Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017

Đói - Knut Hamsun (Chương 10 - Chương19)

10.


Không được trả lời, tôi buộc phải rút lui. Suốt cả buổi nói chuyện, người - cầm - kéo không hề nhìn tôi lần nào. Hắn đã nhận ra tôi qua giọng nói. “Ở đây mày đã bị khinh ghét thế đấy, - tôi tự bảo mình, - đến mức mày hỏi, người ta không thèm trả lời”. Lẽ nào ông chủ bút ra lệnh cho hắn đối xử với mình như vậy? Thật ra mà nói, sau cái bài báo nổi tiếng mang lại cho tôi mười curon ấy, tôi đã đổ lên đầu ông ta hàng đống các bài khác. Tôi tới đây gần như hàng ngày, mang theo những trang viết nhảm nhí mà ông ta buộc phải đọc và trả lại cho tôi. Có lẽ ông ta muốn kết thúc chuyện này, và đã ra lệnh cho hắn... Tôi đi tới trung tâm thành phố.
Hanx Pauli là một sinh viên từ vùng nông thôn tới, ở tầng mái của một ngôi nhà năm tầng, có nghĩa Hanx Pauli là một người rất nghèo. Nhưng nếu có một đồng curon, anh chàng sẽ chẳng ngần ngại gì mà không cho tôi. Tôi có thể tin chắc rằng nó đã nằm trong tay tôi. Vừa đi tới chỗ anh ta, tôi vừa mừng thầm vì đồng curon ấy. Cửa vào ngôi nhà đóng kín, tôi buộc phải rung chuông.
- Tôi muốn gặp sinh viên Peterxơn, - tôi nói rồi định bước vào. - Tôi biết anh ấy ở đâu.
- Sinh viên Peterxơn à? - Người hầu gái hỏi. - Có phải sống ở tầng mái không? Anh ấy dọn đi chỗ khác rồi.
Đi đâu thì cô hầu không biết; nhưng trước khi đi, có nhờ chuyển thư đến cho ông Hermanxen ở Tunbutgaten, nhà số...
Vẫn còn hi vọng, tôi lại đến Tunbutgaten tìm địa chỉ của Hanx Pauli. Chẳng biết trông chờ vào đâu nữa, đành phải bám lấy những gì có thể bám được. Tôi đi ngang qua một công trường xây dựng, nơi một tốp thợ mộc đang bào các tấm gỗ. Trong đống vỏ bào, tôi chọn hai miếng sạch nhất, cho vào miệng một miếng, còn miếng kia đút túi dự trữ, rồi đi tiếp. Tôi phải rên lên vì đói. Trong cửa kính một hiệu bánh, tôi nhìn thấy một chiếc bánh mì khổng lồ, giá những mười ere, nghĩa là chiếc bánh to nhất có thể mua được với số tiền ấy...
- Tôi muốn biết địa chỉ anh sinh viên Peterxơn.
- Phố Bert Anker, nhà số mười, tầng sát mái... Ông tới chỗ ấy à? Nếu vậy có thể nhờ ông chuyển hộ cho mấy bức thư này được không?
Thế là tôi lại quay vào trung tâm thành phố, bằng chính con đường mà tôi đã tới đây, lại đi ngang tốp thợ mộc lúc này đang ăn bữa ăn trưa nóng, ngon lành; ngang qua hiệu bánh vẫn với chiếc bánh mì vĩ đại ấy.
Cuối cùng, khi đến được phố Bert Anker, tôi mệt quá, suýt gục xuống. Cửa vào nhà không đóng, tôi đi lên theo một chiếc cầu thang dài và thẳng đứng cho đến tận mái nhà. Tôi rút các bức thư khỏi túi, cầm tay, định bước vào và sẽ làm Pauli ngạc nhiên sung sướng. Tất nhiên, anh chàng sẽ không từ chối giúp đỡ tôi, khi tôi trình bày hết hoàn cảnh của mình, tất nhiên không, Pauli là người tốt bụng, tôi biết thế, và bao giờ cũng...
Trên cửa phòng Pauli có mảnh giấy ghi hàng chữ: “H.P. Peterxơn, sinh viên khoa thần học đã về quê thăm nhà”.
Tôi ngồi phịch xuống, ngồi ngay trên nền sàn trần trụi, không đủ sức làm một cử động nhỏ vì yếu mệt và thất vọng. Như cái máy, tôi nhắc đi nhắc lại mấy lần: “Về quê thăm nhà! Về quê thăm nhà!”. Sau đó tôi im lặng. Hai mắt tôi khô khốc, trong đầu không một ý nghĩ, một tình cảm nào. Tôi thờ thẫn nhìn những bức thư và ngồi yên bất động.
Mười phút trôi qua, cũng có thể nhiều hơn, hai mươi hoặc ba mươi phút, nhưng tôi vẫn tiếp tục ngồi yên, không một cử động nhỏ. Trạng thái đờ đẫn ấy giống một cơn mơ ngủ. Bỗng tôi nghe có tiếng bước chân trên cầu thang.
- Anh sinh viên Peterxơn trước sống ở đây, tôi mang thư đến cho anh ấy, - tôi nói.
- Anh ấy đi rồi, - người đàn bà đáp. - Nhưng sau hè sẽ quay lại. Còn thư thì nếu muốn, ông có thể gửi lại tôi.
- Cảm ơn, bà thật tốt bụng, - tôi nói. - Khi quay lại, anh ấy sẽ nhận chúng từ tay bà. Những bức thư này chắc quan trọng lắm. Chào bà.
Bước ra khỏi phố, tôi dừng lại chính giữa phố, rồi bóp chặt nắm đấm nói to:
- Được, thưa Đức Chúa từ tâm, tôi sẽ cho Ngài biết tay! Bây giờ thì tôi rõ Ngài là người thế nào! - Và rồi trong cơn giận dữ tột độ, tôi nghiến răng, giơ tay lên trời dọa: - Quỷ tha ma bắt tôi đi, nếu tôi không làm được điều đã nói!
Đi thêm mấy bước, tôi lại dừng lại. Bỗng nhiên, thay đổi giọng, tôi nhẫn nhục khoanh hai tay trước ngực rồi khẽ hỏi bằng giọng hết sức dịu dàng, thành kính:
- Thế con đã cầu xin Ngài chưa, con trai của ta?
Nhưng câu này vang lên thật giả dối.
- Chữ Ngài viết hoa đấy, - tôi nói tiếp. - N viết to, to như chiếc tháp chuông vậy. Con đã cầu xin Ngài chưa, con trai của ta? - Rồi cúi đầu, tôi buồn bã đáp: - Chưa!
Cả câu này nghe cũng không thật.
Mày không biết giả vờ, đồ ngốc ạ! Đáng lẽ mày phải nói: “Vâng, con đã cầu xin Đức Chúa của con!”. Và phải nói câu này sao cho thật não lòng càng tốt. Nào, thử làm lại lần nữa nào! Đấy, bây giờ tốt hơn rồi đấy. Nhưng khi nói, mày đừng quên thở dài, thở dài thật to vào, như con ngựa kiệt sức vậy. Thế, thế được đấy!
Tôi vừa đi vừa tự dạy mình cách giả vờ, và khi điều này làm tôi chán, tôi giận dữ giậm mạnh chân xuống đất, mắng mình là thằng ngốc, làm ai đi ngang cũng ngạc nhiên, lấm lét nhìn tôi.
Trong suốt thời gian ấy, tôi vẫn nhai miếng vỏ bào và đi liên tục không dừng lại lần nào. Thậm chí tôi không nhận thấy tôi đã ở sân ga từ bao giờ. Kim đồng hồ trên đỉnh tháp Đấng cứu thế chỉ một giờ rưỡi. Tôi dừng lại lưỡng lự trong chốc lát. Trán tôi nhễ nhại mồ hôi, chảy xuống cả mắt.
- Có nên đi ra bến tàu không? - Tôi tự hỏi mình. - Tất nhiên là nên, nếu có thời gian.
Tôi cúi đầu tự chào mình rồi đi ra cảng.
Tàu vẫn đậu trong cảng, biển gợn sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời. ở đây không khí nhộn nhịp, còi tàu vang to, phu khuân vác luôn đi lại khắp nơi, lưng cõng những chiếc hòm bằng gỗ, còn từ những chiếc phà có tiếng hát vui vẻ bay lại. Cách tôi không xa, có một người đàn bà bán bánh rán, bà ta gí chiếc mũi đen nhẻm của mình sát những chiếc bánh. Chiếc bàn nhỏ trước mặt bà ta chất đầy thứ bánh ngon lành, nhưng tôi quay mặt đi với vẻ khinh bỉ. Cái mùi bánh bẩn thỉu ấy đang bay khắp bến cảng! Phải có gió mạnh xua đi mới được! Tôi quay sang một người ngồi cạnh, tìm cách chứng minh rằng không thể để ai muốn bán bánh rán ở đâu thì bán... Ông không nghĩ thế à? Được, nhưng chắc ông sẽ đồng ý với tôi rằng... Nhưng ông kia hình như đã nhận thấy có điều gì không bình thường nên không để tôi nói hết, vội đứng dậy bỏ đi. Tôi đứng dậy đi theo, quyết làm cho ông ta thấy rằng ông ta không đồng ý với tôi là sai.
- Về phương diện vệ sinh mà nói, điều này không thể chấp nhận được, - tôi vừa nói vừa vỗ vai ông ta.
- Xin lỗi, tôi là khách xa mới tới, tôi không hiểu gì về vệ sinh cả, - ông ta nói, trợn tròn mắt vì hoảng sợ.
- A, nếu ông là khách từ xa mới đến thì lại là chuyện khác... Tôi có thể giúp được gì cho ông không? Dẫn ông đi xem thành phố nhé? Không à? Tôi sẵn sàng giúp ông điều ấy mà không cần được đền bù gì cả...
Nhưng rõ ràng là ông ta muốn nhanh chóng thoát khỏi tôi, nên vội vàng bước sang bên kia phố.
Tôi quay lại chiếc ghế, ngồi xuống. Tôi hoàn toàn thất vọng. Tiếng đàn phong cầm quay tay của ai đó đang vang đến từ xa càng làm tôi khó chịu thêm. Nấc lên từng tiếng, nó chơi một điệu nhạc của Vebe, và với điệu nhạc ấy làm nền, một cô bé đang hát một bài hát thật buồn... Tiếng nấc não lòng của chiếc đàn thấm qua người tôi, các dây thần kinh của tôi rung lên như hòa cùng tiếng nhạc, và rồi tôi ngả người xuống ghế, khe khẽ hát theo bài hát buồn bã ấy.
Chao, một người đói như tôi thật chẳng có tình cảm nào mà không trải qua! Các âm thanh ấy xâm chiếm tôi, tôi hòa tan vào chúng, chảy thành dòng như suối. Tôi hình dung rất rõ thấy mình là một dòng nước chảy ngược lên cao, cao quá cả những ngọn núi cao nhất, thành một điệu vũ giữa khoảng không bao la xanh biếc...
- Xin ông cho con một xu! - Con bé vừa hát kia chìa chiếc đĩa sắt xin tôi. - Chỉ một xu thôi ạ.
- Được, có ngay! - Tôi mơ màng đáp rồi đứng bật dậy, đưa tay sờ các túi.
Nhưng cô bé kia lại nghĩ là tôi định giễu nó, liền bỏ đi, không nói thêm một lời nào nữa. Tôi không thể chịu nổi sự rút lui lặng lẽ và nhẫn nhục ấy. Nếu bị nó mắng, tôi sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Tôi đau đớn gọi theo nó.
- Hiện giờ chú không có một đồng xu nào cả, nhưng chú không quên cháu đâu, chẳng bao lâu nữa, có thể ngày mai, chú sẽ có tiền. Tên cháu là gì? Một cái tên rất đẹp, chú sẽ nhớ. Thôi, ngày mai nhé...
Nhưng tôi thừa hiểu rằng nó không tin tôi, mặc dù nó đứng im không nói gì. Rồi tôi òa lên khóc, khóc vì cả một đứa bé ăn mày ngoài phố cũng không tin tôi. Tôi gọi nó lần nữa, nhanh chóng cởi cúc áo ngoài, định cho nó chiếc áo gilê của tôi.
- Chờ chú một phút, - tôi nói. - Cháu cầm lấy chiếc áo gilê này làm tin...
Nhưng thật tiếc, từ lâu tôi chẳng còn chiếc áo ấy nữa.
Tại sao tôi lại nghĩ tới chiếc áo chết tiệt ấy nhỉ? Đã hơn tuần nay tôi có được mặc nó trên người đâu. Chuyện gì đang xảy ra với tôi? Cô bé kia vì hoảng sợ đã lùi xa. Tôi không thể giữ nó thêm được nữa. Mọi người kéo đến khá đông, cười nói rất to. Một nhân viên cảnh sát rẽ đám đông đi tới, hỏi chuyện gì đã xảy ra.
- Chẳng có chuyện gì cả, - tôi đáp. - Hoàn toàn không! Chỉ đơn giản là tôi muốn đem chiếc áo gilê của tôi cho đứa bé, hay đúng hơn là cho bố nó... Chẳng có gì đáng để các ông cười. ở nhà tôi còn một chiếc nữa.
- Không được gây lộn xộn ngoài phố! - Người cảnh sát nói. - Bước khỏi đây ngay! - Và rồi anh ta ẩy tôi đi, nhưng một phút sau lại gọi theo: - Khoan, đây có phải là giấy tờ của anh không?
- Vâng! Quỷ tha ma bắt tôi đi! Đó là một bài báo rất quan trọng của tôi. Làm sao tôi lơ đãng thế nhỉ?
Tôi nhặt tập giấy lên, kiểm tra xem có mất tờ nào không, rồi ngay lập tức đi tới tòa soạn, thậm chí không ngoái đầu nhìn lại lần nào... Đồng hồ trên tháp Đấng cứu thế chỉ bốn giờ.
Cửa tòa soạn đóng chặt. Tôi đi xuống theo cầu thang, run lên như một tên trộm thực sự rồi rụt rè đứng trước cổng ra vào. Biết làm gì bây giờ? Tôi tựa lưng vào tường, đưa mắt nhìn xuống chân, xuống những viên đá và suy nghĩ. Ngay sát chân tôi là một chiếc kim băng lấp lánh, tôi cúi xuống nhặt nó lên. Hay mình thử cắt hàng cúc trên áo khoác đem vào hiệu cầm đồ? Liệu người ta mua bao nhiêu? Không, vô ích thôi. Suy cho cùng, cúc vẫn là cúc. Tuy vậy, nhìn kĩ, tôi thấy chúng hầu như còn mới. ít ra thì đó cũng là một ý nghĩ tốt. Tôi sẽ cắt chúng khỏi áo và mang tới hiệu cầm đồ. Hi vọng sẽ kiếm được ít tiền nhờ năm chiếc cúc kia làm tôi vui hẳn lên, tôi tự bảo mình: “Thấy không, rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy cả”. Liền sau đó, tôi hăng hái lấy dao cắt chúng ra, từng chiếc một. Vừa làm điều ấy, tôi vừa nói không thành tiếng: “Vâng, xin lỗi, quả là tôi đang gặp khó khăn, tạm thời thôi... Ông nói sao, cúc quá sờn à? ồ không! Xin ông tin rằng trên đời này không ai giữ cúc cẩn thận hơn tôi đâu! Báo ông biết chiếc áo khoác của tôi bao giờ cũng để hở không cài cúc, ấy là cái tính của tôi như thế, tôi quen thế... Còn nếu ông không muốn thì thôi... chẳng sao cả... Tôi chỉ cần đổi chúng lấy mười xu thôi... Không, lạy Chúa, có ai nói về ông đâu? Buông tôi ra, ôi, làm ơn buông tôi ra... Thôi được, ông cứ đi gọi cảnh sát đi! Tôi sẽ đứng đây chờ ông gọi cảnh sát tới. Tôi không ăn trộm cái gì của ông cả... Tốt, tốt lắm, chào ông, chào ông! À, tên tôi là Tangen, tôi ngồi quá lâu ở quán cà phê...”.

11.


Trên cầu thang có tiếng chân người bước. Lập tức tôi quay lại với thực tế. Đó là “Người cầm kéo”. Thấy hắn, tôi vội vã cho nắm cúc vào túi. Hắn muốn đi ngang, thậm chí không thèm đáp lại cái chào của tôi. Bỗng nhiên hắn chăm chú ngắm nghía các móng tay của hắn. Tôi chặn đường hắn và hỏi về ông chủ bút.
- Ông ấy chưa đến.
- Ông nói dối! - Tôi đáp. Và với một sự trâng tráo đến tôi cũng phải ngạc nhiên, tôi nói tiếp: - Tôi nhất thiết phải gặp ông ấy. Chuyện rất quan trọng. Có tin tức đặc biệt.
- Ông có thể nói qua tôi được không?
- Không! - Tôi cắt ngang và nhìn hắn một lượt từ đầu đến chân.
Điều này đã mang lại hiệu quả. Hắn liền mời tôi lên gác và mở cửa phòng. Tôi hồi hộp đến ngạt thở. Để lấy lại bình tĩnh, tôi nghiến chặt răng, gõ cửa, rồi bước vào phòng ông chủ bút.
- Ông đấy à? Chào ông, - ông chủ bút nói. - Mời ông ngồi.
Nếu ông ta thẳng tay đuổi tôi ra khỏi cửa, tôi còn cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi thấy nước mắt rưng rưng sắp trào ra. Tôi nói:
- Xin lỗi...
- Mời ông ngồi, - ông chủ bút nhắc lại.
Tôi ngồi xuống và bắt đầu giải thích rằng tôi đã viết xong một bài báo mới mà tôi rất muốn được đăng ở báo ông. Tôi viết rất lâu và mất khá nhiều công sức vì nó.
- Tôi sẽ đọc, - ông chủ bút nói rồi cầm bài báo. - Tôi biết những bài ông viết đều rất công phu, có điều ông quá say sưa. Nếu ông bình tĩnh chút nữa thì tốt hơn. Nhưng dù sao tôi cũng sẽ đọc bài này.
Nói rồi, ông lại cúi xuống bàn làm việc của mình.
Còn tôi thì vẫn ngồi yên. Hay hỏi vay ông một curon chăng? Hay giải thích cho ông biết vì sao khi viết, tôi quá bốc như vậy? Tất nhiên ông sẽ giúp tôi, vì đây có phải là lần đầu ông ta giúp tôi đâu!
Tôi đứng dậy. Hừm! Tôi nhớ lần cuối cùng gặp ông, ông có kêu về khó khăn tài chính, thậm chí còn cho bà thủ quỹ đi đâu đấy kiếm ít đồng tiền lẻ cho tôi. Có lẽ bây giờ cũng vậy. Không, tôi không thể làm thế được. Lẽ nào tôi không thấy ông ta đang bận?
- Ông cần điều gì nữa chăng? - Ông chủ bút hỏi.
- Không, - tôi đáp, cố sao để giọng nói có vẻ dứt khoát. - Bao giờ thì tôi có thể đến gặp ông ạ?
- À, lúc nào tiện thì đến thôi, cứ cho là hai ngày nữa chẳng hạn.
Tôi không thể nói nên lời cái yêu cầu bức thiết của tôi. Hình như vẻ lịch sự của con người này là vô cùng vô tận, và tôi không thể không kính trọng nó. Thà chết đói còn hơn hỏi vay tiền ông ấy. Và rồi tôi bước ra khỏi phòng.
Tôi không lấy làm tiếc rằng đã rời tòa soạn mà chưa hỏi vay được một curon, thậm chí cả khi ra đến cửa, cơn đói lại thức dậy cắn xé tôi. Tôi moi từ túi ra chiếc vỏ bào thứ hai rồi cho vào miệng. Tôi lại cảm thấy dễ chịu. Tại sao tôi không làm điều này sớm hơn nhỉ?
- Thật xấu hổ! - Tôi nói to. - Không lẽ mày có thể nghĩ tới việc ngửa tay xin con người ấy một curon, và bằng cách ấy đặt ông ta vào tình thế khó xử? - Rồi tôi bắt đầu nguyền rủa mình vì ý nghĩ trâng tráo, nhục nhã ấy. - Lăn xả vào người ta, xuýt làm người ta ngã, chỉ vì mày, một kẻ đáng khinh bỉ, cần một đồng curon nào đó! Hãy cút khỏi đây ngay, nhanh lên! Nhanh lên, đồ ngốc! Được, ta sẽ cho mày biết tay!
Và để trừng phạt mình, tôi bắt đầu chạy, chạy hết phố này đến phố khác, chạy đuổi theo chính bản thân mình. Và mỗi lần chạy chậm, tôi lại quát lên giận dữ. Một chốc sau tôi có mặt ở Pilestredet. Cuối cùng, tôi dừng lại, suýt òa lên khóc vì không đủ sức chạy tiếp. Toàn thân tôi run lên bần bật. Tôi ngồi xuống một bậc đá nào đó.
- Không, hãy đợi đấy! - Tôi nói. Và để trừng phạt mình đến nơi đến chốn, tôi lại đứng dậy, không cho phép ngồi tiếp. Tôi cười giễu và lấy làm sung sướng trước sự bất lực của chính mình. Cuối cùng, sau mấy phút đứng như thế, tôi gật đầu cho phép mình ngồi xuống, nhưng không phải ngồi ở chỗ gồ ghề nhất trên bậc đá.
Ôi lạy Chúa, được ngồi nghỉ mới thích làm sao! Tôi lau mồ hôi trên trán và hít thật sâu không khí trong lành vào ngực. Tôi đã phải chạy quá nhiều! Nhưng tôi không hề vì thế mà thương hại mình. Đáng đời tôi lắm! Sao tôi dám nghĩ tới việc vay tiền? Thì đấy, nhận lấy! Sau đó tôi dịu dần và nói chuyện với mình cũng dịu dàng hơn, thậm chí còn dỗ dành như bà mẹ dỗ dành đứa trẻ. Điều này làm tôi cảm động, chả là vì tôi quá mệt, quá bất lực. Rồi tôi khóc. Đó là những tiếng khóc lặng lẽ, bị nén sâu trong lòng, khóc không nước mắt...
Tôi ngồi yên một chỗ độ mười lăm phút hay còn hơn thế. Nhiều người đi ngang, nhưng không ai để ý đến tôi. Trẻ con chơi quanh tôi, còn trên ngọn cây bên kia phố, một con chim nhỏ nào đấy đang hót.
Một người cảnh sát tiến lại gần tôi.
- Anh ngồi ở đây làm gì? - Ông ta hỏi.
- Tôi ngồi làm gì ư? - Tôi hỏi lại. - Chỉ ngồi thế thôi, ngồi cho thích.
- Tôi đã theo dõi anh suốt nửa giờ liền. - Ông ta nói. - Có đúng là anh đã ngồi đây nửa giờ không?
- Khoảng chừng ấy, - tôi đáp. - Thì sao ạ?
Tôi đứng dậy rồi bỏ đi.
Đến quảng trường, tôi dừng lại nhìn hai bên phố. Ngồi cho thích! Thế mà cũng gọi là trả lời! Đáng lẽ phải nói cách nào đó cho thật cảm động, thí dụ tôi ngồi đây vì mệt quá. Ngốc, mày đúng là một thằng ngốc, chẳng bao giờ học được cách giả vờ! Vì tôi quá mệt! Và thở cũng phải thở hổn hển vào, như con ngựa kiệt sức ấy!
Tới trạm cứu hỏa, tôi lại dừng lại vì một ý nghĩ điên rồ lại xuất hiện trong đầu tôi. Tôi bật ngón tay cười to, làm những người đi ngang rất ngạc nhiên. Tôi nói:
- Không, mày phải đến gặp ngay mục sư Lêvinxơn. Đến ngay lập tức! Cứ thử đi, chẳng còn gì mà sợ mất. Vả lại, thời tiết đang rất đẹp.
Tôi rẽ vào hiệu sách Pasa, hỏi mượn cuốn danh bạ địa chỉ để xem mục sư Lêvinxơn sống ở đâu, rồi đi thẳng đến nhà ông ta.
- Nào, bây giờ thì mày phải dũng cảm lên mới được, - tôi nói. - Đùa thế đủ rồi! Mày nói sao, lương tâm à? Nhảm nhí, nghèo như mày thì nói đến lương tâm làm gì? Mày đang đói, mày có một việc quan trọng, mày chỉ yêu cầu cái tối cần thiết. Mày phải cúi đầu thật thấp và nói bằng giọng thật tha thiết. Không muốn à? Thế thì ta chẳng còn là bạn của mày nữa, nhớ lấy. Hãy nghe đây: Mày đã bị giày vò đau khổ bởi lo lắng, mày phải đêm đêm vật lộn với các quyền lực của bóng tối, với những con quái vật khổng lồ lặng lẽ, mày đang chết đói, đang thèm rượu và sữa, thế mà mày chẳng có gì cả. Công việc của mày tồi tệ lắm. Đấy, mày đang đứng dậy với hai bàn tay trắng. Nhưng cũng may là mày còn tin vào lòng từ thiện, mày sẽ phải khoanh tay nhẫn nhục và trở nên ranh ma hơn cả quỷ Sa-tăng. Không thích thú gì đâu, nhưng mày sẽ nhận được một cuốn sách Kinh và hai curon gọi là để kỉ niệm...
Tôi dừng lại trước cửa nhà mục sư và đọc: “Tiếp khách từ mười hai giờ đến bốn giờ chiều”.
- Nào, bây giờ thì dẹp mọi trò ngốc nghếch sang một bên, - tôi nói. - Đây không phải chuyện đùa. Nào, cúi đầu xuống, thấp nữa...
Tôi rung chuông.
- Tôi có thể gặp mục sư được không ạ? - Tôi nói với cô hầu gái; nhưng không thể nói thêm câu: “nhân danh Chúa”.
- Mục sư đi vắng, - cô gái trả lời.
Đi vắng. Đi vắng. Thế là toàn bộ kế hoạch của tôi sụp đổ! Tất cả những lời nói tôi chuẩn bị sẵn đều vô ích! Vậy thì cần quái gì tôi phải đi xa thế này? Tôi không còn đủ sức bước thêm một bước nào nữa.
- Ông có việc quan trọng lắm à? - Cô hầu gái hỏi.
- Ồ không, - tôi đáp. - Chuyện vặt vãnh thôi mà! Chỉ đơn giản là hôm nay trời rất đẹp, tôi quyết định đi dạo một chốc và ghé vào đây thăm mục sư để tỏ lòng tôn kính đối với ông.
Tôi vẫn đứng yên, cô kia cũng vậy. Tôi cố tình ưỡn ngực để cô ta chú ý tới chiếc kim băng sáng loáng đang cài áo khoác của tôi thay cúc áo. Tôi nhìn cô ta với vẻ van xin để cô ta hiểu được lí do thật sự đưa tôi đến đây là gì, nhưng cô gái tội nghiệp ấy đã không hiểu gì cả.
- Vâng, hôm nay là một ngày đẹp trời. Thế bà mục sư có ở nhà không ạ?
- Có, nhưng bà bị bệnh thấp khớp, phải nằm một chỗ, không dậy nổi... Hay ông để lại mảnh giấy chăng?
- Ồ không! Chỉ đơn giản là thỉnh thoảng tôi thích đi dạo, thích được hít thở không khí trong lành. Mà hôm nay thời tiết lại quá đẹp.
Nói rồi tôi bỏ đi. Tán dóc thêm làm gì? Vả lại đầu tôi đã bắt đầu quay cuồng. Không phải chuyện đùa, tôi có thể ngã gục. Tiếp khách từ mười hai giờ đến bốn giờ! Tôi đến chậm những một tiếng đồng hồ. Giờ ban phát lòng từ thiện đã hết!
Tới quảng trường, tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá cạnh nhà thờ. Trời ơi, sao tương lai đời tôi u tối thế này? Tôi không khóc. Tôi không đủ sức làm điều ấy. Mệt mỏi đến cùng cực, tôi ngồi yên bất động, ngồi để cái đói thả sức giày vò tôi. Từ bên trong, cả người tôi đang bốc lửa, đặc biệt là ngực. Tôi lại nhá mẩu vỏ bào, nhưng bây giờ nó không còn làm dịu cơn đói như trước. Đôi hàm của tôi đã quá mỏi do nhai một cách vô ích, vì vậy bây giờ tôi không bắt chúng làm việc nữa. Tôi đầu hàng. Thêm vào đó, miếng vỏ cam héo khô mà tôi nhặt được từ mặt đường đưa lên miệng nhai đang làm tôi muốn nôn. Tôi đang ốm, hai tay nổi những đường gân xanh.
Mà thử hỏi tôi chờ cái gì nhỉ? Suốt ngày tôi tìm mọi cách có được một đồng curon, cái có thể giúp kéo dài sự sống trong tôi thêm mấy ngày nữa. Suy cho cùng có khác gì nhau khi phải chết sớm hoặc muộn hơn một ngày? Ở địa vị tôi, người tử tế chắc từ lâu đã về nhà nằm chờ chết, thế có hơn không? Các ý nghĩ của tôi bỗng trở nên sáng sủa hơn. Bây giờ tôi phải chết! Lúc này là mùa thu, cả thế giới đang chìm trong giấc ngủ uể oải. Tôi đã thử hết mọi phương tiện, tìm hết cách để cố sống, nhưng vô ích. Giờ tôi mang ý nghĩ về cái chết trong lòng, và mỗi lần có tia hi vọng may mắn nào đó, tôi vội dẹp đi, buồn bã tự bảo mình: “Đồ ngốc, mày là người đang chết”. Chỉ cần viết một vài bức thư để lại, thu dọn mọi thứ rồi chuẩn bị đón cái chết. Cũng cần tắm rửa sạch sẽ và xếp lại chăn giường. Tôi sẽ lót dưới đầu hai tờ giấy chưa viết, hai tờ sạch nhất mà tôi có. Còn chiếc chăn xanh thì có thể...
Chiếc chăn xanh! Tôi bỗng giật mình, máu dồn lên đầu, tim đập mạnh. Tôi đứng dậy, vội vàng đi tiếp. Sự sống trỗi dậy trong tôi, chốc chốc tôi lại nhắc: “Chiếc chăn xanh! Chiếc chăn xanh!”. Tôi đi mỗi lúc một nhanh như sợ ai đó đuổi theo, và một chốc sau đã ở nhà mình, tức là phòng làm việc của người thợ gò thùng.
Không một phút chậm trễ, không một chút do dự, tôi lại giường, cuộn chiếc chăn của Hanx Pauli lại. Một ý nghĩ tuyệt vời làm sao! Bây giờ thì tôi sẽ được cứu thoát. Tôi đã vượt qua được tính xấu hổ rụt rè của mình, tôi đã quyết định bất chấp tất cả. Nào tôi có là thần thánh gì đâu, cũng chẳng phải là một thằng ngốc nào đó. Tôi đang là người tỉnh táo...
Kẹp chiếc chăn dưới nách, tôi hăm hở đi đến phố Stenexgaten, nhà số năm.
Tôi gõ cửa rồi bước vào một gian phòng rộng, xa lạ. Chiếc chuông cửa treo ngay trên đầu tôi kêu rất to và dồn dập. Từ phòng bên, một người nào đó miệng đang ngậm đầy thức ăn bước ra đứng sau quầy.
- Xin ông cho tôi nửa curon để lấy chiếc kính này! - Tôi nói. - Mấy ngày nữa thế nào tôi cũng chuộc lại nó.
- Sao? Nhưng gọng kính của ông chỉ là kim loại bình thường, phải không?
- Vâng.
- Thế thì tôi không nhận nó đâu.
- Tất nhiên. Tôi nói đùa đó thôi. Còn chiếc chăn này thì quả thật tôi không cần tới nữa, tôi muốn thoát khỏi nó.
- Rất tiếc là tôi đang có cả một kho chăn cũ, - người chủ hiệu cầm đồ đáp, và khi tôi giở chăn ra, ông ta chỉ liếc qua và nói: - Xin lỗi, tôi không cần.
- Tôi cố tình cho ông xem mặt sau của nó đấy. Mặt trước trông còn mới lắm.
- Dù sao tôi cũng không thể nhận nó được, vì rõ ràng là không ai muốn bỏ ra mười ere để mua nó.
- Đúng vậy, nó chẳng đáng giá chút nào, - tôi đồng ý với ông ta. - Nhưng tôi nghĩ cùng một chiếc chăn cũ khác, cũng có thể bán nó được.
- Không, không, vô ích thôi.
- Hay có thể ông cho tôi hai mươi lăm ere cũng được? - Tôi hỏi.
- Không, quả thật tôi không thể nhận nó, ông bạn thân mến ạ. Tôi chẳng cần nó làm gì cả.

12.


Tôi lại cắp chiếc chăn dưới nách đi về nhà.
Như không hề có chuyện gì xảy ra, tôi trải chiếc chăn xuống giường, vuốt phẳng, như thể vừa rồi tôi chẳng mang nó đi đâu cả. Khi quyết định làm cái việc phiêu lưu kia, có lẽ lúc ấy tôi không còn tỉnh táo. Và càng nghĩ, tôi càng thấy việc tôi đem chăn đi bán quả là ngốc nghếch. Chắc chắn đó là kết quả của một sự yếu đuối, một sự thoái hóa nội tâm nào đó. Tôi hiểu đó là một cái bẫy, tôi cũng hiểu rằng tôi đang mất trí nên đã đề nghị bán chiếc kính của tôi trước. Bây giờ tôi lấy làm mừng rằng đã không làm cái hành động tội lỗi ấy. Nếu không, những giờ phút cuối cùng của đời tôi sẽ bị đầu độc, trở thành đau khổ vì ăn năn hối lỗi.
Tôi lại đi lang thang khắp các phố.
Đến nhà thờ Đấng Cứu Thế, tôi lại ngồi xuống một chiếc ghế dài, đầu gục xuống ngực, bộ ngực bị dằn vặt bởi những lo lắng, hồi hộp vừa rồi, bộ ngực đau đớn vì đói. Trong khi đó thời gian cứ trôi.
Tôi ngồi như thế suốt một giờ ngoài trời. ở đây sáng hơn trong nhà. Vả lại, tôi thấy hình như ngoài trời, giữa không khí trong lành, tôi đỡ đau ngực hơn. Mà tôi cũng chẳng việc gì phải vội về nhà.
Tôi suy nghĩ, thiu thiu ngủ. Tình cảnh của tôi thật bi đát. Tôi cúi xuống nhặt một viên đá, lấy tay xoa sạch rồi cho vào miệng mút, và khi làm việc này, tôi ngồi yên bất động, thậm chí đến nháy mắt cũng không. Xung quanh có nhiều người đi ngang, tôi nghe có tiếng xe ngựa lăn, tiếng móng ngựa nện lên lòng đường và tiếng cười nói.
Tại sao lại không thử vận may với những chiếc cúc nhỉ? Ồ, không, chắc sẽ chẳng mang lại cái gì đâu, mà tôi thì đang ốm, ốm ra trò. Nhưng nếu cân nhắc kĩ, có lẽ có thử cũng chẳng sao, vì dù sao thì hiệu cầm đồ cũng nằm trên đường về nhà, cái cửa hiệu mà tôi thường ghé mắt nhìn vào.
Cuối cùng tôi đứng dậy, thong thả kéo lê chân đi dọc các phố. Trán tôi nóng bừng, cơn sốt đã bắt đầu và tôi cố bước thật nhanh. Tôi đi ngang một hiệu bánh mì với những ổ bánh ngon lành sau tủ kính.
- Nào, ta dừng lại đây đã, - tôi nói với vẻ rắn rỏi giả tạo. - Hay thử vào xin một mẩu bánh mì? - ý nghĩ này vụt lên rất nhanh rồi bùng to như ngọn lửa. Có thể nói là tự nó xuất hiện, ngoài ý muốn của tôi. - Thôi đi! - Tôi khẽ nói và lắc đầu đi tiếp, vừa đi vừa cười giễu mình. Tôi thừa biết rằng vào hiệu bánh với mục đích ấy chỉ là việc làm vô ích.
Một đôi uyên ương đang thì thầm với nhau bên cổng ở một góc phố nhỏ. Xa hơn chút ít có một cô gái ló đầu qua cửa sổ vẻ lẳng lơ. Tôi đi chậm và thận trọng đến mức có thể nghĩ tôi đang muốn tìm kiếm cái gì đó, - cô gái lẳng lơ kia bước ra phố.
- Công việc thế nào, ông anh? Sao thế, anh ốm à? Trời ơi, anh ốm thật rồi! Như người mất hồn ấy!
Và cô ta vội vã chạy vào nhà. Như người mất hồn nghĩa là thế nào nhỉ? Không lẽ tôi sắp chết? Tôi đưa tay sờ vào má - đúng, tôi gầy quá! Hai má tôi hõm vào như hai chiếc hố. Khiếp thật! Rồi tôi đi tiếp.
Sau đó tôi lại dừng lại. Có lẽ tôi gầy thế này trông đáng sợ lắm. Đôi mắt thì chui sâu vào sọ. Không hiểu bây giờ tôi giống cái gì nhỉ? Thật là một số phận không chê vào đâu được, nó đã biến tôi, một người sống, thành một bộ xương chết! Tôi lại bừng bừng tức giận. Nghĩa là tôi như một người mất hồn? Tôi có một cái đầu đáng giá, khắp đất nước này không thể tìm đâu một cái đầu thứ hai như thế, và tôi có hai nắm đấm - lạy Chúa - có thể đập vỡ sọ bất kì người nào, thế mà tôi phải chết đói ở chính trung tâm của thành phố Christiania nổi tiếng này! Lẽ nào có thể tưởng tượng nổi điều ấy? Tôi phải sống trong chuồng nuôi ngựa, làm việc quần quật từ sáng đến tối như con trâu đen. Vì đọc quá nhiều, mắt tôi gần thành mù, óc tôi teo lại vì quá đói, thế mà thử hỏi tôi được đền bù cái gì? Thậm chí cả những cô gái làm tiền ngoài phố thấy tôi cũng phải ôm mặt kêu lên: “Lạy Chúa!”. Nhưng bây giờ thì không thể như thế được nữa, hiểu chưa? Không thể! Đồ chó chết!... Tôi nghiến chặt răng, toàn thân run lên vì tức giận. Tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, mắt rưng rưng, miệng luôn trút ra những tràng nguyền rủa. Cứ thế tôi lê chân đi tiếp, không thèm để ý những người xung quanh. Lại lần nữa tôi bắt đầu tự hành hạ mình. Tôi cố tình đập mạnh đầu vào cột đèn, bấm móng tay thật sâu vào đùi, cắn lưỡi thật đau mỗi lần tôi nói rời rạc không thành lời, và phá lên cười mỗi lần tôi thấy đau.
- Nhưng dù sao, ta phải làm gì bây giờ? - Cuối cùng tôi tự hỏi mình. Và giẫm mạnh chân mấy cái xuống đất, tôi nhắc lại: - Phải làm gì bây giờ?
Một người nào đó đi ngang mỉm cười bảo tôi:
- Anh phải yêu cầu để người ta bắt anh đi!
Tôi nhìn theo người ấy. Đó là một bác sĩ sản khoa nổi tiếng có biệt danh là “Quận công”. Thậm chí ông ta cũng không hiểu tình cảnh của tôi lúc này, mặc dù chúng tôi quen nhau và thường bắt tay nhau mỗi lần gặp. Tôi cụt hứng. Yêu cầu để người ta bắt tôi ư? Vâng, ông ta nói đúng, tôi đã hóa điên. Tôi nhận thấy sự điên rồ ấy trong máu và trong óc tôi. Hóa ra một cái kết cục như thế đang chờ tôi đấy! Vâng! Vâng! Và tôi đi tiếp bằng những bước chân chậm chạp của người đưa đám. Nghĩa là một số phận như thế đang chờ tôi!
Bỗng nhiên tôi dừng lại.
- Không, gì thì gì nhưng không để bị bắt, - tôi kêu to. - Không để bị bắt!
Vì quá sợ hãi, tôi lạc cả giọng. Tôi cầu nguyện, tôi van xin tất cả thánh thần để tôi không bị bắt. Vì nếu bị bắt, tôi lại sẽ bị giam trong phòng tối, nơi không có chút ánh sáng nào. Gì thì gì, nhưng không thể bị bắt! Chắc còn nhiều lối thoát nữa mà tôi chưa biết, chưa thử, nhưng tôi sẽ thử. Tôi sẽ có đủ kiên nhẫn, tôi không tiếc thời gian, tôi sẽ đi hết nhà này đến nhà khác không chút mệt mỏi. Thí dụ còn có cửa hàng âm nhạc Xixlê mà tôi chưa thử. Có thể ở đó tôi sẽ tìm được lối thoát... Tôi vừa đi vừa lẩm bẩm. Sau đó tôi lại thút thít khóc vì thương hại mình. Gì thì gì, nhưng không được để người khác bắt!
Xixlê! Biết đâu hạnh phúc đời tôi lại chính là ở đây? Tự nhiên cái tên ấy chui vào đầu tôi. Ông ta sống khá xa, nhưng tôi sẽ tới được. Tôi sẽ đi một cách thong thả, thỉnh thoảng mệt sẽ ngồi xuống nghỉ. Tôi biết khá rõ cửa hàng này. Trước đây, khi đang ở vào thời kì thịnh vượng nhất, tôi thường lại đây mua các bản nhạc. Sẽ thế nào nếu ta hỏi vay ông ta nửa curon? Không, ít thế có thể làm ông ta bất tiện. Tốt nhất cứ hỏi vay luôn một curon.
Tôi bước vào cửa hàng, nói là muốn gặp ông chủ. Người ta chỉ đường tôi đi tới phòng Xixlê. Trong phòng có một người đang ngồi, ăn mặc theo mốt mới nhất và đang lật lật những thứ giấy tờ gì đó.
Tôi ấp úng xin lỗi và trình bày hoàn cảnh của mình. Rằng do quá quẫn bách, tôi phải nhờ đến ông ta... rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trả lại... Ngay sau khi tôi nhận được tiền nhuận bút bài báo... Rằng ông ta sẽ cứu tôi, nếu..
Tôi chưa nói hết câu thì ông ta đã cúi xuống bàn làm tiếp công việc bỏ dở. Khi tôi im lặng, ông ta liếc nhìn tôi, khẽ lắc lắc cái đầu xinh đẹp và nói:
- Không!
Chỉ đơn giản “không”. Không thêm một lời nào. Không giải thích.
Hai đầu gối tôi run run, tôi phải tựa vào một chiếc tủ nhỏ đánh vécni bóng nhoáng. Tôi quyết định thử một lần nữa. Tại sao tôi lại nghĩ đến ông ta, vì tôi sống ở Waterlan, cách đây rất xa cơ mà? Hông trái tôi nóng hừng hực, cả người tôi đầm đìa mồ hôi.
- Hừm... Xin ông hiểu cho, tôi rất yếu, - tôi nói. - Tôi ốm lắm. Chỉ vài ngày nữa tôi sẽ có tiền trả lại ông. Ông hãy làm ơn giúp tôi...
- Này anh bạn thân mến, sao anh lại chọn đúng tôi mới được chứ? - Ông ta nói. - Tôi chưa bao giờ thấy anh, có thể nói anh là người hoàn toàn xa lạ với tôi. Hãy đến tòa soạn mà vay. Ở đấy người ta biết anh mà.
- Nhưng tôi chỉ vay một hôm thôi ạ, - tôi nói. - Hôm nay tòa soạn đóng cửa, mà tôi thì rất đói.
Nhưng ông ta vẫn nhất quyết lắc đầu, thậm chí cả khi tôi ra đến cửa, ông ta còn tiếp tục lắc đầu.
- Chào ông! - Tôi nói.
Tôi lại đi tiếp, hết khu phố này đến khu phố khác, chốc chốc lại ngồi xuống bậc đá nghỉ. Có điều, không được để bị bắt! Nỗi kinh hoàng trước phòng giam tối om luôn ám ảnh tôi, không chịu để tôi yên, dù chỉ một phút. Hễ thấy có bóng cảnh sát là tôi vội rẽ ngang để tránh gặp họ.
- Nào, bây giờ ta thử đếm bước chân cho đến một trăm, - tôi nói, - và thử tìm vận may lần nữa! Thử vào cửa hàng này xem sao.
Rồi thế nào cũng có lúc thành công...
Đó là một cửa hiệu nhỏ mà tôi chưa hề đặt chân tới. Đứng sau quầy hàng là một người có vẻ ngoài giản dị. Sau lưng anh ta là cánh cửa có cái bảng treo bằng sứ. Hàng hóa được bày trên các giá. Tôi chờ cho đến lúc bà khách cuối cùng ra khỏi cửa hiệu. Bà ta là một phụ nữ sang trọng, còn trẻ, với hai lúm đồng tiền trên má. Mặt rạng rỡ hạnh phúc! Không muốn bị bà ta chú ý, tôi quay sang hướng khác.
- Ông cần gì ạ? - Người bán hàng hỏi.
- Tôi có thể gặp ông chủ được không?
- Ông ấy vào vùng núi Iotunhen rồi, - anh kia đáp. - Ông có chuyện quan trọng à?
- Tôi cần mấy ere để mua bánh mì, - tôi nói với nụ cười giả tạo. - Tôi đang đói, mà trong túi chẳng có gì cả.
- Nếu vậy thì tôi cũng không giàu hơn chút nào, - anh ta nói rồi bắt đầu trải các cuộn len lên quầy.
- Ôi, đừng bỏ rơi tôi trong giờ phút khó khăn này! - Tôi nói, toát mồ hôi lạnh. - Ông biết không, tôi sắp chết đói, đã mấy ngày nay tôi chưa được ăn gì vào bụng.
Với vẻ vô cùng nghiêm túc, anh ta lặng lẽ lộn ngược các túi áo của mình cho tôi xem.
Hóa ra tôi không tin lời anh ta nói?
- Tôi chỉ cần năm ere thôi, - tôi nói. - Hai ngày nữa tôi sẽ trả ông mười ere.
- Này anh bạn, anh muốn tôi ăn cắp tiền cửa hàng cho anh hả? - Người bán hàng giận dữ hỏi.
- Vâng, - tôi đáp. - Hãy lấy cắp cho tôi năm ere.
- Tôi không quen ăn cắp, - anh ta đáp rồi nói thêm: - Mà đến giờ tôi đóng cửa rồi đấy!
Tôi đi ra, đỏ bừng mặt vì xấu hổ và kiệt sức vì đói. Thôi, thế là đủ! Quá đủ! Suốt chừng ấy năm, cả những năm gian khó nhất, tôi đã chống đỡ được để giữ vững lòng tự trọng, thế mà bây giờ, tôi bỗng lăn nhanh xuống dốc và trở thành một kẻ ăn mày sơ đẳng nhất. Chỉ trong một ngày, tôi đã kịp làm bẩn tâm hồn tôi, thui chột các ý nghĩ cao đẹp trong tôi bằng sự trơ trẽn bần tiện của chính mình. Không chút ngượng ngập, tôi đã rên rỉ vòi tiền một anh bán hàng hạ đẳng. Mà rồi tôi được cái gì? Lẽ nào chẳng phải trước không bánh, bây giờ vẫn không đó sao? Chính tôi cũng tự thấy mình đáng khinh bỉ. Vâng, phải kết thúc mọi chuyện ngay lập tức! Chắc lúc này là lúc cổng vào sân nhà tôi sắp đóng, phải vội mới kịp, nếu không muốn nằm một đêm nữa ở đồn cảnh sát...
Điều này làm tôi tăng thêm sức. Tôi không muốn ngủ ở đồn cảnh sát một chút nào. Cúi gập người, tay ôm hông bên trái để dịu bớt cơn đau, tôi vật vờ đi tiếp, mắt luôn để ý nhìn lên hè phố để nếu gặp người quen thì lẩn tránh cho họ khỏi phải cúi chào tôi. Tôi đi tới trạm cứu hỏa. May quá đồng hồ nhà thờ Đấng Cứu Thế mới chỉ bảy giờ, nghĩa là còn những ba giờ nữa cổng mới đóng. Thế mà tôi đã hoảng sợ vô ích!

13.


Vâng, tôi đã thử hết cách, đã làm những gì có thể làm được. “Thật là một ngày rủi ro, từ sáng đến giờ chưa gặp may lần nào”, - tôi nghĩ. Nếu đem chuyện này kể người khác nghe, chắc sẽ không ai tin, còn nếu viết thành chuyện thì mọi người thế nào cũng cho là tôi phịa ra. Không, tôi không phịa một chút nào! Nghĩa là tôi không thể viết chuyện mình lên giấy được, nhất là với cái giọng sầu não này! Chà! Tởm quá! Đừng quên rằng mày đang làm ta ngấy đến tận cổ? Một khi không còn chút hi vọng nào nữa, thì nghĩa là chẳng có gì để chờ đợi. À mà có thể ăn cắp của con ngựa một nhúm mạch được không nhỉ? ý nghĩ ấy lóe lên như một tia sáng nhỏ, tuy tôi biết cửa chuồng ngựa đã đóng chặt.
Điều này không làm tôi buồn lắm, tôi tiếp tục lê chân về nhà. Cũng may rằng chỉ bây giờ tôi mới thấy khát, và đây là lần đầu tiên trong ngày tôi tìm chỗ nào có thể uống no nước. Từ đây đến chợ quá xa, mà vào nhà riêng người khác thì tôi không muốn. Có lẽ tôi sẽ gắng được cho tới khi về nhà. Chỉ cần mười lăm phút nữa thôi. Mà thôi chưa biết có thể tôi sẽ phản ứng thế nào khi uống nước vào. Dạ dày tôi đã từ chối không chịu nhận bất kì cái gì, thậm chí nuốt nước bọt, tôi cũng thấy buồn nôn.
Còn những chiếc cúc thì sao? Tôi chưa thử vận may với những chiếc cúc ấy. Nghĩ thế, tôi mỉm cười. Biết đâu có thể lại tìm ra lối thoát ở đây? Không phải mọi hi vọng đã mất! Chắc chắn tôi sẽ bán được chúng để lấy mười ere, ngày mai tôi kiếm đâu đó mười ere nữa, còn ngày kia, thứ năm, tôi đã có tiền nhuận bút bài báo. Chỉ cần nghị lực và dũng cảm, rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy! Làm sao tôi có thể quên không nghĩ tới những chiếc cúc này nhỉ? Tôi rút chúng từ túi ra, vừa đi vừa ngắm. Vì quá sung sướng, mắt tôi như mờ hẳn lại, chẳng còn nhìn rõ con đường đang đi.
Tôi biết rất rõ tầng hầm rộng này, nơi tôi thường tìm đến ẩn náu những đêm tối trời. Nó là bạn, nhưng đồng thời cũng là kẻ hút máu tôi! Tất cả tài sản của tôi đã lần lượt kéo nhau đến đây, tất cả các vật dụng gia đình bé nhỏ, tất cả các cuốn sách, không chừa cuốn nào! Những ngày bán đấu giá, tôi đều tới đây xem và rất sung sướng khi thấy các cuốn sách của tôi rơi vào tay những người tử tế. Nghệ sĩ Magenxen đã mua chiếc đồng hồ của tôi, và tôi hầu như lấy làm tự hào về điều ấy. Cuốn lịch với bài thơ đầu tiên của tôi được in do một người quen của tôi mua, còn một ông thợ chụp ảnh thì mua chiếc áo bành tô của tôi mà bây giờ ông ta cho thuê trong hiệu ảnh của mình. Tất cả đã được thu xếp khá tốt đẹp.
Tôi bước vào phòng, tay cầm nắm cúc. Lão chủ hiệu ngồi sau quầy hàng, đang viết gì đó.
- Tôi có thể chờ, tôi không vội, - tôi nói, sợ làm lão tức giận vì sự có mặt của mình. Giọng tôi nghe khản đặc, đến mức chính tôi cũng không nhận ra, còn tim thì đập thình thịch.
Lão lại gần tôi với nụ cười quen thuộc, đặt cả hai tay lên quầy rồi nhìn vào mặt tôi, không nói lời nào.
- Tôi có mang tới đây một vài thứ vặt vãnh, muốn nhờ ông xem, ở nhà chúng chỉ là những vật thừa vô ích... quả đúng thế... đây, những chiếc cúc này.
- Những chiếc cúc này thì sao? - Lão hỏi sau khi nhìn vào lòng tay tôi.
- Ông có thể nhận chúng và cho tôi vài ere được không ạ? Bao nhiêu tùy ông...
- Ông bảo tôi mua cúc? - Lão ngạc nhiên nhìn tôi. - Mua những chiếc cúc này?
- Vâng, với số tiền đủ cho một điếu xì gà hay ít hơn cũng được. Tôi đi ngang và rẽ vào đây...
Lão chủ hiệu cầm đồ già phá lên cười, rồi không nói thêm một lời nào nữa, lão quay lại chỗ làm việc của mình. Tôi đứng yên tại chỗ. Nói chung, trước đấy tôi đã không tin rằng lão sẽ mua, tuy vậy tôi vẫn mơ hồ hi vọng. Bây giờ tiếng cười to ấy đang vang lên như lời kết án tử hình đối với tôi... Hay thử đưa thêm cho lão cả chiếc kính nữa?
- Tôi có thể đưa thêm cả chiếc kính này, tất nhiên... - Tôi nói rồi cởi kính khỏi mắt. - Tôi chỉ cần mười ere, hay năm cũng được.
- Nhưng ông biết rằng tôi không thể lấy kính của ông được. Tôi đã nói với ông rồi cơ mà!
- Nhưng tôi cần tiền mua một chiếc tem, - tôi nói không thành tiếng. - Tôi không thể gửi thư mà không dán tem. Một bức thư cần gửi. Hãy cho tôi một chiếc tem mười hay năm ere cũng được!
- Ông đi khỏi đây ngay! - Lão chủ hiệu nói rồi lấy tay xua tôi.
“Thôi, bây giờ muốn ra sao thì ra!” - Tôi tự bảo mình. Như cái máy, tôi đeo kính lên mắt, cầm lấy mấy chiếc cúc rồi ra đi, sau khi chúc lão kia ngủ ngon và khép chặt cửa sau lưng như thường lệ. Bây giờ thì chẳng còn biết làm gì! Đến chân cầu thang, tôi dừng lại và ngắm nhìn mấy chiếc cúc lần nữa.
- Ông ấy hoàn toàn không muốn nhận chúng! - Tôi nói. - Dù chúng hầu như còn mới. Thật khó hiểu.
Trong khi tôi đứng suy nghĩ như thế thì một người nào đó đi tới rồi theo cầu thang bước xuống tầng hầm. Do vội vàng, người ấy khẽ chạm vào tôi. Cả hai chúng tôi cùng xin lỗi nhau, tôi ngoái lại nhìn theo.
- À , cậu đấy à? - Bỗng người ấy từ phía dưới gọi lên.
Rồi anh ta lại bước lên, và tôi đã nhận ra anh ta.
- Trời ơi, sao cậu thế này? Cậu làm gì ở đây?
- À, có chút việc. Còn anh, tôi thấy hình như anh cũng tới đấy.
- Vâng. Cậu mang gì đến?
Hai đầu gối tôi run run, tôi tựa lưng vào tường và ngửa tay cho anh ta xem mấy chiếc cúc.
- Trời đất ơi, - anh ta kêu lên. - Không, thế này thì quá lắm!
- Chào anh. - Tôi nói rồi định bỏ đi, vì nước mắt sắp trào ra.
- Khoan, gượm đã!
Chờ à? Tôi còn phải chờ gì? Chính bản thân anh ta chẳng phải đến hiệu cầm đồ đó sao? Có thể vì nhịn đói đã mấy ngày hoặc nợ tiền nhà, hôm nay anh ta phải mang nhẫn cưới của mình đến đây.
- Thôi được, nếu anh không bắt tôi chờ quá lâu... - Tôi đáp.
- Tất nhiên, - anh ta vừa nói vừa cầm tay tôi dắt đi. - Thú thật là tớ không tin cậu lắm, cậu ngốc nghếch và khác thường thế nào ấy. Cậu hãy đi cùng tớ!
Tôi hiểu anh ta muốn nói gì. Tôi đáp, cảm thấy ít nhiều bị xúc phạm.
- Không! Tôi không đi được! Tôi đã hứa là bảy giờ rưỡi sẽ có mặt ở phố Bert Anker, và...
- Bảy giờ rưỡi? Nhưng bây giờ đã tám giờ rồi! Cậu không thấy tớ đang cầm đồng hồ trên tay đấy à? Tớ mang nó xuống tầng hầm đây. Đi theo tớ, con chó đói lang thang kia! Tớ sẽ kiếm cho cậu ít nhất là năm curon!
Nói đoạn, anh ta xô tôi tới cửa hiệu cầm đồ.

14.


Cả một tuần trôi qua trong no đủ và vui sướng.
Tôi đã vượt qua tai nạn, được ăn trưa hàng ngày, sự sảng khoái mỗi lúc một tăng và tôi luôn nghĩ ra hết trò này đến trò khác. Tôi viết cùng một lúc cả ba hoặc bốn bài báo, đưa lên giấy tất cả các cảm hứng và ý nghĩ xuất hiện trong cái đầu tội nghiệp của tôi. Tôi có cảm giác rằng việc viết lách của tôi khá hơn trước rất nhiều. Bài báo cuối cùng mà tôi viết rất công phu và đặt nhiều hi vọng ấy đã bị ông chủ bút trả lại. Lập tức tôi xé tan nó ngay, vô cùng giận dữ và với cảm giác bị xúc phạm, xé mà không thèm đọc lại. Bây giờ tôi sẽ cố cộng tác với một tờ báo khác để có thể dễ được in hơn. Trường hợp xấu nhất, nếu cả điều này cũng không giúp được gì, tôi sẽ đăng kí xin làm thủy thủ. Tàu “Monach” đang đậu ở cảng, sắp rời bến, có lẽ tôi sẽ thu xếp được để làm việc cho nó và nó sẽ đưa tôi đến Arkhanghenxkơ hay một nơi nào đó. Nghĩa là tôi vẫn còn khối hi vọng.
Các bất hạnh tôi vừa trải qua không phải không để lại dấu vết gì. Tóc tôi bắt đầu rụng, thần kinh rệu rã, đầu đau nhức nhối. Ban ngày tôi ngồi viết, tay quấn đầy giẻ, chỉ đơn giản vì tôi không thể chịu nổi khi hơi thở của chính mình phả lên tay. Mỗi lần phía dưới Ienx Olai dập cửa chuồng ngựa quá mạnh hay ngoài sân có chó sủa, bỗng dưng tôi thấy lạnh buốt óc, và sau đó cái lạnh ấy chạy khắp cơ thể. Sức khỏe của tôi đã suy sụp một cách đáng kể.
Tôi làm việc căng thẳng hết ngày này đến ngày khác, tiết kiệm cả thời gian ăn trưa, và ăn xong lại cúi đầu xuống bàn viết ngay. Không chỉ cái bàn ọp ẹp mà cả giường tôi đều ngổn ngang những trang giấy viết kín chữ được tôi chữa đi chữa lại nhiều lần và ghép thành các bài báo. Tôi xoá chỗ này, thêm chỗ kia, các đoạn lủng củng cũng được chữa lại bằng những từ rất kêu. Cứ thế tôi viết, viết một cách khó nhọc hết câu này đến câu khác. Một chiều nọ, cuối cùng bài báo đã được viết xong hoàn toàn. Sung sướng và hạnh phúc, tôi nhét nó vào túi và vội đến gặp “Huân tước”. Đã đến lúc phải nghĩ tới việc kiếm tiền, vì túi tôi hầu như đã trống rỗng.
“Huân tước” yêu cầu tôi chờ một phút... Rồi ông lại cắm cúi viết tiếp cái gì đó.
Tôi đưa mắt nhìn quanh căn phòng chật hẹp: những bức tượng bán thân, những tờ tranh khắc gỗ, các mẩu báo cắt rời, một chiếc sọt rác thật lớn, tưởng có thể chứa nổi cả một người. Tôi cảm thấy buồn bã khi nhìn con rồng khủng khiếp ấy há to miệng, suốt đời há to miệng sẵn sàng nuốt vào cái bụng không đáy của nó tất cả các bài báo bị gạt bỏ, tất cả hi vọng của người khác.
- Hôm nay là ngày mấy nhỉ? - “Huân tước” bỗng hỏi tôi, vẫn không ngước đầu khỏi bàn.
- Hai mươi tám, - tôi đáp, thầm lấy làm mừng vì đã có thể giúp được ông điều gì đó.
- Hai mươi tám! - Ông lại viết tiếp. Cuối cùng, ông dán mấy phong thư, vứt vào sọt rác một số giấy tờ nào đó và đặt bút xuống. Chỉ sau đó ông mới quay ghế nhìn tôi. Thấy tôi vẫn đứng bên cửa, với vẻ nửa nghiêm túc, nửa đùa cợt, ông đưa tay chỉ vào một chiếc ghế, mời tôi ngồi.
Để ông khỏi thấy tôi không có áo gilê, tôi quay người, hé áo ngoài và rút tập bản thảo từ ngực ra.
- Đây là bài báo không lớn lắm về Correggio (1), - tôi nói. - Nhưng rất tiếc nó được viết hơi khác thường...
“Huân tước” lấy từ tay tôi tập giấy rồi bắt đầu đọc. Ông quay mặt về phía tôi. Từ ngày còn trẻ, tôi đã được nghe tên tuổi con người này, và trong suốt nhiều năm qua, tờ báo của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với tôi. Còn bây giờ, trước tôi là con người bằng xương bằng thịt của ông. Tóc ông xoăn, đôi mắt xám có vẻ gì đấy như không chịu yên. Ông có thói quen chốc chốc lại khẽ khịt mũi. Bề ngoài ông giống một mục sư, có chiếc bút rất sắc có thể dùng để đánh người ta đến chảy máu. Nhìn ông, tôi cảm thấy ngạc nhiên và sợ hãi; và suýt khóc, tôi tiến thêm một bước lại gần ông, muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với tất cả những gì tôi học được ở ông. Tôi muốn ông chiếu cố, vì tôi chỉ là một người nghèo đáng thương rất cần được giúp đỡ...
Ông nhìn tôi, rồi với vẻ lưỡng lự, đặt bài báo của tôi xuống bàn.
Để ông từ chối mà không cảm thấy bất tiện, tôi chìa tay về phía trước, nói:
- Chắc bài này không phù hợp với báo ông?
Rồi tôi mỉm cười, làm ra vẻ tôi xem việc này chẳng có gì quan trọng.
- Chúng tôi chỉ có thể đăng các bài có tính chất đại chúng, - ông đáp, - ông biết độc giả của chúng tôi rồi đấy. Ông có thể viết đơn giản hơn một chút được không? Hay viết về đề tài khác, dễ hiểu hơn chẳng hạn?
Sự thận trọng của ông làm tôi ngạc nhiên. Tôi hiểu bài báo của tôi đã bị từ chối, nhưng đây là một sự từ chối hết sức lịch sự. Để không quấy rầy ông thêm, tôi vội nói:
- Vâng, tất nhiên, tôi có thể viết như thế.
Tôi đi về phía cửa khẽ ho và xin lỗi rằng đã làm phiền ông... Khi tôi cúi chào từ biệt, tay đã cầm quả đấm cánh cửa, ông nói:
- Nếu ông muốn, tôi có thể trả trước cho ông một ít, sau này có bài in sẽ trừ.
Tôi thấy đề nghị của ông ít nhiều có tính chất xúc phạm, nên vội đáp:
- Không, cảm ơn ông, hiện tôi vẫn có thể sống tàm tạm. Tôi rất biết ơn ông. Tạm biệt.
- Chào ông! - “Huân tước” đáp rồi quay ngang sang bàn làm việc của mình.
Suy cho cùng, tôi không đáng được cư xử một cách nhã nhặn như thế; tôi rất biết ơn ông điều đó. Tôi sẽ không tới gặp ông cho đến khi viết xong một bài báo mà chính tôi cũng rất hài lòng. Lúc ấy “Huân tước” sẽ ngạc nhiên và trả cho tôi mười curon. Tôi về nhà và lại bắt tay vào viết.
Những ngày tiếp theo, vào khoảng tám giờ, khi đèn hơi ngoài phố được thắp sáng, tôi thường ra khỏi nhà đi dạo quanh các phố để nghỉ ngơi chút ít sau một ngày làm việc căng thẳng. Tôi nhận thấy một điều lạ là cạnh cốt đèn gần cổng vào sân nhà tôi nhất bao giờ cũng có một người đàn bà mặc áo quần màu đen đang đứng, và khi tôi đi ngang người ấy thường nhìn theo tôi rất lâu. Tôi chú ý thấy cô ta hôm nào cũng mặc bộ quần áo ấy, vẫn chiếc khăn che mặt dày dài tới ngực ấy, và tay luôn cầm một chiếc ô nhỏ đầu cán có một vòng bằng ngà voi.
Đêm này là đêm thứ ba tôi nhìn thấy cô gái ấy, vẫn ở chỗ cũ. Tôi vừa đi ngang, cô thong thả quay người và đi theo hướng ngược lại.
Trong đầu tôi liền nảy ra đủ các điều tưởng tượng. Tôi có ý nghĩ ngu ngốc rằng cô ta đến đây là vì tôi. Tôi muốn bắt chuyện với cô, hỏi cô định tìm ai chăng, cô có cần tôi giúp đỡ gì không, tôi có thể tiễn cô về nhà được không, dù rất tiếc, tôi ăn mặc hơi xoàng xĩnh. Biết đâu đi một mình giữa phố tối, cô chẳng cần người bảo vệ? Nhưng liền lúc ấy tôi bỗng băn khoăn, lo sợ rằng điều đó có thể kéo theo những chi phí tốn kém, như mời cô uống rượu, mời đi xe ngựa, vân vân, mà tiền thì tôi chẳng có đồng nào. Túi tôi trống rỗng, điều này đè nén tôi, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào cô khi đi ngang. Cơn đói lại bắt đầu hành hạ tôi; từ hôm qua tới nay tôi chưa được ăn gì. Tất nhiên như thế là ít, vì trước đó tôi từng nhịn hàng mấy ngày liền. Nhưng bây giờ sức khỏe tôi đang suy sút một cách đáng nghi ngờ, và tôi không còn có thể chịu đói lâu như trước. Mới chỉ một ngày, một ngày không ăn thôi, tôi đã khổ lắm rồi, và hễ uống nước vào là buồn nôn không sao chịu nổi. Thêm vào đó ban đêm tôi rất lạnh. Tôi mặc cả quần áo khi ngủ, thế mà vẫn lạnh cóng, cả khi ngủ thiếp vẫn thấy lạnh. Chiếc chăn cũ không còn đủ che cho tôi khỏi những cơn gió lùa, và cứ mỗi sáng dậy, gặp gió lạnh thổi từ sân vào, mũi tôi lại chảy nước ròng ròng.
Tôi vừa đi giữa phố vừa sợ có thể tôi sẽ gục trước khi kịp viết xong bài báo đang viết dở dang. Nếu có nến, tôi sẽ làm việc cả ban đêm, thêm hai giờ nữa, nếu đủ sức, và sáng mai tôi đã có thể tới gặp “Huân tước”.
Không suy nghĩ dài dòng thêm nữa, tôi bước vào quán cà phê tìm gặp một người quen để hỏi vay mười ere mua nến. Tôi được phép đi khắp các phòng, các bàn, nơi đang có người ăn uống và nói chuyện vui vẻ. Tôi đi tận cuối cửa hàng, tới “phòng đỏ”, nhưng không thấy người tôi muốn gặp. Bực mình và buồn bã, tôi ra phố, đi về phía lâu đài.
Quỷ quái thật, không lẽ những điều bất hạnh của tôi không bao giờ kết thúc? Tôi bước những bước dài, giận dữ, dựng ngược cổ áo khoác, bóp chặt nắm đấm trong túi quần và vừa đi vừa nguyền rủa số phận hẩm hiu của mình. Suốt tám tháng qua, tôi chưa có được một phút nào hạnh phúc thực sự, tuần nào tôi cũng nhịn đói, ốm đau và mất dần sức lực. Tuy thế, nghèo nhưng tôi vẫn là người tử tế, bao giờ cũng tử tế, tử tế trong mọi chuyện, ha ha! Ôi lạy Chúa, tôi mới đáng buồn cười làm sao! Rồi tôi lẩm bẩm nhắc lại chuyện tôi bị lương tâm giày vò thế nào khi lần nọ tôi đem chiếc chăn của Hanx Pauli tới hiệu cầm đồ. Tôi đã cười giễu một cách khinh bỉ cái lương tâm bệnh hoạn của tôi, tôi ghê tởm nhổ xuống đất, không ngớt tìm đủ từ xấu xa để mắng mỏ sự ngu ngốc của mình. Nhưng bây giờ thì khác rồi! Nếu đúng lúc này nhìn thấy chiếc ví nhỏ của một cô bé học sinh nào đó đánh rơi giữa phố, hay đồng xu của một bà quả phụ, chắc chắn tôi sẽ cúi xuống nhặt lên, vội vàng cho vào túi. Tôi sẽ làm điều đó không chút cắn dứt lương tâm, và suốt đêm sẽ ngủ một cách ngon lành. Không phải vô ích khi tôi chịu chừng ấy đau khổ, bây giờ lòng kiên trì đã cạn và tôi sẵn sàng làm tất cả.
Tôi đi mấy vòng quanh lâu đài rồi quyết định trở về nhà. Sau khi nấn ná một chốc trong công viên, cuối cùng tôi bước đi theo phố Carlơ Juhan.
Lúc này đã gần mười một giờ. Xung quanh là bóng tối nhờ nhờ, đâu cũng thấy người đi dạo, từng đôi hoặc từng tốp lớn ồn ào. Giờ phút vĩ đại, giờ phút của tình yêu đã đến, khi các tâm hồn hoà nhập với nhau, còn cuộc đời thì lâng lâng như trong câu chuyện cổ tích. Tiếng váy đàn bà kêu xột xoạt, tiếng cười ngây ngất, những bộ ngực nhô cao, những hơi thở nóng hổi, vồ vập. Phía xa, gần Grand, có ai đó khẽ gọi: “Emma!”. Cả phố như một đầm lầy đang bốc hơi nóng hầm hập.
Vô tình tôi cho tay vào túi xem có tìm được trong đó vài curon không. Sự đam mê đang ngự trị xung quanh, thậm chí cả ánh đèn mờ đục và đêm yên tĩnh mơ mộng cũng bắt đầu tác động lên tôi. Khắp nơi đầy những tiếng thầm thì yêu đương, những vòng tay ôm nhau, những lời tỏ tình say đắm, những câu nói giữa chừng, những tiếng kêu nho nhỏ. Một vài con mèo giở trò với nhau, gào rất to trong ngõ phố Blumquizt. Thế mà tôi không có nổi hai curon trong túi! Thật nhục nhã, thật bất hạnh, rằng tôi đã trở nên nghèo đến thế! Rồi tôi lại nghĩ tới đồng xu cuối cùng của người đàn bà góa tội nghiệp mà tôi sẵn sàng ăn cắp, và chiếc mũ hay chiếc khăn lau mũi mà tôi không ngần ngại mang đến hiệu cầm đồ để đổi lấy mấy ere. Để tự an ủi và ban thưởng cho mình, tôi bắt đầu tìm những khuyết tật có thể có ở những con người hạnh phúc kia. Tôi giận dữ nhún vai, khinh bỉ nhìn theo những cặp trai gái đang lần lượt đi qua tôi. Đó là những cậu sinh viên bụ sữa và hợm mình, cứ tưởng như chúng là những công tử châu Âu thực sự khi chúng chạm được cái tay vào vú một cô gái lẳng lơ nào đó. Cái bọn người trẻ tuổi ấy, bọn chủ nhà băng, thương gia hay bọn đĩ đực mạt hạng ấy không chừa cả vợ con của đám thủy thủ, cả những con búp bê béo quay từ các khu chợ bán lợn, những mụ mà chỉ cần một cốc bia là ai cũng có thể dẫn vào ngõ tối. Thật là những nàng tiên tuyệt trần! Giường ngủ của chúng chắc còn chưa sạch hơi một thằng cha làm nghề chữa cháy hay một gã trông ngựa nào đó vừa tới “thăm” chúng... Ngai vàng của chúng luôn để trống, ai cũng có thể lại gần, bất kì ai, xin mời!... Tôi phùng má nhổ nước bọt, không thèm nghĩ tới việc có thể té vào người khác. Tôi vô cùng khó chịu, vô cùng khinh bỉ những con người đang quyện vào nhau trước mắt tôi kia. Tôi ngẩng cao đầu, lấy làm hạnh phúc vì còn chưa để mình vấy bẩn.
Cạnh một gốc cây, thấy một cô gái nhìn tôi chăm chăm, tôi bước lại gần.
- Chào cô. - Tôi nói.
- Chào anh!
Cô ả đứng lại.
- Hừm... Cô làm gì ở đây muộn thế? Lẽ nào một cô gái trẻ như cô đi dạo một mình giữa phố vào giờ này không nguy hiểm? Không à? Vâng, nhưng chẳng nhẽ từ trước tới nay chưa có ai tìm cách bắt chuyện với cô, xúc phạm cô hay rủ cô về nhà.
Cô ả ngạc nhiên, cố nhìn mặt tôi để đoán tôi muốn gì. Rồi bỗng nhiên ả nắm tay tôi, nói:
- Nào, thì ta đi!
Tôi đi theo. Khi đi xa những tay đánh xe ngựa, tôi đứng lại, rút tay ra và nói:
- Này cô em thân mến ơi, anh chẳng có đồng xu nào cả, có lẽ để anh đi đường anh thì hơn.
Lúc đầu ả không muốn tin tôi, nhưng sau khi nắn hết các túi của tôi mà không thấy gì, ả liền hất đầu, bĩu môi gọi tôi là “chàng rách”.
- Chào cô em! - Tôi nói.
- Gượm đã! - ả gọi theo. - Thế gọng kính của anh mạ vàng đấy chứ?
- Không.
- Thế thì mời ông anh đi đi!
Tôi đi.
Nhưng ả vội chạy theo, nói to:
- Thôi được, không có gì cũng đi!
Lời đề nghị này của một cô gái làm tiền khiến tôi cảm thấy bị sỉ nhục, và tôi từ chối. Vả lại, đêm đã khuya, tôi còn phải đến nơi khác. Cô ả cũng chẳng là người đáng để tôi phải hạ mình như thế.
- Nhưng em muốn đi với anh!
- Còn tôi thì không thể đi với cô trong hoàn cảnh thế này được.
- Chắc anh muốn đi với cô khác chứ gì?
- Không, - tôi đáp.
Vâng, tôi chẳng có tí thích thú nào đối với việc này. Với tôi, các cô nàng này cũng gần như là đàn ông vậy. Sự nghèo đói đã làm tôi kiệt sức. Nhưng tôi vẫn hiểu rằng tôi là một thằng thảm hại dưới con mắt của ả kia. Tôi quyết định phải giữ thể diện.
- Tên cô là gì? - Tôi hỏi. - Mary à? Thế này nhé, Many, cô hãy nghe tôi nói đây! - Rồi tôi bắt đầu trình bày hoàn cảnh của mình. Ả mỗi lúc một ngạc nhiên hơn.
Không lẽ ả nghĩ tôi là một trong những người đêm đêm lùng gái khắp các phố? Không lẽ tôi đã nói với ả điều gì bất nhã? Một người có ý định xấu trong đầu lẽ nào lại cư xử như tôi? Tóm lại, tôi đứng nói chuyện với ả rồi tiễn ả đi một quãng, cốt để xem sau đó ả sẽ làm gì. Tôi bảo ả rằng tôi là một mục sư, tên thế này, thế này... - Chúc cô ngủ ngon! Cô đi đi, và đừng phạm tội thêm nữa!

15.


Cả tôi cũng bỏ đi.
Tôi thích thú xoa xoa hai tay, thầm cảm phục mình đã nghĩ được một lối thoát tuyệt vời như thế. Vừa đi, tôi vừa nói to thành tiếng với chính mình. Thật hạnh phúc khi được đi giữa phố để làm những điều thiện! Rất có thể tôi đã cứu được cô gái tội lỗi kia trở lại con đường đứng đắn. Sau này nhớ lại, cô ta sẽ hiểu hết lòng cao thượng của tôi, và sẽ luôn nhớ tới tôi với lòng biết ơn chân thành, thậm chí cả trong giờ hấp hối. Đúng, dù sao cũng phải cố giữ để thành người tử tế! Đáng lắm!
Tôi đang ở trong trạng thái vui vẻ, tôi thấy tôi là người khỏe mạnh, dũng cảm và sẵn sàng làm tất cả. Có điều, giá có ngọn nến, chắc tôi sẽ viết xong bài báo. Tôi vừa đi, vừa tung tẩy chiếc chìa khoá mở cổng mới làm. Tôi huýt sáo, khe khẽ hát và nghĩ cách làm sao có được một cây nến. Nhưng cuối cùng tôi chỉ nghĩ được một cách là ngồi viết dưới cột đèn thắp hơi ngoài phố. Tôi mở cổng sân nhà tôi rồi vào phòng lấy giấy.
Quay lại đường phố, tôi lặng lẽ khóa cổng và ngồi xuống cột đèn. Xung quanh thật yên tĩnh, tôi chỉ nghe tiếng chân nặng nề, thong thả của người cảnh sát đang đi ở phố hẹp bên cạnh, và tiếng chó sủa đâu đó từ đồi Thánh Henry vọng lại. Chẳng có gì quấy rầy tôi. Tôi bẻ ngược cổ áo, bắt đầu tập trung suy nghĩ. Tôi sẽ vô cùng hạnh phúc nếu đêm nay viết xong bài báo nhỏ này. Tôi đang dừng lại ở đoạn khó nhất, cần khôn khéo chuyển sang đoạn mới rồi dần dần tiến đến đoạn kết một cách nhẹ nhàng, thong thả, cảm động, nhưng câu cuối phải thật đột ngột, mạnh mẽ, như phát súng giữa đêm khuya hay như tiếng ào ào của núi tuyết lở. Chấm hết.
Nhưng tôi vẫn không nghĩ thêm được chữ nào. Tôi đọc lại toàn bộ từ đầu, đọc to từng chữ một nhưng vẫn không sao tập trung nổi ý nghĩ để viết tiếp một câu thích hợp. Trong khi ấy, một nhân viên cảnh sát đi tới, đứng chính giữa phố cách tôi một quãng và làm hỏng hết trạng thái làm việc của tôi. Hắn thì liên quan gì tới việc bây giờ tôi đang vắt óc cố nghĩ một câu thật hay cho bài báo sắp gửi “Huân tước”? Tôi ở dưới cột đèn suốt một giờ, người cảnh sát đã bỏ đi, cái lạnh châm vào da thịt tôi, tôi không thể tiếp tục ở đây thêm được nữa. Buồn bã và chán nản vì viết không được, tôi lại mở cổng đi vào phòng mình.
Trong phòng khá lạnh, vất vả lắm tôi mới nhìn thấy cửa sổ trong bóng tối dày đặc. Tôi dò dẫm đi đến giường, cởi giày và bắt đầu xoa mạnh hai chân cho ấm. Sau đó, tôi nằm xuống, vẫn để nguyên cả quần áo như mọi ngày.
Hôm sau, trời vừa hửng, tôi đã dậy, làm việc. Tôi ngồi đến tận trưa và viết được khoảng hai chục dòng. Nhưng vẫn không kết thúc nổi bài báo.
Tôi đứng dậy xỏ giày, và để chống rét, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Cửa sổ phủ đầy sương. Tôi nhìn ra ngoài: tuyết rơi, cả sân và giếng bị che kín bởi tuyết trắng.
Như cái máy, tôi luôn chân đi lại khắp phòng, cào móng tay vào tường, cẩn thận áp trán vào cửa, gõ gõ ngón tay trỏ xuống sàn rồi chăm chú lắng nghe - tôi làm tất cả những điều ấy không vì một mục đích nào cả, làm một cách lặng lẽ, tập trung, như thể tôi vừa đánh mất một cái gì đấy rất quan trọng. Liền sau đó tôi cố tình nói to để chính mình có thể nghe thấy: “Ôi, lạy Chúa, ta điên, ta điên thật rồi!”. Nhưng tôi vẫn tiếp tục làm những việc đã làm trước đó. Một thời gian sau - có lẽ phải đến hai tiếng đồng hồ - tôi làm chủ được bản thân mình, cắn môi và cố lấy lại bình tĩnh. Không thể kéo dài như thế này được! Tôi lục tìm chiếc vỏ bào, đưa miệng nhá và cương quyết cầm lấy bút chì.
Với một sự vất vả kinh khủng, tôi cố viết tiếp được hai câu ngắn, mỗi câu độ chục từ mà tôi cố rặn ra bằng được, cốt để chứng tỏ rằng công việc đang tiến triển. Đầu tôi trống rỗng, sức lực rời bỏ tôi dần. Tôi ngồi yên, không làm nổi một cử động nhỏ, mắt mở to, trân trân vào những chữ mới viết, vào trang giấy đang viết dở, vào những chữ cái nguệch ngoạc, xiêu vẹo đang bò lổm ngổm trên giấy như những con thú bé nhỏ. Tôi nhìn, không đủ sức hiểu một điều gì, không một ý nghĩ trong đầu.
Thời gian cứ trôi. Tôi đã nghe tiếng ồn của đường phố, tiếng bánh xe lăn, tiếng vó ngựa và tiếng Ienx Olai đang nói chuyện với những con ngựa ngoài chuồng. Tôi hoàn toàn kiệt sức, và cử động duy nhất tôi làm được là khẽ mấp máy môi. Ngực mỗi lúc một đau thắt.
Hai mắt tối sầm, mệt quá, tôi lại ngả xuống giường. Để tay đỡ lạnh, tôi vuốt tóc từ trán và hai thái dương ra gáy. Trong khi vuốt, tôi thấy nhiều túm tóc bị nhổ, rơi xuống gối. Điều này không làm tôi lo lắng vì tóc trên đâu còn khá nhiều. Tôi cố giũ khỏi mình cơn ngái ngủ đang phủ kín người tôi như một đám mây mù, nhỏm dậy, vỗ tay xuống đầu gối, ôm ngực ho sặc sụa, và lại ngã xuống giường. Không đỡ hơn chút nào! Tôi bất lực nằm yên với đôi mắt mở to nhìn lên trần nhà. Tôi cảm thấy mình sắp chết. Sau đó tôi đút ngón tay trỏ vào miệng và bắt đầu mút. Có cái gì đấy đang cọ quậy trong đầu tôi - một ý nghĩ ngu ngốc, điên rồ xuất hiện. Có nên cắn không nhỉ? Không suy nghĩ lâu, tôi nhắm mắt và từ từ nghiến răng.
Tôi bỗng chồm dậy. Cuối cùng tôi chợt tỉnh. Một dòng máu từ ngón tay chảy ra, tôi thè lưỡi liếm sạch. Tôi không đau, mà rồi vết thương cũng vào loại vặt vãnh, nhưng nó đã làm tôi tỉnh lại. Tôi lắc đầu đi đến cửa sổ, tìm miếng giẻ băng vết thương. Mắt tôi rưng rưng, và không kìm được, tôi đã lặng lẽ khóc thương mình. Cái ngón tay gầy gò bị cắn ấy bây giờ trông mới thảm hại làm sao. Trời ơi, tôi đã đến nông nỗi này ư?
Trời tối dần. Rất có thể đêm nay tôi viết xong bài báo, nếu có nến. Đầu tôi lại sáng, các ý nghĩ bắt đầu hoạt động như thường ngày, tôi cũng chẳng thấy đau lắm. Thậm chí cái đói không còn cào xé tôi dữ dội như cách đây mấy giờ, tôi có thể chịu đựng được cho đến sáng hôm sau. Nếu vào hiệu nói rõ hoàn cảnh mình, có thể người ta sẽ bán chịu nến cho tôi. Tất nhiên, nếu tôi đem danh dự ra hứa, người ta sẽ đưa nến cho tôi. ở đấy người ta biết tôi khá rõ. Vào thời hoàng kim, khi chưa lâm vào cảnh khốn cùng này, tôi vẫn thường tới đó mua bánh mì. Và rồi, lần đầu tiên trong suốt một thời gian dài, tôi sờ soạng, vuốt sạch quần áo mình trong bóng tối, giũ các túm tóc rụng khỏi cổ áo. Sau đó tôi đi xuống thang gác.
Tới cổng, tôi nghĩ bụng hay hỏi mua chịu bánh mì hơn? Tôi đứng lại suy nghĩ.
- Không, không bao giờ! - Tôi quyết định.
Không, với tình trạng cơ thể như bây giờ, tôi không được phép ăn bất kì cái gì, nếu không, tôi sẽ lại mơ thấy những giấc mơ kinh khủng, sẽ nói nhảm, cảm giác sẽ lẫn lộn; tôi sẽ không viết xong bài báo, trong khi rất cần đến gặp “Huân tước” chừng nào ông ta chưa quên tôi. Không, không bao giờ! Chỉ hỏi mua nến thôi! Với ý nghĩ ấy, tôi bước vào hiệu.
Một người đàn bà nào đó đang đứng mua hàng bên quầy. Tôi nhìn thấy rất nhiều các gói nhỏ đủ màu khác nhau. Người bán hàng biết tôi vẫn thường tới đây mua bánh mì, liền bỏ người đàn bà, lặng lẽ lấy báo gói một chiếc đặt trước mặt tôi, không hề hỏi một câu nào.
- Không, tôi chỉ cần một cây nến để thắp đêm nay, - tôi nói một cách nhỏ nhẹ và lịch sự vì sợ ông tức giận, không bán nến cho tôi.
Hình như những lời tôi vừa nói làm ông ngạc nhiên, - đây là lần đầu tôi hỏi mua không phải bánh mì mà là một thứ khác.
- Thế thì hãy chờ tôi một chút, - ông nói rồi quay lại với người đàn bà. Bà kia nhận hàng, đưa cho người bán năm curon, cầm tiền thừa rồi đi ra.
Chỉ còn lại mình tôi và ông bán hàng.
- Nghĩa là ông cần nến, phải không? - Ông nói.
Rồi ông mở hộp nến, lấy ra một cây. Ông nhìn tôi, tôi cũng nhìn ông, không đủ sức nhắc lại yêu cầu của mình.
- Vâng, tất nhiên, ông đã đưa tiền cho tôi rồi, - ông bỗng nói.
Nói một cách đơn giản rằng tôi đã trả tiền. Tôi nghe rất rõ từng lời. Sau đó ông bắt đầu lấy từ hòm ra từng đồng tiền bằng bạc to nặng, lấp lánh, hết đồng này đến đồng khác, rồi đưa cho tôi - ông trả lại tiền thừa, tiền thừa cho tôi từ năm curon của người đàn bà kia.
- Mời ông! - Ông nói.
Tôi nhìn những đồng tiền và hiểu ngay rằng người bán hàng đã nhầm, nhưng tôi vẫn đứng im, không phản ứng, không động não một chút nào. Bị choáng ngợp trước số tiền khổng lồ ấy, tôi ngớ người ra, và như cái máy, tôi đưa tay cầm lấy.
Tôi đứng bên quầy hàng, ngạc nhiên, đờ đẫn và thảm hại. Sau đó, tôi bước một bước về phía cửa, rồi đứng lại. Tôi nhìn trân trân vào bức tường trước mặt, - ở đấy có chiếc chuông nhỏ treo trên một sợi dây da, còn dưới chuông là mẩu dây thừng. Tôi cứ đứng thế và nhìn nó.
Thấy tôi nấn ná khá lâu, người bán hàng tưởng tôi muốn bắt chuyện, nên vừa xếp lại một tập giấy cứng trên mặt quầy, ông vừa nói:
- Thế là mùa đông sắp tới rồi.
- Hừm... Vâng... - tôi đáp. - Có vẻ như mùa đông sắp tới thật... ừ, mùa đông. - Một chốc sau, tôi nói thêm. - Cũng đúng thôi, đã đến lúc mùa đông phải đến. Vâng, đã đến lúc. Hình như thế...
Tôi lắng nghe những gì tôi đang nói, như thể người nói không phải tôi, mà là người khác.
- Ông nghĩ thế à? - Người bán hàng hỏi.
Cho tiền vào túi, tôi mở cửa bước ra ngoài. Tôi nghe rõ tiếng tôi chúc người bán hàng ngủ ngon và cả tiếng ông cũng chúc tôi như thế.
Tôi đi chưa được hai bước thì cánh cửa mở toang, và người bán hàng ló đầu ra gọi tôi. Tôi ngoái lại, không chút ngạc nhiên, không chút sợ hãi: tôi cầm gọn những đồng tiền trong tay chuẩn bị trả lại cho ông.
- Ông quên chưa lấy nến, - ông nói.
- À, cám ơn ông! - Tôi bình tĩnh đáp. Lần nữa, xin cám ơn ông!
Rồi tôi đi, với cây nến trong tay.
Ý nghĩ tỉnh táo đầu tiên của tôi là về tiền. Tôi đi tới chân cột đèn, đếm lại, nâng nâng những đồng tiền trong tay rồi mỉm cười. Đây là cả một gia tài lớn, đủ để tôi sống lâu, rất lâu! Tôi lại cho tiền vào túi và đi tiếp.
Đến hiệu ăn ở phố Sturgaten, tôi dừng lại, cẩn thận và tỉnh táo cân nhắc xem có nên vào ăn chút gì không? Từ phía trong vọng ra tiếng bát đĩa và tiếng dao nĩa va vào nhau. Sự cám dỗ quá lớn và tôi đã bước vào hiệu.
- Một đĩa bít tết! - Tôi nói.
- Một đĩa bít tết! - Cô hầu bàn đứng bên cửa sổ gọi vào nhà.
Tôi ngồi xuống một chiếc bàn nhỏ cạnh cửa ra vào, bắt đầu đợi. Cái góc tôi đang ngồi mờ mờ tối, ở đây tôi thấy yên tâm hơn và thả sức suy nghĩ tản mạn. Chốc chốc cô hầu bàn lại nhìn tôi với vẻ tò mò.
Vâng, thế là tôi đã làm cái hành động tội lỗi đầu tiên ấy, so với nó, những việc khác trước đó chỉ là điều vặt vãnh. Đây là sự sa ngã đầu tiên, nhỏ bé thôi, nhưng cũng vô cùng to lớn... Vâng, quả thế, nhưng bây giờ thì không thể làm gì được nữa. Tất nhiên, tất cả phụ thuộc vào tôi, vì sau này có thể tôi sẽ hoàn lại tiền cho ông chủ hiệu. Nhưng như thế không có nghĩa tôi phải đi tiếp theo con đường ấy. Vả lại, tôi không bị bắt buộc phải sống trung thực hơn người khác, tôi chưa bao giờ có một lời thề như vậy...
- Sao, bít tết của tôi sắp được chưa?
- Vâng, có ngay bây giờ ạ!
Cô hầu bàn mở cửa nhìn vào bếp.
Nhưng nếu chuyện này bị phát giác thì sao? Nếu người bán hàng nghi ngờ, nếu ông ta nhớ lại chuyện tôi mua bánh mì, chuyện năm curon và số tiền thừa mà bà khách kia nhận lại? Chắc chắn ông ta sẽ nhớ ra ngay, khi lần đầu tôi lại đặt chân vào cửa hiệu. Lạy Chúa, lúc ấy rồi sẽ thế nào?... Tôi khẽ rụt vai lại.
- Mời ông, - cô hầu bàn lịch sự nói rồi đặt đĩa bít tết xuống. - Ông sang phòng bên có tốt hơn không? Ở đây tối quá.
- Không, cảm ơn, tôi ngồi ở đây cũng được, - tôi đáp.
Thái độ lịch sự của cô hầu bàn làm tôi cảm động. Tôi lập tức thanh toán tiền bít tết, cứ cho tay vào túi, lấy được bao nhiêu đưa bấy nhiêu. Tôi bắt tay cô ta. Cô ta mỉm cười, còn tôi thì hai mắt rưng rưng, vừa cười vừa nói:
- Cô hãy dùng số tiền puốcboa này mua cho mình một điền trang nho nhỏ... ồ không, không cần cảm ơn!
Tôi bắt đầu ăn món bít tết, càng ăn càng thấy ngon miệng. Tôi nuốt từng miếng to, không kịp nhai, và dùng răng xé thịt như một người hoang dã.
Cô hầu bàn lại đến.
- Ông có muốn uống chút gì không ạ? - Cô ta hỏi, cúi thấp xuống người tôi.
Tôi ngước nhìn cô ta: cô ta nói rất khẽ, hầu như với vẻ bẽn lẽn, dưới cái nhìn của tôi, cô ta cúi đầu xuống.
- Nửa chai bia hay một cái gì đó... của tôi chẳng hạn... ngoài ra... nếu ông muốn...
- Không, cám ơn! - Tôi đáp. - Để dịp khác. Tôi còn tới đây nữa.
Cô hầu bàn bỏ đi, đến ngồi sau quầy. Bây giờ tôi chỉ nhìn thấy đầu cô ta. Một cô gái lạ lùng!
Ăn xong, tôi liền đi ra cửa. Tôi cảm thấy buồn nôn. Cô hầu bàn đứng dậy. Tôi sợ ra ánh sáng, sợ lại gần cô gái trẻ ấy, cô gái không biết chút gì về sự nghèo đói của tôi. Vì vậy, tôi vội vàng chào cô ta rồi đi ra.

16.


Thức ăn bắt đầu có phản ứng. Tôi buồn nôn không chịu nổi. Hễ gặp góc tối nào là tôi vội vào, nôn thốc nôn tháo, và dạ dày lần nữa lại trống rỗng. Tôi bóp chặt nắm đấm, dẫm mạnh chân xuống đất cố chống lại và giận giữ cố nuốt lại vào bụng những gì sắp trào ra, nhưng mọi cố gắng của tôi đều vô ích...
Vô cùng tuyệt vọng, tôi đi giữa phố, vừa đi vừa nguyền rủa những kẻ độc ác - dù chúng là ai chăng nữa - đã nhẫn tâm hành hạ tôi như vậy. Tôi cầu cho chúng phải xuống địa ngục, phải suốt đời chịu đau khổ vì sự độc ác của chúng. Vâng, những kẻ ấy không hào hiệp một chút nào, đó là điều chắc chắn!... Tôi lại gần một người nào đó đang đứng nhìn vào tủ kính, yêu cầu cho tôi biết ngay rằng theo ông ta, cần phải cho một người đã nhịn đói lâu ngày ăn gì để không bị nôn.
- Đây là vấn đề rất, rất quan trọng, - tôi nói. - như bít tết thì dứt khoát không được rồi!
- Tôi nghe nói nên cho uống sữa nóng, người kia đáp, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. - Ông nói về ai thế?
- Cám ơn! Cám ơn! - Tôi đáp. - Có thể ông nói đúng. Uống sữa đun nóng là tốt nhất.
Rồi tôi bỏ đi.
Rẽ vào một quán cà phê gần nhất, tôi yêu cầu cho tôi sữa nóng. Người ta mang sữa nóng tới, tôi uống ừng ực từng ngụm lớn rồi trả tiền, đi về nhà.
Và lúc ấy đã xảy ra một chuyện hết sức lạ lùng. Tôi nhận thấy ngay sát cổng nhà tôi, dưới ánh sáng lờ mờ một người nào đó đang đứng tựa vào cột đèn - lại người đàn bà trẻ mặc quần áo đen! Không thể nhầm được. Đây là lần thứ tư nàng tới đây. Nàng đang đứng yên bất động.
Điều này làm tôi ngạc nhiên, đến mức vô tình bước chậm lại. Đầu óc tỉnh táo, nhưng tôi đang rất hồi hộp, các dây thần bị kinh kích thích mạnh. Như mọi lần, tôi đi ngang đến tận cổng và đang định đi vào nhà thì chợt đứng lại. Tôi bỗng cảm thấy táo bạo hẳn lên, rồi như cái máy, tôi bước lại gần, nhìn thẳng vào mặt nàng và cúi chào, nói:
- Chào cô!
- Chào anh, - nàng đáp.
- Xin lỗi, hình như cô đang chờ ai đó. Tôi biết cô từ lâu. Tôi có thể giúp được gì cô chăng? Nếu không, tôi xin lỗi.
- Vâng, quả tình tôi cũng chẳng biết.
- Trong sân này chẳng có ai ngoài tôi và mấy con ngựa. Đây là xưởng làm việc của một người gò thùng. Nếu cô định tìm ai ở đây thì e cô đã nhầm.
Nàng quay người lại và đáp:
- Tôi không tìm ai cả. Chỉ đứng đây thế thôi.
Hoá ra nàng chỉ đứng chơi thế thôi, mà không phải một lần. Lạ đấy! Càng nghĩ, tôi càng thấy lạ. Cuối cùng tôi quyết định phải mạnh dạn hơn nữa. Tôi cho tay vào túi sờ tiền, rồi không nghĩ lâu, tôi đề nghị cùng nàng đi đâu đấy uống cốc rượu chẳng hạn... Mùa đông rồi mà, trời lạnh lắm... Chỉ một chốc thôi, tất nhiên nếu nàng đồng ý.
Ồ không, cảm ơn, không thể được. Không được! Nhưng nếu tôi vui lòng tiễn nàng một quãng thì lại là chuyện khác... Trời tối, vào cái giờ muộn mằn này đi một mình giữa phố Carlơ Juhan e không tiện.
- Rất vui lòng.
Rồi chúng tôi cùng đi. Nàng bên phải, tôi bên trái. Một cảm giác dễ chịu, khác lạ xâm chiếm lòng tôi, cảm giác có người đàn bà trẻ bên cạnh. Tôi nhìn nàng không chớp mắt. Mùi nước hoa thoang thoảng từ mái tóc, mùi ấm áp dễ chịu của cơ thể phụ nữ, hơi thở nhẹ thoáng qua khi nàng quay mặt về phía tôi - tất cả những cái ấy thấm vào tôi đến tận đáy sâu của tâm hồn. Tôi chỉ thấy mờ mờ dưới màng che một khuôn mặt trắng, đầy đặn và tuyệt đẹp, còn dưới áo khoác là bộ ngực nhô cao. Sự cám dỗ kì diệu đang được che đậy ấy làm tôi bối rối, đồng thời tôi cảm thấy hạnh phúc, hạnh phúc một cách khó tả. Không kìm được nữa, tôi khẽ chạm tay nàng, rồi ngực, và mỉm cười một cách ngốc nghếch. Tôi nghe rõ tiếng tim tôi đập mạnh.
- Cô là người lạ lùng, - tôi nói.
- Vì sao?
- Vì trước hết cô có thói quen tối tối đứng yên bất động cạnh chuồng ngựa, chỉ đơn giản vì cô thích thế chứ không có một lí do nào đặc biệt...
- Nhưng cũng có thể tôi có lí do để làm thế! Và lại, đêm khuya đi dạo thật thích. Bao giờ tôi cũng thích đi dạo vào ban đêm. Không lẽ anh ngủ trước mười hai giờ?
- Tôi ấy à? Trên đời này tôi không ghét gì bằng phải ngủ trước cái giờ ấy. Ha, ha!
- Đấy, anh thấy chưa? Còn hôm nay tôi đi dạo thế này vì một lí do đơn giản là tôi chẳng có việc gì khác để làm. Tôi sống ở quảng trường Thánh Ulaf...
- Ilaialy! - Tôi khẽ thốt lên.
- Anh bảo gì cơ?
- Tôi chỉ nói: Ilaialy!... Cô kể tiếp đi!
- Tôi sống ở quảng trường Thánh Ulaf cùng mẹ tôi, nhưng bà bị điếc, nên mẹ con chẳng bao giờ nói chuyện với nhau. Không lẽ tôi thích đi dạo là điều lạ lùng?
- Hoàn toàn không, - tôi vội đáp.
- Nếu vậy vì sao?
Nghe giọng nói, tôi biết nàng đang mỉm cười.
- Chắc cô có chị em gái?
- Có, tôi có chị gái, nhưng sao anh đoán được điều ấy? Chị tôi đi Hămbuốc rồi.
- Lâu chưa?
- Cách đây năm tuần. Sao anh biết tôi có chị gái?
- Tôi chẳng biết gì cả, chỉ hỏi chừng thế thôi.
Chúng tôi cùng im lặng. Một người nào đó đi ngang, cặp đôi giày dưới nách, còn thì phố hoàn toàn vắng người. ở Tivôli, phía xa xa có một dãy đèn nhiều màu. Tuyết đã ngừng rơi, trời sáng.
- Ôi, lạy Chúa, không mặc bành tô, anh không lạnh ạ? - Nàng bỗng nhìn tôi, hỏi to.
Nói thật với nàng rằng tôi không có áo bành tô? Ngay từ đầu cho nàng biết mọi chuyện hay để sau này? Nhưng bây giờ tôi rất thích được đi bên nàng và không muốn nàng biết gì về mình. Vì vậy tôi nói dối:
- Không, không lạnh một chút nào! - Và để chuyển sang đề tài khác, tôi hỏi: - Thế cô đã bao giờ tới vườn thú Tivôli chưa?
- Chưa, - nàng đáp. - Hay lắm à?
Nếu nàng đồng ý tới đấy thì hay quá! ở đấy vừa sáng, lại vừa đông người. Nhưng không, chắc nàng sẽ phải xấu hổ vì bộ quần áo nhàu nát, và cái mặt mệt mỏi của tôi đã hai ngày nay chưa rửa. Thêm vào đó, nàng có thể phát hiện thấy tôi không có áo gilê. Nghĩ thế, tôi bèn đáp.
- Ồ không, ở đấy hoàn toàn chẳng có gì đáng xem. - Thật may là tôi cũng còn lại chút ít khả năng hùng biện.
- Có gì đáng xem trong cái vườn thú bé nhỏ ấy? Mà nói chung tôi không thích xem thú khi chúng bị nhốt trong chuồng. Những con thú tội nghiệp ấy biết hàng trăm con mắt tò mò đang nhìn chúng nên chúng sợ, mất tự nhiên. Không, tôi thích xem những con thú trong trạng thái bình thường của chúng, khi chúng ở trong hang, không bị ai quan sát, giương đôi mắt xanh uể oải nhìn quanh. Chúng liếm chân và suy nghĩ. ý kiến cô thế nào?
- Vâng, tất nhiên anh nói đúng.
- Chỉ những con thú hoang dã, hung tợn mới đáng chú ý. Khi chúng lặng lẽ mò đi trong bóng đêm, vượt qua rừng rậm huyền bí, nơi có tiếng chim hót, tiếng gió thổi, tiếng rú rợn người, tiếng ầm ầm dữ dội, nơi có mùi tanh của máu... Tóm lại, khi con thú cảm thấy hơi thở của thiên nhiên hoang dã...
Tôi không nói tiếp vì sợ làm nàng chán. Tôi lại thấy tôi chỉ là một thằng nghèo đáng thương, và cảm giác này làm tôi rất buồn. Nếu có được một bộ quần áo tử tế, tôi sẽ mời nàng đi Tivôli ngay! Kể cũng lạ, sao người đàn bà trẻ đẹp này lại có thể đồng ý đi dạo giữa phố Carlơ Juhan cùng một gã ăn mày rách rưới như tôi? Nàng đang nghĩ gì? Tôi đi theo nàng xa thế này để làm gì? Tôi không thấy mệt sao? Lẽ nào tôi không lạnh thấu xương mỗi lần có gió mạnh quất vào mặt? Lẽ nào không phải trong đầu tôi chẳng còn một chút đam mê nào nữa, chỉ vì suốt nhiều tháng nay tôi không được ăn no? Chính vì nàng mà tôi không được về nhà để uống sữa nóng, cái có lẽ phù hợp với dạ dày tôi lúc này. Tại sao nàng không quay lưng lại với tôi, không đuổi tôi đi?
Tôi đang ở tình thế tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng ấy đẩy tôi đến cực đoan. Tôi nói:
- Đáng lẽ ta không nên đi với nhau mới đúng. Chỉ riêng bộ quần áo tôi đang mặc cũng đủ làm cô xấu hổ trước mọi người. Đúng thế đấy, tôi không đùa đâu.
Nàng ngạc nhiên nhìn tôi, rồi im lặng một chốc, nàng nói:
- Lạy Chúa!
Nàng không nói gì nữa.
- Tôi không hiểu ý cô thế nào? - Tôi hỏi.
- Ồ không, - nàng rảo bước đi nhanh.
Chúng tôi rẽ sang phố Đại học, từ đấy đã có thể nhìn thấy các ngọn đèn trên quảng trường Thánh Ulaf. Nàng bắt đầu bước chậm hơn.
- Xin lỗi vì tôi hỏi quá sỗ sàng: trước khi chia tay, tôi có thể biết tên cô là gì không? Và nếu được, xin cô bỏ mạng che, cho tôi nhìn mặt một chút. Tôi sẽ rất biết ơn cô.
Im lặng. Tôi kiên nhẫn chờ.
- Anh nhìn thấy tôi rồi cơ mà! - Nàng nói.
- Ilaialy! - Tôi kêu lên.
- Anh đã đi theo tôi trong suốt nửa ngày, cho đến khi tôi về tận nhà. Lúc ấy anh say rượu,
đúng không?
Qua giọng nói, lại lần nữa tôi biết nàng đang cười.
- Vâng, - tôi đáp. - Vâng, rất tiếc là lúc ấy tôi say.
- Ôi, say rượu thật đáng sợ và đáng kinh tởm.

17.


Tôi buồn bã thú nhận rằng điều ấy quả đúng đáng kinh tởm.
Chúng tôi tới gần đài phun nước đứng lại nhìn những ô cửa sổ còn sáng ở ngôi nhà số hai.
- Anh không đi tiếp được nữa đâu, - nàng nói. - Cảm ơn anh đã tiễn tôi.
Tôi cúi đầu, không dám nói lời nào. Tôi cởi mũ và cứ đầu trần đứng thế. Nàng có chìa tay cho tôi bắt không?
- Sao anh không hỏi tôi có thích đi dạo với anh một chốc nữa không? - Nàng nói, vẻ đùa cợt, mắt nhìn xuống đôi tất của mình.
- Ôi, lạy Chúa, - tôi kêu lên. - Nếu cô đồng ý thì còn gì bằng.
- Được, nhưng chỉ một chốc thôi nhé!
Rồi chúng tôi cùng đi ngược lại.
Tôi không biết phải làm gì, nên đi tiếp hay đứng lại. Người đàn bà này đã làm đầu tôi rối tung. Tôi đang ở trạng thái ngất ngây, say đắm, tưởng có thể chết ngất vì hạnh phúc. Tôi liếc nhìn nàng và cảm thấy mạnh dạn hơn nhiều. Bằng từng lời nói, nàng đang cuốn hút tôi.
Trong chốc lát tôi quên về sự nghèo khó, sự bần tiện và tất cả hoàn cảnh thảm hại của mình. Tôi thấy máu chảy mạnh trong cơ thể như những ngày sung túc trước kia, khi còn tràn đầy sức lực.
- Nghĩa là hôm ấy tôi đi theo cô chứ không phải chị cô? - Tôi hỏi.
- Chị tôi? - Nàng ngạc nhiên hỏi lại.
Nàng đứng nhìn tôi, chờ trả lời. Đấy không phải là một câu hỏi vô ích.
- Vâng, - tôi đáp. Hừm! Tôi muốn nói tới người trẻ hơn trong hai người đàn bà đi trước tôi lúc ấy.
- Trẻ hơn? Ha, ha! - Nàng bỗng phá lên cười to, cười một cách tự nhiên như đứa trẻ. - Anh ranh ma lắm! Anh nói như thế để bắt tôi nâng khăn che mặt lên chứ gì? Không được đâu, sẽ phải chờ lâu đấy. Anh phải bị trừng phạt.
Cả hai chúng tôi cùng cười đùa luôn miệng. Tôi chẳng biết lúc ấy tôi nói những gì, chả là vì tôi vui quá. Nàng nói một lần nọ, lâu lắm rồi, nàng nhìn thấy tôi trong rạp hát. Tôi đi cùng ba người bạn nữa, và đã cư xử như một người điên. Chắc hôm ấy tôi cũng say.
- Sao cô nghĩ thế?
- Vì anh cười quá to.
- Thế à? Dạo ấy tôi rất hay cười.
- Còn bây giờ?
- Bây giờ cũng thế, nhưng lúc đó cuộc sống của tôi thật đẹp.
Tới phố Carlơ Juhan, nàng nói:
- Thôi kệ!
Chúng tôi quay lại và lần nữa đi theo phố Đại học. Khi tới gần đài phun nước, tôi bước chậm lại, không biết có được tiễn nàng xa hơn không.
- Bây giờ đến lúc anh phải về, - nàng nói rồi đứng lại.
- Vâng, đã đến lúc, - tôi đáp.
Khi cùng nàng đứng cạnh cổng, tôi lại ý thức một cách sâu sắc sự nghèo đói của mình. Làm sao một người không đồng xu dính túi như tôi có thể giữ được tâm hồn sảng khoái? Bẩn thỉu, mệt mỏi, tiều tụy vì đói ăn, rách rưới, tôi đứng trước người đàn bà trẻ đẹp này mà xấu hổ muốn chui xuống đất. Tôi co rúm người lại, vô tình còng lưng xuống, và nói:
- Tôi còn được gặp cô nữa không?
Tôi không chút hi vọng rằng nàng sẽ đồng ý cho gặp nữa. Thậm chí hầu như tôi mong nàng cương quyết từ chối để tôi bắt mình bình tĩnh trở lại và lại thành người lãnh đạm như trước.
- Có, - nàng đáp.
- Bao giờ?
- Tôi không biết.
Im lặng.
- Cô thử nâng khăn che mặt chỉ một giây, một giây thôi, được không? - Tôi nói. - Hãy cho tôi nhìn mặt cô. Một giây thôi. Nhìn mặt cô.
Im lặng.
- Ta có thể gặp nhau ở đây vào tối thứ ba tuần sau?
- Vâng, nếu được.
- Vào tám giờ.
- Vâng.
Tôi đưa tay phủi tuyết trên vai nàng, cốt để được chạm vào người nàng. Sự gần gũi ấy làm tôi sung sướng.
- Nghĩa là anh không nghĩ về tôi quá xấu, - nàng nói, và lại mỉm cười.
- Không...
Bỗng nhiên, bằng một động tác cương quyết, nàng nâng khăn che mặt, và trong giây lát, chúng tôi đứng nhìn nhau.
- Ilaialy! - Tôi nói.
Nàng nhón chân quàng tay ôm cổ tôi rồi hôn tôi vào môi. Hôn một lần, chỉ một lần duy nhất, hôn thật nhanh vào môi tôi. Tôi cảm thấy ngực nàng nhô cao do thở mạnh và hồi hộp.
Nhưng liền lúc ấy nàng buông tôi ra, hổn hển nói:
- Chúc anh ngủ ngon!
Nàng quay người chạy lên theo cầu thang, không nói thêm một lời nào nữa...
Cửa vào nhà nàng đóng sập.
Hôm sau tuyết rơi nhiều hơn, từng bông to và ẩm. Xuống đất, chúng tan thành nước bẩn. Trời ẩm và lạnh.
Tôi tỉnh dậy rất sớm. ý nghĩ trong đầu tôi trở nên hoàn toàn lẫn lộn sau những xúc động đêm qua, nhưng tâm hồn tôi thì đang vô cùng phấn chấn. Như một người đang say, tôi nằm yên hồi lâu với đôi mắt mở to, hình dung Ilaialy đang bên cạnh. Tôi ôm chính bản thân mình và chìa môi hôn không khí. Cuối cùng tôi ngồi dậy, uống bát sữa, chốc sau ăn một đĩa bít tết. Tôi không thấy đói, nhưng thần kinh lại lần nữa bị kích thích cao độ.
Tôi đi tới cửa hàng bán quần áo may sẵn. Tôi bỗng nảy ra ý nghĩ rằng tôi có thể mua với giá rẻ một chiếc gilê cũ, để có cái mặc trong áo khoác. Theo cầu thang, tôi bước lên chợ chọn một chiếc gilê rồi bắt đầu ngắm nghía nó. Một người quen đi ngang gật đầu, lên tiếng gọi tôi. Tôi treo áo đi lại. Đó là một anh thợ cơ khí đang trên đường đi làm.
- Nào, đi uống bia cùng tớ, - anh ta đề nghị. - Có điều phải nhanh nhanh mới được. Tớ vội lắm... à mà hôm qua cậu đi dạo với con bé nào thế?
- Anh không biết à? - Tôi đáp, thậm chí ghen vì anh ta dám nghĩ tới nàng. - Người yêu tôi đấy.
- Trời đất ơi! Khá lắm!
- Vâng, đêm qua chúng tôi đi dạo với nhau.
Anh chàng đớ người, tin tôi ngay.
Tôi nói dối để sớm kết thúc câu chuyện. Uống bia xong, chúng tôi bước ra phố.
- Tạm biệt!... à mà khoan, - anh ta nói. - Trước tớ có vay cậu mấy curon và lấy làm xấu hổ rằng đến giờ vẫn chưa trả được. Nhưng sắp tới mình sẽ trả.
- Cảm ơn, - tôi nói. Tôi không tin có lúc nào đó anh ta sẽ hoàn lại tôi số tiền ấy.
Thật là tiếc là ngay lập tức bia làm tôi chóng mặt, những đợt sóng nóng nào đó đang tràn qua khắp người tôi. Tôi bắt đầu nghĩ về cuộc gặp gỡ đêm qua và bỗng cảm thấy lo lắng. Ngộ nhỡ thứ ba tới nàng không đến thì sao? Biết đâu nàng sẽ nghĩ lại và nghi ngờ! Nhưng nghi ngờ gì mới được chứ?... Ý nghĩ tôi bây giờ lại tập trung quanh những đồng curon. Tôi hoảng sợ, sợ cho chính mình. Tôi nhớ lại mọi chi tiết hành động tội lỗi mà tôi đã phạm trước đó. Tôi hình dung thấy cửa hiệu, quầy hàng và cánh tay gầy gò của tôi đang đút tiền vào túi. Rồi tôi tưởng tượng thấy cảnh sát đến bắt tôi. Hai chân và hai tay tôi phải đeo xích. Không, không thể cả hai, chỉ một tay thôi. Sau đó là phòng giam, người trực ban ghi biên bản, ngòi bút lia trên giấy sột soạt và cái nhìn chết người của ông ta. Thế nào, ông Tangen? Tiếp đến là buồng giam biệt lập, là bóng tối vĩnh cửu...
Hừm! Tôi bóp chặt nắm đấm, cố lấy lại dũng cảm và rảo bước đi nhanh; một chốc sau đã ở Sturtuvét. Tôi ngồi xuống.
Thôi, thôi đi, tôi không phải trẻ con, đừng lòe tôi nữa! Ai có thể chứng minh được điều ấy? Vả lại, nếu muốn, ông bán hàng cũng không dám làm ầm lên vì ông ta còn quý chỗ làm của mình. Hãy làm ơn thôi đi cho, đừng gây ồn ào vô ích!
Nhưng dù sao số tiền này vẫn làm tôi cảm thấy nặng nề và không chịu để tôi yên. Tôi bới lục trong đầu, tìm mọi cớ để thuyết phục mình rằng bây giờ tôi hạnh phúc hơn nhiều so với những ngày đói ăn với lương tâm trong sạch. Còn Ilaialy nữa! Chẳng phải tôi đã kéo nàng xuống bùn lầy bằng đôi tay tội lỗi của tôi đó sao? Ôi, lạy Chúa! Ilaialy!
Bây giờ tôi thấy mình thật đáng kinh tởm. Rồi bỗng nhiên tôi đứng bật dậy đi thẳng đến bà bán bánh rán đang ngồi bên hiệu thuốc. Còn kịp trút bỏ sự nhục nhã khỏi mình và cho mọi người biết mình là ai! Vừa đi, tôi vừa vơ nắm tiền, cầm chặt trong tay, không sót đồng nào. Tôi cúi xuống như thể muốn mua bánh rồi chẳng nghĩ ngợi gì thêm, tôi giúi nắm tiền vào tay bà bán bánh, và bỏ đi ngay, không nói một lời nào.

18.


Sung sướng biết bao khi lại được làm người trung thực! Cái túi trống rỗng cho tôi cảm giác nhẹ nhõm. Vâng, thật hạnh phúc khi biết mình trong sạch. Phải nói rằng những đồng tiền kia đã làm tôi băn khoăn, khổ sở. Mỗi lần nghĩ tới chúng, tôi lại rùng mình. Gì thì gì, xưa nay tâm hồn tôi chưa bị vấy bẩn lần nào, chính hành động thấp hèn ấy đã làm danh dự của tôi hoen ố. Vâng, vâng, đúng thế! Lạy Chúa, thế là tôi đã thanh minh được với chính bản thân mình.
- Xin mọi người hãy noi gương tôi! - Tôi khẽ nói, đưa mắt bao quát cả quảng trường đang chật ních những người là người. - Hãy làm theo tôi! Tôi đã biến một bà lão bán bánh nghèo khổ thành người hạnh phúc! Một việc đáng làm đấy chứ? Đúng lúc bà đang ở trong tình cảnh không lối thoát. Đêm nay bầy con của bà không còn phải ôm bụng đói đi ngủ...
Tôi tự an ủi bằng những ý như vậy, và thấy cách xử sự của mình là không chê vào đâu được. Lạy Chúa, cuối cùng tôi đã thoát khỏi những đồng tiền bẩn thỉu ấy.
Ngất ngây và xúc động, tôi bước đi giữa phố, kiêu hãnh ngẩng cao đầu. Tôi run lên vì sung sướng khi nghĩ rằng tôi sẽ tới gặp nàng với tư cách là người trong sạch, và có thể mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt nàng. Từ nay lương tâm tôi không còn bị cắn rứt, các ý nghĩ thoáng rộng, đầu óc nhẹ nhõm và tràn đầy ánh sáng rực rỡ. Tôi bỗng muốn đùa, muốn nghĩ ra vài trò ngu ngốc nào đó, như lật ngược cả thành phố đầu lộn xuống đất, hoặc gây nên một sự hỗn loạn khủng khiếp chẳng hạn. Như một người điên thực sự, tôi đi qua Grenxơn, hai tai tôi ù ù, niềm vui làm tôi ngây ngất. Và trong cơn vui ngây ngất ấy, tôi túm lấy một thằng bé sai vặt mà tôi gặp dọc đường, rồi báo cho nó biết tôi là ai, bao nhiêu tuổi. Nhưng thằng bé không nói lời nào. Tôi lại cầm chặt tay nó, nhìn thẳng vào mặt nó rồi bỏ đi, không thèm giải thích vì sao tôi làm thế. Tôi lắng nghe giọng nói và tiếng cười của những người đi ngang, nhìn mấy con chim đang nhún nhảy trên hè phố, quan sát những viên đá lát đường và thấy chúng xếp lại với nhau thành những hình rất kì lạ. Cuối cùng, tối tới quảng trường, nơi có tòa nhà nghị viện.
Tôi đứng sững lại, nhìn những người đánh xe ngựa. Họ đi lại giữa quảng trường, trò chuyện với nhau, còn ngựa của họ thì đứng cúi đầu, khó chịu vì thời tiết xấu.
“Nào, đi thôi!” - Tôi khẽ nói rồi lấy tay tự đẩy mình về phía trước. Tôi bước nhanh đến chiếc xe đầu tiên và leo lên ngồi.
- Phố Ullevônxvâyen, nhà ba mươi bảy! - Tôi quát.
Chiếc xe lăn bánh.
Dọc đường, người đánh xe bắt đầu ngoái lại nhìn tôi đang ngồi dưới mái che bằng vải bạt. Không lẽ hắn cảm thấy có điều gì không bình thường? Không nghi ngờ gì nữa, bộ quần áo sờn cũ của tôi đã làm hắn chú ý.
- Tôi có việc phải đến gặp một người ở đấy, - tôi nói để người đánh xe khỏi hỏi lôi thôi. - Một việc rất cần.
Xe dừng lại bên nhà số ba mươi bảy. Tôi nhảy xuống, chạy theo cầu thang lên tầng ba rồi giật mạnh dây chuông, làm chiếc chuông rung lên rền rĩ.
Người hầu gái mở cửa. Tôi để ý thấy tai cô ta mang khuyên vàng, còn chiếc váy màu xám có những chiếc cúc đen. Cô ta nhìn tôi hoảng sợ.
- Tôi hỏi ông Hierunf, Joahim Hierunf có nhà không, cái ông làm nghề buôn len ấy mà, ai chẳng biết ông ấy!...
Cô hầu gái lắc đầu:
- Ở đây không có ai là Hierunf cả.
Rồi cô ta nhìn tôi, vẻ muốn đóng cửa lại. Cô ta nói cái tên ấy thật dễ dàng, không một chút mắc mớ, như thể biết con người tôi đang tìm kia là ai, có điều không muốn giúp tôi mà thôi. Vô cùng giận dữ, tôi quay người chạy xuống thang gác.
- Ông ấy không ở đây! - Tôi nói với người đánh xe ngựa.
- Không ở đây?
- Không! Cho xe tới phố Tômtegaten, nhà số mười một.
Sự lo lắng của tôi chuyển sang cả người đánh xe. Ông ta vội cho xe phóng đi ngay, chắc nghĩ bằng cách ấy có thể cứu được tôi thoát chết. Ông ta luôn quát to, thúc ngựa chạy nhanh hơn.
- Người ông cần tìm tên là gì? - Ông ta ngoái lại hỏi.
- Hierunf, làm nghề buôn len. Hierunf!
Ông đánh xe ngựa cũng có cảm giác như có biết người này. Có phải ông ấy hay mặc quần áo màu sáng không?
- Ông nói sao? - Tôi hỏi lại. - Mặc quần áo màu sáng à? Ông không điên đấy chứ? Ông tưởng tôi đùa chắc?
Cái bộ quần áo màu trắng ấy đã làm hỏng hết mọi chuyện. Tôi tưởng tượng Hierunf là người khác hẳn.
- Ông nói tên ông ấy là Hierunf?
- Vâng, đúng thế, - tôi đáp. - Thì sao, có gì đáng ngạc nhiên. Nó chẳng xấu hơn bất kì cái tên
nào khác.
- Có phải tóc ông ấy màu hung không?
Rất có thể tóc ông ta màu hung, và khi người đánh xe nói lên điều ấy, lập tức tôi cho rằng quả đúng như thế. Tôi thấy phải cảm ơn người đánh xe, vì ông ta thông minh đoán ra ngay người tôi đang tìm là ai?
- Nếu tóc Hierunf không phải màu hung thì mới là điều đáng lạ, - tôi nói.
- Hoá ra tôi đã chở ông ấy hai lần rồi đấy, - người lái xe nói. - Tay ông ấy cầm chiếc gậy bằng gỗ.
Lập tức tôi hình dung thấy Hierunf đang đứng trước mặt tôi, tôi nói:
- Ha, ha! Chưa bao giờ có ai thấy ông ta không cầm chiếc gậy ấy trong tay cả! Đúng thế, ông cứ yên tâm rằng đúng như thế.
Vâng, tất nhiên đó chính là Hierunf mà người đánh xe này đã chở đi hai lần. Ông ta nhớ ngay mà...
Chúng tôi đi nhanh tới mức các đốm lửa tóe lên dưới móng ngựa.
Dù đang rất hồi hộp, tôi vẫn tỉnh táo để ý hết mọi chuyện. Khi xe đi ngang một người lính gác, tôi nhận thấy anh ta đeo tấm biển nhỏ trên ngực có con số 69. Con số ấy làm tôi sửng sốt và cắm vào óc tôi như một cái dăm.
69, vâng, chỉ 69, chắc chắn tôi không quên!
Tôi ngả người xuống lưng ghế, để mặc trí tưởng tượng kì quặc của tôi tha hồ bay bổng. Tôi co người dưới tấm bạt che để không ai thấy tôi đang bĩu môi và bắt đầu nói chuyện với chính mình một cách ngu ngốc nhất. Sự điên rồ đang sôi sục trong đầu tôi. Tôi để nó tự do trào ra, biết trước tôi sẽ là nạn nhân của nó, cái mà tôi không đủ sức chống đỡ lại. Tôi bắt đầu cười, cười ngặt nghẽo không thành tiếng, dù hoàn toàn không có lí do gì để cười. Tôi là người đang vui, là thằng say khi uống hai cốc bia. Nhưng cuối cùng, dần dần cơn say ấy cũng qua và tôi bình tĩnh trở lại. Tôi thấy ngón tay bị cắn đau nhức nhối. Tôi cho nó vào nách để đỡ lạnh.
Xe tới Tômtegaten. Người đánh xe cho ngựa dừng lại.
Tôi thong thả bước xuỗng, không hề suy nghĩ điều gì, đầu tôi nặng trình trịch. Tôi đi qua cổng, vào sân rồi đến trước một cánh cửa. Tôi bước vào và thấy một lối đi có hai cửa sổ. Trong góc có hai chiếc hòm chồng lên nhau, cạnh tường là chiếc giường nhỏ không sơn có phủ thảm. Phía bên phải, trong phòng cạnh có tiếng ai đang nói về tiếng trẻ kêu, còn ngay trên đầu tôi, ở tầng hai, là tiếng búa gõ vào sắt chan chát. Vừa bước vào, tôi đã chú ý ngay tới tất cả những điều ấy.
Tôi thản nhiên đi khắp căn hộ tới một cánh cửa khác, rồi thong thả, không hề nghĩ tới việc chạy trốn, tôi mở nó và bước ra phố cạnh. Tôi ngước nhìn ngôi nhà mà tôi vừa đi xuyên qua, và đọc tấm bảng treo trên tường: “Nhà nghỉ cho khách vãng lai”.
Không hề có ý định chạy trốn khỏi người đánh xe đang chờ tôi ở phía bên kia, tôi bình thản bước đi không chút lo sợ, không nghĩ rằng mình đã làm một việc gì đó không tốt. Hierunf, cái ông buôn len mà tôi tin là có thật và bỏ công tìm kiếm ấy, bỗng nhiên biến mất. Ông ta đã hóa thành hơi và tan đi cùng các ý nghĩ điên rồ khác. Bây giờ ông ta chỉ lởn vởn trước tôi như cái bóng mờ ảo, như một hồi ức xa xăm nào đó.
Càng đi, tôi càng trở nên tỉnh táo, tôi cảm thấy nặng nề và mệt mỏi, vất vả lắm mới lê nổi chân. Trong khi đó, tuyết vẫn rơi từng cụm lớn rất to và ướt. Cuối cùng, tôi tới Grơnlen, tới tận nhà thờ và ngồi xuống một chiếc ghế dài nghỉ lấy hơi. Những người đi ngang ngạc nhiên đưa mắt nhìn tôi. Tôi ngồi, chìm sâu trong trầm tư suy nghĩ.
Trời ơi, sao tôi phải khổ thế này? Cái cuộc sống khốn kiếp này đã làm tôi kiệt sức; tôi mệt mỏi đến tột độ, đến mức không còn đáng để đấu tranh kéo dài nó thêm nữa. Các tai hoạ kinh khủng dồn dập đổ lên đầu tôi, tôi bị đè bẹp và hiện chỉ là cái bóng của chính mình. Vai tôi nhô lên cao, khi đi tôi phải còng xuống để ghìm bớt cái đau trong ngực. Cách đây hai ngày, ngồi ở nhà mình, tôi quan sát kĩ cơ thể tôi và đã không cầm được nước mắt. Đã mấy tuần nay tôi không thay áo sơ mi, cổ áo dày cộm, đen xỉn vì mồ hôi và cọ vào cổ tôi đến chảy máu, làm thành cái u nhỏ và dù không đau, tôi vẫn thấy thật buồn khi phải mang cái vết thương ấy trên người. Tôi không có gì để chữa nó, mà rồi tự nó sẽ lành. Tôi chỉ dùng nước rửa sạch, cẩn thận xoa xoa nó vài cái rồi lại mặc chiếc áo bẩn vào. Biết làm thế nào được...
Tôi ngồi trên ghế, lan man suy nghĩ đủ điều, lòng nặng trĩu. Tôi chán chính bản thân mình, thậm chí cả đôi tay tôi, tôi cũng thật kinh tởm. Đôi tay yếu đuối, vô tích sự đến mức không thể chấp nhận nổi. Tôi bực bội nhìn những ngón tay thon gầy của tôi, tôi căm ghét cơ thể rệu rã của tôi. Tôi rùng mình khi nghĩ tới việc suốt đời phải nuôi sống, chăm bẵm cái cơ thể trần tục đáng ghét ấy. Trời ơi, mong sao tất cả những điều này nhanh chóng kết thúc! Tôi muốn chết làm sao!
Hoàn toàn bị chà đạp, khinh bỉ và lăng nhục trong con mắt của chính mình, tôi thẫn thờ đứng dậy, đi về nhà.
Dọc đường tôi lại nhìn thấy tấm biển quen thuộc treo trước cổng: “Hiệu Iomfru Anđerxơn, có bán những tấm vải liệm”. Tôi nhớ tới căn gác xép tôi sống ở Hammerxborg, nhớ chiếc ghế xích đu nhỏ, những tời báo cũ dán bên cửa, tin quảng cáo của người coi đèn biển và mùi bánh mì mới của hiệu bánh Fabian Onxen. Chao, những ngày ấy sống còn sướng hơn bây giờ hàng chục lần. Có lần trong một đêm tôi viết xong một bài báo và được trả những mười curon. Còn bây giờ thì không! Hễ tôi cầm bút vào tay là lập tức các ý nghĩ chui ra hết khỏi đầu. Vâng, đã đến lúc phải chấm dứt mọi chuyện. Cứ thế tôi vừa suy nghĩ vừa đi, không dừng lại một lần nào.
Càng đến gần cửa hiệu tạp hoá, tôi càng cảm thấy lo sợ một cách mơ hồ. Rồi tôi quyết định dứt khoát rằng tự tôi sẽ thú nhận mọi chuyện. Đây, tôi đang bước lên cầu thang, đến cửa tôi gặp một cô bé tay đang bê chiếc bát. Tôi chờ nó đi xa rồi bước vào cửa hiệu, khép chặt cửa lại. Tôi và ông bán hàng lại mặt đối mặt nhìn nhau.
- Hôm nay thời tiết chẳng ra gì, - ông ta nói.
Ông ta nói thế làm quái gì? - Sao không bắt tôi ngay? Vô cùng tức giận, tôi nói:
- Tôi tới đây không phải để tán với ông về thời tiết.
Thái độ của tôi làm người bán hàng tội nghiệp bối rối. Ông ta không biết phải cư xử thế nào, và tất nhiên không thể nghĩ rằng tôi đã ăn cắp của ông ta năm curon.
- Chẳng nhẽ ông không biết rằng tôi ăn cắp tiền của ông? - Tôi bực bội quát to, thở hổn hển và sẵn sàng dùng sức bắt ông ta phải có phản ứng, nếu còn chần chừ nghi hoặc.
Thế mà ông ta, cái ông già tội nghiệp ấy, vẫn đứng ngây người không chịu hiểu.

19.


Ôi, lạy Chúa, ta phải sống giữa những thằng ngốc thế đấy! Tôi trút lên đầu ông ta những câu chửi độc địa rồi giải thích một cách tỉ mỉ những gì đã xảy ra. Tôi chỉ chỗ hôm ấy tôi và ông ta đứng, tiền nằm ở đâu và tôi cầm lấy, bóp chặt trong tay thế nào. Cuối cùng ông ta hiểu, nhưng không hề có phản ứng gì. Ông ta chỉ lắc lắc đầu, lắng nghe tiếng bước chân bên kia tường, ra hiệu cho tôi khẽ hơn, và nói:
- Vâng, ông đã có một hành động không tốt!
- Khoan, gượm đã! - Tôi quát to, cốt để ông ta cũng tức giận như tôi. - Ông là một kẻ bán hàng hạ đẳng, làm sao ông biết được tôi hành động tốt hay xấu! Đừng nghĩ tôi lấy số tiền ấy cho mình, tôi không định đem chúng ra tiêu, tôi là người trung thực, tôi không thể...
- Thế thì ông đã dùng số tiền ấy làm gì?
- Báo ông biết rằng tôi đã đem cho một bà già nghèo khổ, cho hết, không sót xu nào. Tôi là người thế đấy, trái tim tôi không là hòn đá, tôi thương những người nghèo khổ...
Người bán hàng có vẻ lưỡng lự. Ông ta không thật tin lắm rằng tôi là người tử tế. Cuối cùng
ông hỏi:
- Tại sao ông không trả lại cho tôi?
- Nhưng xin ông hiểu cho: tôi không muốn gây cho ông những điều phiền toái vô ích. Tôi thương ông, và quyết định tha cho ông, - tôi trâng tráo đáp. - Thế mà ông đền ơn cho tôi thế này đây! Tôi tới đây, bỏ ra chừng ấy thời gian giải thích ông hiểu mọi chuyện, còn ông thì không chút xấu hổ, đã chẳng chịu làm gì tôi cả. Thế thì thôi, xong nhé! Quỷ tha ma bắt ông đi! Chào ông!
Tôi bước ra, đóng sập cửa thật mạnh.
Nhưng khi về tới nhà mình, về cái hang chuột tối om ấy, bị ướt từ đầu đến chân, sự hùng hổ tự nhiên biến đâu mất. Và tôi lại thiểu não như trước. Tôi lấy làm tiếc đã xử sự như thế với ông già tội nghiệp. Tôi oà lên khóc, tay bóp chặt cuống họng để tự trừng phạt mình đã có một hành động bỉ ổi như vậy, và để tự hối lỗi nữa. Tất nhiên ông lão rất sợ bị mất việc làm, nên chắc sẽ không dám làm ầm lên vì năm đồng curon ấy. Tôi lợi dụng điểm yếu ấy để quát tháo, sỉ nhục ông ta; trong khi có lẽ ông chủ hiệu đang ở bên kia tường và có thể bước vào bất kì lúc nào để xem chuyện gì đang xảy ra. Đúng là một hành động đê tiện hiếm có!
Chà, sao người ta không giữ tôi lại nhỉ? Nếu thế, mọi chuyện sẽ được kết thúc. Tôi sẵn sàng tự nguyện chìa tay cho người ta xích lại, không một cử chỉ nào chống đối, ngược lại tôi còn tạo điều kiện để bị bắt nhanh chóng hơn. Lạy Chúa, con xin đem đổi toàn bộ đời con để lấy một giây hạnh phúc! Cả cuộc đời con để lấy một mẩu bánh mì khô cứng! Hãy nghe lời cầu của con, dù chỉ một lần này!...
Tôi để cả quần áo ướt nằm ngủ. Tôi có ý nghĩ mơ hồ rằng đêm nay tôi sẽ chết, vì vậy tôi đem hết sức lực còn lại thu xếp lại giường nằm để sáng hôm sau nó không đến nỗi bừa bộn lắm. Rồi tôi nằm xuống, khoanh hai tay trên ngực.
Bỗng nhiên tôi nhớ tới Ilaialy. Làm sao suốt cả buổi chiều tôi không nhớ tới nàng lần nào nhỉ? Tâm hồn tôi lần nữa lại loé sáng, chỉ một tia nắng nhỏ bé thôi, nhưng cũng đủ làm tôi cảm thấy ấm áp. Mặt trời mỗi lúc một rực rỡ hơn. Đó là thứ ánh sáng dịu dàng, âu yếm và ngọt ngào, làm tôi ngây ngất. Sau đó mặt trời nóng dần, nó đốt hai má tôi, thiêu cháy óc tôi bằng ngọn lửa giận dữ. Bây giờ trước mắt tôi là một ngọn lửa khổng lồ, cả đất cả trời đều bốc cháy. Rồi người, thú vật, sông núi, sa mạc và quỷ dữ - cả thế giới đang bốc cháy, rừng rực cháy trong ngọn lửa của ngày tận thế.
Sau đó tôi chẳng nghe hay thấy gì nữa...
Hôm sau tôi tỉnh dậy, người đầy mồ hôi. Tôi bị sốt nặng, run lên bần bật. Lúc đầu, không hiểu chuyện gì đang xảy ra, tôi đưa mắt nhìn quanh và cảm thấy có cái gì đấy đang gãy vỡ trong tôi. Tôi sờ tay chân mình, rồi lấy làm ngạc nhiên vì cửa sổ ở tường này chứ không phải ở tường đối diện. Có tiếng móng ngựa từ dưới sân vọng lên, thế mà tôi cứ tưởng như từ trên xuống. Ngoài ra, tôi còn buồn nôn...
Mái tóc ướt và lạnh xõa lên trán. Tôi chống tay nhỏm dậy, nhìn xuống gối: trên gối cũng có các túm tóc ướt. Đôi chân vẫn nguyên giày chưa cởi sau một đêm đã phồng to, vất vả lắm tôi mới cọ quậy nổi các ngón.
Lúc này đã xế chiều, có lẽ mặt trời sắp lặn, tôi dậy khỏi giường và bắt đầu đi lại trong phòng. Tôi bước từng bước nhỏ, thận trọng để khỏi ngã và để chân không đau. Tôi không cảm thấy quá đau khổ, không muốn khóc và nói chung chẳng buồn chút nào. Ngược lại, tôi thấy vui và không muốn một số phận nào khác.
Sau đó tôi đi ra khỏi nhà.
Một điều duy nhất làm tôi khó chịu là cái đói, mặc dù tôi ghê tởm thức ăn. Lần nữa tôi lại cảm thấy sự háu ăn thấp hèn đang cào cấu trong bụng, mà mỗi lúc một dữ dội hơn. Ngực tôi đau nhức nhối, không sao chịu nổi, như thể trong đó đang có một cuộc đâm chém âm thầm nào đó. Hình như có hàng chục con thú nhỏ thi nhau cắn xé ngực tôi, lúc bên này, lúc bên kia, sau đó chúng tạm nghỉ, rồi lại cắn xé tiếp một cách lặng lẽ, rứt từng miếng thịt lớn...
Tôi không ốm, nhưng kiệt sức và người đầm đìa mồ hôi. Tôi hi vọng sẽ nghỉ ngơi ở quảng trường, nhưng đường tới đó khá dài và vất vả. Thế mà tôi vẫn tới được. Tôi đứng giữa đường phố dẫn tới quảng trường. Nước mắt chảy cả vào mắt, kính mờ, làm tôi không nhìn thấy gì phải dừng lại để lau kính. Tôi không biết tôi đang đứng ở đâu, và cũng chẳng nghĩ tới điều ấy. Có tiếng ồn nào đó rất to nổi lên quanh tôi.
Bỗng ai đó kêu thất thanh: “Cẩn thận!”. Tôi nghe tiếng kêu ấy, nghe rất rõ nên đứng né sang bên và bước nhanh về phía trước trong chừng mực đôi chân yếu ớt của tôi cho phép. Một chiếc xe chở bánh mì phóng qua, giận dữ như con quái vật trong cơn điên, bánh xe va vào vạt áo khoác của tôi. Nếu tôi nhanh hơn một chút, chắc mọi việc đã kết thúc một cách tốt đẹp. Vâng, lẽ ra tôi phải nhanh hơn, chỉ cần cố thêm một tí nữa thôi. Nhưng bây giờ thì quá muộn, chiếc xe đã lăn qua và chỉ đè dập các ngón chân của tôi. Tôi có cảm giác hai ngón vẹo hẳn sang một bên. Người đánh xe cho ngựa dừng lại, nhảy xuống, hốt hoảng hỏi tôi có sao không. Ô, may quá, chưa nặng lắm!... Có trời mới biết được, đáng sợ thật... Tôi tin là xương không gãy... Ôi, hãy làm ơn...
Tôi cố lê chân thật nhanh về phía chiếc ghế gần đó. Một đám đông tập trung lại nhìn, làm tôi rất khó chịu. Xe có chịu nghiến tôi chết đâu, dù tôi đang muốn từ giã cuộc đời này. Tệ hại nhất là chiếc giày của tôi đã bị hỏng, đế hầu như bong hẳn, còn mõm thì há ra như miệng cá sấu. Tôi giơ chân lên và thấy trong chiếc miệng cá sấu ấy có máu. Không sao, không ai có lỗi cả. Ông đánh xe chắc không hề muốn làm tồi tệ hơn cái hoàn cảnh vốn đã tồi tệ của tôi. Tôi có thể yêu cầu ông ta quẳng cho tôi một chiếc bánh, tất nhiên ông ta sẽ vui lòng làm cái điều nhỏ nhặt ấy.
Cái đói lại giày vò tôi hết sức khổ sở, tôi quả không biết phải làm gì để thoát khỏi sự háu ăn đáng xấu hổ ấy của mình. Tôi ngồi vặn vẹo trên ghế, co chân rụt cổ vào hai đầu gối. Khi trời tối, tôi lê bước tới Toà thị chính - có trời mới biết được tôi đã đến đấy bằng cách nào - và ngồi xuống trên bậc đá chân cầu thang của nó. Tôi xé chiếc túi khỏi áo khoác và đưa lên miệng nhá, một cách hoàn toàn vô ý thức, mắt nhìn trân trân vào chỗ trống. Tôi nghe tiếng trẻ cười đùa bên cạnh, chốc chốc lại đoán người nào đang đi ngang. Ngoài ra tôi không làm được gì khác.
Sau đó tôi bỗng nảy ra ý nghĩ đến chợ kiếm một miếng thịt sống. Tôi đứng dậy đi ra phía cuối chợ. Đứng chờ một chốc bên dãy hàng thịt, tôi quay lại nhìn và giả vờ như mắng một con chó tưởng tượng nào đó, ra lệnh cho nó phải đứng yên tại chỗ, rồi mạnh dạn nói với người bán thịt đầu tiên tôi gặp.
- Xin ông làm ơn cho con chó của tôi một miếng xương! - Tôi nói. - Chỉ xương thôi, không cần thịt; chả là nó phải ngậm một cái gì đó trong miệng mà.
Người ta cho tôi một khúc xương, một khúc xương tuyệt vời, trên đó còn dính ít thịt. Tôi vội giấu nó vào ngực rồi cảm ơn người bán thịt nhiều và nhiệt tình đến mức ông ta phải ngạc nhiên nhìn tôi.
- Ồ, chẳng có gì phải cảm ơn, - ông ta nói.
- Ấy, ông đừng nói thế, - tôi lẩm bẩm đáp. - Ông thật tốt!
Rồi tôi bước đi, tim đập mạnh trong lồng ngực.
Tôi rẽ vào một ngõ hẻm và dừng lại cạnh một cổng ra vào nào đó đã gần sụp đổ. ở đây rất tối, tôi mừng thầm và lấy khúc xương ra, bắt đầu gặm.
Chẳng ngon chút nào. Nó bốc mùi máu đông khó chịu. Một chốc sau tôi thấy buồn nôn. Nôn xong, tôi thử gặm lần nữa. Nhưng lại nôn. Tôi giận dữ dùng răng bóc thịt ra và bắt mình phải nuốt vào bụng. Than ôi, tôi làm thế cũng chỉ vô ích. Vì vừa nuốt khỏi họng, lập tức những miếng thịt sống ấy bị tống ra ngoài. Bất lực và tuyệt vọng, tôi nắm chặt hai tay, khóc to và lại giận dữ gặm tiếp. Mặt tôi dàn dụa nước mắt, khúc xương trở nên bẩn và ướt vì những giọt nước mắt ấy. Vẫn nôn. Tôi kêu lên những tiếng nguyền rủa, rồi lại gặm, lại khóc và lại nôn.
Im lặng, xung quanh không một bóng người, đâu cũng chỉ bóng tối và sự yên tĩnh. Tâm hồn tôi đang ở trạng thái xúc động đáng sợ. Tôi thở một cách nặng nhọc, hổn hển. Nước mắt chảy dàn dụa, miệng nôn hết miếng thịt này đến miếng thịt khác, những miếng thịt lẽ ra có thể giúp tôi đỡ đói ít nhiều. Cố hết mọi cách vẫn không kết quả gì, tôi giận dữ và tuyệt vọng vứt khúc xương vào ngõ tối rồi kêu to một cách man dại bằng giọng khàn khàn đứt quảng, tôi không ngớt lời nguyền rủa Chúa trời, giơ cao hai cánh tay gầy gò, còng queo với những ngón tay như móng chim ác... , Vaal, trên đời này chẳng làm quái gì có ngài, nhưng nếu có, tôi sẽ nguyền rủa ngài luôn miệng và trên cái thiên đường ấy của ngài, ngài sẽ bị thiêu cháy bằng chính ngọn lửa địa ngục. Tôi sẵn sàng phục vụ ngài, nhưng ngài đã ruồng rẫy tôi và từ nay tôi sẽ thù địch với ngài suốt đời. , Apis, tôi biết tôi sắp chết, nhưng lúc này, đứng bên quan tài, tôi vẫn khinh bỉ nhổ vào mặt ngài!...
Im lặng.
Toàn thân tôi run lên vì hồi hộp và đau khổ; tôi vẫn đứng yên, không ngớt lẩm bẩm những lời nguyền rủa, khóc một cách cay đắng vì bất lực, đau khổ và vì cuồng giận tuyệt vọng. Cứ thế, tôi đứng cạnh cổng suốt nửa giờ, vừa khóc vừa tựa vào tường để khỏi ngã. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng người nói - có hai người đang lại gần tôi và trao đổi với nhau điều gì đó. Tôi vội rời cổng, lê chân đi dọc dãy nhà và lần nữa bước ra những đường phố được đèn chiếu sáng. Khi đi từ Yungxbaken xuống, trong đầu tôi bỗng xảy ra những điều hết sức kì lạ. Tôi có cảm giác như những căn lều tồi tàn ở cuối quảng trường và những nhà kho xiêu vẹo gần đó làm hỏng hết bức tranh chung. Chúng làm hỏng quảng trường, làm hỏng toàn bộ thành phố. Chà, phải hót những thứ đổ nát ấy đi mới được! Rồi tôi nhẩm tính trong đầu cần bao nhiêu tiền để chuyển về đây ngôi nhà đẹp đẽ của trường Đại học Địa lý mà lần nào đi ngang tôi cũng đứng lại ngưỡng mộ. Có lẽ để làm được việc ấy, phải có bảy mươi hai hay thậm chí tám mươi hai nghìn curon mới đủ - một số tiền kha khá đấy, hề hề, một số tiền nho nhỏ để bắt đầu một công việc nho nhỏ! Khi gật đầu khẳng định số tiền nho nhỏ ấy, tôi thấy đầu tôi trống không và nhẹ tênh. Người tôi còn run, và thỉnh thoảng tôi vẫn khóc.
Tôi có cảm giác như sự sống rời bỏ tôi, bài hát đời tôi đã chấm dứt. Nhưng đối với tôi, điều ấy chẳng có gì quan trọng và tôi không hề quan tâm tới nó. Ngược lại, tôi còn đi tắt qua cả thành phố để tới cảng, nghĩa là mỗi lúc một xa chỗ ở của mình. Tôi hoàn toàn có thể nằm xuống mặt phố rồi chết. Quá đau khổ, tôi trở nên hững hờ với tất cả. Các ngón chân bị xe nghiến đau nhức nhối, cái đau ấy chạy ngược lên tận đùi, nhưng cả điều này cũng không làm tôi lo lắng. Tôi đã từng chịu những cái còn ghê gớm hơn nhiều.
Cuối cùng tôi ra tới cầu đường sắt. ở đây không tàu xe nào đi lại, không cả tiếng ồn, thỉnh thoảng mới có một vài người xuất hiện - một ngư dân hay một thủy thủ nào đó vừa dạo chơi, vừa đút tay vào túi quần. Tôi chú ý một ông già thọt chân khi đi ngang đã quay sang nhìn tôi rất chăm chú. Vô tình tôi chặn lão lại, ngả mũ chào và hỏi có biết tàu “Monach” đã rời bến chưa. Hỏi xong, không kìm được, tôi còn bật móng tay ngay trước mũi lão và nói thêm:
- “Monach”! Quỷ quái thật! Thế mà tôi quên nó mất!
Nghĩa là dù sao, ý nghĩ về con tàu ấy vẫn bám riết lấy óc tôi.
- Rất tiếc là tàu “Monach” đã rời bến.
- Ông có biết nó đi đâu không?
Lão nghĩ ngợi chốc lát, khẽ nhấc chân thọt lên, lắc lắc và nói:
- Không. Ông không biết nó chở gì à?
- Không, - tôi đáp.
Nhưng lúc ấy tôi đã kịp quên con tàu “Monach” và hỏi ông thọt kia từ đây tới Hommextran bao xa, theo cách tính của người xưa, tức là mấy dặm địa lí?
- Đến Hommextran? Có lẽ...
- Hay đến Veblungxnes cũng được?
- Vâng, vâng: nghĩa là đến Hommextran, có lẽ..
- À mà này, để khỏi quên, xin ông cho tôi nhúm thuốc, - tôi lại ngắt lời lão. - Chỉ một nhúm nhỏ thôi.
Nhận được thuốc, tôi rối rít cảm ơn rồi bỏ đi. Tôi chẳng dùng nhúm thuốc ấy, mà nhét ngay vào túi. Ông già thọt chân đứng nhìn theo - có lẽ tôi đã có cái gì đó làm lão nghi ngờ. Lúc nào tôi cũng cảm thấy cái nhìn nghi ngờ ấy của lão. Tôi không thích như thế, và quay lại gần, nhìn thẳng vào mắt lão, nói:
- Đồ rác rưởi!
Đồ rác rưởi! Chỉ một chữ ấy thôi, ngoài ra không thêm một lời nào. Vừa nói, tôi vừa nhìn lão chăm chắm. Chắc cái nhìn của tôi phải đáng sợ lắm, cái nhìn của một người đã chết.
Nói xong, tôi đứng thêm chốc nữa rồi lê chân đi về phía nhà ga. Ông già thọt không hé miệng lần nào, chỉ đứng im đưa mắt nhìn theo.
Đồ rác rưởi à? Tôi bỗng đứng sững lại. Làm sao tôi không nhận ra ngay nhỉ? Tôi đã gặp ông già thọt này rồi. ở Grenxơn, một buổi sáng đẹp trời. Hôm ấy tôi đem chiếc áo gilê tới hiệu cầm đồ. Tôi có cảm giác như từ ấy đến nay là cả một thế kỉ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét