác một màu xanh cũng thăm thẳm như bầu trời trên đầu, với những bông hoa cọng dài bò lan qua cỏ và cứ mỗi một phút trôi qua hoa lại bung ra hai cánh ở ngoài trông như đôi cánh mỏng. Mâm Xôi ngửi ngửi một hồi, nhưng lá loại cây này thô ráp và chả có mùi vị gì.
- Đây là cây gì vậy, anh có biết không? - Chú hỏi bạn.
- Không, tôi không bíết. - Cây Phỉ nói. - Tôi chưa trông thấy nó bao giờ.
- Có rất nhiều thứ mà chúng ta chưa biết về nơi này, - Mâm Xôi nói. - tôi có thể nói như vậy. Cây cỏ ở đây mới lạ, cả mùi cũng mới. Chúng ta sẽ cần những ý tưởng mới mẻ về bản thân.
- Phải, anh chính là một cây ý tưởng, Mâm Xôi à. - Cây Phỉ thừa nhận. - Nhiều cái tôi không biết cho đến khi anh dạy tôi đấy.
- Nhưng anh vẫn xông lên hàng đầu và là người đầu tiên chấp nhận rủi ro, thách thức. - Mâm Xôi nói. - Tất cả chúng tôi đều biết rõ điều đó. Cho đến lúc này có thể nói chuyến đi của chúng ta đã đến đích, phải không nào? Nơi này cũng an toàn đúng như lời Thứ Năm đã nói. Không có gì đến gần chúng ta mà chúng ta không biết, vậy đấy, tất nhiên trong trường hợp chúng ta còn có thể ngửi, nhìn và nghe tốt.  
- Tất cả chúng ta đều làm được điều đó.
- Vào lúc đi ngủ thì không, vả lại chúng ta cũng không nhìn được trong bóng tối.
- Đêm thì trời phải tối và thỏ thì phải đi ngủ. - Cây Phỉ nói.
- Ở nơi trống hoác như thế này ư?
- Phải, chúng ta có thể tiếp tục sử dụng những cái hang này nếu cần, nhưng tôi hy vọng mình sẽ có được những cái hang tốt hơn để nghỉ ngơi. Nói gì thì nói, không thể chờ đợi một bầy thỏ đực bắt tay đào hang được. Chỉ có thể cào qua quýt một hai cái như cái hôm sau khi chúng ta đi qua vùng thạch nam ấy - không ai chịu làm nhiều hơn thế đâu.
- Đó là điều mà tôi cũng đã nghĩ tới. - Mâm Xôi nói. - Bọn thỏ mà ta bỏ lại - Anh Thảo Vàng và đồng bọn ấy mà - đã làm biết bao nhiêu việc không tự nhiên chút nào với loài thỏ - nào ốp đá vào vách đất, nào mang thức ăn về hang và gì gì nữa có Thần Mặt trời biết rõ.
- Rau diếp của Chúa Thanh Lương Trà cũng được mang vào hang đấy thôi.
- Đúng thế. Anh không thấy là bọn Anh Thảo Vàng đã thay đổi cách sinh sống tự nhiên của thỏ bởi họ nghĩ làm như vậy tốt hơn sao? Và nếu họ có thể thay đổi cách sống của mình thì chúng ta cũng có thể làm thế nếu muốn. Anh nói, thỏ đực chúng ta không đào hang. Đúng là như thế, nhưng thỏ đực thì cũng đào hang được như thường, nếu muốn. Giả sử chúng ta có được những cái hang sâu, tiện lợi để chui vào ngủ thì sao nào? Để tìm đến khi thời tiết xấu và để nghỉ qua đêm? Như vậy chúng ta sẽ được an toàn. Chẳng có gì ngăn cản chúng ta làm điều đó, trừ khi bọn thỏ đực nhất định không chịu đào. Không thể có chuyện này, và không được phép để một chuyện như thế xảy ra.
- Vậy ý anh thế nào? - Cây Phỉ hỏi, nửa phần quan tâm nửa phần miễn cưỡng. - Anh muốn chúng ta thử biến mấy cái hang nông choèn này thành những hang thỏ thực sự à?
- Không, những cái hang này thì không thể. Dễ hiểu tại sao nó 1ại bỏ không. Chỉ có một đoạn ngắn dẫn đến hang và anh cũng thấy chất đá vôi ở đây vừa cứng vừa trắng phớ, chẳng ai đào được. Vả lại chỗ này chắc sẽ lạnh ghê gớm vào mùa đông. Nhưng có một khóm rừng trên đỉnh núi đằng kia. Đêm qua tôi có liếc nhìn qua khi chúng ta đi lên đây. Hay là chúng ta đi lên cao hơn, chỉ tôi và anh thôi, ta ngó qua một cái hả?
Chúng cùng chạy lên đỉnh. Một khóm cây sồi mọc thành rừng cách dốc núi hướng Đông Nam một quãng ngắn, ở phía có con đường cỏ mọc um tùm chạy lên tận đỉnh.
- Có những cây có thể gọi là đại thụ. - Mâm Xôi nói. - Rễ cây chắc hẳn đâm xuyên vào đất khá sâu. Chúng ta có thể đào hang và nó có thể tốt như bất cứ cái hang nào ta đã có nơi quê nhà. Nhưng nếu Tóc Giả và những người khác không chịu đào hoặc nói rằng họ không thể - giả dụ với lý do nơi này quá trống trải và thê lương. Tất nhiên đó cũng là lý do khiến khu vực này trở nên cách biệt và an toàn; nhưng khi trời xấu chắc chắn chúng ta sẽ phải cuốn gói khỏi vùng núi này.
- Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc thử bắt một bọn đàn ông đàn ang làm công việc đào đất tầm thường như vậy. - Cây Phỉ nói đầy vẻ hoài nghi trong lúc chúng quay xuống. - Tất nhiên lũ thỏ con cần có hang, nhưng còn chúng ta?
- Tất cả chúng ta đều sinh ra trong cánh đồng thỏ nơi có những cái hang được đào từ trước khi mẹ chúng ta sinh ra nữa kia. - Mâm Xôi nhấn mạnh. - Chúng ta đã quen dùng sẵn những cái hang ấy mà không phải đụng chân đụng tay gì. Vậy, nếu muốn có một cái hang mới thì ai phải làm nào? Thỏ mẹ. Tôi tin chắc là nếu không thay đổi cách nghĩ cũ thì chúng ta sẽ không trụ lại đây được mấy nả. Nơi nào đó thì còn có thể, nhưng ở đây thì không.
- Vậy có nghĩa là sẽ có nhiều việc phải làm.
- Nhìn kìa, Tóc Giả đang đi đến cùng với vài người khác. Sao ta không đặt vấn đề ra với họ ngay và nghe xem họ sẽ nói gì?
Tuy vậy, trong lúc cả bọn ăn sáng, Cây Phỉ không nói về đề xuất của Mâm Xôi cho ai nghe ngoài Thứ Năm. Sau đó, khi hầu như cả bọn đã chén xong, hoặc đang nhảy nhót trên bãi cỏ hoặc nằm khểnh ra sưởi nắng, Cây Phỉ gợi ý rằng có lẽ cả bọn hãy sang khóm rừng trên kia, chỉ để xem xem đó là rừng cây gì. Tóc Giả và Xám Bạc đồng ý ngay tắp lự, nhưng hóa ra chẳng có chú nào chịu ở lại.
Nơi này thật khác với cái đồng cỏ mà chúng đã bỏ lại sau lưng: một dải đất mọc lên những hàng cây vạm vỡ, chỉ dài khoảng 400 hoặc 500 mét nhưng rộng ít nhất là 50 mét, kiểu như một hàng cây chắn gió thường thấy ở vùng núi. Hầu như chỉ gồm toàn những cây sồi tươi tốt. Những thân cây to lớn, nhẵn nhụi đứng bất động trong bóng râm màu xanh của những cành cây xòe rộng, tầng này chồng lên tầng kia tạo thành mái che rậm rạp, khiến cho ánh mặt trời chói chang tháng Sáu khi lọc qua những lớp cành này chỉ còn là những cái đốm vàng dễ vỡ trên mặt đất. Khoảng cách giữa cây này với cây kia khá xa, với mặt đất trơ thịt hầu như không có loài cây nào khác mọc lên. Bọn thỏ tỏ ra bối rối. Chúng không thể lý giải tại sao rừng cây này lại sáng sủa yên tĩnh đến vậy và tại sao chúng có thể nhìn xa đến thế giữa những thân cây vạm vỡ. Tiếng xào xạc dịu dàng kéo dài không ngớt của rừng sồi không giống những âm thanh nghe được trong những rừng thông và cây bulô.
Di chuyển một cách ngẫu hứng, lúc vào lúc ra dọc theo dải rừng sồi, chúng đi đến góc về phía Đông Bắc. Ở đây có một bờ đất mà từ đó chúng có thể nhìn ra cánh đồng cỏ trải dài phía dưới. Thứ Năm, bé nhỏ một cách phi lý bên cạnh cái dáng to lớn vụng về của Tóc Giả, quay sang Cây Phỉ với một vẻ tự tin đầy hạnh phúc.
- Em chắc là Mâm Xôi nói đúng, anh Cây Phỉ à. - chú nói. - Chúng ta hãy làm hết sức mình để có những cái hang tốt ở đây. Dù sao thì em cũng sẵn sàng thử một phen.
Lời nói của chú làrn cho những chú khác phải ngỡ ngàng. Tuy vậy, Nồi Đất nhanh nhảu chạy đến chỗ Thứ Năm ở chân lũy đất và chẳng bao lâu sau, hai hoặc ba chú đã bắt đầu quào quào bới bới lớp đất xốp. Việc đào đất hóa ra cũng không khó và mặc dầu chốc chốc chúng lại chạy đi ăn cỏ hoặc chỉ đơn giản ngồi thảnh thơi dưới ánh mặt trời thì vào quãng giữa trưa đã không thấy Cây Phỉ đâu, chú đang đi theo một đường hầm giữa các rễ cây.
Khu rừng có ít hoặc không có những bụi cây thấp, nhưng ít nhất thì những cành lá sồi cũng che khuất mảng trời trên đầu, và chim cắt, như chúng sớm nhận ra, có vẻ quen thuộc với cái nơi vắng vẻ này. Mặc dù chim cắt hiếm khi tấn công bất cứ con vật gì lớn hơn chuột, đôi khi chúng cũng nhắm vào những chú thỏ non. Chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa, đó là lý do tại sao hầu hết những chú thỏ trưởng thành không nán lại dưới đường bay của loài chim này. Chẳng mấy chốc, Quả Sồi thoáng thấy một con bay đến từ hướng Nam. Chú giậm chân làm hiệu và trốn vào trong bụi, những chú thỏ đang nhởn nhơ ở chỗ trống vội lao vào bụi theo gương Quả Sồi. Một lúc sau chúng chui ra, tiếp tục công việc đào đất thì thấy một con khác - hoặc có lẽ cũng chính là con đó - bay lượn một vòng, cao cao phía trên cánh đồng mà chúng đi qua hồi sáng. Cây Phỉ cắt đặt Gạc Nai đứng canh gác trong lúc công việc bừa bộn ban ngày vẫn tiếp tục, chỉ trong buổi chiều đã có hai lần tín hiệu báo động được phát ra. Vào lúc chập tối, công việc bị gián đoạn bởi một kỵ sĩ cho ngựa chạy nước kiệu băng qua mạn phía Bắc cánh rừng. Ngoài ra trong suốt cả ngày chúng không thấy một vật gì lớn hơn con chim bồ câu.
Sau khi người kỵ sĩ rẽ cương ngựa về hướng Nam ở đoạn gần đỉnh Watership rồi biến mất trong khoảng không gian xa xa, Cây Phỉ quay lại bìa rừng nhìn về hướng Bắc nơi có những cánh đồng êm ả ngời sáng trong ráng chiều và hàng cột điện cao thế đen đen mờ mờ chạy dài cho đến phía bắc Kingsclere. Không khí trở nên lạnh hơn và mặt trời một lần nữa chạm vào vách núi phía Bắc.
- Tôi nghĩ chúng ta làm thế đủ rồi, - Cây Phỉ nói. - dù sao thì cũng đủ cho ngày hôm nay. Tôi muốn đi xuống chân núi tìm xem nơi nào có cỏ ngon. Cỏ ở đây cũng đủ ngon theo cách của nó, chỉ có điều mỏng và khô. Có ai muốn đi cùng tôi không?
Tóc Giả, Bồ Công Anh và Thủy Cự rất sẵn sàng, những chú khác thì hài lòng với việc quay về nhá cỏ quanh những bụi cây gai rồi chui xuống đất cùng với mặt trời lặn. Tóc Giả và Cây Phỉ chọn con đường phủ kín cỏ và với những chú khác theo sau, chúng phóng xuống một đoạn đường dốc kéo dài ngót nửa cây số. Cả bọn không gặp sự cố nào và chẳng bao lâu sau đã thảnh thơi gặm cỏ ở gần bờ một ruộng trồng lúa mì, tạo nên một hình ảnh đẹp về đàn thỏ trong một bức tranh phong cảnh lúc chiều tà. Cây Phỉ tuy mệt mỏi nhưng vẫn không quên tìm một chỗ để trốn phòng khi có động. Chú đủ may mắn đến được một cái hào cũ, bờ đất bị lở, trông gần như bị lấp. Những bụi tầm ma và ngò tây tốt um tùm tạo thành một mái che cái hào như trong địa đạo, cả bốn chú đều chắc rằng chúng có thể từ bãi cỏ nhảy vào trốn ở đây nhanh như cắt.
- Rõ là buồn ngủ lại gặp chiếu manh. - Tóc Giả vừa nói vừa tóp tép nhai một ngọn cỏ ba lá và ngửi ngửi một bông hoa rơi xuống từ cây guâyfaring. - Trời đất ạ, chúng ta đã học hỏi được khối điều kể từ khi rời khỏi quê nhà ấy nhỉ? Nhiều hơn những gì chúng ta học cả đời nếu còn ở lại đó. Cả chuyện đào hang nữa. Tiếp theo sẽ là học bay, tôi cho là thế. Các cậu có nhận thấy đất ở đây khác với đất ở quê chúng ta không? Mùi cũng khác, cả cách nó trượt đi và rơi xuống cũng khác nốt.
- Điều đó nhắc tôi nhớ đến một điều. - Cây Phỉ trầm ngâm nói. - Và tôi muốn hỏi anh. Có rnột cái ở cánh đồng thỏ khủng khiếp của Anh Thảo mà tôi ngưỡng mộ nhất - đó là hang lớn. Tôi cũng muốn ta làm được một cái như vậy. Thật là một ý tưởng tuyệt vời khi có một nơi dưới lòng đất mà tất cả mọi người có thể tụ tập lại với nhau để tán gẫu và ôn lại những chuyện xưa tích cũ, đại loại như vậy. Anh nghĩ sao? Liệu có làm được không?"
Tóc Giả trầm ngâm suy nghĩ.
- Tôi biết. - chú nói, - Nếu anh làm một cái hang lớn như vậy thì trần hang rất có thể sụp xuống bất cứ lúc nào. Vì thế nếu muốn có rnột nơi rộng như thế thì cần có một vật gì để đỡ trần. Thế Anh Thảo có cái gì?
- Rễ cây.
- Phải, đó cũng là thứ khá dồi dào ở đây. Nhưng không biết có đúng loại ấy không nữa.
- Tốt hơn chúng ta hãy yêu cầu Dâu Tây nói ra những điều nó biết về cái hang lớn, nhưng cũng có thể nó chẳng biết gì nhiều lắm. Tôi tin chắc hồi cái hang ấy được đào thì nó chưa có mặt trên đời.
- Và nó cũng có thể sẽ không chết khi nơi ấy sập xuống. Ban ngày thì cánh đồng thỏ ấy tê liệt như con cú ấy. Nó thật khôn ngoan khi ra đi cùng chúng ta.
Ánh sáng chỉ còn mờ mờ trên cánh đồng trồng bắp, mặc dầu những tia nắng rực hơn vẫn thắp sáng nơi đỉnh núi, nhưng bản thân mặt trời đã lặn xuống núi. Cái bóng gập ghềnh đứt quãng của hàng rào rnờ dần rồi biến mất. Chỉ còn nghe cái mùi lành lạnh của sương đêm và bước đi chầm chậm của bóng tối. Một con bọ da vo ve bay qua. Lũ cào cào châu chấu rơi vào im lặng.
- Cú đã bay ra ngoài rồi. - Tóc Giả nói. - Hãy đi lên trên ấy thôi.
Vào lúc ấy, từ cánh đồng đã đen sẫm lại vọng lên vài tiếng giậm chân. Theo sau là một tiếng giậm chân khác ngắn hơn, chúng thoáng thấy một cái tai trăng trắng. Cả hai chú lập tức nhảy đến bờ hào. Bây giờ khi phải dùng đến cái hào trong lúc nguy cấp, chúng thấy rằng thậm chí nó còn nông hơn chúng tưởng. May mà còn chỗ chui lọt khúc rẽ đầu đằng kia và trong lúc chúng rẽ ở đấy thì Thủy Cự và Bồ Công Anh cũng đã theo sát sau lưng.
- Cái gì vậy? - Cây Phỉ hỏi. - Các anh đã nghe thấy cái gì?
- Có một cái gì đó tiến đến gần hàng rào, - Thủy Cự thì thào. - một con vật nó gây ra nhiều tiếng ồn.
- Anh có nhìn thấy nó không?
- Không, mà cũng không ngửi thấy mùi gì cả. Nó đi theo hướng gió thổi Nhưng tôi nghe rõ lắm.
- Tôi cũng nghe thấy nữa. - Bồ Công Anh chêm vào. - Một con vật khá to - như một chú thỏ vậy nhưng mà di chuyển vụng về và cố giấu mình, hoặc cũng có thể tôi chỉ tưởng tượng ra thế.
- Cáo à?
- Không, nếu thế thì chúng ta đã ngửi thấy, - Tóc Giả nói. - dù có gió hay không có gió. Từ những điều mà anh nói thì có thể đó là một con mèo. Tôi hy vọng không phải là chồn sương. Hoi, hoi u embleer hrair! Thật là phiền phức. Chúng ta còn chưa kịp ngồi nóng chỗ, thế mà đã phải nhảy dựng lên nếu nó nhắm vào chúng ta.
Cả bọn chờ đợi. Chẳng bao lâu sau màn đen buông xuống. Chỉ còn một vài tia sáng mờ nhạt chiếu qua những bụi cây mọc mùa hè quấn quýt vào nhau trên đầu chúng. Cuối đường hào, cây cỏ mọc lút hết cả khiến chúng không thể nhìn được gì. Nhưng từ nơi cả bọn ngồi vẫn có thể thấy một mảng trời - chỉ là một hình vành khăn xanh đậm. Thời gian trôi qua, một ngôi sao bật ra giữa lóp cỏ trên đầu. Nó dường như đang dao động cùng với nhịp điệu yếu ớt chập chờn của ngọn gió đêm hè nóng nực. Cuối cùng, Cây Phỉ quay đi không ngắm nhìn nó nữa.
- Thôi được, chúng ta có thể chợp mắt ở đây một lát. - chú nói
- Đêm sẽ không lạnh. Bất kể là các anh nghe thấy gì thì chúng ta cũng không nên liều mạng ra ngoài làm gì.
- Nghe này. - chợt Bồ Công Anh lên tiếng, - Có cái gì ấy?
Mất một lúc, Cây Phỉ không nghe thấy gì cả. Rồi chú đón bắt được một âm thanh vang lên từ khá xa nhưng nghe rất rõ - một tiếng gì nghe như tiếng rên la hoặc tiếng khóc, nghẹn ngào, đứt quãng. Mặc dầu tiếng rên này không có gì giống tiếng kêu của một con vật đang săn mồi, nhưng nó lạ lùng đến nỗi làm Cây Phỉ sợ điếng người. Trong khi chú dỏng tai nghe, tiếng kêu này vẫn tiếp tục.
- Nhân danh Thần Mặt trời, không biết cái gì khiến cho tiếng kêu này nghe thê thiết làm vậy? - Tóc Giả hỏi, chỏm lông lớn trên đầu chú dựng đứng lên giữa hai tai.
- Một con mèo á? - Thủy Cự hỏi, hai mắt mở to.
- Không phải mèo. - Tóc Giả nói, môi chú kéo dài ra trong một cái nhăn mặt bất thường, cứng nhắc. - Không phải mèo. Các anh không biết đó là con gì à? Mẹ các anh… - Chú bật lên, rồi nói giọng nhỏ hẳn lại. - mẹ các anh không nói gì với các anh hả?
- Không! - Bồ Công Anh kêu lên. - Không, đó là một loại nửa chim… nửa chuột… bị thương.
Tóc Giả đứng phắt dậy, lưng chú uốn cong, đầu gật gật trên cái cổ cứng ngắc.
- Thỏ đen ở Inlé. - Chú thì thầm. - Còn ai vào đây nữa… ở một nơi như thế này?
- Đừng nói nhảm! - Cây Phỉ nói. Chú cảm thấy toàn thân mình rung chuyền nên phải tì chân vào một vết lõm nhỏ trên bờ hào.
Bất thình lình tiếng động khi nãy nổi lên lần nữa, gần hơn, bây giờ thì không thể nhầm lẫn gì nữa. Cái mà chúng nghe được là giọng của một chú thỏ nhưng đã thay đổi không còn là thỏ. Nó vọng đến từ một nơi nào lạnh lẽo bên ngoài màn đêm đen thẫm, vì thế trở thành một tiếng vọng não nề, kỳ bí, đáng sợ biết bao. Đầu tiên, đó chỉ là tiếng rền rĩ. Sau đó trở nên rõ ràng, không thể nhầm lẫn được, chúng nghe thấy, tất cả đều nghe thấy - ngôn ngữ của thỏ.
- Zorn! Zorn! - Cái giọng ré thành một tiếng kêu dài thê thiết, khủng khiếp. - Tất cả đều đã chết! Ôi zorn?

(Zorn trong ngôn ngữ của loài thỏ có nghĩa là “kết thúc” hoặc “bị phá hủy”, nhấn mạnh về một tai họa hết sức khủng khiếp)

Bồ Công Anh rên rỉ như bị đau. Tóc Giả vùng vẫy dưới đất.
- Yên nào! - Cây Phỉ nói. - Và đừng có đá hết đất vào người tôi! Để cho tôi nghe cho rõ hơn.
Đúng lúc ấy, với một độ rõ ràng hơn, giọng nói kia kêu lên:
- Ôi, Thlayli! Thlayli!
Với những lời này cả bốn chú thỏ đang chui xuống cái hào cạn nước đều cảm thấy mình rơi vào trạng thái tharn trong một nỗi hoảng loạn kinh hồn. Toàn thân chủng cứng đờ. Sau đó, Tóc Giả, đôi mắt đứng tròng trong cái nhìn đờ dại, đông cứng, bắt đầu nhảy lên khỏi hào chạy về phía đồng cỏ.
- Ngươi phải đi. - chú thì thầm, giọng khản đặc đến nỗi Cây Phỉ khó mà nghe ra được. - Ngươi phải đi khi người gọi.
Cây Phỉ kinh sợ đến mức không còn nghĩ ngợi gì được nữa. Như chuyện xảy ra trên bờ sông, quang cảnh chung quanh trở nên hư hư thực thực như trong một giấc mơ. Ai - hoặc cái gì đã gọi tên tục của Tóc Giả lên? Sao lại có chuyện có một sinh vật nào ở đây biết tên nó? Chỉ có một ý nghĩ duy nhất trong đầu Cây Phỉ lúc ấy - bằng mọi cách phải ngăn không cho Tóc Giả ra ngoài, bởi vì bạn chú đang cần giúp đỡ. Chú phóng sạt qua người Tóc Giả, ép bạn xáp vào một bên tường hào.
- Ở yên đấy. - chú nói, thở hổn hển. - Dù đó là con thỏ quái quỷ gì thì tôi mới là người phải đích thân gặp nó. - Rồi duỗi bốn chân, chú phóng lên bãi trống.
Thoạt đầu chú gần như không thấy gì, nhưng rồi mùi sương và cây cơm cháy trổ hoa vẫn không có gì thay đổi, mũi chú cọ phải những chiếc lả cỏ lành lạnh. Chú nhỏm dậy, đưa mắt nhìn quanh. Chẳng có con vật nào ở bên cạnh.
- Có ai ở đây vậy?
Chỉ có im lặng, và khi chú toan hỏi lại lần nữa thì giọng nói kia cất lên rền rĩ, “Zorn! Ôi zorn!”
Tiếng nói xuất phát từ hàng rào dọc theo bờ ruộng. Cây Phỉ tiến về phía phát ra tiếng nói và vài phút sau chui ra từ dưới một bụi độc cần là hình dáng một chú thỏ mang bướu to trên lưng. Cây Phỉ tiến gần hơn về phía chú, lại hỏi, “Anh là ai?”, nhưng không có câu trả lời. Trong lúc do dự không biết làm gì tiếp, chú nghe có tiếng bước chân phía sau.
- Là tôi đây, Cây Phỉ. - Bồ Công Anh nói, hơi thở như thể bị tắc nghẽn trong họng.
Hai chú cùng nhau tiến đến gần vật kia hơn. Cái hình thù kia không hề nhúc nhích trong khi chúng đến gần. Dưới ánh sao đêm, chúng trông thấy một chú thỏ cũng thật như chúng vậy: một chú thỏ trong tình trạng sức cùng lực kiệt, hai chân sau của chú lết theo cái mông dèn dẹt như thể bị liệt; một chú thỏ với đôi mắt trắng, cái nhìn trân trối đảo tròng từ bên này sang bên kia nhưng không nhìn thấy gì ngõ hầu thay thế cho nỗi sợ của chú, thế rồi lăn ra đất liếm một bên tai rách toạc ứa máu rũ xuống ngang mặt; một chú thỏ bỗng dưng khóc lóc và rên rỉ thảm thiết như thể đang khẩn nài một ngàn kẻ thù đến từ mỗi phía để cất đi cho chú cái nỗi thống khổ khó lòng chịu đựng nổi.
Đó chính là Đội trưởng Nhựa Ruồi trong hàng ngũ Cốt Cán ở Sandleford.

Chương 20. Tổ Ong và Chú Chuột


Gương mặt hắn là của một người đã trải qua một cuộc hành trình dài.
(Anh hùng ca Gilgamesh)
*
Trong cánh đồng thỏ Sandleford, Nhựa Ruồi là một người thuộc hàng có vai vế. Chú là cánh tay mặt của Chúa Thanh Lương Trà và thường được giao những nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi lòng can đảm. Vào dịp đầu mùa xuân, khi có một con cáo xuất hiện ở khu rừng bên cạnh thì Nhựa Ruồi với sự giúp đỡ của hai, ba tình nguyện viên luôn theo sát mọi hoạt động của kẻ thù và về báo cáo lại nhất cử nhất động của nó, thế là một buổi tối nọ con cáo đành chuồn mất, cũng lặng lẽ như khi nó đến. Mặc dầu Nhựa Ruồi đã quyết định tự mình sẽ bắt Tóc Giả, nhưng chú không phải là kẻ mang nặng định kiến hay hận thù mà là một gã trai đúng mực, một kẻ đặt nghĩa vụ lên trên hết và thích tự mình thực hiện. Khỏe mạnh, khiêm tốn, tận tâm, hơi thiếu chút khôn ranh của loài thỏ, chú sinh ra để phụ tá cho một ai đó. Vì thế không thể đặt ra vấn đề thuyết phục chú rời khỏi cánh đồng thỏ cùng với Cây Phỉ và Thứ Năm. Tìm thấy chú ở Watership Down đã là một điều đáng kinh ngạc, nhưng gặp chú trong bộ dạng thỏ không ra thỏ, ma không ra ma thế này thì quả là một điều không thể tin vào mắt được. Trong giây phút đầu tiên khi chúng nhận ra con vật đáng thương dưới bụi độc cần là ai, cả Cây Phỉ và Bồ Công Anh đều sững sờ đến mức toàn thân tê cứng, như thể chúng đụng đầu với một con sóc trong hang hay trông thấy một dòng sông chảy ngược lên đồi. Chúng không thể tin vào giác quan mình nữa. Giọng nói trong bóng tối đã chứng minh không phải là hư huyễn, nhưng sự thật thì quá mức kinh khủng. Sao Nhựa Ruồi có thể ở đây, dưới chân núi này? Và cái gì đã khiến chú - hoặc bất cứ chú thỏ khác - ở vào tình trạng thê thảm như vậy?
Cây Phỉ cố tĩnh trí lại. Lời giải thích lúc này không quan trọng, việc cần kíp là phải làm một cái gì đó. Chúng đang ở trên đồng trống, vào ban đêm, xa bất cứ nơi ẩn náu nào khác ngoài một cái rãnh cạn cỏ mọc um tùm lấp mất một nửa, với một chú thỏ tỏa ra mùi máu đang khóc than đến mức không thể kiềm chế được và có vẻ như không thể nhích đi được một bước. Cũng có thể một con chồn lần theo dấu vết của Nhựa Ruồi đến tận đây. Nếu muốn giúp bạn, tốt nhất họ phải hành động thật nhanh.
- Chạy đến bảo Tóc Giả ta tìm thấy ai, - Cây Phỉ nói với Bồ Công Anh. - và cùng anh ấy quay lại đây ngay. Bảo Thủy Cự chạy lên đồi thông báo với những người khác và cũng bảo anh ta cần phải làm rõ là không ai được xuống dưới này hết. Họ sẽ chẳng giúp được gì mà chỉ chuốc thêm nguy hiểm.
Bồ Công Anh chưa đi được bao xa thì Cây Phỉ đã nhận ra một vật gì đó chuyển động nơi hàng rào. Nhưng chú không có thời gian thắc mắc, bởi vì ngay lập tức một chú thỏ khác đã xuất hiện, nhảy cà nhắc đến chỗ Nhựa Ruồi nằm.
- Hãy giúp chúng tôi nếu có thể. - chú nói với Cây Phỉ. - Chúng tôi vừa qua những ngày tồi tệ nhất và Đội trưởng của tôi đang trong tình trạng nguy kịch. Ở đây có cái hang nào để chui xuống không?
Cây Phỉ nhận ra đó là một trong những chú thỏ đi cùng Nhựa Ruồi đến bắt Tóc Giả, nhưng chú không biết tên cậu này.
- Tại sao anh lại trốn trong hàng rào để mặc Nhựa Ruồi lăn lộn chỗ đồng không mông quạnh như thế kia? - Cây Phỉ hỏi.
- Tôi bỏ chạy khi nghe tiếng anh đi đến gần. - chú thỏ kia đáp. - Tôi không thể dìu Đội trưởng đi. Tôi nghĩ anh là kẻ thù và chẳng có lý do gì ở lại để bị giết. Tôi không nghĩ mình có thể đánh nhau với một con chuột đồng.
- Thế anh có biết tôi không? - Cây Phỉ hỏi. Nhưng trước khi cậu kia có thể trả lời thì Bồ Công Anh và Tóc Giả đã nhô ra từ bóng đêm. Tóc Giả tròn mắt nhìn Nhựa Ruồi hồi lâu, đoạn nằm bẹp xuống trước mặt bạn, chạm hai cái mũi vào nhau.
- Nhựa Ruồi à, là Thlayli đây. - chú nói. - Anh đã gọi tôi.
Nhựa Ruồi không trả lời, chỉ trân trối nhìn trả lại. Tóc Giả nhìn lên:
- Ai đi cùng với anh ta đây? Ô là anh à Hoa Chuông? Có bao nhiêu người đi cùng các anh?
- Không có ai nữa. - Hoa Chuông đáp và toan nói gì thêm thì Nhựa Ruồi đã khó nhọc lên tiếng.
- Thlayli. - chú nói. - Thế là chúng tôi cũng tìm được anh.
Chú nặng nhọc cất mình khỏi mặt đất và nhìn những người còn lại.
- Là cậu hả Cây Phỉ? - chú hỏi. - Và đây là… ồ, tôi biết nhưng tôi đang ở tình trạng tồi tệ như thế này… tôi e rằng…
- Đó là Bồ Công Anh. -  Cây Phỉ ngắt lời. - Nghe đây, tôi thấy là anh đã kiệt sức rồi, nhưng chúng ta không thể nán lại ở đây lâu. Như thế rất nguy hiểm. Các anh đủ sức đi cùng chúng tôi về hang không?
- Đội trưởng, - Hoa Chuông nói. - ông có biết cọng cỏ đầu tiên nói với cọng cỏ thứ hai cái gì không?
Cây Phỉ nhìn chú, mắt quắc lên, nhưng Nhựa Ruồi đã nói:
- Cái gì vậy?
- Chúng nói: Nhìn kìa, có một chú thỏ. Chúng ta đang trong vòng nguy hiểm!
- Không còn thời gian… - Cây Phỉ bắt đầu.
- Đừng bắt cậu ấy phải im lặng. - Nhựa Ruồi nói. - Chúng tôi đã không thể có mặt ở đây nếu thiếu cái miệng như sẻ ngô của cậu ấy. Phải, bây giờ tôi có thể đi được. Có xa lắm không?
- Cũng không xa lắm. - Cây Phỉ đáp mà trong bụng thì nghĩ rằng rất có thể Nhựa Ruồi không thể đến nơi được.
Phải mất rất nhiều thời gian để trèo lên dốc. Cây Phỉ chia các bạn ra thành tùng tốp, bản thân chú đi cùng Nhựa Ruồi và Hoa Chuông trong khi Tóc Giả và Bồ Công Anh mỗi chú đi một bên. Nhựa Ruồi buộc phải dừng lại nghỉ vài lần và Cây Phỉ, trong lòng tràn ngập lo sợ, đã phải cố hết sức đè nén sự sốt ruột của mình. Chỉ đến khi trăng bắt đầu lên - chung quanh cái đĩa lớn của nó tỏa ra làn ánh sáng càng lúc càng rực rỡ nơi chân trời phía dưới và sau lưng chúng - thì cuối cùng chú mới lên tiếng đề nghị Nhựa Ruồi bước nhanh hơn. Khi nói như vậy, chú nhìn thấy trong làn ánh sáng trắng ngà, Nồi Đất chạy xuống gặp chúng.
- Em làm cái gì đấy? - Chú hỏi giọng nghiêm khắc. - Anh đã chẳng bảo Thủy Cự 1à không ai được xuống cơ mà.
- Không phải là lỗi của Thủy Cự đâu ạ. - Nồi Đất nói. - Anh đã đứng cạnh em lúc ở bờ sông, vì thế em nghĩ mình phải đến giúp đỡ Cây Phỉ. Với lại sắp về đến nơi rồi. Có đúng là anh tìm được Đội trưởng Nhựa Ruồi không?
Tóc Giả và Bồ Công Anh cũng vừa đi đến.
- Tôi có ý kiến thế này. - Tóc Giả nói. - Hai người này cần nghỉ ngơi trong một khoảng thời gian dài. Hãy để Nồi Đất và Bồ Công Anh đưa họ vào một cái hang trống và ở lại với khách chừng nào họ muốn. Bọn chúng ta tốt nhất hãy đi khỏi đây, cho đến khi họ bình phục.
- Phải, như thế là tốt nhất. - Cây Phỉ nói. - Tôi sẽ đi cùng anh.
Chúng chạy đi một đoạn ngắn đến chỗ những bụi cây có gai. Tất cả những chú thỏ khác đã lên trên mặt đất, chờ đợi và thì thầm với nhau.
- Im lặng. - Tóc Giả nói trước khi có bất cứ ai kịp đặt câu hỏi. - Phải, đấy là Nhựa Ruồi có Hoa Chuông đi cùng - ngoài ra không còn ai khác. Họ đã trải qua một đoạn đường xấu và không nên làm phiền họ. Chúng ta nhường lại một hang trống cho họ. Bây giờ tôi sẽ xuống hang và mọi người cũng nên làm thế nếu còn chút trí khôn nào.
Nhưng trước khi đi, Tóc Giả quay sang Cây Phỉ nói.
- Cậu lao ra khỏi cái hào dưới kia thay cho tôi phải không nào? Tôi sẽ không bao giờ quên đâu.
Cây Phỉ nhớ đến cái chân bị thương của Gạc Nai và đi xuống cùng với bạn. Thủy Cự và Xám Bạc cũng đi theo.
- Nói cho tôi nghe có chuyện gì xảy ra đi, Cây Phỉ. - Xám Bạc hỏi. - Chắc phải có chuyện gì rất xấu, nếu không đời nào Nhựa Ruồi lại bỏ Chúa Thanh Lương Trà mà đi.
- Tôi không biết, - Cây Phỉ đáp. - mà những người kia cũng không ai biết nốt. Chúng ta sẽ phải đợi đến sáng mai. Nhựa Ruồi có thể không bỏ chạy nhưng tôi không nghĩ Hoa Chuông cũng thế. Bây giờ hãy để cho tôi một mình với cái chân của Gạc Nai.
Vết thương đã khá hơn rất nhiều và chẳng bao lâu sau Cây Phỉ cũng ngủ say tít.
Ngày hôm sau cũng nóng và không có mây như hôm trước. Cả Bồ Công Anh và Nồi Đất đều không xuất hiện trong bữa ăn sáng; Cây Phỉ kiên quyết buộc mọi người đi đến cánh rừng sồi tiếp tục việc đào hang. Chú hỏi Dâu Tây về cái hang lớn và biết được rằng, trần hang, cũng giống như mái vòm với những cái mạng ngang dọc được gia cố cho khỏe hơn bởi những cái rễ cọc đâm thẳng xuống nền hang. Chú nhớ rằng mình đã không nhận ra những điểm này.
- Không cần nhiều, nhưng chúng hết sức quan trọng. - Dâu Tây nói thêm. - Nó chịu phần lớn lực. Nếu không có những cái rễ ấy thì trần hang sẽ sụp xuống mỗi khi trời mưa to. Trong những đêm giông bão, anh có thể cảm nhận trọng lượng gia tăng ở lớp đất bên trên, nhưng không có gì nguy hiểm.
Cây Phỉ và Tóc Giả đi xuống địa đạo cùng với chú. Lối ra vào của những hang này được làm hõm vào giữa chùm rễ chằng chịt của một cây sồi. Tuy nhiên nó chẳng có gì khác với một cái hang nhỏ, không đúng quy cách, chỉ có một cửa. Chúng bắt tay vào việc nới rộng hang ra, đào đất giữa những rễ cây và đào thốc lên trên để tạo ra một đường chạy thứ hai dẫn vào sâu trong rừng. Được một lúc, Dâu Tây thôi không đào đất nữa mà bắt đầu chạy quanh những cái rễ, hít hít, cắn cắn và quào đất bằng móng trước. Cây Phỉ cho rằng anh chàng công tử bột đã mệt và chỉ làm bộ như vậy để tranh thủ nghỉ một lát, nhưng cuối cùng chú đã quay lại chỗ chúng và nói mình vừa có một sáng kiến.
- Là thế này, - chú giải thích. - ở đây không có nhiều rễ lớn nằm ngang. Nhưng thế thì lại tạo điều kiện tốt cho một chiếc hang lớn và tôi không nghĩ chúng ta có thể tìm được những đặc điểm tương tự ở chỗ nào khác. Dù sao, chúng ta có thể xoay xở tốt với những gì chúng ta đang có.
- Vậy chúng ta có cái gì? - Mâm Xôi hỏi, chú vừa xuống đến nơi.
- Phải, chúng ta có những chiếc rễ to đâm thẳng xuống đất, còn nhiều hơn là ở chiếc hang lớn kia nữa. Tốt nhất là chúng ta hãy đào đất cho rỗng quanh những chiếc rễ và cứ để rễ ở nguyên đó, không gặm đứt hoặc bứng đi. Chúng ta cần những chiếc rễ này, như thế sẽ có một cái hang muốn lớn cỡ nào cũng được.  
- Vậy hang của chúng ta sẽ đầy những chiếc rễ to, thẳng đúng như thế này sao? - Cây Phỉ hỏi, không khỏi cảm thấy thất vọng.
- Phải, sẽ là như thế, - Dâu Tây nói. - nhưng tôi không thấy có gì tồi tệ hay bất tiện trong chuyện này cả. Chúng ta có thể đi vào đi ra giữa những cái rễ, chúng cũng không cản trở bất cứ ai đang tán gẫu hay kể chuyện. Trái lại chúng làm cho nơi này ấm cúng hơn và cũng giúp truyền tiếng động ở bên trên xuống tốt hơn, điều này có thể có ích lúc này hay lúc khác.
Công việc đào hang lớn (sau này được biết đến giữa bọn chúng như là cấu trúc Tổ Ong) hóa ra có công lao rất lớn của Dâu Tây. Cây Phỉ hài lòng với đội hình đào đất và giao phó trách nhiệm tổng công trình sư cho Dâu Tây. Tất cả những gì có liên quan đến chuyện này, Dâu Tây sẽ là người có tiếng nói cuối cùng. Công việc được chia thành từng kíp, bọn thỏ thay phiên nhau làm việc, đi ăn, chơi đùa và nằm ườn phơi nắng. Lại một ngày nữa trôi qua, không khí tĩnh lặng nơi đây vẫn không bị phá vỡ bởi tiếng động do con người, xe cộ hay thậm chí đàn gia súc và trong thâm tâm mỗi chú đều cảm thấy hàm ơn Thứ Năm về tầm nhìn xa trông rộng của nó. Đến cuối buổi chiều, cái hang đã bắt đầu thành hình. Ở đầu phía Bắc, rễ cây sồi hình thành một hàng cột không đều, tạo cho khu vực này một khoảng không gian tập trung, rộng mở; và phía ngoài, nơi không có những chiếc rễ làm nhiệm vụ trụ đỡ, Dâu Tây để lại những tảng đất lớn, vì thế đầu phía Nam bao gồm ba hoặc bốn ô tách biệt. Những nơi này thu hẹp thành những đường chạy có trần thấp dẫn đến những cái hang để ngủ.
Lúc này, Cây Phỉ quá hài lòng khi thấy mọi việc diễn ra suôn sẻ tốt đẹp, đang ngồi cạnh Xám Bạc ở chỗ bắt đầu một đường chạy lộ thiên thì thình lình nghe tiếng giậm chân của Đầu Gỗ và những tiếng chân cuống cuồng lao xuống hang của những chú thỏ đang ở bên ngoài. Cây Phỉ, vẫn đứng ở chỗ an toàn, nhìn qua bóng râm của rừng cây ra ngoài bãi cỏ trống trải đang sáng lên dưới ánh mặt trời. Một con chim cắt bay vào tầm nhìn và tìm được chỗ dừng cánh, cái mẩu đuôi viền đen của nó chúc xuống, đôi cánh nhọn đập liên hồi khi phát hiện ra một cái gì phía dưới.
- Nhưng cậu có nghĩ là nó sẽ tấn công chúng ta không? - Cây Phỉ hỏi, quan sát con chim hạ thấp dần độ cao và bắt đầu lại với đôi cánh vẫn rung động. - Chắc chắn là nó quá nhỏ không?
- Có lẽ anh nói đúng. - Xám Bạc đáp. - Với lại, anh có muốn ra ngoài ăn chút gì không?
- Tôi muốn đứng đây canh gác kẻ thù. - Tóc Giả nói, chú vừa chạy đến sau họ. - Chúng ta đã sợ hãi quá nhiều. Nhưng một con chim ở trên không cũng có thể nguy hiểm, nhất là khi nó bay quá nhanh. Thậm chí sẽ còn đáng sợ hơn cả một con thỏ lớn nếu nó ra đòn một cách bất ngờ.
- Nhìn con chuột kìa? - Xám Bạc bất thình lình nói. - Kìa nhìn xem, con vật nhỏ đáng thương.
Tất cả đều thấy một con chuột đồng, nằm lồ lộ trên một vạt cỏ tươi tốt. Rõ ràng nó đã đi quá xa hang của mình và giờ đây đang hoang mang cực độ không biết phải làm gì. Cái bóng con chim cắt còn chưa bay qua, nhưng việc những chú thỏ thình lình biến mất sẽ làm cho chuột lâm vào tình thế khó khăn hơn và nó đang nép sát mình xuống đất ngơ ngác không biết đường nào với đường nào. Con chim cắt còn chưa thấy chú chuột đồng, nhưng nó cũng chẳng khó gì phát hiện ra con mồi một khi con này bắt đầu di chuyển.
- Có thể vào bất cứ lúc nào. - Tóc Giả bình luận, giọng thản nhiên đến tàn nhẫn.
Trong cơn bốc đồng, Cây Phỉ nhảy khỏi bờ đất, chạy một đoạn trên mặt đất trống trải. Chuột không nói được tiếng của thỏ, nhưng có một cái gọi là lingua franca đơn giản, giới hạn trong một số ít từ trở thành ngôn ngữ chung của những cư dân sống giữa hàng rào với khu rừng. Bây giờ Cây Phỉ sử dụng đến nó.
- Chạy đi, nhanh lên!
Con chuột ngước nhìn chú nhưng không động cựa gì hết. Cây Phỉ nhắc lại lần nữa, con chuột bất thần lao bổ về phía chú khi con chim cắt quay lại, xẹt lên xẹt xuống hai bên bãi cỏ. Cây Phỉ chạy vội chạy vàng về hang. Nhìn ra, chú thấy con chuột cong đuôi chạy theo chú. Khi về đến gần chân lũy đất, chú nhanh nhảu nhảy qua một cành cây gãy vẫn còn dính hai ba chiếc lá xanh. Cành cây lật trở lại, một trong những chiếc lá phản chiếu ánh mặt trời lọt qua tàn cây và Cây Phỉ thấy nó lóe sáng lên trong tích tắc. Ngay lập tức, con chim cắt sà thấp xuống trong một cú sạt chéo, hai cánh khép lại, thình lình rơi xuống.
Trước khi Cây Phỉ có thể nhảy vào một trong những cửa hang, con chuột đã lao vào giữa hai chân trước của chú và nằm ép xuống đất giữa hai chân sau của chú thỏ. Cùng lúc đó, con chim cắt, chỉ còn toàn là mỏ với vuốt, bổ xuống lớp đất tơi xốp ngay ngoài hang, giống như phát đạn bay xuống từ cái cây trên đầu. Nó lăn xả vào một cách dữ dội, và trong tích tắc ba chú thỏ nhìn thấy nó liệng vòng, đôi mắt đen nháy xoáy thẳng vào lối đi trong hang. Sau đó nó cũng bay đi. Tốc độ và mãnh lực của cú tấn công diễn ra ngay trước mắt dữ dội đến mức Cây Phỉ phải nhảy bật ra sau, đụng phải Xám Bạc và bị mất thăng bằng. Hai chú im lặng giúp nhau đứng dậy.
- Cứ như cố đứng công kênh trên vai nhau hả? - Xám Bạc hỏi, nhìn sang Tóc Giả. - Hãy cho tôi biết khi nào chuyện này xảy ra. Tôi sẽ đến quan sát.
- Cây Phỉ, - Tóc Giả nói. - Tôi biết anh không phải là thằng ngốc, nhưng làm sao chúng ta thoát khỏi chuyện này? Có phải anh định bảo vệ tất cả những con chuột chũi và chuột chù không thể chui xuống đất không?
Con chuột nằm im không nhúc nhích. Nó vẫn nằm nép bên trong lối đi nhỏ ở vị trí ngang với đầu chúng, thân hình nó nổi rõ trong ánh sáng. Cây Phỉ có thể thấy nó đang nhìn mình.
- Có lẽ con chim kia còn chưa đi hẳn. - chú nói. - Cứ ở lại, một lúc sau hãy đi.
Tóc Giả toan nói một điều gì thì Bồ Công Anh hiện ra trước cửa hang. Chú nhìn con chuột, nhẹ nhàng đẩy vị khách không mời sang một bên và đi xuống đường chạy.
- Này anh Cây Phỉ, - chú nói. - tôi nghĩ mình phải đến báo cho anh biết về chuyện của Nhựa Ruồi. Tối nay anh ấy khỏe hơn, nhưng đã có một đêm thật tồi tệ, cả chúng tôi cũng vậy. Cứ mỗi lần tưởng như sắp ngủ đi được thì anh ta lại thình lình ngồi bật dậy kêu khóc om sòm. Tôi nghĩ chắc Nhựa Ruồi bị điên mất rồi. Nồi Đất cứ luôn miệng trò chuyện với Nhựa Ruồi - quả thật cậu ta rất cừ trong chuyện này và dường như cậu ta học được nhiều từ Hoa Chuông. Anh chàng này thì cứ luôn miệng pha trò. Cậu ta mệt lử cò bợ trước khi trời sáng, cả chúng tôi cũng vậy - thế là chúng tôi đã ngủ suốt cả ngày. Tuy vậy, Nhựa Ruồi cũng ít nhiều hồi lại khi thức dậy vào buổi chiều, bây giờ anh ấy đang ăn một chút. Nhựa Ruồi hỏi anh và những người khác ở đâu đêm nay, tôi không biết trả lời thế nào nên đến đây hỏi.
- Vậy Nhựa Ruồi đã đủ khỏe để nói chuyện với chúng ta ư?
- Tôi nghĩ thế. Hẳn đó là việc tốt nhất đối với anh ấy, nếu cái đầu tôi cũng biết phán đoán chút đỉnh, và nếu được ở cùng chúng ta đêm nay có lẽ Nhựa Ruồi sẽ tránh được một đêm tồi tệ nữa chăng.
- Được, vậy chúng ta sẽ ngủ ở đâu? - Xám Bạc hỏi.
Cây Phỉ trầm ngâm suy nghĩ. Tổ Ong vẫn còn đang đào nham nhở và mới chỉ hoàn thành được một nửa, nhưng chắc chắn ở đấy còn dễ chịu và thoải mái hơn những cái hang nông choèn dưới những bụi cây gai. Với lại, mặt khác đây sẽ là cơ hội tìm hiểu xem có thể cải thiện cái hang như thế nào. Để thẩm định xem công việc ban ngày của cả bọn có ích không, có thể làm vừa lòng mọi người không thì chúng có lẽ nên chọn cái hang mới để ở vào đêm thứ ba khi đến đây.
- Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này. - Cây Phỉ nói. - Nhưng để xem ý kiến của những người khác thế nào đã.
- Gã chuột này làm gì ở đây vậy? - Bồ Công Anh hỏi.
Sau khi Cây Phỉ giải thích mọi chuyện, Bồ Công Anh cũng ngây mặt ra bối rối chẳng kém gì Tóc Giả trước đó.
- Phải, tôi thừa nhận tôi chẳng có nghĩ gì sất khi lao ra ngoài cứu nó. - Cây Phỉ nói. - Bây giờ thì tôi biết là vì cái gì rồi và tôi sẽ giải thích sau. Nhưng trước hết, Tóc Giả và tôi cần phải đi nói chuyện với Nhựa Ruồi đã. Bồ Công Anh, anh sẽ thông báo với tất cả mọi người điều anh vừa nói với tôi chứ, và hãy tìm hiểu xem họ muốn làm gì tối nay?
Chúng tìm thấy Nhựa Ruồi cùng Nồi Đất và Hoa Chuông đang nằm trên bãi cỏ gần tổ kiến nơi Bồ Công Anh ngồi xuống đầu tiên khi quan sát toàn cảnh chung quanh. Nhựa Ruồi đang ngửi ngửi một cây phong lan tím. Bông hoa màu tím hoa cà nhè nhẹ xoay quanh cái cuống khi chú gí mũi đến gần.
- Đừng làm nó sợ, thưa Đội trưởng. - Hoa Chuông nói. - Nó có thể bay đi mất. Với lại, có khối điểm để chọn mà. Nhìn xem chúng ở trên những chiếc lá kìa.
- Đi đi, toàn nói chuyện ba láp, cái anh bạn Hoa Chuông này. - Nhựa Ruồi nói trong tâm trạng vui vẻ. - Chúng ta cần tìm hiểu thực địa nơi này. Một nửa số cây cỏ ở đây quá mới mẻ đối với ta. Thứ này không ăn được, nhưng ít nhất ở đây có nhiều cây bụi, mà điều này bao giờ cũng tốt. - Một con ruồi đậu lên chiếc tai bị thương của Nhựa Ruồi, chú nhăn mặt và lắc đầu xua đi.
Cây Phỉ rất mừng khi thấy Nhựa Ruồi rõ ràng đã khá lên rất nhiều. Chú bắt đầu bằng cách nói rằng chú hy vọng Đội trưởng đã khá hơn, đủ để có thể gặp gỡ mọi người, nhưng Nhựa Ruồi sớm cắt ngang lời chú với một loạt câu hỏi.
- Ở đây các anh có bao nhiêu người?
- Mười hai. - Tóc Giả đáp thay.
- Tất cả những người rời cánh đồng thỏ đến đây với anh?
- Tất cả. - Cây Phỉ trả lời với giọng tự hào.
- Không có ai bị thương ư?
- Ồ, có một vài người bị thương, trong trường hợp này hay khác.
- Nhưng không có phút nào buồn chán. - Tóc Giả nói.
- Ai đang đến kia kìa? Tôi không biết hắn.
Dâu Tây vừa chạy từ khu rừng sồi đến và khi nhập hội cùng mọi người, chú bắt đầu làm những cử chỉ nhảy múa kỳ lạ bằng đầu và hai chân trước, cũng cái lối mà bọn thỏ đã chứng kiến lần đầu ở đồng cỏ sau cơn mưa trước khi chúng đến hang lớn. Dâu Tây chựng lại, không khỏi bối rối và để ngăn những lời chỉ trích của Tóc Giả chú nói ngay với Cây Phỉ.
- Cây Phỉ-rah, - chú nói (Nhựa Ruồi hình như có giật mình một cái nhưng không nói gì), - mọi người ai cũng muốn ở trong hang mới tối nay và hy vọng Đội trưởng Nhựa Ruồi vui lòng kể lại cho chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra và ông ấy tới đây như thế nào?
- Phải, cũng là chuyện tự nhiên thôi, tất cả chúng tôi đều muốn biết. - Cây Phỉ nói với Nhựa Ruồi. - Đây là Dâu Tây. Anh ấy muốn đi theo chúng tôi và tất cả đều vui vì đã có anh ấy. Nhưng anh có nghĩ là mình đủ khỏe để họp mặt cùng chúng tôi không?
- Tôi sẽ gắng được. - Nhựa Ruồi nói. - Nhưng tôi phải báo trước cho anh, câu chuyện của tôi chỉ khiến cho trái tim mỗi người trĩu nặng đau buồn thôi đấy.
Khuôn mặt chú tối sầm lại buồn rười rượi và nghe chú nói thế không một ai lên tiếng đáp lại. Ít phút sau, cả sáu chú thỏ đều lẳng lặng đi xuống đồi. Khi đến góc rừng, chúng thấy những chú khác hoặc đang ăn cỏ hoặc hưởng thụ chút ánh nắng còn rớt lại của buổi chiều tháng Sáu ở mạn Bắc cánh rừng sồi. Sau khi đưa mắt nhìn qua một lượt, Nhựa Ruồi tiến thẳng đến chỗ Xám Bạc đang ăn tối cùng với Thứ Năm trên một vạt cỏ ba lá đâm ra những bông hoa màu vàng.
- Tôi rất mừng khi gặp anh ở đây, Xám Bạc ạ. - chú nói. - Nghe đâu anh đã trải qua những ngày khó nhọc.
- Phải, cũng chẳng dễ dàng gì. - Xám Bạc đáp. - Cây Phỉ đã lập được kỳ tích và chúng tôi đã nợ Thứ Năm rất nhiều khi đến được nơi này.
- Tôi nghe nói nhiều về cậu. - Nhựa Ruồi quay sang nói với Thứ Năm. - Cậu là người có thể thấy trước những chuyện sắp xảy đến. Cậu đã nói chuyện với Chúa Thanh Lương Trà phải không?
- Ông ấy nói chuyện với tôi. - Thứ Năm nhẹ nhàng chữa lại.
- Giá như ông ấy chịu nghe lời cậu. Phải, bây giờ thì không còn thay đổi được gì nữa, cho đến khi chạch đẻ ngọn đa. Xám Bạc à, có một điều tôi muốn nói và cảm thấy dễ nói ra với cậu hơn là với Cây Phỉ hoặc Tóc Giả. Tôi không đến đây để gây nên bất cứ một rắc rối nào - ý tôi muốn nói là rắc rối cho Cây Phỉ. Bây giờ anh ấy là thủ lĩnh, đơn giản là thế. Tôi không biết nhiều về anh ấy, nhưng chắc phải là người cừ nhất nếu không các anh đã chết cả nút. Bây giờ không phải là lúc để cãi vã vớ vẩn. Nếu có bất cứ chú thỏ nào ở đây đặt câu hỏi là tôi có muốn thay đổi điều gì không thì cậu sẽ cho họ biết là tôi sẽ không bao giờ làm thế chứ?
- Được, tôi sẽ làm như anh muốn. - Xám Bạc nói.
Tóc Giả đi đến gần.
- Tôi biết còn chưa đến giờ cú ăn đêm. - chú nói. - Nhưng mọi người đang nóng lòng muốn nghe câu chuyện của anh đấy Nhựa Ruồi ạ; và họ muốn xuống hang ngay. Điều đó có hợp ý anh không?
- Xuống dưới đất à? -Nhựa Ruồi đáp. Nhưng làm sao tất cả các anh có thể nghe tôi nói ở dưới hang được? Tôi cứ tưởng sẽ nói chuyện ở đây chứ?
- Cứ thử rồi biết. - Tóc Giả nói.
Nhựa Ruồi và Hoa Chuông có ấn tượng rất tốt với Tổ Ong.
- Thật là một điều mới mẻ. - chú tấm tắc. - Thế cái gì giữ cho trần không đổ ập xuống?
- Nó đâu cần vật gì chống đỡ. - Hoa Chuông nó. - Nó đã đứng thẳng trên đồi rồi.
- Đó là một ý tưởng mà chúng tôi có được trên bước đường lưu lạc. - Tóc Giả nói.
- Nằm trên cánh đồng. - Hoa Chuông pha trò tiếp. - Thật là tốt, thưa Đội trưởng, tôi sẽ im như thóc trong bồ trong khi ông kể chuyện.
- Phải, cậu phải thế chứ. - Nhựa Ruồi nói. - Nếu không thì chẳng bao lâu sẽ không có ai muốn đùa nữa.
Hầu như tất cả những chú thỏ khác đều theo chúng xuống hang. Tổ Ong, mặc dầu đủ lớn cho tất cả mọi người nhưng không thoáng khí đối với một cái hang lớn và trong một buổi tối tháng Sáu, không khí còn có phần oi bức nữa là khác.
- Chúng ta sẽ dễ dàng làm hang mát hơn. - Dâu Tây nói với Cây Phỉ. - Trong những chiếc hang lớn, người ta dùng lối đi mở vào mùa hè và đóng lại vào mùa đông. Mai chúng ta có thể đào một đường hông và sẽ đón được gió.
Cây Phỉ đang định yêu cầu Nhựa Ruồi bắt đầu thì Thủy Cự đi xuống từ đường chạy phía Đông.
- Anh Cây Phỉ, - chú ngập ngừng nói. - vị khách của anh… à gã chuột của anh. Hắn muốn nói chuyện với anh.
- Ồ tôi quên khuấy mất hắn. Thế hắn đang ở đâu?
- Trên kia.
Cây Phỉ chạy lên. Chú chuột đang đợi ở gần lối ra vào.
- Anh định đi bây giờ sao? Anh nghĩ là như vậy sẽ an toàn chứ? - Cây Phỉ hỏi.
- Tôi xin tạm biệt. - chuột nói. - Không đợi con cú. Nhưng tôi có điều muốn nói. Anh đã giúp đỡ một chú chuột. Một lúc nào đó chuột sẽ giúp lại anh. Nếu có gì cần anh cứ gọi, tôi sẽ đến.
- Thần Mặt trời trong một cái ao. - Tóc Giả làu bàu ở một chỗ nào đó xa xa phía dưới. - Và sẽ có cả một lô một lốc anh chị hắn nữa chứ. Tôi dám cá rằng nơi này rồi sẽ nhung nhúc chuột cho mà xem. Sao anh không yêu cầu chúng đào một, hai cái hang hả Cây Phỉ?
Cây Phỉ nhìn theo chú chuột đang chạy qua những búi cỏ dài. Rồi chú quay lại Tổ Ong, ngồi xuống gần Nhựa Ruồi, nghe anh ta bắt đầu câu chuyện.

Chương 21. “Đến El-ahrairah Cũng Phải Khóc”


Yêu thương muôn loài. Thủ lĩnh trời ban cho họ những ý niệm sơ khai và niềm yên vui thanh bình. Đừng gây nên tình trạng hỗn loạn, đừng quấy rối họ, đừng tước đoạt của họ niềm vui sống, đừng làm ngược lại ý định của Thủ lĩnh.
(Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky)

Những việc làm bất công
Giữa lúc mặt trời lên và xuống núi
Trong lịch sử chúng nằm giống như những khúc xương,
mỗi khúc xương.
(Con đường đi lên của F.6 của W.H. Auden)
*
- Vào cái đêm các anh rời khỏi cánh đồng thỏ, Cốt Cán nhất loạt quay ra truy đuổi những kẻ đào tẩu. Chà, mời đây mà sao như đã lâu lắm rồi? Chúng tôi lần theo mùi của các anh xuống đến dòng suối, nhưng khi chúng tôi báo cáo lại với Chúa Thanh Lương Trà rằng các anh có vẻ như định đi xuống hạ lưu thì ông ấy bảo chẳng phải liều mạng bám theo những kẻ muốn ruồng bỏ quê hương làm gì. Giữ là giữ kẻ ở chứ không ai giữ người đi, nếu muốn đi thì cứ việc biến. Tuy vậy, bất cứ ai quay về sẽ bị bắt. Và tôi được giao nhiệm vụ lùng soát.
Chẳng có gì khác thường xảy ra vào ngày hôm sau. Chắc chắn chỉ râm ran những chuyện xung quanh Thứ Năm và những thỏ đi theo cậu ta. Ai cũng biết rằng theo Thứ Năm có một cái gì đó rất xấu sắp xảy ra và những lời bình luận bắt đầu. Nhiều người nói rằng, chẳng có chút sự thật nào trong đó, nhưng lại có người nghĩ rằng Thứ Năm có lẽ đã nhìn thấy trước hình ảnh những người mang súng và bọn chồn sương. Nhưng điều tệ hại nhất mà bất cứ ai cũng có thể nghĩ đến lại là căn bệnh rnù trắng.
Cây Liễu và tôi đã đem chuyện này báo cáo lại với Chúa Thanh Lương Trà. “Những gã thỏ dám tuyên bố mình có cái nhìn thấu thị thì cả đời ta mới biết một, hai tên”, Chúa Thanh Lương Trà cao giọng nói, “Chả nên để ý nhiều đến chúng làm gì. Bởi một lẽ, đa phần bọn chúng là những kẻ mánh lới ranh ma nhất hạng. Một chú thỏ yếu đuối không có hy vọng tiến thân qua con đường binh nghiệp thường cố làm cho mình trở nên quan trọng trên những phương diện khác, và tiên tri thấu thị là một trong những điều được mọi người sùng bái nhất. Điều kỳ lạ ở đây là cả khi chú đã nói trật lất thì bạn bè cũng không có khả năng nhận ra chừng nào chú chẳng may đoán đúng được một lần và cứ mãi nói về chuyện đó. Nhưng mà, có thể có một chú thỏ thực sự có cái năng lực kỳ lạ ấy, bởi vì cũng có những chuyện như thế trên đời. Chú tiên đoán về nước lụt chẳng hạn, hoặc bọn chồn sương hoặc súng. Tốt thôi, thế nhưng có một số chú thỏ thôi không chạy nữa. Có những khả năng nào đây? Di tản cả một bộ tộc ra khỏi nơi mình cắm rễ là cả một chuyện tày đình chứ giỡn chơi à. Một số chú từ chối không đi. Thủ lĩnh ra đi với những chú muốn rời khỏi. Quyền lực của anh ta có vẻ như bị đặt vào một thử thách khốc liệt và nếu thua, anh ta sẽ chẳng có cửa mà nhanh chóng quay đầu lại. Trường hợp khả dĩ nhất thì ta cũng chỉ có một đám thỏ lang thang giữa nơi đồng hoang và chắc chắn là với một bầy thỏ cái và thỏ con lẵng nhẵng kèm theo. Kẻ thù thì xuất hiện từng bầy. Cái viễn cảnh này còn thảm hại hơn là bệnh dịch nữa. Gần như trong trường hợp nào cũng vậy, điều tốt hơn cả cho một cộng đồng với tư cách toàn thể là những chú thỏ ngồi sát bên nhau ở trong hang và làm tất cả để tránh nguy hiểm”.
- Tất nhiên, tôi chưa bao giờ ngồi xuống mà suy nghĩ. - Thứ Năm nói. - Chỉ có chúa Thanh Lương Trà mới là người nghĩ tất cả những chuyện này. Tôi chỉ đơn giản bị những nỗi sợ hãi kinh hoàng ám ảnh. Ôi Thần Mặt trời vàng ròng vĩ đại, tôi chỉ hy vọng sẽ không bao giờ có lại những nỗi sợ ấy nữa. Tôi sẽ không bao giờ có thể quên nổi đêm đó và cái đêm ngồi dưới gốc cây thủy tùng. Có một thế lực vô cùng độc ác trên đời.
- Nó đến từ con người. - Nhựa Ruồi nói. - Tất cả những kẻ thù khác làm những điều mà chúng phải làm và Thần Mặt trời điều khiển chúng theo cách mà Người điều khiển chúng ta. Chúng sống trên mặt đất và cần cái ăn để mà sống. Con người thì lại không bao giờ ngơi nghỉ chừng nào họ chưa phá hủy hoàn toàn trái đất này và tiêu diệt muôn loài. Nhưng tốt hơn tôi sẽ quay về câu chuyện của mình.
Ngày hôm sau vào buổi chiều, trời bắt đầu mưa.
(Những cái hố mà chúng ta đào trên bờ. Gạc Nai thì thầm với Bồ Công Anh)
Mọi người đều rút về hang chỉ để nhai rễ cây hoặc nằm nghỉ. Tôi đi ra ngoài một chút, để phóng uế. Tôi ra đến bìa rừng, gần chỗ cái hào cạn thì thấy một vài người đi qua cái cổng ở trên đỉnh dốc đối diện, chỗ có tấm biển thông báo. Tôi không biết có bao nhiêu người ở đấy, có lẽ ba hoặc bốn gì đó. Họ có những cái chân rõ dài, đen xì và họ đốt những cái que trắng trên miệng. Họ không có vẻ là đang định đi đâu đó mà bắt đầu chậm rãi đi dưới trời mưa, nhìn về phía hàng rào và con suối. Một lúc sau họ nhảy qua suối, đến những lùm cây và tiến về phía cánh đồng thỏ. Mỗi khi đến trước một cái hang thỏ họ đều chọc chọc một cây gậy vào đó thăm dò và họ cứ nói chuyện với nhau suốt. Tôi vẫn còn nhớ mùi hoa của cây cơm cháy nở trong mưa và mùi của những cái que trắng bốc khói. Sau đó, khi họ đến gần hơn, tôi lại lẩn xuống hang. Tôi còn lắng nghe họ một lúc nữa, khoa chân múa tay và nói liên hồi. Tôi cứ nghĩ mãi, Vậy là họ chẳng có súng mà cũng chẳng có chồn sương. Nhưng không hiểu sao tôi chẳng thích chuyện này chút nào.
- Thế Chúa Thanh Lương Trà nói gì về chuyện này? - Xám Bạc hỏi.
- Tôi không biết. Tôi không hỏi mà theo như tôi biết thì cũng chẳng có ai khác nhắc đến chuyện này. Tôi đi ngủ và khi thức dậy không nghe thấy âm thanh gì ở bên trên. Trời đã tối và tôi quyết định lên mặt đất kiếm ăn một chút. Mưa đã tạnh, nước mưa đọng thành vũng, tôi nhảy quanh những vũng nước và ăn một lúc như thường lệ. Tôi không thấy có gì lạ, trừ đó đây có một vài cái hang thỏ bị chọc vào.
Sáng hôm sau nền trời trong vắt báo hiệu một ngày đẹp trời. Mọi người ra ngoài ăn như thường lệ. Tôi nhớ có nghe Kỳ Nham nhắc Chúa Thanh Lương Trà nên cẩn thận đừng làm gì quá sức vì ông mỗi ngày một tuổi, còn Chúa Thanh Lương Trà thì nói ông ta sẽ chứng minh cho hắn thấy ai mới là người đang già yếu rồi thoi cho hắn một quả và đẩy hắn xuống bờ đất. Các cậu biết đấy, đó chỉ là một chuyện đùa, nhưng ông ta làm vậy để cho Kỳ Nham thấy rằng mình vẫn đảm đương được vai trò Thỏ thủ lĩnh. Buổi sáng hôm ấy, tôi đi ra ngoài kiếm rau diếp, vì lý do nào đó mà tôi quyết định đi một mình.
- Thường thì có ba người tham gia trong một chuyến trộm rau diếp. - Tóc Giả nói.
- Phải, tôi biết thường phải cần đến ba người, nhưng có một số lý do đặc biệt nên hôm ấy tôi đi một mình. Ô phải, tôi nhớ ra rồi, tôi muốn xem có còn củ cà rốt nào không, tôi nghĩ loại thức ăn này có lẽ có sẵn và cho rằng nếu chịu khó sục tìm ở một góc mới nào đó trong vườn rau thì bản thân tôi sẽ được lợi. Tôi đi như vậy gần hết buổi sáng, đầu giờ trưa thì quay về, đi qua cánh rừng. Tôi đang đi xuống phía Bờ Yên. Tôi biết đa số mọi người thích Bờ Xanh hơn, nhưng tôi thì gần như bao giờ cũng đi theo lối này. Tôi vừa đến gần cửa rừng, nơi chạy thoai thoải về phía hàng rào cũ, thì nhận ra một chiếc hrududu nằm trên đường, trên đỉnh đồi đối điện. Nó đậu ở ngay cái cổng chỗ có tấm biển và có nhiều người lục tục từ trên xe nhảy xuống. Trong số đó có một cậu con trai mang theo một khẩu súng. Họ mang xuống những thứ dài dài to to - tôi không biết phải miêu tả với các bạn như thế nào - chúng được làm từ cùng một loại chất liệu như hrududu và chắc phải nặng lắm bởi vì cần đến hai người mới khênh nổi một cái. Đám người lớn mang những vật đấy xuống cánh đồng, thấy thế một vài chú thỏ đang lang thang trên cánh đồng vội vàng chui xuống đất. Riêng tôi thì không, tôi đã thấy khẩu súng và nghĩ rằng chắc chắn họ sẽ sử dụng chồn sương hoặc lưới. Thế là tôi ở nguyên đấy quan sát. Tôi nghĩ bụng, “Ngay khi biết chắc họ làm gì mình sẽ đi báo cáo với Chúa Thanh Lương Trà”.
Lại thêm những cuộc nói chuyện khác và những cái que màu trắng nữa. Con người hình như chả bao giờ vội vã hay sao ấy. Rồi sau đó, một trong số họ lôi ra một cái xẻng và bắt đầu xúc đất lấp miệng những cái hang thỏ mà anh ta tìm thấy. Trước mỗi cửa hang anh ta lại phạt đám cỏ mọc quanh rồi nhét cả vào trong hang. Đó là điều thực sự làm tôi bối rối, bởi vì nếu sử dụng chồn sương thì họ sẽ muốn đuổi hết bọn thỏ ra ngoài. Nhưng tôi vẫn cho rằng họ sẽ để lại một vài cái hang không lấp và giăng lưới, mặc dù đó 1à cách ngu ngốc đối với chồn sương bởi vì, các bạn cũng biết, một khi thỏ chạy vào lối đi bị bít thì chúng ta sẽ bị giết dưới đó và rồi con người sẽ không dễ dàng bắt lại được con chồn sương kia.
- Đừng làm cho mọi việc có vẻ tàn nhẫn quá như vậy, Nhựa Ruồi. - Cây Phỉ nói, bởi vì Nồi Đất thoáng rùng mình trước ý nghĩ về một cái hang bít kín lối thoát và một con chồn sương rượt đuổi phía sau.
- Tàn nhẫn quá ư. - Nhựa Ruồi đáp giọng chua chát. - Nhưng tôi còn chưa kịp bắt đầu kia mà. Có ai muốn rời khỏi đây không?
Không chú thỏ nào nhúc nhích và vài giây sau chú ta lại tiếp tục.
- Sau đó một người khác trong bọn họ mang ra những vật gì đấy uốn cong, dài và mỏng. Tôi không có đủ từ để miêu tả những đồ vật của con người, nhưng đó là một vật gì có chiều dài bằng bụi mâm xôi lớn. Mỗi người cầm lấy một cái và đập nó vào một vật nặng. Nghe vang lên những tiếng xì xì rất to, và rồi... tôi biết các anh khó mà hình dung được, không khí trở nên rất kinh khủng. Chẳng hiểu làm sao tôi hít phải cái mùi rất mạnh từ cái chất đang thoát ra khỏi cái vật mâm xôi kia, dẫu rằng tôi ở cách đó khá xa: cái chất ấy làm tôi không thể nhìn hay nghĩ ngợi gì cả. Tôi bủn rủn cả người chỉ muốn sụm xuống, nhưng vẫn cố chồm lên bỏ chạy thục mạng mà không biết mình đang ở đâu. Cuối cùng tôi thấy mình đang chạy xuống bìa rừng hướng về phía đám người. Tôi kịp dừng lại đúng lúc. Đầu óc lộn tùng phèo lên và tôi quên khuấy mất ý định chạy về cảnh báo cho Chúa Thanh Lương Trà. Sau tất cả những chuyện này tôi chỉ còn biết ngồi phệt xuống ngay chỗ đang đứng.
Mấy người đàn ông đặt cái vật giống cây mâm xôi ấy vào mỗi cái hang mà họ chưa lấp, một lúc sau vẫn chẳng có sự gì xảy ra. Sau đó tôi trông thấy Cỏ Lưỡi Mèo - các bạn vẫn nhớ anh chàng này chứ? Cậu ta chạy ra khỏi một cái hang nằm ở hàng rào còn chưa bị những người kia phát hiện ra. Tôi có thể thấy ngay rằng cậu ta hít phải cái chất kia. Cậu ta không biết mình đang làm gì. Mấy người kia thoạt đầu còn chưa nhìn thấy nhưng sau đó rnột người đưa tay chỉ trỏ về chỗ cậu ta ngồi và thằng bé giương súng lên bắn. Thằng bé không giết được cậu ta - còn Cỏ Lưỡi Mèo thì bắt đầu kêu chí chóe, thế là một trong những người đàn ông chạy đến, nhặt cậu ta lên và đánh. Tôi thực sự tin rằng cậu ta không đau đớn lắm, bởi vì khí độc đã làm cho cậu ta mụ cả người, nhưng phải chi tôi không chứng kiến cái cảnh đó. Sau đó, người đàn ông dừng lại ở cái hang mà Cỏ Lưỡi Mèo vừa từ trong đó chui ra.
Đến lúc ấy thì khí độc đã lan khắp các ngóc ngách trong những đường chạy và hang dưới đất. Tôi có thể tưởng tượng ra nó sẽ giống như…
- Không, ông không thể hình dung nổi đâu, Đội trưởng. - Hoa Chuông lên tiếng. Nhựa Ruồi dừng lại và sau một lúc im lặng, Hoa Chuông là người tiếp tục.
- Tôi nghe thấy tiếng huyên náo bắt đầu nổi lên, trước khi ngửi thấy cái mùi khó chịu kia. Bọn thỏ cái đường như ngửi thấy trước và một số cố thoát ra ngoài. Những cô còn đang nuôi con nhỏ thì không thể bỏ chúng đấy mà chạy và tấn công bất cứ chú thỏ nào đến gần. Họ muốn đánh nhau - để bảo vệ đàn con như các anh cũng biết đấy. Chẳng bao lâu những lối đi ngang dọc đã chật ních những chú thỏ đang cào cấu và nhảy chồm lên nhau. Tất cả nháo nhào chạy ra những lối đi mà chúng đã thuộc lòng để thoát ra ngoài, nhưng phát hiện ra rằng các lối đi đã bị bít kín. Một số chú tìm cách lộn ngược lại, nhưng không thể vì những chú khác đang xông tới. Và rồi những đường chạy cũng bị bít kín xuống sâu hơn bởi xác những chú thỏ chết trong khi những chú còn sống xé chúng ra từng mảnh.
Tôi sẽ không bao giờ hiểu mình thoát được ra ngoài như thế nào sau những gì mình đã làm. Đó là một cơ may cực kỳ hi hữu. Tôi đang ở trong cái hang gần một trong những cái lỗ mà con người đang sử dụng. Tiếng ồn đinh tai nhức óc vang lên từ cái vật hình mâm xôi khi con người cố nhét nó vào và tôi cho rằng đã có trục trặc gì đó. Ngay khi hít phải cái mùi đấy tôi đã ba chân bốn cẳng lao ra khỏi hang, may thay đầu óc tôi vẫn còn khá tỉnh táo. Tôi chạy ra khỏi lối đi đúng lúc người ta rút cái vật kia ra. Họ xúm lại chung quanh xem xét và trao đổi nên không nhìn thấy tôi. Tôi quay lại, đúng ngay chỗ miệng hang và chạy lại xuống.
Mọi người còn nhớ Ngõ Cụt không? Tôi cho rằng hiếm có chú thỏ nào từng đặt chân xuống đấy trong đời - nó rất sâu và đúng như tên gọi, nó chẳng dẫn đi đến đâu cả. Cũng chẳng ai biết người đã làm ra nó. Chắc chắn Thần Mặt trời đã soi đường chỉ lối cho tôi bởi vì không hiểu thế nào tôi lại chạy tọt xuống đấy và bắt đầu trườn dọc theo vách đất. Tôi lấy hết sức mình đào bới suốt khoảng thời gian đó. Nơi đó đất xốp nên đất đá rào rào rơi xuống. Ở đây có những lỗ thông hơi và khoảng trống bị bỏ quên dẫn lên phía trên, và vọng từ trên xuống là những âm thanh cực kỳ kinh khủng - tiếng la hét kêu cứu, tiếng thỏ con gào lên gọi mẹ, tiếng Cốt Cán cố ra lệnh, tiếng những chú thỏ chửi nhau và lao vào đánh nhau. Một lần có một chú thỏ không hiểu vụng về thế nào lại rơi xuống một ống thông hơi, móng của chú ta cào cả vào mặt tôi, giống như những quả dẻ ngựa đầy gai nhọn rụng xuống vào mùa thu. Đó là Hoa Dại và cậu ta đã chết. Tôi đành phải lôi cậu ta ra thì mới vượt ra được vì chỗ đó vừa thấp vừa chật chội - và rồi tôi cứ tiếp tục như thế. Tôi vẫn ngửi thấy cái mùi kinh khủng đó, nhưng tôi đã ở rất sâu dưới lòng đất đến độ chắc hẳn tôi đã tránh được điều tồi tệ nhất.
Bất thình lình tôi thấy một chú thỏ khác đang ở cùng với mình. Đó là chú thỏ duy nhất mà tôi gặp trong Ngõ Cụt. Đó là Cây Phiền Lộ và tôi có thể nói ngay rằng cậu ta đang trong tình trạng rất xấu. Cậu ta nói lào phào trong miệng và thở hổn hển, nhưng vẫn còn đi được. Cậu hỏi tôi có ổn không và tất cả những gì tôi đáp lại là, “Chúng ta chui ra chỗ nào đây?”. “Tôi sẽ chỉ cho anh”, cậu nói, “nếu anh chịu giúp tôi”. Thế là tôi đi theo cậu ta và mỗi lần cậu dừng lại vì cứ quên hoài không biết chúng tôi đang ở đâu thì tôi lại phải thúc mạnh vào người cậu. Thậm chí có lúc tôi còn phải cắn cậu. Tôi chỉ hãi một điều là cậu lăn ra chết và chặn mất lối đi. Cuối cùng chúng tôi cũng lên được và tôi lại có thể hít thở không khí trong lành. Chúng tôi thấy mình đang ở một trong những lối đi dẫn vào khu rừng.
- Những người đàn ông đã thực hiện công việc của mình không tốt lắm. - đến lượt Nhựa Ruồi kể tiếp. - Hoặc là họ không biết về những cái hang trong rừng, hoặc là họ cũng chẳng thèm đến đây để bít những cái hang lại. Hầu như tất cả những chú thỏ chạy lên cánh đồng đều bị bắn, nhưng tôi thấy có hai chú chạy thoát. Một chú là Mũi Hếch, còn chú kia tôi không nhớ tên. Tiếng ồn dội lên mỗi lúc một đáng sợ và tôi chạy bán sống bán chết, nhưng cả trong lúc nguy cấp đó tôi vẫn có ý chờ đợi xem có thấy Chúa Thanh Lương Trà không. Sau đó tôi nhận ra rằng còn có một vài chú thỏ khác trong rừng. Tôi nhớ là có Lá Thông, Quả Cai và Tần Bì. Tôi tập hợp tất cả những người có thể gặp được và bảo họ ngồi yên trong chỗ ẩn náu. Một lúc lâu sau thì những người đàn ông kia kết thúc công việc. Họ rút cái vật hình mâm xôi ra khỏi hang còn thằng bé kia thì xỉên những thỏ chết vào một cái gậy…
Nhựa Ruồi dừng lại dụi dụi mõm vào dưới hông Tóc Giả.
- Thôi đừng nghĩ về những chuyện đó bây giờ nữa. - Cây Phỉ nói giọng cứng cỏi. - Hãy kể cho chúng tôi nghe các anh đã rời khỏi đấy như thế nào.
- Trước khi chuyện này xảy ra. - Nhựa Ruồi kể tiếp, - một chiếc hrududu lớn đã từ con đường tiến thẳng vào cánh đồng. Nó không phải là cái xe chở những người đàn ông kia đến. Nó rất ồn ào, có rnàu vàng - vàng như hoa bạch giới, phía trước có một vật gì đấy rất lớn, màu bạc, sáng lấp lánh mà nó giữ chặt bằng hai chân trước to 1ù lù. Chậc, tôi cũng không biết miêu tả như thế nào nữa. Nó giống như Inlé, nhưng rất rộng và không sáng đến thế. Và cái vật này, biết nói thế nào nhỉ - đi đến đâu thì xé cánh đồng ra từng mảng đến đấy. Nó đã phá hủy cánh đồng.
Nhựa Ruồi lại dừng lại.
- Đội trưởng, - Xám Bạc nói. - tất cả chúng tôi đều biết rõ anh đã chứng kiến những điều ghê rợn đến mức không thể kể ra. Nhưng chắc chắn là nó không đến mức như anh muốn nói, phải không nào?
- Thề có cuộc đời tôi. - Nhựa Ruồi nói tiếp, toàn thân run bắn lên, - nó tự chôn mình xuống dưới lớp đất và lật những tảng đất lớn phía trước mũi cho đến khi cánh đồng bị phá hủy hoàn toàn. Cả nơi này biến thành một cái vũng trâu đầm vào mùa đông và các bạn không thể nói nơi nào trước kia từng là cánh đồng nằm giữa khu rừng và con suối. Đất đá, rễ cây, ngọn cỏ và bụi rậm bị kéo đi băng băng trước mũi nó và cả những vật khác từ dưới lòng đất nữa. Một lúc sau, tôi trở về qua khu rừng. Tôi đã quên mất ý định tập hợp những chú thỏ khác, nhưng có ba chú chạy đến chỗ tôi cùng một lúc - trong đó có Hoa Chuông đây, cả Cây Phiền Lộ và anh bạn trẻ Liễu Ngư. Anh bạn này là thành viên duy nhất trong đội Cốt Cán mà tôi đã gặp và tôi hỏi thăm cậu ta về Chúa Thanh Lương Trà nhưng nó lại không thể nói được điều gì ra hồn. Vì thế tôi cũng không bao giờ có thể biết rõ chuyện gì đã xảy ra với Chúa Thanh Lương Trà, chỉ biết hy vọng là ông ấy sẽ không phải chịu đau khổ quá lâu.
Cây Phiền Lộ như bị mê sảng - nói toàn những điều vô nghĩa - Hoa Chuông và tôi cũng chẳng khá hơn. Chẳng hiểu làm sao Tóc Giả là người duy nhất mà tôi nghĩ đến. Tôi nhớ lại tôi đã đem người đi bắt anh ấy như thế nào - để giết anh ấy, sự thật là như vậy - và tôi thấy mình nhất định phải đi tìm Tóc Giả để nói với anh ấy rằng tôi đã sai: chính ý nghĩ này là tất cả những gì còn có ý nghĩa với tôi. Bốn chúng tôi lang thang chẳng biết đi đâu, gần như đi theo vòng tròn bởi vì sau một hồi, chúng tôi lại thấy mình trở về chỗ dòng suối, bên dưới cái nơi trước đã từng là cánh đồng của chúng ta. Bốn chúng tôi đi theo dòng suối vào một khu rừng lớn và đêm ấy, khi chúng tôi ở trong rừng thì Liễu Ngư chết. Trước đấy một chút, cậu ta vẫn hoàn toàn tỉnh táo và tôi vẫn nhớ những lời nói cuối cùng của cậu ấy. Khi Hoa Chuông nói rằng theo cậu ta, loài người căm ghét 1ũ thỏ chúng ta vì đã phá hoại mùa màng vườn tược của họ thì Liễu Ngư đã nói như thế này: “Đó không phải là lý do họ phá hủy cánh đồng thỏ. Đó là bởi vì chúng ta chặn đường của họ. Họ giết chúng ta để mọi việc tiện lợi cho họ”. Chẳng bao lâu sau cậu ấy ngủ thiếp đi và một lúc sau, khi chúng tôi giật mình vì tiếng động hoặc một điều gì đó và cố đánh thức cậu ấy dậy thì nhận ra là cậu ấy đã chết.
Chúng tôi để cậu ta nằm lại đó và đi tiếp cho đến khi tới được bờ sông. Cũng không cần mô tả nó làm gì bởi vì tôi biết các bạn đã ở đấy. Lúc đó trời đã rạng sáng, chúng tôi nghĩ rằng hẳn mọi người còn gần đâu đây nên bắt đầu đi dọc bờ sông, ngược lên thượng nguồn để tìm các bạn. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã tìm ra nơi các bạn đã đi qua. Có nhiều dấu vết - rất nhiều nữa là khác - để lại trên cát dưới bờ sông dốc đứng và cả phân chắc cũng đã ba ngày rồi. Dấu chân không đi lên phía thượng nguồn hoặc xuống phía hạ nguồn vì thế mà tôi biết mọi người đã vượt sông. Tôi bèn bơi sang bờ bên kia và tìm thấy nhiều dấu vết hơn, sau đó những người còn lại cũng bơi qua sông. Nước sông dâng cao và tôi cho rằng các bạn hẳn đã vượt sông dễ dàng hơn chúng tôi vì không gặp phải những trận mưa.
Bản thân tôi không thích những cánh đồng bên kia bờ sông. Có một người vác súng cứ đi đi lại lại khắp nơi. Tôi dẫn hai người bạn vượt qua con đường và chẳng bao lâu sau chúng tôi đến một vùng đất tồi tàn, chỉ có những bụi thạch nam, đất thì vừa đen vừa bở bùng bục. Chúng tôi trải qua những ngày khốn khổ ở đây, một lần nữa tôi lại gặp phân thỏ thải ra vào khoảng ba ngày trước, nhưng lại chẳng thấy có hang hốc hay chú thỏ nào, thế là tôi nghĩ rất có khả năng đấy là các bạn. Hoa Chuông thì vẫn ổn, nhưng Cây Phiền Lộ lên cơn sốt và tôi e rằng cậu ta cũng chẳng trụ lại được lâu.
Nhưng rồi chúng tôi cũng gặp may một chút - ấy là theo chúng tôi nghĩ vào lúc đó. Đêm ấy, chúng tôi gặp một gã lang thang ở phía rìa bụi thạch nam - một con thỏ già nua nhưng dẻo dai với cái mõm xây xước và đầy sẹo - nó bảo chúng tôi rằng có một cánh đồng thỏ cách đấy không xa rồi chỉ đường cho chúng tôi đến đó. Thế là lại ngược vào rừng, băng qua những cánh đồng, nhưng chúng tôi đã kiệt quệ đến mức không còn sức đâu mà đi tìm cánh đồng thỏ. Chúng tôi bò vào một cái rãnh cạn, tôi thì thật tình không có lòng nào bảo những người bạn đồng hành phải thức canh. Bản thân tôi cố đánh thức mình, nhưng không thể.
- Đó là vào lúc nào? - Cây Phỉ hỏi.
- Ngày hôm kia, - Nhựa Ruồi đáp. - vào lúc sớm tinh mơ. Khi tôi thức giấc thì cũng đã gần trưa mất rồi. Mọi thứ đều yên lặng và tất cả những gì mà tôi ngửi thấy là mùi của thỏ, nhưng tôi có cảm giác tức thời là có điều gì đó không ổn. Tôi bèn đánh thức Hoa Chuông dậy và đang quay sang lay Cây Phiền Lộ thì nhận ra có cả một đàn thỏ đang vây quanh chúng tôi. Chúng cao lớn, đẹp đẽ như toát ra một cái mùi là lạ. Nó giống như, ừm, nó giống như…
- Chúng tôi biết nó như thế nào mà. - Thứ Năm lên tiếng.
- Tôi nghĩ chắc các anh đã biết. Một con trong bọn giới thiệu ngay, “Tôi là Anh Thảo Vàng. Các anh là ai và đang làm gì ở đây?”. Tôi không thích cách hắn ta nói chút nào, nhưng tôi cũng chẳng thấy có lý do gì khiến họ làm hại chúng tôi, thế là tôi mới trả lời rằng chúng tôi vừa trải qua nhiều khó khăn, vừa vượt qua một chặng đường dài để đi tìm những chú thỏ khác từ cánh đồng quê nhà - Cây Phỉ, Thứ Năm và Tóc Giả. Tôi vừa mới thốt ra những cái tên này thì gã thỏ có tên Anh Thảo Vàng đã quay sang những chú kia và kêu to, “Tôi biết mà. Hãy xé chúng ra thành từng mảnh”. Thế là cả lũ đâm bổ vào chúng tôi. Một con cắn vào tai tôi, xé toạc nó ra trước khi Hoa Chuông đẩy được hắn ra. Chúng tôi lăn vào chiến đấu với cả đám, tôi ngạc nhiên khi phát hiện mình cũng không phải dùng nhiều sức lắm. Một điều thật là buồn cười, mặc dù trông to khỏe thế và hô hào ầm ĩ đòi uống máu chúng tôi, bọn chúng chẳng biết đánh đấm gì, rõ ràng chúng không nắm được bài học vỡ lòng về chiến đấu. Hoa Chuông quật ngã một con to xác gấp đôi cậu ấy và mặc dù tai bị chảy máu tôi cũng không ở trong tình thế nguy hiểm cho lắm. Chỉ có điều chúng đông quá và chúng tôi buộc phải bỏ chạy. Hai chúng tôi vừa nhảy khỏi cái hào thì phát hiện Cây Phiền Lộ vẫn còn ở đó. Cậu ta rất yếu, như tôi đã kể với các bạn, nên không kịp thức dậy khỏi giấc ngủ mê man. Thế là sau tất cả những gì đã trải qua, Cây Phiền Lộ đáng thương đã chết trong tay lũ thỏ kia. Không hiểu các bạn nghĩ thế nào về việc này?
- Tôi nghĩ đó là một nỗi nhục nhã đáng nguyền rủa. - Dâu Tây bật lên trước khi có bất cứ ai kịp lên tiếng.
- Chúng tôi chạy khỏi cánh đồng, men theo một dòng suối nhỏ. - Nhựa Ruồi tiếp tục. - Một vài con thỏ vẫn tiếp tục truy đuổi chúng tôi, chợt tôi nảy ra một ý. “Phải, dù sao thì mình cũng phải tóm một con mới được”. Tôi không quan tâm đến việc làm một chuyện gì khác hơn là chạy đi để cứu lấy mình - không thể để chuyện này xảy ra sau cái chết của Cây Phiền Lộ. Tôi thấy Anh Thảo Vàng đang dẫn đầu những con khác và bứt lên trước một quãng, thế là tôi để cho hắn tiến tới gần mình rồi bất thình lình quay lại đuổi theo hắn. Tôi vật hắn xuống đất và toan xé xác hắn ra làm hai thì hắn kêu ré lên, “Tôi có thể cho anh biết các bạn anh đi đâu”. “Vậy thì nói mau”, tôi ra lệnh, hai chân sau đạp lên bụng hắn. “Họ đi về phía rặng núi”, hắn vừa thở dốc vừa nói, “những ngọn đồi cao mà anh có thể nhìn thấy từ đây. Họ đỉ từ sáng hôm qua”. Tôi vờ như không tin lời hắn và làm như sắp sửa giết hắn đến nơi. Nhưng hắn vẫn nói y như trước, tôi quào cho hắn mấy cái rồi thả cho hắn chạy đi và tiếp tục lên đường. Lúc ấy trời trong vắt và chúng tôi có thể thấy rõ những ngọn đồi.
Sau đó chúng tôi đã trải qua một quãng thời gian tồi tệ nhất từ truớc đến giờ. Nếu không có những lời bông đùa của Hoa Chuông và những câu chuyện trao đổi qua lại, chắc chắn chúng tôi đã chào thua.
- Tiết mục phân thỏ đến đây là hết, trò đùa cho những người khác. - Hoa Chuông nói. - Tôi thường lăn một trò đùa trên đường như thả một cuộn chỉ và cả hai chúng tôi lốc thốc chạy theo. Đó là cái cách giúp chúng tôi cầm cự được.
- Tôi thực sự không thể kể cho các bạn nhiều về những gì diễn ra sau đó. - Nhựa Ruồi lên tiếng. - Tai tôi đau đớn kinh khủng và trong suốt thời gian đó, tôi không sao xua đi được ý nghĩ rằng cái chết của Cây Phiền Lộ là do lỗi của tôi. Nếu tôi không ngủ thiếp đi thì cậu ấy đã không chết. Một lần chúng tôi cố gắng ngủ lại nhưng giấc mơ của tôi còn vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi thực sự phát điên lên. Trong tôi chỉ còn có một ý niệm duy nhất, tìm cho bằng được Tóc Giả đề nói rằng anh ấy đã hành động đúng khi rời bỏ quê nhà ra đi.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được những ngọn đồi, vào chiều tối ngày hôm sau. Chúng tôi chẳng thiết giữ gìn gì nữa - cứ thế đi bừa vào cánh đồng cỏ trống trải, phẳng lặng ngay đúng giờ bọn cú đi kiếm ăn. Tôi cũng không biết mình chờ đợi điều gì nữa. Các bạn cũng biết, đôi khi ta để cho mình nghĩ rằng mọi thứ sẽ ổn nếu ta có thể đến được nơi nào đó hoặc làm được việc nào đó. Nhưng khi đạt được điều ấy rồi mới thấy mọi việc không đơn giản như vậy. Tôi cho rằng mình đã nuôi hy vọng ngu ngốc rằng Tóc Giả có thể đang đợi chúng tôi. Nhưng những ngọn đồi này sao mà lớn thế - lớn hơn tất cả những gì chúng tôi gặp trong đời. Không có rừng cây, không có chỗ trốn, không có thỏ, bóng đêm lại đang đổ xuống. Và rồi mọi vật dường như bị xé nhỏ ra. Tôi thấy Cỏ Lưỡi Mèo cũng rõ như cỏ cây trước mặt và nghe tiếng cậu ấy khóc lóc rồi tôi trông thấy Chúa Thanh Lương Trà, Liễu Ngư và cả Cây Phiền Lộ. Tôi cố nói chuyện với họ. Tôi gọi tên Tóc Giả nhưng không mong anh ấy đáp lại bởi vì tôi chắc là anh ấy không có mặt ở đấy. Tôi vẫn còn nhớ là mình đã ra khỏi hàng rào đến một chỗ trống, lúc ấy tôi thực sự hy vọng một kẻ thù nào đó đến kết liễu đời mình đi cho rồi. Nhưng khi tỉnh lại thì đấy là Tóc Giả. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là mình đã chết và bắt đầu băn khoăn không biết Tóc Giả có ở đó thật hay không. Sau đó thì các bạn đã biết những chuyện còn lại. Thật đáng tiếc là tôi đã làm các bạn sợ biết chừng nào. Nhưng nếu tôi không thế - không làm Thỏ Đen, thì sẽ khó có sinh vật sống nào có thể ở gần ông ta hơn chúng tôi.
Sau một hồi im lặng, chú nói thêm:
- Các bạn có thể hình dung điều này có ý nghĩa như thế nào với Hoa Chuông và tôi khi thấy mình đang ở dưới hang, giữa bạn bè. Không phải tôi là người đã cố bắt anh, Tóc Giả ạ, đó là một tên thỏ khác, từ đời nảo đời nào rồi.

Chương 22. Câu Chuyện Về Phiên Tòa Xử El-ahrairah


Có phải hắn không có khuôn mặt của kẻ lừa đảo?... Khuôn mặt đáng nguyền rủa của Tyburn chẳng thể mang về lợi ích cho giới tu sĩ.
(Tình Yêu cho tình yêu của Congreve)
*
Loài thỏ (theo ông Lockley) cũng có nhiều điểm giống con người. Một trong những điểm đó chắc chắn là khả năng chống chọi tai ương và để cho dòng đời đẩy mình về phía trước, vượt qua những đau khổ và mất mát. Chúng có một đặc tính cố định nhưng rất khó miêu tả nó cho chính xác là sự tàn nhẫn hay thờ ơ. Nó thực chất là trí tưởng tượng giới hạn được trời phú và một trực cảm rằng Cuộc sống là Hiện tại. Một con thú hoang bị dồn đuổi với mục tiêu sống còn vượt trên tất cả thì sẽ mạnh mẽ như loài cỏ dạỉ. Với tư cách một giống nòi loài thỏ có được sự an toàn dựa vào lời hứa của Thần Mặt trời đối với El-ahrairah. Chưa đầy một ngày trôi qua sau khi Nhựa Ruồi, trong cơn mê sảng, bò đến chân rặng núi Watership Down. Tuy vậy, chú gần như đã bình phục, trong khi đó, anh bạn Hoa Chuông vô tư hơn thậm chí còn có vẻ không bị ảnh hưởng nhiều lắm sau những thảm họa khủng khiếp mà cậu vừa trải qua. Cây Phỉ và bạn bè chú quả có buồn đau và kinh hoàng hết sức trong lúc lắng nghe câu chuyện của Nhựa Ruồi. Nồi Đất khóc lóc và run rẩy một cách thương tâm trước cái chết của Cỏ Lưỡi Mèo, còn Quả Sồi và Thủy Cự thì đã phải kìm những tiếng nấc nghẹn ngào khi Hoa Chuông miêu tả khí độc đã giết chết những chú thỏ ở dười đất như thế nào. Tuy vậy, cũng như với người nguyên thủy, sự cảm thông sâu sắc và mạnh mẽ của chúng cũng đồng hành với cảm giác được giải thoát thực sự - thứ xúc cảm không hề giả tạo hay phải cố gắng làm ra thế. Khi mọi chuyện được kể lại, chúng lắng nghe không có một chút nỗi nghi ngờ hoặc thờ ơ mà ngay cả những con người văn minh tốt bụng nhất vẫn cảm thấy khi đọc một bài báo. Chúng có cảm tưởng như chính mình đang vật lộn trong những lối đi đầy khí độc và nổi cơn điên khùng với Cây Phiền Lộ trong cái hào cạn. Đó là cách chúng tỏ lòng tôn trọng người chết. Khi câu chuyện chấm dứt thì những yêu cầu của cuộc sống thực tế đầy khó khăn, nhọc nhằn lại trỗi dậy trong mỗi trái tim, hệ thần kinh, trong máu và dạ dày của chúng. Giá như những chú đã chết kia đừng chết! Nhưng ngoài kia vẫn còn có cỏ cần phải ăn, rau cần phải nhai, chất thải cần phải phóng ra, hang cần phải đào và đến lúc mệt thì vẫn cần phải lăn ra ngủ như thường. Ngày xưa ấy, người anh hùng Odysseus có mang được người bạn đồng hành nào lên bờ cùng với mình đâu. Thế mà ông vẫn ngáy khò khò bên nữ thần Calypso kiều diễm và đến khi thức dậy lại chỉ nghĩ về Penelope mà thôi.
Từ trước khi Nhựa Ruồi kết thúc câu chuyện của mình, Cây Phỉ đã cúi xuống ngửi ngửi cái tai bị thương của Đội trưởng. Trước đấy, chú còn chưa có lúc nào để xem kỹ vết thương này, nhưng bây giờ trong khi kiểm tra, chú nhận ra rằng nỗi sợ hãi và sự rnệt mỏi không phải là nguyên nhân chính khiến Nhựa Ruồi suy sụp đến thế. Đội trưởng chắc chắn là bị thương nặng, còn nặng hơn Gạc Nai nữa. Chắc chắn anh ấy đã mất nhiều máu. Tai anh ấy rách te tua như một dải ruybăng và có cả một cục đất bám vào đó. Cây Phỉ không khỏi bực mình với anh bạn Bồ Công Anh. Khi một vài chú thỏ bị màn đêm tháng Sáu dịu dàng với vầng trăng tròn vành vạnh trên đầu lôi kéo đã bỏ đi kiếm ăn trên mặt đất, chú bảo Mâm Xôi chờ mình. Xám Bạc đã toan rời khỏi hang bằng lối đi khác, cũng quay lại nhập hội với chúng.
- Bồ Công Anh và hai người kia chắc chỉ chăm chăm chú chú làm cho tính thần của anh phấn chấn hơn. - Cây Phỉ nói với Nhựa Ruồi. - Đáng giận là họ đã không làm sạch vết thương. Đất cát dính vào như thế này rất nguy hiểm.
- Được rồi, anh thấy đấy... - Hoa Chuông bắt đầu, chú ta vẫn còn nán lại bên cạnh Nhựa Ruồi.
- Không phải lúc đùa cợt đâu, - Cây Phỉ ngắt lời. - hình như anh nghĩ rằng…
- Nhưng tôi đâu có đùa. - Hoa Chuông nói. - Tôi chỉ định nói rằng tôi cũng muốn lau sạch tai Đội trưởng, nhưng mà nó quá nhạy cảm nên không thể chạm vào.
- Cậu ta nói đúng đấy. - Nhựa Ruồi nói. - Tôi e là mình đã không cho họ đụng đến. Nhưng hãy làm điều mà anh nghĩ là tốt nhất, Cây Phỉ ạ. Tôi thấy trong người đã khá hơn nhiều.
Cây Phỉ bắt đầu xem xét cái tai kỹ hơn. Máu đóng lại thành cục cứng ngắc, đen bầm và công việc này đòi hỏi lòng kiên nhẫn. Một lúc sau vết thương dài và lởm chởm bắt đầu rỉ máu sau khi đã được lau sạch. Xám Bạc tiếp tục công việc. Nhựa Ruồi gắng chịu đau hết sức mình, gầm gừ, oằn mình vì đau đớn và Xám Bạc phải cố tìm ra cái gì đó khiến chú ta chú ý mà phần nào quên đi cái đau.
- Cây Phỉ này, - chú cất tiếng hỏi. - ý tưởng mà anh nói đến là gì vậy - về con chuột ý? Anh bảo sẽ giải thích sau mà. Sao không nói cho chúng tôi nghe ngay bây giờ.
- Được thôi, - Cây Phỉ bắt đầu. - ý tưởng đấy chỉ đơn giản là thế này, trong hoàn cảnh của chúng ta không nên lãng phí bất cứ một điều gì có khả năng mang lại lợi ích về sau. Chúng mình đang ở một nơi xa lạ, lại còn chả biết gì mấy nên cũng cần bạn bè chứ. Rõ ràng là kẻ thù thì không thể làm điều gì tốt cho chúng ta hết, nhưng ở đây còn nhiều những sinh vật không phải là kẻ thù: chim, chuột, nhím và nhũng loại khác nữa. Loài thỏ chúng ta thường không có liên hệ mấy với những loài này, nhưng kẻ thù của họ cũng là kẻ thù của chúng ta trong nhiều trường hợp. Tôi nghĩ chúng ta hãy làm tất cả để các sinh vật này trở thành bạn. Điều này có thể giúp cho ta rất nhiều trong lúc khó khăn hoạn nạn.
- Tôi không thể nói rằng mình ủng hộ ý kiến đó. - Xám Bạc vừa nói vừa lau chỗ máu rỉ ra trên mũi Nhựa Ruồi. - Tôi cho rằng những con vật nhỏ này đáng bị xem thường hơn là có thể nhờ cậy được. Chúng thì làm được cái quái gì giúp ta chứ? Không thể đào hang cho ta, không kiếm thức ăn giúp ta mà cũng chẳng thể đánh nhau vì ta nữa. Chúng sẽ nói chúng rất thân thiện, điều đó thì chẳng có gì phải nghi ngờ, nhưng chỉ trong lúc mà ta còn giúp đỡ chúng, nhưng chuyện này đến đây phải chấm dứt. Tôi nghe con chuột đó hứa, Nếu anh cần chúng tôi sẽ đến. Anh đánh cuộc là chúng sẽ đến, chừng nào mà nơi này còn thức ăn hoặc chỗ núp, nhưng chắc chắn một điều là chúng ta không mong nơi này đầy nhóc những con chuột và... bọ vừng, phải không?
- Không, tôi không có ý như thế. - Cây phỉ nói. - Tôi không đề nghị mọi người phải đi tìm chuột đồng và mời chúng đến ở với chúng ta. Dù sao thì chúng sẽ chẳng cám ơn chúng ta về điều đó. Nhưng con chuột tối nay… chúng ta đã cứu sống nó…
- Anh đã cứu nó thì đúng hơn. - Mâm Xôi chữa lại.
- Được rồi, đằng nào nó cũng được cứu mạng. Nó sẽ nhớ điều này.
- Nhưng mà liệu nó có thể làm gì giúp chúng ta chứ? - Hoa Chuông thắc mắc.
- Trước hết là nó có thể nói cho chúng ta những gì nó biết về nơi này…
- Chuột thì biết được quái gì! Mà dẫu có biết thì cũng không phải những điều loài thỏ muốn biết.
- Được rồi, tôi thừa nhận một con chuột có thể có hoặc chẳng ích lợi gì cho chúng ta. - Cây Phỉ từ tốn nói. - Nhưng tôi chắc rằng một con chim thì sẽ có ích nếu chúng ta có thể làm một cái gì đó cho nó. Chúng ta không biết bay, còn một vài con chim thì lại biết tường tận về nơi này. Chúng cũng biết khá nhiều về thời tiết. Tất cả những điều tôi muốn nói chỉ có vậy. Nếu bất cứ ai thấy một con vật hoặc một con chim không phải là kẻ thù của ta đang cần sự giúp đỡ thì hãy vì Chúa, đừng bỏ lỡ cơ hội. Điều này chẳng khác nào để cà rốt mục rữa trong đất.
- Vậy anh nghĩ thế nào? - Xám Bạc quay sang hỏi Mâm Xôi.
- Tôi nghĩ đó là một ý hay, nhưng những cơ hội thực sự theo cái kiểu mà Cây Phỉ nghĩ thì không hay xuất hiện đâu.
- Tôi nghĩ điều này đúng đấy. - Nhựa Ruồi nhăn mặt nói khi Xám Bạc tiếp tục liếm vào tai chú. - Ý kiến này chỉ đúng về mặt lý thuyết, nhưng sẽ không có nhiều dịp để áp dụng trong thực tiễn đâu.
- Tôi sẵn sàng thử một phen. - Xám Bạc nói. - Tôi cho rằng cũng đáng làm thế, chỉ để xem xem Tóc Giả sẽ kể những câu chuyện ru ngủ cho một con chuột chũi như thế nào.
- El-ahrairah từng làm điều đó, - Hoa Chuông chen vào. - và nó đã có hiệu quả. Các anh không nhớ à?
- Không, - Cây phỉ lên tiếng. - tôi không biết câu chuyện ấy. Anh kể đi.
- Hãy đi ăn cái đã. - Nhựa Ruồi nói. - Cái tai này đã lấy hết tất cả sức lực của tôi vào lúc này.
- Phải, ít nhất thì bây giờ nó cũng sạch rồi. - Cây Phỉ nhận xét. - Nhưng tôi e nó sẽ không bao giờ được lành lặn và nguyên vẹn như cái tai kia nữa. Anh sẽ có một cái tai lởm chởm.
- Không hề chi, - Nhựa Ruồi nói to. - dù sao tôi cũng là một trong những kẻ may mắn.
Mặt trăng tròn vành vạnh uy nghi mọc lên trên bầu trời phía Đông không một gợn mây, bao phủ vùng núi cao yên bình này trong làn ánh sáng bàng bạc. Loài người chúng ta không ý thức được ánh sáng ban đêm chính là thứ đã đẩy lùi bóng đêm. Ánh sáng ban ngày, kể cả khi mặt trời không bị mây che khuất, đối với chúng ta dường như chỉ đơn giản là điều kiện tự nhiên của trái đất và không khí. Mỗi khi nghĩ về những dãy núi, ta có trong đầu hình ảnh núi non hiện lên trong ánh mặt trời, cũng giống như khi ta nghĩ về con thỏ với bộ lông của nó. Stubbs, (Có lẽ tác giả muốn nói đến George Stubbs (1724-1806), một họa sĩ nổi tiếng chuyên vẽ về ngựa), có thể nhìn thẳng vào bộ xương bên trong con ngựa, nhưng hầu hết chúng ta thì không, cũng vậy, chúng ta không thể nhìn thấy núi đồi nếu thiếu ánh sáng, cho dù ánh sáng không phải là một phần của những dãy núi như kiểu bộ da là một phần của chính con ngựa. Chúng ta coi ánh sáng mặt trời như một điều hiển nhiên. Nhưng ánh trăng là một vấn đề khác. Nó không liên tục. Trăng tròn rồi lại khuyết. Những đám mây có thể che kín trăng nhưng không thể che kín như vậy với ánh sáng ban ngày. Nước rất cần thiết cho chúng ta nhưng một thác nước thì không. Ở những nơi có thác nước, nó chỉ được coi như một thứ thêm vào, một vật trang trí đẹp đẽ. Chúng ta cần ánh sáng đến mức nó là yếu tố của sự sống, nhưng ánh trăng thì chúng ta không cần. Dù trăng có mọc hay không, sự hiện diện của nó cũng không phải điều cần thiết. Trăng luôn thay đổi. Nó dát bạc lên bãi bờ, cây cỏ, phân biệt những cọng cỏ dài khỏi những cọng khác, biến một khối nâu nâu phủ đầy sương giá của một lùm cây thành hằng hà sa số những đốm nhỏ phát sáng; hoặc hắt thứ ánh sáng mờ mờ dọc theo những cành cây ướt đẫm sương đêm như thể bản thân ánh sáng cũng uốn mềm được. Những chùm ánh trăng dài đổ xuống, trắng và sắc lẻm, giữa những thân cây, độ sáng mờ dần khi chúng lùi sâu vào cái khoảng không bùi bụi, mờ sương của những cánh rừng sồi lúc nửa đêm. Dưới ánh trăng, hai héc ta cỏ ống thô ráp cao đến đầu gối, nhấp nhô như sóng lượn, chộn rộn và lởm chởm như bờm ngựa, giờ đây hiện lên như mặt vịnh cuộn sóng, tất cả biến thành những vùng lồi lõm và khoảng tối. Cỏ mọc dày và bện chặt vào nhau đến mức gió cũng không thể làm nó lay động, nhưng chính ánh trăng dường như ban cho nó sự yên tĩnh vĩnh hằng. Không, chúng ta không thể coi ánh trăng như một điều hiển nhiên. Nó cũng giống như tuyết hoặc những hạt sương vào một buổi bình minh tháng Sáu. Nó không để lộ ra mà lại thay đổi những gì nó chiếu ánh sáng lên. Và độ sáng của nó rất kém, kém hơn nhiều so với ánh sáng ban ngày - làm chúng ta tưởng rằng nó chỉ là thứ gì đó được thêm vào những dãy núi này, để tặng cho nó, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, một đặc tính tuyệt vời, phi thường khiến chúng ta phải cúi đầu ngưỡng mộ khi còn có thể, bởi vì chẳng bao lâu nữa nó sẽ lại tan biến mất.
Khi bọn thỏ đến cái hang trong rừng sồi, một luồng gió mạnh thổi qua những tán lá, kẻ những hình ô vuông và chấm màu lốm đốm lên mặt đất phía dưới, vừa lấy đi vừa ban phát ánh sáng dưới các cành cây. Chúng để tai lắng nghe, nhưng ngoài tiếng lá cây xào xạc thì từ đồng cỏ trống trải phía dưới không có âm thanh nào ngoài tiếng hót đơn điệu của một con chim chích xa xa trên bãi cỏ.
- Trăng đẹp quá! - Xám Bạc kêu lên. - Hãy tận hưởng trong khi nó còn có ở đây.
Khi lên đến bờ đất, chúng gặp Đầu Gỗ và Thủy Cự đang quay lại.
- Ôi Cây Phỉ, - Đầu Gỗ kêu lên. - chúng tôi vừa nói chuyện với một con chuột khác. Nó đã nghe chuyện về con chim cắt lúc tối và tỏ ra rất thân thiện. Nó chỉ cho chúng tôi một nơi ở ngay phía bìa rừng bên kia toàn là cỏ mới cắt - hình như người ta cắt cỏ cho ngựa. Nó hỏi, “Các anh có thích cỏ, cỏ ngon không? Tất cả cỏ đều ngon hết”. Thế là chúng tôi đi đến đấy. Thật hết ý, chả có nơi nào cỏ ngon hơn.
Cánh đồng cỏ mới cắt kéo đài đến 40 mét, dày khoảng tấc rưỡi. Cây Phỉ, trong tâm trạng lâng lâng vui vẻ vì vừa được chứng minh là mình đúng, đang lững thững đi đến một vạt cỏ ba lá. Tất cả bọn thỏ nhấm nhá thức ăn trong yên lặng.
- Cậu là một người có đầu óc đấy Cây Phỉ ạ. - cuối cùng Nhựa Ruồi nói. - Cậu và chú chuột của cậu. Xin cậu hãy nhớ cho, chúng ta sẽ tự mình tìm ra nơi này, chẳng chóng thì chầy, nhưng sẽ chẳng nhanh được như thế này.
Cây Phỉ có thể hạ cằm xuống đầy thỏa mãn, nhưng chú chỉ trả lời:
- Rốt cuộc thì chúng ta sẽ không cần phải xuống núi nhiều. - Đoạn chú nói thêm, - Nhưng Nhựa Ruồi này, anh biết đấy, người anh toàn mùi máu. Điều đó có thể nguy hiểm, kể cả khi ở đây, thôi mọi người hãy quay về rừng đi. Trong một đêm đẹp như thế này chúng ta có thể ngồi gần hang, nhấm nháp thức ăn trong khi Hoa Chuông kể cho chúng ta nghe câu chuyện của cậu ấy.
Chúng gặp Dâu Tây và Gạc Nai ở bờ đất; và trong lúc ai nấy đều nhai lại thức ăn một cách vui vẻ với những cái tai rủ xuống thì Hoa Chuông bắt đầu.
- Đêm qua Bồ Công Anh đã kể cho tôi nghe về cánh đồng thỏ của Anh Thảo Vàng và cả việc anh ấy đã kể chuyện rau diếp của Đức vua. Điều ấy đã làm tôi nghĩ đến câu chuyện này, thậm chí còn trước cả khi Cây Phỉ giải thích chuyện con chuột nữa. Tôi thường nghe chuyện này từ ông nội mà ông thì bao giờ cũng bảo rằng nó xảy ra sau khi El-ahrairah đưa người cửa mình ra khỏi vùng đầm lầy Kelfazin. Họ tới những đồng cỏ Fenlo và đào hang ở đấy. Nhưng Hoàng tử Cầu Vồng vẫn để mắt đến El-ahrairah và ông hoàng này đã đi đến quyết định sẽ không nhắm mắt cho qua một trò dối gạt nào nữa của El-ahrairah.
Một buổi tối, El-ahrairah và Giỏ Cua đang ngồi trên một bãi đất ngập tràn ánh mặt trời thì Hoàng tử Cầu Vồng lướt qua đồng cỏ đi đến gần, cùng đi với ông là một chú thỏ mà El-ahrairah chưa từng gặp bao giờ.
“Chào buổi tối, anh bạn El-ahrairah thân mến”, ông hoàng lên tiếng trước. “Có một sự cải thiện vượt bậc trên những đầm lầy ở Kelfazin. Ta thấy tất cả những ả thỏ cái của ngươi đang bận rộn đào hố dọc lũy đất. Thế chúng đã đào một cái hang cho ngươi chưa?”.
“Có chứ, thưa ngài”, Ei-ahrairah đáp, “Đây là cái hang dành cho tôi và Giỏ Cua. Cái bờ đất này vừa nhìn thấy là chúng tôi đã mê ngay ấy chứ”.
“Ừ, trông cũng được lắm”, Hoàng tử đáp, “Nhưng ta e rằng mình phải nói cho ngươi biết một chuyện, El-ahrairah ạ, rằng ta nhận được mệnh lệnh rất nghiêm khắc từ Chúa tể Mặt trời, người không cho phép ngươi ở chung hang với Giỏ Cua nữa”.
“Không được ở chung hang với Giỏ Cua ư?”, El-ahrairah hỏi lại, “Nhưng mà vì cớ gì kia chứ?
“Này El-ahrairah”, Hoàng tử cao giọng, “chúng ta biết tỏng ngươi và những trò lừa gạt của ngươi, còn cái tên Giỏ Cua này thì cũng trơn tuột và mánh lới chẳng kém gì, thật là thầy nào tớ ấy. Nếu cả hai ngươi cũng nhét vào một chỗ thì xem ra chẳng có gì hay ho cả. Bọn ngươi sẽ tìm cách lấy cả mây trên trời trước khi mặt trăng thay đổi hai lần mất. Không, Giỏ cua phải đi tìm một cái hang khác ở đầu kia cánh đồng. Bây giờ để ta giới thiệu với ngươi. Đây là Hufsa. Ta muốn ngươi làm bạn với cậu ta và trông nom cậu ta thật tử tế.
“Cậu ấy từ đâu đến vậy?”, El-ahrairah hỏi, “Tôi chắc là chưa từng trông thấy cậu ấy bao giờ”.
“Cậu ta đến từ một vùng đất khác”, ông hoàng trả lời, “nhưng không có gì khác biệt với bất cứ một con thỏ nào. Ta hy vọng ngươi sẽ giúp cậu ta ổn định cuộc sống ở đây. Và trong khi cậu ta tìm hiểu nơi này, ta chắc ngươi sẽ vui lòng cho cậu ta ở chung với ngươi chứ”.
El-ahrairah và Giỏ Cua cảm thấy cực kỳ bực bội khi không thể ở chung với nhau trong cái hang của mình. Nhưng một trong những nguyên tắc của El-ahrairah là không bao giờ cho phép ai thấy mình giận dữ, mặt khác ông cũng phần nào thấy thương hại Hufsa, cho rằng cậu ta hẳn sẽ thấy cô đơn và lạc lõng ở một nơi xa lạ. Thế là ông chào hỏi cậu ta và hứa sẽ giúp cậu ta sớm ổn định. Hufsa vô cùng thân thiện và có vẻ sốt sắng chiều lòng mọi người, còn Giỏ Cua thì phải chuyển đến ở đầu kia cánh đồng.
Tuy vậy, một thời gian sau, El-ahrairah bắt đầu phát hiện rằng luôn có một cái gì đó khiến cho các kế hoạch của mình không thành. Một đêm, lúc ấy là vào mùa xuân, khi ông đưa một số thỏ của mình đến một cánh đồng ngô để chén những đọt lá non, họ phát hiện có một người đàn ông mang súng đi lại dưới ánh trăng, và họ đã may mắn thoát khỏi đó mà không gặp rắc rối gì. Một lần khác, sau khi El-ahrairah tìm ra một con đường dẫn đến một vườn bắp cải rồi đào được một cái lỗ dưới chân hàng giậu, thì sáng hôm sau đã thấy lỗ hổng bị chằng kín lại bằng dây thép, ông bắt đầu có ý ngờ vực rằng, có lẽ âm mưu của mình đã bị tiết lộ cho những kẻ đáng nhẽ không được biết.
Một hôm, ông quyết định sẽ cài bẫy Hufsa, thử xem cậu ta có phải là “kẻ tay trong” không. El-ahrairah chỉ cho cậu ta một con đường di tắt qua cánh đồng, bảo rằng con đường này dẫn đến một nông trại cách biệt, bên trong trồng toàn củ cải đỏ và trắng, không quên làm như vô tình tiết lộ rằng bản thân mình và Giỏ Cua cũng muốn đến đó vào sáng hôm sau. Trong thực tế, ông không định làm thế mà cũng chẳng nói cho bất cứ ai khác về con đường cũng như vườn rau kia. Ngày hôm sau, trong lúc thận trọng đi trên con đường này, ông thấy một sợi dây thép gài trong lớp cỏ.
Chuyện này làm cho El-ahrairah nổi trận lôi đình, bởi vì đối với người của ông, điều đó có nghĩa là bị sập bẫy và cái chết. Tất nhiên, ông không cho rằng chính Hufsa đã chăng dây thép hoặc thậm chí biết là bẫy đã được giăng ra. Nhưng rõ ràng nó đã báo tin cho một ai đó, kẻ đó không phải là kẻ đã dụng công sắp đặt cái bẫy này. Cuối cùng El-ahrairah đi đến kết luận chắc chắn rằng Hoàng tử Cầu Vồng đã chuyển tin báo của Hufsa cho người chủ trại hoặc người gác vườn, còn bản thân mình thì không bận tâm đến hậu quả những chuyện đã xảy ra. Cuộc sống của những con thỏ đang trong vòng nguy hiểm vì Hufsa - đó là không kể đến số rau diếp và bắp cải mà họ bị mất. Sau chuyện này, El-ahrairah cố không nói với Hufsa bất cứ chuyện gì. Nhưng xem ra điều này thật khó, bởi vì, như tất cả các bạn đều biết, bọn thỏ chúng ta rất giỏi trong việc giữ bí mật với những loài thú khác, nhưng lại rất kém trong việc giữ bí mật với đồng loại của mình. Cuộc sống trong những cánh đồng thỏ với những cái hang nối kết chằng chịt với nhau không phải là nơi phù hợp với những điều bí mật. El-ahrairah cân nhắc việc giết Hufsa. Nhưng ông biết rằng nếu ông làm vậy, Hoàng tử Cầu Vồng nhất định sẽ tìm đến và rốt cuộc ông chỉ rước thêm nhiều rắc rối vào thân. Ông trở nên bứt rứt khó chịu khi cứ phải giữ bí mật với Hufsa bởi vì ông biết, một khi nó đã nhận ra rằng họ đã phát hiện nó là gián điệp, nó sẽ báo cáo chuyện này với Hoàng tử Cầu Vồng và ông hoàng chắc chắn sẽ đưa nó đi và nghĩ ra những chiêu thức mới còn tồi tệ hơn.
El-ahrairah cứ nghĩ hoài nghĩ mãi. Ông nghĩ đến tận tối ngày hôm sau khi Hoàng tử Cầu Vồng đến thăm cánh đồng thỏ.
“Dường như ngươi đã có những thay đổi lớn trong tính cách El-ahrairah à”, ông hoàng nhận xét. “Không cẩn thận, thiên hạ có thể bắt đầu tin ngươi đấy. Vì có dịp đi qua đây, ta nghĩ mình phải tạt qua để cảm ơn lòng tốt của ngươi về việc quan tâm chăm sóc Hufsa. Ở với ngươi có vẻ cậu ta thấy thoải mái như ở nhà mình vậy”.
“Phải, cậu ta cảm thấy thế, phải không ạ?”, El-ahrairah đáp, “Chúng tôi trở nên tốt đẹp cùng nhau, chúng tôi ở chung một hang cũng rất vui vẻ. Nhưng tôi bao giờ cũng nhắc nhở người của mình rằng, “Đừng đặt niềm tin vào các hoàng tử nếu không…”…
“Này El-ahrairah”, Hoàng tử cắt ngang lời Ei-ahrairah, “ta chắc là mình có thể tin tưởng ngươi. Và để chứng minh lời ta nói không mảy may giả dối, ta quyết định sẽ trồng một vụ cà rốt ở cánh đồng sau ngọn đồi đằng kia. Đất ở đấy rất màu mỡ nên ta chắc cây cối sẽ mọc tốt. Chắc chắn sẽ không kẻ nào dám mơ đến chuyện ăn trộm cà rốt của ta. Thật vậy ngươi có thể đến xem ta trồng, nếu ngươi muốn”.
“Nhất định tôi sẽ đến chứ”, El-ahrairah reo lên, “điều này chắc chắn sẽ thú vị lắm đây!”.
Thế là El-ahrairah, Giỏ Cua, Hufsa và một vài thỏ khác theo Hoàng tử Cầu Vồng đến cánh đồng phía sau quả đồi. Họ giúp ông hoàng gieo hạt cà rốt xuống những luống đất dài. Đất ở đây thuộc loại nhẹ và khô - đúng loại đất thích hợp với cà rốt; nhưng toàn bộ công việc này khiến El-ahrairah tức điên lên bởi vì ông biết chắc rằng hoàng tử làm thế chỉ để bỡn cợt mình và để chứng tỏ rằng ông chắc mẩm là cuối cùng mình đã cắt được móng của El-ahrairah.
“Mùa màng chắc chắn sẽ bội thu”, ông hoàng cất tiếng khi mọi việc đã được hoàn tất. “Dĩ nhiên ta chắc là không một kẻ nào dám mơ đến chuyện trộm cà rốt của ta. Nhưng nếu có kẻ nào táo gan - nếu có kẻ nào dám ăn trộm, thì El-ahrairah ạ, cơn giận của ta sẽ khó mà lường được đấy. Cả đến vua Darzin mà dám lấy trộm, ấy là ta giả dụ thế, thì ta dám chắc rằng Chúa tể Thần Mặt trời sẽ thu lại vương quốc của ông ta mà ban cho người khác”.
Nghe thế El-ahrairah hiểu, Hoàng tử Cầu Vồng có ý nhắc rằng nếu ông bắt quả tang El-ahrairah ăn trộm cà rốt thì Hoàng tử sẽ giết chết hoặc đày ông đi biệt xứ và đưa một thỏ khác lên làm thủ lĩnh, và ý nghĩ rằng tay thỏ ấy chắc chắn không phải ai khác ngoài Hufsa khiến ông điên ruột đến mức hai hàm răng bất giác nghiến trèo trẹo. Tuy vậy ngoài mặt ông vẫn giả bộ, “Vâng ạ, tất nhiên, phải thế chứ ắt là thế chứ”.
Sau đó Hoàng tử bỏ đi.
Một đêm vào tuần trăng thứ hai sau ngày gieo trồng cà rốt, El-ahrairah cùng Giỏ Cua đi thăm cánh đồng. Không có người tỉa bớt lá nên những chiếc lá trổ ra dày dặn, xanh mướt. El-ahrairah ước đoán rằng đa số củ cà rốt sẽ nhỏ hơn bàn chân trước của mình một chút. Trong lúc ông đang ngắm nghía những gốc cà rốt dưới ánh trăng thì một kế hoạch chợt nảy ra trong đầu. Từ lâu ông đã cảnh giác hơn với Hufsa - trong thực tế không một ai biết hành tung của Hufsa - và trên đường quay về nhà ông cùng Giỏ Cua đã đào một cái hố ở một bờ ruộng khuất nẻo rồi cả hai chui xuống bàn tính. Tại đây, El-ahrairah hứa với Giỏ Cua rằng không những mình sẽ ăn trộm cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng mà họ sẽ cùng nhau “chơi” cho Hufsa một vố nhớ đời. Cả hai nhảy lên khỏi hố, Giỏ Cua đi đến nông trại ăn cắp một ít hạt ngô, El-ahrairah thì dành cả đêm hôm ấy bắt ốc sên, đó quả là một công việc kinh tởm.
Tối hôm sau, El-ahrairah ra ngoài từ sớm và trong khi đi như vậy được một lúc ông gặp nhím Yona đang thơ thẩn đi dọc hàng rào.
“Này Yona”, ông gọi, “anh bạn có thích cả lô những con ốc sên béo ú ngon lành này không?”
“Có chứ, tôi thích lắm, El-ahrairah à”, Yona đáp, “nhưng chẳng dễ mà bắt được chúng đâu. Anh sẽ biết rõ điều đó nếu anh là nhím như tôi”.
“Này, những con này ngon lắm đấy”, El-ahrairah dụ dỗ, “và anh có thể có tất tật. Nhưng tôi còn có thể cho anh nhiều hơn nữa nếu anh làm những gì tôi bảo mà không thắc mắc gì hết. Anh có biết hát không?”.
“Hát ư? Làm quái gì có chú nhím nào hát được cơ chứ?”
“Đúng”, El-ahrairah gật gù, “đúng lắm. Nhưng anh cần phải cố gắng nếu muốn có những con ốc sên này. À, phải rồi. Đây là một cái hộp rỗng cũ mèm tôi nhặt được, người nông dân đã đánh rơi trong cái rãnh kia. Tốt hơn, tốt hơn rồi đây. Nào bây giờ anh sẽ nghe tôi nhé”.
Trong lúc đó, ở trong rừng Giỏ Cua đang nói chuyện với chú gà lôi Hawock.
“Ô này anh bạn Hawock, anh có bơi được không?”
“Tớ chẳng bao giờ đi gần nước nếu có thể tránh được, anh bạn Giỏ cua ạ”, Hawock nói, “Tớ không thích nước lắm. Nhưng dù vậy tớ vẫn cho rằng nếu buộc phải làm vậy, tớ vẫn có thể xoay xở để nổi trên mặt nước một lúc”.
“Tuyệt lắm. Nào đến đây đi. Xem này tôi có khối ngô - anh cũng biết cái của này hiếm như thế nào vào mùa này - và anh sẽ có tất cả chỗ ngô này, chỉ với mỗi một điều kiện nhỏ, anh hãy bơi một chút trong cái hồ ở bìa rừng đằng kia. Hãy nghe tôi giải thích trong khi chúng ta đi đến đó nhé”. Vừa nói, họ vừa băng qua khu rừng.
Đêm đến, El-ahrairah bước vào hang mình thì thấy Hufsa đang nhá thức ăn. “À Hufsa, cậu đây rồi”, ông vui vẻ hỏi, “Tốt lắm, tôi chẳng dám tin một ai khác đâu. Chỉ giữa tôi và cậu thôi nhé, không một ai khác được biết đâu đấy”.
“Sao, có chuyện gì đấy, ông El-ahrairah?”, Hufsa sốt sắng hỏi.
“Chả là tôi đang nhòm ngó những củ cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng và không thể nhịn lâu hơn nữa. Đó là những củ ngon nhất tôi từng thấy trên đời. Tôi quyết định sẽ ăn trộm tất cả - hoặc gần như tất cả. Tất nhiên, nếu tôi đem theo nhiều thỏ trong cuộc chinh phạt kiểu này thì chúng ta sẽ sớm gặp rắc rối. Mọi việc sẽ vỡ lở, sớm muộn gì cũng sẽ đến tai Hoàng tử. Nếu chỉ có hai ta “đánh quả” này thì thần không biết quỷ không hay đâu”.
“Được tôi sẽ đi”, Hufsa nói, “Nhưng hãy để đến tối mai”. Bởi vì nó mẩm tính như vậy nó sẽ có thời gian mật báo cho Hoàng tử Cầu Vồng.
“Không”, El-ahrairah nói, giọng chắc nịch. “Tôi sẽ đi bây giờ. Ngay bây giờ”.
Ông tự hỏi không biết Hufsa có cố chống lại ý định này không, nhưng khi nhìn lại nó thì ông hiểu ngay là Hufsa đã chắc đến chín phần rằng đây sẽ là ngày tận thế của El-ahrairah và cái ngày nó sẽ được lên làm chúa tể đã đến rất gần.
Cả hai cùng ra cánh đồng tràn ngập ánh trăng. Mới đi được một đoạn dọc theo hàng rào thì chúng thấy một cái hộp cũ nằm trong hào. Ngồi nghễu nghện trên cái hộp là nhím Yona. Những cái lông cứng của nó dính đầy cánh hoa tầm xuân, trong khi nó cố sức phát ra những tiếng rừ rừ the thé trong cổ nghe rất kỳ cục và vẫy loạn cái chân sau đen sì lên. Cả hai dừng lại nhìn nó.
“Anh đang làm cái trò gì vậy”, Hufsa kinh ngạc hỏi.
“Hát với vầng trăng ấy mà”, Yona , “Tất cả loài nhím đều hát với trăng để gọi bọn ốc sên đến. Chắc là anh biết điều này chứ?
Ối la la, ốc sên và trăng, ốc sên và trăng
Đảm bảo cho lợi ích của loài nhím trung thành”.
“Khiếp cái giọng đến là kinh khủng!”, El-ahrairah bình luận, quả thực giọng hát nghe ghê thật, “Đi mau thôi trước khi hắn kêu gọi tất cả kẻ thù đến vây quanh chúng ta”.
Thế là họ lại tiếp.
Một lúc sau, họ đến gần một cái hồ ở bìa rừng. Khi đến gần hơn, họ nghe thấy tiếng kêu quàng quạc và tiếng quạt nước, rồi trông thấy chú gà lôi Hawock đang chạy loạn xạ trên mặt nước, cái đuôi dài nổi lên trên mặt hồ phía sau nó.
“Chuyện quái quỷ gì xảy ra thế này?”, Hufsa kêu lên, “Hawock, anh bị bắn à?”
“Không, làm gì có chuyện đó”, Hawock đáp, “Tôi bao giờ cũng bơi vào những đêm trăng tròn. Nó làm cho cái đuôi của tôi dài thêm ra; với lại cái đầu tôi không thể có mãi màu đỏ, trắng và xanh lá cây nếu không bơi. Nhưng chắc anh phải rõ điều này chứ? Ai cũng biết như vậy mà”.
“Sự thật là”, El-ahrairah ghé tai Hufsa thì thầm, “hắn ta không thích bị ai bắt gặp trong cảnh này đâu. Nào ta đi thôi”.
Đi tiếp thêm một đoạn nữa, họ đến một cái giếng cũ gần một cây sồi đại cổ thụ. Người nông dân đã lấp giếng từ lâu nhưng miệng nó trông vẫn sâu và đen ngòm dưới ánh trăng.
“Nghỉ chân một lát chứ hả?”, El-ahrairah hỏi, “Chỉ một chút thôi”.
Trong khi ông nói, một con vật có vẻ ngoài kỳ cục nhất trên đời ló ra khỏi bãi cỏ. Nó trông giống một con thỏ nhưng thậm chí dưới ánh trăng cũng có thể thấy nó có một cái đuôi màu đỏ và đôi tai dài màu xanh lá cây. Miệng nó ngậm đầu mẩu của cái que trăng trắng mà con người vẫn đốt ở miệng. Đó chính là Giỏ Cua nhưng đến Hufsa cũng không thể nhận ra nó là ai. Giỏ Cua đã tìm được loại bột dùng làm thuốc tắm cho cừu ở nông trại và đã ngồi vào trong đó để nhuộm cho cái đuôi có màu đỏ. Hai tai thì chú kết lên những tràng hoa nhăng và chiếc que trắng làm cho chú phát ốm lên.
“Xin Thần Mặt trời cứu giúp chúng con!”, El-ahrairah kêu lên, “Cái gì thế này? Hãy hy vọng rằng đây không phải là kẻ thù trong đội quân một ngàn!”. Ông nhảy lên, trong tư thế sẵn sàng bỏ chạy. “Ngươi là ai vậy?”, ông hỏi, toàn thân run bắn lên.
Giỏ Cua búng búng vào cái que trắng.
“Thế là”, Giỏ Cua nói giọng oai vệ, “thế là ngươi đã thấy ta, El-ahrairah ạ! Bao nhiêu con thỏ sống cả đời rồi chết, hỏi có mấy con được gặp ta. Ít lắm hoặc chẳng có rnột mống! Ta là một trong những thỏ truyền tin của Chúa tể Mặt trời đây, người bí mật dạo quanh trái đất vào ban ngày còn ban đêm thì trở về lâu đài vàng của mình! Ngài thậm chí vào lúc này đang ngồi đợi ta ở đầu kia thế giới và ta phải mau mau đến gặp ngài, xuyên qua tâm trái đất. Vĩnh biệt nhé, El-ahrairah!”.
Chú thỏ kỳ lạ nhảy qua thành giếng và biến mất trong bóng đen dưới đáy giếng.
“Chúng ta đã thấy cái lẽ ra không được thấy!”, El-ahrairah nói giọng kinh hoàng, “Nơi này mới đáng sợ làm sao! Nào ta đi mau lên”.
Họ rảo bước nhanh hơn và chẳng bao lâu sau đã đến cánh đồng cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng. Họ ăn cắp bao nhiêu cà rốt thì tôi không biết, nhưng tất nhiên như mọi người đã rõ, El-ahrairah là một ông hoàng vĩ đại và chẳng cần thắc mắc làm gì, ông sử dụng những quyền lực mà tôi và các bạn không ai biết được. Nhưng ông nội tôi thì bao giơ cũng nói rằng, cho đến sáng thì cả cánh đồng đã trơ trụi chẳng còn một cây cà rốt nào. Tất cả chỗ cà rốt được giấu dưới một cái hang sâu trên cồn đất bên cạnh khu rừng. Xong xuôi, El-ahrairah và Hufsa về nhà. El- ahrairah tập hợp hai, ba người thân tín và ở lì dưới hang với họ suốt ngày, chỉ có Hufsa kiếm cớ đi ra ngoài vào buổi chiều mà không cho ai biết mình đi đâu.
Tối hôm ấy, khi El-ahrairah và người của mình bắt đầu ăn cỏ dưới bầu trời đỏ rực ánh hồi quang thì Hoàng tử Cầu Vồng đi đến cánh đồng thỏ. Sau lưng ông có hai con chó đen cao to lừng lững.
“El-ahrairah”, ông hoàng tuyên bố, “ngươi đã bị bắt”.
“Vì lẽ gì ạ?”, El-ahrairah hỏi lại.
“Ngươi biết điều đó rõ hơn ai hết. Đừng bắt ta phải chịu đựng thêm những trò lừa đảo và láo xược của ngươi nữa. Chỗ cà rốt đấy đâu rồi?”.
“Nhưng nếu tôi bị bắt thì ít nhất tôi cũng phải được bảo cho biết là mình mắc tội gì chứ?”,  El-ahrairah cãi lý, “Thật không công bằng khi tuyên bố tôi bị bắt rồi lại đặt câu hỏi ngược lại cho tôi”.
“Đi thôi, đi thôil El-ahrairah”, Hoàng tử dằn giọng, “đừng làm mất thời gian nữa. Nói cho ta biết cà rốt giấu ở đâu thì ta sẽ chỉ đày ngươi đến miền Bắc mà không lấy mạng ngươi”.
“Thưa Hoàng tử cầu Vồng”, El-ahrairah nhấn mạnh, “đây là lần thứ ba tôi mong ngài có thể cho tôi biết mình bị bắt vì lý do gì không?”.
“Được thôi, nếu đây là cách mà ngươi muốn chết thì El-ahrairah ạ, vụ này sẽ được xử theo đúng luật. Ngươi bị bắt vì tội danh ăn trộm cà rốt của ta. Ngươi đang nghiêm túc yêu cầu một phiên tòa xét xử đấy à? Ta cảnh cáo cho ngươi biết, ta có những bằng chứng buộc tội trực tiếp và nếu ra tòa thì chỉ bất lợi với ngươi thôi”.
Vào lúc ấy người của El-ahrairah đã xúm đông xúm đỏ chung quanh, không đến mức gần quá vì họ còn kiêng dè những con chó. Chỉ có Giỏ Cua là không thấy tăm hơi đâu cả. Ông đã bỏ cả một ngày để chuyển cà rốt sang một cái hang bí mật khác và bây giờ đang ẩn mình ở nơi nào đó vì đã không thể làm cho cái đuôi trở lại màu trắng như cũ.
“Đúng vậy, tôi yêu cầu có một phiên tòa”, El-ahrairah trịnh trọng nói, “và tôi muốn phiên xử được phán xét bởi một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật. Bởi vì sẽ là không công bằng, thưa Hoàng tử Cầu Vồng, khi ngài vừa buộc tội tôi lại vừa phán xét tôi”.
“Sẽ có một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật như ngươi muốn”, Hoàng tử cả cười, “Một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật là kẻ thù của ngươi. Bởi một bồi thẩm đoàn toàn là thỏ thì sẽ từ chối kết tội ngươi, bất chấp bằng chứng được đưa ra”.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, El-ahrairah lập tức đáp rằng ông bằng lòng với một bồi thẩm đoàn gồm những loài vật đối đầu với thỏ và ông hoàng đáp lại rằng mình sẽ triệu tập những loài vật đó đến ngay trong đêm ấy. El-ahrairah được giải về hang của mình, hai con chó dữ đứng ngoài canh gác. Mặc dù nhiều chú thỏ đã cố gắng thử nhưng không một người nào của El-ahrairah được phép vào thăm ông.
Tin tức lan nhanh trong khu vực chung quanh những hàng rào, cánh đồng và những khu rừng lân cận rằng El-ahrairah sẽ đứng trước một phiên tòa quyết định sự sống của mình và rằng Hoàng tử Cầu Vồng sẽ đưa ông đến trước một bồi thẩm đoàn gồm toàn những kẻ thù. Muông thú khắp nơi kéo đến làm vùng này chật như nêm. Khi trăng mọc, Hoàng tử trở lại cùng với một bầy thú toàn kẻ thù của loài thỏ, gồm hai con lửng, hai con cáo, hai con chồn, một con cú và một con mèo. El-ahrairah được áp giải ra ngoài với hai con chó kè kè hai bên. Kẻ thù ngồi trước mặt ông, mắt chúng tóe lửa dưới ánh trăng trông như những đốm than hồng. Chúng liếm môi liếm mép thèm thuồng, hai con chó thì thì thào thào rằng chúng được hứa hẹn sẽ nhận lãnh nhiệm vụ thi hành bản án. Tham dự phiên tòa có nhiều loài vật khác, trong đó có rất nhiều thỏ, con nào con nấy đều tin chắc phen này El-ahrairah đã đến ngày tận số.
“Bây giờ”, Hoàng tử Cầu Vồng tuyên bố, “hãy bắt đầu phiên tòa.Chắc không kéo dài lâu đâu. Hufsa đâu rồi?”.
Hufsa bước lên phía trước, cúi chào và dập đầu mấy cái trước Hoàng tử rồi kể cho những kẻ thù trong bồi thẩm đoàn rằng đêm hôm trước El-ahrairah trở về hang khi nó đang lặng lẽ nhá thức ăn và đã dọa dẫm buộc nó phải đi cùng mình ăn trộm cà rốt của Hoàng tử Cầu Vồng. Nó những muốn từ chối, nhưng không thể, chỉ vì nó quá sợ. Cà rốt bây giờ đang được giấu trong một cái hang mà nó có thể chỉ cho mọi người thấy. Nó buộc phải làm những việc xấu xa này, nhưng ngay hôm sau nó đã chạy nhanh hết mức có thể để đến tâu lại với Hoàng tử Cầu Vống, bởi vì nó bao giờ cũng là một kẻ tôi tớ trung thành của Người.
“Chúng ta sẽ thu hồi cà rốt lại sau”,  Hoàng tử phán. “Còn bây giờ El-ahrairah, ngươi có bất cứ bằng chứng ngoại phạm nào đưa ra không hoặc có bất cứ điều gì muốn nói không? Hãy nhanh nhanh lên”.
“Tôi chỉ muốn hỏi nhân chứng một vài câu”, El-ahrairah từ tốn trả lời và bồi thẩm đoàn nhất trí rằng đó là một đòi hỏi chính đáng.
“Nào Hufsa”, El-ahrairah bắt đầu, “mọi người có thể nghe thêm chút ít về cái cuộc hành trình đi ăn trộm mà tôi và anh bị nghi ngờ là đã thực hiện không? Bởi vì tôi thực sự không nhớ một điều gì hết. Anh nói chúng ta ra khỏi hang rồi bắt đầu đi trong đêm tối. Sau đó chuyện gì đã xảy ra?”.
“Chuyện gì à, El-ahrairah?”, Hufsa phẫn nộ kêu lên “Sao ông có thể quên được kia chứ? Chúng ta đi dọc theo hào và ông không nhớ là chúng ta đã thấy một con nhím ngồi trên cái hộp ca một bài với vầng trăng à?”.
Một con nhím đang làm gì?”, một trong hai con lửng sửng sốt kêu lên.
“Hát một bài với mặt trăng”, Hufsa hấp tấp nói. “Mọi người đều biết rằng chúng làm thế để gọi ốc sên đến. Nó cắm những cánh hồng lên bộ lông nhọn và vẫy vẫy chân sau và…”.
“Bình tĩnh nào, cứ từ từ thôi”, El-ahrairah nói, giọng nhũn nhặn, “Tôi không muốn anh nói những điều mà thực ra anh không có ý nói thế”, El-ahrairah quay sang nói với bồi thẩm đoàn, “Anh bạn đáng thương này thực sự tin vào những điều anh ta nói. Anh ta chẳng có ý gì, nhưng mà…”
“Nhưng đúng là nhím đã làm thế thật”, Hufsa hét to, “Nó hát, Ôi ốc sên-mặt-trăng, ôi ốc-sên- mặt-trăng! Để đảm bảo…”
“Điều mà con nhím hát không thể là bằng chứng buộc tội”, El-ahrairah nói, “Thực ra, vấn đề này cũng cần xem xét lại. Thôi được rồi! Chúng ta trông thấy một con nhím mình phủ đầy cánh hoa hồng, ngồi trên một cái hộp hát hò gì đó. Vậy chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Ừm”, Hufsa tiếp, “sau đó chúng ta đi đến một hồ nước và trông thấy một con gà lôi”.
“Gà lôi à?”, Một con cáo cất tiếng hỏi lại, “Chà chà, ước gì tôi có thể gặp nó. Thế nó đang làm gì?
“Nó đang bơi vòng vòng trên mặt nước…”, Hufsa khẳng định.
“Nó bị thương hả?”, Cáo hỏi.
“Ồ không, không”, nhân chứng đáp, “Tất cả bọn chúng đều làm thế để cho đuôi mọc dài hơn ấy mà. Tôi thật ngạc nhiên khi anh không biết điều đơn giản ấy”.
“Để làm cái gì?”, Cáo hỏi gặng.
“Để làm cho đuôi mọc dài hơn”, Hufsa sưng sỉa nói, “Chính nó đã nói như thế mà”.
“Các ngài mới chỉ phải chịu đựng tên quái quỷ này trong một thời gian rất ngắn”, El-ahrairah nói với những kẻ thù của mình ngồi trong bồi thẩm đoàn, “Cần phải mất chút thời gian mới quen được với điều này. Hãy nhìn tôi đi! Tôi buộc phải sống với hắn, ngày cũng như đêm trong suốt hai tháng qua. Tôi vốn là người tử tế, biết điều nên đã nhẫn nại chịu đựng hắn trong khả năng của mình, nhưng rõ ràng điều này chỉ có hại cho tôi thôi”.
Bốn phía chung quanh trở nên im lặng. Với vẻ kiên nhẫn đầy cha chú, El-ahrairah quay sang nhân chứng.
“Trí nhớ của tôi tồi tệ quá, xin anh cứ tiếp tục”.
“Được thôi, El-ahrairah ạ”, Hufsa nói, “ông giả vờ giỏi lắm, nhưng mà ông cũng không thể nói là mình quên những gì xảy ra tiếp theo. Một con thỏ to lớn, nhìn đến khiếp với cái đuôi màu đỏ và đôi tai màu xanh từ trong bãi cỏ nhảy ra. Nó ngậm một cái que trắng trong mồm, rồi thoắt một cái nhảy vào một cái hố sâu, sau khi bảo với chúng ta rằng nó phải xuyên qua tâm trái đất để đi gặp Chúa tể Mặt trời ở đầu đằng kia”.
Đến đây thì không một con vật nào trong bồi thẩm đoàn nói một lời nào nữa. Chúng chằm chằm nhìn vào Hufsa vào chầm chậm lắc đầu.
“Anh biết không, tất cả bọn chúng điên hết rồi”, một con chồn thì thầm, “Đúng là một 1ũ bé nhỏ xấu xa. Chúng có thể nói bất cứ chuyện ba láp nào khi bị dồn vào chân tường. Nhưng đây là câu chuyện tồi tệ nhất tôi từng nghe đấy. Chúng ta còn kẹt ở đây bao lâu nữa đây? Tôi đói quá rồi”.
Thực ra El-ahrairah đã biết từ trước rằng, tuy kẻ thù ghét cay ghét đắng loài thỏ, nhưng chúng ghét nhất vẫn là những kẻ rõ là một tên đại ngốc mà cứ vênh váo tưởng mình ôm hết trí khôn của thiên hạ. Đó là lý do tại sao ông đồng ý có một bồi thẩm đoàn gồm toàn những con vật là kẻ thù của mình. Nếu thỏ ngồi trong bồi thẩm đoàn, chúng sẽ cố tìm hiểu câu chuyện của Hufsa cho đến ngọn ngành, song kẻ thù của thỏ thì không làm vậy, chúng căm ghét và coi thường nhân chứng nên chỉ muốn được đi săn mồi ngay khi có thể.
“Như vậy, mọi việc có thể được hiểu như thế này”, El-ahrairah lên tiếng, “Tôi và anh, chúng ta gặp một con nhím người đính đầy hoa hồng đang hát một bài, sau đó chúng ta trông thấy một con gà lôi hoàn toàn khỏe mạnh đang bơi vòng vòng trên mặt hồ, rồi chúng ta lại gặp một gã thỏ có cái đuôi đỏ, đôi tai xanh lá cây ngậm một cái que màu trắng, rồi hắn nhảy xuống một cái giếng sâu. Tôi nói như vậy có đúng ý anh không?”.
“Đúng vậy”, Hufsa mạnh mẽ khẳng định.
“Và rồi chúng ta đi ăn trộm cà rốt?”.
“Phải”.
“Có phải chúng màu tía có những cái đốm xanh lá cây không?”
“Cái gì tía có đốm xanh lá cây?”
“Cà rốt ấy”.
“Ông biết quá rồi còn gì, không phải như thế El-ahrairah ạ. Chúng có màu bình thường mà. Bây giờ tất cả đang được giấu trong hang!”, chợt Hufsa hét lên một cách tuyệt vọng, “Ở dưới hang ý, xuống đấy mà xem”.
Phiên tòa ngừng lại trong khi Hufsa dẫn Hoàng tử Cầu Vồng xuống hang, họ không tìm thấy cà rốt và quay lại phiên tòa.
“Tôi đã ở dưới hang suốt cả ngày”, El-ahrairah nói, “và tôi có thể chứng minh điều đó. Đáng lý tôi có thể ngủ được, nhưng thật khó mà nhắm mắt được khi ta biết rõ về người ở cùng hang với mình, nhưng mà thôi... Tôi chỉ muốn nói rằng, rõ ràng tôi không có dịp ra ngoài đặng chuyển cà rốt đi chỗ khác hoặc làm bất cứ chuyện gì. Ấy là nếu như có chỗ cà rốt nào đó”, ông nói thêm. “Nhưng giờ thì tôi chẳng có gì để nói nữa”.
“Thưa Hoàng tử Cầu Vồng”, con mèo lên tiếng, “bản thân tôi căm ghét loài thỏ. Nhưng tôi không nghĩ chúng ta có thể tuyên bố rằng có bằng chứng kết luận con thỏ kia đã lấy trộm cà rốt của ngài. Nhân chứng rõ ràng bị loạn trí - cũng điên dại như tuyết và sương rnù vậy - và như thế có thể tuyên bố bị cáo vô tội và trả tự do cho bị cáo”.
Tất cả đều đồng ý với phán quyết của mèo.
“Tốt nhất ngươi hãy biến mau khỏi mắt ta”, ông hoàng dằn giọng nói với El-ahrairah, “Biến xuống hang của ngươi đi, trước khi ta phải động chân động tay với ngươi”.
“Tôi sẽ làm như ngài muốn”, El-ahrairah nói, “Nhưng tôi có thể yêu cầu ngài mang tên thỏ kia ra khỏi chỗ chúng tôi không, bởi vì nó làm phiền chúng tôi ghê gớm bằng sự ngu ngốc và điên dại của mình?”
Thế là Hufsa phải ra đi cùng với Hoàng tử Cầu Vồng và người của El-ahrairah được sống trong yên bình, trừ việc họ rnắc phải chứng khó tiêu vì ăn quá nhiều cà rốt. Nhưng phải mất rất lâu cái đuôi của Giỏ Cua mới có lại cái màu trắng tự nhiên, ông nội tôi bao giờ cũng kết luận như vậy.

Chương 23. Mòng Biển Kehaar


Đôi cánh kéo lê như ngọn cờ thất trận,
Mãi mãi không còn dùng với bầu trời, đành phải sống
Cùng cái đói và nỗi đau trong ít ngày thôi.
Chàng mạnh mẽ, và nỗi đau lại càng đau đối với người mạnh mẽ
bất lực lại càng đau.
Không ai khác ngoài cái chết - Đấng cứu thế có thể khiến mái đầu kia,
Sự sẵn sàng can đảm ấy, đôi mắt đáng sợ này phải cúi gằm.
(Diều hâu bị thương của Robinson Jeffers)
*
Con người thường nói, “Họa vô đơn chí”. Có vẻ câu này không mấy thích hợp, vì nhiều khi một tai họa duy nhất là đã đủ. Loài thỏ có rnột thành ngữ hay hơn. Chúng nói, “Chỉ một đám mây thì sẽ lẻ loi”. Đúng thế thật, sự xuất hiện của một đám mây đơn lẻ thường có nghĩa là chẳng mấy chốc những đám mây khác sẽ kéo về giăng kín bầu trời. Dù sao thì, ngày hôm sau đã tạo ra một cơ hội thứ hai đầy kịch tính để áp dụng ý tưởng của Cây Phỉ vào thực tế.
Vào lúc tờ mờ sáng, bọn thỏ đã lục tục lên mặt đất kiếm ăn, chúng chạy lên bãi cỏ trong cái tĩnh lặng trong lành và xam xám lúc sớm mai. Không khí vẫn còn vương hơi lạnh. Lung linh khắp nơi là những giọt sương sớm và tuyệt không có gió. Năm hoặc sáu con vịt trời bay trên đầu trong đội hình chữ V chuyển động lẹ làng, nhắm đến đích xa xôi nào đó. Tiếng đập cánh vọng xuống bên dưới nghe rất rõ, rồi nhỏ dần khi chúng khuất dần về phương Nam. Cái tĩnh lặng cố hữu của núi đồi quay trở lại ngự trị. Cùng với sự tan chảy những tia sáng mờ mờ cuối cùng buổi bình minh, bầu không khí nơi đây bắt đầu có một cái gì như sự chờ đợi căng thẳng, tựa hồ tuyết sắp tan sẽ trượt xuống từ cái mái dốc thoai thoải. Sau đó cả rặng núi cùng những vùng đất bên dưới, đất đai và không khí, đều nhường chỗ cho ánh mặt trời. Khi một con bò đực với những cử động nhẹ nhàng nhưng bồn chồn hất đầu khỏi bàn tay ghì chặt của một người đàn ông đang ngả người vào chuồng bò, biếng nhác giữ cái sừng của nó thì cũng là lúc mặt trời bước vào thế giới với nguồn năng lượng khổng lồ và êm ái. Không có gì cắt ngang hoặc cản được đường đi của nó. Không một âm thanh, những chiếc lá sáng lên, những cọng cỏ lấp lánh hàng dặm dài trên lối đi.
Bên ngoài khu rừng, Tóc Giả và Xám Bạc đang chải chải tai, hếch mũi lên trời ngửi ngửi, rồi nhảy đi, đuổi theo những cái bóng dài của chúng tới bãi cỏ vừa mới cắt. Khi chúng nhảy đến một vạt cỏ ngắn - nhấm nhá một chút, ngồi xuống, rồi nhìn quanh - chúng đến một cái hố nhỏ bề ngang chưa đến một mét. Trước khi nhảy qua bờ bên kia, Tóc Giả - đi trước Xám Bạc - khựng lại, nằm ẹp xuống đất, trố mắt nhìn. Mặc dù không thể nhìn rõ vào trong hố, chú biết có một con vật gì trong đấy - một con vật to lớn nữa là khác. Ghé mắt nhìn qua những kẽ lá cỏ lòa xòa trên miệng hố, chú có thể nhìn thấy đường cong cong của một cái lưng trăng trắng. Bất kể đó là con gì thì nó cũng to gần bằng Tóc Giả. Chú chờ đợi, dáng im phăng phắc một lúc, nhưng con vật kia vẫn không có cử động gì.
- Con gì có cái lưng trắng hả Xám Bạc? - Tóc Giả thì thầm hỏi.
Xám Bạc suy nghĩ một lát.
- Một con mèo chăng?
- Làm gì có mèo ở đây?
- Làm sao anh biết không có mèo?
Đúng lúc ấy, cả hai nghe thấy tiếng thở phì phì, nặng nề từ trong hố. Nó chỉ kéo dài vài giây, rồi im lặng lại trùm lên một lần nữa.
Cả Tóc Giả và Xám Bạc đều có ý thức về giá trị của mình. Ngoài Nhựa Ruồi, chúng là những kẻ trong hàng ngũ Cốt Cán ở Sandleford duy nhất còn sống sót và chúng biết đồng đội rất kính nể chúng. Cuộc chiến đấu với bọn chuột ở nông trại nọ nào phải trò đùa, nó đã chứng minh được giá trị của chúng. Tóc Giả, một chàng thỏ rộng lượng và trung hậu, chưa một giây nào bực bội với sự can đảm của Cây Phỉ vào cái đêm mà nỗi sợ hãi đầy mê tín đã chiếm lĩnh cậu ta. Nhưng cái ý nghĩ quay trở về Tổ Ong, báo cáo lại rằng chú thoáng thấy một sinh vật lạ trong hố cỏ và để nó lại một mình là một cái gì thật khó nuốt trôi. Chú quay đầu lại nhìn Xám Bạc. Thấy rằng đây là ván bài của mình, chú nhìn cái lưng trắng lạ lùng kia một lần cuối rồi nhảy sang bên kia hố. Xám Bạc chạy theo sau.
Đó không phải một con mèo. Con vật trong hố là một con chim - một con chim lớn, dài gần bốn tấc. Cả Tóc Giả và Xám Bạc đều chưa từng thấy con chim nào như thế. Cái phần trắng trên lưng nó mà chúng thoáng nhìn qua kẽ lá thực ra chỉ là vai và cổ. Phần thấp hơn có màu xám nhạt, đôi cánh cũng thế, hai cánh đang xếp gọn quanh thân, dài đến tận đuôi với đường diềm đen nhánh. Đầu nó màu nâu sẫm - gần như là màu đen - tương phản với cái ức trắng nõn làm cho nó trông như thể đang mặc yếm. Dưới cái cẳng chân đỏ bầm, hai chú thỏ thấy một cái chân có màng xòe ra ba cái vuốt sắc cứng cỏi. Cái mỏ khỏe và nhọn hơi khoằm xuống dưới. Trong lúc chúng quan sát, cái mỏ há ra để lộ cái lưỡi và cuống họng màu đỏ. Con chim phát ra tiếng xì xì dữ dội và cố bước đi nhưng vẫn không nhúc nhích được.
- Nó bị thương. - Tóc Giả nói.
- Ừ, có thể nói như thế. - Xám Bạc đáp. - Nhưng nó bị thương ở đâu mà sao tôi không thấy. Để tôi đi một vòng xem sao…
- Cẩn thận đấy. - Tóc Giả nhắc nhở bạn. - Nó có thể xơi cậu đấy.
Trong lúc đi chuyển quanh cái hố, Xám Bạc đến gần đầu con chim hơn. Chú nhảy giật ra phía sau vừa kịp để tránh một cú bổ rất nhanh của cái mỏ cứng.
- Cú ấy có thể làm cậu gãy chân đấy.
Trong lúc hai chú thỏ nằm bẹp xuống đất quan sát con chim - vì cả hai đều có cảm giác con vật không cất mình lên được - thì con chim bất thình lình bật ra những tiếng kêu khàn khàn rất lớn, “Quác! Quác! Quác!” với một âm thanh to kinh khủng ở khoảng cách gần như thế, xé tan bầu không khí yên lành buổi sáng mà vang xa khắp vùng đồi. Tóc Giả và Xám Bạc cuống cuồng quay đầu bỏ chạy.
Chúng kịp trấn tĩnh lại khi chỉ còn một đoạn ngắn nữa là tới rừng sồi và chấn chỉnh lại bộ dạng cho thích hợp khi tiến về lũy đất.
Cây Phỉ chạy ngay ra bãi cỏ gặp bạn. Không thể nhầm lẫn vào đâu được với đôi mắt mở to và những chiếc mũi nở ra kia.
- Kẻ thù à? - Cây phỉ hỏi.
- Ừm, giá mà tôi biết được để nói với anh sự thật. - Tóc Giả trả lời
- Có một con chim cực to đằng kia, nó chẳng có gì giống những gì tôi từng thấy.
- To thế nào? Bằng con gà lôi không?
- Không đến nỗi to như thế, - Tóc Giả thừa nhận, - nhưng lớn hơn con chim câu xanh, và nom hung tợn hơn nhiều.
- Tiếng nó kêu đấy à?
- Ừ. Nó làm cả hai chúng tôi giật cả mình. Chúng tôi đã bò gần đến nó rồi đấy chứ. Nhưng vì một lý do nào đã nó không thể nhúc nhích được.
- Nó đang hấp hối à?
- Tôi không nghĩ thế.
- Để tôi đi xem sao.- Cây Phỉ nói.
- Này, nó dữ 1ắm đấy. Vì Chúa, cậu hãy cẩn thận đấy.
Tóc Giả và Xám Bạc quay lại cùng Cây Phỉ. Cả ba thận trọng nằm xuống một chỗ mà con chim không thể vươn tới được trong khi nó đưa cặp mắt dữ dằn và tuyệt vọng nhìn hết chú thỏ này đến chú thỏ khác.
Cây Phỉ dùng đến ngôn ngữ chung của vùng hàng rào.
- Anh bị thương à? Không bay được à?
Câu trả lời là âm thanh quác quác lặp bặp rất chối tai, làm cho đối phương lập tức có cảm giác rất kỳ cục. Bất kể con chim này đến từ xứ nào thì hẳn xứ ấy phải ở rất xa. Đó là những âm thanh méo mó, xa lạ, vang lên từ yết hầu. Chúng chỉ có thể nghe tiếng được tiếng mất.
- Đến diết!... quạc quạc… á… đến diết hả… tưởng ta chết hả… bọn các người! - Cái đầu nâu sẫm giật từ bên này sang bên kia. Rồi, thật bất ngờ, con chim bổ cái mỏ xuống đất. Lần đầu tiên bọn thỏ nhận thấy bãi cỏ trước mặt nó bị xéo nát và vạch thành từng đường. Nó bổ cái mỏ xuống chỗ này chỗ kia một lúc lâu, rồi ngừng lại, ngẩng đầu lên quan sát ba chú thỏ.
- Tôi cho rằng nó đói. - Cây Phỉ nói. - Tốt nhất hãy cho nó ăn đã. Tóc Giả, anh làm ơn đi bắt vài con giun hoặc cái gì tương tự, cho người bạn.
- Ê, anh nói cái gì vậy, Cây Phỉ?
- Giun.
- Tôi mà đi đào giun dế ư?
- Thế điều này chưa được dạy cho những Cốt Cán à? Thôi được, để tôi đi vậy. - Cây Phỉ nói. - Anh và Xám Bạc cứ đợi ở đây.
Tuy vậy một vài giây sau Tóc Giả đã theo Cây Phỉ quay trở lại cái hào cùng bạn đào đào bới bới chỗ đất khô. Giun không có nhiều ở vùng núi, nhất là đã mấy ngày nay trời không mưa. Sau một hồi cào bới không thấy gì, Tóc Giả ngẩng lên.
- Thế bọ cánh cứng hoặc sâu có được không? Cái gì đấy tương tự cũng được chứ hả?
Chúng tìm được vài cành cây mục và mang lại cái hố. Cây Phỉ đẩy một cành về phía trước một cách cẩn trọng.
- Sâu bọ đấy!
Con chim dùng mỏ bổ cành cây ra thành vài mảnh trong giây lát và lia lịa đớp những con sâu trong khúc cây mục. Chẳng bao lâu sau đã có một đống nhỏ những mảnh gỗ vụn trong hố, khi ba chú thỏ khuân đến bất cứ cái gì có thể có thức ăn cho chim. Tóc Giả tìm thấy một bãi phân ngựa trên đường, bới được mấy chú bọ trong đó, chú ta đã phải vượt qua nỗi kinh tởm để mang những con bọ này về. Khi Cây Phỉ cất tiếng khen ngợi thì chú làu bàu một câu gì nghe như là, “lần đầu tiên trong đời có một con thỏ phải làm một việc như thế và chớ có để cho lũ chim két biết chuyện này đấy”. Cuối cùng, sau khi ba chú thỏ mệt phờ thì con chim dừng lại không mổ tiếp mà nhìn Cây Phỉ.
- No rồi. - nó dừng lại nói. - Lèm gì cho các eng nào?
- Anh có đau không? - Cây Phỉ hỏi.
Con chim tỏ ra rất ranh mãnh.
- Không đau. Bay nhiều, nghỉ chút dồi bay tiếp.
- Nếu anh ở lại đây anh sẽ xong đời đấy. - Cây Phỉ nói. - Nơi này không tốt. Bọn thú, rồi cả chim cắt sẽ kéo đến.
- Đáng nguyền dủa. Đánh nhau nhiều.
- Tôi cũng đoán thế. - Tóc Giả nói, nhìn cái cổ to mập và cái mỏ dài đến năm phân của con chim với vẻ ngưỡng mộ.
- Chúng tôi không muốn anh tiêu tùng. - Cây Phỉ nói. - Nếu anh ở đây anh sẽ toi đời. Chưa biết chừng chúng tôi có thể giúp anh.
- Ồn ào quá!
- Thôi nào, - Cây Phỉ lập tức nói với hai bạn. - cứ để nó một mình. Để cho nó thử tránh lũ chim cắt một lúc. - Rồi Cây Phỉ bắt đầu nhẩn nha trở lại khu rừng sồi.
- Này ý định của anh hay hớm nhỉ, Cây Phỉ. - Xám Bạc nói. - Cái đồ súc sinh thô lỗ ấy. Anh không thể kết bạn với hạng ấy.
- Có thể là anh đúng. - Cây Phỉ nói. - Nhưng sẻ ngô hoặc chim cổ đỏ thì có ích gì cho chúng ta chắc? Chúng chẳng bay đi xa bao giờ Chúng ta cần một con chim thật bự.
- Nhưng vì lẽ gì mà anh nhất định cần một con chim?
- Tôi sẽ giải thích sau. - Cây Phỉ vội vã nói. - Bây giờ tôi muốn Mâm Xôi và Thứ Năm cũng biết chuyện này. Hãy xuống hang cái đã. Nếu các anh không muốn nhai cái gì, thì tôi lại muốn đấy.
Trong buổi chiều hôm ấy, Cây Phỉ điều hành nhiều việc nữa trong hang thỏ. Tổ Ong gần như đã hoàn thành - mặc dù bọn thỏ làm việc không có phương pháp, tính tổ chức cũng không cao và chưa bao giờ thực sự biết chắc khi nào một việc gì đó được hoàn thành - những cái hang xung quanh và các lối đi cũng đang dần thành hình. Tuy vậy vào chập tối, Cây Phỉ vẫn quay lại cái hố một lần nữa. Con chim vẫn còn ở đấy. Nó có vẻ yếu hơn và ít cảnh giác hơn, nhưng nó vẫn mổ xuống đất một cách yếu ớt khi Cây Phỉ đến.
- Vẫn ở đây à? - Cây Phỉ hỏi thăm. - Anh đánh nhau với diều hâu hả?
- Không đánh nhau. - con chim trả lời. - Không đánh nhau, nhưng quan xát, quan xát, bao giờ cũng quan xát. Mét không tốt.
- Đói chưa?
Chim không trả lời.
- Nghe này, - Cây Phỉ nói. - thỏ không ăn thịt chim. Thỏ ăn cỏ Chúng tôi sẽ giúp anh.
- Muốn giúp tôi?
- Đừng ngại. Chúng tôi sẽ cho anh được an toàn. Hang to. Thức ăn nữa.
Chim tỏ ra cân nhắc.
- Chân ổn. Cánh không tút. Kiém lắm.
- Được vậy thì đi đi.
- Cậu lèm tôi đau, tôi sẽ lèm cậu đau.
Cây Phỉ quay đi. Chú chim lại nói.
- Xa khun?
- Không, không xa đâu.
- Được thì đi.
Nó đứng dậy, rất khó khăn, lảo đảo trên đôi chân khỏe mạnh vằn máu. Đoạn nó giương cao đôi cánh lên khỏi thân mình, làm Cây Phỉ phải giật mình nhảy bắn ra sau trước sải cánh hình vòm cung cực lớn. Nhưng con chim lập tức xếp cánh lại, nhăn nhó vì đau đớn.
- Cánh khun tốt. Tôi đi.
Nó đi theo Cây Phỉ qua bãi cỏ, vẻ ngoan hiền, nhưng Cây Phỉ vẫn cẩn thận giữ một khoảng cách ngoài tầm với của nó. Việc chúng xuất hiện ngoài bìa rừng gây nên một cảnh chộn rộn nếu không muốn nói là một sự xáo trộn trong đám thỏ, một điều mà Cây Phỉ phải lập tức dẹp ngay với một thái độ quả quyết gần như là độc đoán rất khác với cung cách mềm mỏng hàng ngày của chú.
- Nào nhanh chân nhanh tay lên. - chú nói với Bồ Công Anh và Gạc Nai. - Con chim này bị thương và chúng ta sẽ dành cho nó một chỗ trú ẩn cho đến khi nó cảm thấy khỏe hơn. Bảo Tóc Giả hướng dẫn các anh biết cách kiếm thức ăn cho nó. Nó ăn giun và sâu bọ, côn trùng. Thử bắt cả cào cào, nhện... bất cứ con gì đại loại như vậy. Này Đầu Gỗ và Quả Sồi, bắt tay vào việc đi! Phải, cả em nữa Thứ Năm, có đang xuất thần nhập định hay đang gì đi nữa thì cũng thôi ngay đi. Chúng ta cần một cái hang rộng, thông thoáng, rộng hơn là sâu, nền bằng phẳng thấp hơn lối vào một chút. Tất cả phải xong xuôi trước hoàng hôn.
- Nhưng chúng ta đã đào suốt cả buổi chiều rồi mà Cây Phỉ...
- Tôi biết. Tôi sẽ đến giúp các anh, - Cây Phỉ nói - chỉ một chút nữa thôi. Tất cả mới bắt đầu mà. Đêm đang tới.
Các thỏ kinh ngạc tuân lời thủ lĩnh dù vẫn càu nhàu mấy tiếng trong miệng quay đi. Quyền lực của Cây Phỉ vẫn đang trong giai đoạn thử thách nhưng đã được củng cố vững chắc nhờ sự hỗ trợ của Tóc Giả. Mặc dù cũng chẳng biết rõ Cây Phỉ đang có ý tưởng gì trong đầu, Tóc Giả vẫn thầm thán phục sức mạnh và lòng gan dạ của con chim lạ và sẵn sàng chấp nhận bất cứ ý tưởng nào về việc tiếp nhận con chim này mà không nhọc công tìm hiểu rõ nguồn cơn. Chú dẫn đầu trong việc đào hang, trong khi Cây Phỉ cố gắng dùng hết khả năng mình để giải thích cho con chim về việc chúng sống như thế nào, chúng bảo vệ mình khỏi sự tấn công của kẻ thù ra sao và chúng có thể đào những cái hang như thế nào. Lượng thức ăn thỏ kiếm được có thể không nhiều, nhưng một khi đã ở trong rừng, rõ ràng con chim cảm thấy an toàn hơn, nó có thể tập tễnh đi lại chung quanh và tự tìm kiếm cái ăn.
Lúc lũ cú bay đi kiếm ăn, Tóc Giả và các trợ thủ đã đào được một cái giống như tiền sảnh phía trong cửa vào hang, dẫn đến một trong những lối đi dẫn vào sâu trong rừng. Chúng lát nền bằng cách rải cành và lá sồi xuống đất. Khi màn đêm buông xuống, vị khách được dẫn vào nơi ở mới. Nó vẫn còn nghi ngờ nhưng dường như cái đau đã dịu đi. Rõ ràng, vì không nghĩ ra được bất cứ một kế hoạch nào tốt hơn cho bản thân nên nó sẵn lòng thử một cái hang thỏ để tự cứu mình. Từ bên ngoài, lũ thỏ có thể nhìn thấy cái đầu đen của nó luôn luôn cảnh giác đề phòng trong ánh sáng mờ mờ và đôi mắt đen luôn quan sát chăm chú. Nó không ngủ trong lúc bọn thỏ kết thúc bữa ăn tối muộn và quay về hang.
Những con mòng biển đầu đen sống thành bầy. Chúng sống ở những vùng mà chúng có thể tìm mồi, kiếm ăn, trò chuyện và đánh nhau suốt ngày. Sự yên tĩnh và trầm lặng không thích hợp với chúng. Mòng biển di chuyển về phương Nam vào mùa đẻ trứng, trong khoảng thời gian ấy con nào bị thương sẽ chỉ có một khả năng là bị bỏ lại một mình. Sự tàn ác và nghi ngờ của nó một phần vì đau đớn, một phần vì nó thất vọng nhận ra mình không có bạn và không bay được. Sáng ngày hôm sau, cái bản năng tự nhiên xúi giục nó tìm về với đàn để được trò chuyện bắt đầu trỗi dậy. Tóc Giả biến mình thành bạn của chim. Chú không nghe gì về chuyện mòng biển bay đi kiếm ăn. Trước buổi trưa bọn thỏ đã kiếm được khá nhiều thứ mà chim ăn được - trong một khoảng thời gian ngắn mà xảy ra quá nhiều sự việc - bây giờ thì chúng có thể chợp mắt được một lúc bất chấp cái nóng nực ban ngày. Tuy vậy, Tóc Giả vẫn nán lại bên con mòng biển, không giấu giếm lòng ngưỡng mộ, trò chuyện và lắng nghe nó trong nhiều giờ liền. Trong lúc ăn tối, chú nhập hội với Cây Phỉ và Nhựa Ruồi đang ở quanh lũy đất nơi mà Hoa Chuông đêm qua đã kể câu chuyện về El-ahrairah.
- Sao, con chim thế nào rồi? - Cây Phỉ trông thấy chú hỏi ngay.
- Khá hơn nhiều rồi, tôi nghĩ thế, - Tóc Giả đáp, - tay này cứng ra phết đấy, anh có biết không. Trời đất ơi, cuộc đời cậu ta mới thật là ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Anh bạn không biết là mình bỏ mất điều gì đâu. Tôi có thể ngồi nghe cậu ta nói cả ngày không chán!
- Nó bị thương như thế nào?
- Một con mèo vồ cậu ta ở sân một trang trại. Cho đến tận phút đấy cậu ta chưa bao giờ nghe nói đến mèo. Con mèo xé một thớ thịt trên cánh cậu ta, nhưng rõ ràng cậu đã cho nó một bài học nhớ đời trước khi bay đi. Sau đó bằng cách nào đấy cậu bay được đến đây trước khi đổ ụp xuống. Cứ nghĩ đến chuyện đối đầu trực tiếp với một con mèo! Tôi có thể thấy rõ là vào lúc này mình chưa sẵn sàng làm điều đó. Nhưng tại sao một con thỏ lại không thể đối đầu với một con mèo? Hãy đặt ra giả thuyết rằng…
- Nhưng con chim đấy là con gì? - Nhựa Ruồi ngắt lời.
- Ừm, tôi vẫn chưa thề tìm ra. - Tóc Giả trả lời. - Nhưng nếu tôi hiểu đúng về cậu ta - thực ra tôi không chắc lắm đâu - cậu ta nói cậu ta đến từ một nơi mà ở đó có hàng ngàn con khác giống như cậu ta… nhiều hơn những gì chúng ta có thể hình dung. Đàn của chúng tràn cả bầu trời rợp một màu trắng và trong mùa sinh đẻ tổ của chúng nhiều như lá trong rừng vậy… ấy là cậu ta nói thế.
- Nhưng mà ở đâu? Thậm chí trong đời tôi chưa từng nhìn thấy một con nào như vậy.
- Cậu ta nói, - Tóc Giả tiếp tục, nhìn thẳng vào Nhựa Ruồi. - cậu ta nói từ đây đến đấy là một chặng đường dài, đến tận nơi kết thúc của trái đất và không có gì khác nữa.
- Phải, rõ ràng là nó phải dừng lại ở đâu đó. Thế cái gì ở ngoài đấy?
- Nước.
- Anh muốn nói một con sông à?
- Không, - Tóc Giả nói. - không phải một con sông. Cậu ta nói đó là một vùng nước rộng mênh mông cứ chảy mãi, chảy mãi. Không ai có thể nhìn được bờ bên kia. Không có bờ bên kia nữa. Ít nhất là như vậy, bởi vì cậu ta đã ở đó. Ồ tôi cũng không biết nữa. Tôi phải thừa nhận có thể mình không hiểu được hết.
- Có phải nó nói với anh rằng nó đã ở bên ngoài thế giới và lại quay trở lại? Điều này chắc chắn là không đúng rồi.
- Tôi không biết, - Tóc Giả nói - nhưng tôi chắc là cậu ta không nói dối đâu. Dòng nước đó, rõ ràng chuyển động không ngừng, luôn vỗ ì oạp vào đất liền và mỗi khi không thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ thì cậu ta lại nhớ nó ghê gớm. Tên cậu ta là Kehaar. Giống như âm thanh mà nước tạo ra.
Những chú thỏ khác dù muốn dù không cũng bị ấn tượng bởi câu chuyện này.
- Vậy thì tại sao nó lại ở đây?
- Cậu ta đáng lẽ không được ở đây. Cậu ta phải bay đến vùng nước lớn từ lâu rồi, để sinh sản. Rõ ràng là có nhiều con bay đi vào mùa đông, bởi vì vào mùa này thời tiết rất lạnh và khắc nghiệt. Sau đó chúng trở về vào mùa hè. Nhưng cậu ta đã bị thương một lần vào mùa xuân này. Vết thương không nặng lắm, nhưng nó đã giữ chân cậu lại. Cậu nghỉ ngơi và loanh quanh chỗ bầy quạ một thời gian. Sau đó cậu khỏe hơn rồi từ giã bọn quạ. Cậu đang bay vút đi thì dừng lại ở sân một nông trang và gặp phải con mèo trời đánh ấy.
- Như vậy, một khi khỏe lên nó sẽ lại bay đi tiếp? - Cây Phỉ hỏi.
- Ừ.
- Vậy chúng ta chỉ lãng phí thời gian thôi.
- Cây Phỉ, anh có cái gì trong đầu vậy?
- Anh đi tìm Mâm Xôi và Thứ Năm lại đây, tốt hơn chúng ta nên có cả Xám Bạc nữa. Sau đó tôi sẽ giải thích.
Cái tĩnh lặng của bữa ăn chiều tối, khi mặt trời phía Tây chiếu thẳng lên vách núi, những búi cỏ hắt bóng dài gấp hai lần bản thân mình, nghe trong không khí hơi se lạnh thoảng cái mùi ngất ngây của cỏ xạ hương và hoa tầm xuân, tất cả hòa vào nhau là những thứ mà bầy thỏ tán thưởng hơn những buổi chiều hôm xa xưa chúng từng có được nơi quê nhà ở Sandleford. Mặc dù chúng không biết điều này, nhưng vùng núi đồi này đã trở nên vắng vẻ hơn cách đây hàng trăm năm. Không còn bầy cừu nữa và những người dân làng ở Kingsclere và Sydmonton không có dịp lên núi nữa dù là vì công việc làm ăn hay đơn thuần vì thú vui. Trên những cánh đồng vùng Sandleford bọn thỏ hầu như ngày nào cũng nhìn thấy con người. Ở đây. từ lúc đặt chân đến chúng mới chỉ nhìn thấy một người và người này đang cười ngựa. Nhìn qua cái nhóm nhỏ đang tụ tập trên bãi cỏ, Cây Phỉ có thể thấy tất cả bọn chúng - thậm chí kể cả Nhựa Ruồi - đều khỏe mạnh hơn, béo mượt hơn và có vóc dáng đẹp đẽ hơn hồi mới đến. Dù có bất cứ chuyện gì chờ ở phía trước, ít nhất thì Cây Phỉ cũng có thể yên dạ rằng cho đến giờ chú đã không phụ lòng trông đợi của mọi người.
- Chúng ta đã làm mọi việc rất tốt ở đây, - chú bắt đầu. - hoặc ít nhất thì cũng có vẻ như vậy đối với tôi. Chắc chắn chúng ta không phải là một bầy thỏ lang thang nữa. Nhưng dẫu vậy, vẫn có một việc làm tôi phải lo nghĩ. Sự thật là tôi đã rất ngạc nhiên khi mình là người đầu tiên nghĩ đến chuyện này. Trừ khi chúng ta tìm ra giải pháp, thì cánh đồng thỏ này cuối cùng cũng sẽ bị hủy diệt, bất chấp những gì chúng ta đã làm.
- Sao lại như vậy được, sao chuyện đó có thể xảy ra, Cây Phỉ? - Tóc Giả hỏi.
- Các anh có nhớ Nildro-hain không? - Cây Phỉ hỏi.
- Cô nàng đã chết. Dâu Tây đáng thương.
- Tôi biết, và bọn chúng ta đây toàn là một lũ đực rựa. Không có thỏ cái - không có một cô nào - và không có các cô thỏ cái thì có nghĩa là không có thỏ con và chỉ một vài năm sau sẽ chẳng còn cánh đồng thỏ nào hết.
Thật không thể tin được là cả bọn không ai nghĩ đến vấn đề vô cùng quan trọng như thế này. Nhưng mà con người cũng đã phạm những sai lầm tương tự hơn một lần - bỏ mặc vấn đề không quan tâm đến, hoặc hài lòng với việc trông cậy vào vận đỏ và sự may rủi của chiến tranh. Cuộc sống của loài thỏ luôn cận kề cái chết và khi cái chết đến gần hơn thường lệ thì suy nghĩ về sinh tồn đã chiếm chỗ của những vấn đề khác. Nhưng bây giờ trong ánh hoàng hôn tuyệt đẹp của một vùng núi cô quạnh, thân thiện, với một cái hang ấm cúng sau lưng và những cọng cỏ ngon đang tiêu hóa trong bụng, Cây Phỉ nhận ra rằng cái mình thiếu là cuộc sống lứa đôi. Bầy thỏ im lặng và Cây Phỉ biết rằng lời chú nói đang ngấm vào đầu óc những chú còn lại.
Đàn thỏ gặm cỏ hoặc nằm dài hưởng những tia nắng ấm chảy dài trên bộ lông. Một con chim chiền chiện cất cao giọng trong làn ánh sáng rực rỡ trên đầu, đôi lúc lại sà thấp xuống hót rồi là đà bay chung quanh, kết thúc đường bay bằng một sải cánh rộng sang hai bên, và một con chim chìa vôi lẫm dẫm đi qua búi cỏ. Mới đấy mà mặt trời đã xuống thấp hơn. Cuối cùng Mâm Xôi lên tiếng:
- Phải làm gì đây? Lại phải đi tìm nơi khác sao?
- Tôi hy vọng không phải làm chuyện đó. - Cây Phỉ nói - Tất cả còn tùy thuộc vào chuyện khác. Việc mà tôi muốn làm là kiếm một vài cô thỏ mang về đây.
- Ở đâu?
- Từ một cánh đồng thỏ khác.
- Nhưng liệu ở những ngọn núi này có chỗ nào có hang không? Làm sao ta có thể tìm ra được. Ngọn gió chưa bao giờ mang đến dù chỉ mùi của thỏ.
- Tôi sẽ nói cho các anh làm thế nào. - Cây Phỉ nói. - Con chim. Con chim sẽ bay đi và tìm cho chúng ta.
- Thủ lĩnh Cây Phỉ muôn năm, - Mâm Xôi kêu lên hân hoan. - thật là một ý kiến tuyệt vời! Con chim đó có thể tìm ra trong vòng một ngày những thứ mà chúng ta không thể khám phá ra trong một ngàn ngày! Nhưng anh có chắc chắn là thuyết phục được nó làm điều đó không? Chắc chắn là ngay khi khỏe lại nó sẽ bay đi và rời bỏ chúng ta.
- Tôi không thể nói trước được. - Cây Phỉ đáp. - Chúng ta chỉ có một cách là cho nó ăn và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất. Này Tóc Giả à, bởi vì dường như anh có vẻ rất hòa hợp với nó, có lẽ anh sẽ giải thích cho nó vấn đề này có ý nghĩa như thế nào với chúng ta chứ. Nó chỉ việc bay qua nơi này một vòng và bảo cho chúng ta biết nó thấy gì thôi.
- Cứ giao cho tôi, - Tóc Giả nói. - tôi nghĩ mình biết phải làm gì trong chuyện này.
Chẳng bao lâu sau cả cộng đồng thỏ ai cũng biết nỗi lo lắng của Cây Phỉ và lý do của nỗi lo ấy, và không ai không nhận ra mình đang đối mặt với vấn đề nào. Không có gì đáng ngạc nhiên trong những điều Cây Phỉ nói. Chú chỉ đơn giản là người - như một Thỏ Thủ lĩnh thực sự cần phải thế - mà thông qua chú cái cảm giác mạnh mẽ âm ỉ trong cánh đồng thỏ trở nên rõ ràng hơn. Nhưng cái kế hoạch của chú lợi dụng con mòng biển vào việc này làm cho ai nấy đều phấn khích, nức lòng và điều này được nhìn nhận như một ý tưởng xuất sắc mà thông minh đến như Mâm Xôi cũng không nghĩ ra được. Trinh sát là công việc quen thuộc với mọi chú thỏ - thực sự nó là bản năng thứ hai của chúng - nhưng ý tưởng lợi dụng một con chim, mà lại là con chim lạ dữ tợn kia, đã thuyết phục tất cả tin rằng nếu Cây Phỉ thực sự làm được điều đó thì chắc hẳn chú này cũng khôn ngoan chẳng kém gì El-ahrairah.
Trong vài ngày sau đó, chúng bận rộn lo cho Kehaar ăn uống. Quả Sồi và Nồi Đất khoe chúng là những kẻ bắt côn trùng giỏi nhất trong cánh đồng thỏ, đã mang về bao nhiêu là châu chấu và bọ vừng. Thoạt đầu, khó khăn lớn nhất đối với chú mòng biển là thiếu nước. Chú đã phải khổ sở chịu đựng sự thiếu thốn này và đành bằng lòng với việc xé nhỏ những cái rễ cỏ dài ra để hút lấy chút nước. Tuy vậy, vào đêm thứ ba chú nghỉ lại trong hang thỏ, trời mưa liền một mạch suốt ba, bốn tiếng đồng hồ, để lại nhiều vũng nước đọng trên lối đi. Một sự hỗn loạn bắt đầu, như vẫn thường xảy ra ở Hampshire khi mùa gặt đến gần. Những ngọn gió mạnh từ phương Nam thổi đến làm cỏ ngả xuống sát rạt suốt cả ngày, biến bãi cỏ thành một dải bạc xám xịt. Những cành sồi lớn chỉ vặn mình một chút nhưng gây ra tiếng răng rắc rất to. Gió giật từng hồi kèm theo mưa lớn. Thời tiết làm cho Kehaar trở nên bồn chồn. Chú đi đi lại lại, ngắm nhìn những đám mây kéo đến trên bầu trời và nuốt trọn bất cứ cái gì lũ thỏ mang tới. Công cuộc tìm kiếm thức ăn trở nên gian nan hơn, bởi trời mưa nên côn trùng vùi mình sâu trong lá cỏ,đào bới mãi mới ra.
Một buổi chiều, Cây Phỉ lúc này ở trong hang với Thứ Năm như ngày xưa, bị Tóc Giả đánh thức dậy để thông báo rằng Kehaar có điều muốn nói với chú. Cây Phỉ vội tìm đường đến “tiền sảnh” của Kehaar mà không đi theo cửa trước. Điều đầu tiên chú nhận ra là lông trên đầu Kehaar đã rụng và có màu trắng, mặc dù một vệt nâu đen vẫn còn ở phía sau hai mắt. Cây Phỉ cất tiếng chào khách, ngạc nhiên quá đỗi khi thấy khách trả lời bằng ngôn ngữ của loài thỏ, với những từ ngắc ngứ, ngọng nghịu. Rõ ràng Kehaar đã chuẩn bị cả một bài diễn văn ngắn.

- Chào Thủ nĩnh thỏ, các eng đã quá vất vả với tôi. - Kehaar trịnh trọng nói. - Tôi không tiêu đời bây giờ đâu. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ khỏe lại.
- Thật là một tin vui, quả thực tôi vui lắm khi nghe anh nói vậy.
Kehaar lại chuyển sang nói bằng cái ngôn ngữ chung của các sinh vật bên hàng rào.
- Eng Tóc Dả đây... thật rõ một người tốt.
- Vâng đúng thế.
- Eng ấy nói, các bạn không có thỏ cái. Mọi việc sẽ kết thúc nếu không có phụ lữ. Nhiều khó khăn đối với các eng.
- Phải, đúng thế. Chúng tôi cũng không biết phải làm thế nào nữa. Không có một thỏ mẹ nào ở đây cả.
- Xin hãy nghe, tôi có một kế hoạch hết xẩy. Bây giờ tôi khỏe rồi. Cánh cũng nành rồi. Tất cả đều ổn, giờ tôi bay được. Bay vì các bạn. Tìm ra nhiều thỏ cái rồi bảo cho các bạn họ đang ở đâu, lói vậy có phải khun?
- Ồ, đấy thật là một ý tuyệt vời, Kehaar ạ! Anh thật thông minh biết bao khi nghĩ ra sáng kiến đó! Anh là một chú chim tuyệt nhất đấy.
- Khun có bạn gái cho tôi lăm lay. Quá trễ. Các cô cái giờ lằm trong tổ hết rồi. Đẻ trứng.
- Tôi rất tiếc.
- Núc khác tôi xẽ tìm bạn gái cho mình. Bây giờ tôi xẽ bay vì các bạn.
- Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp anh.
Ngày hôm sau gió không còn giật mạnh nữa và Kehaar lượn một hai vòng ngắn. Tuy vậy, không đầy ba ngày sau chú đã thấy mình có thể bắt đầu cuộc tìm kiếm. Đó là một sáng tháng Sáu tuyệt đẹp. Chú đang đớp vài con ốc sên vỏ trắng bò trong đám cỏ uớt và bổ vỡ chúng bằng cái mỏ vĩ đại của mình thì đột ngột quay qua Tóc Giả đang xớ rớ gần đấy mà nói:
- Giờ tôi sẽ bay vì các eng.
Chú dang rộng đôi cánh. Một cái cánh hình vòm cung cao đến nửa mét trên đầu Tóc Giả đang ngồi im như phỗng trong khi những chiếc lông trắng rung rung trong không khí ngay trên đầu chú như một lời chào tạm biệt trịnh trọng. Hai tai cụp hết xuống, chú đưa mắt nhìn lên Kehaar khi chú mòng biển lấy đà, không khỏi có phần nặng nề, bay vào trong không gian. Khi chim vút thân hình bay lên, thật dài và duyên dáng trên mặt đất, chú có hình dáng như một cái trục lăn dày trùng trục vụng về, ngay phía trước là cái mỏ màu đỏ, nhô lên giữa hai con mắt đen tròn xoe. Trong một khoảnh khắc, chú ở trạng thái lơ lửng, thân hình lượn lên lượn xuống giữa đôi cánh. Rồi chú bắt đầu hạ dần độ cao, lạng sang hai bên đồng cỏ và biến mất về hướng Bắc phía sau dãy núi. Tóc Giả quay về khu rừng sồi với cái tin Kehaar đã lên đường tìm kiếm.
Mòng biển đi mất vài ngày, lâu hơn là bọn thỏ nghĩ. Cây Phỉ không khỏi băn khoăn không biết cậu ta có quay về hay không, vì chú hiểu rõ rằng Kehaar, cũng như đàn thỏ, cảm thấy sự thôi thúc của nhu cầu tìm bạn tình nên chú nghĩ rất có thể sau những gì đã trải qua tay mòng biển sẽ bay thẳng đến vùng Nước Lớn, về với lãnh địa của vô số những sinh vật đồng loại với cậu ta, như cậu ta thường kể cho Tóc Giả nghe với cảm giác nhớ nhung da diết. Tuy vậy, Cây Phỉ với khả năng tự kiềm chế khá cao vẫn cố giữ kín những lo ngại ấy cho riêng mình, rồi một hôm khi chỉ có chú với Thứ Năm, chú hỏi xem em mình có nghĩ là Kehaar sẽ quay lại không.
- Chú ta sẽ quay lại. - Thứ Năm khẳng định không một chút ngập ngừng.
- Vậy em nghĩ chú ta sẽ mang cái gì về?
- Làm sao em có thể nói được? - Thứ Năm đáp. Nhưng sau đã khi đã ở trong hang, trong sự tĩnh lặng và buồn ngủ, Thứ Năm bất thần nói một mạch, - Những món quà của El-ahrairah. Sự lừa dối, mối nguy hiểm lớn và phúc lành cho cánh đồng thỏ. - Khi Cây Phỉ hỏi lại chú lần nữa thì chú dường như không nhận thức được là mình vừa nói gì và không thể nói thêm một điều gì khác.
Ban ngày, Tóc Giả dành phần lớn thời gian để mong ngóng Kehaar trở về. Chú dường như trở nên cộc cằn, nóng nảy và một lần khi Hoa Chuông dí dỏm nhận xét rằng hình như cái chỏm lông trên đầu Eng Tóc Dả rụng dần vì vắng người bạn thân thì chú nổi đóa và trở về với tính khí “võ quan cao cấp” ngày xưa, vừa thụi cho anh bạn kia mấy cái vừa chửi bới om sòm làm Nhựa Ruồi phải ra tay can thiệp để tránh cho anh bạn trung thành nhưng hay bỡn cợt của mình không lún sâu hơn vào rắc rối do vạ miệng gây ra.
Mấy hôm sau vào lúc chiều muộn, khi ngọn gió phương Bắc nhẹ thổi tới mang theo mùi của cỏ khô ngả rạp từ cánh đồng Sydmonton thì Tóc Giả lao xồng xộc xuống Tổ Ong thông báo rằng Kehaar đã trở về. Cây Phỉ cố nén nỗi kích động trong lòng, bảo mọi người tạm lánh đi một lát trong khi chú một mình đến gặp chú chim. Nhưng suy đi nghĩ lại thế nào, chú lại bảo Thứ Năm và Tóc Giả cùng đi với mình.
Cả ba tìm thấy Kehaar đang ở trong cái hốc giống như tiền sảnh của mình. Cái hang đầy phân, hôi hám và bẩn thỉu. Loài thỏ không bao giờ bài tiết trong hang và thói quen của Kehaar “bậy” luôn trong ổ của mình bao giờ cũng làm cho Cây Phỉ phải nhăn mặt ghê tởm. Bây giờ, trong lúc chú nóng lòng nghe tin tức, thì cái mùi phân chim hôi thối ấy gần như được đón chào.
- Thật vui mừng khôn xiết khi thấy anh trở lại, Kehaar à. - chú nói. - Anh có mệt lắm không?
- Cánh vẫn hơi mỏi. Bay một tí, nghỉ một tí, mọi thứ đều tốt.
- Anh có đói không? Để chúng tôi tìm cho anh một ít côn trùng nhé?
- Tốt tốt. Những người bạn tốt. Nhiều bọ vừng. (Tất cả côn trùng đối với Kehaar đều là bọ vừng)
Rõ ràng chú ta nhớ tấm thịnh tình của bầy thỏ và dường như rất vui vẻ khi được quay về. Mặc dầu bây giờ chú không cần người ta mang thức ăn đến tiền sảnh nữa, nhưng rõ ràng chú cảm thấy mình xứng đáng được biệt đãi. Tóc Giả đi ra ngoài tìm thức ăn cho chú và Kehaar khiến cả lũ thỏ phải bận rộn cho đến tận lúc mặt trời lặn. Cuối cùng chú quay sang Thứ Năm với cái nhìn sắc lẹm rồi hỏi.
- À, Eng Thứ Lăm, eng biết tôi mang tin gì về chứ?
- Tôi không biết. - Thứ Năm đáp có phần cụt lủn.
- Để tôi lói cho mà biết. Tình hình xấu nắm. Tôi cứ bay, hướng này, hướng kia mặt chời đi nên dồi đi xuống. Chẳng thấy chú thỏ lào. Chẳng có gì sất.
Chú dừng lại. Cây Phỉ nhìn Thứ Năm đầy ngụ ý.
- Dồi tôi xà xuống thấp, thấp lữa. Một lông chại, nhiều cây cối bao quanh. Chên ngọn đồi nhỏ. Các eng biết chứ?
- Không, chúng tôi không biết. Xin cứ tiếp tục đi.
- Tôi chỉ cho. Khun xa lắm. Nhìn thấy được. Ở đấy có những chú thỏ, sống trong hộp, sống dzới người. Các eng biết chứ?
- Sống với con người? Anh nói là sống với con người à?
- Đúng đúng. Sống dzới người. Chong nhà kho, thỏ sống chong hộp ở chong nhà kho. Con người mang thức ăn. Eng biết chứ?
- Tôi có biết chuyện này. - Cây Phỉ nói. - Tôi đã từng nghe nói đến. Tốt lắm, Kehaar. Anh thật là chu đáo. Nhưng điều này chả giúp được gì cho chúng tôi cả, đúng không nào?
- Tôi nghĩ đó thỏ cái. Chong chiếc hộp. Ngoài ra chẳng có chỗ lào có thỏ, trên cánh đồng khun, trong dừng cũng khun. Chả lơi lào có thỏ. Dù sao thì tôi cũng khun gặp.
- Tình hình nghe có vẻ xấu nhỉ.
- Chờ đã, tôi chưa lói hết. Hãy nghe đây. Tôi nại bay, đường khác, lơi mặt trời đến vào giữa ngày. Eng biết không, nối đến chỗ Nước Nớn.
- Nói vậy thì anh đi đến tận vùng Nước Lớn kia à? - Tóc Giả hỏi.
- Khun, khun, khun xa như vậy. Nối lày có một con sông, các eng biết chứ?
- Không chúng tôi còn chưa đi xa đến thế.
- Con sông, - Kehaar lặp lại. - gần sông có cả một thành phố thỏ.
- Ở bên kia bờ sông?
- Khun. khun, các eng đi nối lày, phía có những cánh đồng. Sau một đoạn đường xa xẽ tới thành phố thỏ, nớn nắm. Xau khi đi qua con đường bằng sắt vắt qua sông.
- Con đường bằng sắt à? - Thứ Năm hỏi.
- Đún đún, đường xắt. Các eng chưa thấy con đường xắt sao? Con người nàm ra đấy.
Câu chuyện của Kehaar rất khó nghe với những từ xa lạ, lối phát âm ngọng nghịu nên trong suốt khoảng thời gian ấy tình trạng chung là cả ba chú thỏ không ai chắc chắn về những gì chú chim muốn nói. Những thổ ngữ chú ta dùng để nói về “sắt” và “con đường nhựa” (khá quen thuộc đối với mòng biển) là những từ mà những người bạn của chú hiếm khi nào nghe thấy. Kehaar lại hay mất kiên nhẫn và lúc này, như vẫn thường thế, chúng lại rơi vào tình thế bất lợi khi đứng trước sự thông thuộc của chú chim với cái thế giới rộng lớn hơn thế giới của chúng. Cây Phỉ nghĩ rất nhanh. Có hai điều tương đối sáng tỏ. Rõ ràng Kehaar đã tìm thấy một cánh đồng thỏ rộng lớn ở phía Nam, và dù con đường sắt là thứ gì đi nữa thì cánh đồng thỏ cũng ở phía bên này con đường và dòng sông. Nếu như chú hiểu đúng thì dường như có thể suy ra rằng không cần phải tính tới chuyện vượt qua con đường sắt và dòng sông để đạt mục đích của chúng.
- Kehaar này, - chú nói. - tôi muốn biết rõ hơn. Chúng tôi có thể tới thành phố thỏ mà không phải bận tâm đến con đường sắt và dòng sông không?
- Được, được. Không qua con đường xắt. Thành phố thỏ trong những nùm cây trên những cánh đồng vắng vẻ. Nhiều thỏ cái nắm.
- Đường từ đây đến đấy - đến thành phố thỏ ấy có xa không?
- Tôi nghĩ mất hai ngày đường. Cũn khá xa.
- Tốt lắm Kehaar. Anh đã làm được điều chúng tôi mong đợi. Bây giờ anh nghỉ ngơi đi. Chúng tôi sẽ mang côn trùng đến cho anh chừng nào anh còn muốn ăn.
- Ngủ bây giờ, mai có nhiều bọ vừng. Ha ha ha.
Mấy chú thỏ quay về Tổ Ong. Cây Phỉ thông báo tin tức mà Kehaar mang về và một cuộc thảo luận ngắt quãng, lộn xộn, dông dài bắt đầu. Đấy là cách chúng đi đến một kết luận. Hình ảnh về một cánh đồng thỏ ở cách chúng hai ba ngày đường lung linh chập chờn trong đầu chúng như những đồng xu ném xuống vùng nước sâu, lạng qua hướng này hướng kia, nổi lên, biến mất, rồi lại xuất hiện, nhưng bao giờ cũng chìm xuống đáy sông. Cây Phỉ để cho những cuộc trao đổi tiếp diễn đến chừng nào có thể, cho đến khi cuối cùng, những câu nói trở nên rời rạc và tất cả đi ngủ.
Sáng hôm sau chúng tiếp tục nhịp sống của mình như thường lệ, cho Kehaar ăn và tìm cái ăn cho mình, vui chơi và đào hang. Nhưng trong suốt thời gian đó, như một giọt nước từ từ phình ra to cho đến lúc đủ nặng đề rơi khỏi cành cây, ý nghĩ về những gì chúng phải làm trở nên rõ ràng và thống nhất. Ngày hôm sau, Cây Phỉ đã có thể nhìn nhận sự việc rõ ràng. Thời điểm nói chuyện, cũng như thường lệ, là lúc chú ngồi trên lũy đất lúc mặt trời mọc cùng với Thứ Năm và ba bốn thỏ khác. Không cần thiết phải tập hợp tất cả mọi người. Mọi cái đã theo một lề thói. Khi một quyết định đến tai những người không có mặt ở đó họ sẽ chấp nhận điều thủ lĩnh nói mà không cần phải nghe trực tiếp từ miệng người này.
- Cái cánh đồng thỏ mà Kehaar đã tìm ra ấy, - Cây Phỉ bắt đầu. - anh ta nói nó lớn lắm.
- Vì thế chúng ta không thể dùng vũ lực chiếm được. - Tóc Giả nói.
- Tôi không nghĩ mình muốn đến đó và gia nhập với bọn họ. - Cây Phỉ nói. - Còn các anh?
- Và rời khỏi đây sao? - Bồ Công Anh tiếp lời. - Sau tất cả những gì chúng ta đã làm? Với lại, chúng ta mới ở đây được ít ngày. Không, tôi chắc rằng chẳng ai trong chúng ta muốn làm điều đó.
- Điều chúng ta muốn là mang vài cô thỏ về đây. - Cây Phỉ nói. - Chuyện đó kể cũng khó đấy, các anh có nghĩ thế không?
- Tôi không nghĩ thế. - Nhựa Ruồi lên tiếng. - Những cánh đồng thỏ lớn thường đông đúc, một số còn không có cái mà ăn nữa. Những cô nàng trẻ tuổi thường cáu bẳn và lo sợ, một số cô vì thế mà chẳng có đàn con. Ít nhất thì lứa thỏ con bắt đầu lớn lên trong bụng mẹ và rồi sau đó chúng lại tan biến vào trong cơ thể mẹ, các anh có biết điều này không?
- Tôi chưa nghe nói đến chuyện đó. - Dâu Tây nói.
- Đó là vì chỗ các anh chưa bao giờ có đông thỏ cả. Nhưng còn ở chỗ của chúng tôi khi xưa, cánh đồng của Chúa Thanh Lương Trà ấy, đông đến mức một, hai năm trước nhiều thỏ mẹ đã hút lại những đứa con trong bụng trước khi chúng được sinh ra. Chính Chúa Thanh Lương Trà đã cho tôi biết điều này; từ lâu lắm rồi El-ahrairah đã có một thỏa thuận với Thần Mặt trời. Và Thần Mặt trời đã phải hứa với El-ahrairah rằng thỏ sẽ không phải ra đời để mà chết hoặc không ai cần đến. Nếu không thể mang lại cuộc sống tốt đẹp cho những sinh mệnh mới thì thỏ mẹ có đặc quyền lấy lại chúng vào trong cơ thể mình mà không sinh ra chúng nữa.
- Phải, tôi nhớ câu chuyện về thỏa thuận đó. - Cây Phỉ nói. - Vậy anh nghĩ là có thể có những nàng thỏ bất mãn? Nghe có vẻ khả dĩ đây. Vậy thì chúng ta hãy nhất trí với nhau sẽ làm một chuyến đến cánh đồng thỏ kia và sẽ có cơ hội đạt được mục đích của ta mà không phải gây ra đổ máu. Các anh có muốn tất cả mọi người cùng đi không?
- Tôi sẽ nói không. - Mâm Xôi nói. - Một chuyến đi như vậy mất những hai hoặc ba ngày, tất cả chúng ta sẽ trong vòng nguy hiểm, cả lúc đi lẫn lúc về. Sẽ ít nguy hiểm hơn nếu chỉ cử ba, bốn thỏ đi chứ không phải cả đàn. Ba hoặc bốn thỏ sẽ di chuyển nhanh hơn, ít gây nghi ngờ, vả lại Thỏ Thủ lĩnh ở đằng kia có thể sẽ bớt phản đối mấy kẻ lạ mặt đến cánh đồng với một lời đề nghị ôn hòa.
- Tôi cũng nghĩ trong trường hợp của chúng ta làm như thế là đúng. - Cây Phỉ tán thành. - Chúng ta sẽ phái đi bốn người, họ sẽ thay mặt chúng ta giải thích cái khó của mình và yêu cầu cho phép chúng ta được thuyết phục vài cô về đây với chúng ta. Tôi không thấy bất cứ một Thỏ Thủ lĩnh nào có thể phản đối việc này. Tôi tự hỏi ai trong chúng ta là người tốt nhất cho sứ mệnh này?
- Thủ lĩnh Cây Phỉ ạ, anh thì không được đi rồi. -  Bồ Công Anh phát biểu. - Anh rất cần thiết cho nơi này và chúng tôi không muốn mạo hiểm mạng sống của anh. Mọi người đều đồng ý như vậy.
Cây Phỉ đã biết từ trước rằng bọn kia sẽ không để cho chú cầm đầu đoàn thương thuyết. Thật đáng thất vọng, tuy nhiên chú cảm thấy đó là một quyết định đúng. Với lại bọn thỏ ở cánh đồng kia có thể coi thường nếu một Thỏ Thủ lĩnh mà phải thân chinh đi làm những việc vặt như vậy. Ngoài ra, chú biết mình không có cái mẽ ngoài gây ấn tượng, cũng không phải là người biết ăn nói. Công việc này phải giao phó cho một người khác thôi.
- Thôi được. -  chú nói. - Tôi cũng biết là các anh sẽ không để cho tôi đi đâu. Dù sao thì tôi cũng không phải là người cáng đáng việc này tốt - trong khi Nhựa Ruồi lại rất xứng đáng. Anh ấy biết mọi điều về nghệ thuật di chuyển ở nơi trống trải và lại biết ăn nói trơn tru khi đến được đó.
Không ai lên tiếng phản đối. Nhựa Ruồi rõ ràng là một lựa chọn tốt nhất, nhưng việc tuyển ra những người đi cùng với chú không phải là việc dễ dàng. Ai cũng sẵn lòng thực hiện một sứ mệnh như thế, nhưng việc này quan trọng đến nỗi cuối cùng chúng phải cân nhắc từng chú một, thảo luận xem ai sẽ là người có khả năng sống còn được sau một đoạn đường dài, đến nơi mà vân còn phong độ để làm tốt vai trò thuyết khách trong một cộng đồng xa lạ. Lúc đầu, Tóc Giả sưng sỉa khi bị gạt ra ngoài với lý do chú ta có thể gây lộn ở chỗ 1ạ, nhưng sau đó cũng không buồn khi nhớ ra rằng mình có thể tiếp tục chăm sóc Kehaar. Nhựa Ruồi muốn chọn Hoa Chuông nhưng như lời Mâm Xôi thì một câu nói đùa không đúng chỗ với Thỏ Thủ lĩnh có thể hủy hoại tất cả. Cuối cùng cả bọn nhất trí chọn Xám Bạc, Gạc Nai và Dâu Tây. Ứng viên cuối cùng chẳng nói gì nhiều nhưng rõ ràng chú ta rất hài lòng. Chú đã phải làm rất nhiều việc để chứng tỏ mình không phải là kẻ hèn nhát và bây giờ chú rất thỏa mãn khi biết rằng mình cũng có một giá trị nào đó với những người bạn mới.
Đội thương thuyết lên đường ngay từ tờ mờ sáng hôm sau, trong làn ánh sáng màu xám tro. Kehaar có nhiệm vụ hỗ trợ, chú bay sau đội này một chút, để chắc chắn là chúng đi đúng hướng và mang tin về cuộc hành trình của họ. Cây Phỉ và Tóc Giả đi tiễn đến tận bìa rừng phía Nam, rồi đứng lại nhìn theo đồng đội đang nhắm về phía trang trại phía Tây xa xa mà đi tới. Chẳng bao lâu sau chúng đã biến mất trong đồng cỏ. Nhựa Ruồi có vẻ rất tự tin và ba chú kia cũng đang đầy khí thế. Chẳng mấy chốc cả đoàn đã lút hẳn vào trong bãi cỏ và Cây Phỉ cùng Tóc Giả quay về rừng sồi.
- Được rồi chúng ta đã làm tất cả trong khả năng mình. - Cây Phỉ nói. - Phần còn lại phụ thuộc vào họ và vào El-ahrairah. Nhưng chắc chắn là mọi việc sẽ ổn nhỉ?
- Không một chút nghi ngờ. - Tóc Giả mạnh mẽ khẳng định. - Hãy hy vọng là họ sớm quay về. Tôi đang nóng lòng chờ một cô nàng xinh xắn, mắn đẻ và sẽ có nhiều thỏ con xinh xinh trong hang của mình. Sẽ có nhiều Tóc Giả bé con, Cây Phỉ à! Cứ nghĩ đến đấy thôi đã sướng run người rồi.

Chương 24. Trang trại Nuthanger


Khi Robin đến Notyngham
Chắc chắn không có gì dối trá
Chàng cầu Thủ lĩnh và Đức mẹ Mary dịu hiền
Một lần nữa đưa chàng ra khỏi chốn này bình yên.
Bên cạnh chàng một thầy tu đầu bự
Cầu xin Thủ lĩnh hãy mang đến cho hắn tai ương!
Ngay sau đó hắn nhận ra chàng
Cùng một lúc hắn nhìn thấy mặt.
(Đứa trẻ, số 119 Robin Hood và Thầy tu)

(Robin Hood là một người anh hùng vào thế kỷ 12 ở Anh, nổi tiếng vì những hành động trượng nghĩa cướp của người giàu chia cho người nghèo. Căn cứ địa của chàng nằm trong rừng Sherwood, gần thành phố Nottingham và cảnh sát trưởng thành phố này là kẻ thù không đội trời chung của chàng. Đoạn thơ này được viết băng tiếng Anh thời Trung Cổ vào khoảng thế kỷ 14 nên rất khó hiểu đối với bạn đọc.)
*
Cây Phỉ nằm trên lũy đất vào một đêm giữa mùa hè. Bóng tối đổ xuống chưa đầy năm tiếng đồng hồ, cái ánh sáng mờ mờ vàng vọt trong không gian khiến chú không ngủ được, bồn chồn không yên. Mọi thứ xem ra đều êm thấm. Kehaar đã tìm thấy Nhựa Ruồi vào buổi chiều và hướng dẫn chú đi chệch một chút về hướng Tây cho đúng đường, rồi để đám thỏ lại một chỗ trú trong một hàng rào dày, sau khi đã biết chắc con đường đó sẽ dẫn đến trang trại. Bây giờ thì có thể chắc chắn một điều: hai ngày là đủ cho cuộc hành trình. Tóc Giả và một số chú thỏ khác đã nhanh nhảu nới rộng hang mình chuẩn bị cho chuyến trở về của Nhựa Ruồi. Kehaar đã có một cuộc cãi lộn nảy lửa với con chim cắt, chú kêu lên bằng cái giọng đủ làm cả cảng Cornish phải náo loạn lên; và mặc dầu cuộc xô xát chưa đến hồi ngã ngũ, con chim cắt có vẻ từ nay trở đi đã phải kiêng nể vùng lân cận rừng sồi. Mọi việc chưa có gì sáng sủa hơn kể từ khi chúng rời bỏ Sandleford.
Tâm trạng vui buồn lẫn lộn len lỏi vào tâm trí Cây Phỉ. Chú lại có cảm giác mình trở về buổi sáng hôm ấy khi cả bọn đi qua sông Enborne và một mình chú phóng đi, rồi tìm ra cánh đồng đậu. Lúc ấy chú tự tin và sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu. Nhưng mà cuộc phiêu lưu nào? Có nhiều điều đáng nói với Nhựa Ruồi và Xám Bạc khi họ trở về. Có một số cái - phải, không thể hạ thấp những việc mà họ đang làm. Không, tất nhiên là không. Mà chỉ để cho chúng thấy Thỏ Thủ lĩnh có trách nhiệm với bất cứ việc gì mà họ làm. Chú cứ trăn trở nghĩ mãi về việc này khi nhảy xuống lũy đất ngửi ngửi vài nhánh rau xà lách lẫn trong bãi cỏ. Và bây giờ cần làm cái gì để tạo cho các bạn một ngạc nhiên nhỏ nhưng không kém phần thú vị? Đột nhiên chú nghĩ, “Giả sử họ quay lại và ở đây đã có một hai chị thỏ cái rồi thì sao nhỉ?”. Cũng lúc đó chú nhớ ra Kehaar đã nói về một cái hộp có chứa những con thỏ ở nông trại dưới kia. Đó là loại thỏ gì nhỉ? Chúng có bao giờ ra khỏi hộp không? Chúng đã từng trông thấy một con thỏ hoang chưa? Kehaar có kể rằng trang trại ấy không cách xa chân núi là bao, nằm trên một quả đồi nhỏ vì thế có thể dễ dàng đến đấy lúc sáng sớm trước khi người ở đấy thức dậy. Lũ chó thì chắc là đều bị xích, nhưng mèo thì không. Thỏ có thể chạy nhanh hơn mèo chừng nào chúng đuổi nhau ở chỗ trống trải với điều kiện nó nhìn thấy con mèo trước. Điều quan trọng là không được để bị bám theo mà không nhận ra. Chú có thể đi dọc hàng rào mà không thu hút sự chú ý của kẻ thù trừ phi chú gặp vận đen.
Nhưng nói trắng ra thì chú muốn làm gì nào? Tại sao phải dẫn xác đến trang trại? Cây Phỉ nhá nốt mẩu thức ăn cuối cùng và tự trả lời mình dưới ánh sao đêm. “Mình sẽ chỉ nhìn qua một lượt thôi”, chú bụng bảo dạ, “và nếu có thể tìm ra cái hộp nhốt những con thỏ này mình sẽ cố nói chuyện với chúng, chỉ thế thôi, không hơn. Mình chả việc gì phải liều lĩnh - phải, mình sẽ không đâm đầu vào những nguy hiểm thực sự - chừng nào mình chưa xác định đó là việc đáng làm. Chắc chắn là như vậy rồi”.
Chú có nên đi một mình không? Sẽ an toàn hơn và vui vẻ hơn nếu có thêrn một người bạn, nhưng chỉ một người nữa mà thôi. Tuyệt đối không được thu hút sự chú ý. Ai là tốt nhất nào? Tóc Giả ư? Hay là Bồ Công Anh? Cây Phỉ bác bỏ cả hai đề xuất này. Chú cần một người làm theo những gì chú nói mà không ý kiến ý cò gì cả. Chú nghĩ ngay đến Nồi Đất, chú này sẽ làm theo thủ lĩnh không thắc mắc và sẽ làm bất cứ điều gì Cây Phỉ muốn. Vào lúc này chắc chắn Nồi Đất đang ngủ ở cái hang mà chú ở chung với Quả Sồi và Hoa Chuông, ngay dưới đường chạy ra ngoài Tổ Ong.
Cây Phỉ thật may mắn, chú tìm thấy Nồi Đất nằm gần ngay cửa hang và vừa tỉnh giấc, nên có thể dẫn đàn em ra ngoài mà không đánh thức hai chú kia, rồi dẫn nó theo một đường chạy khác thông ra lũy đất. Nồi Đất nhìn quanh với vẻ lo ngại xớn xác như thể chú luôn nơm nớp chờ đợi điều xấu xảy ra.
- Không có chuyện gì đâu, Nồi Đất. - Cây Phỉ nói. - Chẳng có gì phải sợ hết. Anh muốn em xuống dưới chân núi giúp anh tìm ra nông trại mà anh đã nghe nói tới. Chúng ta sẽ chỉ xem qua một vòng thôi.
- Một vòng quanh trang trại hả Thủ lĩnh Cây Phỉ? Để làm gì? Không nguy hiểm chứ? Rồi còn lũ chó với mèo và...
- Không, em sẽ tuyệt đối an toàn khi đi với anh. Chỉ anh em mình thôi - anh không muốn một ai khác. Đó là một kế hoạch bí mật, em không được cho ai khác biết về chuyện này kể từ giờ phút này. Anh đã chỉ chọn em chứ không phải bất cứ ai khác.
Điều này tác động đến cậu nhỏ đúng như Cây Phỉ dự đoán. Nồi Đất không cần thêm bất cứ lời thuyết phục nào nữa và chúng lập tức phóng đi, theo con đường đầy cỏ, băng qua bãi cỏ phía ngoài và lao xuống dốc. Chúng đi qua một vành đai rừng hẹp rồi tới cánh đồng nơi Nhựa Ruồi cất tiếng gọi Tóc Giả trong đêm tối. Đến đây Cây Phỉ dừng lại đánh hơi và nghe ngóng. Đó là lúc trời tang tảng sáng, đúng cái giờ mà lũ cú quay lại, thường là để săn mồi. Mặc dầu một chú thỏ trưởng thành không gặp nguy hiểm với loài cú, nhưng chỉ có rất ít thỏ dám phớt lờ bọn cú. Lúc này, chồn và cáo có thể lang thang ở ngoài đồng, nhưng trời vẫn tối và ẩm ướt nên Cây Phỉ, trong tâm trạng tự tin, vui vẻ cho rằng chú sẽ đánh hơi hoặc nghe thấy bất cứ động tĩnh gì của những con thú săn mồi trên bốn chân.
Bất kể nông trại ở đâu thì cũng phải nằm bên ngoài con đường nhựa chạy dọc bờ bên kia cánh đồng. Chú bắt đầu lên đường với nhịp điệu khoan thai và Nồi Đất bám sát gót. Cả hai di chuyển lặng lẽ, khi chạy ra bên ngoài lúc lẩn vào bên trong hàng rào mà Nhựa Ruồi và Hoa Chuông đã đến, đi qua dưới những sợi dây cáp kêu ù ù mệt mỏi trong bóng tối phía trên đầu. Chỉ mất vài phút là hai chú thỏ đã tới được con đưòng nhựa.
Có những thời điểm chúng ta biết chắc rằng mọi việc đều tốt đẹp. Một câu thủ bóng chày khi đã chơi tốt lượt của mình về sau sẽ mạnh miệng nói anh ta cảm thấy mình không thể để mất bóng, còn một diễn giả hoặc một nghệ sĩ trong một ngày may mắn, có thề cảm thấy khán giả đang nâng bổng mình lên như thể anh ta đang bơi trong một làn nước bồng bềnh, kỳ diệu. Cây Phỉ vào lúc này cũng có cảm giác ấy. Bao quanh chú là màn đêm mùa hè tĩnh lặng, lung linh ánh sao khuya đang mờ nhạt dần cùng ánh ngày hửng lên ở chân trời. Chẳng có gì phải sợ hãi và chú sẵn sàng đi qua một ngàn cái sân trại, cái này nối tiếp cái khác. Khi chú ngồi với Nồi Đất trên lũy đất phía trên con đường bốc lên mùi hắc ín, chú thấy chẳng có vẻ gì là cực kì may mắn khi nhìn thấy một con chuột con liến láu chạy qua hàng rào đối diện và biến mất trong một lùm cỏ úa vàng ở bên dưới. Chú biết mình sẽ tìm được kẻ chỉ đường hay ai đó đại loại như thế. Cây Phỉ nhảy vội xuống và tìm thấy con chuột kia đang dụi mõm trong cái hào.
- Nông trại, - Cây Phỉ lên tiếng hỏi. - cái nông trại ở đâu vậy - gần đây, trên quả đồi nhỏ kia phải không?
Con chuột nhỏ tròn xoe mắt nhìn chú, những sợi ria mép rung rung. Nó không có lý do gì đặc biệt để phải tỏ ra thân thiện, nhưng có cái gì đó ở cái nhìn của Cây Phỉ làm cho việc trả lời chú một cách lễ độ là điều thật tự nhiên.
- Bên kia đường. Trên kia kìa.
Da trời mỗi lúc một hửng lên một chút. Cây Phỉ chạy qua đường mà không đợi Nồi Đất, cậu này chỉ đuổi kịp chú ở dưới chân hàng rào gần con đường nhỏ. Từ đây, sau một hồi nghe ngóng, chúng bắt đầu phóng ngược lên dốc hướng về chân trời phía Bắc.
Nuthanger giống như một điền trang trong truyện cổ. Nằm giữa Ecchinswell và chân núi Watership Down, cách mỗi nơi này khoảng nửa dặm là một quả đồi lớn, dốc đứng ở bờ phía Bắc nhưng lại thoai thoải ở phía bờ nam - giống như bản thân đỉnh núi. Những con đường hẹp bò lên cả hai sườn dốc và cùng dẫn đến một vòng cây du bao quanh cái đỉnh bằng phẳng. Bất cứ ngọn gió nào - dù nhẹ đến mấy - thổi từ ngọn cây du cũng làm vang lên tiếng xào xạc, xao động đầy sức sống của muôn ngàn chiếc lá. Bên trong hàng cây này là một nông trại cùng với chuồng gia súc và nhà phụ. Ngôi nhà chắc cũng phải hơn hai trăm năm tuổi hoặc có thể còn lâu đời hơn nữa, xây bằng gạch, mặt tiền lát đá trông về hướng Nam phía rặng núi. Ở mặt phía Đông ngay trước nhà chính có một chuồng gia súc nằm cách ra một đoạn trên một nền đất đôn cao tựa như trên những bệ đá; đối điện với nó là một chuồng bò.
Khi Cây Phỉ và Nồi Đất lên đến đỉnh dốc, những tia sáng đầu tiên soi rõ khoảng sân và ngôi nhà. Mấy con chim thích đậy sớm đang rộn ràng ca hát khắp nơi kia cũng là những con chim mà chúng đã quen thuộc trong quãng thời gian trước. Một con chim cổ đỏ đang liến thoắng ca, đậu vắt vẻo trên một cành thấp rồi lắng nghe tiếng con khác đáp lại từ phía ngoài nông trại. Một con mai hoa cất tiếng hót vang một bài ngắn, đoạn xốc cánh bay lên, cao.cao trên ngọn cây du, rồi một khúc hát đối đáp khác lại bắt đầu. Cây Phỉ dừng lại, ngồi thẳng lên, làm như vậy có thể đánh hơi các loại mùi trong không khí tốt hơn. Mùi rơm rạ và phân bò xộc lên trộn lẫn với mùi lá du, mùi tro bếp và mùi thức ăn cho bò. Những mùi mờ nhạt hơn thoảng đến mũi chú cũng tựa như bội âm của một cái chuông rung lên đối với một cái tai lành nghề. Mùi thuốc lá, thông thường có nghĩa là có nhiều mèo, có vẻ ít chó hơn và rồi - một cách bất ngờ và vượt ra ngoài mọi nghi ngờ - là thỏ. Chú nhìn sang Nồi Đất và thấy chú này cũng đã ngửi thấy nó.
Trong khi đánh hơi chúng cũng để tai lắng nghe nữa. Ngoài những chuyền động nhẹ nhàng chấp chới của chim chóc và tiếng vo ve của đàn ruồi vang lên tức thì chung quanh chúng, cả hai không thể nghe được gì ngoài tiếng rì rầm không ngớt của cây cối. Bên dưới cái dốc phía Bắc của dãy núi, không gian vẫn yên tĩnh, nhưng ở đây ngọn gió nam đã được khuếch đại bởi hàng cây du với vô vàn những chiếc lá nhỏ luôn lay động cũng giống như tác động của ánh mặt trời lên một khu vườn được nhân lên nhờ những giọt sương đêm. Tiếng động đến từ những cành cây trên ngọn khiến Cây Phỉ phải lo ngại bởi vì nó có thể là một hướng tấn công - một hướng tấn công sẽ chẳng bao giờ kết thúc; chú và Nồi Đất vẫn ngồi im một lúc, lắng nghe chăm chú tiếng động này, với âm thanh lớn nhưng vô nghĩa ở rất cao trên đầu.
Chúng không nhìn thấy con mèo nào, nhưng ở gần nhà có rnột cái cũi chó mái bằng. Chúng thoáng thấy một con chó ngủ bên trong, một chú khuyển lớn, bộ lông óng mượt đen tuyền đang gác đầu lên hai chân trước. Cây Phỉ không nhìn thấy dây xích, nhưng một lúc sau chú nhận ra một sợi dây thừng mỏng thò ra khỏi cũi, đầu dây kia cột chặt vào mái. “Tại sao lại là một sợi dây thừng?”, chú tự hỏi rồi nhủ thầm, “bởi vì như thế nếu chó không ngủ thì cũng không thể tạo ra những tiếng động lách cách phiền toái trong đêm như khi nó đeo dây xích”.
Hai chú thỏ bắt đầu quanh quẩn bên ngoài ngôi nhà. Đầu tiên chúng còn thận trọng ngồi yên trong chỗ nấp, tiếp tục quan sát xem có mèo không. Nhưng khi không thấy bóng dáng con mèo nào, chẳng mấy chốc chúng trở nên mạnh dạn hơn, chạy ngang qua những khoảng trống, thậm chí còn dừng lại nhấm nhá một cọng bồ công anh trong một vạt đất mọc đầy rêu và cỏ dại. Lần theo mùi, Cây Phỉ tìm đường đến cái chuồng mái thấp. Cửa chuồng hé mở chỉ vừa vặn để chú lách qua, chú dừng lại một chút chỗ ngưỡng cửa xây bằng một hàng gạch, Ngay đối diện với cánh cửa trên một bục gỗ rộng - kiểu như một cái sàn - là một chuồng thỏ phía trước có chăng lưới thép. Qua những đống lộn xộn, đen đen chú nhìn thấy một cái bát màu nâu, vài thứ xanh xanh và những cái tai của hai ba chú thỏ. Trong khi chú trố mắt nhìn, một chú trong bọn bước đến gần lưới thép, nhìn ra ngoài và trông thấy chú.
Bên cạnh cái bục, ở phía gần Cây Phỉ có một bó rơm để lộn ngược. Cây Phỉ nhẹ nhàng nhón gót nhảy lên trên bó rơm và từ đấy nhảy đến những tấm ván dày, vẻ cũ kỹ với bề mặt trơn nhẵn, bụi bặm, phủ đầy rơm rạ. Sau đã chú quay lại chỗ Nồi Đất đang nằm đợi bên ngoài.
- Nồi Đất ơi, - chú nói. - chỉ có một cách thoát khỏi nơi này. Em hãy canh chừng mèo nếu không chúng ta có thể bị sập bẫy đấy. Đứng ở ngoài cửa, nếu thấy một con mèo bên ngoài thì lập tức báo anh biết nhé.
- Vâng, thưa Thủ lĩnh Cây Phỉ. - Nồi Đất nói. - Tất cả đều rất rõ ràng cho đến lúc này.
Cây Phỉ đi sang đầu kia cái chuồng, lưới thép nhô ra khỏi cái kệ cho nên chú không thể chạm tới hay nhìn vào nhưng có một cái lỗ nhỏ ở tấm ván bịt bên hông và ở đầu kia chú có thể nhìn thấy một cái mũi giật giật.
- Xin chào, tôi là Thủ lĩnh Cây Phỉ. Tôi đến để nói chuyện với các bạn. Các bạn có hiểu tôi không?
Tiếng trả lời nghe hơi lơ lớ nhưng đúng là ngôn ngữ của thỏ, hoàn toàn dễ hiểu.
- Có, chúng tôi hiểu anh. Tên tôi là Hoằng Dương. Anh từ đâu đến vậy?
- Từ ngọn núi đằng kia. Tôi và những người bạn, chúng tôi sống theo cách mình muốn mà không có con người. Chúng tôi ăn cỏ, nằm sưởi dưới nắng và ngủ trong những cái hang dưới đất. Các bạn có bao nhiêu người?
- Bốn, cả đực lẫn cái.
- Các bạn có được ra ngoài không?
- Có, thỉnh thoảng thôi. Một đứa bé đưa chúng tôi ra và cho chúng tôi vào một cái bãi rào kín trên bãi cỏ.
- Tôi đến đây để nói với các bạn về cánh đồng thỏ của chúng tôi. Chúng tôi cần thêm nhiều thỏ nữa. Chúng tôi muốn các bạn chạy trốn khỏi trang trại này và nhập bọn với chúng tôi.
- Có một cái cửa lưới ở phía sau chuồng, - Hoằng Dương nói. - anh hãy lại đằng ấy, ta dễ nói chuyện với nhau hơn.
Cửa làm bằng lưới thép nẹp lại bằng thanh gỗ, với hai bản lề bằng da đóng vuông góc và một khóa có cài chốt, buộc chặt bằng dây thép. Bốn cô chú thỏ xúm lại chỗ này, ép mũi qua mắt lưới. Hai chú - Nguyệt Quế và Thanh Nhàn - thuộc giống thỏ Angora màu đen lông ngắn. Hai thỏ còn lại, Hoằng Dương và cô thỏ của chú, Cỏ Khô, thì là giống Himalaya lông đen pha trắng.
Cây Phỉ bắt đầu kể về cánh đồng thỏ trên núi, về niềm vui và cuộc sống tự do mà những thỏ hoang như chú được tận hưởng. Bằng cung cách thẳng thắn như thường lệ, chú nói về vấn đề của chúng là thiếu thỏ cái và chú đã làm thế nào để cố kiếm vài cô về.
- Nhưng tôi không muốn bắt cóc những bạn thỏ cái ở đây. Cả bốn người hãy gia nhập với chúng tôi, đực cũng như cái. Chỗ chúng tôi rất rộng, có đủ chỗ cho tất cả mọi người. - Chú tiếp tục câu chuyện về bữa ăn tối trong ánh hoàng hôn và bữa sáng trong ánh bình minh trên những thảm cỏ dài.
Bốn cô chú thỏ trong chuồng xem ra đã bị chú làm cho vừa hoang mang vừa mê mẩn. Thanh Nhàn, cô thỏ cái giống Angora, một cô nàng khỏe mạnh, lanh lợi - tỏ ra rất kích động trước sự miêu tả của Cây Phỉ và đặt nhiều câu hỏi về cánh đồng thỏ cũng như vùng núi. Rõ ràng là họ nghĩ cuộc sống trong chuồng nhàm chán nhưng an toàn. Với những gì họ biết thì kẻ thù của thỏ khá nhiều, chỗ nào cũng có thể có và hình như đinh ninh rằng chẳng có mấy thỏ hoang còn tồn tại được bên ngoài. Cây Phỉ nhận ra rằng mặc dầu họ thích thú khi nói chuyện với chú và hoan nghênh chuyến viếng thăm của chú, bởi vì đây là một sự kiện vui vẻ mang lại chút sinh khí và thay đổi trong cuộc sống đều đều buồn tẻ của họ, nhưng nhìn chung họ không có khả năng đưa ra một quyết định và có quyết tâm hành động theo quyết định ấy. Họ không biết cách đưa ra một quyết định. Với Cây Phỉ và bạn bè chú, nhận thức và hành động là bản năng thứ hai, trong khi những thỏ này không bao giờ hành động để cứu cuộc sống của mình hoặc thậm chí tự tìm ra thức ăn. Nếu chú muốn đưa bất cứ thỏ nào trong số này đi xa đến tận chỗ mình thì phải có một cái gì thúc đẩy họ. Chú ngồi yên lặng một chút, nhấm nháp những hạt cám vương vãi trên tấm ván trước chuồng thỏ. Sau cùng chú nói:
- Bây giờ tôi phải quay lại chỗ các bạn tôi trên núi, nhưng rồi sẽ quay trở lại. Chúng tôi sẽ quay lại vào một đêm nào đó và khi chúng tôi quay lại, xin hãy tin là chúng tôi có thể mở cửa chuồng cũng dễ dàng như người nông dân mở, và nếu lúc đó bất cứ ai muốn sống đời tự do thì có thể đi theo chúng tôi.
Hoằng Dương toan đáp lại thì bất thình lình Nồi Đất nói vọng vào:
- Anh Cây Phỉ, có một con mèo ở ngoài sân kìa.
- Chúng tôi không sợ mèo, - Cây Phỉ nói với Hoằng Dương. - rniễn là chúng tôi ở nơi trống trải.
Cố không tỏ ra vội vã, chú quay lại sàn, bằng cách nhảy xuống bó rơm và đi nhanh ra cửa. Nồi Đất đang nhìn qua bản lề. Cậu ta đang sợ phải biết.
- Em nghĩ nó ngửi thấy mùi chúng ta, anh Cây Phỉ à. - chú nói. - Em e là nó biết chúng ta ở đây.
- Vậy thì đừng nán lại đây nữa. Bám sát theo anh và bỏ chạy khi anh chạy.
Rồi không liếc qua khe cửa, chú vọt qua cánh cửa khép hờ của chuồng nuôi gia súc rồi dừng lại ở bậc thềm
Một con mèo mướp với bộ ngực và bốn chân trắng muốt đang ở đầu kia cái sân nhỏ, nó đủng đỉnh và khoan thai đi dọc theo một đống củi. Khi Cây Phỉ xuất hiện ở ngưỡng cửa nó nhìn thấy chú ngay, liền đứng im với đôi mắt xanh mở lớn và cái đuôi ngoe nguẩy. Cây Phỉ từ tốn nhảy qua ngưỡng cửa và dừng lại lần nữa . Mặt trời đã hiện ra, đổ ánh nắng xiên xiên qua khoảng sân và trong không khí lặng như tờ, nghe vang lên tiếng đập cánh vo ve của đàn ruồi đang bay quanh một đống phân cách đó chừng hơn một mét. Nghe rõ mùi của rơm rạ, bụi bặm lẫn trong hương táo gai.
- Nom anh có vẻ đói ăn đấy nhỉ. - Cây Phỉ nói với con mèo. - Bọn chuột ngày một trở nên khôn ngoan hơn, tôi chắc thế.
Mèo không trả lời. Cây Phỉ ngồi xuống, mắt hấp háy trong ánh nắng. Mèo thu người nằm nép xuống sân, gần như làm thành một đường thẳng, vươn cái đầu về phía giữa hai chân trước. Gần ngay sau chú, Nồi Đất tỏ ra bồn chồn đến nỗi Cây Phỉ vốn không rời mắt khỏi mèo vẫn có thể cảm thấy đàn em đang run rẩy như thế nào.
- Đừng có sợ vãi vía như thế, Nồi Đất. - chú thì thầm. - Anh sẽ đưa em ra khỏi đây, nhưng em phải đợi đến khi nó tiến lại chỗ chúng ta. Đứng im nhé.
Con mèo bắt đầu quật đuôi qua lại. Phần thân sau của nó nhổm lên, lắc từ bên này sang bên kia trong sự kích động tăng dần.
- Anh không thể chạy à? - Cây Phỉ nói tiếp. - Tôi nghĩ là không. Đồ mắt lồi, đồ liếm đĩa cửa sau.
Con mèo quăng mình qua khoảng sân và hai chú thỏ nhảy lên nghênh chiến với những cú đạp hai chân sau. Mèo di chuyển rất nhanh và mặc dù cả hai chú thỏ đã cố gắng đi chuyển nhanh không kém, chúng khó mà ra khỏi sân đúng lúc. Khi cả hai phóng đến một bên chuồng gia súc dài, chúng nghe thấy tiếng con chó giống Labrador bị kích động sủa inh ỏi và chạy tớn lên cho đế khi căng hết sợi dây buộc ở cổ. Có tiếng người hét lên nạt nộ nó. Từ chỗ núp ở bờ rào gần đường đi, chúng quay đầu nhìn lại. Con mèo dừng khựng lại, liếm một bàn chân, vờ như không thèm chú ý đến chúng.
- Loài mèo không thích tỏ ra ngu ngốc. - Cây Phỉ nói. - Nó sẽ không gây cho chúng ta bất cứ rắc rối nào đâu. Nếu nó không tấn công chúng ta như thế, nó sẽ theo chúng ta đi xa hơn và chắc chắn sẽ gọi con khác cứu viện. Và theo cách nào đó, em không thể xông tời trước nếu chúng không ra đòn trước. Thật may là em đã nhìn thấy nó trước, Nồi Đất à.
- Em rất mừng là đã giúp ích được ít nhiều. Nhưng chúng ta làm gì bây giờ và tại sao anh lại nói chuyện với mấy thỏ trong chuồng?
- Anh sẽ nói những chuyện đó sau. Bây giờ thì đi về cánh đồng và ăn cỏ, sau đó chúng ta sẽ lên đường về nhà, thong dong như em muốn.

Chương 25. Cuộc Đột Kích


Chàng đi đến chỗ đồng ý, còn làm gì được nữa, chàng đâu phải một ông hoàng…
Không ai có chỗ nào để nói với chàng, "Đã đến lúc phải đưa ra đề nghị."
(Nhà vua phải chết của Mary Renault)
*
Cuối cùng thì mãi khi trời tối mịt Cây Phỉ và Nồi Đất mới quay về tới Tổ Ong. Chúng vẫn ăn trên cánh đồng khi trời đổ mưa, mang theo làn gió lạnh, và chúng tìm chỗ trú đầu tiên trong một cái hào gần đấy, rồi, bởi cái hào nằm trên một con dốc nên một dòng nước mưa cứ khoảng mười phút lại chảy vào, chúng lại trú giữa những chuồng gia súc nằm giữa đoạn đường xuống dốc. Chúng núp trong một đống rơm to và trong suốt thời gian ấy cố im lặng để lắng nghe câu chuyện của bọn chuột. Rồi tất cả trở nên yên lặng, chúng buồn ngủ và thiếp đi trong khi bên ngoài trời vẫn mưa rả rích suốt buổi sáng. Khi chúng tỉnh giấc thì Cây Phỉ dường như không có gì phải vội vã. Sẽ chỉ chuốc thêm phiền hà trong tiết trời ẩm ướt như thế này, dù sao thì không một chú thỏ đầy lòng tự trọng nào lại bỏ chỗ trú đi lang thang ngoài chuồng gia súc kiếm cái ăn. Một đống khoai và củ cải cho chúng đánh chén no nê và cả hai chỉ ra khỏi nhà kho khi ánh sáng đã bắt đầu tắt dần. Chẳng bao lâu sau, chúng về đến cánh rừng trước khi trời tối một chút, chẳng có gì phiền toái ngoài việc bộ lông bị thấm nước mưa gây cảm giác khó chịu. Chỉ có hai ba chú thỏ là vẫn bất chấp thời tiết chạy ra ngoài kiếm ăn. Không ai để ý đến sự vắng mặt của bọn chúng, Cây Phỉ lập tức chui vào hang sau khi dặn Nồi Đất không được hé môi với ai về chuyến phiêu lưu của chúng. Chú thấy cái hang của mình trống trơn, bèn nằm xuống và ngủ ngay lập tức.
Thức dậy, chú thấy Thứ Năm đang nằm bên cạnh như thường lệ. Trời còn chưa sáng. Nền hang khô ráo và ấm cúng, một cảm giác mới khoan khoái làm sao, chú toan ngủ nướng thêm một lúc nữa thì nghe tiếng Thứ Năm nói.
- Người anh ướt hết cả đấy Cây Phỉ ạ.
- Ừ, thì có chuyện gì đâu? Em cũng biết là cỏ ướt mà.
- Anh không bị ướt khi đi ăn. Người anh sũng nước. Anh không có mặt ở đây suốt cả ngày hôm qua, đúng không nào?
- Ồ phải, anh xuống núi kiếm cỏ non.
- Ăn củ cải thì có, lại nữa, người anh sặc mùi nông trại - mùi phân gà này, mùi cám heo này. Nhưng ngoài ra còn có một mùi gì đó kỳ kỳ mà em không ngửi ra được. Có chuyện gì xảy ra vậy?
- À… có va chạm một chút với một con mèo, nhưng làm gì mà lo lắng dữ vậy?
- Bởi vì anh đang che giấu một điều gì đó, Cây Phỉ ạ. Một điều rấtnguy hiểm.
- Chỉ có Nhựa Ruồi mới trong vòng nguy hiểm chứ không phải anh. Việc gì phải bận tâm đến anh cơ chứ?
- Nhựa Ruồi á? - Thứ Năm hỏi lại, giọng ngạc nhiên quá đỗi. - Nhưng Nhựa Ruồi và mấy người kia đã đến được cánh đồng thỏ lớn vào chập tối hôm qua cơ mà. Chính Kehaar đã bảo thế. Chẳng nhẽ anh định nói mình không biết gì về chuyện này?
Cây Phỉ có cảm giác mình vừa bị bắt quả tang.
- Ừ, anh biết rõ chứ, anh rất mừng khi nghe thế.
- Vậy là mọi việc xảy ra như thế này, - Thứ Năm nói. - Hôm qua anh tìm đến nông trại và chạy trốn khỏi một con mèo. Bất kể anh làm gì thì chuyện ấy cũng choán hết tâm trí anh nên tối hôm qua anh mới quên không hỏi chuyện về Nhựa Ruồi.
- Chà, thôi được rồi Thứ Năm. Anh sẽ kể cho em chuyện này. Anh mang theo Nồi Đất đến cái nông trại mà Kehaar đã nói với chúng ta, nơi có những thỏ sống trong lồng. Anh tìm ra chỗ mấy thỏ nọ, kể cho bọn họ về chúng ta và anh nuôi dự định sẽ quay lại đấy vào một dịp khác, giải thoát cho họ, đưa họ đến gia nhập với đại gia đình chúng ta ở đây.
- Để làm gì?
- À, ở đó có hai cô thỏ. Đó chính là lý do.
- Nhưng nếu Nhựa Ruồi thành công thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ có khối thỏ cái, với lại từ những gì em nghe được về thỏ nhà thì họ không dễ dàng hòa nhập với cuộc sống hoang dã đâu. Sự thật thì anh chỉ cố tỏ ra mình thông minh thôi.
- Cố tỏ ra mình thông minh? - Cây Phỉ hỏi lại. - Thôi được rồi, hãy để xem Tóc Giả và Mâm Xôi nghĩ gì về chuyện này."
- Liều mạng sống của anh và có thể của những anh em khác vì một cái gì đó quá vụn vặt hoặc không đáng. - Thứ Năm nói giọng chua chát. - Ừ, phải mà, tất nhiên mấy người kia sẽ nghe anh vì anh là thủ lĩnh của họ mà. Người ta nghĩ là anh luôn đưa ra những quyết định đúng đắn khôn ngoan và họ tin tưởng anh. Thuyết phục được họ chẳng chứng minh được điều gì, nhưng tới khi có vài thỏ chết thì ai cũng sẽ thấy anh là tên ngốc, nhưng khi ấy thì đã quá trễ.
- Thôi im đi, anh muốn ngủ thêm một lúc nữa.
Trong bữa ăn vào sáng hôm sau, với sự phụ họa đầy kính trọng của Nồi Đất, Cây Phỉ kể cho bạn bè nghe về chuyến đi của chú đến nông trại. Như chú chờ đợi, Tóc Giả đưa ra ngay ý kiến hãy làm một cuộc đột kích giải phóng cho lũ thỏ chuồng.
- Chẳng có gì sai sót ở đây cả. - chú hào hứng nói. - Đấy là một ý tưởng tuyệt vời, Cây Phỉ à! Tôi không biết anh làm thế nào mở được chuồng thỏ, nhưng Mâm Xôi sẽ lo chuyện đó. Chỉ có một chuyện làm tôi phiền lòng là khi nghĩ đến việc anh chạy trốn khỏi con mèo. Một chú thỏ ra thỏ thì phải đấu một trận sống mái với mèo vào bất cứ lúc nào chứ. Mẹ tôi một lần đã nghênh đón một con, bà đã dạy cho nó một bài học nhớ đời, tôi có thể nói vời anh thế này: cào rách bộ lông nó ra, làm cho te tua như bông cỏ lau vào mùa thu ấy! Cứ việc để con mèo trong trại ấy cho Tóc Giả này và một hai cậu khác nữa!
Với Mâm Xôi cần phải mất công thuyết phục nhiều hơn, nhưng cũng như Tóc Giả và chính Cây Phỉ, chú thầm thất vọng vì không được đi một chuyến với Nhựa Ruồi nên khi hai chú kia chỉ ra rằng chúng trông cậy vào chú trong việc nghĩ ra cách mở cửa chuồng thì chú lập tức đồng ý.
- Chúng ta có cần đem tất cả mọi người đi không? - chú hỏi. - Anh nói rằng con chó bị cột lại, và tôi cho rằng ở đó không có quá ba con mèo đâu. Quá nhiều thỏ cùng đi sẽ là một bất lợi, nhất là trong đêm tối, nếu ai đó bi lạc thì chúng ta lại phải mất thời gian đi tìm.
- Vậy thì chỉ cần mang theo Bồ Công Anh, Thủy Cự và Đầu Gỗ thôi, - Tóc Giả kết luận. - những anh em còn lại cứ để ở nhà. Anh có muốn làm ngay trong đêm nay không, Thủ lĩnh Cây Phỉ?
- Có chứ, càng sớm càng tốt. - Cây Phỉ nói. - Tập hợp ba người kia lại và thông báo cho họ biết. Tiếc là trời đang tối dần chứ không thì chúng ta có thể mang theo Kehaar, anh ta chắc sẽ khoái vụ này lắm.
Tuy vậy, hy vọng tiến hành đột kích ngay trong đêm ấy đã tan thành mây khói, vì trời lại dổ mưa trước lúc trời tối và cứ rả rích rơi suốt cùng với ngọn gió mùa Tây Bắc mang theo cái mùi ngọt ngọt chua chua của hoa thủy lạp từ hàng rào phía dưới. Cây Phỉ ngồi trên lũy đất cho đến khi ánh sáng đã nhạt màu. Cuối cùng, khi đã biết chắc là mưa sẽ kéo dài suốt đêm, chú nhập hội với cả bọn ở Tổ Ong. Chúng thuyết phục được Kehaar đi xuống dưới để tránh gió và mưa. Một trong những câu chuyện của Bồ Công Anh kể về El-ahrairah được nối tiếp bằng một câu chuyện lạ thường khiến cho các chú thỏ chú nào chú nấy đều hoang mang nhưng đầy say sưa về cái thời mà Thần Mặt trời bỏ đi du ngoạn để cả thế giới này bị vậy bọc trong mưa. Nhưng rồi một người đàn ông đã xây một cái chuồng vĩ đại nổi trên mặt nước chứa tất cả chim chóc và muông thú cho đến khi Thần Mặt trời trở về giải phóng chúng ra khỏi chuồng.
- Nó sẽ không xảy ra vào tối nay chứ thưa Thủ lĩnh Cây Phỉ? - Nồi Đất hỏi, vẫn để tai lắng nghe tiếng mưa gõ lộp độp lên đám lá sồi bên ngoài. - Không có một cái chuồng nào ở đây cả.
- Kehaar sẽ mang cậu bay tới mặt trăng, Nồi Đất ạ, - Hoa Chuông đùa. - và cậu có thể đậu xuống đầu Tóc Giả như một cành bulô trong sương giá. Nhưng đã đến lúc ưu tiên cho việc ngủ đây.
Tuy vậy, Thứ Năm trước khi đi ngủ lại nói với Cây Phỉ về vụ đột nhập vào nông trại.
- Em cho rằng sẽ chẳng ăn thua gì khi yêu cầu anh đừng tham gia vụ này, phải không nào?
- Nghe đây, - Cây Phỉ bực bội. - có phải em có linh cảm điều xấu về nông trại không? Nếu có thì cứ nói toạc ra đi, được chứ? Sau đó tất cả chúng ta sẽ cân nhắc nặng nhẹ.
- Em không có linh cảm gì về nông trại, dù ở phương diện này hay khác. - Thứ Năm đáp. - Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi chuyện đều ổn. Linh cảm chỉ đến khi nó đến - và không phải bao giờ cũng đến. Không phải là với con chó rừng cũng như con quạ. Nếu có chuyện ấy, em sẽ chẳng biết gì về chuyện xảy ra với Nhựa Ruồi và những người cùng đi. Nó có thể xấu hoặc tốt. Nhưng có gì đó khiến em lo sợ cho anh Cây Phỉ à, chỉ anh thôi chứ không phải những người khác. Anh hiện lên cô độc, rõ nét và dễ thấy, như một cành cây chết đâm lên giữa bầu trời vậy.
- Phải, nếu em có ý muốn nói em thấy trước những rắc rối xảy ra cho anh chứ không phải cho những người kia vậy thì hãy nói với họ; anh sẽ để cho họ tự quyết định là anh có phải từ bỏ vụ này không. Nhưng em cũng biết điều này có nghĩa là bỏ cuộc. Cho dù em có tiếng nói trong chuyện này thì người ta cũng sẽ nghĩ rằng anh đang sợ hãi.
- Em thì cho rằng chuyện này không đáng để ta phải liều. Tại sao không đợi cho đến khi bọn Nhựa Ruồi trở về? Đó 1à tất cả những gì chúng ta phải làm.
- Anh sẽ có cảrn giác như bị sập bẫy nếu khoanh tay ngồi đó mà đợi Nhựa Ruồi. Em không thấy điều anh muốn là đưa được những cô thỏ kia về đây trước khi anh ấy trở về sao? Nghe này, Thứ Năm, anh sẽ nói cho em điều này. Anh đã đi đến chỗ tin tưởng em nhiều đến nỗi anh sẽ hết sức cẩn thận. Thật ra, anh thậm chí sẽ không vào trong trại, anh sẽ ở bên ngoài, trên đỉnh dốc, và nếu điều này cũng không làm em hết lo ngại thì anh cũng không biết phải làm gì hơn nữa.
Thứ Năm không nói gì thêm, còn Cây Phỉ thì tập trung suy nghĩ về cuộc tấn công cùng những khó khăn đặt ra khi đưa những chú thỏ nhà đi cả một quãng đường dài về hang.
Hôm sau là một ngày rực rỡ và khô ráo, làn gió khỏe khoắn tươi mát dọn sạch những gì còn lại sau cơn mưa đêm qua. Những đám mây từ phương Nam lững lờ trôi đến giăng trên đỉnh núi, giống như chúng đã từng làm vào cái buổi tối tháng Năm khi Cây Phỉ lần đầu tiên trèo lên núi. Nhưng vào lúc này mây treo cao hơn và cũng bé nhỏ hơn, cuối cùng chúng cụm lại thành một canh đồng bông trắng muốt giống như một bãi biển khi triều xuống. Cây Phỉ dẫn Tóc Giả và Mâm Xôi lên tận chóp núi, nơi chúng có thể nhìn xuống Nuthanger ngự trên một quả đồi nhỏ. Chú mô tả cách tiếp cận nơi này và tiếp tục giải thích làm thế nào tìm thấy chuồng thỏ. Tóc Giả đang rất cao hứng. Ngọn gió sớm đầy sảng khoái và viễn cảnh hành động kích thích chú ghê gớm; chú đã dành thời gian luyện tập với Bồ Công Anh, Đầu Gỗ và Thủy Cự, chú đóng vai mèo và khuyến khích bọn chúng tấn công mình như thật. Cây Phỉ, sau cuộc tranh cãi với Thứ Nărn có phần phiền muộn nhưng cũng đã lấy lại được tinh thần khi quan sát đám bạn đánh trận giả trên bãi cỏ và chấm dứt những suy tư bằng cách tham gia trò chơi, thoạt đầu với tư cách kẻ tấn công rồi sau đó vờ là con mèo, hai mắt trợn trừng, giận run lên với toàn thế giới giống như con mèo mướp ở trại Nuthanger.
- Tôi sẽ thất vọng lắm lắm nếu chúng ta không gặp một con mèo nào. - Bồ Công Anh nói, trong lúc đợi đến lượt mình chạy qua một cành sồi gãy từ bên này sang bên kia, cào cào nó hai lần rồi lao tới lần nữa. - Tôi cảm thấy đó là một con vật thật sự nguy hiểm.
- Eng hãy canh chừng , eng Bồ Cung Ang. - Kehaar đang đi tìm ốc sên trong bãi cỏ gần đấy nói xen vào. - Eng Tóc Dả muốn nghĩ đây nà chò đùa, sẽ nàm eng can đảm hơn. Lũ mèo không phải nà chò đùa đâu. Eng không nhìn thấy , không nghe thấy tiếng . Rồi bụp một phát, phóng đến.
- Nhưng chúng tôi đâu có đến đó để ăn hả Kehaar. - Tóc Giả nói. - Và điều này làm cho mọi việc khác hẳn. Chúng tôi không thể không canh chừng mèo trong suốt thời gian đó.
- Tại sao không ăn thịt mèo? - Hoa Chuông hỏi. - Hoặc giả mang một con về đây để nhân giống? Điều này sẽ khiến kho dự trữ của hang thỏ không bao giờ cạn.
Cây Phỉ và Tóc Giả đi đến quyết định, cuộc đột kích sẽ diễn ra ngay sau khi màn đêm buông xuống và nông trại đã chìm vào giấc ngủ. Thế có nghĩa là chúng sẽ phải vượt qua nửa dặm đường tới những chuồng gia súc nằm phía ngoài vào lúc mặt trời lặn, thay vì mạo hiểm lần mò trong đêm tối qua một vùng đất mà chỉ mình Cây Phỉ biết rõ. Chúng có thể ăn vụng củ cải ở chuồng gia súc trong lúc đợi trời tối hẳn, và chỉ phải đi một quãng ngắn đến nông trại sau khi đã được nghỉ ngơi tốt. Rồi - với điều kiện chúng có thề đương đầu với lũ mèo - thì có khối thòi gian để xử lý cái chuồng; trong khi nếu chúng tới đây trước lúc trời sáng thì sẽ còn rất ít thời gian bởi vì con người sẽ xuất hiện. Dù gì thì cũng không thể bỏ lại bọn thỏ nhà cho đến sáng hôm sau.
- Và phải nhớ một điều, - Cây Phỉ nói thêm. - chắc chắn bọn kia sẽ mất nhiều thời gian để lên núi. Chúng ta phải tỏ ra kiên nhẫn đối với họ. Tôi thà làm điều này trong bóng đêm dù có kẻ thù hay không. Chúng ta không nên rơi vào tình trạng hỗn loạn dưới ánh sáng ban ngày.
- Nếu điều xấu nhất xảy ra, - Tóc Giả nói. - chúng ta có thể bỏ bọn thỏ kia lại và phóng đi ngay. Kẻ thù bắt con mồi ở sau rốt, đúng không? Tôi biết điều này thật cay nghiệt, nhưng nếu thực sự có rắc rối, chúng ta phải cứu lấy mình trước đã . Dù vậy, hãy cứ hy vọng là điều đó không xảy ra.
Khi chúng lên đường thì không thấy Thứ Năm lảng vảng gần đấy. Cây Phỉ thở phào nhẹ nhõm vì chú đã thầm e ngại Thứ Năm có thể nói một điều gì đó làm nản lòng các “chiến sĩ”. Nhưng không có gì đáng buồn hơn việc chứng kiến nỗi thất vọng của Nồi Đất khi bị bỏ lại phía sau, và thật là buồn lòng khi Cây Phỉ phải đoan chắc vời cậu ta rằng lý do duy nhất trong việc này là Nồi Đất đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của nó. Hoa Chuông, Quả Sồi và Nồi Đất đi theo tiễn chân đoàn đến tận hàng rào.
Chúng đến chuồng gia súc trong ánh sáng nhập nhoạng sau khi mặt trời đã lặn xuống chân núi. Đêm mùa hè không bị xáo động bởi tiếng cú rúc, mới thật yên ả làm sao, chúng nghe rõ rnồn một tiếng chúc chiu chúc chiu đơn điệu, ngắt quãng của một con chim họa mi trong khu rừng xa xa. Hai con chuột đang chui rúc trong đống củ cải nhe răng nhìn chúng, rồi không hiểu nghĩ thế nào liền bỏ đi để chúng lại một mình. Ăn xong, bồn chú thỏ nằm khểnh trên đống rơm cho đến khi tia sáng cuối cùng ở chân trời phía Tây cũng tan chảy mất.
Bọn thỏ không biết tên của những vì sao, tuy vậy, Cây Phỉ rất quen thuộc với cảnh ngôi sao có tên Capella mọc ở chân trời, chú một mình lặng ngắm đường đi của vì sao này cho đến khi ngôi sao dừng lại tỏa ra làn ánh sáng rực rỡ như ánh vàng ở chân trời phía Đông Bắc, chênh chếch bên phải nông trại. Khi ngôi sao này lên đến một điểm mà Cây Phỉ đã định sẵn, bên cạnh cành cây trơ trụi, chú liền đánh thức đồng đội dậy, dẫn cả bọn đi lên đồi về phía hàng cây đu. Lên gần đến đỉnh, chú nhanh nhẹn chui qua hàng rào và dẫn tất cả đi xuống một lối đi nhỏ. Cây Phỉ nói với Tóc Giả rằng, chú đã hứa với Thứ Năm sẽ tránh xa những mối nguy hiểm, còn Tóc Giả vốn thay đổi rất nhiều so với những ngày đầu thì không phạm sai lầm nào trong việc hiểu rõ vấn đề này.
- Một khi Thứ Năm đã nói thế thì tốt nhất anh hãy làm theo, Cây Phỉ ạ. - chú nói. - Dù sao thì việc này cũng phù hợp với chúng ta. Anh đứng ngoài nông trại, trong một chỗ thật an toàn, chúng tôi sẽ mang bọn thỏ trong kia ra cho anh, rồi anh tiếp quản họ và đưa chúng ta trốn thoát.
Điều mà Cây Phỉ không nói ra là, ý kiến để chú đứng đợi bên ngoài là đề nghị của chính chú và Thứ Năm chỉ bằng lòng bởi nó đã không thể thuyết phục được Cây Phỉ bỏ ý định đột nhập nông trại.
Nằm thu mình dưới một cành cây gãy ở vệ đường, Cây Phỉ lặng lẽ quan sát bọn kia theo Tóc Giả đi về phía sân trại. Chúng đi rất chậm, đúng kiểu nhà thỏ, nhảy lên, bước từng bước rồi đừng lại. Màn đêm đen thăm thẳm nên chẳng mấy chốc đã không nhìn thấy chúng nữa, chỉ còn nghe thấy tiếng bước chân chúng di chuyển dọc theo hông dãy nhà kho dài. Chú ngồi xuống đợi.
Tất cả những mong muốn được hành động của Tóc Giả được đáp ứng ngay lập tức. Con mèo mà chú gặp khi đi đến đầu kia dãy nhà kho không phải là con mèo mướp của Cây phỉ mà là một con mèo tam thể có bộ lông vàng pha trắng và đen (và vì thế có lẽ là một ả mèo); một con thuộc loại có thân hình thon gọn, dẻo dai, nhanh nhẹn với cái đuôi cong cong nãy giờ đang ngồi trên bậu cửa sổ dưới trời mưa hoặc là để mắt canh chừng phía đầu những cái bao tải trong những buổi chiều nắng gắt. Bây giờ nó thoăn thoắt vòng ra đầu nhà kho, nhìn thấy bọn thỏ và đứng ngây ra.
Không mất một giây do dự, Tóc Giả tiến thẳng về phía con mèo như thể con mèo chính là cành sồi ở trên núi. Nhưng thậm chí còn nhanh hơn chú, Bồ Công Anh lao về phía trước cào con mèo và tung người nhảy lên. Khi quay lại, Tóc Giả quăng cả sức nặng thân hình lên đối phương từ một hướng khác. Con mèo tiến đến sát gần chú ta, cắn xé, cào cấu và Tóc Giả lăn một vòng trên đất. Những chú khác có thể nghe thấy chú gừ gừ như thể chú cũng biến thành một con mèo và vật lộn để giữ đối thủ. Đoạn chú đưa một chân sau về phía con mèo, đá lia lịa ra sau vài cái.
Bất cứ ai quen thuộc với loài mèo đều biết chúng không khoái đương đầu với một kẻ tấn công đầy quả quyết. Một con chó cố tỏ ra tử tế với nó có thể bị nó quào cho ngay cái đau điếng. Nhưng cũng con chó ấy mà lại lao thẳng vào tấn công thì nhiều con mèo sẽ bỏ đi. Con mèo tam thể tỏ ra bối rối trước tốc độ cũng như nỗi tức giận của Tóc Giả trong lúc lao vào cuộc tấn công. Nó không phải là con vật yếu bóng vía, trái lại là một con vật bắt chuột rất tài, nhưng nó gặp vận xui khi đứng trước một tay khiêu chiến hết mình, một mực muốn chiến đấu đến cùng. Trong lúc nó loạng quạng tránh cú vồ của Tóc Giả thì Thủy Cự đã thoi cho nó một cú đấm vào ngay mặt. Đó là cú đánh cuối cùng bởi vì con mèo bị thương đã tìm đường chạy vụt khỏi sân và biến mất dưới hàng phên rào quanh chuồng bò.
Tóc Giả cũng bị chảy máu từ ba vết thương khá sâu nằm song song phía trong chân sau. Các chú thỏ khác xúm lại khen ngợi chú, nhưng chú vội gạt đi, nhìn quanh cái sân đen tối trong khi cố chịu đựng cái đau.
- Thôi nào, - chú làu bàu. - nhanh nhanh lên trong khi con chó vẫn còn chưa có động tĩnh gì. Chuồng gia súc: cái lồng thỏ - chúng ta đi đâu đây?
Chính Đầu Gỗ đã tìm ra cái sân nhỏ. Cây Phỉ đã lo rằng chuồng gia súc có thể gài chặt cửa, nhưng không, cửa đang mở và lũ thỏ lẩn vào trong, từng con một. Trong bóng đêm dày đặc chúng không nhìn thấy cái lồng nhưng có thể ngửi và nghe thấy những cử động của mấy cô chú thỏ kia.
- Mâm Xôi, - Tóc Giả nói rất nhanh. - cậu với tớ đến mở cửa chuồng. Ba người kia hãy quan sát. Nếu có con mèo nào khác đến gần, các cậu phải giải quyết lấy.
- Được cứ để việc ấy cho chúng tôi, - Bồ công Anh nói.
Tóc Giả và Mâm Xôi tìm thấy bó rơm và trèo lên tấm ván. Trong khi chúng làm thế, Hoằng Dương nói vọng ra từ trong lồng.
- Ai đấy? Thủ lĩnh Cây Phỉ à, anh trở lại đấy à?
- Thủ lĩnh Cây Phỉ cử chúng tôi tới đây. - Mâm Xôi đáp. - Chúng tôi sẽ mở cửa cho các bạn. Mọi người vui lòng theo chúng tôi đi chứ?
Im lặng, một vài cử động trên lớp rơm lót, rồi giọng Thanh Nhàn vọng ra:
- Vâng, cho chúng tôi ra đi.
Mâm Xôi hít hít đánh hơi thăm dò quanh cái cửa chăng lưới thép, rồi ngồi dậy gí mũi vào cái khung cửa, chiếc móc khóa và đinh kẹp. Mất một lúc chú mới nhận ra rằng cái bản lề bằng da đủ mềm có thể cắn đứt được. Sau đó chú lại phát hiện chúng nằm quá khít vời cái khung nên chú không thể ghé răng vào. Đã mấy lần chú cố tìm một cái khe nhưng cuối cùng đành ngồi xuống trên hai chân sau, bối rối.
- Tôi chẳng thấy cái cửa này có gì tốt đẹp cả. - chú nói. - Tôi tự hỏi không biết có còn cách nào khác không.
Đúng lúc ấy, Hoằng Dương tình cờ kiễng hai chân sau, đặt hai chân trước lên tấm lưới. Dưới sức nặng của thân hình chú, phần trên cái cửa bị đẩy nhẹ ra ngoài và phần trên của hai chiếc bản lề bằng da vặn nhẹ đi ở chỗ cái đinh kẹp phía ngoài gắn nó vào cái chuồng. Khi Hoằng Dương lại thả người xuống trên bốn chân, Mâm Xôi nhận thấy cái bản lề xoay đi một chút, tách ra khỏi khung gỗ.
- Bây giờ hãy thử xem nào. - chú nói với Tóc Giả.
Tóc Giả ghé răng vào bản lề và kéo. Nó rách ra một chút.
- Lạy Thần Mặt trời, sẽ được đấy. - Mâm Xôi tuyên bố với toàn thế giới như Hoàng thân Wellington ở Salamanca. - Chúng ta chỉ cần thời gian, thế thôi.

(Công tước Wellington, vị tướng người Anh nổi tiếng trong những trận đánh chống lại Napoleon Bonaparte ở Tây Ban Nha và Bỉ, cuối cùng ông đã đánh bại Napoleon trong trận Waterloo (Bỉ) năm 1815. Trận Salamanca diễn ra năm 1812 là một trong những chiến thắng nổi tiếng nhất của Wellington)

Cái bản lề được đóng rất chắc, nhất định không chịu chào thua cho đến khi hai chú ra sức cắn và giật. Bồ Công Anh mỗi lúc một trở nên nóng ruột đã đưa ra tín hiệu báo động giả hai lần. Tóc Giả nhận ra rằng bọn thỏ có nhiệm vụ canh gác từ chỗ quan sát và chờ đợi mà không có việc gì làm đã chuyển sang đổi chỗ cho Bồ Công Anh và phái Thủy Cự đến thay thế cho Mâm Xôi. Khi cuối cùng Bồ Công Anh và Thủy Cự kéo được miếng da ra khỏi cái đinh thì đích thân Tóc Giả bước ra sau chuồng. Nhưng dường như chúng vẫn chưa đi đến thành công. Mỗi khi một thỏ trong lồng đứng dậy, tì hai chân trước vào phần trên tấm lưới thép, cái cửa lại xoay nhẹ quanh trục của cái đinh kẹp và cái bản lề ở thấp hơn. Nhưng không thể cắn đứt cái bản lề này ra được. Thổi phù phù qua bộ ria và hoàn toàn mất hết kiên nhẫn, Tóc Giả cùng Mâm Xôi quay lại chỗ ngưỡng cửa.
- Phải làm gì bây giờ? - chú hỏi. - Chúng ta cần một phép màu giống như với tấm ván gỗ mà cậu đẩy đi trên dòng sông dạo nào.
Mâm Xôi nhìn cái cửa trong khi Hoàng Dương ở bên trong lại đẩy vào nó lần nữa. Phần trên của cáí khung cửa ép chặt vào bản lề da phía dưới, nhưng nó chắc và êm nên không thể ghé răng vào được.
- Đẩy theo hướng khác - đẩy từ phía này. - chú nói. - Anh đẩy đi Tóc Giả. Bảo cậu thỏ bên trong ngồi xuống.
Khi Tóc Giả đứng lên đẩy phía đầu cánh cửa về phía trong, khung cửa lập tức xoay đi một vòng xa hơn trước nhiều, vì không còn cái ngưỡng nằm dọc theo đáy chuồng phía ngoài chặn lại. Cái bản lề bằng da vặn xoắn lại, thiếu chút nữa thì Tóc Giả mất thăng bằng. Nếu không có cái đinh ghim bằng thép chặn không cho bản lề xoay tiếp, chú có thể ngã cả người vào trong lồng. Giật mình, chú nhảy ra sau, làu bàu trong miệng.
- Được thôi, anh đã nói đến một phép màu có đúng không nào? - Mâm Xôi kêu lên với vẻ thỏa mãn. - Làm lai lần nữa đi.
Không có mảnh da nào chỉ được giữ bởi cái đinh kẹp ở một đầu lại có thể trụ được lâu khi bị xoắn đi xoắn lại. Chẳng bao lâu sau, một trong những đầu đinh gần như biến mất dưới những cái cạnh bị cọ mòn.
- Cẩn thận nào. - Mâm Xôi nói. - Nếu nó đứt bất thình lình anh có thể bay đi đấy. Chỉ dùng răng kéo ra thôi.
Hai phút sau, cánh cửa nghiêng hẳn đi trên một cái đinh kẹp duy nhất. Thanh Nhàn đẩy cái bản lề mở ra và bước ra ngoài, theo sau là Hoằng Dương.
Khi nhiều sinh vật - con người hay muông thú - cùng phối hợp với nhau để vượt qua một trở ngại nào đó thì cuối cùng khi thành công lại thường chìm vào một quãng lặng - như thể chúng cảm thấy cần tỏ ra tôn trọng đối phương vì đã chiến đấu quá tốt trong cuộc chiến. Khi một cây đại thụ bị lung lay, bật gốc, nứt ra, đổ xuống với toàn bộ lá cành, nó sẽ tạo ra một cú va đập cuối cùng làm rung chuyển cả mặt đất. Sau đó, tất cả sinh vật trong rừng đều câm lặng và không ngồi ngay xuống. Nhiều giờ sau, những đống tuyết đã được dọn sạch và xe tải đã sẵn sàng chở con người về nhà tránh cái lạnh. Nhưng họ vẫn đứng lại một lúc, tựa người vào cán xẻng, chỉ gật đầu một cách nghiêm trang khi người đánh xe đi qua vẫy tay chào cảm ơn. Cái cửa lồng quỷ quyệt bây giờ không hơn gì một mảnh lưới thép, gắn vào một cái khung làm từ bốn mảnh gỗ ghép nối vào nhau và bọn thỏ ngồi lên tấm ván gỗ ngửi ngửi hít hít chứ không nói gì. Một lát sau Nguyệt Quế và Cỏ Khô còn lại trong lồng cũng ngại ngần nhảy ra ngoài nhìn quanh.
- Thế Thủ lĩnh Cây Phỉ đâu? - Nguyệt Quế hỏi.
- Ở cách đây không xa lắm, - Mâm Xôi nói. - Anh ấy đang đợi ở ngoài lối đi?
- Lối đi là cái gì?
- Lối đi? - Mâm Xôi hỏi lại giọng sửng sốt. - Chắc chắn… - Chú kịp dừng lại khi hiểu rằng những cô cậu thỏ này chẳng biết gì về đường đi với sân vuờn. Họ chẳng có ý niệm gì về môi trường chung quanh. Chú còn đang suy nghĩ xem điều này có ý nghĩa gì thì Tóc Giả lên tiếng.
- Không nên chần chừ nữa. - chú nói. - Đi theo tôi, tất cả các bạn.
- Nhưng đi đâu? - Hoằng Dương nói.
- Thì đi khỏi đây, tất nhiên rồi. - Tóc Giả nói giọng sốt ruột.
Hoằng Dương nhìn chú.
- Tôi cũng không biết nữa… - chú ta bắt đầu.
- Tôi thì biết rõ. - Tóc Giả nói. - Các bạn chỉ việc đi theo chúng tôi. Đừng bận tâm đến những chuyện khác.
Mấy cô chú thỏ nhà nhìn nhau, hoang mang. Rõ ràng là họ có vẻ e ngại chú thỏ đực to lớn, lông dựng đứng với một chỏm lông kỳ cục ngay đỉnh đầu và tỏa ra mùi máu tươi. Họ không biết phải làm gì hoặc phải hiểu như thế nào về những gì đang chờ đợi mình ở phía trước. Họ nhớ đến Cây Phỉ, cả bọn đã từng bị kích động trước cánh của đóng im ỉm và tò mò háo hức được đi qua cánh cửa ấy một khi nó được mở ra, Mặt khác họ không có bất cứ mục đích gì và cũng không có phưong tiện để thực hiện mục đích. Ý niệm của họ về những gì đang xảy ra cũng chẳng nhiều hơn ý niệm của một cậu nhóc nói cậu ta sẽ hộ tống những người leo núi đến vùng đầm lầy.
Mâm Xôi cảm thấy lòng mình chùng xuống. Biết làm gì với bọn này đây? Nếu để mặc họ lại, họ sẽ nhảy chậm chạp khỏi chuồng gia súc rồi cái sân cho đến khi bọn mèo tóm được. Nếu để tự họ thì chạy về phía các ngọn đồi kia cũng là việc bất khả chẳng khác nào bay lên mặt trăng. Liệu có ý tưởng rõ ràng đơn giản nào có thể khiến họ hoặc ai đó trong bọn kia đi theo không? Chú quay sang Thanh Nhàn.
- Tôi không cho rằng cô đã từng ăn cỏ trong đêm tối. - chú nói. - Lúc ấy cỏ ngọt hơn ban ngày nhiều. Chúng ta sẽ cùng đi ăn thử một lần xem sao nhé?
- Được, - Thanh Nhàn đáp. - tôi cũng thích thế lắm. Nhưng có an toàn không? Anh cũng biết là bọn tôi sợ lũ mèo lắm. Thỉnh thoảng chúng mò đến chằm chằm nhìn chúng tôi qua tấm lưới thép làm chúng tôi rùng hết cả mình.
- Ít nhất thì điều này cũng bắt đầu có chút ý nghĩa đây. - Mâm Xôi thầm nghĩ.
- Anh thỏ bự con kia có thể chiến đấu với bất cứ con mèo nào. - chú đáp. - Suýt nữa thì lúc nãy anh ấy đã kết liễu một con trên đường tới đây đấy.
- Và anh ta không hề muốn đánh nhau với một con khác nếu có thể tránh được. - Tóc Giả vui vẻ nói. - Vì thế nếu các bạn muốn ăn cỏ dưới trăng hãy mau mau đến nơi mà Cây Phỉ đang đợi chúng ta.
Khi Tóc Giả dẫn đầu cả bọn đi ra sân, chú có thể nhác thấy bóng con mèo mà chú đã cho một trận đang quan sát cả bọn từ chỗ đống củi. Dù sao thì mèo vẫn là mèo, nó bị lũ thỏ kia mê hoặc nên không thể phớt lờ chúng nhưng lại chẳng còn bụng dạ nào đánh nhau nữa nên khi bọn kia đi ngang qua sân thì nó vẫn ngồi yên tại chỗ.
Nhịp độ di chuyển chậm đến dễ sợ. Hoằng Dương và Thanh Nhàn xem ra còn hiểu được phần nào tình thế cấp bách nên rõ ràng là đã cố hết sức đi nhanh, nhưng hai chú còn lại, vừa mới nhảy ra sân đã ngồi thụp xuống nhìn quanh vẻ ngu ngốc và xớn xác, thì hoàn toàn luống cuống. Trong lúc chúng rề rà như vậy, con mèo đã rời đống củi bắt đầu lén lút di chuyển nhẹ nhàg về phía bên kia chuồng gia súc. Mâm Xôi phải cố hết sức mới đưa được bọn kia ra ngoài sân. Nhưng ở đây, khi thấy mình ở một nơi còn trống trải hơn, bọn thỏ nhà lâm vào một tình trạng hoảng loạn đến mức tê liệt, như một điều đôi khi vẫn xảy ra với những nhà leo núi không có kinh nghiệm khi đứng trước vách đá dựng đứng. Chúng không thể cử động, chỉ ngồi dúm lại nhìn nhau trong bóng tối, không thèm để ý đến nhũng lời dỗ ngọt của Mâm Xôi hay mệnh lệnh cứng rắn của Tóc Giả. Đúng lúc ấy, con mèo thứ hai - con mèo mướp của Cây Phỉ - xuất hiện từ đầu kia ngôi nhà và tiến về phía bọn chúng. Khi nó đi qua cái cũi, con chó giống Labrador thức giấc, ngồi dậy, thò đầu thò cổ nhìn hết bên này qua bên kia. Nó thấy lũ thỏ nên chạy kéo căng sợi dây thừng rồi bắt đầu sủa dữ dội.
- Nhanh lên. - Tóc Giả nói giọng cấp bách. - Chúng ta không thể ngồi mãi ở đây. Chạy lên con đường, nhanh lên, tất cả mọi người!
Mâm Xôi, Thủy Cự và Đầu Gỗ lập tức vọt lên, kéo theo Hoằng Dương và Thanh Nhàn chạy theo, cả bọn chạy vào bóng tối phía dưới dãy nhà kho. Bồ Công Anh vẫn còn nán lại bên Cỏ Khô, nài nỉ cô nàng chạy đi trong lúc thầm e ngại rằng bất cứ lúc nào cũng có thể cảm thấy những cái vuốt mèo phía sau lưng mình. Tóc Giả nhảy lại chỗ chú.
- Bồ Công Anh, - chú nói nhỏ vào tai bạn. - mau biến khỏi đây, nếu cậu không muốn bị giết chết.
- Nhưng… - Bồ Công Anh bắt đầu.
- Làm như tôi bảo! - Tóc Giả dằn giọng.
Tiếng chó sủa mỗi lúc một dễ sợ hơn và bản thân chú cũng gần như sợ cứng cả người. Bồ Công Anh chần chừ thêm chút nữa rồi cũng bỏ Cỏ Khô ngồi lại đấy, phóng lên con đường, cùng với Tóc Giả chạy bên cạnh mình.
Chúng thấy bọn kia đang xúm quanh Cây Phỉ dưới lũy đất. Hoằng Dương và Thanh Nhàn vẫn run lẩy bẩy và dường như đã kiệt sức. Cây Phỉ đang nói gì đó để trấn an bọn chúng thì ngừng lại khi thấy Tóc Giả hiện ra trong bóng tối. Con chó thôỉ không sủa nữa và tất cả chìm trong im lặng.
- Tất cả chúng ta đã có mặt ở đây. - Tóc Giá nói. - Chúng ta đi chứ Cây Phỉ?
- Nhưng có bốn cô cậu trong lồng kia mà. - Cây Phỉ nói. - Còn hai nữa đâu?
- Ở ngoài sân. - Mâm Xôi đáp. - Chúng tôi không thể làm gì với họ, bó tay luôn, sau đó con chó bắt đầu sủa như phát rồ.
- Có tôi có nghe thấy. Anh muốn nói là họ đang chạy loạn lên?
- Chẳng hao lâu nữa thì sẽ còn loạn hơn nhiều nữa. - Tóc Giả nói giọng giận dữ. - Bọn mèo đang ở đấy.
- Vậy tại sao các anh lại bỏ họ ở lại?
- Bởi vì họ nhất định không chịu nhúc nhích. Tình hình tệ hại như vậy trước cả khi con chó can thiệp vào nữa.
- Con chó vẫn bị cột à? - Cây Phỉ hỏi.
- Phải, bị cột. Nhưng chẳng lẽ anh hy vọng có tay thỏ ngu ngốc nào chịu đứng ngay trước mõm một con chó đang nổi khùng?
- Không, tất nhiên là không. - Cây Phỉ đáp. - Anh đã tạo được kỳ tích, Tóc Giả à. Những người kia vừa kể cho tôi biết ngay trước lúc anh chạy đến, rằng anh đã cho một con mèo một trận khiếp vía đến nỗi nó sợ không dám quay lại nữa. Bây giờ thì hãy nghe này, anh cùng với Mâm Xôi, Thủy Cự và Đầu Gỗ có thể đưa hai người bạn mới này về hang không? Tôi e là các anh có thể phải mất cả đêm đấy. Họ không thể đi nhanh và các anh phải hết sức nhẫn nại với họ. Bồ Công Anh, cậu đi với tôi chứ?
- Đi đâu vậy Thủ lĩnh Cây Phỉ?
- Đi đem hai người kia về. - Cây Phỉ nói. - Cậu là người nhanh nhất, vì thế chuyện này sẽ không nguy hiểm lắm đối với cậu, phải không nào? Bây giờ đừng chùng chình nữa, Tóc Giả, anh là anh chàng khá lắm cơ mà. Gặp lại nhau ngày mai nhé.
Trước khi Tóc Giả kịp trả lời thì Cây Phỉ đã biến mất dưới những bóng cây du. Bồ Công Anh còn nán lại một chút, nhìn Tóc Giả băn khoăn.
- Cậu sẽ làm những gì anh ta nói chứ? - Tóc Giả hỏi.
- Phải, còn anh thì sao?
Tóc Giả không cần nhiều thời gian để nhận ra, nếu chú nóỉ không thì tình trạng vô tổ chức sẽ lập tức xảy ra . Chú không thể đưa tất cả trở lại nông trại mà cũng không thể bỏ họ lại một mình. Chú làu bàu câu gì đó đại loại rằng Cây Phỉ quá nhiễu sự không biết trong óc có cái gì, đoạn quay sang bạt tai Đầu Gỗ làm văng cây diếp gai mà chú này đang nhấm nháp rồi dẫn năm cô chú thỏ nhảy qua lũy đất chạy xuống cánh đồng phía dưới. Bồ Công Anh, còn lại một mình, vội co giò phóng theo Cây Phỉ về phía sân trại.
Trong khi đi dọc theo dãy nhà kho chú nghe thấy giọng Cây Phỉ ở ngoài khoảng sân trống đang ngồi gần Cỏ Khô. Cả hai cô cậu thỏ nhà vẫn chưa rời khỏi chỗ mà Tóc Giả để họ lại. Con chó đã trở về cũi và mặc dù không nhìn thấy nó, Bồ Công Anh có cảm giác con chó vẫn thức và đang canh chừng. Chú thận trọng bước ra ngoài bóng tối nhà kho đến gần Cây Phỉ.
- Tôi vừa mới nói chuyện với Cỏ Khô. - Cây Phỉ nói. - Giải thích rằng chúng ta chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa thôi. Cậu có nghĩ là mình có thể nhảy đến chỗ Nguyệt Quế và bảo được cậu ta nhập bọn với chúng ta không?
Giọng Cây Phỉ gần như vui vẻ, nhưng Bồ Công Anh có thể thấy đồng tử trong mắt bạn nở rộng và có một luồng run rẩy nhè nhẹ ở hai móng trước. Bản thân chú vào lúc này cũng cảm thấy có một cái gì đó kỳ lạ - một cái gì như kiểu sự tỏa sáng - trong không khí.
Dường như có một chấn động kỳ lạ diễn ra ở đâu đó trong khoảng không gian bao quanh. Chú nhìn quanh tìm lũ mèo, và đúng như chú hằng lo sợ, cả hai con đang nằm trước nhà, cách chúng một quãng. Bọn chúng ngần ngại không dám đến gần có lẽ là nhờ công của Tóc Giả; nhưng chúng vẫn không bỏ đi. Phóng tầm mắt qua sân nhìn chúng, Bồ Công Anh nghe có một cảm giác khủng khiếp, ớn lạnh.
- Cây Phỉ à! - Chú thì thào. - Lũ mèo! Lạy Thần Mặt trời, sao mà mắt chúng lóe lên xanh rợn thế kia? Coi kìa!
Cây Phỉ nhanh chóng đứng dậy và khi chú làm thế, Bồ Công Anh nhảy bắn ra sau trong một nỗi hãi hùng thật sự, bởi vì mắt Cây Phỉ lóe sáng như đốm than hồng trong đêm tối. Đúng lúc ấy chấn động mỗi lúc một mạnh hơn, át cả tiếng ngọn gió đêm rì rào trong những tán lá du. Rồi cả bốn thỏ ngồi như thể đã chết cứng dưới cái ánh sáng lóa mắt bất ngờ chiếu thẳng vào chúng như một tia chớp bất thần. Bản năng của chúng đã bị tê liệt bởi cái ánh sáng khủng khiếp này. Con chó cất tiếng sủa ông ổng rồi im lặng một lần nữa. Bồ Công Anh cố nhúc nhích nhưng không thể. Cái ánh sáng đáng sợ kia dường như đang xuyên qua não chú.
Một chiếc xe hơi đang lái vào lối đi, vượt qua sườn dốc dưới hàng cây du, bon thêm mấy mét nữa rồi dừng lại.
- Nhìn kìa, lũ thỏ của Lucy xổng ra kìa!
- Nào, phải nhanh chóng nhốt chúng lại, chiếu đèn pha đi.
Giọng người đàn ông, từ một nơi nào đó ở bên ngoài vùng sáng dữ dội kia, khiến Cây Phỉ như bừng tỉnh. Chú không thể nhìn thấy gì, nhưng chú cũng nhận thức được không có gì xảy ra với thính giác hoặc khứu giác của mình. Chú nhắm mắt lại và lập tức biết mình đang ở đâu.
- Bồ Công Anh! Cỏ Khô! Nhắm mắt lại và chạy đi. - chú nói. Một lát sau chú ngửi thấy mùi cây địa y và mùi hơi ẩm lành lạnh phả ra từ một bệ đỡ bằng đá. Chú đang ở dưới nhà kho. Bồ Công Anh nghe theo lời chú và cách xa một chút là Cỏ Khô. Bên ngoài tiếng ủng đàn ông nghiến và đạp lên lớp sỏi nghe lạo xạo.
- Nó đấy. Chạy vòng phía sau nó.
- Chúng chưa đi xa đâu.
- Vậy thì bắt chúng lại!
Cây Phỉ chạy đến gần Cỏ Khô.
- Tôi sợ rằng ta phải bỏ Nguyệt Quế lại thôi. Hãy đi theo tôi.
Vẫn đi dưới cái sàn nhà kho, cả ba vội vã đi về phía hàng cây du. Giọng những người đàn ông bị bỏ lại phía sau. Ra khỏi bãi cỏ ở gần con đường, chúng thấy bóng tối sau ánh đèn tràn ngập khí thải - một cái mùi ngột ngạt chết người là cho chúng càng thêm hoảng loạn. Cỏ Khô lại ngồi phịch xuống và không thể thuyết phục cô thỏ này đi tiếp.
- Chúng ta có nên để cô ta lại đây không, Thủ lĩnh Cây Phỉ? - Bồ Công Anh hỏi. - Đằng nào thì con người cũng sẽ không làm gì cô ta cả - người ta đã bắt được Nguyệt Quế và mang trở về lồng rồi.
- Nếu đây là một chú thỏ đực thì tôi sẽ đồng ý ngay tắp lự. - Cây Phỉ đáp. - Nhưng chúng ta cần cô thỏ này. Chính vì thế mà chúng ta đến đây.
Đúng lúc ấy chúng ngửi thấy cái mùi của chiếc que màu trắng bốc khói và có tiếng chân người quay lại sân. Nghe có tiếng va chạm của kim loại khi họ lục soát gì đó trong chiếc xe. Âm thanh sắc nhọn này dường như có tác dụng thức tỉnh Cỏ Khô .
- Tôi không muốn quay lại lồng đâu. - cô thỏ nói.
- Cô chắc chứ?
- Phải, tôi sẽ đi với các anh.
Bồ Công Anh lập tức quay lại hàng rào. Chỉ đến khi đã vượt qua hàng rào và đến cái hào bên ngoài chú mới nhận ra là mình đang ở phía đối điện của con đường ban nãy chúng đã đến. Chú đang ở trong một cái hào lạ hoắc. Tuy vậy, không có gì phải lo lắng - cái hào dẫn xuống dốc và đấy là con đường về nhà. Chú cố ý đi chậm lại, chờ Cây Phỉ đuổi kịp .
Cây Phỉ băng qua đường sau Bồ Công Anh và Cỏ Khô một lát. Phía sau chú, có tiếng những người đàn ông đang di chuyển với cái hrududu. Khi chú đứng trên lũy đất, ánh đèn rọi sáng cả đoạn đường và tóm được đôi mắt đỏ cùng cái đuôi trắng của chú đang biến mất vào trong hàng rào.
- Ô kìa, có một con thỏ hoang!
- Nhìn coi. Mấy con thỏ của chúng ta chưa chạy xa đâu. Chúng chạy lên kia với lũ thỏ hoang đấy. Tốt nhất hãy đi xem qua một vòng.
Trong cái hào, Cây Phỉ đuổi kịp Cỏ Khô và Bồ Công Anh dưới lùm mâm xôi.
- Cố chạy càng nhanh càng tốt. - chú nói với Cỏ Khô. - Con người đang ở phía sau đấy.
- Chúng ta không thể chạy tiếp nếu không rời cái hào này Cây Phỉ ạ, - Bồ Công Anh nói. - nó bị chặn rồi.
Cây Phỉ hếch mũi ngửi ngửi phía trước. Ra hết bụi mâm xôi, cái hào bị chặn lại bởi một đống đất đầy cỏ dại xen lẫn rác rưởi. Chúng sẽ phải bước ra khu đất trống trải. Những người đàn ông đã đến bên bờ hào, rọi đèn pin lên xuống quanh hàng rào, xuyên qua cả bụi cây mâm xôi trên đầu chúng. Rồi, chỉ cách một vài mét là tiếng bước chân nện ầm ầm dọc bờ hào. Cây Phỉ quay lại nói với Bồ Công Anh.
- Nghe đây, - chú nói. - tôi sẽ chạy ngang qua góc cánh đồng, từ cái hào này sang cái hào đằng kia. Như vậy họ sẽ nhìn thấy tôi và chắc chắn sẽ cố chiếu cái ánh sáng kia vào tôi. Trong khi họ làm như thế, anh và Cỏ Khô trèo lên bờ chạy ra đường và đi đến nhà kho đựng củ cải. Hãy trốn ở đấy chờ tôi đến. Sẵn sàng chưa?
Không có thời gian để tranh cãi. Một giây sau Cây Phỉ phóng qua gần như dưới chân những người đàn ông và chạy băng qua cánh đồng.
- Kìa, nó chạy kìa!
- Chiếu đèn về phía nó. Ồn ào quá, bình tĩnh nào!
Cỏ Khô và Bồ Công Anh bò lên bờ và nhảy vào con đường. Cây Phỉ, với ánh đèn lia sau lưng, gần như đã chạy đến cái hào bên kia thì cảm thấy có một cú đập sắc mạnh vào một chân sau và một nỗi đau buốt nhói, rát bỏng chạy dọc thân người. Tiếng nổ của một viên đạn vang lên sau đó một chút. Khi lộn nhào vào một bụi tầm ma ở dưới đáy hào chú nhớ lại một cách sống động mùi hoa đậu nở vào lúc mặt trời lặn. Chú không tính đến một điều là những người đàn ông kia có mang theo súng.
Cây Phỉ bò qua bụi tầm ma, kéo lết cái chân sau bị thương. Chỉ vài giây nữa những người kia sẽ chiếu đèn pin vào chú và sẽ nhặt chú lên. Chú đi loạng choạng dọc phía trong tường hào, cảm thấy máu chảy ướt cả chân. Đột nhiên chú nhận thấy có một luồng gió thổi vào một bên mũi chú mang theo mùi ẩm mốc của vật gì mục nát và một cái lỗ đang vọng lại những âm thanh rất gần bên tai. Chú đang ở sát bên miệng một cái rãnh thoát nước lúc này đang cạn, thông với cái hào - một đường hầm lạnh, nhẵn nhụi, hẹp hơn một cái hang thỏ nhưng cũng đủ rộng. Với cái tai rủ xuống, bụng ép xuống cái sàn ướt, chú tiếp tục bò lên, ủi vào một đống bùn mỏng phía trước và nằm bất động khi chú cảm thấy tiếng những đôi ủng giậm thình thịch tiến lại gần.
- Tôi cũng không biết nữa John, anh có nghĩ là nó còn ở đây không?
- À tôi nghĩ nó chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Vết máu ở đây này, anh thấy chưa?
- Đúng, nhưng cũng không hẳn vậy. Nó có thể chạy xa khỏi đây rồi cũng nên. Chắc tôi để lạc mất nó rồi.
- Tôi lại nghĩ nó trốn trong bụi mâm xôi.
- Vậy thì cứ nhìn thử xern.
- Không, chẳng thấy gì.
- Thôi chúng ta chẳng việc gì phải chạy tới chạy lui ngoài đồng, vì một con thỏ mà thức trắng đêm. Phải đi bắt những con thỏ đã chạy khỏi lồng thôi. Chẳng phải anh bắn rất tinh hay sao John? Coi chúng hoảng vía như thế nào. Mai anh có thể quay lại tìm nếu như nó vẫn còn ở đây.
Yên lặng đã quay trở lại nhưng Cây Phỉ vẫn nằm bất động trong cái giá lạnh của rãnh thoát nước. Cái mệt mỏi tê điếng chụp lên toàn thân và chú trôi vào một trạng thái đờ đẫn, choáng váng nửa mơ nửa tỉnh vời cảm giác đau đớn đến ngột ngạt. Lát sau, một dòng máu bắt đầu nhỏ giọt xuống qua nắp rãnh vào trong cái hào bỏ hoang với nhiều dấu chân xéo nát.
Tóc Giả nằm dán người xuống, ngay bên cạnh Mâm Xôi trong đống rơm ở một chuồng bò, bỗng nhảy vọt lên bỏ chạy khi nghe thấy tiếng súng nổ ở chỗ con đường cách chỗ chúng nằm chừng hai trăm mét. Chú trấn tĩnh lại và quay về chỗ mấy chú kia.
- Đừng chạy! - chú nói thật nhanh. - Mà mọi người muốn chạy đi đâu bây giờ nào? Chẳng có cái hang nào gần đây hết.
- Chạy xa nơi có tiếng súng. - Mâm Xôi đáp, mắt trắng nhợt đi vì sợ.
- Chờ chút. - Tóc Giả nói, để tai lắng nghe động tĩnh bên ngoài. - Họ đang chạy xuống dốc. Có nghe thấy không?
- Tôi chỉ nghe tiếng hai chú thỏ, - Mâm Xôi đáp sau một hồi im lặng nghe ngóng. - một trong hai chú có vẻ đã mệt lả.
Chúng nhìn nhau, chờ đợi. Chợt Tóc Giả đứng lên.
- Cứ chờ ở đây, tất cả mọi người, nghe chưa. - chú nóỉ. - Tôi sẽ ra ngoài mang họ lại đây.
Vừa ra khỏi bờ cỏ chú đã thấy Bồ Công Anh đang giục Cỏ Khô đi tiếp, cô thỏ này dang lết đi với dáng mệt lả, tập tễnh.
- Đến đây nhanh lên nào. - Tóc Giả nói. - Vì Thần Mặt trời, Cây Phỉ đâu rồi?
- Con người đã bắn anh ấy. - Bồ Công Anh đáp.
Chúng đến chỗ năm chú thỏ nằm trên đống rơm. Bồ Công Anh không đợi chúng hỏi, nói luôn.
- Bọn họ đã bắn Cây Phỉ. Họ bắt được Nguyệt Quế và nhốt lại vào lồng. Rồi họ chạy theo sát chúng tôi. Ba chúng tôi đang nấp ở cuối một cái hào bị bịt lại. Cây Phỉ tự nguyện chạy ra ngoài để đánh lạc hướng Tạo điều kiện cho chúng tôi đào thoát. Nhưng chúng tôi không biết là những người này có súng.
- Anh có chắc họ đã giết anh ấy không? - Thủy Cự hỏi.
- Tôi không thấy anh ấy bị bắn, nhưng mà họ đuổi theo sát nút.
- Chẳng còn cách nào, phải chờ thôi. - Tóc Giả buông một câu.
Chúng đợi rất lâu. Cuối cùng, Tóc Giả và Mâm Xôi cẩn thận quay lại chỗ con đường. Chúng thấy dưới đáy hào có nhiều dấu giày xéo nát và có cả vết máu, bèn quay lại thông báo với cả bọn.
Chuyến hành trình trở về, với ba chú thỏ nhà tập tễnh chẳng còn hồn vía kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ đầy mệt mỏi. Tất cả đều thất vọng và cảm thấy thảm hại. Cuối cùng khi về đến chân núi, Tóc Giả bảo Mâm Xôi, Thủy Cự và Đầu Gỗ tách khỏi đoàn đi tiếp lên cánh đồng thỏ. Khi chúng về đến rừng sồi thì những tia sáng đầu tiên hửng lên phía chân trời và một chú thỏ chạy xuyên qua đám cỏ ướt đến gặp chúng. Đó là Thứ năm. Mâm Xôi dừng lại đợi bên cạnh chú, trong khi hai chú kia tiếp tục đi trong im lặng
- Thứ Năm à, - chú thở dài. - có một tin rất xấu. Cây Phỉ…
 - Tôi biết, - Thứ Năm đáp. - tôi biết rồi.
- Làm sao mà cậu biết được? - Mâm Xôi giật mình hỏi.
- Ngay khi thấy anh bước qua đám cỏ vừa rồi, - Thứ Năm nói giọng rất khẽ. - với bốn chú thỏ theo sau, tập tễnh, mình vấy máu. Tôi chạy đến xem là ai, và thấy chỉ có ba anh, đi cạnh nhau.
Chú dừng lời, đưa mắt nhìn khắp vùng như thể vẫn để ý tìm kiếm một chú thỏ mình đầy máu vừa biến mất trong khung cảnh tranh tối tranh sáng. Và rồi khi không thấy Mâm Xôi nói gì nữa, chú hỏi thêm:
- Anh có biết chuyện gì xảy ra không?
Khi Mâm Xôi kể lại mọi chuyện, Thứ Năm quay về cánh đồng thỏ, đi xuống cái hang trống không của chú. Một lúc sau, Tóc Giả đưa những chú thỏ nhà lên núi, và lập tức tập hợp tất cả ở Tổ Ong. Thứ Năm không xuất hiện.
Thật là một cuộc tiếp đón buồn thảm đối với những người mới đến. Đến cả Hoa Chuông cũng không thể tìm ra được câu nào dí dỏm để nói. Bồ Công Anh thì không sao nguôi ngoai được khi nghĩ rằng chú đã có thể ngăn Cây Phỉ chạy ra khỏi hào. Cuộc họp mặt kết thúc trong không khí im lặng tang thương và một bữa ăn sáng qua loa.
Xế trưa hôm ấy, Nhựa Ruồi ủ rũ quay về cánh đồng thỏ. Trong số ba người bạn đồng hành của chú chỉ có Xám Bạc là còn lành lặn và nhanh nhẹn. Gạc Nai bị thương ở mặt, Dâu Tây thì run rẩy và rõ ràng đã kiệt sức vì chuyến đi. Không có chú thỏ nào nữa đi theo chúng.

Chương 26. Giấc Mơ của Thứ Năm


Trong cuộc hành trình đáng sợ của mình, sau khi pháp sư đã lang thang qua những khu rừng đen tối, vượt qua những rặng núi cao hiểm trở… ông tới một dải đất rộng mênh mông. Giai đoạn khó khăn nhất của cuộc hành trình bây giờ mới bắt đầu. Những tầng sâu của địa ngục mở ra trước mắt ông.
(Uno Harva trích dẫn lời Joseph Campbell trong Người anh hùng với nghìn bộ mặt)
*
Thứ Năm nằm bẹp dưới nền đất trong hang. Bên ngoài, vùng núi đồi vẫn tuyệt đối yên tĩnh trong cái nắng chói chang và không khí oi ả buổi trưa hè. Những giọt sương mai trên lá cỏ và tơ nhện đã khô đi, đến khoảng giữa buổi sáng thì những con chim họ sẻ lắm lời cũng im tiếng nốt. Giờ đây, dọc theo những luống cỏ thô ráp nằm đơn độc, làn không khí khẽ rung động ở dưới chân con đường đi qua hang thỏ, những chùm ánh sáng chói chang - đầy hơi nước và hư ảo - nhỏ thành giọt, phản chiếu lấp lánh trên những ngọn cỏ thấp và mượt nhất. Từ một khoảng cách khá xa, hàng cây dọc theo bìa rừng sồi có vẻ như đầy những cái bóng rậm rạp, vĩ đại không thể nhìn xuyên qua bằng con mắt bị chói lòa. Chỉ có một âm thanh duy nhất là tiếng bật chân tanh tách của những con cào cào, chỉ có một mùi hương nồng ấm rõ thấy nhất là mùi cỏ xạ hương.
Trong hang, Thứ Năm nửa thức nửa ngủ không yên bởi cái nóng ban ngày, chú cựa mình liên tục và cào bới lung tung khi những hơi ẩm cuối cùng đã khô đi trên mặt đất ngay trên đầu chú. Một lần khi những hòn đất từ trên trần bở ra rơi xuống, chú bật choàng dậy, biến ra đường chạy một lúc rồi mời tỉnh hẳn quay về chỗ nằm. Mỗi lần thức dậy, chú lại nhớ đến việc đã mất Cây Phỉ và một lần nữa lại nhìn thấy cái hình ảnh làm chú nhói lòng về một con thỏ tập tễnh, lờ mờ biến mất trong ánh sáng đầu tiên rạng lên ở vùng đồi núi. Bây gỉờ con thỏ ấy đâu? Nó đã đi đâu? Thứ năm bắt đầu đi theo nó trên những con đường lộn xộn trong tâm thức, vượt qua chỏm núi lạnh lẽo ướt đẫm sương đêm rồi chìm vào màn sương sớm của những cánh đồng phía dưới.
Làn sương bồng bềnh cuộn sóng quanh Thứ Năm khi chú bò qua những bụi cây kế và mâm xôi. Bây giờ chú không còn nhìn thấy con thỏ khập khễnh phía trước mặt nữa. Chú đơn độc và hoảng sợ nhưng vẫn cảm nhận được những âm thanh và mùi vị quen thuộc xưa kia - âm thanh và mùi vị của cánh đồng nơi chú ra đời. Lớp cỏ dày mùa hè đã không còn. Chú đang nằm dưới những tán cây tần bì gầy guộc khẳng khiu và cây gai đen đang đơm hoa trong tháng Ba. Chú vượt qua con suối, đi ngược lên dốc về phía con đường nhỏ đến cái nơi Cây Phỉ và chú đã trông thấy bảng thông báo. Không biết cái bảng có còn ở đó không? Chú e dè nhìn lên dốc. Cảnh vật bị che mờ trong làn sương, nhưng khi đến gần đỉnh dốc, chú thấy một người đàn ông đang bận rộn với một đống đồ nghề, gồm một cái xẻng, một sợi dây và những dụng cụ nhỏ hơn mà công dụng của chúng chú còn chưa được biết. Tấm biển thông báo nằm tơ hơ trên mặt đất, nó nhỏ hơn là theo chú nhớ và được đóng vào một cái cột vuông, dài, được vót nhọn ở một đầu để đóng xuống đất. Bề mặt của tấm biển màu trắng cũng như cái mà chú đã thấy trước đó, phủ kín những đường màu đen sắc nét trông như những cái que. Thứ năm ngần ngừ leo lên dốc và dừng lại gần người đàn ông, người này đang đứng nhìn xuống một cái hố hẹp và sâu, ăn vào trong lòng đất dưới chân ông ta. Người đàn ông quay lại nhìn Thứ năm với vẻ nhã nhặn mà một con yêu tinh có thể phô bày với nạn nhân mà chúng biết sẽ giết chết và ăn thịt ngay khi thích hợp.
- À, à phải, mình đang làm cái gì đây nhỉ? - Người đàn ông hỏi.
- Ông đang làm cái gì ư? - Thứ Năm hỏi, ánh mắt sững lại, cứng cả người vì sợ.
-mTao chỉ cắm cái biển ở đây thôi. - người đàn ông đáp. - Và chắc mày muốn biết để làm gì, đúng không?
- Vâng. - Thứ Năm thì thầm.
- Cái này là để cho thằng Cây Phỉ ấy mà. - người đàn ông nói tiếp, - Chỉ có ờ đây, thấy chưa, chúng tao đặt một tấm biển, giống như một món tiền trả trước. Và mày nghĩ gì về những điều nó nói?
- Tôi không biết nữa. - Thứ Năm đáp. - Sao… sao một cái biển lại có thể nói bất cứ cái gì được?
- Nhưng nó làm được đấy, thấy không? - Người đàn ông đáp. - Đó là nơi chúng tao biết còn mày thì không. Đó là lý do tại sao chúng tao xóa sổ bọn mày khi chúng tao muốn. Bây giờ mày cần phải ngắm thật kỹ tấm biển đằng kia và rất có thể sau này mày sẽ biết được nhiều hơn những gì mày biết bây giờ.
Trong không gian tranh tối tranh sáng mờ sương, xam xám hơi ngả sang màu xanh, Thứ Năm nhìn trừng trừng vào tấm biển. Khi chú nhìn như vậy những cái que màu đen lay động trên nền trắng. Chúng ngỏng những cái đầu nhỏ hình nêm sắc nhọn lên và trò chuyện líu ríu như một lứa chồn con mới đẻ, cái âm thanh đầy vẻ chế nhạo và cay độc vang đến tai chú không rõ lắm như thể bị mắc nghẹt trong cát hoặc trong bao tải. “Để tưởng nhớ Thủ lĩnh Cây Phỉ! Để tưởng nhớ Thủ lĩnh Cây Phỉ! Để tưởng nhớ Thủ lĩnh Cây Phỉ! Ha Ha Ha Ha!”.
- Vậy là nó ở kia kìa, thấy chưa? - Người đàn ông hỏi. - Tao sẽ đóng nó lên tấm biển này. Nói thế nào nhỉ, ngay khi tao làm xong, nó sẽ đứng chắc, cũng giống như bọn mày đóng đinh lũ chim giẻ cùi, hay con chồn già. Nào, đi treo nó lên.
- Không. - Thứ Năm bật khóc. - Không, ông không được làm thế.
 - Chỉ khi tao không tóm được nó, hiểu không? - người đàn ông tiếp tục. - Đó là lý do tao vẫn còn chưa làm xong. Tao không thể treo nó lên, bởi vì khi chúng tao đến cái hố đầy máu thì nó đi mất rồi. Nó đi xuống cái hố đẫm máu đúng lúc tao lần theo và tao không bắt được nó.
Thứ Năm bò đến gần đôi ủng của người đàn ông, ghé mắt nhìn xuống hố. Hố hình tròn, một cái trục bằng đất nung biến mất theo phương thẳng đứng vào lòng đất. Chú kêu lên, "Cây Phỉ! Anh Cây Phỉ ơi!" Sâu dưới đáy hố có một vật gì đó đang chuyển động và chú toan kêu to một lần nữa. Đúng lúc ấy, người đàn ông cúi xuống, đánh chú vào chỗ giữa hai tai.
Thứ Năm vật lộn trong một đám mây dày đặc những đất, mềm mại và như rắc bột. Có ai đó đang nói, “Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào Thứ Năm!”. Chú ngồi dậy. Bụi đất đầy trong mắt chú, tai chú và mũi Chú. Không ngửi được mùi gì. Chú lắc lắc người và hỏi “Ai đấy?”
- Mâm Xôi đây! Tôi đến xem cậu thế nào. Ổn cả rồi. Một ít đất trên trần rơi xuống, thế thôi. Nó rơi xuống khắp nơi trong cả ngày hôm nay - trời nóng quá mà. Dù sao thì nó cũng giúp cậu thoát khỏi một cơn ác mộng, nếu như tôi hiểu đúng. Cậu giãy giụa đến khiếp, miệng thì gọi Cây Phỉ. Thứ Năm tội nghiệp! Xảy ra việc đau lòng như thế! Chúng ta phải cố hết sức chịu đựng thôi. Cậu cũng biết là tất cả chúng ta rồi cũng có ngày không còn chạy được nữa. Người ta nói Thần Mặt trời biết tất cả những chú thỏ, từng chú một.
- Trời tối rồi à? - Thứ Năm ngắt lời.
- Không, còn chưa tối. Nhưng cũng đã xế chiều rồi. Nhựa Ruồi và những người kia đã trở về. Dâu Tây ốm nặng, và họ chẳng đem theo được một nàng thỏ cái nào cả - không một nàng nào. Thật chẳng gì có thể tệ hơn nữa. Nhựa Ruồi vẫn đang ngủ - anh ấy hoàn toàn kiệt sức. Nhựa Ruồi bảo sẽ cho chúng ta biết những chuyện đã xảy ra vào tối nay. Khi chúng tôi kể cho anh ấy nghe về Cây Phỉ đáng thương, anh ấy nói… này Thứ Năm cậu không muốn nghe à. Tôi cho rằng cậu thích tôi im lặng hơn.
- Mâm Xôi ơi, - Thứ Năm hỏi. - anh có biết nơi anh Cây Phỉ bị bắn không?
- Có, Tóc Giả và tôi đã đi đến cái hào ấy kiểm tra một lần trước khi quay về đây. Nhưng cậu không được…
- Anh có thể đi cùng em đến đấy, ngay bây giờ không?
- Trở lại chỗ ấy à? Ồ không. Đường xa lắm, mà liệu tìm được gì? Chỉ liều lĩnh, lại còn cái nóng đáng sợ như thế này nữa, cậu chỉ rước khổ vào thân thôi.
- Anh Cây Phỉ chưa chết. - Thứ Năm khẳng định.
- Ừ, người ta đã mang anh ấy đi. Thứ Năm à, tôi nhìn thấy vết máu mà.
- Vâng, nhưng anh không nhìn thấy Cây Phỉ bởi vì anh ấy chưa chết. Mâm Xôi anh phải làm theo điều em yêu cầu.
- Cậu đòi hỏi quá nhiều đấy.
- Nếu vậy em sẽ phải đi một mình. Nhưng điều mà em đòi hỏi anh là đi đến đấy cứu Cây Phỉ.
Khi Mâm Xôi cuối cùng cũng miễn cưỡng nhượng bộ thì chúng lập tức đi xuống núi. Thứ Năm phóng nhanh như thể chú đang chạy trốn kẻ thù. Lâu lâu chú lại giục Mâm Xôi hãy đi nhanh hơn nữa. Cánh đồng hoàn toàn vắng lặng dưới cái nắng chói chang. Bất cứ sinh vật nào lớn hơn con nhặng xanh đều tìm chỗ râm để tránh cái nóng. Khi đến những cái chuồng gia súc nằm cạnh con đường, Mâm Xôi bắt đầu giải thích chú và Tóc Giả đã quay trở lại tìm Cây Phỉ như thế nào, nhưng Thứ Năm gạt đi.
- Chúng ta phải đi lên dốc, em biết, nhưng anh phải chỉ cho em cái hào.
Hàng cây du đứng im phăng phắc. Không một âm thanh nào trong những tán lá. Cái hào mọc đầy mùi tây dại, độc cần và loại cây nhăng cọng dài nở ra những bông hoa xanh nõn. Mâm Xôi đi trước dẫn đường đến một bụi mâm xôi bị xéo nát, Thứ năm ngồi xuống giữa bụi cây vừa hít hít vừa nhìn quanh trong im lặng. Mâm Xôi quan sát chú với vẻ phiền muộn. Một hơi gió nhẹ thoảng qua cánh đồng và một con két cất tiếng hót ở chỗ nào đó bên ngoài hàng cây du. Cuối cùng, Thứ Nărn bắt đầu men theo đáy hào. Đám côn trùng vo ve quanh mũi chú; bị quấy rầy, một đám mây ruồi thình lình bay lên từ một tảng đá lồi lên. Không, đó không phải là đá. Nó tron nhẵn và cân đối, đó là một cái nắp tròn bằng đất nung. Miệng ống cống thoát nước màu nâu đen bầm ở phía dưới bởi một vệt máu nhỏ đã khô lại: máu thỏ.
- Cái hố đầy máu! Cái hố đầy máu! - Thứ Năm thì thầm. Chú ghé mắt nhìn vào cái lỗ hổng tối đen. Cái lỗ bị chặn lại. Bởi một chú thỏ. Rất dễ dàng ngửi thấy mùi đó. Mạch đập yếu ớt của một chú thỏ có thể nghe thấy được khi khuếch âm trong cái đường hầm hẹp.
- Anh Cây Phỉ? - Thứ Năm gọi.
Mâm Xôi phóng đến sau lưng chú ngay lập tức.
- Cái gì vậy, Thứ Năm?
- Anh Cây Phỉ đang ở trong hố, anh ấy còn sống. - Thứ Năm đáp.

Chương 27. “Bạn Có trải Qua Mới Hiểu Được Phần Nào”


Xin chúa phù hộ, chưa bao giờ con gặp những người như thế.
(Signor Piozzi, được Cecilia Thrale trích dẫn)
*
Ở Tổ Ong, Tóc Giả và Nhựa Ruồi đang đợi để bắt đầu cuộc họp mặt thứ hai kể từ khi Cây Phỉ mất tích. Không khí oi ả có phần dịu lại, bọn thỏ bắt đầu thức dậy và hết chú này đến chú khác chạy xuống lối đi từ những hang nhỏ hơn dẫn ra. Tất cả đều mang tâm sự chán chường dầy hoài nghi. Giống như nỗi đau từ một vết thương chí mạng, tác động của cú sốc lớn phải mất một thời gian mới được thấm thía đầy đủ. Khi một đứa trẻ được thông báo, lần đầu tiên trong đời, rằng người mà nó quen hơi bén tiếng đã chết thì mặc dù không phải không tin, nó vẫn không nhận thức được đầy đủ về cái tin này và sau đó vẫn hỏi lại - có lẽ phải hơn một lần - rằng người chết đang ở đâu, khi nào thì quay lại. Khi Nồi Đất gieo trong người chú, như một hạt giống u sầu, cái nhận thức rằng Cây Phỉ sẽ không bao giờ quay lại thì sự hoang mang của chú đã vượt qua nỗi đau buồn, và nỗi hoang mang ấy chú nhìn thấy được trên mọi phương diện trong những người bạn của mình. Không phải đối mặt với khủng hoảng nào trong hành sự và cũng chẳng có gì ngăn cản chúng tiếp tục cuộc sống như trước trong cánh đồng thỏ, nhưng bọn thỏ bị suy sụp khi nghĩ rằng vận may của chúng đã hết. Cây Phỉ đã chết, chuyến đi thuyết khách của Nhựa Ruồi hoàn toàn thất bại. Không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo đây.
Nhựa Ruồi gầy xơ xác, với cái bụng lồ lộ chỉ chứa toàn cỏ ngỗng và những mảnh ngưu bàng, đang nói chuyện với ba chú thỏ nhà và dùng hết tài ăn nói mà trấn an bọn kia. Bây giờ thì không ai có thề nói rằng Cây Phỉ đã hy sinh bản thân mình trong một trò đùa ngu xuẩn điên rồ nữa. Hai cô thỏ cái là thành quả duy nhất mà bất cứ ai có thể gặt hái được; là tài sản duy nhất của cộng đồng. Nhưng rõ ràng họ tỏ ra không thoải mái chút nào với cuộc sống mới khiến cả Nhựa Ruồi cũng đành tặc lưỡi mà rằng chẳng thể trông chờ gì hơn từ họ. Một khi thỏ cái bị hoảng loạn, họ dễ mắc bệnh vô sinh và làm sao những chị chàng này có thể thoải mái như ở nhà trong một khung cảnh hoàn toàn xa lạ ở cái nơi mà ai nấy đều lạc đi đâu mất trong những suy nghĩ u ám của mình? Họ có thể sẽ chết hoặc bỏ đi lang thang. Nhựa Ruồi một lần nữa bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ giải thích rằng chú tin tưởng quãng thời gian tốt đẹp hơn đang nằm phía trước, nhưng dù mạnh miệng nói thế bản thân chú cũng chẳng thấy điều đó có sức thuyết phục chút nào.
Tóc Giả cử Quả Sồi đi xem còn ai nữa chưa tới không. Quả Sồi trở lại báo cáo rằng Dâu Tây thì quá mệt còn Mâm Xôi và Thứ Năm thì chả thấy đâu.
- Thôi được, cứ mặc Thứ Năm. - Tóc Giả nói. - Tội nghiệp thằng bé, nếu ở một mình nó sẽ thấy thoải mái hơn, tôi dám nói như vậy.
- Nhưng mà cậu ấy không ở dưới hang. - Quả Sồi nói.
- Đừng bận tâm. - Tóc Giả lại nói. Nhưng một ý nghĩ chợt xuất hiện trong đầu chú. - Thứ Năm và Mâm Xôi à? Họ có thể rời đây mà không cho ai biết sao? Nếu làm thế mà những người khác biết thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra đây? - Liệu chú có nên yêu cầu Kehaar đi tìm họ khi trời vẫn còn sáng? Nhưng nếu chú mòng biển tìm ra họ, chuyện gì sẽ xảy ra? Có bắt họ quay lại được không? Mà nếu được thì làm thế liệu có ích gì khi cả hai lại muốn bỏ đi nữa? Đúng lúc ấy, Nhựa Ruồi bắt đầu nói và mọi người im lặng lắng nghe.
- Mọi người đều biết rõ chúng ta đang trong tình trạng rối loạn, - Nhựa Ruồi nói. - và tôi cho rằng chẳng bao lâu nữa chúng ta phải nói với nhau về chuyện làm gì là tốt nhất. Nhưng trước tiên, tôi nghĩ cần phải kể với các bạn về việc làm sao bốn chúng tôi, Xám Bạc, Gạc Nai, Dâu Tây và tôi trở về mà không có cô thỏ cái nào. Các bạn không cần phải nhắc chúng tôi nhớ rằng khi chúng tôi lên đường mọi người đều lạc quan nghĩ việc này sẽ xuôi chèo mát mái vì nó không có vẻ gì là khó khăn. Thế mà giờ chúng tôi dẫn xác về không, kẻ bị ốm, người bị thương. Chắc các bạn đang thắc mắc không hiểu ra làm sao.
- Chẳng ai trách anh hết, Nhựa Ruồi à. - Tóc Giả nói.
- Tôi cũng không biết mình có đáng trách hay không nữa. - Nhựa Ruồi trả lời. - Nhưng các bạn sẽ nói cho tôi biết khi nghe xong câu chuyện này.
Buổi sáng chúng tôi ra đi có thể nói là tiết trời rất đẹp cho những chú thỏ trên chặng đường thiên lý và chúng tôi cảm thấy không có gì phải vội vã. Tôi nhớ là không khí se se lạnh như thể còn lâu nữa thì mặt trời mời đổ nắng rực rỡ và da trời xanh ngắt không một gợn mây. Có một nông trại nằm cách mạn kia cánh rừng này không xa và mặc dù con người không rời khỏi giường vào lúc tinh mơ như thế, tôi cũng không chọn đường đó, mà cứ đi lên vùng đất cao dần lên ở phía Tây. Chúng tôi tưởng đâu đi mãi sẽ lên đến đỉnh nhưng chẳng có bất cứ đỉnh núi nào ở mạn Bắc cả. Vùng cao nguyên cứ trải dài ra mãi, rộng mênh mông, khô cằn và vắng lặng. Có nhiều nơi thỏ có thể trú ẩn - những gốc ngô, hàng giậu và lũy đất - nhưng không có rừng mà chỉ có những cánh đồng bát ngát ngút tầm mắt với lớp đất nhẹ có những tảng đá lửa trắng rất to. Tôi hy vọng có thể đến được một vùng mà loài thỏ chúng ta đã quen - với những đồng cỏ và cánh rừng - nhưng chúng tôi không tìm được. Dù sao chúng tôi cũng tới con đường có một hàng rào cây rậm rạp tươi tốt ven đường và quyết đinh đi theo nó. Chúng tôi nghỉ ngơi và dừng lại một lúc vì tôi luôn cẩn thận tránh đụng phải kẻ thù, Tôi chắc rằng đây không phải là vùng đất tốt cho chồn ecmin và cáo nhưng thực ra tôi cũng không biết rõ chúng tôi sẽ làm gì nếu gặp phải một con như vậy.
- Tôi chắc là chúng tôi đi qua một con chồn, rất gần. - Xám Bạc tiếp lời. - Tôi có thể đánh hơi thấy mùi của nó. Nhưng các bạn cũng thừa hiểu tập tính của lũ săn mồi - nếu chúng khôn thực sự đi săn mồi thì chúng sẽ không để ý đến bạn. Chúng tôi cố không để lại nhiều mùi và vùi phân xuống đất như mèo vẫn làm.
- Thế là, khoảng gần trưa, - Nhựa Ruồi tiếp tục. - chúng tôi tới một cánh rừng hẹp và dài chạy vắt qua con đường mà chúng tôi đang đi. Rừng ở vùng đất thấp thật kỳ lạ, phải không. Khu rừng này không rậm hơn cánh rừng sồi trên đầu chúng ta, nhưng nó trải dài ngút tầm mắt thành một đường thẳng tắp. Tôi không thích những đường thẳng như kẻ chỉ vì con người làm ra những thứ như thế. Các bạn có thể đoán là chúng tôi tìm thấy một con đường chạy bên ngoài khu rừng này. Nó vắng vẻ, trống trải và dù sao thì chúng tôi cũng không thích lảng vảng quanh đấy, vì thế chúng tôi đi xuyên qua rừng sang phía bên kia. Kehaar bay trên đầu, nhìn thấy chúng tôi trên cánh đồng bèn bảo chúng tôi đổi hướng. Tôi hỏi cậu ta xem chúng tôi đã đi được bao xa thì Kehaar bảo mới được nửa đường, thế là tôi nghĩ hãy tìm một nơi nào đó trú tạm trong đêm đi là vừa. Tôi không thích những nơi trống huơ trống hoác nên cuối cùng chúng tôi cào lớp đất dưới đáy một cái hố nhỏ mà chúng tôi tìm thấy để có chỗ ngả lưng, sau đó đi ăn và ngủ một đêm ngon giấc.
Tôi nghĩ không cần kể tất tần tất mọi chuyện cho các bạn nghe. Trời đổ mưa ngay sau bữa ăn sáng, cùng vời nó là ngọn gió buốt lạnh thật khó chịu, thế là chúng tôi ở lại chỗ trú cho đến tận xế trưa. Rồi trời cũng hửng lên một chút và chúng tôi lại lên đường. Đường đi không còn suôn sẻ như trước vì những vũng nước mưa lõm bõm, nhưng vào lúc chập tối tôi nghĩ chúng tôi đã gần đến đích. Tôi còn đang nhìn quanh quất thì thấy một chú thỏ rừng băng qua bãi cỏ, bèn hỏi xem chú có biết một cánh đồng thỏ rất lớn gần đây không. “Efrafa à?”, Chú ta hỏi, “Các anh muốn đến Efrafa hả?”. “Phải, nếu như nó có tên gọi như thế”. “Anh biết nó à?”. “Không”, tôi đáp, “chúng tôi không biết và bây giờ muốn hỏi xem nó ở đâu”. “Vậy thì lời khuyên của tôi là các anh hãy mau mà cao chạy xa bay, càng nhanh càng tốt”. Tôi còn đang ngơ ngác không biết nên hiểu thế nào thì thấy có ba chú thỏ bất ngờ nhảy lên lũy đất, cũng đúng như cái cách mà tôi đã làm khi đến bắt anh, Tóc Giả ạ. Một chú trong bọn hỏi, “Cho tôi xem dấu của anh?”. “Dấu à?”, Tôi hỏi, “Dấu là cái gì? Tôi không hiểu”. “Vậy, các anh không phải người ở Efrafa?”. “Không, chúng tôi đang định đi đến đấy. Chúng tôi là khách phương xa”. “Vậy các anh đi theo chúng tôi chứ?”. Không hề có những câu đại loại như, “Có phải các anh từ xa đến?”, hay “Các anh có gặp mưa không?” hoặc một điều gì tương tự. Thế rồi ba chú thỏ đưa chúng tôi ra khỏi lũy đất và đấy là cách chúng tôi đến Efrafa như người ta gọi nơi này như thể. Tốt nhất tôi nên kể cho các bạn đôi điều về nó đê các bạn có thể hình dung tại sao lũ chúng tôi khi đi tươi tốt khi về bủng beo thảm hại như thế này. Efrafa là một cánh đồng thỏ rộng lớn, lớn hơn nhiều so với cánh đồng của chúng ta - ý tôi muốn nói là cánh đồng của Chúa Thanh Lương Trà. Một trong những nỗi sợ hãi thường trực trong mỗi chú thỏ sống ở đây là bị con người tìm được và gieo cho chúng căn bệnh rnù trắng. Cả cánh đồng này được bố trí sao cho có thể giấu đi sự tồn tại của nó. Những cái hang đều được ẩn giấu, các Cốt Cán điều khiển tất cả thỏ khác bằng mệnh lệnh. Bạn không thể sống cuộc đời theo ý mình, đổi lại bạn được an toàn, nếu đó là một thứ xứng đáng với cái giá phải trả. Cũng như các Cốt Cán, thỏ ở đây còn có một thứ mà họ gọi là Hội đồng, mỗi thành viên trong Hội đồng có trách nhiệm về một phần việc cụ thể nào đó, Chú thì trông coi việc ăn cỏ, chú thì chịu trách nhiệm về những đường chạy trốn, kẻ lại chăm lo việc sinh con đẻ cái, và cứ tiếp tục như vậy. Về phần các thỏ thường dân, chỉ có một số lượng nhất định được phép ở trên mặt đất vào cùng một thời điểm. Mỗi chú thỏ đều được đóng dấu từ khi mới ra đời: thỏ 1ớn cắn chúng rất sâu vào phía dưới cằm hoặc ở hông hoặc chân trước. Sau đó thì suốt đời mỗi chú thỏ được nhận diện qua vết sẹo này. Bạn không được phép có mặt trên mặt đất ngoài khoảng thời gian trong ngày được chỉ định cho cái Dấu mình mang trên người.
- Ai đã ngăn các anh lại. - Tóc Giả càu nhàu.
- Đây mới là phần đáng sợ nhất. Đội ngũ Cốt Cán, phải, nếu không có mặt ở đó thì các bạn không thể hình dung dược. Thỏ Thủ lĩnh là một thỏ có tên là Hoắc Hương: “Thống soái Hoắc Hương”, ấy là người ta gọi hắn như vậy. Tôi sẽ nói về hắn sau. Dưới hắn có các Đội trưởng - mỗi tay chịu trách nhiệm một Dấu - dưới mỗi Đội trưởng lại có các sĩ quan va lính gác, ngoài ra Đội trưởng còn có một tốp giúp việc làm nhiệm vụ vào mọi lúc, ngày cũng như đêm. Nếu con người tình cờ đi qua một nơi nào gần đấy, điều này cũng không hay xảy ra lắm, thì lính gác có nhiệm vụ báo động từ xa trước khi người này đến đủ gần để phát hiện bất cứ cái gì. Họ cũng phát ra những báo động về kẻ thù, ngăn không cho bất cứ thỏ nào “bậy” không đúng chỗ, việc phóng uế chỉ được thực hiện ở những chỗ quy định trong cái rãnh, nơi có thể vùi phân xuống đất. Nếu lính gác gặp bất cứ thỏ nào trên mặt đất mà họ biết là không được phép, họ đều đòi cho xem dấu. Có Chúa mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn không giải thích được mình là ai - nhưng tôi lại có thể đoán khá chuẩn. Thỏ ở Efrafa thường đi ra ngoài ban ngày vào những lúc không thấy bóng Thần Mặt trời. Nếu Dấu của họ quy định đi ăn đêm thì họ phải ăn vào ban đêm bất kề trời mưa hay tạnh, nóng hay lạnh. Tất cả quen vơi việc trò chuyện, chơi đùa và kết đôi trong những cái hang dưới đất. Nếu một Dấu (một chú thỏ mang một Dấu nhất định) không thể ăn vào giờ đã định vì lý do này khác - ví như có một con người làm việc gần đó - thì đấy là điều tồi tệ. Họ đã lỡ lượt của mình và phải đợi cho đến ngày hôm sau.
- Nhưng chắc là sống kiểu ấy sẽ thay đổi bọn chúng nhiều lắm? - Bồ Công Anh hỏi.
- Đúng thế. - Nhựa Ruồi đáp. - Hầu hết bọn họ không thể làm bất cứ việc gì ngoài những việc được giao. Họ không bao giờ ra ngoài lãnh địa Efrafa và không bao giờ phải đánh hơi để phát hiện kẻ thù. Mục đích duy nhất của mỗi thỏ ở đây là phấn đấu để lọt vào hàng ngũ Cốt Cán vì những đặc quyền đi kèm và mục đích duy nhất của một Cốt Cán là có chân trong Hội đồng. Một khi vào Hội đồng, họ sẽ có tất cả những gì tốt nhất. Phàm đã là Cốt Cán thì phải luôn mạnh mẽ, cứng rắn không biết nhượng bộ là gì. Các Cốt Cán thay phiên nhau làm cái mà họ gọi là Tổng tuần tra. Nghĩa là đi khắp những vùng lân cận tiếp giáp với Efrafa và phải sống phơi mình trên mặt đất vài ngày trong một đợt tuần tra như thế. Một phần là để tìm ra bất cứ thứ gì có thể tìm, một phần để lôi luyện bản thân, giúp họ trở nên cứng cáp và khôn ngoan hơn. Bất cứ thỏ lang thang nào mà họ tìm được đều bị bắt và mang về Efrafa. Nếu thỏ kia không chịu thì sẽ bị giết. Họ coi thỏ lang thang là phần tử nguy hiểm bởi vì hắn thu hút sự chú ý của con người. Những cuộc Tổng tuần tra này được báo cáo lên Thống soái Hoắc Hương và Hội đồng; đến lượt mình họ sẽ ra phán quyết xem phải làm gì, xử lý như thế nào với bất cứ cái gì lạ mà họ cho là nguy hiểm.
- Vậy họ đã để lạc mất các anh trên đường đi hả? - Hoa Chuông hỏi.
- Không, không phải thế. Sau này chúng tôi được biết rằng, sau khi chúng tôi bị Đội trưởng Thạch Trúc giải đi một lúc, một phái viên từ Đội Tổng tuần tra chạy về Hội đồng báo cáo rằng họ bắt được bốn thỏ từ miền Bắc tìm đến Efrafa, và xin mệnh lệnh. Sau đó phái viên kia quay về báo rằng chúng tôi được an toàn trong vòng kiểm soát. Dù sao thì sau đó Đội trưởng Thạch Trúc cũng đưa chúng tôi xuống một cái hang nằm trong một con hào. Miệng hang là một phần của cái ống bằng đất nung cũ kỹ, nếu con người kéo cái ống ra, miệng hang sẽ sập xuống che đậy dấu tích của lối đi bên trong. Tại đây, những vị khách không mời chúng tôi được bàn giao cho một Đội trưởng khác - bởi vì Thạch Trúc phải lên trên mặt đất để thực hiện nốt phiên trực của mình. Chúng tôi được dẫn đến một cái hang lớn và được bảo là hãy tự nhiên như ở nhà. Có những thỏ khác trong hang, và nhờ biết cách lắng nghe và đặt câu hỏi mà tôi biết được phần lớn những điều vừa kể cho các bạn. Chúng tôi “giao lưu” với một số cô nàng và tôi làm quen với một nàng tên là Sương Mai. (Hyzenthlay, nghĩa là “Lông sáng như sương mai”). Tôi kể cho cô nàng nghe vấn đề của chúng ta ở đây và lý do của chuyến đi còn nàng thì nói cho tôi biết về Efrafa. Khi nàng kể xong, tôi thốt lên, "Nghe sao mà khủng khiếp quá. Mọi chuyện bao giờ cũng như thế sao?" Sương Mai nói không hẳn như vậy mẹ nàng kể cho nàng nghe rằng nhiều năm trước, cộng đồng này ở một nơi khác và nhỏ hơn nhiều, nhưng khi Thống soái Hoắc Hương đến, ông ta đã bắt mọi người phải chuyển đến Efrafa, rồi sau đó từng bước lập ra một hệ thống ngụy trang và hoàn thiện nó cho đến khi loài thỏ sống ở Efrafa cũng an toàn như những vì sao trên bầu trời. “Phần lớn các thỏ ở đây đều chết vì già, trừ một số bị Cốt Cán giết”, Sương Mai giải thích, “Nhưng vấn đề là ở chỗ nơi này đang lâm vào cảnh đất chật người đông. Bất cứ cái hang mới nào được phép đào cũng đều phải thực hiện dưới sự giám sát của Cốt Cán với tiến độ rất chậm và cẩn thận vô cùng. Tất cả đều được ngụy trang khéo léo, như các anh thấy đấy. Chúng tôi trở nên đông đúc và nhiều thỏ không được ra khỏi hang lên mặt đất đúng với nhu cầu tối thiểu của họ. Vì một số lý do, cánh đồng thỏ lâm vào cảnh âm thịnh dương suy. Nhiều thỏ trong số chị em chúng tôi không thể chửa đẻ vì nơi này đông đúc quá rồi, nhưng không ai được phép rời khỏi đây. Chỉ cách đây mấy ngày, khá đông chị em chúng tôi đã đến gặp Hội đồng xin phép được rời khỏi đây, bắt đầu một cộng đồng mới ở đâu đó. Chúng tôi hứa sẽ đi thật xa, xa tít tắp, xa đến chừng nào mà họ muốn. Nhưng Hội đồng không muốn nghe một chuyện như thế, không, chẳng vì lợi ích của ai cả. Mọi việc không được phép diễn ra như thế. Hệ thống sẽ bị phá vỡ. Chính vì thế những chuyện như vậy không được phép nêu ra”.
Chà, tôi mới bụng bảo dạ, xem ra có nhỉều hy vọng đây. Chắc chắn người ta sẽ không khước từ thỉnh cầu của chúng ta, phải không? Mà chúng ta thì chỉ muốn rước đi mấy cô thỏ thôi, chứ có phải là các cậu thỏ đâu. Họ thì đang lâm vào tình trạng khủng hoảng thừa thỏ cái và chúng ta sẽ mang mấy nàng đi thật xa, xa đến nỗi không một ai ở đây từng đặt chân đến.
Một lúc sau một Đội trưởng khác đi tới, cho biết chúng tôi cần đi với anh ta tới cuộc họp Hội đồng. Cuộc họp Hội đồng diễn ra trong một cái hang lớn. Nó dài và hơi hẹp một chút, không được tốt như Tổ Ong của chúng ta, bởi vì họ không có những chùm rễ cây làm thành một cái trần thoáng rộng. Chúng tôi phải đợi bên ngoài trong khi họ bàn luận đủ các chuyện linh tinh khác. Sự xuất hiện của chúng tôi chỉ là một vấn đề be bé trong chương trình nghị sự dưới cái tên: bắt được những kẻ lạ mặt. Có một thỏ khác cũng đợi ở ngoài và anh ta phải chịu sự giám sát đặc biệt của các Cốt Cán đặc nhiệm mà họ gọi là Cảnh sát Hội đồng. Cả đời tôi chưa bao giờ đứng gần một ai hồn kinh phách lạc đến thế - tôi nghĩ anh ta gần như phát điên lên vì sợ. Tôi hỏi một trong những cảnh sát có mặt ở đấy là thỏ này mắc vào vấn đề gì thì được biết anh ta tên là Blackavar, đã bị tóm trong khi đang cố gắng đào tẩu khỏi nơi này. Vậy là người ta giải anh bạn xấu số vào phòng họp, và lúc đầu tôi nghe tiếng anh ta cố giải thích này nọ, sau đó thì khóc hưng hức và cầu xin tha mạng: và khi anh ta đi ra tôi thấy tai anh ta đã bị xé toạc ra thành từng mảnh, còn te tua hơn cả tai tôi nữa. Tất cả chúng tôi hếch mũi về phía anh ta ngửi ngửi, sợ đến mất hết cả hồn vía, nhưng một trong những cảnh sát thấy vậy thì nói ngay, “Các anh không cần phải nhặng xị lên như thế. Nó còn giữ được cái mạng thế là đã phúc bảy đời rồi”. Thế là trong khi chúng tôi nghiền ngẫm về cơ sự này thì một thỏ tới gần thông báo Hội đồng đang đợi chúng tôi.
Vừa vào đến nơi chúng tôi đã được đưa tới trước mặt Thống soái Hoắc Hương: thật rõ là một gã mặt sắt đen xì. Tôi nghĩ có khi cả anh nữa cũng chưa chắc đã là đối thủ của hắn, Tóc Giả ạ. Hắn to gần bằng con thỏ rừng và có một cái gì đó trong bộ dạng của hắn ta khiến anh phải sợ quýnh quáng, cứ như thể máu me, đánh nhau và giết chóc chỉ là một phần công việc hàng ngày của hắn. Tôi đã tưởng đâu hắn sẽ bắt đầu hỏi chúng tôi bằng những câu như chúng tôi là ai và chúng tôi muốn gì, nhưng hắn không làm thế. Hắn nói, “Tôi sẽ giải thích những quy định của cộng đồng và những điều kiện mà các anh phải tuân theo khi sinh sống ở đây. Các anh phải chăm chú lắng nghe, bởi vì những quy định này cần phải được tôn trọng và bất cứ sự vi phạm nào đều sẽ bị trừng trị”. Thế là tôi thanh minh ngay rằng có sự hiểu nhầm ở đây. Rằng chúng tôi là những thuyết khách thiện chí từ một cánh đồng thỏ khác đến thỉnh cầu thiện chí và sự giúp đỡ từ phía Efrafa. Sau đó tôi giải thích tiếp rằng tất cả những điều chúng tôi muốn là được họ cho phép để thuyết phục một vài cô thỏ cùng chúng tôi trở về cánh đồng thỏ của mình. Khi tôi nói xong, Thống soái mời trả lời rằng lời đề nghị của chúng tôi là không thể được và chẳng có gì phải thảo luận hết. Nghe vậy tôi mới mạnh dạn đề nghị họ cho phép chúng tôi ở lại một hai ngày hòng thuyết phục họ thay đổi ý kiến.
“Được”, hắn nói, “các ngươi có thể ở lại. Nhưng sẽ không có cơ cho các ngươi đứng trước Hội đồng lần nữa đâu, bất kể ở mức độ nào”. Tôi bèn nói rằng mọi người đã nhìn nhận vấn đề hơi có phần khắt khe. Yêu cầu của chúng tôi khá hợp lý. Và tôi tiếp tục bằng cách đề nghị họ hãy xét lại một vài điều từ quan điểm của chúng tôi, nhưng một thành viên khác trong Hội đồng - một lão thỏ già nua - đã nói, “Có vẻ như ngươi nghĩ mình có mặt ở đây là để tranh luận với chúng ta và dẫn đến một cuộc mặc cả thì phải. Trong khi chúng ta mới là người đưa ra luật lệ”. Khi ấy tôi mời nhắc họ nhớ rằng chúng tôi là người đại diện cho cả một cộng đồng thỏ, dẫu rằng cộng đồng ấy có thể nhỏ hơn chỗ họ đi nữa. Chúng tôi nghĩ mình nên được đối xử như những vị khách. Những chỉ nói xong tôi mới giật mình nhận ra rằng thì ra họ coi chúng tôi là tù binh, hoặc chẳng hơn gì tù binh, dù họ gọi chúng tôi là gì đi nữa.
Thế đấy, tôi không còn muốn nói thêm gì nữa về kết cục của cuộc họp mặt đó. Dâu Tây đã cố hết sức giúp tôi. Anh ấy nói đầy thuyết phục về mối quan hệ xã giao theo nghi thức và sự tương thân tương ái tự nhiên giữa loài vật với nhau. “Loài vật không cư xử như con người”, Dâu Tây nói, “Nếu phải đánh nhau họ sẽ đánh, nếu phải giết họ sẽ giết. Nhưng họ không ngồi lại với nhau, dùng trí khôn của mình để nghĩ ra những cách thức khác nhau hòng hủy hoại cuộc sống của những sinh vật khác hoặc làm tổn thương chúng. Họ có lòng tự trọng và tính thú”. Chỉ là đàn gảy tai trâu. Cuối cùng chúng tôi bỏ cuộc còn Thống soái Hoắc Hương thì phán, “Hội đồng không có thời gian mà lãng phí với các ngươi nữa, ta sẽ giao các ngươi về một đội, để Đội trưởng phổ bỉến nội quy cho các ngươi. Bọn các ngươi hãy gia nhập vào Đội Dấu Cánh Tả, nằm dưới quyền chỉ huy của Đội trưởng Lưỡi Rắn. Sau đó, chúng ta sẽ gặp lại các ngươi lần nữa, rồi các ngươi sẽ thấy chúng ta hoàn toàn thân thiện và tử tế với những thỏ nào hiểu rõ người ta chờ đợi gì ở chúng”.
Đến đấy một Cốt Cán đưa chúng tôi đến chỗ Đội Dấu Cánh Tả. Có vẻ như Đội trưởng Lưỡi Rắn quá bận rộn không có thời gian gặp thành viên mới còn tôi thì cũng cẩn thận tránh xa đường đi của hắn, sợ rằng hắn có thể muốn “đóng dấu” chúng tôi một lúc nào đó. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu hiểu điều mà Sương Mai muốn nói khi cho rằng hệ thống này không còn vận hành một cách hợp lý nữa. Các hang ở đây rất chật chội - ít nhất là theo tiêu chuẩn của chúng ta, bạn có thể dễ dàng thoát khỏi sự chú ý. Thậm chí dù cùng trong một đội, các thỏ cũng không biết hết nhau. Chúng tôi cũng tìm được chỗ của mình trong hang và cố ngủ một giấc, nhưng vào gần đêm, chúng tôi bị đánh thức dậy và được thông báo đi ăn. Tôi những tưởng đây là cơ hội chạy đi ăn dưới ánh trăng, nhưng hình như ở đâu cũng có lính gác. Ngoài bọn lính gác, Đội trưởng còn có hai giao liên làm nhiệm vụ chạy hỏa lực đến bắt cứ hướng nào có thể có động.
Ăn xong chúng tôi lại đi xuống đất. Gần như tất cả bọn thỏ ở đây đều có vẻ ngoan ngoãn, dễ bảo. Chúng tôi tránh xa họ, bởi vì chúng tôi định trốn đi khi có cơ hội nên không muốn bị nhiều người để ý. Nhưng dù đã cố hết sức,! tôi vẫn không thể nghĩ ra một kế hoạch nào khả dĩ. Chúng tôi lại đi ăn lần nữa, vào trước buổi trưa ngày hôm sau, ăn xong lại chui về hang. Thời gian trôi chậm vô cùng. Cuối cùng - chắc vào lúc nhá nhem tối - tôi gia nhập vào một tốp thỏ nhỏ đang lắng nghe một câu chuyện. Và mọi người biết không đó lại chính là chuyện “Rau diếp của Đức vua”. Kẻ kể chuyện này còn lâu mới sánh được với Bồ Công Anh của chúng ta, nhưng tôi vẫn lắng nghe, chỉ để có một cái gì đó mà làm. Khi chú kể đến đoạn El-ahrairah giả trang thành thầy thuốc rồi vào cung của vua Darzin thì tôi chợt lóe lên một ý tưởng. Đây là một kế hoạch liều lĩnh, nhưng tôi nghĩ vẫn có cơ hội thành công, đơn giản là bởi vì một thỏ ở Efrafa đều có thói quen cắm đầu làm theo chỉ thị của cấp trên mà không thắc mắc gì hết. Tôi đã quan sát Đội trưởng Lưỡi Rắn, anh ta gây cho tôi ấn tượng là một chàng thỏ dễ mến, tận tâm, hơi có phần yếu đuối và có vẻ phiền não vì phải làm quá nhiều việc vượt quá khả năng của mình. Đêm ấy, chúng tôi được gọi đi ra ngoài ăn tối. Trời tối đen như mực và có mưa, nhưng các bạn sẽ không phiền lòng về những điều nhỏ nhoi như thế ở Efrafa - bạn chỉ thấy sung sướng khi có dịp được ra ngoài nhấm nháp cỏ tươi. Bọn thỏ lũ lượt ra ngoài và chúng tôi chờ đợi để ra cuối cùng. Đội trưởng Lưỡi Rắn ra ngoài cồn đất cùng với hai liên lạc viên. Xám Bạc và những người khác đi ra ngoài ngay phía trước tôi, thế là tôi đi đến gần Đội trưởng thở hổn hển như vừa chạy ở đâu về. “Đội trưởng Lưỡi Rắn!”. “Gì thế?”, Anh ta vội hỏi lại, “Có chuyện gì vậy?”. “Anh được triệu tập về Hội đồng, ngay lập tức”. “Tại sao? Anh muốn nói gì vậy? Để làm gì?”. “Chắc chắn họ sẽ cho anh biết khi gặp anh”, tôi đáp, “Tôi sẽ không để cho họ phải đợi nếu ở vào trường hợp của anh”. “Nhưng mà anh là ai?”, Lưỡi Rắn hỏi lại, “Anh không phải là phái viên của Hội đồng. Tôi biết mặt tất cả bọn họ. Anh mang Dấu gì?”. “Tôi không ở đây để trả lời những câu hỏi của anh”, tôi cao giọng nói, “Hay là để tôi quay lại thông báo với họ rằng anh sẽ không đến?”. Đội trưởng bán tín bán nghi và tôi làm bộ như sắp bỏ đi. Nhưng rồi bất thình lình anh ta nói, “Thôi được”, trông anh ta như thể cả ba hồn bảy vía đều đi sơ tán cả, thật tội nghiệp, “nhưng ai sẽ trông coi ở đây trong lúc tôi đi vắng?”. “Là tôi”, tôi đáp, “Lệnh của Thống soái Hoắc Hương đấy. Nhưng mau quay trở lại nhé. Tôi không muốn bị chôn chân ở đây cả nửa đêm để làm nhiệm vụ của anh đâu”. Đội trưởng ba chân bốn cẳng chạy đi. Tôi quay lại chỗ ba người kia nói, “Cứ ở yên đây nhé: và chuẩn bị sẵn sàng. Tôi đi xem qua bọn lính gác”. Sau đó bốn chúng tôi chạy biến vào trong bóng đêm và chắc chắn là chúng tôi mới chỉ chạy được một đoạn ngắn thì hai lính gác đã bất ngờ xuất hiện, cố ngăn chúng tôi lại. Chúng tôi chụm lại nghênh chiến vời bọn chúng. Tôi nghĩ chúng sẽ bỏ chạy, nhưng không, chúng đánh đấm như điên và một trong hai gã đã bổ một cú vào ngay mũi Gạc Nai. Nhưng tất nhiên hai đánh một chẳng chột cũng què, cuối cùng chúng tôi vượt qua bọn chúng và chạy thục mạng qua cánh đồng. Chúng tôi cũng chẳng biết mình chạy đi đâu nữa trong cái đêm tối đen kịt cùng mưa và gió, chỉ biết cắm đầu chạy miết. Tôi nghĩ một trong những lý do cuộc truy đuổi diễn ra chậm trễ là bởi vì anh bạn Lưỡi Rắn tội nghiệp không có mặt ở đó để ra lệnh. Dù sao thì chúng tôi cũng có một khởi đầu thuận lợi. Nhưng một lúc sau đã nghe có những bước chân đuổi theo, và tệ hơn nữa là chúng tôi bị đuổi kịp.
Tin tôi đi, Cốt Cán ở Efrafa hoàn toàn không phải là để cho có, họ phải thông qua những cuộc tuyển lựa khắt khe về vóc dáng và sức mạnh và chẳng có gì về thuật di chuyển trong thời tiết ẩm ướt và bóng tối mà họ lại không biết cả. Họ lại sợ Hội đồng đến mức xem ra trên đời này chẳng còn điều gì đáng sợ nữa. Chẳng bao lâu sau tôi hiểu rằng chúng tôi đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Đội truy tìm chắc chắn có tốc độ nhanh hơn chúng tôi khi chạy trong đêm tối mưa gió và chẳng bao lâu sau sẽ bắt kịp. Tôi toan nói với các bạn đồng hành rằng chúng tôi chỉ còn mỗi một cách là quay lại và chiến đấu thì thấy mình chạy đến một bờ đất rất lớn, gần như dốc thẳng lên trời. Còn dốc hơn cái sườn núi phía dưới chúng ta đây, hơn nữa trông nó có vẻ rất cân xứng tựa hồ con người đã tạo ra nó.
Vậy là, chẳng còn thời gian suy nghĩ nữa, chúng tôi cứ thế mà lao lên dốc. Sườn dốc phủ đầy những bãi cỏ thô ráp và bụi cây. Tôi không biết từ chân dốc đến đỉnh dài bao xa, nhưng tôi đoán phải cao bằng cây thanh lương trà trưởng thành, thậm chí có lẽ còn cao hơn. Lên đến đỉnh, chúng tôi thấy mình đang đi trên những phiến đá nhỏ và nhẹ cứ lăn đi dưới bước chân của chúng tôi. Điều này đã giúp chúng tôi tẩu thoát. Sau đó chúng tôi đến một chỗ có những tấm gỗ dèn dẹt, to bản và hai thanh kim loại lớn được vít chặt lại tạo ra những tiếng ồn - nghe như những tiếng u u trầm trầm kéo dài. Tôi vừa mới bụng bảo dạ rằng “Lại một thứ do con người làm ra đây”, thì đã lăn tòm sang bờ dốc bên kia. Tôi đã không nhận ra rằng toàn bộ đỉnh của cái bờ đó rất hẹp và bờ bên kia cũng rất dốc. Tôi lộn nhào xuống bờ đất trong đêm tối, lao vào một bụi cây cơm cháy và nằm lại đó.
Nhựa Ruồi dừng lời, im lặng một lúc như thể đang duyệt lại những gì hiện ra trong ký ức. Cuối cùng chú nói.
- Thật khó có thể tả lại đầy đủ cho các bạn những gì xảy ra tiếp theo đó. Mặc dù cả bốn đều có mặt, chúng tôi không hiểu làm sao lại có những chuyện đó. Nhưng điều tôi nói sau đây là sự thật thuần túy. Có lẽ chính Thần Mặt trời đã phái những Sứ giả vĩ đại của Người đến cứu chúng tôi khỏi bọn Cốt Cán ở Efrafa. Mỗi đứa trong chúng tôi đều lăn khỏi bờ dốc đến một điểm rơi khác nhau. Gạc Nai gần như không nhìn rõ đuờng vì máu me be bét thì gần như lao thẳng xuống đáy. Tôi bò dậy, nhìn lên đỉnh. Một chút ánh sáng trên bầu trời cũng được nhìn thấy bọn Efrafa nếu chúng xuất hiện. Và rồi... có một vật kỳ vĩ - tôi không thể đưa ra bất cứ một ý niệm gì về nó - chỉ biết rằng nó to bằng một ngàn lần hrududu - hoặc to hơn nữa - lù lù tiến ra khỏi bóng đêm. Toàn thân nó toàn những lửa, khói và ánh sáng, khiếp nó gầm rú mới gớm chứ, ra sức nện vào những thanh kim loại cho đến khi mặt đất cũng rung chuyển lên ở phía dưới. Nó lao vào giữa chúng tôi và bọn Efrafa như một ngàn trận bão tố cùng với những tia chớp. Tôi phải thú nhận với các bạn rằng cái tôi cảm thấy còn lớn hơn cả nỗi kinh hoàng thuần túy. Tôi... tôi không sao cử động được. Hơi nóng và tiếng ồn… tất cả xé toạc màn đêm ra làm hai. Tôi không biết chuyện gì xảy ra với bọn Efrafa nữa hoặc chúng đã chạy thoát hoặc chúng bị cái vật kia nghiến nát. Và rồi bất thình lình nó đi mất, chúng tôi nghe thấy nó biến mất, xình xịch rầm rầm, xình xịch rầm rầm rồi trôi dần xa dần vao trong đêm. Chúng tôi đứng trơ khấc lại một mình.
Mất một lúc lâu tôi vẫn không cử động được. Cuối cùng tôi cũng cố đứng dậy đi tìm những người kia, từng người một, trong đêm tối. Không ai trong chúng tôi nói một lời nào. Ở dưới chân dốc, chúng tôi phát hiện ra một kiểu đường hầm thông từ bờ bên này sang bờ bên kia. Chúng tôi chui vào đó và bò sang cái bờ mà chúng tôi đã trèo lên. Sau đó chúng tôi di một đoạn đường dài xuyên qua nhũng cánh đồng cho đến khi tôi biết chắc là chúng tôi đã hoàn toàn cách xa Efrafa. Chúng tôi bò vào một cái rãnh và ngủ ở đấy, cả bốn người, cho đến sáng. Chẳng có lý do gì giải thích tại sao không có bất cứ một cái gì đó đến kết liễu bọn chúng tôi, tuy vậy chúng tôi biết mình vẫn an toàn. Các bạn có thể nghĩ thật là một điều kỳ diệu khi được Thần Mặt trời cứu giúp bằng quyền năng của Người. Tôi cũng băn khoăn không biết có bao nhiêu thỏ được hưởng ân huệ này? Nhưng tôi phải nói rằng điều này còn đáng sợ hơn bị bọn Efrafa truy đuổi rất nhiều. Không một ai trong chúng tôi có thể quên được việc nằm trên bờ đất dưới trời mưa trong khi cái vật toàn khói và lửa ấy chạy qua đầu. Mà tại sao nó lại đến vì chúng tôi cơ chứ? Điều đó vượt quá những gì chúng tôi có thể biết.
Sáng hôm sau, tôi đi quan sát một vòng và chẳng bao lâu đã nhận ra được đâu mới là hướng đi đúng. Các bạn biết các bạn vẫn thường làm như thế nào mà. Mưa đã tạnh và chúng tôi lên đường. Nhưng chuyến đi về mới thật là khó nhọc. Tất cả không còn chút sức lực nào - tất cả chỉ trừ Xám Bạc: tôi không biết chúng tôi sẽ xoay xở như thế nào nếu không có cậu ấy. Chúng tôi đi ròng rã một ngày một đêm mà không được nghỉ lấy một lần cho ra nghỉ. Tất cả đều cảm thấy rằng trên đời này, điều duy nhất mà chúng tôi muốn làm là trở về đây càng sớm càng tốt. Khi về đến khu rừng vào sáng nay, tôi đã đi tập tễnh trong một giấc mơ tồi tệ. Tôi e là mình cũng chẳng khá hơn Dâu Tây tội nghiệp chút nào. Cậu ấy không phàn nàn một tiếng, nhưng sức khỏe suy sụp, cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng một thời gian đài, và tôi cho là mình cũng thế. Còn Gạc Nai - đây là lần thứ hai anh ấy nhận một vết thương tệ hại như thể. Nhung đó còn chưa phải là điều tệ hại nhất, đúng không? Chúng ta đã mất Cây Phỉ, đó là điều đáng sợ nhất có thể xảy ra. Một số các bạn đã có lời hỏi tôi vào lúc nãy rằng tôi có muốn lên làm Thủ lĩnh không. Tôi rất vui khi thấy các bạn tin tưởng ở mình, nhưng tôi đã là một ngọn đèn hết dầu rồi, tôi không thể đảm đương nhiệm vụ đó. Tôi cảm thấy mình khô khốc và trống rỗng như một cái nấm trứng mùa thu - như thể chỉ cần một ngọn gió là cũng có thể thổi bộ lông của tôi bay mất.

Chương 28. Dưới Chân Núi


Thật tuyệt vời khi ở
Một mình nhưng chẳng chút đơn côi
Tránh xa nỗi kinh hoàng và trong đêm tối
Thấy được nhà mình.
(Kẻ hành hương của Walter de la Mare)
*
- Ta dừng lại ăn chút gì được không, các bạn có mệt quá không? - Bồ Công Anh hỏi. - Và cũng đã đến thời điểm cho một sự thay đổi, phải không? Thật là một đêm đẹp trời, nếu cái mũi của tôi không nói sai. Các bạn cũng biết là chúng ta phải tránh đừng tỏ ra quá khốn khổ đến mức không ai giúp được.
- Trước khi chúng ta đi ăn, - Tóc Giả lên tiếng. - tôi muốn nói với anh, Nhựa Ruồi ạ, tôi tin rằng ngoài anh ra, không ai có thể đưa mình và ba người kia an toàn thoát khỏi một nơi như thế.
- Thần Mặt trời muốn chúng tôi trở về. - Nhựa Ruồi đáp. - Đó là lý do thực sự để chúng tôi có mặt ở đây.
Khi quay lại theo Thủy Cự chạy lên lối đi dẫn vào rừng, chú thấy Thanh Nhàn bên cạnh.
- Cô và các bạn cô chắc lấy làm kỳ lạ về cái việc ra ngoài ăn cỏ như thế này. - chú nói. - Cô biết đấy, mọi việc sẽ quen dần. Tôi xin cam đoan là Cây Phỉ đã đúng khi nói với cô rằng cuộc sống ở đây tốt hơn trong chuồng. Đi với tôi, tôi sẽ mách cho cô chỗ mọc lên loại cỏ đuôi ngắn vừa mềm vừa ngọt, nếu Tóc Giả không xơi hết trong lúc tôi đi vắng.
Nhựa Ruồi dẫn Thanh Nhàn đi. Cô thỏ này có vẻ khỏe khoắn và dạn dĩ hơn Hoằng Dương và Cỏ Khô và rõ ràng là đang cố hết sức để thích nghi với cuộc sống mới trên cánh đồng thỏ. Khả năng sinh đẻ của cô thỏ là điều Nhựa Ruồi chưa thể nói chắc được, nhưng cô nàng có vẻ rất sung sức.
- Tôi cũng thích ở dưới hang. - Thanh Nhàn nói khi họ chạy ra ngoài chỗ trống tràn ngập không khí trong lành. - Không gian bít bùng thật ra rất giống cái chuồng, trừ mỗi chuyện là tối hơn thôi. Cái khó với chúng tôi là phải đi ăn ở nơi trống trải. Chúng tôi còn chưa quen với việc tự do đi đến những nơi chúng tôi muốn và cũng không biết phải làm gì. Tất cả các anh đều hành động rất nhanh, tôi mất đến một nửa thời gian để thắc mắc mà không hiểu được tại sao. Tôi thích ăn ở gần cửa hang, nếu anh không phiền.
Họ chậm rãi đi ngang qua bãi cỏ ngập nắng chiều, nhấn nhá chỗ này một ít chỗ kia một ít khi đi qua. Chẳng bao lâu sau, Thanh Nhàn đã hoàn toàn chú tâm đến việc ăn cỏ, Nhựa Ruồi thì dừng lại liên tục để đứng lên hít hít chung quanh tận hưởng không khí vắng lặng thanh bình của vùng sơn cước. Chợt chú nhận ra Tóc Giả đứng cách chú một quãng, đang nhìn đăm đăm về phía Bắc, chú lập tức dõì về hướng đó.
- Cái gì vậy? - chú hỏi.
- Đó là Mâm Xôi. - Tóc Giả trả lời, giọng nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Mâm Xôi, với những bước nhảy chầm chậm đang phóng xuống từ đường chân trời. Chú ta có vẻ đã thấm mệt, nhưng thoáng thấy Tóc Giả thì lỉền phóng nhanh hơn về phía bạn.
- Nãy giờ anh ở đâu? - Tóc Giả hỏi. - Thế Thứ Năm đâu? Nó không đi cùng anh à?
- Thứ Năm đang ở với Cây Phỉ. - Mâm Xôi đáp. - Cây Phỉ còn sống. Anh ấy bị thương - khó có thể nói vết thương nghiêm trọng thế nào - nhưng anh ấy sẽ không chết.
Ba thỏ kia trân trân nhìn chú không nói lên lời. Mâm Xôi chờ đợi, và cảm thấy thích thú với hiệu quả của cái tin mình mang đến.
- Cây Phỉ vẫn còn sống? - Tóc Giả hỏi lại. - Anh chắc chứ?
- Chắc như bắp. - Mâm Xôi đáp. - Lúc này anh ấy đang ở chân đồi, trong cái hào mà anh đã ở vào cái đêm mà Nhựa Ruồi và Hoa Chuông đến đây.
- Tôi khó mà tin được vào tai mình. - Nhựa Ruồi kêu lên. - Nếu đó là sự thật thì đây là tin vui nhất tôi từng nghe trong đời. Mâm Xôi này, anh chắc chứ? Chuyện gì đã xảy ra? Kể cho chúng tôi nghe đi.
- Thứ Năm đã tìm ra anh ấy. - Mâm Xôi kể. - Cậu ấy yêu cầu tôi đưa đi, trở lại gần đến nông trại: rồi cậu ấy chui vào một cái hào và tìm thấy Cây phi trong một rãnh thoát nước. Anh ấy rất yếu vì mất nhiều máu và không thể tự mình chui ra khỏi ống cống. Chúng tôi phải lôi anh ấy ra bằng cái chân sau còn lành. Anh ấy không thể quay người được, các anh cũng biết đấy.
- Nhưng mà trời ạ, làm sao Thứ Năm có thể biết được chứ?
- Làm thế nào mà Thứ Năm biết được những điều cậu ấy đã biết ư? Tốt nhất anh hãy trực hấp hỏi Thứ Năm. Khi chúng tôi đưa Cây Phỉ về đến hào, Thứ Năm đã xem xem vết thương nặng nhẹ thế nào. Cây Phỉ bị một vết thương rất nặng nơi chân sau nhưng may thay xương không bị gãy, nhưng anh ấy bị xây xước hết một bên người. Chúng tôi đã làm hết khả năng của mình để làm sạch vết thương rồi bắt đầu đưa anh ấy về. Việc này làm chúng tôi mất đứt buổi tối. Các anh có thể hình dung được không - giữa ban ngày ban mặt, trong cái im lặng chết người một con thỏ què toàn mùi máu tươi? May sao hôm nay là ngày nóng nhất trong mùa hè, không có một con chuột nào quậy phá. Chốc chốc chúng tôi lại phải tìm chỗ núp trong những bụi mùi tây dại để nghỉ ngơi. Tôi cứ hối hả bận rộn trong khi Thứ năm cứ như con bướm vờn trên tảng đá. Cậu ấy ngồi trên cỏ, vò đầu bứt tai. “Đừng có cuống lên như thế”, cậu ta luôn miệng nói, “Không có gì phải lo lắng hết Chúng ta còn thời gian mà”. Sau những gì mà tôi tận mắt chứng kiến, tôi sẽ tin nếu cậu ấy nói rằng chúng ta có thể săn được cáo. Nhưng khi chúng tôi về đến chân núi thì Cây Phỉ hoàn toàn kiệt sức, anh ấy không đi xa hơn được nữa. Hai anh em nhà ấy phải tạm trú trong cái hào mọc đầy cỏ và tôi lên đây thông báo cho mọi người biết. Và đó là lý do tôi ở đây.
Nhựa Ruồi và Tóc Giả tiếp nhận cái tin này trong im lặng. Cuối cùng Tóc Giả nói:
- Thế là họ sẽ ở lại đấy tối nay?
- Tôi nghĩ thế. - Mâm Xôi trả lời. - Tôi cho rằng chỉ khi nào Cây Phỉ khỏe hơn nhiều thì anh ấy mới lên núi được.
- Để tôi xuống dưới ấy, - Tóc Giả nói. - tôi có thể làm cái hào trở nên thoải mái dễ chịu hơn, vả lại Thứ Năm có thể sẽ cần ai đó giúp chăm sóc Cây Phỉ.
- Tôi sẽ phóng thật nhanh xuống đó nếu là anh. - Mâm Xôi nói. - mặt trời lặn đến nơi rồi đấy.
- À, - Tóc Giả nói. - Nếu tôi gặp một con chồn thì nó hãy liệu hồn. Cứ biết thế. Ngày mai tôi sẽ mang về cho các anh một con, được chứ? - Chú phóng vụt đi và biến mất sau bờ đất.
- Đi nào, đến gặp những người còn lại. - Nhựa Ruồi nói. - Nhanh lên Mâm Xôi, anh sẽ phải kể lại tất cả từ đầu đến cuối.
Quãng đường hơn một cây số trong cái nắng gay gắt từ nông trại Nuthanger đến chân núi khiến Cây Phỉ phải nỗ lực và đau đớn chưa từng thấy trong đời. Nếu Thứ Năm không tìm ra chú thì chắc chú đã chết trong cống thoát nước. Khi tiếng nài nỉ của Thứ Năm xâm chiếm cơn đờ đẫn, mệt lả và bít bùng của chú, thực ra thì ban đầu chú đã cố không đáp lại. Cứ nằm lại chỗ này, ở phía bên kia nỗi đau mà chú phải chịu đựng thì vẫn dễ chịu hơn nhiều. Một lát sau, khi chú thấy mình nằm trong một vùng mờ xanh của cái hào, trong khi Thứ Năm đang xem xét vết thương và trấn an rằng chú có thể đứng đậy và đi lại, chú vẫn không thể kham nổi cái ý nghĩ lại phải chuẩn bị cho việc quay về. Nửa người bị thương của chú giật giật buốt nhói và cái đau ở chân dường như đã ảnh huởng đến các giác quan của chú. Trời đất quay cuồng đảo lộn trước mặt và chú không thể nghe hoặc ngửi được như bình thường. Cuối cùng, khi đã hiểu ra là Thứ Năm và Mâm Xôi đã liều mạng thực hiện chuyến đi thứ hai đến nông trại vào giữa ban ngày ban mặt chỉ để tìm và cứu sống chú thì chú buộc mình phải đứng lên trên ba chân và bắt đầu lết xuống dốc đi ra đường. Vạn vật vẫn chòng chành trước mắt nên chốc chốc chú lại phải dừng. Nếu không có Thứ Năm động viên thì chắc hẳn chú đã nằm xuống buông xuôi. Ra đến đường, chú không thể bò lên bờ đất mà phải khó nhọc đi tập tễnh dọc theo vệ đường cho đến khi có thể bò qua cổng Rất lâu sau đó, khi chúng đến duới những cột điện cao thế, chú nhớ đến cái hào bị cỏ lấp gần hết ở chân núi và đề ra cho mình mục tiêu phải đến được đó. Một khi đã lết được đến nơi, chú liền nằm xuống và lập tức rơi vào giấc ngủ nặng nề vì suy kiệt hoàn toàn.
Khi Tóc Giả chạy đến, ngay trước khi trời tối hẳn, chú thấy Thứ Năm đang vội vã ăn nhanh trong một bãi cỏ cao. Không thể để việc đào hang làm phiền Cây Phỉ nên họ trải qua một đêm nằm co ro bên người bị thương trong một khoảng không gian chật chội.
Bước ra ngoài trong ánh sáng xam xám trước buổi bình minh, sinh vật đầu tiên mà Tóc Giả nhìn thấy là Kehaar, cậu này đang kiếm ăn giữa những gốc cây cơm cháy. Chú giậm chân để thu hút sự chú ý của chú mòng biển. Kehaar sà cánh bay lướt qua người bạn thỏ với một cú đập cánh và một cú trượt dài.
- Eng Tóc Dả, đã tìm thấy eng Cây Phỉ rồi ư?
- Phải, cậu ấy đang nằm trong cái hào kia.
- Chưa chết?
- Không, nhưng cậu ấy bị thương nặng và yếu lắm. Anh cũng biết là người nông dân đã bắn cậu ấy.
- Eng đã lấy những viên đá đen ra dồi chứ?
- Ý anh muốn nói gì?
- Bao giờ cũng với khẩu xúng với những hòn đá nhõ màu đen. Eng chưa thấy bao giờ à?"
- Không, tôi chẳng biết gì về xúng hay gì đó cả.
- Lấy hòn đá đen ra, eng ấy xẽ khỏe hơn. Đưa eng ấy ra đây chứ?
- Để tôi coi xem sao, - Tóc Giả nói. Chú đi xuống chỗ bạn, Cây Phỉ đã thức dậy và đang nói chuyện với Thứ Năm. Nghe Tóc Giả nói Kehaar đang ở bên ngoài, Cây Phỉ cố lết người đi một đoạn ngắn và lê ra chỗ bãi cỏ.
- Khẩu xúng chết tiệt lày. - chú mòng biển ngọng nghịu nói. - Hòn đá nhỏ nàm eng đau. Cho tôi nhìn cái.
- Tôi cho rằng anh làm việc này tốt hơn. - Cây Phỉ nói. - Tôi sợ rằng vết thương ở chân rất nặng.
Cây Phỉ nằm dài ra cỏ, cái đầu của Kehaar quay từ bên này sang bên kia như thể chú đang tìm một con ốc sên nhỏ trong bộ lông màu nâu của Cây Phỉ. Chú nhìn rất chăm chú vào cái chân bị dập nát.
- Không thấy viên đá lào ở đây. - cuối cùng chú nói. - Đưa chân nên xuống đừng dừng nại. Được, thế tôi mới có thể xem chân eng. Có thể nàm eng đau, nhưng không nâu đâu.
Hai viên đạn súng ngắn ghim vào thớ thịt ở đùi sau. Kehaar dò ra viên đạn nhờ cái mùi và gắp từng viên ra chính xác như lôi những con nhện ra khỏi cái khe. Cây Phỉ chỉ có vừa đủ thời gian để ngạc nhiên thì Tóc Giả đã ngửi ngửi những viên đạn nằm trên cỏ.
- Bây giờ xẽ có nhiều máu chảy. - Kehaar nói. - Eng phải ở đây, đợi một hai ngày. Xau đó xẽ nại tốt như trước. Những thỏ ở trên kia, tất cả đều trông… trông eng Cây Phỉ. Tôi bảo họ đến đây.
Và cậu bay vụt đi trước khi chúng kịp nói điều gì.
Rốt cuộc Cây Phỉ phải ở ba ngày tại chân núi. Trời vẫn tiếp tục những ngày nắng nóng và phần lớn thời gian chú ngồi dưới cành cây cơm cháy, ngủ lơ mơ trên mặt đất như những chú thỏ lang thang đơn độc và cảm thấy sức khỏe đang dần quay trở lại. Thứ Năm ở với chú, liên tục làm sạch vết thương và quan sát người anh đang dần dần hồi phục. Thường thì chúng chẳng nói gì với nhau hàng mấy giờ liền, chỉ nằm dài trên lớp cỏ thô âm ấm dưới ánh mặt trời trong khi những cái bóng chìm vào bóng tối, cho đến khi cuối cùng những con chim két trong vùng vểnh ngược cái đuôi lên, túc túc bay về chỗ đậu. Không ai nhắc đến Trại Nuthanger, nhưng Cây Phỉ biểu lộ khá rõ rằng trong tương lai một khi Thứ Năm đã đưa ra lời khuyên gì thì Cây Phỉ sẽ chẳng khó khăn gì mà không chấp nhận nó.
- Thứ Năm này, - một buổi tối Cây Phỉ nói. - mọi người biết làm gì nếu không có em. Sẽ không một ai có mặt ở đây, phải không?
- Vậy thì anh chắc chắn là chúng ta đang ở đây ư? - Thứ Năm hỏi.
- Điều đó quá bí ẩn đối với anh. Em có ý gì vậy?
- Chà, còn có một nơi khác - một miền đất khác - phải không nào? Chúng ta đến đấy khi đi ngủ, vào những lúc khác nữa; và khi chúng ta chết. El-ahrairah đến và đi giữa hai nơi này như ông muốn, em nghĩ thế, nhưng em không bao giờ hiểu rõ được điều đó, từ những câu chuyện cổ. Một số thỏ sẽ nói với anh rằng tất cả đều dễ dàng ở đấy nếu so với những nguy hiểm đang kề cận mà họ biết, nhưng em thì nghĩ điều đó chỉ cho thấy bọn họ không hiểu lắm về chuyện đó mà thôi. Nó là một nơi hoang dã, cực kỳ không an toàn. Và chúng ta thực sự đang ở đây hay là ở đấy?
- Thân thể chúng ta ở đây - thế là đủ tốt đối với anh rồi. Tốt hơn em hãy đi kiếm Cỏ Bạc mà nói chuyện - hắn có thể biết nhiều hơn đấy.
- Ồ, anh nhớ đến hắn à? Anh cũng biết đấy, em cảm thấy điều đó khi chúng ta nghe hắn đọc thơ. Hắn làm em hoảng sợ tuy em biết rõ mình hiểu hắn hơn bất cứ ai khác ở cái chỗ ấy. Hắn ta biết mình thuộc về nơi nào, và nơi ấy không phải là ở đây. Anh bạn đáng thương, em chắc là hắn đã chết. Họ khiến cho hắn cảm thấy mọi chuyện đều ổn thỏa - bọn người ở cánh đồng thỏ ấy. Chúng chẳng tự nhiên mà hé lộ bí mật của chúng, anh cũng biết đấy. Nhưng kìa, Nhựa Ruồi và Mâm Xôi đang đi tới vì thế dù sao đi nữa, tốt hơn chúng ta nên biết rõ là vẫn đang có mặt ở đây chỉ tại thời điểm này.
Nhựa Ruồi vừa xuống núi ngày hôm trước để thăm Cây Phỉ và kể lại việc trốn thoát khỏi Efrafa. Khi chú kể đến đoạn chúng được giải thoát bởi một thứ ma quỷ vĩ đại trong đêm, Thứ Năm lắng nghe rất chăm chú, sau đó hỏi lại một câu duy nhất:
- Nó tạo ra tiếng động à?
Sau đó, khi Nhựa Ruồi đi khỏi, chú bảo Cây Phỉ rằng chú cảm thấy chắc chắn phải có một lời giải thích cho vấn đề này, mặc dù chú không thể biết đó là cái gì; Cây Phỉ tuy vậy, không mấy quan tâm đến chuyện này. Với chú, điều quan trọng nhất là nỗi thất vọng của chúng và nguyên nhân của việc này. Nhựa Ruồi không đạt được điều gì cả và đó hoàn toàn là vì thái độ đối địch không được tính đến của bọn thỏ ở Efrafa. Tối hôm ấy, vừa mới bắt đầu bữa ăn, Cây Phỉ đã quay lại vấn đề này.
- Nhựa Ruồi này, - chú nói. - chúng ta chưa tiến được bước nào trong việc giải quyết vấn đề, phải không? Anh đã làm được những điều kỳ diệu nhưng rốt cuộc lại chẳng thu được gì, còn cuộc tấn công vào nông trại chỉ là một trò đùa ngu ngốc, và tôi e rằng nó là một cái giá quá đắt cho tôi. Cái hang thật sự vẫn tiếp tục phải đào.
- Chà, - Nhựa Ruồi đáp. - anh thì nói đấy là một trò đùa, nhưng mà Cây Phỉ ạ, ít nhất nó còn mang về cho ta hai cô thỏ và đó là hai thỏ cái duy nhất mà chúng ta có.
- Bọn họ có ổn không?
Những ý niệm tự nhiên của cánh đàn ông khi nghĩ về đàn bà, ý niệm về sự che chở, lòng thủy chung, tình yêu lãng mạn và vân vân - tất nhiên đều xa lạ đối với bọn thỏ, mặc dầu chắc chắn giữa chúng hình thành mối quan hệ duy nhất giữa con đực và con cái thường xuyên hơn là chúng ta có thể nhận ra. Tuy vậy, trong chuyện này không có cái gì gọi là tình cảm lãng mạn và một cách hết sức tự nhiên, Cây Phỉ và Nhựa Ruồi xem hai cô thỏ Nuthanger chỉ như nguồn sinh sản cho cộng đồng ở đây. Và đó chính là cái mà chúng đã dám liều cả cuộc sống của mình.
- À, vào lúc này thì cũng khó mà nói được. - Nhựa Ruồi trả lời. - Họ đã làm hết sức mình để ổn định và hòa hợp với chúng ta - nhất là Thanh Nhàn. Cô ta có vẻ rất nhạy cảm. Nhưng họ yếu đuối và hoàn toàn bất lực - tôi chưa bao giờ chứng kiến một điều như thế - và tôi sợ rằng khi thời tiết xấu họ có thể trở nên ốm yếu. Họ có thể sống sót qua mùa đông mà cũng có thể không, chưa biết chừng. Nhưng anh đã không biết điều đó khi đưa họ ra khỏi nông trại.
- Nếu có chút may mắn thì họ có thể có con trước khi mùa đông tới. - Cây Phỉ nói. - Tôi cũng biết là mùa sinh nở đã qua rồi, nhưng mọi việc của chúng ta ở đây đều lộn tùng phèo hết lên và tôi cũng chẳng biết nói gì nữa.
- Được rồi, anh đã hỏi tôi nghĩ gì về chuyện này, - Nhựa Ruồi tiếp tục. - thế thì tôi sẽ nói cho anh nghe. Tôi nghĩ họ chỉ có một chút giá trị vì là những cô thỏ duy nhất chúng ta có và là kết quả của tất cả những gì chúng ta đã nỗ lực đạt được cho đến nay. Tôi nghĩ có thể trong thời gian tới rất có khả năng họ không thể đẻ con, phần vì không phải là mùa sinh đẻ, phần vì cuộc sống ở đây quá mới lạ đốí với họ. Và dù họ có đẻ con đi chăng nữa thì lũ thỏ con có nhiều khả năng sẽ lại giống những con thỏ do con người gây giống nuôi trong lồng. Nhưng còn có thể hy vọng gì khác nữa nào? Chúng ta phải làm điều tốt nhất có thể với những gì hiện có.
- Đã có ai kết đôi với họ chưa? - Cây Phỉ hỏi.
- Chưa, cho đến nay chưa có ai trong họ sẵn sàng cả. Nhưng tôi có thể thấy mấy anh chàng nhà mình luôn giương vây mỗi khi thấy họ.
- Đó lại là vấn đề khác. Chúng ta không thể tiếp tục án binh bất động với hai chị chàng này được.
- Nhưng chúng ta có thể làm được gì khác đây?
- Tôi biết điều chúng ta cần làm, - Cây Phỉ nói. - nhưng tôi vẫn chưa rõ phải làm thế nào. Chúng ta phải quay lại mang mấy cô thỏ cái ở Efrafa đi.
- Anh nói thế khác nào bảo sẽ đem chúng ra khỏi mặt trăng hả, Thủ lĩnh Cây phỉ! Tôi e là mình đã chưa đưa ra một miêu tả chính xác về Efrafa.
- Ồ, anh đã làm điều đó mà… câu chuyện của anh vẫn làm tôi sợ cứng người ấy chứ. Nhưng chúng ta nhất định phải làm thế.
- Không thể được.
- Điều này không thể đạt được bằng những cuộc giao đấu hay những lời lẽ ngoại giao khéo léo, không thể được. Vì vậy, ta sẽ phải thực hiện bằng mưu mẹo.
- Chẳng có mưu chước nào qua mặt được số phận đâu, tin tôi đi. Họ áp đảo về số lượng, lại được tổ chức rất quy củ. Và tôi không hề nói ngoa khi kể rằng họ chiến đấu rất cừ, chạy rất nhanh và có khả năng đuổi theo những dấu vết rất nhỏ… giỏi như chúng ta, thậm chí nhiều người trong số họ còn trội hơn ta nữa.
- Khi dụng mưu, - Cây Phỉ quay sang Mâm Xôi nãy giờ vẫn đang nhá cỏ và để tai lắng nghe nhưng không tham gia vào câu chuyện, - khi dùng đến cái đầu để thực hiện việc này ta phải làm được ba điều. Thứ nhất, phải đưa được thỏ cái ở Efrafa ra ngoài, thứ hai, sẽ phải đổ máu trong cuộc truy đuổi. Về vụ truy đuổi ta buộc phải chấp nhận thôi và chẳng thể mong đợi một phép màu nào nữa xảy ra. Nhưng không chỉ có thế. Một khi đã ra khỏi Efrafa, chúng ta phải làm sao cho họ không thể tìm dấu vết, thoát ra ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ đội Tổng tuần tra nào.
- Đúng. - Mâm Xôi nói vẻ hoài nghi. - Đúng, tôi cũng đồng ý. Để thành công, chúng ta phải làm được tất cả những điều này.
- Đúng vậy. Và một kế hoạch vĩ đại như thế, Mâm Xôi ạ, chúng tôi trông cả vào anh với tư cách người bày mưu tính kế đấy.
Cái mùi vừa ngòn ngọt vừa thum thủm của cây sơn thù du tràn ngập không gian; trong nắng chiều nhàn nhạt, đám côn trùng bay vù vù quanh những bụi xim trắng mọc là đà trên lớp cỏ. Một đôi bọ cánh cứng màu nâu và vàng bị bọn thỏ đi kiếm ăn quấy rầy vội nhảy tanh tách khỏi những cọng cỏ dài và bay đi, vẫn thành đôi thành cặp.
- Chúng có đôi có cặp, còn chúng ta thì không. - Cây Phỉ nói, mơ màng nhìn theo đôi bọ. - Một mưu kế, Mâm Xôi ạ, một mưu kế sẽ cho chúng ta sống ổn thỏa mãi mãi.
- Tôi có thể mường tượng công việc đầu tiên sẽ được thực hiện thế nào. - Mâm Xôi tư lự nói. - Ít nhất thì tôi cũng nghĩ tôi có thể. Nhưng nó rất nguy hiểm. Còn hai việc kia tôi vẫn chưa hình dung rõ nét và tôi muốn trao đổi điều này với Thứ Năm.
- Tôi và Thứ Năm càng trở về hang sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. - Cây Phỉ thở dài. - Chân tôi đỡ nhiều rồi, nhưng dẫu sao thì tối nay hãy cứ ở đây đã. Anh bạn Nhựa Ruồi quý mến, anh có thể bảo mọi người là Thứ Năm và tôi sẽ về vào sáng mai không? Tôi chỉ lo là Tóc Giả và Xám Bạc lại choảng nhau vì Thanh Nhàn vào bất cứ lúc nào mất thôi.
- Cây Phỉ à, - Nhựa Ruồi nói giọng cứng rắn. - anh hãy nghe tôi. Quả thật tôi không thích ý tưởng của anh chút nào. Tôi đã từng đến Efrafa còn anh thì chưa. Anh đang phạm một sai lầm nghiêm trọng và anh có thể khiến cho tất cả chúng ta chết không kịp ngáp.
Đến đây thì Thứ Năm lên tiếng.
- Rõ ràng là anh sẽ cảm thấy thế, tôi biết chứ, - chú nói. - nhưng bằng cách nào đó lại không như thế: với tôi thì không. Tôi tin chúng ta có thể làm điều đó. Dù sao thì tôi cũng biết chắc Cây Phỉ đúng khi anh ấy nói đó là cơ hội duy nhất mà chúng ta có. Hay là chúng ta cứ tiếp tục tranh luận thêm về điều này một lúc nữa.
- Không phải bây giờ. - Cây Phỉ nói. - Đã đến lúc phải xuống hang rồi, nhanh lên. Nếu các anh phi thật nhanh lên dốc, các anh chắc sẽ về kịp để hưởng thêm chút ánh nắng trên đỉnh. Chúc ngủ ngon.

Chương 29. Chuyến Trở Về Và Khởi Hành


Chàng còn bụng dạ đâu cho cuộc chiến đấu này
Hãy để chàng đi, tấm thông hành sẽ có
Những đồng tiền hộ vệ nằm yên trong ví
Đi với người này chúng ta không còn sợ chết
Nó sợ tình bạn của chàng để sinh tử cùng ta.
(Henry đệ ngũ của Shakespeare)
*
Sáng tinh mơ hôm sau tất cả thỏ ra ngoài ăn cỏ trong không khí chộn rộn đầy phấn khích khi chúng chờ Cây Phỉ. Trong suốt mấy ngày qua, Mâm Xôi đã lặp lại không biết bao nhiêu lần câu chuyện quay lại nông trại và tìm thấy Cây Phỉ trong cống thoát nước. Một hai chú đã cho ràng có lẽ Kehaar đã tìm thấy Cây Phỉ và bí mật báo cho Thứ Năm. Nhưng chú mòng biển này phủ nhận điều đó và nhấn mạnh một cách đầy ẩn ý rằng thực ra Thứ Năm mới là người còn đi nhiều hơn chú. Còn về Cây Phỉ, trong con mắt mọi người, chú có được năng lực kỳ diệu gần như là thần thánh. Trong số những kẻ ở đây, Bồ Công Anh sẽ là chú thỏ cuối cùng không phán xét được thế nào là một câu chuyện hay và chú đã thành công trong việc biến hành động anh hùng của Cây Phỉ chạy ra khỏi hào để cứu bạn bè khỏi sự truy bắt của các nông dân trở thành một huyền thoại. Không còn ai nghĩ Cây Phỉ quá nông nổi khi đến nông trại nữa. Dù sao thì chú cũng mang được về hai cô thỏ và bây giờ chú mang vận may về lại nơi này.
Ngay trước lúc mặt trời hiện ra, Nồi Đất và Thủy Cự đã thấy Thứ Năm chạy qua bãi cỏ ướt ở gần đỉnh núi. Chúng chạy đến gặp chú và cùng Thứ Năm đợi Cây Phỉ tiến lại chỗ cả bọn. Cây Phỉ vẫn cà nhắc và rõ ràng phải khó nhọc lắm mới leo dốc được. Nhung sau khi được nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ một lát, chú đã có thể chạy xuống hang cũng nhanh gần bằng các bạn. Bọn thỏ xúm xít quanh chú. Ai cũng muốn được chạm vào người chú. Chú bị ngửi, bị người khác tranh giành và ngã lăn trên cỏ cho đến khi cảm thấy mình như thể đang bị tấn công. Con người, trong những trường hợp như thế này, thường đặt ra một lô câu hỏi, nhưng bọn thỏ thì thể hiện niềm vui một cách đơn giản hơn nhiều, bằng cách tự mình dùng giác quan xác minh đây là Cây Phỉ bằng xương bằng thịt. Tất cả những điều mà Cây Phỉ có thể làm được là đứng vững trước trò đùa thô bạo này. “Mình cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình bị đè bẹp bên dưới?”, chú nghĩ. “Mình dám nói là họ sẽ đá mình mất. Họ không muốn có một thủ lĩnh què quặt mà. Đây là một thử thách đồng thời là một sự chào đón, dẫu rằng họ đã không biết điều đó. Mình sẽ cho họ nếm mùi, cái lũ quậy phá này, trước khi mình xong đời, được, cứ đợi đấy”.
Chú hất Gạc Nai và Thủy Cự ra khỏi lưng rồi tháo chạy về phía bìa rừng. Dâu Tây và Hoằng Dương đang ngồi trên bờ đất, nên chú đến bên cạnh, cũng lau mặt và chải chải bộ lông dưới ánh ban mai.
- Lẽ ra chúng ta chỉ cần một ít người biết cách cư xử như cậu là tốt lắm rồi. - chú nói với Hoằng Dương. - Coi xem cái bọn thô bạo đằng kia kìa, xém chút nữa thì họ kết liễu tôi mất! Thế quái nào các anh cũng cùng loài với chúng tôi được nhỉ, các anh ổn định cuộc sống ở đây thế nào rồi?
- Thì tất nhiên chúng tôi thấy một thứ ở đây đều lạ lẫm, - Hoằng Dương nói. - nhưng chúng tôi vẫn đang học hỏi. Anh Dâu Tây đây đã giúp được tôi rất nhiều. Chúng tôi đang thử xem có bao nhiêu mùi trong gió mà tôi có thể gọi tên ra được, nhưng mà tôi lâu làm được lắm, mãi vẫn không xong. Các loại mùi thường rất mạnh trong nông trại, anh cũng biết đấy, và khi anh sống sau cái lưới thép thì chúng cũng chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Theo những gì tôi biết thì tất cả các anh sống dựa vào các loại mùi.
- Trong giai đoạn bắt đầu anh cũng đừng quá mạo hiểm. - Cây Phỉ ôn tồn nói. - Luôn ở gần những cái hang và đừng bao giờ đi ra ngoài một mình - tất cả đại loại chỉ có thế. Còn anh thế nào hở Dâu Tây? Anh thấy khá hơn chưa?
- Cũng tàm tạm, - chú này đáp. - chừng nào mà tôi còn ngủ được nhiều và ngồi dưới ánh mặt trời, Thủ lĩnh Cây Phỉ ạ. Nỗi kinh hoàng thiếu điều làm tôi phát điên lên - đến mức không thể sợ hơn được nữa. Tôi vẫn còn gặp những cơn rùng mình ớn lạnh và nỗi kinh hoàng trong những ngày này. Tôi cứ ngỡ đâu mình đã quay lại Efrafa.
- Efrafa như thế nào? - Cây Phỉ hỏi.
- Chẳng thà tôi chết còn hơn quay về đấy, - Dâu Tây nói. - hoặc liều mạng đến gần đấy. Tôi cũng không biết thực ra thì cái gì đáng sợ hơn, nỗi nhàm chán hay nỗi sợ hãi. Với lại, - chú nói thêm sau khi dừng lại một chút. - có những thỏ ở đấy sẽ phát triển giống như chúng ta nếu chúng có một cuộc sống tự nhiên như thế này. Nhiều thỏ sẽ rất hạnh phúc được rời khỏi đấy nếu có dịp.
Trước khi quay xuống hang, Cây Phỉ nói chuyện với hầu hết các thỏ ở đây. Như chú nghĩ. chúng tỏ vẻ thất vọng khi dự án Efrafa bất thành và vô cùng phẫn nộ trước việc đoàn sứ giả bị đối xử tệ hại như thế. Nhiều chú cũng có cùng ý nghĩ như Nhựa Ruồi rằng hai cô thỏ xem ra chỉ gây nên những rắc rối mới.
- Lẽ ra cần phải có nhiều hơn, Cây Phỉ à. - Tóc Giả nói. - Chúng ta rồi sẽ đánh nhau loạn cả lên, anh cũng biết đấy, và tôi chẳng biết rồi phải giải quyết chuyện đó thế nào đây.
Chiều tối hôm ấy, Cây Phỉ tập hợp mọi người lại ở Tổ Ong.
- Tôi đã suy nghĩ rất lung về việc này. -chú nói. - Tôi biết tất cả các anh đều thật sự thất vọng vì đã không có cơ hội tham gia giải cứu tôi khỏi Trại Nuthanger hôm trước, vì thế tôi quyết định lần này sẽ đi xa hơn.
- Đi đâu? - Hoa Chuông hỏi.
- Đến Efrafa, - Cây Phỉ đáp. - nếu có ai tình nguyện đi cùng tôi, ta sẽ mang về đủ số thỏ cái mà nơi này cần.
Nghe vang lên những tiếng xì xào đầy kinh ngạc và rồi Thủy Cự lên tiếng hỏi:
- Nhưng mà đi như thế nào?
- Mâm Xôi và tôi đã có một kế hoạch, - Cây Phỉ nói. - nhưng tôi sẽ không giải thích ngay bây giờ vì một số lý do. Tất cả chúng ta đều biết đây là một phi vụ nguy hiểm. Nếu có ai trong các anh bị bắt và bị đưa về Efrafa thì bọn họ sẽ bắt các anh phải khai ra tất cả. Những ai không biết thì cũng chẳng có gì để mà tiết lộ. Tôi sẽ giải thích điều này sau, vào thời điểm thích hợp.
- Anh sẽ cần bao nhiêu người hả Thủ lĩnh Cây Phỉ? - Bồ Công Anh hỏi. - Theo tôi biết thì cả bọn chúng ta cũng không đủ để đánh nhau với bọn Efrafa.
- Tôi hy vọng chúng ta sẽ không phải đánh đấm gì hết, - Cây Phỉ đáp. - nhưng bao giờ một chuyện như vậy cũng có thể xảy ra Với lại, chặng đường trở về sẽ khá dài với nhũng cô nàng Efrafa, và nếu chúng ta không may mà gặp phải Đội Tổng tuần tra trên đường thì cũng cần có đủ người để đối phó với chúng.
- Chẳng lẽ chúng ta bắt buộc phải đi Efrafa? - Nồi Đất rụt rè lên tiếng.
- Không phải là bắt buộc, - Cây Phỉ nói. - chúng ta sẽ…
- Cây Phỉ à, tôi chưa bao giờ nghĩ, - Nhựa Ruồi đột ngột cắt ngang. - tôi không bao giờ nghĩ là có một lúc nào đó tôi cảm thấy buộc phải lên tiếng phản đối anh. Nhưng tôi chỉ có thể nói rằng đó sẽ là một tai họa thảm khốc. Tôi biết điều mà anh nghĩ… anh đang dựa vào việc trong tay Thống soái Hoắc Hương không có những kẻ khôn ngoan mưu lược như Thứ Năm và Mâm Xôi. Anh đúng, tôi không nghĩ là hắn có những thuộc hạ như thế. Nhưng sự thật vẫn không thay đổi: không ai có thể mang cả một đàn thỏ cái ra khỏi đấy. Anh cũng biết là tôi đã bỏ cả đời ra làm công việc tuần tra theo dõi trên những cánh đồng; thế mà nhiều thỏ trong hàng ngũ Cốt Cán ở Efrafa làm công việc này còn tốt hơn tôi tôi phải thừa nhận điều đó: bọn họ sẽ săn lùng được các anh cùng đám thỏ cái và sẽ giết hết. Thần Mặt trời vĩ đại! Chúng ta rồi sẽ gặp được người bạn đời của mình lúc này hay lúc khác. Tôi biết anh chỉ muốn giúp mọi người, nhưng hãy suy xét mà hủy bỏ ngay kế hoạch này đi. Hãy tin tôi, điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm với một nơi như Efrafa là hãy tránh xa nó, càng xa càng tốt.
Cuộc tranh cãi nổ ra rất rôm rả ở Tổ Ong.
- Điều đó đúng!
- Ai muốn mình bị xé ra làm hai chứ?
- Làm một con thỏ với cái tai rách te tua ư... xin kiếu.
- Nhưng mà chắc chắn là Thủ lĩnh Cây Phỉ biết rõ việc mình làm chứ.
- Xa quá!
- Ai chứ tôi thì không muốn đi đâu.
Cây Phỉ kiên nhẫn chờ cho đến khi không khí lắng xuống. Cuối cùng chú nói:
- Mọi việc là như thế đấy. Chúng ta có thể ngồi ở đây, cố hy vọng điều tốt nhất xảy ra, hoặc chúng ta phải giải quyết dứt khoát vấn đề này. Tất nhiên đây là một việc làm mạo hiểm, sau những gì đã xảy ra cho đoàn của Nhựa Ruồi. Nhưng chẳng phải chúng ta luôn phải đối mặt với hết nguy cơ này đến nguy cơ khác trên con đường mưu cầu cuộc sống tốt đẹp hơn hay sao? Các bạn muốn làm gì? Ngồi lại đây và đánh nhau đến sứt đầu vỡ trán vì hai nàng duy nhất trong khi ở Efrafa thì có vô vàn nhưng các bạn lại sợ không dám đến, ngay cả khi bọn họ chỉ có mà vui mừng khôn xiết khi được đến đây cùng chúng ta?
Một ai đó kêu lên:
- Thế Thứ Năm nghĩ sao về chuyện này?
- Tôi chắc chắn sẽ đi. - Thứ Năm nói giọng nhỏ nhẹ. - Cây Phỉ hoàn toàn đúng và kế hoạch của anh ấy chẳng có gì không ổn cả. Nhưng tôi có thể hứa với các bạn một điều, với tất cả các bạn. Nếu sau này cảm thấy có bất cứ mối nghi ngại nào thì tôi sẽ không giữ nó cho riêng mình.
- Và nếu điều đó xảy ra tôi sẽ không liều bỏ qua những cảnh báo đó. - Cây Phỉ nói tiếp.
Im lặng mất một lúc, đoạn Tóc Giả lên tiếng.
- Các bạn cũng biết rõ rằng tôi sẽ đi và chúng ta sẽ có Kehaar đi cùng, nếu điều đó có chút hấp dẫn nào với mọi người.
Tiếng lao xao đầy kinh ngạc lan đi trong đám đông.
- Tất nhiên phải có một số người trong chúng ta ở lại đây. - Cây Phỉ nói. - Những người bạn mới không thể đi được, tôi cũng không muốn đề nghị những người đã đến Efrafa lại phải đi lần nữa.
- Dù sao thì tôi cũng đi lần nữa, - Xám Bạc nói. - dẫu rằng tôi ghét cay ghét đắng Thống soái Hoắc Hương cùng cái Hội đồng của hắn và nếu chúng ta có thể chơi cho chúng một vố thì tôi cũng muốn có mặt ở đấy, miễn là tôi không phải vào lại cái chỗ ấy - gì chứ chuyện đó thi tôi thực không chịu được. Nói gì thì nói, các anh cũng phải có người dẫn đường chứ?
- Tôi cũng xin đi. - Nồi Đất rụt rè nói. - Thủ lĩnh Cây Phỉ đã cứu sống tôi, tôi muốn nói tôi tin rằng anh ấy… - Chú tỏ ra bối rối. - Dù sao thì tôi cũng sẽ đi. - chú lặp lại với giọng bồn chồn.
Có tiếng bước chân chạy trong lối đi thông lên khu rừng phía trên và Cây Phỉ gọi:
- Ai đấy?
- Là tôi đây, Thủ lĩnh Cây Phỉ, Mâm Xôi đây.
- Mâm Xôi à! - Cây Phỉ đáp lời. - Vậy mà nãy giờ tôi cứ nghĩ anh ở Đây. Anh đã ở đâu vậy?
- Xin lỗi vì đã đến muộn. - Mâm Xôi nói. - Tôi vừa nói chuyện với Kehaar, và tất nhiên là về kế hoạch. Anh ấy có nhiều ý kiến hay để hoàn chỉnh nó. Nếu tôi không nhầm, Thống soái Hoắc Hương sẽ biến thành một tên đại ngốc nếu ta thực hiện được kế hoạch này. Đầu tiên tôi đã nghĩ chuyện này là không thể, nhưng bây giờ thì tôi chắc chắn rồi.
Hoa Chuông ngân nga hát:
- Đến nơi cỏ mọc xanh hơn,
Rau diếp lại mọc xanh rờn vườn rau
Thấy thỏ kẻ thù chạy mau
Cái tai chiến trận có màu răng cưa.
Tôi nghĩ tôi cũng sẽ đi một chuyến, chỉ để thỏa mãn trí tò mò. Tôi sẽ ngậm tăm như mỏ một con chim non về kế hoạch này, và không ai có thể cạy ra để cho một cái gì vào đấy. Tôi cho rằng Tóc Giả sẽ hóa trang thành một hrududu và đưa tất cả thỏ cái băng qua cánh đồng.
Cây Phỉ quay nhìn chú ta một cái sắc lẻm. Hoa Chuông ngồi thẳng trên hai chân sau và nói:
- Thưa Thống soái Hoắc Hương, xin ngài vui lòng, tôi chỉ là một cái hrududu nhỏ và tôi đã đổ hết xăng trên cỏ, vì thế nếu ngài không phiền hãy xơi thứ cỏ này, trong khi tôi đưa các quý bà này đi một chuyến…
- Hoa Chuông, im đi! - Cây Phỉ ra lệnh.
- Tôi xin lỗi, Thủ lĩnh Cây Phỉ, - Hoa Chuông đáp giọng ngạc nhiên. - Tôi đâu có muốn làm bất cứ điều gì có hại. Tôi chỉ cố làm mọi người vui lên một chút thôi mà. Nói gì thì nói, hầu hết chúng ta đều sợ cái ý tưởng đến một nơi như thế và anh không thể trách chúng tôi, phải không? Nghe có vẻ nguy hiểm kinh người chứ chơi à?
- Được rồi, giờ thì nghe đây, - Cây Phỉ nói. - chúng ta kết thúc buổi họp ở đây. Hãy chờ đợi và xem mọi người sẽ quyết định thế nào... theo cung cách của loài thỏ chúng ta. Không ai buộc phải đi Efrafa ngược với ý muốn của mình, nhưng có một điều chắc chắn sẽ có một số người trong chúng ta ra đi. Còn bây giờ để tôi đi nói chuyện với Kehaar.
Chú tìm thấy Kehaar ở giữa bụi cây, đang dùng cái mỏ to tướng đớp và rỉa một miếng thịt màu nâu có cái mùi thối khắm hình như đang dính vào một khung xương. Cây Phỉ nhăn mũi khi ngửi phải cái mùi kinh tởm đang tràn ngập cả một khoảng rừng xung quanh và rõ ràng đang thu hút lũ kiến và nhặng đến.
- Khiếp, cái mùi gì gớm vậy, Kehaar? Kinh quá đi mất!
- Eng không biết hả? Thịt tươi, tươi đấy, đến từ vùng Nước Nớn. Ngon nắm.
- Đến từ vùng Nước Lớn? Ui chà, anh kiếm được nó ở đấy à?"
- Khun, khun. Con người đấy. Ở dưới nông chại kia có một bãi rác đầy những thứ như thế này. Tôi đi kiếm mồi, tìm thấy, quắp nấy mang về đây; nàm tôi nghĩ đến vùng Nước Nớn ấy mà.
Chú bắt đầu rỉa miếng mồi đã ăn nham nhở được một nửa. Cây Phỉ ngồi xuống, ngạt thở vì cái mùi hôi thối đến lợm giọng, trong khi Kehaar quắp mồi lên bổ vào một gốc sồi làm những mảnh vụn thịt thối văng đi khắp nơi. Chú cố trấn tĩnh và cố gắng chịu đựng.
- Kehaar à, Tóc Giả kể anh đã bảo anh ấy rằng anh sẽ đi và giúp chúng tôi có được nhưng người mẹ ở cánh đồng thỏ rộng lớn đằng kia.
- Đún, đún, tôi sẽ đi cùng các eng. Eng Cây Phỉ cần tôi giúp một tay hả? Cần gì cứ việc lói với tôi, tôi không phải thỏ. Chà ngon nắm!
- Phải, thật thế, đó là cách khả thi duy nhất. Anh là bạn tốt của tất cả chúng tôi, Kehaar!
- Phải, phải giúp các eng có được những bà mẹ thỏ. Bây giờ thì mọi việc như vậy đấy eng Cây Phỉ à. Bao giờ tôi cũng muốn đến vùng Nước Nớn. Bao giờ cũng vậy. Tai nghe tiếng nước nớn, mà muốn bay ngay đến đó. Chẳng bao nâu nữa các eng sẽ có được những thỏ mẹ, tôi sẽ giúp các eng đạt được ý nguyện. Khi các eng đã được như ý rồi thì tôi sẽ rời các eng, bay đi mãi không quay nại nữa. À mà tôi sẽ quay nại đây nần nữa. Đến vào mùa thu, suốt mùa đông tôi sẽ sống ở đây với các eng nhé?
- Chúng tôi sẽ nhớ anh lắm đấy, Kehaar ạ. Khi anh quay lại lần nữa thì chúng tôi đã có cả một cánh đồng thỏ thật phát triển vời rất nhiều thỏ mẹ. Anh sẽ thấy tự hào vì đã giúp được chúng tôi rất nhiều.
- Ừ, cứ vậy đi. Nhưng eng Cây Phỉ à, khi nào thì các eng đi? Tôi muốn giúp nhưng cũng không muốn phải đợi quá nâu để đến vùng Nước Nớn đâu. Eng cũng biết thật khó mà chờ được. Bất kể các eng muốn gì thì cũng nàm nhanh nhanh nên nhé.
Tóc Giả phóng lên lối đi, ló đầu ra khỏi hang và khựng lại vì kinh hoàng.
- Lạy có Thần Mặt trời trên cây! - Chú kêu lên. - Ôi cái mùi kinh quá! Anh giết nó hay sao Kehaar, hay là nó chết dưới tảng đá?
- Tóc Giả này, anh xuống thông báo với tất cả mọi người rằng rạng sáng ngày mai chúng ta sẽ khởi hành nhé? Nhựa Ruồi sẽ chăm nom mọi việc ở đây cho đến khi chúng ta quay lại; Gạc Nai, Dâu Tây và các thỏ nhà sẽ ở lại với anh ấy. Bất cứ ai muốn ở lại sẽ có toàn quyền ở lại.
- Đừng lo. - Tóc Giả nói vọng ra từ trong hang. - Tôi sẽ bảo họ lên đây cùng ăn sáng với Kehaar. Họ sẽ đi bất cứ đâu anh muốn trước khi một con vịt có thể bơi.
------------------
Đọc tiếp phần III

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét