Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Quy luật của muôn đời - Nodar Dumbadze (Ch 12 - 16))

Quy luật của muôn đời

Tác giả: Nodar Dumbadze
Người dịch : Phạm Mạnh Hùng
Nhà xuất bản Văn Học - 9/1984

Chương 12

Sau khi Bulika chết, giáo sư ra lệnh không xếp bệnh nhân nào vào phòng Batsana và cha đạo, còn chiếc giường trống thì đem đi, để nó khỏi gợi cho hai người bệnh những ý nghĩ buồn phiền. Nhưng cái chỗ bỏ trống lại gây nên cảm giác nặng nề hơn nhiều so với chiếc giường không.
Mỗi sáng, khi thức giấc, Batsana và cha Iôram bất giác đưa mắt nhìn về cái chỗ mới đây đặt giường của Bulika và tim họ thắt lại vì nhớ đến những gì đã trải qua. Rồi cả ngày, trong lúc chuyện trò, hầu như cứ chốc chốc, đang nói nửa chừng họ lại ngừng lời, chờ một câu pha trò và một câu đối đáp bông đùa của Bulika.
Cứ như thế ngót hai tuần lễ. Rồi thời gian phát huy hiệu lực, Batsana và cha đạo dần dần đã quen với sự thiếu vắng Bulika...Một buổi sáng, cha Iôram hỏi Batsana một câu bất ngờ:
- Ông Batsana kính mến, hẳn ông sẽ được mai táng trong điện Pantéon Duđubixki chứ?Thoạt tiên Batsana bật cười, rồi lo ngại:
- Thế nào, cha mơ thấy chuyện gì chẳng lành ư?
- Tôi có nằm mơ, nhưng giấc mộng không can gì đến ông, mà đến tôi kia. - Cha Iôram đáp một cách buồn rầu.
- Nếu vậy thì cha nên hỏi người ta mai táng cha ở đâu, chứ không phải là mai táng tôi... Cha đang bầy ra một mưu mẹo gì đấy thôi! - Batsana nghi ngờ.
- Chính thế... Nếu ông sẽ được mai táng trong điện Pantéon thì có lẽ cũng sẽ có một chỗ cho tôi ở đấy, trong sân nhà thờ...
- Ồ, theo cái nguyên tắc như thế thì tôi phải được mai táng trong sân Hội nhà văn... Nhưng nếu cha làm thế nào để được cất nhắc làm cha bề trên của nhà thờ Đuđubixki thì rất có thể là mộ của chúng ta sẽ ở sát cạnh nhau!
- Vậy là chỗ của ông trong điện Pantêông đã được đảm bảo, không thì ông đã không đùa như thế! - Cha Iôram kết luận.
- Cha lầm rồi, thưa cha!
- Tại sao?
- Là bởi vì điện Pantêông Đuđubixki đã đầy chật từ lâu. Không nhét nổi tôi vào nữa đâu... Trừ phi đặt đứng... Dù sao, có một điều tôi tin chắc: cả cha lẫn tôi đều sẽ không đến nỗi không được chôn cất.
Cha Iôram thở dài.
- Nhưng cha mơ thấy chuyện gì mới được chứ, thưa cha? - Batsana muốn biết.
- Vâng, tôi sẽ kể ông nghe... Tất cả những người quá cố mà trước kia tôi đã hát kinh đưa tiễn họ sang thế giới bên kia đều tụ tập trong sân nhà thờ Ortatsala và chờ tôi ra!
- Rồi thế nào? Cha ra chứ?
- Như một tên ăn mày mạt hạng, một thằng hèn nhát, một con thỏ đế, tôi nấp sau điện thờ... Tôi nhớ là lúc ấy tôi xấu hổ đến muốn gào lên hay tự sát quách đi cho rồi!...
- Thưa cha, tự sát là hình thức cao nhất biểu thị quyền tự trị của con người. Nhưng tiếc rằng đạo của cha cấm làm việc đó, bởi vì việc đó bị coi là một tội lớn nhất, là sự hủy diệt linh hồn! - Batsana nói bằng giọng thống thiết.
- Theo tôi biết, các ông cũng không hoan nghênh việc tự sát. - Cha Iôram đáp.
- Phải, cũng có một số điều cách nhìn nhận của chúng ta trùng với nhau. Vì thế tôi đã từng nói với cha rằng cha có thể trở thành một người cộng sản tốt.- Batsana nhắc lại.
- Còn tôi vẫn nhớ hồi ấy tôi đã trả lời ông rằng cũng có thể xảy ra điều ngược lại. - Cha Iôram chống đỡ.
- Xin đừng mưu cầu chuyện đó, cha ạ, không thì tôi sẽ làm cho cả xứ đạo của cha thành cộng sản hết cho mà xem.
- Còn phải nói! Một người cộng sản, lại là nhà văn thì còn lợi hại hơn một trăm linh mục! Tôi chỉ còn một hy vọng: sự hóa kiếp của linh hồn. Khi nào ông đầu thai kiếp khác xuống cõi thế này thì ông sẽ tin chúa trời là có thực. - Cha Iôram làm dấu thánh.
- Cha ạ, nhà văn là con chó trung thành của nhân dân... Tôi không tin chuyện linh hồn đầu thai kiếp khác, nhưng nếu có chuyện như thế thì chắc chắn hồn tôi sẽ đầu thai kiếp chó. Thành thử sau khi tôi chết, xin cha hãy yêu thương những con chó lạc loài, đừng ném đá vào nó, vì có thể một trong những con chó ấy là tôi.
- Nghe ông nói vui tai lắm, ông Batsana kính mến ạ! Nhưng nếu hồn mỗi nhà văn qua đời đều đầu thai thành kiếp chó lang thang thì sống trên đời không có gì đáng thèm ước. - Cha Iôram mỉm cười mỉa mai.
- Chẳng có gì đặc biệt, nhất là nếu linh hồn của cha sẽ đầu thai thành kiếp chó sói.
- Sao lại thành chó sói?
- Đấng chăn chiên lại lẩn trốn dàn chiên của mình thì hẳn không thể hòng mong kiếp sau được làm sư tử! - Batsana nói, cố giấu nụ cười.
Cha Iôram ngọ nguậy trên giường, và không tìm được câu trả lời, cha bực bội quay mặt đi.
- Nhưng cha đừng lo, - Batsana nói tiếp. - Giấc mơ của cha là điềm lành. Cha sẽ sống lâu trăm tuổi.
Cha Iôram nguôi giận, lại bắt chuyện:
- Này, ông ạ, nếu phỏng theo cấp bậc hành chính của các ông thì chức sắc của tôi tương đương với chức vụ gì chẳng hạn?
- Nhưng trong xứ đạo của cha có bao nhiêu người?
- Chúng tôi không đăng ký giáo dân.
- Thôi được. Thế nhà thờ thu nhập được bao nhiêu do quyên góp.
- Biết nói thế nào đây... Dù sao cũng không đủ để sửa sang nhà thờ...
- Vậy thì nếu phong theo cấp bậc hành chính của chúng tôi, chức sắc của cha sẽ tương đương với chức vụ chủ nhiệm câu lạc bộ xã. - Batsana định rõ địa vị xã hội của cha Iôram.
- Ông giễu cợt đấy ư?
- Sao lại thế?
- Tôi đã tốt nghiệp trường dòng kia mà?
- Đa số các chủ nhiệm câu lạc bộ của chúng tôi có trình độ đại học, chí ít cũng có trình độ chuyên nghiệp trung cấp, xoàng nhất là như thế! Và họ được tặng những danh hiệu như thế nào! Nhà hoạt động nghệ thuật công huân, cán bộ văn hóa công huân!... Trong số các linh mục có lấy một người nào là linh mục công huân của nước cộng hòa không? Tôi chưa từng nghe nói có người nào như thế! - Batsana khoái chí ra mặt.
Cha Iôram buồn rầu.
- Xin cha đừng buồn! Hãy chuyển sang phía chúng tôi, tôi cam đoan với cha: chúng tôi sẽ bổ nhiệm cha làm cán bộ của huyện ủy!
- Ông Batsana kính mến! - Linh mục bực tức thực sự. - Ông hạ cố đến đây để làm gì? Để làm tan rã giới tu hành chính giáo chúng tôi hay để chữa bệnh nhồi máu của ông?! Hãy theo chúng tôi, tôi sẽ phong ông làm trợ tế, nếu ông muốn.
- Can gì phải tức giận, thưa cha? Nếu như đạo của cha đúng thì sau khi chết, tôi sẽ hoàn toàn ở dưới quyền sai khiến của cha kia mà. Lúc ấy cha muốn làm gì tôi tùy ý - Batsana vừa nói vừa cười.
- Không đâu, anh bạn ạ! Ở thế giới bên kia hai ta không thể nào gặp nhau được! - Cha Iôram xẵng giọng đáp.
- Tại sao vậy? - Batsana tỏ ra buồn rầu.
- Tại sao nữa! Nói theo ngôn ngữ cộng sản thì lý lịch của ông không cho phép giới thiệu ông lên thiên đường! Con đường của ông dẫn thẳng xuống địa ngục! Hiểu chưa?
- Thế còn tình bạn của chúng ta? Lẽ nào cha lại không che chở cho tôi? - Batsana quyết định gợi lòng trắc ẩn của linh mục.
- Ông là miếng mồi quá ngon cho quỉ xa-tăng! Sự che chở của tôi chưa chắc đã giúp được ông...
- Cho dù tôi có chịu lễ ban thánh thể đi chăng nữa?
- Ông sẽ xưng tội chứ?
- Nhưng nếu không có tội thì sao?
- Đương nhiên ông thì làm gì có tội được kia chứ! Thế giới của các ông và những việc các ông làm, các ông coi là chân chính!... - Cha Iôram tỏ ý, không buồn nói chuyện nữa.
- Những người tín ngưỡng thật là sung sướng, cha Iôram ạ... Chúng tôi tin vào sự nghiệp của chúng tôi... - Batsana đáp một cách nghiêm chỉnh.
... Chị y sĩ Giênya vào phòng bệnh. Batsana và cha Iôram lập tức lật chăn ra, nằm úp xuống và phơi trần ra cái chỗ để tiêm. Giênya cười vang.
- Đắp chăn vào, đắp chăn vào, các đồng chí! Lần này tôi đến với hai bàn tay không... Có khách đến thăm đồng chí, đồng chí Batsana kính mến ạ, đồng chí không thể tiếp khách với bộ dạng như thế được!
- Khách à? Người đó cần gì? - Batsana cảnh giác.
- Người đó quan tâm đến sức khỏe của đồng chí... Để cái bô lại hay đem đi? - Giênya vẫn cười.
- Đàn ông hay đàn bà?
- Đàn bà. Bà ta bảo là chỗ thân thiết với đồng chí...
- Thế thì cứ để cái bô ở đây - Batsana nói, chuẩn bị đón gặp bà khách mới.
- Hiểu rồi!
Giênya đi ra. Liền đó trong phòng bệnh xuất hiện một người đàn bà nom cương nghị, tóc bạc, tuổi trung niên, tay mang cái cặp bìa giấy to phồng. Bà ta đứng lại ở giữa phòng, nhìn quanh, hơi ngần ngừ, rồi đi tới giường cha Iôram.
- Chào đồng chí! Tôi là bạn của gia đình đồng chí. Nina Xanêblitzê! - Bà ta nói và không đợi mời, ngồi ngay xuống trước mặt linh mục.
- Bạn của gia đình ư? - Ông linh mục hỏi lại.
- Vâng. Bố của đồng chí là Akaki và bố tôi là Lada cùng học với nhau ở trường trung cấp kĩ thuật công nghiệp từ năm một nghìn chín trăm mười sáu.
- Nói thực tình, bà cần nói chuyện với ai kia chứ? - Linh mục ngạc nhiên, ném một cái nhìn về phía Batsana, vẻ dò hỏi. Batsana nhăn mặt thảm thiết, tỏ ý cầu xin Iôram cứ tiếp tục câu chuyện.
- Với ai là thế nào? - Người đàn bà đáp, không kém phần ngạc nhiên. - Với đồng chí chứ còn với ai?
- Bà quen tôi ư? Chúng ta đã từng gặp nhau rồi ư? - Iôram bắt đầu nhập vai.
- Trời ơi, chuyện ấy mà lại khó khăn đến thế chăng? Khắp xung quanh, trên đài truyền thanh, trên ti vi, lúc nào cũng nghe thấy và trông thấy: Batsana Ramisvili, Batsana Ramisvili... Nhưng của đáng tội, đồng chí nom đã đổi khác... Đã để râu...
- Vâng, trong phòng hơi lạnh... - Cha Iôram đưa tay vuốt râu và đắp chăn kín hơn.
- Tất nhiên! Không đùa với bệnh được! - Người đàn bà đồng ý.
- Hừ-ừm... Bà gặp tôi có việc phải không, thưa bà? - Cha Iôram đã mất kiên nhẫn.
- Vâng. Đồng chí cảm thấy trong người thế nào?
- Cảm ơn bà. Hiện giờ khá hơn rồi... Còn bà thế nào, thưa bà?
- Tôi ấy à?! Tôi chết mất, tôi nguy ngập, tôi chìm nghỉm, tôi đau xót, tôi hấp hối! - Người đàn bà tuôn ra một tràng.
- Vậy tôi có thể giúp được gì cho bà không? - Cha Iôram ngỏ ý sẵn sàng giúp đỡ.
- Giúp à? Không phải là giúp, mà là cứu vớt! - Người đàn bà đòi hỏi.
- Liệu tôi có thể làm nổi không? - Cha Iôram hồ nghi.
- Sao?! Đồng chí ấy à? Batsana Ramisvili mà không làm được à? - Người đàn bà phá lên cười một cách giả tạo. - Chỉ một lời của đồng chí, một lá thư của đồng chí, một tiếng điện thoại...
- Vậy bà yêu cầu điều gì? Xin nói rõ đi! - Cha Iôram cho rằng cuộc nói chuyện của ông với người đàn bà lắm mồm này đã có chiều hướng giống như cuộc đối thoại mới đây giữa Batsana với tên đểu cáng thu mua thuốc lá.
- Ngày 2 tháng 8, giữa thanh thiên bạch nhật, người ta đã công nhiên cắt cổ con trai tôi!
Cha Iôram sững sờ.
- Ai? Ở đâu? - Khó khăn lắm ông mới thốt được lên lời.
- Cái thằng ăn hối lộ vô liêm sỉ, quân mặt thớt... Ở giảng đường số một trăm linh bảy trường đại học tổng hợp... - Người đàn bà nói bằng giọng bi thảm và bỗng liến thoắng nói thêm:
- Đồng chí tưởng rằng sau khi hắn ta ra đi đã có cái gì thay đổi à?
- Ai ra đi?
- Hắn ta! - Người đàn bà trợn ngược mắt nhìn lên trần nhà. - Hắn đã cắt cổ cả tôi, cả con trai tôi, thằng xỏ lá!... Thằng bé bị khiêng ra khỏi giảng đường... Ba năm trời! Ba năm tôi cho thằng bé chuẩn bị về ba môn: tiếng Gruzya, tiếng Anh, môn lịch sử! Bảy trăm rúp mỗi môn! Thế mà không ngờ...
Hiểu rằng Xanêblitzê - con vẫn sống và lành mạnh, cha Iôram thở dài nhẹ nhõm.
- Thế còn ở trường phổ thông? Nó không học ở trường phổ thông ư?
- Thế đồng chí, đồng chí có học ở trường phổ thông không? Ở đấy người ta đã dạy đồng chí được gì?
Cha Iôram không biết trả lời ra sao, đành lẳng lặng cúi đầu xuống.
- Hắn đòi thằng bé đọc thuộc lòng “Di huấn của Aptanđin” [49]! Thằng khốn kiếp! Lẽ ra hắn phải hỏi bọn học trò của hắn, những đứa đã bị hắn lột mỗi tên bảy trăm rúp về công dạy riêng! Mà cái chương ấy thì chính Ruxtavêli cũng không thuộc, nếu không thì ông ấy viết ra làm gì?!
- Ô, chớ nói thế! - Cha Iôram phản đối.
- Thế thì thế nào? Đồng chí tưởng chính hắn đã đọc cái di huấn đáng nguyền rủa ấy ư? Cái thằng ăn của đút khốn nạn ấy!
- Tại sao bà nghĩ như thế?
- Chẳng việc gì mà phải nghĩ! Nhìn mặt cái thằng đều ấy là đồng chí thấy rõ ngay!
- Tôi không thể tin được! - Cha Iôram không chịu nhượng bộ.
- Ta cuộc nào! - Người đàn bà đề nghị, chìa tay ra.
- Cuộc gì? - Linh mục bằng lòng, ông đã bắt đầu hăng lên.
- Muốn cuộc gì cũng được! Nói chung những đứa trẻ đã thuộc lòng Ruxtavêli, lịch sử thế giới và tiếng Anh thì không còn có việc gì làm ở trường đại học nữa! Có dốt mới cần đi học! Đúng thế!
- Thôi được. Vậy thì ta cần làm gì bây giờ? - Cha Iôram cắt đứt việc tuyên truyền những luận điểm mới về giáo dục phổ thông và đại học.
- Đồng chí phải giúp tôi - Người đàn bà tuyên bố.
Cha Iôram nhìn Batsana, tìm sự ủng hộ. Nhưng Batsana dùng khăn tay che miệng, chỉ lắc đầu.
- Bằng cách nào? - Thất vọng, linh mục hỏi.
- Đồng chí hãy đến gặp Bộ trưởng bộ đại học.
- Nhưng tôi đang nằm bệnh viện kia mà?...
- Gọi điện hay viết thư cho đồng chí ấy...
- Viết cái gì?
- Viết rằng thằng bé là chỗ họ hàng với đồng chí, là học sinh ưu tú, được đào tạo chu đáo, là vận động viên thể thao, còn gì nữa nhỉ?
- Tôi không biết. - Cha Iôram rên rỉ.
- Đây là chứng chỉ của nhà trường. Trong đại hội thể thao của học sinh, nó chiếm giải ba, nhảy xa ba mét, nhảy cao một mét mười bảy...
- Nếu vậy thì cho nó vào trường đại học thể dục thể thao là tốt hơn hết! Ông bạn tôi kia là vận động viên thể thao, ông ấy giúp được đấy! - Cha Iôram trỏ sang Batsana.
Batsana bỏ tấm khăn trên mặt, gật đầu.
- Đồng chí nói gì vậy?! Trường đại học thể dục là thế nào? Tôi giáo dục một đứa con trai, chứ không phải là một con dê con!
- Sao lại thế, thưa bà? - Batsana tỏ ra phật ý, - Đumbatzê, Gôkiêli, Khơnưkina, Giughêli đều đã tốt nghiệp trường đại học thể dục thể thao...[50]
- Ông là vận động viên thể thao à? - Người đàn bà ngắt lời Batsana.
- Vâng.
- Ông cũng bị nhồi máu ư?
- Vâng.
- Đáng đời cho ông!
Batsana nhếch mép cười:
- Cám ơn!
Người đàn bà cố chữa lại thái độ bất nhã của mình:
- Cầu Chúa ban sức khỏe cho ông!
- Bà tin Chúa à? - Cha Iôram mừng rỡ.
- Thế Chúa đã giúp được gì nhiều cho những người tin Chúa? Đồng chí hãy giúp tôi đi, như vậy đồng chí sẽ là Chúa của tôi và cứu tinh của tôi.
- Tôi không thể giúp được, có giết tôi đi cũng thế thôi. - Cha Iôram thở dài.
- Đồng chí là đại biểu Xô Viêt, là ủy viên trung ương, là tổng biên tập tờ báo mà lại không giúp được ư? - Người đàn bà ngạc nhiên thành thực.
- Thưa bà, thế bà không đọc nghị quyết của Trung ương đảng về tệ bao che à? - Linh mục hỏi, ông đã mất bình tĩnh.
- Ở đây có gì là bao che?! Tôi xin cho con trai tôi, chứ có phải cho người khác đâu? - Người đàn bà cố nài một lần chót.
- Không! Nhất là nó đã bị điểm hai rồi! Thôi, ta không nói chuyện ấy nữa!... Cha Iôram tuyên bố dứt khoát và quay mặt vào tường.
- Thôi được... - Người đàn bà chịu thua. - Thế thì đồng chí giúp tôi một việc khác vậy...
- Còn chuyện gì nữa?! - Cha Iôram giật mình.
- Thì ra đồng chí là cha đỡ đầu của ông chủ tịch Ủy ban quân Mồng một tháng năm... Thế này nhé, chúng tôi có một vấn đề nhỏ về chuyện nhà ở. Người hàng xóm của chúng tôi được cấp một căn hộ bốn phòng ở Xôlôlaki [51]. Vì lẽ gì, do công lao gì thì không biết... Chúng tôi muốn lấy thêm căn phòng của người đó. Con trai tôi ở trại cải tạo viết thư về cho biết nó định lấy vợ. Nó sắp mãn hạn rồi. Có cần lo đến việc ấy không? Cần chứ!... Thực ra cũng có một người ngấp nghé căn phòng đó, nhưng nó thuộc về chúng tôi là hợp lý. Nếu đục một cái cửa và xây thêm một cầu thang bên thì có thể qua căn buồng đó nối liền bếp và hành lang của chúng tôi với căn hộ hai phòng của gia đình bên cạnh. Chúng tôi đã tìm được cho người này một căn hộ ở đại lộ Txêrêtêli. Kể thì có hơi xa, diện tích nhỏ hơn bốn mét mười bốn xentimet, nhưng chúng tôi đang cho sửa sang thêm và chồng tôi sẽ đặt điện thoại không mất tiền cho họ. Còn bên cạnh căn hộ đó, có một bà ốm yếu sống một mình trong một căn buồng. Cầu trời ban sức khỏe cho bà ta, bà ta sắp chết rồi. Năm ngoái bà ta nhận chồng tôi là con nuôi, chúng tôi nuôi người đàn bà khốn khổ ấy và chăm sóc bà ta. Nếu bây giờ không đăng ký được cho con trai thứ của tôi vào đó thì sẽ mất đứt căn buồng, đồng chí hiểu chứ? Bao nhiêu công sức của chúng tôi sẽ đi tong hết!... Chỉ một tiếng điện thoại của đồng chí là xong, đồng chí Batsana kính mến ạ! Chúng tôi sẽ ngày đêm cầu phúc cho đồng chí...
- Thực tình tôi rất khó khước từ việc bà nhờ cậy, nhưng... tôi không quen biết ông chủ tịch đó... - Cha Iôram lau mồ hôi trán.
- Nhưng ông ấy biết đồng chí! - Người đàn bà kêu lên.
- Tôi lấy làm ngờ về điều đó... - Cha Iôram thốt lên, cầu cứu Batsana bằng cái nhìn nhiều ngụ ý. Thương hại vị linh mục tội nghiệp, Batsana tích cực can thiệp vào cuộc nói chuyện đã kéo dài:
- Tôi biết hoàn toàn đích xác là hai người không quen nhau!
- Tôi không thể tin được!
- Xin thề có mẫu thân tôi! - Batsana đặt tay lên tim.
- Có lẽ ông giúp được tôi chăng?- Người đàn bà quay lưng về phía cha Iôram và nhìn Batsana với niềm hy vọng.
- Tôi chỉ có mối quen biết ở trường đại học thể dục thể thao thôi...
- Thôi được, sang năm con trai thứ tôi tốt nghiệp phổ thông. Nó bơi rất giỏi, ở Kôiubêti nó bơi xa bờ hàng trăm mét, lấy đá ở dưới đáy sông lên! Xin ông cho biết họ của ông, sang năm tôi sẽ quấy quả ông. - Người đàn bà lấy trong xắc ra cuốn sổ tay và cây bút chì.
- Nếu đến lúc ấy tôi còn sống...
- Quả có thế... Tôi có cái hạnh phúc đáng ghét là... Dù sao xin ông cứ cho biết họ của ông để khi nào cần đến...
Đến đây Batsana làm hỏng cả tấn kịch. Quên phắt mất chuyện đóng trò, ông đáp với niềm tự hào ra mặt:
- Tôi là Batsana Ramisvili!
Ngạc nhiên quá, hàm người đàn bà trễ xuống và cây bút chì đờ ra trong tay bà ta.
Batsana toát mồ hôi lạnh.
- Ông nói gì vậy?!
- Vâng, tôi là Ramisvili! - Batsana nhắc lại.
- Thế còn ông kia là ai? - Bà ta trỏ Iôram.
- Cha bề trên của nhà thờ Ba ngôi Ortatsala, cha Iôram Kanđêlaki.
Hai tay người đàn bà thõng xuống và mặt bà ta xám đi.
- Vậy mà con người ấy lại hỏi tôi có tin Chúa hay không ư?!
- Thưa bà, đành là tôi có lỗi một phần, nhưng... - Cha Iôram biện bạch.
Người đàn bà đứng dậy. Bầu không khí im lặng ngượng ngập bao trùm trong phòng.
- Lòng nhân đạo của ông để đâu? - Bà ta ném lên Batsana một cái nhìn căm giận.
Batsana lặng thinh nhún vai và đặt vào dưới lưỡi một viên valiđôn.
- Những tên hề! - Người đàn bà đốp một câu và rời khỏi phòng bệnh...
- Ồ... thật là không hay! - Cha Iôram nói.
- Rất không hay nữa là khác. Tất cả chỉ là tại tôi. Xin cha rộng lòng thứ lỗi...
- Tôi tha thứ cho ông, bởi chính tôi cũng có lỗi không kém, nhưng cái chính là tôi thương ông! Chẳng lẽ trên đời không có người nào chăm lo đến sức khỏe của ông và chỉ thế thôi ư? - Giọng cha Iôram chứa chan niềm thông cảm thực sự đến nỗi chính Batsana cảm thấy tủi thân. - Rõ ràng là nhiều người đến quấy quả ông, và có nhiều người ông đã phải giúp đỡ họ, phải không?
- Về phần cha thì dễ dàng thôi, người ta đến quỳ gối trước cha và chỉ cầu xin một điều: cứu rỗi linh hồn... - Batsana không muốn nói chuyện ấy nữa.
- Ông lâm vào cảnh như thế đã lâu chưa?
- Từ khi tôi làm cán bộ biên tập tờ báo... Nếu tôi sống được thì sau khi ra viện tôi sẽ thây kệ mọi sự đời!... Tôi đã mất bộ dạng con người, cha ạ, mà đã biến thành chủ tịch một ban từ thiện kiểu đó... Tôi đã làm mọi người chán ngấy về những điều thỉnh cầu bất tận của tôi...
- Làm việc thiện là điều hợp ý Chúa. - Linh mục nói.
- Tôi đồng ý với cha, và suốt đời tôi cố gắng làm điều tốt cho mọi người, nhưng... Cha nghĩ sao, cái bà ấy... bà ta có đáng được thông cảm không?
- Một mụ điêu toa đạo đức giả! - Cha Iôram trả lời cả quyết.
- Thế cha nhìn nhận như thế nào về những kẻ bịp bợm tương tự như vậy, tay cầm nến, quỳ gối cầu xin Chúa ban ân huệ?
- Ông Batsana kính mến ạ, chúng tôi có một ưu thế so với các ông: người cầu xin của chúng tôi trực tiếp kêu cầu với đấng tối cao để được người cứu giúp.
- Tôi biết, tôi biết, thưa cha! Các cha vận dụng một công thức vạn năng, bao trùm, không ràng buộc một trách nhiệm nào cả: “Đấy là ý Chúa!” hay “Ý Chúa không muốn như thế!”. Một công thức thuận tiện, khỏi phải nói!... Còn chúng tôi buộc phải tuân theo những công thức phức tạp và hoàn toàn cụ thể: “Cái đó bất hợp pháp” và “Như thế là hợp pháp”. Và chúng tôi phải đấu tranh, cha hiểu chứ? Đấu tranh, chứ không phải là cầu nguyện để mong diệt trừ sự vi phạm luật pháp và khẳng định pháp chế! Kẻ phạm tội thì các cha dành cho Chúa phán xử, còn chúng tôi thì trao cho cơ quan tư pháp!... Cuộc sống của các cha thật là an nhàn, cha Iôram ạ!...
Linh mục không trả lời, kéo chăn trùm kín đầu và im bặt.
-... Dẫu sao con người có bổn phận gieo rắc điều thiện. - Ông ta nói sau một hồi lâu im lặng.
- Nhưng trong đời nhiều khi không dễ đoán được cái hạt giống ta gieo sẽ mọc lên thứ quả như thế nào... Nếu cha muốn biết, tôi sẽ kể hầu cha một chuyện trong đời tôi, tuy nó giống chuyện cổ tích nhiều hơn...
- Hay lắm! Rất vui lòng! - Cha Iôram ló đầu ra khỏi chăn và sẵn sàng nghe.
* * *
- Có lần cô thư ký mở cửa phòng làm việc của tôi và nói:
- Thưa đồng chí Batsana Akakiêvitx, có một con khỉ xin được gặp đồng chí!
“Cho vào”.
Một con khỉ nhỏ nhắn bước vào, chìa ra bàn tay ướt và lạnh (đặc điểm của tất cả những kẻ nịnh hót và lừa bịp), đặt lên bàn mấy tờ giấy viết kín đặc, rồi nó lui vào một góc và nhìn tôi với cặp mắt chứa chan hy vọng.
Tôi xem qua mấy tờ giấy. Thì ra đó là một mớ tạp nhạp những câu hóm hỉnh, những câu châm ngôn, những câu nói bóng, đại loại là như thế, nói chung là những cái người ta thường đăng ở cột cuối các số báo chủ nhật dưới đầu đề chung: “Những câu thú vị...”. Cái mớ tạp nhạp ấy cũng tạm được, xứng với một con khỉ.
“Có lẽ theo thuyết Darwin, tới một lúc nào đó con khỉ này cũng sẽ thành người”. - Tôi nghĩ thế và cho đăng mấy câu hóm hỉnh của nó. Tôi còn nhớ một trong những câu đó như thế này: “Con người phải có nhiệt độ thực sự cao để đi tìm nhiệt kế trong các hiệu thuốc của chúng ta”.
- Được đấy! - Cha Iôram cười vang.
- Hồi ấy tôi cũng nghĩ như vậy... Rồi con khỉ lại đến. Không ai còn nhận ra nó nữa: nó ăn vận như người, thậm chí còn tươm tất hơn. Nó mang đến những câu bông đùa và châm ngôn khác nhau. Tôi đọc và căn cứ vào văn phong, tôi biết ngay tác giả của nó là khỉ.
“Này, - tôi nói. - Chú mày có phải là con khỉ mới hồi nọ đến đây phải không?”
“Vâng, tôi chính là con khỉ đó. Tôi rất muốn trở thành người và tôi cầu xin ông giúp tôi điều đó”.
“Nhưng mi phải biết rằng con người do lao động tạo nên. Hãy chịu khó lao động đi, kiên nhẫn một chút!”
 “Tôi biết, điều đó tôi đã từng đọc trong sách. Nhưng tôi thuộc giống khỉ không đủ kiên nhẫn. Hơn nữa, đa số người đời hiện giờ đã coi tôi là người rồi mà”.
“Thôi được, tùy mi, - Tôi đồng ý, - ta sẽ đăng cho mi mấy câu bông đùa và châm ngôn nữa, nhưng như thế phỏng có lợi gì cho mi không? Mi sẽ vẫn cứ là khỉ như trước kia mà?”
“Ấy, ông chớ làm tôi bị lộ!” - Con khỉ cầu van, cảm ơn rồi ra về.
- Bản tính tôi vốn nhân hậu. Tôi thương con khỉ, nhất là nó bắt chước ngôn ngữ và hành động của con người rất khéo, tôi đã cho in một vài cái trong số “những tác phẩm” của nó. Tôi nghĩ rằng thôi thì cứ để cho nó được thích thú, nó có thể gây tác hại gì nào? Thế là con khỉ của chúng ta đã lên làm người...
- Nhưng chẳng lẽ không ai nhận thấy rằng đây vẫn là khỉ chứ không phải người ư? - Cha Iôram ngắt lời Batsana.
- Cha có thể tưởng tượng được không, người ta không nhận ra! Nhận biết một người đã biến thành khỉ dễ hơn nhận ra một con khỉ đã thành người... Mới đây thôi, ở vườn bách thú của chúng ta có ba con khỉ đã trốn mất. Công an triệu tập một cuộc họp công tác, bàn cách làm thế nào bắt lại thật nhanh chóng mấy con khỉ đã trốn thoát. Cuộc họp hơi kéo dài. Thế là một công an viên đứng lên nói: “Đồng chí trung tá, xin nói cho gọn thôi, kẻo không mấy con khỉ trà trộn lẫn với người thì chúng ta đừng hòng phát hiện ra!”.
- Rồi thế nào nữa? - Cha Iôram hỏi với vẻ sốt ruột.
- Bắt lại được hai con, còn con thứ ba thì hiện giờ vẫn đang tìm kiếm... Thôi, tôi kể tiếp câu chuyện của tôi... Con khỉ của chúng ta đã thành người... Mấy năm sau nó lại đến tòa soạn. Lần này nó đem đến... những truyện ngắn. Tôi đọc và phát khiếp lên.
“Con khỉ vô phúc kia, - tôi nói. - Mi làm cái trò bôi bác gì thế này? Mi mang cho ta cái mớ bòng bong gì vậy?!”.
“Sao lại thế? - Nó bực tức. - Với tư cách một nhà phê bình, tôi rất thích những truyện ngắn của tôi là đằng khác!”.
 “Sao, - tôi ngạc nhiên. - Mi đã trở thành nhà phê bình rồi ư?”.
“Vâng. - Nó trả lời với vẻ trang nghiêm. - Tôi là nhà phê bình, tôi có học vị, tôi giảng bài trên đài phát thanh, trên hệ thống truyền hình, trong tổ chức của hội “Kiến thức” và tại một trường đại học nữa kia”.
Tôi thương những sinh viên đã nghe con khỉ giảng bài, nhưng tôi có thể làm gì được? Tôi không phải là chủ nhiệm khoa, không phải là hiệu trưởng trường đại học để có thể tống cổ nó đi. Vả chăng, về mặt tinh thần, tôi cũng không có quyền làm việc đó, bởi chính tôi đã đưa con khỉ lên làm người!...
- Nhưng ít nhất ông cũng có thể báo cho mọi người biết rằng nó... rằng con vật ấy... gã giảng viên ấy là con khỉ chứ! - Cha Iôram trách Batsana.
- Tôi có nói rồi đấy, cha ạ, có nói đấy, nhưng muộn mất rồi... “Chính anh là khỉ thì có!”, người ta trả lời tôi như vậy đấy.
- Đáng đời ông! - Linh mục buột miệng nói.
- Đúng thế! - Batsana đồng ý.
- Vậy ông đã làm thế nào? - Cha Iôram hồi hộp thực sự.
- Tôi làm cái việc mà tôi có thể làm được: trả lại nó những truyện ngắn.
- Thế nó làm gì?
- Nó làm um lên! Nó nói: ấy là vì tôi không phải là hội viên Hội nhà văn! Nhưng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ là hội viên, lúc ấy rồi sẽ biết tay nhau! - Một ý muốn thôi thúc tôi bảo với nó rằng khỉ không có chỗ trong Hội nhà văn, nhưng tôi im lặng...
- Tại sao ông lại im lặng, ông Batsana kính mến?! - Cha Iôram cất cao giọng.
- Thưa cha Iôram, là bởi vì trước đó đã nhiều lần tôi giới thiệu và bỏ phiếu cho những con khỉ còn trong sạch hơn con này... - Batsana ngừng bặt.
- Sau này ông không gặp lại nó nữa chứ? - Đã yên tâm, cha Iôram hỏi.
- Thế thì còn nói làm gì! Nó đã trở thành hội viên Hội nhà văn, thậm chí còn kết bạn với tôi nữa. Mỗi khi uống mừng sức khỏe của tôi, nó tôn xưng tôi như thể tôi đích thị là bố nó... Rồi sau, khi tôi được đưa vào danh sách ứng cử đại biểu Xô viết, nó cố tình đến gặp đồng chí bí thư quận ủy và cảm ơn đồng chí ấy.
- Đừng làm tôi phát điên lên!
- Sự thể đúng như vậy! Thì ra nó đến gặp đồng chí bí thư và nói: “Nhân danh các nhà văn Gruzya, giới bạn đọc, các cán bộ trong tòa soạn của tờ báo do đồng chí Batsana Ramisvili quý mến của chúng ta phụ trách và rất nhiều bạn bè của đồng chí ấy, tôi muốn bày tỏ với đồng chí, thưa đồng chí Nikôlai Pêtrôvitx kính mến, lòng biết ơn nồng nhiệt về việc đồng chí đã dành cho đồng chí Batsana sự tin cậy cao cả như vậy. Chỉ có một người cộng sản có tính nguyên tắc, can đảm và cao quý như đồng chí mới có thể nhận định về Batsana Ramisvili chỉ căn cứ vào những phẩm chất cá nhân của đồng chí ấy, chứ không chú ý gì đến quá khứ của đồng chí ấy...”.
“Quá khứ thế nào?” - Bí thư quận ủy ngạc nhiên, hỏi.
“Dạ, chẳng có gì đặc biệt đâu! Thật thú vị khi thấy đồng chí không để ý gì đến những cái lặt vặt, chẳng hạn trước đây cha mẹ Ramisvili đã từng bị xử trí, bản thân đồng chí ấy thời thanh niên cũng đã ngồi tù một thời gian... đành là do sự hiểu lầm... Nhưng đồng chí hiểu đấy, lý lịch là lý lịch... Hay chẳng hạn, mới đây, trong tờ báo do Ramisvili biên tập, thay cho từ “Những người bônsêvich” lại viết là “Những người mensêvich”... Vâng, lòng nhân từ, tính nguyên tắc của đồng chí chính là ở chỗ đó!... Làm ngơ trước những sự việc tương tự, tỏ lòng tin cậy cao cả đến mức ấy đối với một người còn rất trẻ và nói chung là chưa có công lao gì lắm, dám liều lĩnh gánh lấy trách nhiệm, có thể nói như vậy, chỉ có một người lãnh đạo giàu kinh nghiệm và có tính nguyên tắc như đồng chí mới dám làm, thưa đồng chí Nikôlai Pêtrôvitx kính mến, tôi không đủ lời lẽ để nói lên lòng biết ơn đồng chí sao cho xứng đáng. Cảm ơn đồng chí, một lần nữa cảm ơn đồng chí!”.
- Con khỉ đã nói với bí thư quận ủy như thế đấy... - Batsana kết thúc câu chuyện của mình.
- Thế bây giờ nó ở đâu? - Cha Iôram hỏi, vận dụng cái lưỡi đã khô rát của mình một cách khó nhọc.
- Tôi không rõ... Chưa biết chừng ngày mai nó sẽ đến thăm tôi cũng nên...
-------------
[49] Một chương trong “Dũng sĩ khoác da hổ” của Sôta Ruxtavêli.
[50] Những nhà thể thao nổi tiếng trong quá khứ.
[51] Tên cũ của một quận ở Tbilixi.

Chương 13


Trước khi đưa vấn đề kết nạp Batsana vào đảng ra thường vụ quận ủy, Batsana được mời lên trao đổi ở quận ủy.
Batsana vào văn phòng quận ủy, chào ba người đàn ông ngồi bên chiếc bàn dài và ngồi xuống một chỗ ở đầu bàn.
- Đồng chí Ramisvili, cuộc nói chuyện giữa chúng ta hôm nay mang tính chất thủ tục. Nó chỉ có một mục đích: đảng phải biết rõ đảng tiếp nhận người như thế nào vào hàng ngũ của mình. Cho nên, nếu đồng chí không phản đối, chúng tôi sẽ nêu ra với đồng chí một số câu hỏi. Có thể đồng chí cũng sẽ hỏi lại chúng tôi. - Một người đàn ông nói, ông ta ngồi ở bàn, mé bên phải, trước mặt ông là hồ sơ cá nhân của Batsana.
- Vâng, được, cứ theo như quy định. - Batsana đáp và cảm thấy tim đập gấp. Cuộc nói chuyện này giống kỳ thi, chỉ khác một điều là các giám khảo có thể hỏi bất cứ điều gì.
- Trước hết, ta hãy làm quen với nhau. Chúng tôi là những người bônsêvich già. Tên tôi là Alêcxandr, họ tôi là Iordanisvili. - Người đàn ông mở đầu cuộc nói chuyện tự giới thiệu. - Còn đây là các bạn tôi: Vanô Banđơzêlatzê và Đavit Managatzê.
- Rất hân hạnh, chào các đồng chí!
- Xin mời ngồi! - Giọng Iordanisvili thấp, khàn, mặt rỗ, mũi gồ, mắt màu nâu sáng. - Tôi muốn biết điều này: tại sao cho đến giờ đồng chí không vào đảng?
Batsana vẫn chờ đợi câu hỏi đó, ông đã có sẵn câu trả lời khuôn sáo: tôi tự thấy chưa đủ vững vàng để đảm nhiệm sứ mệnh đó, còn bây giờ, khi đã nắm vững... và vân vân. Nhưng ông trả lời khác:
- Cho đến giờ đảng chưa kết nạp tôi!
- Tại sao? - Banđơzêlatzê hỏi, đấy là người đàn ông mặt hơi đỏ, mũi tẹt, mắt nhỏ, lanh lợi. Batsana không thể nào định rõ màu mắt ông ta.
- Bố mẹ tôi bị xử trí. - Batsana nói thêm.
- Hiện giờ đã được minh oan, - Iordanisvili nói và nhìn các bạn.
- Đồng chí vào đoàn Thanh niên cộng sản như thế nào? - Managatzê hỏi, quay cái đầu to tướng, bù xù như đầu chó chăn cừu Kapkazơ về phía Batsana, nhìn ông bằng con mắt chăm chú, rất hiền.
- Tôi giấu chuyện bố mẹ tôi bị bắt...
Những người nói chuyện với ông ngạc nhiên nhìn nhau.
- Ờ, nhưng... Chẳng lẽ ở trường không ai biết chuyện đó ư? - Managatzê hỏi.
- Biết. Cả bí thư chi đoàn Kômxômôn cũng biết.
- Vậy mà đồng chí ấy làm ngơ?
- Vâng.
- Tại sao?
- Đồng chí ấy là bạn thân của tôi... Đấy là những năm chiến tranh gay go... Hồi ấy, nếu chỉ để phô trương thì người ta không vào đoàn...
- Còn những ai biết nữa?
- Tất cả... Trừ quận ủy.
- Thế mà không ai lộ ra?
- Vâng, không ai nói lộ ra! - Iordanisvili trả lời thay cho Batsana và đặt hồ sơ cá nhân của ông sang một bên.
- Vậy đồng chí nghĩ thế nào, liệu đồng chí có được kết nạp vào đoàn không, nếu người ta biết bố mẹ đồng chí bị xử trí?
- Không, không kết nạp!
Bắt đầu im lặng.
- Đồng chí cho biết, - Banđơđêlatzê, - đồng chí có còn oán hận về việc cha mẹ của đồng chí không?
Batsana biết ông phải trả lời “không”: lạ thật, đồng chí nói chuyện oán giận gì kia chứ!
Nhưng ông thích nói sự thật hơn:
- Có chứ! - Tay run lên, ông lấy một điếu thuốc lá trong hộp.
- Cho tôi một điếu! - Managatzê đưa tay ra, ông cũng không kém phần xúc động.
Batsana đưa hộp thuốc và diêm cho ông.
- Rồi sau thế nào?... Đã hết oán giận rồi hay là...- Banđơđêlatzê hỏi và lấy một điếu thuốc lá trong hộp.
- Hết rồi... Nhưng nhiều năm sau, nó lại xuất hiện. - Batsana châm thuốc hút.
- Vào hồi nào?
- Sau khi được phục hồi... Sau khi bố mẹ được phục hồi, lẽ ra vui mừng, tôi lại cảm thấy nỗi hận đắng cay... - Batsana tắt điếu thuốc và lập tức châm điếu khác. - Bởi vì trong tất cả những năm ấy, chúng tôi đã ngậm oan, chịu đựng bao nhiêu đau xót, nhục nhã, thiếu thốn...
- Bây giờ cha mẹ đồng chí ở đâu? - Iordanisvili hỏi.
- Các người không còn nữa...
- Và bây giờ đồng chí mang theo tình cảm như thế vào đảng ư? - Banđơđêlatzê hỏi.
Batsana ngẫm nghĩ. Banđơđêlatzê nhay nhay điếu thuốc lá một cách nóng nảy. Sự im lặng kéo dài. Cuối cùng Batsana lên tiếng:
- Tôi biết, lịch sử đầy rẫy những điều oái oăm... Con người phạm sai lầm là chuyện thường tình, dù muốn hay không. Rồi sau đó người ta sửa chữa sai lầm của mình: có những người sửa chữa sớm hơn, có những người muộn hơn. Một số khác, khi từ giã cõi đời vẫn đinh ninh rằng mọi việc mình làm đều đúng. Các thế hệ sau sẽ phải sửa chữa những sai lầm của họ... Những người gây đau xót cho tôi đã chịu trách nhiệm đầy đủ, thực ra họ không còn ở trên đời này nữa... Bây giờ lên cầm quyền là thế hệ của tôi, những người lớp tuổi tôi. Tôi không có quyền trả thù. Trái lại, tôi có bổn phận đứng bên cạnh họ, ít ra là để không cho những sai lầm tương tự tái diễn. Nhất là tôi tin ở sự nghiệp của họ, coi đó là sự nghiệp của chính mình... Lại còn điều này nữa, và đây là cái chính: nhà văn không có quyền chủ quan! Nếu nhà văn mất ý thức khách quan thì sáng tác của anh ta không đáng giá một xu.
Banđơđêlatzê gật đầu hài lòng. Iordanisvili nêu câu hỏi mới:
- Đồng chí có biết lá thư của Vladimir Ilits Lênin gửi các đảng viên cộng sản Azecbaigian, Gruzya, Armênya, Đaghetxtan và nước cộng hòa Gorxki không?
Batsana suy nghĩ hồi lâu, rồi đáp:
- Kính thưa đồng chí Alêcxandr, liệu tôi có được kết nạp vào đảng không, nếu bây giờ vỡ lẽ ra rằng tôi không biết lá thư đó hay những lá thư khác của đồng chí Lênin?
Iordanisvili bối rối, im lặng.
Thế là Batsana nói tiếp:
- Điều đồng chí hỏi tôi chỉ là điều cá nhân đồng chí muốn biết, hay là điều bắt buộc phải biết?
- Đó là điều nên biết, đồng chí Ramisvili ạ... Bức thư đó gửi cho chúng ta và bạn bè chúng ta.
Batsana cảm thấy rất ngượng nghịu. Ông đứng lên và định nói gì, nhưng Iordanisvili nói trước:
- Tạm biệt, đồng chí Ramisvili! - và cũng đứng lên.
Batsana giật mình. “Thế là hết!” - một ý nghĩ đáng sợ thoáng qua trong đầu và ông cảm thấy đau nhói trong ngực. Ông ngồi xuống và hai tay ôm lấy ngực chỗ tim đập.
- Đồng chí làm sao thế? - Managatzê lo lắng.
Batsana thu hết sức lực đứng lên.
- Không sao, Davit kính mến, sẽ qua thôi... Hết rồi! - Batsana mỉm cười.
- Ngày mai, lúc một giờ, vấn đề của đồng chí sẽ được thảo luận ở thường vụ. Tôi cho rằng mọi việc sẽ tốt thôi... Còn bức thư ấy thì dù sao đồng chí cũng nên đọc lại, nếu có thời giờ... - Iordanisvili khuyên.
- Đồng chí Alêcxandr kính mến, thư “Gửi các đồng chí cộng sản Azecbaigian, Gruzya, Armênya, Đaghetxtan, nước cộng hòa Gorxki”, Lênin viết ngày mười bốn tháng tư năm một nghìn chín trăm hai mươi mốt, rồi ngày tám tháng năm năm đó, bức thư được đăng trong tờ “Sự thật Gruzya” số năm mươi nhăm...
- Đồng chí là con người kì quặc. Ramisvili ạ! - Iordanisvili mỉm cười. - Tạm biệt.
- Tạm biệt, hết sức cám ơn các đồng chí! - Batsana bắt tay tất cả mọi người và ra khỏi văn phòng đảng ủy.
* * *
Lúc một giờ, Batsana được mời vào phòng làm việc của bí thư thứ nhất quận ủy. Ông vào, cúi chào tất cả các quận ủy viên ngồi bên chiếc bàn tháo gấp và nhìn dãy ghế dựa chạy dài dọc chân tường, không biết ngồi chiếc nào và không biết trong trường hợp như thế này có nên ngồi không.
- Mời đồng chí ngồi! - Ông nghe thấy một giọng nói quen thuộc. Batsana ngẩng đầu lên và mãi đến giờ ông mới thấy đồng chí bí thư quận ủy trẻ tuổi. Đồng chí bí thư nheo mắt phải, mỉm cười nhìn Batsana. Batsana ngồi ở giữa dãy ghế.
- Tôi cho rằng không cần giải thích. - Đồng chí bí thư quận ủy đứng lên. - Batsana Ramisvili thì tất cả chúng ta đều biết. Hôm nay đồng chí sẽ trở thành người của đại gia đình chúng ta... Tôi sẽ đưa các đồng chí xem đơn, lý lịch và lời giới thiệu...
- Không cần! - Có người nào nói.
Bí thư đặt hồ sơ cá nhân của Batsana sang một bên và nói với những người có mặt:
- Còn ai hỏi gì nữa không?
- Tôi xin hỏi một câu! - Một ủy viên thường vụ nói.
Batsana cảm thấy lạnh buốt trong ngực.
- Xin mời!
Bắt đầu một lúc im lặng mà Batsana tưởng như cả một thế kỷ.
- Này, đồng chí Ramisvili, tại sao đồng chí vào đảng?
Tất cả quay về phía Batsana. Ông đứng lên, đưa khăn lau mặt và chuẩn bị trả lời, nhưng bỗng đổi ý. Ông phải nói gì với những người giờ đây đang có quyền quyết định Batsana Ramisvili có được là đảng viên cộng sản hay không? Batsana biết, trong những trường hợp như thế này câu trả lời thông thường là: ông hoàn toàn tán thành cương lĩnh và điều lệ đảng, ông sẵn sàng luôn luôn làm tròn mọi nhiệm vụ và điều lệ đảng giao cho, ông muốn trở thành người tích cực xây dựng xã hội cộng sản...- tất cả những điều đó ông đã thuộc lòng, nhưng nói ra lúc này ông thấy là thừa, kỳ cục. Bởi vì, để làm như thế, không nhất thiết phải là đảng viên cộng sản. Ngoài ra, trong số các ủy viên thường vụ, ông không thấy ai là người có ý làm khó dễ cho ông... Đột nhiên Batsana nói:
- Tôi muốn trong đảng có thật nhiều người chính trực! - Nói đoạn, ông ngồi xuống.
Trong phòng như có luồng gió nhẹ thoảng qua, tiếng thì thầm ngạc nhiên lan ra. Rồi không khí im lặng bào trùm, Batsana không ngẩng đầu lên. Ông nghe thấy lời đồng chí bí thư:
- Các đồng chí, tôi biết Batsana Ramisvili từ thuở bé và có thể nói rằng đồng chí ấy là người cộng sản đến tận xương tủy. Tôi coi đồng chí ấy là đảng viên cộng sản, tôi ủng hộ việc kết nạp đồng chí ấy. Ai tán thành kết nạp Batsana Akakiêvitx Ramisvili làm đảng viên dự bị đảng cộng sản Liên Xô thì đề nghị giơ tay lên.
... Đến đây xảy ra một điều hẳn là chưa từng thấy trong lịch sử một đảng: chính Batsana Ramisvili cũng giơ tay cùng với những người khác.

Chương 14


Ở Tbilixi, tuyết rơi hai ngày không ngớt, tuyết khô và xốp. Giao thông tắc nghẽn. Các phố tràn đầy tiếng ồn ào vui vẻ, tiếng cười, tiếng kêu sợ hãi của những người trượt ngã, tiếng la ré của các cô gái sa vào trận bom tuyết, tiếng cười hô hố của các chàng trai, không khí được lọc sạch trở nên nhẹ bỗng kỳ lạ và ngon lành đặc biệt. Có thể nói là Tbilixi trắng xóa như bà chúa Tuyết đang dạo chơi trên các đường phố của mình, khoe với dân thành phố mái tóc bạc sớm.
Đã hơn chín giờ tối. Hai tay đút túi, cổ áo măng tô dựng lên, Batsana thong thả đi trên công viên Vakê. Đầu óc không nghĩ ngợi gì, ông đi xuyên qua tấm màn tuyết thần kỳ gây cảm giác tê tê dễ chịu trên mặt. Ở góc phố Môxasvili, Batsana gần như xô phải một người phụ nữ đột nhiên từ góc phố nhô ra. Vì bất ngờ, cả hai giật mình. Trong khoảnh khắc, họ đứng áp sát vào nhau. Batsana đã kịp thấy rõ đôi mắt to long lanh của nàng. Rồi ông nhanh nhẹn nhường đường cho nàng và nói bằng giọng biết lỗi:
- Xin lỗi, thưa kanbatônô!
Liền đó, nghĩ rằng người phụ nữ quá trẻ để xưng hô như thế, ông nói thêm:
- Xin lỗi cô!
- Không sao, đó là chuyện bình thường! - Nàng đáp bằng giọng điềm tĩnh và tiếp tục đi.
Batsana nhìn người phụ nữ đang xa dần và nghĩ: “Nếu trên đời có linh tính và sự công bằng thì nàng phải quay lại!”. Và người phụ nữ đã quay lại. Batsana chậm rãi đi về phía nàng, còn nàng đi về phía ông. Giáp mặt nhau, họ dừng lại, và Batsana bỗng cảm thấy nghẹn thở, ông nói:
- Chào chị!
- Chào anh! - Người phụ nữ đáp, đưa tay ra.
Batsana nhanh nhẹn rút găng tay và nắm lấy tay nàng. Bàn tay nàng vừa mềm và ấm. Batsana nhìn vào mắt người phụ nữ không quen biết và hiểu rằng nàng cũng xúc động.
- Chị đi đâu thế? - Batsana hỏi câu vừa chợt nghĩ ra.
- Về nhà, - người phụ nữ đáp và cho tay vào túi áo lông.
- Chị xinh quá! - Batsana buột miệng và đỏ mặt lên.
- Tôi biết, - người phụ nữ nói một cách bình tĩnh.
- Chắc hẳn đó là một cảm giác rất thú vị: có ý thức về sắc đẹp của mình!
- Biết nói thế nào được! - người phụ nữ nhún vai.
- Cố nhiên là thích thú rồi! Cứ nói như tôi thôi, bao giờ tôi cũng thích thú được nhìn một phụ nữ xinh đẹp! - Batsana bạo dạn lên.
- Cái đó dễ thấy! - người phụ nữ mỉm cười.
- Có lẽ tôi hỏi những câu dớ dẩn chăng? - Batsana chợt nghĩ ra.
Người phụ nữ lắc đầu.
- Ông rất giống Batsana Ramisvili! - nàng nói.
- Giống lắm! - Batsana trả lời, lấy làm vui sướng, lòng tràn ngập niềm tự hào.
- Những người khác cũng nói với ông như thế ư?
- Hầu như tất cả những người quen tôi đều nói như vậy.
- Giống lạ lùng!
- Giống đến mức thậm chí trong chứng minh thư của tôi ghi là Batsana Ramisvili! - Batsana phá lên cười.
Người phụ nữ ném lên ông một cái nhìn hồ nghi.
- Này, ông bỏ mũ catket ra đi!
Batsana bỏ chiếc mũ catket bám đầy tuyết, đập vào đầu gối rũ tuyết.
- Trời ơi! - người phụ nữ kêu lên. - Ông quả thực là Batsana Ramisvili!
- Tên cô là gì, thưa cô? - Batsana bạo dạn lên.
- Con gái tôi tên là Maiya...
Batsana bối rối.
- Chắc cháu khoảng một tuổi nhỉ? - Batsana cố giấu sự ngượng ngập.
- Mười bảy! - Người phụ nữ nói rõ.
- Không có lẽ!
- Xin thề có Maiya!
- Xin cho biết tên chị.
- Marya.
- Chị xinh quá, Marya ạ!
- Ông cũng thế...
Batsana đỏ bừng mặt.
- Ờ...
- Xin thề có Maiya! - người phụ nữ nhắc lại.
- Hoặc chị không có con gái, hoặc lời thề của chị không thành thực! - Batsana buột miệng nói bằng giọng bực tức.
- Không, tôi nói thực! - người phụ nữ đáp một cách nghiêm chỉnh. Chị quay ngoắt đi và cất bước.
- Khoan đã! - Batsana gọi to.
Người phụ nữ dừng lại.
- Tôi tiễn chị!
- Tôi ở cách xa đây.
- Ở đâu?
- Gần cầu Vôrôntsôp.
- Vâng, hơi xa. Cho phép tôi đi tiễn chị...
- Không, tôi muốn đi một mình! - Người phụ nữ ngả đầu ra sau, ngửa khuôn mặt xinh đẹp đón những bông tuyết.
- Chị không sợ ư?
Người phụ nữ lắc đầu và bước đi.
Như bị bỏ bùa, Batsana đám đuối nhìn theo người phụ nữ đã đi xa. Chị bước thoải mái, dáng đi kiêu hãnh. Cả chiếc áo lông cũ kỹ, cổ áo đã sờn, cũng như đôi ủng mòn vẹt đều không thể che lấp vẻ đẹp trang trọng thể hiện ở dáng người cân đối của nàng. Batsana sực tỉnh khi người phụ nữ khuất sau góc phố.
- Thật là đần độn! Đáng lẽ ít nhất cũng phải hỏi nàng họ gì chứ!
Ông vùng chạy ra đại lộ Tsaptsavatzê, nhưng không thấy người phụ nữ đâu nữa. Nàng đã biến mất, như bông tuyết tan biến trên bàn tay nóng hổi...
Batsana trở về nhà. Sau khi đã rũ hết tuyết, ông đưa tay lục tìm dưới tấm thảm con lăn lóc cạnh cửa, lấy chìa khóa, vào phòng, và lần đầu tiên trên đời, ông cảm thấy xung quanh mình trống rỗng vô cùng, trống rỗng đến rợn người...

Chương 15


Hôm ấy Batsana tiếp hai vị khách: một người đầu óc bình thường và một người bất bình thường. Nhưng đấy là sau này mới rõ, còn thoạt đầu Batsana tháy hai người đều hoàn toàn bình thường.
Batsana ngồi ở bàn trong phòng làm việc và sửa bài văn châm biếm viết về những mánh khóe đen tối, sự phóng đãng và chuyên chế của một tay giám đốc xí nghiệp liên hợp chế tạo các sản phẩm bằng lông thú. Bài văn châm biếm viết bằng giọng gay gắt và rất đạt. Tất nhiên bài đó phải là cái đinh của số báo, một loại sự kiện chấn động, vì thế chỉ có Batsana và tác giả biết điều đó. Đoạn kết của bài văn châm biếm có vẻ gần như bịa đặt...
Trong buồng toa xe quốc tế có hai bà hành khách. Họ mau chóng làm quen với nhau, chẳng mấy chốc giữa họ đã bắt đầu một cuộc chuyện trò thường có giữa những người thuộc loại tầm thường. Khi đã chê bai tất cả những người hoàn toàn không quen, khi đã treo đèn đỏ lên cửa nhà [52] một nhân vật rất đáng kính trong nước cộng hòa, một trong hai bà bỗng ho sù sụ, ngạt thở. Bác sĩ trên tàu đến kịp thời đã tìm được cách làm cho bà ta tỉnh lại. Trả lời câu hỏi vì sao bỗng nhiên bà ta lại bị như thế, người đàn bà kiệt lực giơ tay trỏ chiếc áo lông của bà bạn đồng hành treo trong buồng toa và rên rỉ:
- Da lông... mèo...
- Lông gì?
- Dị ứng... Tôi bị dị ứng lông mèo...
- Hiểu rồi... Phải đưa chiếc áo lông ra khỏi buồng toa...
- Nói gì kì thế, ông điên rồi chắc? - Người có chiếc áo lông nổi nóng. - Mèo miếc gì?! Đấy là chiếc áo lông chồn nâu! Tôi mua bốn trăm năm mươi rúp đấy!
- Bà mua bao nhiêu tiền mặc lòng, phải đưa chiếc áo lông ra ngoài ít ra là mấy phút…
Sau một hồi cãi cọ dằng dai, người phụ trách toa đem chiếc áo lông đi, nạn nhân lập tức thở thoải mái, như chưa hề bị ho.
Mọi chuyện mở đầu từ đó. Đầu sợi chỉ tình cờ bị vướng mắc trong toa xe khiến cuộn chỉ tở ra, tở ra và lăn tới xí nghiệp liên hợp chế tạo đồ dùng bằng da lông thú. Đi theo cuộn chỉ là những người không dính dáng gì với ngành vận tải đường sắt và y tế, nhưng hiểu tường tận các loại da lông thú và giá cả...
Thế là bây giờ, tay giám đốc xí nghiệp liên hợp ấy đang đứng trước Batsana và mỉm cười bằng đôi mắt hum húp. Batsana vẫn chưa biết người này là ai, nhưng chỉ riêng bộ dạng của khách - béo ục ịch, giống cái gốc cây cụt đẽo vạc thô kệch - tự dưng cũng toát ra vẻ tự mãn, trâng tráo.
- Chào ông! - Y nói và không đợi mời, ngồi luôn vào chiếc ghế bành trước bàn Batsana.
Batsana gạt bài văn châm biếm sang một bên và sẵn sàng nghe, nhưng khách im lặng. Cả một phút trôi qua như thế.
- Tôi xin nghe! - Cuối cùng Batsana nói.
- Không, tôi đang chờ nghe ý kiến của ông! - Khách mỉm cười.
- Tôi không hiểu...
- Tôi là giám đốc xí nghiệp liên hợp chế tạo sản phẩm bằng da lông thú! - Khách nói, đôi mắt vàng ệch loáng ướt nhìn xoáy vào Batsana.
“Hẳn là túi mật của tay này không bình thường” - Batsana nghĩ và nói:
- Họ của ông là gì?
- Xanđrơ Maglapêritzê. Hẳn ông phải biết họ tôi! - Tiếng ông khách trầm đục, khàn khàn.
- Lần đầu tiên tôi nghe thấy! - Batsana nói dối - Nhưng cái đó không quan trọng. Ông đến có việc gì? Tôi không mời ông...
- Tôi đến về câu chuyện rùm beng xung quanh xí nghiệp của tôi... Tôi muốn khuyên ông: không nên để tai nghe những lời bá láp của những kẻ không am hiểu và ngu ngốc... Ông muốn biết gì thì cứ trực tiếp hỏi tôi đây này! - Maglapêritzê nói bằng giọng dạy đời.
- Tôi không hiểu ông nói gì... Tôi chẳng biết gì hết... - Batsana đáp một cách lạnh lùng.
- Ông biết hết... Đáng tiếc... Mà đấy là nhờ các cán bộ của tôi... Được, bọn ấy thì tự tôi sẽ thanh toán với chúng.
“Thật là láo xược! Hắn dám nói năng với ta như thế!” - Batsana nghĩ, nhưng nén được và bình tĩnh trả lời:
- Tôi nhắc lại, tôi không biết ông định nói về việc gì... Có lẽ ông nên nói rõ ra chăng?
- Vâng được! Nhưng tôi sẽ nói rõ không phải điều ông biết, mà là điều tôi biết kia!
- Tôi xin nghe!
- Số báo ngày mai của ông sẽ đăng bài văn châm biếm nhan đề “Dũng sĩ khoác da mèo”... Nói chung, tác giả bài châm biếm dớ dẩn đó cũng nên đọc “Dũng sĩ khoác da hổ” của Ruxtavêli vĩ đại. Nhân tiện xin nói, ở đây có những lời hết sức bổ ích:
Chăm sóc bạn không bao giờ hoài phí
Đạo đức gì nếu ta không kịp thời cứu giúp bạn ta?
Và thêm nữa:
Khi bông hồng về già, tàn héo
Bông hồng non sẽ tươi nở kế chân
- Tôi hi vọng ông cũng biết những lời đó, - Maglapêritzê mỉm cười nói thêm.
- Phải chăng ông định loại tôi khỏi cương vị công tác? - Batsana trả lời, cũng mỉm cười.
- Chết nỗi, đâu dám, thưa ông Batsana kính mến! Chẳng qua tôi muốn ngừa trước cho ông: ông tin chắc rằng đồng chí ở cơ quan cấp trên vẫn lui tới cơ sở sản xuất của chúng tôi sẽ ưa thích bài văn châm biếm đăng số báo ngày mai của ông chăng?
- Do đâu mà ông biết được nội dung bài văn châm biếm?
- Tôi biết, kính thưa ông Batsana... Trong bài ấy có viết rằng tôi là tên ăn hối lộ và bịp bợm, rằng tôi có nhân tình...Tiếp đó nó miêu tả một câu chuyện khôi hài về một bà nào đó bị dị ứng, có dính líu đến một cái áo choàng lông thú... Tóm lại, xin hãy nghĩ đến bản thân ông, thưa ông Batsana!... Cái ghế của ông đang ngồi không vững như ông tưởng đâu... Xin hãy tin kinh nghiệm của tôi.
Batsana phẫn nộ đỏ cả mặt lên, nhưng ông cố giữ giọng thật bình tĩnh, hỏi:
- Vậy đồng chí khuyên tôi như thế nào, đồng chí Maglapêritzê?
- Trước hết cần bình tâm... Nhưng chẳng giấu gì, chính tôi cũng không yên lòng... Đúng, việc tôi đến gặp ông là sự hạ mình đối với tôi! Trong những trường hợp như thế này, thông thường tôi cho các nhân viên kế toán của tôi đến gặp các biên tập viên... Ông là người cán bộ biên tập đầu tiên mà tôi đích thân đến thưa chuyện! Xin biết cho như vậy!
- Hạnh phúc cho tôi được hưởng cái vinh dự đó! - Batsana nghiêng đầu.
- Không nên mỉa mai, kính thưa ông Batsana. Tôi đến đây là vì kính trọng ông... Nói chung, mỉa mai là sở trường của tôi...
- Nếu vậy thì ông phí thời gian vô ích! - Batsana đáp.
- Cần loại bỏ bài văn châm biếm! - Maglapêritzê tuyên bố dứt khoát.
- Không thể được!
- Sẽ có người gọi điện cho ông, mà khước từ người đó thì...
- Cho dù chính thượng đế cũng không làm gì được! Báo đã sắp chữ xong, đình lại sẽ tốn của nhà nước năm mươi ngàn rúp... Bởi vậy, ta chấm dứt cuộc nói chuyện này.
- Bao nhiêu? - Maglapêritzê phá lên cười.
- Năm mươi ngàn rúp! - Batsana nhấn mạnh.
- Tôi sẽ bù đắp khoản thiệt hại đó.
- Nhà nước không cần có sự bố thí của ông!
- Ông bạn thân mến ơi, nhà nước gồm những người như tôi và ông. Và nếu ta không nâng đỡ lẫn nhau thì nhà nước sẽ sụp đổ. Chẳng lẽ ông không hiểu điều đó sao?
Batsana lộn tiết vì nụ cười tự mãn không rời khỏi khuôn mặt tên trâng tráo này.
- Nếu ông hiểu sự bịp bợm và những ngón gian lận về tiền nong là sự ủng hộ lẫn nhau thì ông lầm to, thưa ông Xanđrô! Không phải cái gì cũng mua được bằng tiền!
Maglapêritzê đứng lên.
- Ông là con gà trống non dại dột, thưa ông Batsana. Ông chỉ vừa mới có tiếng gáy và nên coi chừng, kẻo mà chưa kịp nảy cựa đã mất tiếng đấy!
- Tôi sẽ lưu ý đến lời khuyên của ông.
- Còn điều này nữa. Môem nói: ngoài năm giác quan đã biết, còn có một giác quan nữa: giác quan thứ sáu, không có nó thì mọi cái khác đều không đáng giá một xu...
- Giác quan thứ sáu là cái gì? - Batsana nhếch mép cười.
- Tiền, thưa ông Batsana, tiền! - Maglapêritzê nói, vẫn với nụ cười như thế.
- Muốn gì thì gì, sáng mai bài văn châm biếm sẽ đăng trên báo, rồi sau đó các cơ quan thích hợp sẽ có phản ứng.
- Và ban biên tập sẽ chờ đợi sự trả lời?
- Tất nhiên!
- Tôi thương ông, thưa ông Batsana, rất thương ông!...
Maglapêritzê đi về phía cửa.
“Thằng đểu!” - Batsana muốn quát lên, nhưng tay giám đốc xí nghiệp liên hợp nhanh hơn Batsana tưởng. Y nhanh nhẹn sập cửa lại.
* * *
Ông khách thứ hai vào phòng làm việc của Batsana sau đó một tiếng, như rán chờ cho Batsana bình tĩnh lại: Khách rất mực lịch sự, nom hoàn toàn đáng trọng, mắt dường như tỏa ra tia sáng anh minh và hiền hậu.
- Chào đồng chí tổng biên tập kính mến!
Batsana đứng lên, xiết chặt bàn tay ông khách đưa ra và mời ông ta ngồi. Khách cảm ơn, bỏ mũ, đặt mũ cùng với cặp lên chiếc bàn gấp, rồi ngồi vào chiếc ghế bành chủ mời ngồi.
- Xin phép tự giới thiệu: tôi là cán bộ tổng cục thống kê Galăctiôn Ghêorghiêvits Mơtvaratzê!
- Rất hân hạnh... Tôi phải làm gì đây?
- Xin lỗi đã quấy rầy ông, làm mất thời giờ quý báu của ông... Nhưng, biết sự nhạy cảm của ông, tôi đánh bạo xin ông nửa giờ thôi.
- Xin mời, một giờ cũng không sao!
- Để ông khỏi mất công về câu chuyện kì dị này, - tôi xin nhấn mạnh, câu chuyện kì dị đối với ông, - tôi sẽ đi thẳng vào sự việc. Tôi chỉ khẩn khoản yêu cầu ông đừng ngắt lời tôi và đừng hỏi câu gì, nếu không thật cần thiết. Tôi cũng xin ông bảo cô thư ký của ông đừng cho ai vào trong lúc chúng ta nói chuyện.
Batsana bấm nút chuông điện, cô thư ký ngó vào:
- Êlêna Xerghêcpna, tôi đi vắng. Nửa giờ nữa tôi sẽ có mặt ở đây.
Cô thư ký gật đầu và ra, đóng sập cửa lại...
- Tôi xin nghe! - Batsana nói với khách và cầm bút chì.
- Không, không, tôi đề nghị không ghi!
Batsana đặt bút chì xuống.
- Vậy thì thế này nhé: tôi là một umanôit [53].
Batsana giật mình.
- Sao? Ông nói sao?
- Vâng, tôi là umanôit! - Mơtvaratzê xác nhận.
Batsana hiểu hết. Nhưng ông hứa không ngắt lời khách, vì thế ông dằn lòng, nói:
- Hiểu rồi. Xin cứ nói tiếp đi!
- Chúng tôi là các cư dân của hành tinh Ômôx từ Tinh vân tiên nữ đến trái đất và đã gieo những mầm sống đầu tiên ở đây. Sự việc đó đã lâu đời lắm rồi, lâu đến nỗi lý trí của loài người không quan niệm được, bởi thế tôi sẽ không làm ông mệt sức bằng những phép tính cồng kềnh... Vậy là chúng tôi đã đem sự sống đến trái đất... Đấy là một thí nghiệm có tầm quan trọng phi thường đã thực hiện trong vũ trụ. Thí nghiệm thành công, trên trái đất đã xuất hiện sự sống, sự sống ấy đã cho những thành quả…
- Xin hỏi một câu! - Batsana giơ tay lên.
- Nhưng phải đi vào bản chất vấn đề! - Mơtvaratzê báo trước.
- Galăctiôn Ghêorghiêvits, xin cho biết bản thân ông đã đến hành tinh chúng tôi từ bao giờ và bằng cách nào?
- Tôi biết ông sẽ hỏi câu đó... Duyên do là nền văn minh của chúng tôi thực tế đã hủy bỏ, đã làm tiêu tan khái niệm thời gian và khoảng cách. Đối với chúng tôi, những phạm trù đó như đồng nhất với ước muốn. Ông hiểu tôi chứ? Điều đó có nghĩa là chúng tôi không cần dùng đến những con tàu vũ trụ, đĩa bay và những phương tiện kỹ thuật di chuyển khác mà vẫn có thể trong chớp nhoáng có mặt ở nơi nào chúng tôi muốn... Còn bản thân tôi thì chẳng phải tôi từ nơi nào đến với ông cả. Đoàn khảo sát đem mầm sự sống đến trái đất đã lập chương trình di truyền cho sự xuất hiện tuần hoàn của chúng tôi theo đà phát triển của sự sống, nhằm mục đích điều hòa nó. Phương pháp như thế cho phép các cơ thể tự xác định những con đường hoàn thiện mình...
- Nhưng nếu vậy thì do đâu ông biết được rằng ông là một umanôit?
- Điều đó do các trung tâm khoa học của Ômôx thông báo cho chúng tôi bằng dòng điện sinh vật vào thời gian thích hợp.
- Thế ông nhận được thông tin như vậy hồi nào?
- Mới gần đây thôi, chủ nhật trước. Lúc thiếp ngủ tôi là con người, khi thức dậy tôi là umanôit.
- Rõ cả rồi! - Batsana nói.
- Ông chẳng rõ gì cả! Hơn nữa, ông coi tôi là người điên, nhưng không để lộ ra ngoài... Cảm ơn ông về sự tế nhị đó.
Batsana bối rối. Và umanôit nói tiếp:
- Mục đích chủ yếu của thí nghiệm là xác định khả năng xuất hiện nền văn minh trên các hành tinh khác.
- Vậy các ông đi đến kết luận như thế nào?
- Có khả năng xuất hiện nền văn minh!
- Ơn trời! - Batsana mừng rỡ.
- Nhưng nền văn minh của các ông phát triển zic zăc. Nó giống như điện tâm đồ của con người. Các ông thường đau khổ, vì các ông tiến hành không biết cơ man nào là những biện pháp vô ích. Loài người thường xuyên lo lắng, dao động, và khi sự hình thành của các bạn có chiều hướng lệch lạc hiển nhiên thì bắt đầu xảy ra chiến tranh, bệnh dịch, đói kém, sự bần cùng về tinh thần và các đại họa...
- Tại sao các ông không uốn nắn cho chúng tôi, không chỉ cho chúng tôi con đường đúng? Lòng nhân của các ông là thế nào?
- Có một quy luật vũ trụ phổ quát: không can thiệp. Mỗi cơ thể sống phải tự mình đạt tới hình thức văn minh cao nhất.
- Như vậy không công bằng, ông Galăctiôn Ghêorghiêvits ạ! Một khi các ông đã tổ chức thí nghiệm thì các ông có bổn phận giúp đỡ, góp phần làm cho thí nghiệm phát triển đúng đường.
- Thì thực chất đúng là như vậy. Sự giúp đỡ của chúng tôi là ở chỗ cản trở. Ông hiểu chứ? Chúng tôi ngăn cản nhân loại đi vào con đường sai lạc. Chúng tôi tiêu diệt những hạt giống phát triển sai chệch, không đúng hướng.
- Sự giúp đỡ đó thể hiện như thế nào? - Batsana hỏi với vẻ hứng thú thực sự. Lúc này, nhân danh nhân loại lầm lạc, ông tranh luận thực sự với một umanôit chính cống.
- Chúng tôi đã hai lần cứu những người lạc đường: ấy là hồi sự trụy lạc và phóng đãng khiến Xôđôm và Gômov bị hủy diệt và thời kỳ đại hồng thủy tràn ngập thế gian đe dọa tiêu diệt cả loài người. Các ông giải thích những tai họa đó là do cơn giận của Chúa trời, tùy các ông thôi, còn đối với chúng tôi, gọi bữa ăn trưa là bữa ăn tối, hay gọi bữa ăn tối là bữa ăn trưa thì cũng thế thôi. - Mơtvaratzê mỉm cười độ lượng.
- Sự giúp đỡ của các ông cho loài người chỉ có vậy thôi ư? Thế còn sự giúp đỡ tinh thần thì sao? Còn sự giúp đỡ về đạo lý? Tại sao các ông không muốn làm cho chúng tôi bắt đầu cảm thấy thành thực thương sót bản thân mình và các bạn mình.
- Sao lại thế! Ở các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người, bất kể thời đại nào, luôn xuất hiện những gene dạng umanôit, có khuynh hướng tác động đến cơ sở đạo đức của nhân loại, tất nhiên là theo nghĩa tốt... Sự can thiệp như thế, chúng tôi cho là chấp nhận được và thích đáng.
- Galăctiôn Ghêorghiêvits, ông có thể cho biết, ngoài ông ra, còn có những ai là umanôit nưa không? - Batsana hỏi.
- Xin vui lòng! Tất nhiên tôi không nhớ hết, nhưng tôi sẽ nêu tên một số: Hôme, Xecvăngtex, Bêthôven, Ruxtavêli, Sêcxpia, Gơtê, Lêônacđô đờ Vanhxi, Bôckatsô, Acsimet, Gioocđanô Brunô, Gian Đa, Tônxtôi, Puskin, vua Parnavazơ, Đavit nhà kiến trúc, Abraam Lanhcôn, Fôncơnơ, Hêghen, Kăng, Blốc, Anhxtanh, Sacli Saplanh, Galăctiôn, Vagia, Akaki, Hya...[54] không thể kể hết được...
- Xin hỏi thêm câu nữa, Galăctiôn Ghêorghiêvits. Tại sao ông đến gặp tôi chứ không phải ai khác? Tại sao ông thổ lộ điều bí mật của ông với tôi?
Gương mặt Mơtvaratzê ngời lên nụ cười tươi rói, hiền hậu và mãi đên bây giờ Batsana mới nhận thấy ánh mắt bệnh tật của anh ta.
- Chẳng lẽ tên họ của tôi không nói gì với ông ư? Galăctiôn tức là Galătic [55]! Mơtvaratzê là Mặt trăng! [56]. Ngày mai tôi sẽ trở về hành tinh quê hương Ômôx của tôi... Tôi đã làm tròn sứ mạng của tôi trên trái đất này. Bây giờ tôi phải làm nốt một nhiệm vụ cuối cùng và xin báo để ông biết, ông Batsana Akakiêvitx thân mến, ông là một umanôit.
Tim Batsana thắt lại và cổ họng ngứa ngáy.
- Vĩnh biệt người bạn và người anh em của tôi! Bây giờ ông đã được biết sứ mạng của ông trên trái đất!
Galắctiôn ôm lấy Batsana, ghì chặt ông vào ngực mình, rồi quay đi và bước nhanh ra khỏi phòng làm việc.
... Batsana không nghe thấy cô thư ký vào phòng, đặt lên bàn một chồng giấy tờ. Ông đứng bên cửa sổ, mỉm cười ngơ ngẩn và nước mắt chảy ròng ròng hai bên má.
* * *
Batsana suốt đêm không ngủ. Sáng ra, khi đến tòa soạn, việc đầu tiên là ông gọi điện về Cục thống kê.
- A-lô, tôi nghe đây! - Một giọng nói trẻ trung dễ thương trong ống điện thoại.
- Cục thống kê phải không ạ?
- Vâng.
- Xin cô cho biết: có Galăctiôn Mơtvaratzê làm việc ở đấy không?
- Mơtvaratzê à?... Anh chàng dở người ấy ư?... Xin lỗi, ông là ai vậy?
- Tôi là bạn của Galăctiôn.
- Đã một tuần nay Galăctiôn mất tích.
Ống điện thoại nằm lặng trong tay Batsana.
- A-lô, a-lô...
Batsana đặt ống nói xuống.
--------------
[52] Ngày trước, nhà có treo đèn đỏ là nhà gái điếm (N.D)
[53] Humanoide nghĩa là cái giống người, có dạng người (N.D)
[54] Paenavadơ - vua Gruzya, sống cùng thời với Alêcxanđi Maxêđoan; Đavit Nhà kiến trúc vua Gruzya, Đavit IV Ghêoocghiêvits; Galăctiôn Tabitzê. - nhà thơ nhân dân của Gruzya; Vagia Psavêla, Akaki Tsêretêli, Hya Tsaptsuvatzê - những tác giả cổ điển của văn học Gruzya.
[55] Thiên hà.
[56] Là mặt trăng (tiếng Gruzya).

Chương 16


Batsana Ramisvili sinh ngày mười bốn tháng bảy. Ngày đó có ghi trên tất cả các cuốn lịch của thế giới, nhưng dĩ nhiên không ghi là ngày sinh của Batsana, mà là ngày phá ngục Baxti, ngày ra đời của nước Cộng hòa Pháp.
Lúc này Batsana mỉm cười nhìn cuốn lịch nằm trước mắt và nghĩ ngợi...
Những người Pháp sinh ngày mười bốn tháng bảy cố nhiên kỷ niệm ngày sinh của mình một cách long trọng. Nhưng ai biết ngày sinh của Batsana? Chẳng ai cả! À, chắc chắn là ở phòng cán bộ, nơi lưu giữ hồ sơ cá nhân của ông và ở phòng chứng minh thư của công an, nơi mới đây người ta cấp chứng minh thư vô thời hạn cho ông, họ biết điều đó. Nhưng biết chưa có nghĩa là ghi nhớ...
Lần cuối cùng Batsana được mừng sinh nhật là vào năm lên chín. Văctăng Enbakitzê, bạn học cùng trường tặng Batsana chiếc ô tô chữa cháy tự hành màu đỏ tuyệt diệu...
Ôi, chuyện ấy xưa lắm rồi!...
Từ bấy trở đi, ngày sinh của Batsana chỉ được nhắc đến có ba lần:
“Đáng rủa sả thay ngày sinh của mày!” - ấy là khi lần đầu tiên ông hút thuốc lá.
“Mày sinh ra đời làm cái nợ gì kia chứ!” - ấy là khi ông uống rượu lần đầu tiên.
“Ai đẻ ra mày thế không biết, đồ quái vật!” - ấy là khi ông đánh mất phiếu bánh mì.
Những lời ấy ông phải nghe vào những thời gian khác nhau, do những người khác nhau nói ra, mà ngay hồi đó cũng như sau này, không bao giờ ông oán giận họ, bởi vì ông biết rõ rằng: người ta nói như thế, trong hai trường hợp thứ nhất, là vì lo cho sức khỏe của ông, còn trong trường hợp thứ ba, là vì lo sợ cái đói không sao tránh khỏi. Lòng biết ơn vô hạn, ông nghĩ về những con người đó, chỉ có các người mới có thể nghĩ đến ngày sinh của ông và giờ đây các người không còn nữa. Để đền đáp lại lòng tốt của các người đối với ông, ông vẫn ra nghĩa trang đều đặn và đặt hoa lên mộ các người, hoa tím, hoa hồng, hoa đinh hương...
... Và ngày hôm nay đây... Biết bao nhiêu người ra đời ngày hôm nay sẽ được tặng hoa, bao nhiêu ngôi mộ của những người chết ngày hôm nay sẽ được đặt hoa. Biết bao nhiêu cặp mắt của trẻ sơ sinh sẽ mở ra ngày hôm nay, và biết bao nhiêu cặp mắt sẽ nhắm lại mãi mãi... Batsana hình dung thấy cái vòng đu đang quay, cái vòng đu khổng lồ như cây đời. Thấp thoáng hàng nghìn khuôn mặt - quen và lạ, mỉm cười và buồn rầu, ngạc nhiên và hân hoan, cau có và sung sướng, tiều tụy và hạnh phúc... Những con người mệt mỏi, ngây ngất rời khỏi những thứ đồ chơi - con tàu, ô tô, máy bay, ngựa, và những người khác lên thay chỗ họ trên vòng đu quay... Batsana có cảm giác chính ông cũng vừa rời vòng đu quay, đầu óc ông quay cuồng. Ông đứng lên, loạng choạng đến gần cửa sổ và mở toang cửa. Làn gió chiều nhè nhẹ ùa vào phòng. Rồi Batsana đến gần cửa ra vào, ngó ra hành lang. Trong tòa soạn không còn ai. Vì muốn có cách nào kỉ niệm ngày sinh của mình và không nghĩ được điều gì hay hơn, hôm nay Batsana cho các cán bộ về trước khi hết giờ làm việc, khiến họ ngạc nhiên và vui mừng.
Ông trở lại bàn, ngồi xuống và lấy trong ngăn kéo ra tập bài đầu tiên vớ được. “Tại sao dơi ngủ thõng đầu xuống dưới?” - nhan đề bài đó như thế.
Có tiêng chuông điện thoại:
“Người nào lại nảy ra ý nghĩ gọi điện thoại vào lúc này thế nhỉ?” - Batsana ngạc nhiên nhấc ống nghe lên.
- Tôi nghe đây!
Ống nói im lặng.
- Tôi nghe đây, tôi nghe đây!
Trong ống có tiêng loạt soạt giống như hơi thở. Không đợi trả lời, Batsana đặt ống nghe và trở lại với bản thảo. Ừ nhỉ, tại sao dơi ngủ lại treo đầu xuống dưới? Batsana không đọc bản thảo, không hiểu sao ông muốn tự tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi tuồng như vô nghĩa ấy. Hẳn là vì... Thuở bé, trong các giờ thể dục, đã nhiều lần Batsana treo mình trên xà đơn, thõng đầu xuống, được giảng viên khen ngợi, nhưng chẳng cảm thấy có gì thích thú đặc biệt. Có lần, ở Kôbulêti, Batsana đã ở trong trạng thái đó đúng mười lăm phút: những người đánh cá đã lôi được thằng bé sống dở chết dở từ dưới nước lên, phải khó khăn lắm mới làm cho nó nôn ra được hết nước, và sau này cứ nhớ đến trạng thái treo ngược đầu xuống là Batsana lại cảm thấy ghê tởm. Vậy thì cái tư thế khác thường ấy có gì hấp dẫn những con dơi? Không thể hiểu được... Batsana quyết định tìm câu giải đáp trong tập bản thảo nằm trước mặt ông, nhưng ngay lúc đó cửa phòng bật mở và một phụ nữ đẹp lạ thường bước vào.
- Tôi đây mà! - người phụ nữ nói.
Batsana không tin mắt mình nữa: trước mặt ông là Marya. Batsana muốn mời nàng ngồi, nhưng lưỡi không tuân theo ông, ông muốn đứng lên nhưng đầu gối khuỵu xuống, ông muốn mỉm cười, nhưng mặt ông như hóa đá. Trong khoảnh khắc, ông trở nên điếc và câm. Người phụ nữ đứng không nhúc nhích, tái nhợt, ngực nhô cao, cổ nổi lên những vệt đỏ.
- Tôi đã gọi điện cho anh! - chị nói khẽ.
- Tôi biết! - Batsana sực tỉnh. - Tôi nghe thấy hơi thở của chị.
- Anh không ở nhà, vì vậy tôi gọi điện về đây.
- Tôi có thể làm gì cho chị? - Batsana thốt lên như cái máy.
- Ta đi với nhau - người phụ nữ nói.
- Đi đâu? - Batsana ngạc nhiên, hỏi.
- Đi đâu tùy anh!
Batsana sững sờ.
- Mời chị ngồi! - Ông thốt lên một cách khó nhọc.
Người phụ nữ vẫn đứng. Vóc dáng cân đối, môi đỏ thắm, tóc đen, mặc áo nịt ngắn màu xanh lá mạ và váy trắng như tuyết, nom chị giống mùa xuân vào qua cửa sổ.
- Ta đi đi! - người phụ nữ nhắc lại, tay đung đưa một cách nôn nóng cái túi xách tay màu lá mạ. Batsana đứng lên và mãi đến giờ mới để ý đến đôi giày màu lá mạ dưới cặp chân thanh tú của chị.
Hai người lẳng lặng ra khỏi phòng.
Ở ngoài phố, Batsana gọi tăc xi.
- Đi đâu? - người lái xe hỏi.
- Đi đâu cũng được! - Batsana đáp và nhìn người phụ nữ.
Nàng mỉm cười.
* * *
Họ lên đại lộ Kômxômôn và chọn một chỗ ở hàng hiên một tiệm ăn nhỏ.
Người nhân viên phục vụ đặt trước Batsana tờ thực đơn và bỏ đi.
- Gọi món gì? - Batsana hỏi.
- Khoai tây rán.
- Gì nữa?
- Thế thôi.
- Rượu vang nhé?
- Tùy anh.
- Cô-nhắc chứ?
- Không.
- Thế thì “Tibaani” vậy.
- Vâng, được.
Trong lúc chờ đợi người phục vụ. Batsana châm thuốc hút và mời Marya.
- Cám ơn, tôi không hút.
Bắt đầu im lặng. Batsana hút thuốc, thỉnh thoảng nhìn Marya và nghĩ ngợi... Nàng đến gặp ông làm gì? Có công việc chăng? Hay nàng muốn giữ quan hệ quen biết với ông? Hay là... Ồ không, không làm gì có chuyện ấy, nàng không thể biết ngày sinh của ông!... Vậy thì cái gì thúc đẩy nàng đến gặp Batsana?... Hỏi ư? Nhưng có cái gì ngăn Batsana không hỏi câu đó. Và “cái gì” ấy không dính líu với lý do tế nhị: Batsana sợ làm tắt tia hy vọng mỏng manh leo lét trong đáy trái tim ông từ ngày gặp người phụ nữ kỳ lạ này...
Cuối cùng người phục vụ trở lại, và Batsana thở dài nhẹ nhõm.
- Ở đây có món gì? - Ông hỏi.
- Sữa chim! - Người phục vụ đáp.
- Nếu vậy thì cho khoai rán và “Tibaani”.
Người phục vụ ỉu xìu.
- Thịt cừu nướng, thịt bê nướng, phi-lê tsakapuli, apkhazura, mugiugi, tatariăcmê [57], nađughi [58], mơtsađi [59] phó mát mới làm, hồ đào... Ông chọn đi!
- Thế không có lưỡi họa mi à? Lưỡi rán! - Batsana bông đùa.
- Không có lưỡi rán, lưỡi luộc thì có! - Người phục vụ cười nhăn nhở.
- Thế thì mang cả đến đây!
- Hồ đào và “Tibaani” - Marya nói.
Người phục vụ gật đầu tuân lời và đi.
- Marya, thế chồng chị có biết lúc này chị đang ở đâu không? - Batsana buột miệng và chính mình ngạc nhiên về câu hỏi dớ dẩn đó.
- Tôi không hỏi anh câu tương tự, vì tôi biết anh chưa có vợ. - Marya mỉm cười, đáp.
- Vậy là chị không có chồng ư? - Không hiểu vì sao, Batsana kết luận.
- Hiện giờ không có chồng - Marya nói.
- Tại sao? - Batsana hỏi và hiểu rằng mình lại buột ra một câu ngớ ngẩn. Người phụ nữ im lặng. - Nghĩa là tôi muốn hỏi, con gái chị còn bố không? - Batsana tìm cách giảm bớt tình trạng ngượng ngập.
- Có bố và có chồng! - Marya đáp.
Batsana lấy điều thuốc lá nữa. Người phục vụ trở lại tay không.
- Thưa ông, thịt nướng hết cả rồi... Gà con thì tôi không mời ông dùng: gà ấp nhân tạo... Phi-lê thì hóa ra hôm nay người ta không chở tới... “Tibaani” không có, sâm banh cũng không... Có pho mát Thụy Điển, pho mát Rôxtôp, xaêrô [60] và củ cải...
Batsana ngẩn người.
- Thế còn sữa chim thì sao? - Marya hỏi.
- Bị chua rồi! - Người phục vụ nói đùa.
Marya phá lên cười to đến nỗi khách trong quán ăn quay về phía nàng.
- Cửa hàng trưởng của anh đâu? - Batsana hỏi người phục vụ.
- Ông ấy hiện không có ở đây, thưa quý khách... Hễ ông ấy về, tôi sẽ đưa đến gặp ông ngay!
“Hoặc gã nhân viên này là một thằng ngốc, hoặc họ nhận ra ta và giấu những thực phẩm mua ở chợ” - Batsana nghĩ và nói với Marya.
- Ta rời khỏi đây đi. Tôi không muốn kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bằng củ cải và xaêrô...
- Chuyện ấy quan trọng đến thế ư? - Marya đáp. - Bảo anh ta có gì cứ mang ra. Còn chúng ta sẽ tưởng tượng ta đang ở Lêningrat bị bao vây. Ta sẽ nhìn nhau... Buổi chiều hôm nay sẽ mãi mãi ghi sâu vào trí nhớ chúng ta...
Con sâu ngờ vực lại ngọ nguậy trong ý thức Batsana.
“Nàng muốn gì ở ta? Ai phái nàng tới? Nàng đến tìm ta để làm gì? Chẳng lẽ chỉ vì muốn gặp ta thôi ư?”.
Ông ngẩng đầu lên nhìn Marya. Marya nhìn ra chỗ nào phía sau lưng ông. Batsana dõi theo luồng mắt nàng và thấy anh chàng nhân viên phục vụ đứng trước một người đàn ông mập mạp, nghe người đó nói và ngoan ngoãn gật đầu như đồ chơi lên dây cót.
- Người ta đang âm mưu chống lại anh! - Marya nói với Batsana.
- Nếu họ định làm cho tôi mất chị thì sẽ không ăn thua gì hết! - Batsana phá lên cười, cầm lấy con dao cong bằng nhôm trên bàn.
- Bằng con dao như thế anh không bảo vệ được tôi đâu! - Marya mỉm cười.
- Tôi chỉ cần dùng răng thôi! - Batsana đáp, đưa mắt nhìn về phía người phục vụ, nhưng cả anh ta và người nói chuyện với anh ta đều không còn đấy nữa.
- Marya, tôi không còn sức chịu đựng nữa! Hãy nói rõ đi, cái gì đưa chị đến với tôi? Chị cần gì?
- Thì tôi có cầu xin anh điều gì đâu? - Marya ngạc nhiên.
- Chị đặt cho tôi một nhiệm vụ rất phức tạp... Hãy giải thích cho tôi điều đó hoặc giết tôi đi!
- Nhiệm vụ rất đơn giản. Ngày mai tôi sẽ đáp máy bay về Kutaixi. Và bao giờ cũng thế, trước khi lên máy bay, tôi muốn chia tay với một người thân thiết của tôi. Tất cả sự bí hiểm chỉ là thế.
- Tại sao lại thế? - Batsana bối rối, hỏi.
- Vâng, đúng thế... Không hiểu sao lần nào tôi cũng có cảm giác rằng nhất định máy bay sẽ gặp chuyện gì không hay. Và tôi gặp những người thân thiết lần này là lần cuối... - Marya cúi đầu xuống.
- Cả tôi cũng thuộc loại người ấy chứ? - Batsana ngạc nhiên.
Marya không nhìn Batsana, gật đầu.
- Vì lẽ gì tôi xứng đáng với một phụ nữ như thế... à không, với một vinh dự như thế?
- Giá mà tôi biết được!...
- Chị có nhiều người như thế không?
Tim Batsana đập rộn ràng chờ câu trả lời.
- Cho đến ngày hôm nay, chỉ có một người duy nhất: Maiya, con gái tôi. Bây giờ có thêm một người nữa - đó là anh.
“Hoặc tất cả những chuyện đó là ta mơ thấy trong chiêm bao, hoặc người đàn bà này chính là quỷ xa tăng!” - một ý nghĩ thoáng qua trong óc Batsana, còn Marya bỗng nhiên ngẩng đầu lên và nói bằng giọng xúc động:
- Tôi biết anh coi tôi là người điên hay một kẻ phiêu lưu... Tôi cam đoan với anh, tất cả những việc đó xảy ra ngoài ý chí của tôi!... Đã một năm nay tôi đấu tranh với bản thân... Nhưng không ăn thua gì! Tôi là một phụ nữ cương nghị! Tôi sẽ đứng lên và đi khỏi đây ngay bây giờ! - Marya đứng lên.
- Nếu chị đi, tôi sẽ chết mất thôi! - Batsana chạm vào những ngón tay lạnh giá của người phụ nữ, và nàng tin ở lòng thành thực của anh. Hiểu điều đó, Batsana hôn tay Marya.
- Cám ơn! - Marya nói và ngồi xuống.
Người phục vụ đến, hai tay bưng một khay đầy những món ăn cầu kỳ.
- Cái gì thế? Ở đâu ra? - Batsana ngạc nhiên.
- Ông cửa hàng trưởng đến, trông thấy ông và lệnh cho xuất hàng - người phục vụ giải thích.
- Cửa hàng trưởng của anh là ai?
- Ông ấy đến ngay bây giờ đấy!
- Sao, ông ấy biết tôi à?
- Biết ư? Suýt nữa thì ông ấy thải tôi! Nào tôi có lỗi gì, thưa ông, trên trán con người có ghi rõ người đó là ai và ở đâu đâu! Xin ông thứ lỗi cho! - Người phục vụ cúi chào và chạy đi.
Batsana tươi tỉnh hẳn lên. Ông mở nút chai sâm banh đánh bốp một tiếng và rót đầy tràn hai cốc vại.
- Tôi muốn thổ lộ với chị một điều bí mật, Marya ạ...
- Không, cốc chúc mừng đầu tiên là của tôi! - Marya nâng cốc.
Batsana lắng tai nghe.
Marya chờ cho bọt trong cốc xẹp xuống, rồi nhìn xuyên qua cốc, ngắm vầng trăng lưỡi liềm vàng óng đã nhô cao trên Narikala [61]. Batsana theo gương nàng. Vầng trăng thoạt đầu giật mình, bắt đầu lung linh, rồi chậm chạp choán đầy cốc và tan trong chất lỏng màu hổ phách. Batsana có cảm tưởng ông cầm trong tay vầng trăng màu hổ phách mát lạnh.
- Hôm nay là trăng mười bốn... - Marya khe khẽ nói.- Mọi người đều biết đích xác lúc trăng mọc và trăng lặn, đều biết ngày trăng mới và ngày trăng tròn. Nhưng không một ai trên thế gian biết có trăng từ bao giờ, nó ra đời tự bao giờ... Tôi uống mừng sức khỏe những người mà ngày sinh của họ không ai biết đến...
Marya chạm cốc với Batsana. Trăng trong cốc của Batsana lại rung lên, rồi tan ra, biến thành chất lỏng màu hổ phách trong suốt. Marya và Batsana cạn cốc, và khi Batsana lại nhìn lên trời thì không thấy trăng đâu nữa. Trăng đã lặn trong mây.
- Bây giờ ta sẽ uống trăng! - Ông reo lên, vui sướng như trẻ thơ vì sự trùng hợp kỳ lạ ấy.
- Cầu trời cho anh thọ ngang vầng trăng! Chúc mừng ngày sinh của anh! - Marya đặt cốc xuống. - Ban nãy anh nói về một điều bí mật gì đó, tôi đã không để anh nói. - Nàng nhắc.
Batsana bỗng muốn áp mặt vào ngực người phụ nữ kỳ lạ này mà khóc.
- Tôi chỉ muốn nói rằng em xinh đẹp lạ thường. Marya ạ. Có thể hôn em được chứ?
Người phụ nữ chỉ mỉm cười đáp lại. Thế là Batsana đứng lên, cúi mình qua bàn, hôn lên đôi mắt to ẩm ướt của Marya. Liền đó nàng thấy người đàn ông mập mạp vừa rồi đã nói chuyện với người phục vụ.
- Chào ông! - người đàn ông đến gần, nói bằng giọng khàn khàn.
- Chào ông! - Batsana đáp.
- Nếu ông cho phép, thưa ông Batsana kính mến, tôi chỉ quấy quả ông một lát thôi...
- Mời ông ngồi... Đây là cô bạn tôi, Marya...
Người đàn ông nghiêng mình chào lịch thiệp, hôn lên tay Marya và ngồi xuống.
- Ông không nhận ra tôi ư, ông Batsana kính mến? - người đàn ông lấy trong túi ra ba hộp “Winxtôn”, đẩy một hộp về phía Marya, hộp thứ hai về phía Batsana, hộp thứ ba giữ cho mình. Batsana chăm chú nhìn người đàn ông, một hồi ức lờ mờ thoáng qua trong đầu ông, nhưng ông không nắm bắt được và thốt lên một cách ngượng ngập:
- Có chứ, tôi nhận ra, nhưng không sao nhớ được chúng ta đã gặp nhau ở đâu.
- Tôi là Xanđrô Maglapêritzê ở xĩ nghiệp liên hợp chế tạo các sản phẩm bằng da lông thú...
- À-à! - Batsana kêu lên, - đã bao thời gian trôi qua rồi!... Hiện giờ ông ở đâu, sống thế nào, thưa ông Xanđrô?
- Cám ơn, tôi vẫn sống tạm qua ngày...
- Nếu ông hạ cố đến đây để trách móc về chuyện cũ thì xin ông đừng làm điều đó hôm nay... Hôm nay là ngày sinh của cuộc cách mạng Pháp, đồng thời là ngày sinh của tôi! - Batsana nói một cách vui vẻ và đưa cho Maglapêritzê một cốc đầy.
- Chết nỗi! Trách móc gì! Trái lại, tôi đến để cảm ơn ông, ông Batsana kính mến!... Ông bao nhiêu tuổi rồi ạ?
- Bốn mươi lăm!
- Trời! Ông sẽ còn ngần ấy năm nữa hưởng lạc thú! Và cả tình yêu nữa! - Maglapêritzê nhìn Marya. Marya bối rối và đỏ mặt. - Chúc mừng ông, ông Batsana kính mến! Cầu trời cho ông được hạnh phúc! Ông là người không có khả năng làm điều ác, cho dù có muốn làm ác đi nữa!
- Ông tưởng thế ư?
- Tất nhiên! Sau khi bài văn châm biếm ấy được đăng lên, tôi thành người nổi tiếng! Cả Gruzya biết tôi!
Batsana phá lên cười.
- Tôi không mong cho ai được lừng danh như thế, ngay cả kẻ thù của tôi!
- Xin đừng nói thế... Danh tiếng là danh tiếng... Hãy nhớ đến Hêrôxtrat... Bài văn châm biếm đăng trên báo của ông đã giúp chân lý giành phần thắng và đã lột mặt nạ cái ác.
- Tôi không hồ nghi gì về điều đó...
Một linh cảm khó chịu ngầm bảo Batsana rằng Maglapêritzê đến gặp ông hoàn toàn không phải vì tình cảm biết ơn.
- Vâng, vâng... Do quan tâm đến bài văn châm biếm, các cơ quan điều tra xác minh rằng mụ đàn bà ấy là một ả đầu cơ và bịp bợm... Còn người được ông gửi cho bài văn châm biếm để người đó có biên pháp xử trí thì té ra lại là một người yêu nước chân chính...
- Bằng cách nào?
- Theo dự tính của ông, việc loại bỏ bài châm biếm đó khỏi số báo đã sắp chữ sẽ làm thiệt hại cho nhà nước năm mươi ngàn rúp, phải không ạ? Người đó đã giảm số thiệt hại xuống còn hai mươi nhăm ngàn...
Batsana bối rối. Maglapêritzê cảm thấy điều đó và bình tĩnh giải thích:
- Ông ấy hành động rất đơn giản: không tỏ thái độ về bài đăng của ông.
- Ông muốn nói là ông đã đút lót, tức là đã bỏ ra hai mươi nhăm ngàn rúp chứ gì?
- Sao lại gọi là đút lót, thưa ông Batsana kính mến? Tạ ơn một người đã chú ý đến ta, đã giúp đỡ ta là đút lót ư? Chẳng lẽ ngày nay chúng ta không còn theo bộ luật đạo đức của Ruxtavêli nữa ư? Ông hãy nhớ lại Avtanđin nói gì với quan tể tướng:
Một người bạn không thể sống không có bạn mà trái tim không đau
Lúc cần, người bạn sẽ tức thời tới giúp không chút e dè.
- Tôi thấy ông đã xây dựng chu đáo thứ triết lý bẩn thỉu của ông, có viện dẫn những văn bản gốc. - Batsana châm chọc.
- Ồ, văn học cổ điển thực là vĩ đại... Ruxtavêli thì tôi đọc đi đọc lại hàng ngày, như đọc Phúc âm... Nhưng tôi cũng đọc cả các tác phẩm của ông và tìm thấy trong đó nhiều điều bổ ích cho bản thân... Người bạn gái của ông thật là một trang tuyệt sắc, thưa ông Batsana kính mến. - Maglapêritzê đột nhiên thay đổi đề tài, - Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy một phụ nữ không trang sức mà đẹp như thế!
Batsana không ngờ một bước xoay chuyển như thế và không biết trả lời ra sao.
- Vợ ông hẳn là thừa thãi đồ trang sức? - Marya hỏi Maglapêritzê, và để giấu sự lo lắng, nàng uống một hớp rượu vang.
- Quả có thế... Nhưng tôi không có ý nói đến các bà vợ... Có những người phụ nữ làm đẹp cho đời ta ở ngoài tổ ấm gia đình, có thể nói như vậy...
Marya đỏ bừng mặt, nhưng không nói gì.
Batsana quyết định trở lại đề tài chính của cuộc nói chuyện.
- Thế sau khi bài châm biếm được đăng trên báo, trong đời ông không có thay đổi gì ư?
- Có chứ, thưa ông Batsana kính mến! Thứ nhất, cơ sở sản xuất của tôi đã cháy sạch. Ấy là tại dây điện quá cũ... Thứ hai, quan thầy của tôi về hưu và bây giờ làm ở ngành thương nghiệp. Ông ấy kéo tôi về cùng làm. Chúng tôi đã thành lập một liên hợp các hiệu ăn... có thể nói chúng tôi đã gây dựng cơ đồ trên đống tro tàn, như dựng lại Rôm đã bị Nêrông đốt cháy, ha-ha!... - Maglapêritzê cười hi hi nghe đến đáng ghét.
- Phải, bây giờ thì tôi biết chắc ông là một tên đại bợm rất nguy hiểm, thưa ông Xanđrô... Và nhất định tôi sẽ trở lại vụ việc của ông, nếu hoàn cảnh cho phép. - Batsana nói một cách nghiêm túc.
- Quả là tôi không hề chờ đợi ở ông một câu trả lời như thế! Tôi tưởng rằng qua thời gian đó, ông đã trở nên biết điều, đã học được cách gáy đúng điệu... Vậy mà ông vẫn cục ta cục tác theo kiểu của ông.... Chẳng lẽ ông không biết người ta thường xử trí như thế nào với những chú gà trống gáy không đúng lúc à?
- Hăm dọa ư? - Batsana giận tái người.
- Anh không cảm thấy ghê tởm vì phải nói chuyện với tên đê mạt này sao? - Marya hỏi Batsana.
Maglapêritzê bật dậy. Cả Marya cũng đứng lên.
- Cút khỏi đây! - Batsana nói rất khẽ với Maglapêritzê.
- Đừng chiều theo thói đồng bóng của đàn bà, ông Batsana kính mến... Những con đĩ đã ép các chiến sĩ Maxêđoan đốt trụi thành bang Perxêpôlix tráng lệ nhất thế giới... - Maglapêritzê nói, cặp mắt vàng vọt đầy căm hờn của y nhìn xoáy vào Marya. Đột nhiên, trong lúc Batsana đã kịp nghĩ ra cách đối phó, Marya vung tay giáng cho Maglapêritzê một cái tát cực mạnh. Tiếng tát khiến cho cả quán ăn quay về phía họ, nhưng mọi việc xảy ra nhanh đến nỗi chẳng ai nhận thấy gì cả... Ở bàn Batsana, không khí yên lặng như trong nấm mồ... Batsana bỗng cảm thấy từ phía bên kia, Maglapêritzê bắt đầu nâng mép bàn lên. Ông đè tất cả sức nặng của mình lên bàn. Maglapêritzê rán hết sức lật đổ bàn nhưng không được. Cuộc quyết đấu thầm lặng ấy kéo dài chừng một phút. Cả Batsana và Maglapêritzê đều nổi gân trán, mắt đỏ như máu...
- Chớ có cả gan! - Batsana thì thầm, và lời nói thầm ấy đáng sợ đến nỗi cơn nóng của Maglapêritzê nguội hẳn đi. Y lấy lại vẻ mặt như trước, mắt tươi cười. Y rời xa bàn và nói với Marya:
- Cảm ơn bà, thưa phu nhân! Suốt đời tôi sẽ không quên cái vinh dự bà đã ban cho tôi!
Mặt trắng bệch như phấn, Marya lặng thinh.
- Đi khỏi nơi đây, Maglapêritzê! - Batsana nói, ngạc nhiên về sự bình tĩnh của mình. Maglapêritzê quay ngoắt đi và tháo lui. Batsana và Marya đứng im một lát, bàng hoàng về sự việc đã xảy ra, rồi họ ngồi xuống bên bàn. Sự im lặng kéo dài hồi lâu. Người đầu tiên phá tan sự im lặng là Batsana.
- Marya, cho xem vé máy bay của em nào!
Marya mở túi, tay run run bắt đầu lục tìm trong túi, cuối cùng tìm thấy tấm vé, nàng lấy ra và đưa cho Batsana.
Không nhìn tấm vé, Batsana xé vụn ra, ném những mảnh giấy vụn vào cái gạt tàn và châm lửa đốt.
- Đừng bỏ anh ở lại, Marya! - Ông nói khẽ, khi những mảnh vé trong gạt tàn đã cháy hết, Marya đáp lại bằng cái gật đầu khó nhận thấy. Batsana rót rượu đầy hai cốc và gọi người phục vụ.
- Thanh toán đi!
- Đã trả tiền hết rồi!
- Ai trả?
- Cửa hàng trưởng của chúng tôi!
Batsana phá lên cười.
- Ngày chiếm ngục Baxti đối với ta là thế đấy!... Chúc mừng em, Marya! - Họ chạm cốc. Rồi Marya đứng lên, tới bên Batsana và hôn lên má ông. Sau đó nàng trở về chỗ của mình, ngồi xuống, úp mặt vào hai bàn tay và bật khóc nức nở.
* * *
Nhà thờ Savnabađa [62] cao ngất trên núi quả thật giống một người chăn cừu mặc áo burka đen, giơ một tay che nắng và đang trông những đàn cừu ăn cỏ trên bờ các con sông Mơtkvari, Anghêti, Masavêra, Khrami [63]. Các thành phố Ruxtavi, Boonixi, Macnêuli [64] nằm trải ra dưới chân núi nom giống như con chó khổng lồ đang canh giữ cừu, mõm chúng nhả ra khói và hơi nóng.
Nhà thờ Savnabađa đẹp lạ thường vào cuối thu, chìm trong sương khói mỏng manh, mái vòm chống đỡ bầu trời.
Một ngày chủ nhật. Trên con đường cái hẹp, một chiếc ô tô chạy rì rì. Nó lắc lư như say rượu, đến mỗi chỗ ngoặt lại dừng, lùi lại phía sau, lấy đà và lao mạnh lên, vượt đoạn dốc tiếp theo.
Đến khúc ngoặt cuối cùng trước nhà thờ, xe lại dừng.
Batsana mở tốc độ số một, ấn bộ li hợp. Sỏi cát bắn tung tóe dưới bánh sau ô tô. Batsana nhấn bàn đạp tăng tốc. Bánh xe quay như điên. Có mùi cao su cháy khét.
- Ta xuống thôi. - Marya nói.
- Cứ ngồi yên. Xe trượt bánh là bởi tải nhẹ quá. - Batsana giải thích.
Ông chờ cho xe lùi lại, rồi xả tốc và thêm ga. Xe băng về phía trước.
- Thế là đến rồi đấy!
Batsana cho xe đậu dưới gốc cây.
Marya ra khỏi xe, cởi giầy, chân không chạy trên cỏ mấy bước, rồi dừng lại giữa sân, giang hai tay ra, và nhón đầu ngón chân, xoay tròn như cô bé con, reo lên:
- A-u, chúng ta gần thượng đế biết bao!
Rồi nàng ngồi xuống phía trước nhà thờ, gục đầu vào giữa hai đầu gối và đờ ra, như rơi vào trạng thái xuất thần của người hành hương.
Batsana lấy thực phẩm trong ngăn hành lý, bầy biện lên chiếc bàn kê dưới gốc cây, rồi tới gần Marya, ngồi xuống đất cạnh nàng, ôm lấy vai nàng, vừa nói vừa cười:
- Marya, em cầu nguyện điều gì đi!
Marya quỳ gối, chắp hai tay giơ lên cao, nhắm mắt và cất tiếng thì thầm:
Chàng là hy vọng của những hy vọng của em.
Là ánh sáng của trái tim, là sự bình yên của tâm hồn.
Chàng là ánh hào quang tinh tú của em.
Chàng là tia nắng vàng.
Chàng là nguồn bất tử.
Thiên thần cánh trắng của em.
Một điều duy nhất em cầu xin thượng đế:
Được ở bên chàng, mãi mãi bên chàng.
Marya ngừng lời.
Batsana thuộc lòng những câu thơ ấy, nhưng chưa lần nào ông ngẫm nghĩ về nội dung của nó, sao mà nó giống lời cầu nguyện đến thế. Lúc này tâm hồn ông tràn ngập cảm giác hiền hòa, một cái gì ấm áp tràn lan khắp cơ thể. Ông kéo Marya áp vào mình và hỏi:
- Đấy là lời cầu nguyện hay ước mong?
- Chẳng phải hai cái đó cũng là một thôi ư?
Mặt trời thân thương,
Đừng ẩn mình sau núi!
Bạn thấy đấy, ở đây một thiếu nữ đang cóng rét.
Hãy lấy thân mình sưởi ấm cho nàng!
Mau mau ôm lấy con bồ câu xinh xắn,
Nói với nàng một lời về tình yêu.
Người đẹp không thể chờ đợi,
Nàng sẽ đi tìm một trang anh tài khác!
Dường như thiên nhiên lắng nghe lời Marya: vầng mặt trời khổng lồ từ sau núi nhô lên, ôm lấy nhà thờ trong những cánh tay nóng rực và trong nháy mắt, như uống sữa, nó uống hết sương mù lan tỏa trên các sườn núi.
Marya nép sát vào ngực Batsana cất tiếng nói, và lời nàng nghe như lời cầu nguyện.
- Đừng bỏ rơi em, Batsana! Đừng bỏ em, anh là hy vọng duy nhất của đời em!... Tại sao trước đây anh không ở bên em? Nếu có anh, hẳn anh sẽ giúp em tránh được bao nhiêu tai họa!... Từ ngày em thấy anh lần đầu, em đã từ bỏ hết thảy!... Ngoài anh ra, đối với em không còn gì tồn tại nữa! Anh là thượng đế của em, em cầu van anh: đừng bao giờ ruồng bỏ em, đừng trả em về quá khứ! Em không muốn thế! Em mệt mỏi rồi!... Em đang tới gần anh... Đấy - đấy, em sẽ chạm vào anh... Em với anh... Đừng ruồng bỏ em!... - Marya bật khóc.
Tim lặng đi, Batsana nghe lời tự thú say đắm của người phụ nữ thổn thức và cố dỗ dành nàng.
- Em làm sao thế, Marya?... Sao em lại nghĩ rằng anh sẽ bỏ rơi em?... Thôi, nín đi!... Đừng khóc, em thân thương của anh!... Anh sẽ mãi mãi ở bên em!...
Khi Marya đã nguôi hẳn, Batsana thận trọng dìu nàng nằm xuống cỏ, rồi đứng lên, đi về phía nhà thờ. Ông cũng bàng hoàng xúc động không kém gì Marya.
Trong nhà thờ mát lạnh và tranh tối tranh sáng. Batsana nhìn quanh.
Tường lở lói vì hơi ẩm... Xung quanh không một bức tranh thánh, không một bức bích họa... Tấm bình phong tranh thánh tả tơi... Trong góc, một chiếc bàn gỗ nhỏ khập khiễng, trải tấm vải màu lá mạ sờn rách, trên có cái giá nến dúm dó và bức tranh Đức Mẹ do bàn tay một người kỳ quặc nào đó vẽ...
Trong giá nến có ba cây nến cháy gần hết... Trên bàn có một bó những cây nến nhỏ con và cạnh đó là một tờ giấy bạc ba rúp nhàu nát...
- Ê-ây! - Batsana gào.
- Ê-ê-ê-ây! - Tiếng vang dội lại.
Những con bồ câu đang gù ở chỗ nào trong các khóm tường dưới mái vòm bay vụt lên và theo nhau bay ra những khuôn cửa sổ hẹp... Batsana bắt đầu đi vòng quanh nhà thờ. Bức tường phía đông có chỗ cao bằng tầm người, ám khói nến! Đôi chỗ hiện lên những bản danh sách dài những người tham quan, xếp theo vần chữ cái, có ghi cả địa chỉ và ngày đến thăm nhà thờ. Trên khoảng tường chỗ bàn thờ, dưới bức tranh bích họa duy nhất vẽ hình đấng cứu thế, đã mờ phai gần hết, Batsana đọc thấy mấy câu thơ thảm hại, trong đó nhà thơ vô danh tự học thách thức đấng tối cao:
Tôi không tin vào đấng vĩ đại
Sáo rỗng và không có diện mạo
“Một đoàn viên Kômxômôn vô thần” - dưới bài thơ ngắn là chữ ký.
Dưới một chút, có bài trả lời bằng chữ vạch trên tường:
Nếu ngươi không tin Chúa và ngươi và tự mãn tự túc đến như thế.
Ngươi lần mò đến đây làm chi, hỡi gã Kômxômôn trẻ tuổi?
Ta có thừa công việc phải lo, con đường ta đi dài dằng dặc và đầy chông gai.
Hãy để ta yên, gã vô thần tự tin kia!
Dưới ký: “Jêsu Kirixitô”
Batsana phá lên cười ha hả: trong cuộc đua tài vắng mặt đó, người vô thần rành rành là thua vị cha của thượng giới.
Ở nhà thờ ra, Batsana không thấy Marya.
- Marya, em ở đâu đấy?
Không có trả lời.
“Sao ta lại bỏ nàng lại một mình?” - Batsana nghĩ và cắm đầu chạy xung quanh nhà thờ.
Marya ngồi bên chiếc bàn đã bày biện món ăn, dưới gốc cây và ôn tồn nói chuyện với một ông già nào không rõ.
- Em biến đi đâu vậy? Anh đã phát hoảng!... Chào cụ! - Batsana quay về phía ông già.
- Cầu trời ban sức khỏe cho ông! - Ông già bỏ chiếc mũ tusin [65]
- Ta ăn sáng chứ? - Batsana hỏi Marya.
- Chứ còn gì nữa! Em đói ngấu rồi! - Marya đồng ý. - Bác đây sẽ ăn cùng với chúng ta.
- Sao lại không nhỉ! Tôi cũng có mấy món mang theo! - Ông già cởi dây buộc bị, lấy ra cái bánh mì nhà làm, pho mát guđa, thịt luộc, tỏi ngâm giấm, nửa chai vôtka.
Batsana lấy trong xe ra chai rượu vang.
- Các con ta ơi, trước hết ta hãy làm mỗi người một chén vốtka! - Ông già lấy trong bị ra chiếc sừng nhỏ xíu, thổi vào đó, rót đầy vôtka và đưa cho Batsana.
- Nào, hãy nếm thử và hãy nói một đôi lời!
- Ta uống vì niềm vui của chúng ta và vì nỗi đau xót của các kẻ thù!
Batsana uống cạn, im lặng một lúc, rồi thốt lên một cách khoái trá.
- Vôtka quả là tuyệt diệu! - Và ông đưa tay lấy tỏi.
Ông già mừng rỡ, tự rót rượu cho mình.
- Ở đâu có niềm vui, ở đấy có đau xót. Ta uống vì cả niềm vui lẫn nỗi đau xót, cầu chúc bình yên và mạnh khỏe! Vì cuộc sống! - Ông cụ dốc cạn cái sừng rượu và đưa tay vuốt bộ mặt không cạo, rồi rót cho Marya. - Còn bây giờ thì nói đi, con gái ta! Chúa đã tạo ra con xinh đẹp thế, lời lẽ của con hẳn là phải đẹp!
Marya cầm lấy cái sừng.
- Bác bao nhiêu tuổi, thưa bác?
- À, - ông già khoát tay. - ngoài bảy mươi!
- Cầu trời ban cho bác ngần ấy năm sống nữa!
- Hơi nhiều, nhưng dù sao cũng cám ơn con! Ta yêu cuộc sống, chẳng giấu giếm làm gì! Ta còn muốn sống nữa!
Batsana mỉm cười.
- Tên bác là gì, thưa bác? - Ông hỏi.
- Tên ta là Ghêorghi, họ là Tumalisvili.
- Bác ở đâu ta?
- Ở cái xã kia kìa.
- Bác đến đây làm gì ạ?
- Chăn gia súc. - Ông già giơ tay trỏ sườn núi đối diện, nới có hai con bò cái và ba con cừu cái đang ăn cỏ.
- Gia súc của bác à?
- Của ta.
- Thu nhập khá chứ ạ?
- Thu nhập quái gì! Chúng nuôi bản thân chúng còn không xong nữa là!
- Thế thì bác nuôi làm gì?
- Thế đấy, một ngụm sữa, một nắm len, và đôi khi may được miếng thịt... Ước gì có số con nhiều gấp đôi. Chứ như hiện nay thì ra quái gì? Vẻn vẹn chỉ đủ bữa ăn cho một con chó sói... - Thế bác vẫn giao sản phẩm cho nhà nước chứ?
- Có, có giao...
- Bác giao cái gì?
- Thì cũng một ngụm sữa, một cụm len, một miếng thịt...
- Nếu bác có số con nhiều gấp đôi thì sao?
- Thì còn phải hỏi gì nữa, hả con! Có nhiều gấp đôi thì sẽ giao nộp gấp đôi… Chứ ta giấu đi đâu? Giao nộp cho nhà nước hay đem ra chợ…
- Vậy ra bác không làm việc trong nông trang ư, bác Ghêorghi?
- Làm chi được, hả con, tuổi tác như ta thế này!... Các con ta thì đương nhiên là có làm. Chúng nó còn bảo ta không được chăn gia súc nữa kia. Bố làm ê mặt chúng con, chúng nó bảo thế. Bố nên ngồi nhà dưỡng già thì hơn. Còn thịt và sữa nộp cho nhà nước thì chúng con có thể mua ở cửa hàng. Nghe thấy chưa? Mua ở cửa hàng! Thế thứ thịt bán tại cửa hàng ấy thì ở đâu ra? Điều ấy chúng không nghĩ tới, bọn chó đẻ.
- Bác Ghêorghi, thế nhà thờ này không có chủ à?- Marya bỗng hỏi.
- Không, ở đây có một…bà lão nhà quê. Tên bà ta là Marya… Bà ta vẽ bức tranh thánh ở trên bàn trong nhà thờ ấy… Bà lão ốm, tội nghiệp, dù mỗi tuần bà ấy chỉ đến đây một lần cũng đáng khen lắm rồi…
- Thế ai thắp nến vậy? - Batsana hỏi.
- Ta thắp, chứ còn ai vào đấy?
- Thế tiền trên bàn ở đâu ra?
- Ở đâu ra là thế nào? Ta đặt tiền lên đấy. Để mua nến…
- Bác có tin Chúa không, bác Ghêorghi? - Marya hỏi.
Ghêorghi suy nghĩ. Rồi cụ đưa mắt nhìn ngôi nhà thờ từ trên xuống dưới, gãi đầu, rồi lại nhìn nhà thờ.
- Biết nói thế nào được… Thực tình thì ta cũng chẳng tin lắm… Nhưng ở đây, suốt ngày chỉ có một mình, xung quanh không một bóng người, tự dưng đâm ra nghĩ đến Chúa…
- Thế cụ nghĩ gì về Chúa?
Ghêorghi lại nhìn nhà thờ lần nữa.
- Ta nghĩ gì ư?... Ta nghĩ rằng khi người ta phá hủy thánh điện của người khác thì thay vào đó, phải dựng những nhà thờ của mình, to đẹp hơn trước. Như cái nhà thờ này chẳng hạn… Nó là của ai, ai xây cất, không biết. Đến ngày têlêtôba [66], người bốn phương đổ về đây: cả người Acmênya, cả người Tatar, cả người Hy Lạp, cả người Nga… Người Gruzya thì ta không nói… Họ đến cầu nguyện… Nhưng ta cho rằng cầu nguyện giữa đồng quang còn hơn là cầu nguyện trong cái nhà thờ như thế này… Ở đấy Chúa nghe thấy ta rõ hơn… Đứng trong cái nhà hoang tàn này, đừng nói gì Chúa, ngay đến con người cũng phát tởm… Ta nói vậy là ý làm sao? Là ngôi nhà thờ này bị bỏ hoang, không ai trông nom chăm sóc, vậy thì người ta đã dựng nên cái gì thay cho nó?
- Tôi không hiểu bác, bác Ghêorghi ạ…
- Có gì mà phải hiểu? Con ạ, trước kia người đi nhà thờ phải leo lên cao, cúi đầu qua cửa tường vây mà vào, phải bỏ mũ trước nhà thờ và vào trong thì nhất định phải đặt cây nến… Mà việc gì ta phải giảng giải cho các con nhỉ, các con là những người thông thái, các con biết rõ hơn ta… Thì như thế này chẳng hạn, Xô viết xã của chúng ta hiện đặt trong ngôi nhà cũ nát thuê của người ta, thiên hạ vào đấy chẳng những không bỏ mũ, mà còn chửi mắng và nhổ bọt… Theo ta, trong cả xã không được có nhà nào cao hơn và đẹp hơn trụ sở Xô viêt xã… Thế các con tưởng trước kia người ta không dựng nổi nhà mình cao hơn nhà thờ ư? Thừa sức, nhưng không dám! Không có quyền như thế!... Còn bây giờ, nhà ông chủ tịch nông trang của ta ở ngay trước trụ sở Xô viết xã, chả khác gì núi Kazơbêc so với quả đồi con kia kìa! Cái nhà xe của cậu lái xe Mitka cũng to gấp ba câu lạc bộ của chúng ta!... Người ta có đến cầu nguyện ở cái trụ sở Xô viết xã như thế không? Không hề!... Vậy ra chúng ta là những kẻ hành khất chăng? Không! Ơn trời, xã ta là một xã giàu có, vững vàng! Lúa mì dồi dào, có cả rượu vang, cả rau! Con người khác lợn ở chỗ nào? Ở chỗ con người ăn cái ở trên cây, còn lợn ăn cái ở dưới gốc cây, trên mặt đất! Ta nói vậy là ý làm sao? Là mọi việc đều phải kịp thời có bàn tay người làm chủ: để chậm thì quả trên cây rơi xuống gốc, thế là con lợn sẽ được hưởng!... Ta bảo tay chủ tịch Xô viết xã: “Anh là người làm chủ, là chính quyền Xô viết kia mà. Thế thì cất nhắc chân tay đi, đồ chó đẻ, hãy dựng một tòa nhà ra nhà, sao cho người ta vui thích khi vào Xô viết xã!” - “Không có tiền và limit [67]thì tôi dựng nhà thế quái nào được?” - hắn nói “Lại còn cái quái quỷ gì thế nữa, limit là cái của nợ gì!” - “Đấy là gạch” - hắn nói. Nghe thấy chưa? Hắn không có gạch! Thế lấy đâu ra gạch để làm nhà xe cho Mitka hay để làm cung điện cho ông chủ tịch?... Được, hắn không có gạch, nhưng hắn có thể cạo mặt hay để râu theo kiểu Cơ đốc được không? Hắn có thể ăn vận tươm tất được không? Mà đó là để cho người ta tôn trọng hắn thôi? Hắn làm được, thằng chó đẻ, nhưng hắn cóc cần gì hết! Trong xã con bò của ta đây còn có uy tín hơn ông chủ tịch! Tại sao? Ấy là vì nó bao giờ cũng được tắm rửa sạch sẽ và cho những tám lít sữa! Thế đấy. Hay ta nghĩ không đúng? Các con nói ta xem! - Ông già dứt lời và rót rượu vang vào các cốc.
- Tất cả những điều bác nghĩ đều đúng, bác Ghêorghi ạ. - Batsana trả lời, - nhưng bác hãy nói thật nhé, đã có lần nào bác đem điều đó ra nói ở cuộc họp chưa?
- Có một lần…
- Hồi nào?
- Năm nay con bao nhiêu tuổi?
- Ngoài bốn mươi.
- Còn ta hồi ấy ba mươi, và suýt nữa ta sa vào… con biết là vào đâu rồi đấy…
- Bây giờ thời buổi khác rồi, bác Ghêorghi ạ!
- Thế thì để những người khác nói… Ta hết thời rồi.
- Thế mà bác bảo là bác còn muốn sống nữa.
- Ôi, thanh niên các người mau miệng gớm! Khốn nỗi đụng đến công việc thì các người lại không gấp lên cho… Mà này, có lẽ con là người của huyện ủy, phải không con?
Batsana phá lên cười.
- Không, bác Ghêorghi ạ, con là nhà văn, cán bộ biên tập một tờ báo.
- Cán bộ biên tập à? Thế thì viết lên báo của con về tất cả những chuyện ấy đi!
- Con sẽ viết chứ sao!
- Không chắc…
- Tại sao? Con sẽ viết thế này này: đây là những suy nghĩ của cụ Ghêorghi Tusmalisvili.
- Con muốn trút tất cả cho ta à - Ông già chột dạ.
- Ồ không! Con sẽ viết rằng con tán thành một phần ý kiến của bác.
- Chỉ một phần thôi ư?
- Vâng.
- Nghĩa là con không hoàn toàn đồng ý với ta?
- Không.
- Thế có được tới một nửa không?
- Một nửa thì có lẽ!
- Thế thì viết một nửa thôi!
- Nhất định!
- Được, để rồi xem - Cụ Ghêorghi thốt lên bằng giọng ngờ vực và nói với Marya: - Anh ấy có viết không?
- Anh ấy sẽ viết! - Marya cười vang.
- Thế các con đối với nhau là thế nào? - Cụ Ghêorghi bỗng hỏi.
Marya không ngờ tới câu hỏi đó, nàng bối rối, nhún vai và nhìn Batsana như dò ý.
- Bác Ghêorghi ạ, chúng con rất yêu nhau và đến đây làm lễ cưới. Nhưng ở đây không có linh mục, thế thì ai làm lễ thành hôn cho chúng con? - Batsana vừa cười vừa đáp.
- Các con cần gì linh mục? Nếu các con yêu nhau thì ta đây cũng có thể làm lễ thành hôn cho các con. - Cụ Ghêorghi vừa nói vừa đứng lên. - Nào, cả hai hãy đứng lên! Tên con là gì? - Batsana.
- Tên con thì ta biết rồi: Marya.
Ghêorghi giơ hai tay lên trời, tay phải cụ cầm cốc rượu vang.
- Các con ta ơi, Marya và Batsana! Sương buổi sáng sẽ là thế giới hương thơm của các con, vầng thái dương cao cả sẽ là vòng hoa của các con, ngôi nhà thờ cổ này và mặt đất thân thương sẽ là người làm chứng cho tình yêu của các con. Ta, Ghêorghi Tusmalisvili, ta ban phước cho các con, như Đấng Tối cao ban phước cho Nôê và các con của người. Hãy sinh con đẻ cái! Mong rằng con cái của các con sẽ làm rạng danh đất nước ta! Mong rằng tình yêu sẽ là người bạn đường vĩnh viễn của cuộc đời các con! Hãy chung thủy với nhau, hãy nâng đỡ nhau trong những lúc khó khăn và lo âu! Amen!... Và đừng quên mời ta đến dự tiệc cưới!
Ghêorghi nốc cạn cốc rượu, đưa tay áo lau mồ hôi, đến gần Marya và Batsana, lần lượt hôn cả hai người thật kêu.
- Cám ơn bác Ghêorghi! - Batsana cảm ơn ông già, Marya đứng cúi đầu, im lặng.
- Con của hai con sẽ xinh đẹp lắm! Hãy sinh đẻ nhiều con vào! - Ghêorfhi cầm cái bị lên.
- Bác đi ư, bác Ghêorghi? - Batsana hỏi với giọng luyến tiếc.
- Phải đi thôi, không thì gia súc lẻn vào vườn nông trang, người gác sẽ ăn thịt ta mất!... Từ biệt các con! Lần sau có đến đây nhớ tìm ta nhé, ta ở quanh đâu đây thôi…
- Tạm biệt bác Ghêorghi! Cầu trời ban sức khỏe cho bất cứ ai ở trong cái sa mạc này, dù đàn ông hay đàn bà, miễn là người đó đồng tình và ủng hộ bác! - Batsana và Ghêorghi xiết chặt tay nhau và ông già ra đi. Đi được mấy bước, ông bỗng quay lại và lớn tiếng nói, giọng bực bội:
- Này Marya, con giận ta phải không? Ta làm phép cưới cho con không đúng lễ ư?
Marya vùng chạy tới chỗ cụ Ghêorghi, ôm lấy cụ và hôn tới tấp lên khuôn mặt lởm chởm râu ria của cụ. Rồi cũng nhanh như thế, nàng quay lại và chạy về phía nhà thờ.
Batsana đưa mắt nhìn theo cụ Ghêorghi đã ra xa, rồi đi theo Marya.
Marya quỳ bên chiếc bàn con. Trước ảnh Đức Mẹ có ba cây nến cháy sáng.
Batsana lắng nghe hồi lâu tiếng thì thầm của người phụ nữ. Ông không nghe thấy lời, nhưng hiểu rằng Marya cầu nguyện. Rồi ông nhẹ nhàng đặt cạnh tờ ba rúp nhàu nát số tiền mười rúp và rón rén ra khỏi nhà thờ.
------------
[57] Những món ăn làm bằng thịt kiểu dân tộc của Gruzya.
[58] Món sữa.
[59] Bánh tráng bột ngô.
[60] Một thứ rượu vang.
[61] Một pháo đài cổ ở Tbilixi.
[62] Savnabađa là tên núi: tiếng Gruzya (Savi) là đen, “nabađi” là áo burka.
[63] Tên các con sông.
[64] Tên các thành phố gần Tbilixi.
[65] Loại mũ mềm, tròn nhỏ, bằng dạ.
[66] Ngày tế của nhà thờ.
[67] Limit, nhập từ tiếng Pháp limite, nghĩa là định mức, tiêu chuẩn cung cấp (N.D).
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét