Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

Giết Con Chim Nhại - Harper Lee (5)

Chương 25

- Đừng làm vậy, Scout. Thả nó ra thềm sau nhà đi.
- Jem, anh khùng hả?
- Anh bảo là thả nó ra thềm sau nhà.
Thở dài, tôi nâng sinh vật nhỏ bé đó lên, đặt nó xuống bậc thang dưới cùng và quay lại võng của mình. Tháng Chín đã đến, nhưng không mang theo một dấu hiệu thời tiết mát mẻ nào, và chúng tôi vẫn ngủ ở hàng hiên có cửa lưới phía sau nhà. Lũ đom đóm vẫn quanh quẩn, lũ côn trùng bay ăn đêm và sâu bọ thường va vào lớp lưới suốt mùa Hè chưa đến nơi chúng vẫn đến khi mùa Thu tới.
Một con bọ bi đã bò được vào trong nhà; tôi cho rằng con vật bé xíu này đã bò lên mấy bậc thềm và chui dưới khe cửa. Tôi đang đặt cuốn sách xuống sàn cạnh cái võng đang nằm thì thấy nó. Mấy con vật loại này dài chưa tới ba phân, và khi bạn đụng vào nó, nó sẽ cuộn mình lại thành một viên bi xám cứng ngắc.
Tôi nằm sấp, thò tay xuống chọc nó. Nó cuộn lại rồi cảm thấy an toàn, tôi đoán vậy, nó từ từ duỗi người ra. Nó đi được vài phân với hàng trăm cái chân của nó và tôi đụng nó lần nữa. Nó cuộn lại. Cảm thấy buồn ngủ, tôi quyết định chấm dứt chuyện này. Bàn tay tôi sắp đập xuống nó thì Jem lên tiếng.
Jem đang cau có. Chắc là do giai đoạn anh đang trải qua, tôi ước gì anh qua nhanh hơn và kết thúc nó. Chắc chắn anh không bao giờ tàn ác với thú vật, nhưng tôi không biết lòng nhân từ của anh bao trùm sang cả thế giới côn trùng.
- Tại sao em không được đập nó?
- Bởi vì nó không quấy rầy em. - Jem trả lời trong bóng tối. Anh đã tắt đèn đọc sách của anh.
- Cứ cho là hiện giờ anh đang ở thời kỳ mà anh không muốn giết ruồi muỗi đi,- tôi nói.- Cho em biết coi chừng nào anh đổi ý. Dù sao cũng cho anh biết một điều, em không ngồi chơi vớ vẩn ở đây mà không gãi một con bọ chét đâu.
- Ừm, im đi. - Anh đáp vẻ ngái ngủ.
Jem ngày càng giống một đứa con gái hơn, chứ không như tôi. Thư thái, tôi nằm ngửa ra chờ giấc ngủ đến, và trong lúc đó tôi nghĩ về Dill. Nó đã chia tay với bọn tôi ngay ngày đầu tháng với đảm bảo chắc nịch là sẽ quay lại vào lúc được nghỉ học - nó đoán ba mẹ nó đã hiểu ra rằng nó thích nghỉ hè ở Maycomb. Cô Maudie cho chúng tôi đi taxi cùng họ ra nhà ga Maycomb, và Dill vẫy chào chúng tôi từ cửa sổ xe lửa cho đến khi nó đi khuất. Nó không biến khỏi tâm trí tôi: tôi nhớ nó. Hai ngày cuối cùng ở với chúng tôi, Jem đã dạy nó bơi...
Dạy nó bơi. Tôi bừng tỉnh như sáo, nhớ lại những gì Dill đã kể với tôi.
Vũng xoáy Barker’s Eddy ở cuối con đường đất rẽ khỏi xa lộ Meridian khoảng hơn cây số tính từ thị trấn. Dọc xa lộ đó thật dễ xin quá giang trên một chiếc xe chở bông vải hoặc một chiếc ôtô đi ngang, và đi bộ một chút là tới khúc sông đó, nhưng viễn cảnh đi bộ suốt con đường lúc chạng vạng, khi giao thông đã ngớt, thì thật mệt, và những người đi bơi thường cẩn thận không đi chơi quá trễ.
Theo Dill kể, nó với Jem vừa ra đến xa lộ thì thấy bố Atticus lái xe về phía chúng. Có vẻ như ông không thấy chúng, nên hai đứa cùng vẫy tay. Cuối cùng bố Atticus chạy chậm lại; khi chúng chạy tới nơi ông nói, “Tốt hơn hai đứa nên quá giang khi trở về, bố đi một lát rồi mới về nhà”. Calpurnia đang ngồi ở băng sau.
Jem phản đối, rồi van nài, và bố Atticus nói, “Được rồi, tụi con có thể đi cùng nhưng phải ở trong xe”.
Trên đường đến nhà Tom Robinson, bố đã kể cho họ nghe những gì đã xảy ra.
Họ rẽ khỏi quốc lộ, chạy chậm qua bãi rác và vượt qua chỗ ở của nhà Ewell, xuống con đường nhỏ dẫn đến những căn chòi của người da đen. Dill nói có một đám trẻ con đang chơi bi trong sân trước nhà Tom. Bố Atticus đậu xe và bước ra. Calpurnia theo ông đi qua cổng trước.
Dill nghe ông hỏi một đứa trong bọn trẻ, “Mẹ cháu đâu, Sam?” và nghe Sam nói, “Mẹ cháu ở chỗ sơ Steven, ông Finch. Cháu chạy kêu mẹ cháu về nghen?”
Dill nói bố Atticus có vẻ ngập ngừng, rồi ông nói ừ và Sam chạy đi, “Chơi tiếp đi mấy đứa”, bố Atticus nói với bọn trẻ.
Một đứa con gái nhỏ bước ra khỏi căn chòi và đứng nhìn bố Atticus. Dill nói tóc con bé là một mớ bím nhỏ xíu, mỗi đuôi bím là một chiếc nơ màu sáng. Nó cười toe toét miệng và đi tới chỗ bố tôi, nhưng nó quá nhỏ không thể hướng về phía những bậc thềm. Dill nói bố Atticus đã đến bên con bé, giơ mũ và giơ ngón tay ông ra. Con bé chộp lấy và ông đưa nó xuống những bậc thềm. Rồi ông giao nó cho Calpurnia.
Sam nhảy nhót sau lưng mẹ nó khi họ về đến. Dill kể Helen nói, “Chào ông, ông Finch, sao ông không ngồi chơi?”. Nhưng chị ta không nói gì nữa. Cả bố Atticus cũng không.
- Scout, - Dill nói, - chị ta té xuống đất. Chị té xuống nền đất, giống như một người khổng lồ có bàn chân to xuất hiện và giẫm lên chị ta. Chỉ uỵch một tiếng...
Bàn chân mập mạp của Dill dậm xuống đất.
- Giống như cậu, giẫm lên một con kiến.
Dill kể Calpurnia cùng bố Atticus đỡ Helen dậy với nửa bế nửa dìu chị ấy vào chòi. Họ ở bên trong hồi lâu rồi bố Atticus đi ra một mình. Khi họ lái xe trở về ngang bãi rác một số người nhà Ewell hò hét vào mặt họ, nhưng Dill không nghe được họ nói gì.
Maycomb được quan tâm bởi tin tức về cái chết của Tom trong khoảng có lẽ hai ngày, hai ngày là đủ cho tin đó lan khắp hạt. “Anh có nghe về?... không à? Ồ, họ nói anh ta chạy đến nhanh hơn tia chớp...”. Đối với Maycomb, cái chết của Tom là một điển hình. Điển hình về một người da đen đột ngột chạy trốn. Điển hình về trạng thái tâm lý của một người da đen không có kế hoạch, không nghĩ đến tương lai, chỉ mù quáng bỏ chạy khi thấy cơ hội đầu tiên. Điều buồn cười, có thể Atticus Finch có thể sẽ gỡ được cho anh ta thoát mọi trừng phạt, nhưng chờ à...? Không đời nào, anh biết họ như thế nào mà. Hời hợt. Cho anh thấy, rằng Tom Robinson đã có vợ hợp pháp, họ nói anh ta giữ mình nghiêm túc, đi nhà thờ và các thứ khác, nhưng khi có chuyện gì thì cái vẻ ngoài lại rất mỏng manh. Người da đen luôn luôn để lộ điều đó.
Thêm vài chi tiết nữa, giúp cho người nghe lần lượt lặp lại câu chuyện theo dị bản của mình, sau đó chẳng ai biết về nó cho đến khi tờ Maycomb Tribune xuất hiện theo các thứ Năm tiếp đó. Có một cáo phó ngầm trong phần Tin của người da màu, nhưng cũng có một bài xã luận.
Ồng Underwood hết sức cay cú và ông hẳn không buồn quan tâm trừ những người hủy bỏ quảng cáo và đặt mua báo dài hạn. (Nhưng Maycomb không chơi kiểu đó. Ông Underwood có thể hò hét cho đến khi ông đổ mồ hôi và viết bất cứ điều gì ông muốn, nhưng ông vẫn nhận được quảng cáo và tiền đặt mua dài hạn. Nếu ông muốn cư xử ngốc nghếch trong tờ báo của ông thì đó là việc của ông). Ông Underwood không nói về thất bại của công lý, ông viết để trẻ con cũng có thể hiểu. Ông Underwood đơn giản nghĩ rằng quả là một tội lỗi khi giết những kẻ tật nguyền, dù họ đứng, ngồi hoặc đào thoát. Ông so sánh cái chết của Tom với việc những thợ săn và trẻ con giết chóc những con chim biết hót một cách vô ý thức và Maycomb nghĩ rằng ông ta đang cố viết một bài xã luận có đủ chất thơ để được in lại trong tờ The Montgomery Advertiser.
Khi tôi đọc bài xã luận của ông Underwood tôi tự hỏi sao lại có chuyện có thể như thế. Giết chóc vô ý thức... Tom đã có được một quy trình pháp lý công bằng cho đến ngày anh ta chết; anh ta được xét xử công khai và được kết án bởi mười hai người tốt hoàn toàn; bố tôi đã đấu tranh hết mình cho anh ta. Bây giờ hàm ý của ông Underwood đã trở nên rõ ràng: bố Atticus đã sử dụng một cung cụ sẵn có cho người tự do để cứu Tom Robinson, nhưng trong tòa án bí mật của trái tim con người bố Atticus không có cơ hội. Tom đã là người chết kể từ lúc Mayella mở miệng và gào lên.
Tên gọi Ewell cho tôi một cảm giác buồn nôn. Maycomb đã lập tức tiếp nhận quan điểm của ông Ewell về cái chết của Tom và truyền chúng theo kênh ngồi lê đôi mách, cô Stephanie Crawford. Cô Stephanie đã nói với bác Alexandra trong khi có mặt Jem (“Ô, có sao đâu, nó đủ lớn để nghe rồi”) rằng ông Ewell nói nó làm một người ngã xuống và hai người sắp đi theo. Jem bảo tôi chẳng có gì phải sợ, ông Ewell là khí nóng hơn bất cứ thứ gì khác. Jem cũng nói với tôi rằng nếu tôi hở một lời nào với bố Atticus, nếu bằng bất kỳ cách nào tôi để bố Atticus biết rằng tôi đã biết thì Jem sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa.

Chương 26

Trường học đã khai giảng và thế là hàng ngày chúng tôi phải đi ngang qua nhà Radley. Jem đã lên lớp bảy và vào trường trung học, nằm phía bên kia trường tiểu học, bây giờ tôi lên lớp ba, và lịch sinh hoạt chúng tôi khác nhau đến độ tôi chỉ tới trường với Jem vào buổi sáng và gặp lại anh ấy vào giờ ăn. Anh ấy tham gia môn bóng Bầu dục, nhưng lại quá ốm và quá nhỏ không thể làm gì trừ việc mang xô nước cho đội bóng. Anh làm chuyện này hết sức nhiệt tình; hầu hết các buổi chiều hiếm khi anh về nhà trước khi trời tối.
Nhà Radley không còn làm tôi khiếp sợ nữa, nhưng nó vẫn mang nét ảm đạm, vẫn lạnh lẽo bên dưới những tán sồi to và vẫn khiến người ta xa lánh. Người ta vẫn thấy ông Nathan Radley vào một ngày mới, đi xuống thị trấn và trở về; chúng tôi biết Boo ở đó, cũng vì lý do trước đây... chưa ai thấy ông ta được mang ra ngoài. Đôi khi tôi cảm thấy bị cắn rứt vì hối hận, khi đi ngang qua chỗ cũ, vì mình từng dự phần vào sự vụ hẳn từng là nỗi khổ đau tột độ cho Arthur Radley - người ẩn dật hợp lý muốn bọn trẻ nhìn thấy gì qua những ô cửa của ông ta, chuyển lời chào hỏi trên đầu cần câu, lang thang trong những luống bắp cải của ông ta vào ban đêm ?
Và tôi vẫn nhớ. Hai đồng xu có hình đầu người da đỏ, kẹo cao su, những con búp bê xà phòng, một huy chương gỉ sét, một đồng hồ bị vỡ có gắn dây chuyền. Jem hẳn đã cất nó đâu đó. Một chiều tôi dừng lại và nhìn vào cái cây, thân cây phình to quanh mảng xi măng. Mảng đó đã bị ngả vàng.
Chúng tôi hầu như thấy được ông ta vài lần, một thành tích đủ tốt cho bất cứ ai.
Nhưng tôi vẫn đảo mắt tìm ông ta mỗi lần đi ngang qua đó. Biết đâu một ngày nào đó chúng tôi sẽ nhìn thấy ông ta. Tôi tưởng tượng cảnh đó như sau: khi nó xảy ra, ông ta chỉ ngồi trên ghế xích đu khi tôi bước tới. “Chào ông Arthur”, tôi sẽ nói cứ như tôi vẫn nói câu đó mỗi chiều trong đời. “Chào Jean Louise”, ông ta sẽ nói, như thể ông ta vẫn nói câu đó mỗi chiều trong đời, “mình có mấy ngày liền thời tiết đẹp, phải không?”. “Vâng thưa ông, thật đẹp”, tôi sẽ nói và đi tiếp.
Đó chỉ là một tưởng tượng. Chúng tôi sẽ không bao giờ thấy ông ta. Có lẽ ông ta ra ngoài khi trăng lặn và chăm chăm nhìn cô Stephanie Crawford. Nếu là tôi thì chắc tôi đã chọn ai đó để nhìn, nhưng đó là công việc của ông ta. Ông ta sẽ không bao giờ nhìn chúng tôi.
- Con sẽ không bắt đầu chuyện đó nữa chứ, đúng không? - Một đêm nọ bố Atticus nói, khi tôi bày tỏ mơ ước trái khoáy là được nhìn kỹ Boo Radley một lần trước khi chết. - Nếu con muốn vậy, bố sẽ nói với con ngay bây giờ dừng chuyện đó lại. Bố đã quá già không thể rượt đuổi con ra khỏi sân nhà Radley. Với lại nó rất nguy hiểm. Con có thể bị ăn đạn. Con biết là ông Nathan bắn vào mọi cái bóng mà ông ta nhìn thấy, cả những cái bóng để lại dấu chân trần cỡ số bốn. Con đã may mắn là không bị giết.
Tôi im ngay tắp lự. Đồng thời tôi rất ngạc nhiên vì bố Atticus. Đây là lần đầu tiên ông cho chúng tôi biết ông biết nhiều về một điều gì đó hơn mức chúng tôi nghĩ ông biết. Và nó đã xảy ra cách đây nhiều năm. Không, chỉ một mùa Hè năm ngoái - không, mùa Hè năm trước nữa, khi.... thời gian làm tôi rối trí. Tôi phải nhớ hỏi lại Jem mới được.
Quá nhiều điều đã xảy ra với chúng tôi, Boo Radley là nỗi sợ hãi nhỏ nhất của chúng tôi. Bố Atticus nói ông không thấy làm sao có bất kỳ chuyện nào khác có thể xảy ra, rằng mọi việc có một cách để lắng xuống và sau một thời gian người ta sẽ quên rằng sự tồn tại của Tom Robinson đã từng khiến họ chứng kiến.
Có lẽ bố Atticus đúng, nhưng những sự kiện xảy ra vào mùa Hè đó lơ lửng trên đầu chúng tôi giống như khói trong một phòng kín. Người lớn ở Maycomb không bao giờ bàn cãi vụ này với Jem và tôi: có vẻ như họ thảo luận việc này với con cái họ, và quan điểm của họ hẳn cho rằng cả hai chúng tôi không thể tránh được việc có bố là Atticus, vì vậy con cái của họ phải tử tế với chúng tôi bất chấp ông. Bọn trẻ chắc không bao giờ tự nghĩ ra được điều đó: nếu bạn học của chúng tôi được tùy ý muốn làm gì thì làm, thì Jem với tôi mỗi đứa chắc sẽ có những trận đấm lộn đã đời, nhanh gọn và kết thúc vấn đề vĩnh viễn. Như thế, chúng tôi buộc phải ngẩng cao đầu giữ tư thế của một quý ông và một quý cô. Ở một mức độ nào đó, nó giống như thời kỳ của bà Henry Lafayette Dubose, chỉ khác là không có tiếng gào thét của bà. Dù sao có một điều kỳ quặc mà tôi không bao giờ hiểu: bất chấp những thiếu sót của bố Atticus trong vai trò làm cha, người ta vẫn bầu lại ông vào ban lập pháp của bang năm đó, như thường lệ, mà không có sự phản đối nào. Tôi đi đến kết luận rằng con người thật kỳ lạ, tôi tránh xa họ và không bao giờ nghĩ về họ cho đến khi tôi buộc phải nghĩ.
Một ngày nọ trong trường tôi buộc phải nghĩ như vậy. Mỗi tuần một lần, chúng tôi có một tiết học “Các sự kiện hiện tại”. Mỗi học sinh có nhiệm vụ cắt một mẩu tin từ báo, nắm vững nội dung của nó và trình bày cho cả lớp nghe. Việc thực tập này được cho là nhằm khắc phục nhiều nhược điểm: việc đứng trước đám bạn kích thích tư thế đường hoàng và tạo cho trẻ sự tự tin; việc trình bày một bài nói ngắn làm trẻ có ý thức về ngôn từ; việc tìm hiểu sự kiện hiện nay củng cố ký ức của trẻ; việc bị chọn riêng ra khiến trẻ nóng lòng muốn quay trở lại với tổ nhóm của mình hơn.
Ý tưởng này thật uyên bác, nhưng như thường lệ, ở Maycomb nó không đạt hiệu quả nhiều. Thứ nhất, ít có trẻ nông thôn tiếp cận được với báo chí, vì vậy gánh nặng của tiết học “Các sự kiện hiện tại” đổ hết cho bọn trẻ ở thị trấn, khiến những đứa trẻ đi xe buýt càng tin chắc rằng bọn trẻ ở thị trấn dù gì cũng dành được hết mọi sự chú ý quan tâm. Những đứa trẻ nông thôn nào có thể tham gia lại thường mang những mẩu được cắt ra từ cái mà chúng gọi là The Grit Paper, một thứ không đích thực là báo chí dưới mắt cô Gates, cô giáo của bọn tôi. Tại sao cô nhíu mày khi một đứa trẻ trích đọc từ The Grit Paper thì tôi không biết, nhưng ở một mức độ nào đó thì nó gắn liền với việc thích táy máy chân tay, ăn bánh quy ngọt thay thế bữa trưa, là một tín đồ nhảy múa [1], bài bát Sweetly Sings the Donkey và phát âm nó thành dunkey, tiểu bang đã trả lương cho các giáo viên để ngăn chặn những chuyện đó.
Dù vậy, ít đứa trẻ nào biết một sự kiện hiện tại là gì. Little Chuck Little, có trăm năm hiểu biết về bò và các thói quen của chúng, đang đọc nửa chừng một chuyện về Chú Natchell [2] thì cô Gates bảo nó dừng lại, “Charles, đó không phải là sự kiện hiện tại. Đó là mẩu quảng cáo mà”.
Tuy nhiên Cecil Jacobs lại biết một sự kiện là gì. Khi đến lượt nó, nó đi đến trước lớp và bắt đầu:
- Lão Hitler...
- Adolf Hitler, Cecil, - cô Gates nói. - Đừng bao giờ bắt đầu với từ Lão trước tên bất kỳ ai.
- Vâng, thưa cô,- nó nói. - Lão Adolf Hitler đã truy tố người...
- Ngược đãi, Cecil...
- Không, cô Gates, ở đây nói nè - lão Adolf Hitler đã lùng bắt mọi người Do Thái và bỏ tù họ và ông ta tịch thu tất cả tài sản của họ và ông ta sẽ không để cho bất kỳ ai trong số họ rời khỏi đất nước và ông ta tắm rửa tất cả bọn đần độn và...
- Tắm rửa bọn đần độn hả?
- Phải thưa cô, em cho là họ không có đủ ý thức để tự tắm rửa, em cho là một tên ngốc không thể biết giữ cho mình sạch sẽ được. Dù sao thì Hitler cũng đã bắt đầu một chương trình tập trung tất cả những người lai Do Thái và ông ta muốn ghi họ vào sổ trong trường hợp họ có thể muốn gây bất cứ rắc rối nào cho ông ta và em nghĩ đây là một việc làm xấu và đó là sự kiện hiện tại của em.
- Rất tốt, Cecil. - cô Gates nói. Thở phì phò, Cecil trở về chỗ ngồi.
Một bàn tay giơ lên ở cuối phòng.
- Sao ông ta có thể làm điều đó?
- Ai làm cái gì? - Cô Gates hỏi một cách kiên nhẫn.
- Ý em là làm sao Hitler có thể nhốt nhiều người vào một bãi rào kín như vậy, xem ra chính phủ sẽ ngăn ông ta lại. - chủ nhân của cánh tay đó nói.
- Hitler là chính phủ, - cô Gates nói và chớp lấy cơ hội này để làm việc giáo dục được mạnh mẽ hơn, cô đi lên bảng, viết in từ DÂN CHỦ bằng chữ to. - Dân chủ, - cô nói. - Ai có thể định nghĩa được?
- Em, em, - một số đứa nói.
Tôi giơ tay, nhớ lại khẩu hiệu của một chiến dịch cũ mà bố Atticus đã có lần nói cho tôi nghe.
- Theo em nó nghĩa là gì, Jean Louise?
- Quyền bình đẳng cho mọi người, không có đặc quyền cho bất cứ ai. - tôi trích dẫn.
- Rất tốt, Jean Louis, rất tốt, - cô Gates mỉm cười. Trước chữ DÂN CHỦ, cô viết in chữ, “CHÚNG TA LÀ MỘT NƯỚC”. - Bây giờ cả lớp cùng đọc to, “Chúng ta là một nước dân chủ”.
Chúng tôi đọc theo. Sau đó cô Gates nói:
- Đó là khác biệt giữa nước Mỹ và nước Đức. Chúng ta là một nước dân chủ và Đức là một nước độc tài. Chế độ độc-tài. - cô nói. - Ở đây chúng ta không tin vào việc ngược đãi bất cứ ai. Sự ngược đãi bắt nguồn từ dân tộc có thành kiến. Thành kiến. -  cô phát âm một cách cẩn thận. - Trên thế giới không có dân tộc nào tốt hơn người Do Thái, và tại sao Hitler không nghĩ như thế vẫn còn là bí ẩn đối với cô.
Một đứa tò mò giữa lớp hỏi.
- Theo cô tại sao họ không thích người Do Thái vậy, cô Gates?
- Cô không biết, Herry. Họ đóng góp vào mọi xã hội mà họ sống, và họ là một dân tộc rất sùng đạo. Hilter đang cố thủ tiêu tôn giáo, nên có lẽ ông ta không thích họ vì lý do đó.
Cecil lên tiếng.
- Em không biết chắc, - nó nói, - họ được coi như làm việc đổi tiền hoặc cái gì đó đại loại như vậy, nhưng đó không phải là lý do để ngược đãi họ. Họ là những người da trắng, đúng không?
Cô Gates nói:
- Khi em lên đến trung học, Cecil, em sẽ học được rằng người Do Thái đã bị ngược đãi từ bình minh của lịch sử, thậm chí bị đuổi khỏi đất nước của họ. Đó là một trong những câu chuyện kinh khủng nhất trong lịch sử. Đã đến giờ học số học rồi, các em.
Vì không hề thích môn số học, nên tôi dành tiết này nhìn ra cửa sổ. Lần duy nhất tôi thấy bố Atticus cau có là khi bình luận viên Elmer Davis [3] đưa tin mới nhất về Hitler. Bố Atticus tắt ngay radio và nói “Hừm!”. Có lần tôi hỏi tại sao bố Atticus bực bội với Hitler thì bố cười, “Bởi vì hắn là một tên điên khùng”.
Tôi ngẫm nghĩ, điều này không được rồi, trong khi cả lớp lo làm bài toán số học. Một tên điên khùng và hàng triệu người dân Đức. Tôi thấy đúng ra họ nên nhốt Hitler vào một bãi đất có rào thay vì để cho ông ta nhốt họ. Có một điều gì khác không ổn... tôi sẽ hỏi bố tôi về chuyện này.
Tôi đã hỏi, và ông nói có lẽ ông không trả lời được câu hỏi của tôi vì ông không biết câu trả lời.
- Nhưng ghét Hitler là đúng phải không?
- Không, - ông nói. - Không đúng khi ghét bất cứ ai.
- Bố Atticus, - tôi nói, - có một điều gì đó con không hiểu. Cô Gates nói nó thật khủng khiếp, Hitler làm những gì ông ta làm, cô đỏ mặt tía tai về chuyện đó...
- Bố nghĩ cô ấy sẽ như thế.
- Nhưng...
- Sao?
- Không có gì, bố. - tôi bỏ đi, không chắc mình có thể giải thích với bố Atticus những gì trong đầu tôi, không chắc tôi có thể làm sáng tỏ điều mới chỉ là cảm giác. Có lẽ Jem có câu trả lời. Jem hiểu những chuyện trong trường hơn bố Atticus
Jem mệt lử sau khi xách nước cả ngày. Có ít nhất mười hai vỏ chuối dưới sàn cạnh giường của anh, vứt quanh một chai sữa cạn.
- Ngốn cả đống như thế để làm chi vậy?-  Tôi hỏi.
- Huấn luyện viên nói nếu tăng thêm chục ký vào năm tới thì anh có thể chơi. - anh nói. - Đây là cách nhanh nhất.
- Nếu anh không bị ói ra hết mớ đó, Jem, - tôi nói, - thì em muốn hỏi anh mấy chuyện.
- Hỏi đi. - Anh đặt cuốn sách xuống và duỗi chân ra.
- Cô Gates thật dễ thương, đúng không?
- Chắc chắn rồi, - Jem nói. - Hồi anh còn học cô, anh thích cô lắm.
- Cô rất ghét Hitler...
- Chuyện đó có gì sai đâu?
- Bữa nay cô nói về chuyện ông ta cư xử tồi tệ mức nào với người Do Thái, thật không đúng khi ngược đãi bất cứ ai, phải không? Em muốn nói là có ý nghĩ xấu về bất cứ ai, đúng không?
- Đương nhiên là không rồi, Scout. Em đang vòng vo chuyện gì vậy?
- Bước ra khỏi tòa án đêm đó cô Gates - cô bước xuống bậc thềm ngay trước tụi mình, chắc anh không thấy cô - cô nói chuyện với cô Stephanie Crawford. Em nghe cô ấy nói đã tới lúc phải có ai đó dạy chho chúng một bài học, chúng đang vượt qua thân phận của chúng rồi đấy, và điều kế tiếp chúng nghĩ chúng có thể làm là cười chúng ta. Jem, làm thế nào anh có thể ghét Hitler dữ dội và suy nghĩ tồi tệ về một người khác ngay tại quê nhà...
Jem chợt giận dữ. Anh phóng khỏi giường, chộp lấy cổ áo tôi và lắc.
- Anh không bao giờ muốn nghe về phiên tòa đó nữa, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, nghe không? Em nghe anh nói không? Đừng bao giờ nói một câu nào về chuyện đó với anh nữa, nghe không? Giờ thì xéo đi!
Tôi quá ngạc nhiên đến độ không bật khóc được. Tôi lủi khỏi phòng Jem và đóng cửa nhẹ nhàng, e rằng tiếng ồn không đúng lúc lại khiến anh nổi khùng lên nữa. Chợt thấy mệt, tôi muốn có bố Atticus. Ông đang ngồi trong phòng khách, tôi đi đến bên ông và tìm cách leo lên đùi ông.
Bố Atticus mỉm cười:
- Giờ con lớn qua rồi, bố chỉ bế được một phần của con thôi. - Ông ôm chặt tôi, - Scout, - ông nói dịu dàng, - đừng để Jem làm con mất tinh thần. Mấy ngày nay nó đang trải qua một giai đoạn bức bối. Bố nghe tiếng các con trong đó.
Bố Atticus nói Jem đang hết sức cố gắng để quên đi một số chuyện, nhưng việc anh thực sự làm là tạm gác nó đi, chờ cho đủ thời gian trôi qua. Sau đó anh có thể nghĩ về nó và sắp xếp lại vấn đề. Khi có thể bình tĩnh nghĩ về nó, Jem sẽ lại là chính anh.
------------
1. Tín đồ nhảy múa(holy-roller): thành viên của một tôn giáo nhỏ, thường biểu lộ lòng sùng đạo bằng cách la hét và di chuyển vòng quanh khi hành lễ.
2. Natchell là nhân vật hí họa cho một loại phân bón có tên là Natural Chilean Nitrade of Soda. Nhiều mẩu quảng cáo cho sản phẩm này được làm dưới dạng truyện tranh. Little Chuck Little lầm tưởng những câu truyện này là sự kiện đương thời.
3. Nhà báo và bình luân viên của đài CBS, sau đó phụ trách phòng thông tin chiến sự.

Chương 27

Mọi chuyện lắng xuống, theo một kiểu nào đó, như bố Atticus đã dự đoán. Vào tháng Mười, chỉ có hai việc nhỏ khác thường xảy ra với hai công dân Maycomb. Không, ba việc chứ, chúng không trực tiếp liên quan đến chúng tôi - những người nhà Finch - nhưng theo một cách nào đó thì chúng có liên quan.
Việc thứ nhất là ông Bob Ewell kiếm được việc rồi lại mất việc chỉ trong vài ngày hầu như chắc chắn điều đó khiến ông ta trở thành người độc đáo trong biên niên sử thế kỷ mười chín: ông là người duy nhất tôi từng nghe bị sa thải khỏi chỗ làm WPA vì lười biếng. Tôi cho rằng sự bùng nổ danh tiếng ngắn ngủi của ông ta dẫn đến sự bùng nổ ngắn ngủi của công ăn việc làm, nhưng việc làm của ông ta chỉ kéo dài bằng tai tiếng của ông ta: ông Ewell nhận ra mình cũng bị lãng quên như Tom Robinson. Sau đó ông ta lại tiếp tục xuất hiện đều đặn hàng tuần tại văn phòng trợ cấp thất nghiệp để lãnh chi phiếu, và nhận nó với vẻ bất lịch sự giữa những tiếng lầm bầm trong miệng rằng bọn chó đẻ vốn nghĩ họ điều hành thị trấn này không chịu để cho một người lương thiện kiếm sống, Ruth Jones, người phụ trách trợ cấp, nói ông Ewell công khai buộc tội bố Atticus làm ông ta mất việc làm. Cô bực bội tới mức đi xuống văn phòng bố Atticus nói cho ông nghe. Bố Atticus bảo cô Ruth đừng quan tâm, rằng nếu Bob Ewell muốn thảo luận chuyện bố Atticus làm mất công việc của ông ta, thì ông ta biết đường đến văn phòng này.
Việc thứ hai xảy ra với quan tòa Taylor. Quan tòa Taylor không phải là người đi nhà thờ tối Chủ nhật. Mà là bà Taylor. Quan tòa Taylor thưởng thức buổi tối được ở một mình đêm Chủ nhật trong ngôi nhà to lớn của ông, và vào giờ đi nhà thờ ông chui vào phòng làm việc đọc các tác phẩm của Bob Taylor [1] (không có họ hàng nhưng quan tòa vẫn tự hào nhận là có). Một tối Chủ nhật nọ, chìm đắm trong những phép ẩn dụ lý thú và lối viết hoa mỹ, sự chú ý của quan tòa Taylor bị lôi khỏi trang giấy bởi những tiếng cào xước khó chịu. “Suỵt”, ông la Ann Taylor, con chó mập mạp lờ đờ của ông. Rồi ông nhận ra mình đang nói với căn phòng trống trơn; tiếng cào xuất phát từ sau nhà. Quan tòa bước ra hiên sau để cho Ann ra ngoài và thấy cửa lưới mở toang. Ông thấy một bóng người trong góc nhà, ông chỉ thấy được có thế về người khách của ông. Bà Taylor từ nhà thờ về nhà và thấy chồng bà trên ghế, vẫn chìm đắm trong những văn phẩm của Bob Taylor, với khẩu súng săn gác ngang đùi.
Chuyện thứ ba xảy ra với Helen Robinson, vợ góa của Tom. Nếu ông Ewell đã bị lãng quên như Tom Robinson, thì Tom Robinson đã bị lãng quên như Boo Radley. Nhưng Tom Robinson không bị ông chủ Link Deas của anh ta quên. Ông Link Deas tìm một công việc cho Helen. Ông không thực sự cần chị, nhưng ông nói ông cảm thấy không vui chút nào trước những việc xảy ra. Tôi không biết ai chăm sóc mấy đứa con của Helen khi chị vắng nhà. Calpurnia nói thật khó khăn cho Helen, vì chị phải đi bộ gần cả cây số theo đường vòng để tránh nhà Ewell, người, theo Helen, “chửi rủa chị”, ngay lần đầu tiên chị đi theo đường chính. Sau cùng ông Link Deas nhận ra việc Helen đến làm việc mỗi sáng không từ hướng nhà chị ta và hỏi chị lý do. “Cứ để như vậy đi, ông Link, tôi xin ông”, Helen van nài. “Tôi sẽ làm cho ra chuyện”, ông Link nói. Ông bảo chị đến cửa hàng của ông buổi chiều đó trước khi chị ra về. Chị làm theo, và ông Link đóng cửa hàng, đội mũ cẩn thận lên đầu, và đi bộ cùng Helen về nhà. Ông đi với chị theo con đường ngắn, ngang nhà Ewell. Trên đường về, ông Link dừng lại ngay cánh cổng xiêu vẹo.
- Ewell? - Ông gọi. - Tao gọi Ewell!
Các cửa sổ, thường đầy bọn trẻ, giờ trống trơn.
- Tao biết mọi người trong nhà mày ở trong đó, nằm dưới sàn nhà! Giờ thì nghe đây, Bob Ewell: nếu tao còn nghe cô Helen của tao than thở và không được đi con đường này tao sẽ cho mày vô tù trước khi mặt trời lặn! - Ông Link phun nước bọt và đi về nhà.
Sáng hôm sau Helen đi đến chỗ làm bằng đường chính. Chẳng có ai chửi rủa chị, nhưng khi chị đi khỏi nhà Ewell vài mét, chị quay lại và thấy ông Ewell đang đi sau lưng chị. Chị quay đi và tiếp bước và ông Ewell giữ khoảng cách y như vậy sau lưng chị cho đến khi chị đến nhà ông Link Deas. Suốt đường đi, Helen nói, chị nghe một giọng nho nhỏ sau lưng, âm ư những lời bẩn thỉu. Quá sợ hãi, chị điện thoại cho ông Link ở cửa hàng, ông Link thấy Ewell đang dựa vào hàng rào. Ông Ewell nói, “Đừng có nhìn tao, Link Deas, cứ như tao là bùn đất vậy. Tao không nhảy xổ vào con...”.
- Việc đầu tiên mày có thể làm, Ewell, là lê cái xác thố tha của mày ra khỏi điền sản nhà tao. Mày đang dựa vào nó và tao không có tiền sơn mới cho nó đâu. Điều thứ hai mày có thể làm là tránh xa đầu bếp của tao nếu không tao sẽ cho mày ra tòa vì tội hành hung...
- Tao không đụng vào nó, Link Deas, và cũng không định đi chung với một con mọi đen!
- Mày không cần chạm vào cô ta, chỉ cần mày làm cô ta sợ, và nếu tội hành hung không đủ để mày bị giam một thời gian, tao sẽ cho mày đi tù theo Luật Quý bà [2], vì vậy hãy cút xéo khỏi mắt tao! Nếu mày không tin tao nói thiệt thì cứ quấy rầy cô ta nữa xem.  Rõ ràng ông Ewell nghĩ ông ta nói thiệt, vì không nghe Helen báo cáo rắc rối nào nữa.
- Tôi không ưa được, Atticus, không ưa được chuyện này chút nào, - là đánh giá của bác Alexandra về những sự kiện ấy. - Gã đó có vẻ hận thù thường trực với mọi người liên quan đến vụ án. Tôi biết hạng người đó sẽ thanh toán thù hằn như thế nào, nhưng tôi không hiểu tại sao hắn phải nuôi dưỡng một... hắn đã được điều hắn muốn ở phiên tòa rồi, đúng không?
- Em nghĩ mình hiểu, - bố Atticus nói. - Có lẽ bởi tận thâm tâm hắn biết rằng rất ít người ở Maycomb này thực sự tin lời bịa đặt của hắn và Mayella. Hắn nghĩ hắn sẽ trở thành anh hùng, nhưng tất cả những gì hắn nhận được cho nỗi đau của hắn là... là, được rồi, chúng tôi sẽ kết án tay da đen này nhưng hãy trở lại đống rác của anh đi. Hiện giờ hắn đã có thời gian vui thú với hầu hết mọi người rồi, vì thế hắn phải hài lòng. Hắn sẽ bình tĩnh lại khi thời tiết thay đổi.
- Nhưng tại sao hắn lại đột nhập vào nhà John Taylor? Rõ ràng hắn không biết John ở nhà nếu không hắn sẽ không mạo hiểm. Những ngọn đèn duy nhất John bật lên vào những tối Chủ nhật là ở hàng hiên trước và ở phía sau trong phòng làm việc của ông ấy...
- Chị đâu biết có phải chính Bob Ewell cắt cửa lưới đó không, chị đâu biết ai là thủ phạm, - bố Atticus nói. - Nhưng em có thể đoán. Em đã chứng tỏ hắn là một kẻ nói dối nhưng John làm hắn trông giống một tên ngốc. Tất cả những lần Ewell đứng trên bục nhân chứng, em không dám nhìn John và giữ bộ mặt nghiêm trang, John đã nhìn hắn cứ như hắn là con gà ba chân hoặc một quả trứng vuông. Đừng với với em là các quan tòa không cố tác động đến bồi thẩm đoàn. - bố Atticus cười rúc rích.
Cho đến cuối tháng Mười, cuộc sống của chúng tôi đã theo nhịp quen thuộc gồm đến trường, chơi, học ở nhà. Jem có vẻ đã loại được khỏi đầu óc anh bất cứ thứ gì anh muốn quên và bạn học của chúng tôi đã tử tế để cho chúng tôi quên những hành động kỳ dị của bố chúng tôi. Có lần Cecil Jacobs hỏi tôi liệu bố Atticus có phải là người cấp tiến không. Khi tôi hỏi bố Atticus, bố Atticus cười khiến tôi hơi khó chịu, nhưng ông nói ông không cười với tôi. Ông bảo, “Con nói với Cecil là bố cấp tiến cỡ ngang với Cotton Tom Heflin [3]”.
Bác Alexandra đang hào hứng, cô Maudie hẳn đã làm tắt tiếng cả hội truyền giáo chỉ bằng một đòn, vì bác tôi lại thống trị cả nhóm. Những bữa tiệc nhẹ nhàng của bác càng ngon lành hơn. Tôi biết được nhiều hơn về cuộc sống xã hội của người Mruna tội nghiệp qua việc lắng nghe bà Merriweather: họ ý thức quá ít về gia đình đến độ cả bộ lạc là một đại gia đình. Một đứa trẻ có số cha bằng số đàn ông trong cộng đồng, có số bà mẹ bằng số phụ nữ ở đó. J. Grimes Everett đang làm hết sức mình để thay đổi tình trạng này và rất cần những lời cầu nguyện của chúng ta.
Maycomb lại trở về như cũ. Chính xác y như năm ngoái và năm kia, với chỉ có hai thay đổi nhỏ. Trước tiên, người ta đã gỡ khỏi các cửa kính cửa hàng và các xe hơi của họ những tấm dán có chữ NRA - CHÚNG TÔI LÀM PHẦN VIỆC CỦA CHÚNG TÔI. Tôi hỏi bố Atticus tại sao, và bố nói với cơ quan NRA đã chết. Tôi hỏi ông ai giết nó, ông nói: chín ông già [4].
Thay đổi thứ hai của Maycomb từ năm ngoái không phải là một thay đổi tầm cỡ quốc gia. Cho đến khi ấy, lễ hội Halloween ở Maycomb là một sự kiện hoàn toàn thiếu tổ chức. Mỗi đứa bé làm những gì nó muốn làm, với sự giúp đỡ của mấy thằng nhóc khác nếu cần di chuyển thứ gì đó, chẳng hạn như đặt một cỗ xe ngựa nhỏ lên nóc chuồng ngựa. Nhưng các bậc phụ huynh nghĩ mọi chuyện năm ngoái đã đi quá xa khi sự thanh bình của cô Tutti và cô Frutti bị phá vỡ.
Tutti và Frutti Barber là hai bà cô già không chồng, chị em ruột sống với nhau trong tòa nhà có tầng hầm duy nhất ở Maycomb. Hai bà Barber theo lời đồn là đảng viên Cộng hòa, đã di cư từ Clanton, Alabama, từ năm 1911. Với chúng tôi, cung cách của họ thật lạ lùng và tại sao họ cần một tầng hầm thì không ai biết, nhưng họ muốn có một cái và đã đào nó, và họ dành phần đời còn lại của họ để đuổi các thế hệ trẻ con ra khỏi đó.
Cô Frutti và Tutti (tên của họ là Sarah và Frances), ngoài những cung cách miền Bắc của họ, đều bị điếc. Cô Tutti phủ nhận chuyện đó và sống trong một thế giới im lặng, nhưng cô Frutti, không có ý định bỏ lỡ bất cứ điều gì, đã sử dụng một ống nghe quá lớn đến độ Jem tuyên bố nó là một cái loa phóng thanh từ một trong những quảng cáo cho Victrolas [5] đó.
Với những sự kiện này trong đầu và lễ Halloween trước mắt, một số đứa trẻ tai quái đã chờ cho đến khi các cô Barber say ngủ, lẻn vào phòng khách của họ, (không ai trừ nhà Radley khóa cửa vào ban đêm), lén lút lấy trộm mọi thứ đồ đạc bên trong, và giấu nó dưới tầng hầm. Tôi từ chối tham gia vào một trò như thế.
- Tôi nghe tiếng chúng! - Là tiếng la đánh thức hàng xóm của các cô Barber vào sáng sớm hôm sau. - Nghe chúng lái một chiếc xe tải đến cửa. Đi huỳnh huỵch loanh quanh như bầy ngựa. Bây giờ chúng ở tận New Orleans rồi!
Cô Tuttin đoán chắc những người bán lông thú dạo vừa đi ngang thị trấn trước đó hai ngày đã ăn trộm đồ đạc của họ.
- Bọn họ xấu, - cô nói. - Những tên Syria.
Ông Heck Tate được gọi đến. Ông xem xét hiện trường và nói ông nghĩ đây là việc làm của dân địa phương. Cô Frutti nói cô nhận ra giọng Maycomb ở bất cứ đâu, và tối qua không có giọng Maycomb nào trong phòng khách đó... chúng phát âm rất rõ chữ r khắp nơi trong nhà cô. Cần phải dùng bọn chó săn để xác định vị trí đồ đạc của họ, cô Tutti khẳng định, vì vậy ông Tate buộc phải đi cả chục cây số, mượn những con chó săn của hạt và chúng đi tìm dấu vết.
Ông Tate thả chúng ra tại mấy bậc thềm trước nhà cô Barber, nhưng tất cả những gì chúng làm là chạy vòng ra sau nhà và tru trước cửa hầm. Khi ông Tate cho chúng chạy ba lần, cuối cùng ông đoán ra sự thật. Trưa hôm đó khắp Maycomb không ai thấy bóng dáng một đứa trẻ chân trần nào và không đứa nào cởi giầy của mình ra cho đến khi bọn chó săn được trả về.
Vì vậy các bà Maycomb nói năm nay mọi việc sẽ khác. Hội trường của các trường trung học được mở cửa; sẽ có một hoạt cảnh lịch sử cho người lớn; trò tán láo, thi kẹo kéo, gắn đuôi cho lừa dành cho trẻ con. Cũng có một phần thưởng hai mươi lăm xu cho trang phục Halloween đẹp nhất, do người mặc nó tạo ra.
Cả Jem lẫn tôi đều rên rỉ. Không phải chuyện chúng tôi từng làm bất cứ chuyện gì và là chuyện nguyên tắc của sự vụ. Dù sao Jem cũng tự cho mình là quá tuổi tham dự Halloween. Anh nói sẽ không vướng vào trò gì đại loại như thế ở gần trường học. Được thôi, tôi nghĩ, bố Atticus sẽ dắt tôi đi.
Tuy nhiên tôi nhanh chóng biết được rằng tôi sẽ phải có mặt trên sân khấu tối hôm đó. Bà Merriweather đã sáng tác một hoạt cảnh lịch sử độc đáo nhan đề Maycomb country: Ad Astra Per Aspera [6], và tôi sẽ đóng vai một miếng giăm bông. Bà nghĩ sẽ rất hấp dẫn nếu một số đứa trẻ ăn mặc đại diện cho một số nông sản của hạt: Cecil Jacobs sẽ ăn mặc như một con bò; Agnes Boone sẽ là quả đậu trắng, một đứa khác sẽ là hạt lạc, và cứ thế cho đến khi sức tưởng tượng của bà Merriweather và nguồn cung cấp trẻ con cạn kiệt.
Nhiệm vụ của chúng tôi, trong chừng mực tôi có thể hiểu ra qua hai buổi diễn tập, là bước vào từ mé trái sân khấu khi bà Merriweather (không chỉ là tác giả mà còn là người dẫn chuyện) nhận dạng chúng tôi. Khi bà gọi to, “thịt heo” đó là ám chỉ tôi. Sau đó nhóm của tôi sẽ hát, “Hạt Maycomb, hạt Maycomb, chúng ta sẽ thủy chung với mi”, như tiết mục kết thúc của buổi biểu diễn và bà Merriweather sẽ trèo lên sân khấu phất lá cờ tiểu bang.
Trang phục của tôi không phải là một vấn đề lớn. Bà Crenshaw, thợ may địa phương, có trí tưởng tượng cũng mạnh như bà Merriweather. Bà Crenshaw lấy một số lưới thép mỏng và uốn cong nó thành hình dạng một miếng thịt muối. Bà phủ một lớp vải nâu, và sơn nó giống nguyên mẫu. Tôi có thể chui bên dưới và ai đó sẽ kéo vật này phủ xuống đầu tôi. Nó dài tới gần đầu gối tôi. Bà Crenshaw làm cho tôi hai cái lỗ mắt. Bà làm nó thật khéo. Jem nói tôi giống y chang miếng thịt muối có hai chân. Dù sao cũng hơi khó chịu: nó nóng, nó chật khít; nếu mũi bị ngứa, tôi sẽ không gãi được, và một khi đã chui vào, tôi không thể tự chui ra.
Khi Halloween đến, tôi cho rằng cả nhà sẽ có mặt để xem tôi trình diễn, nhưng tôi thất vọng.
Bố Atticus khéo léo nói rằng ông không nghĩ mình có thể chịu nổi một màn hoạt cảnh tối nay, ông đi họp suốt. Ông đã ở Montgomery suốt một tuần và chiều đó về nhà muộn. Ông nghĩ Jem có thể hộ tống tôi nếu tôi yêu cầu anh ý.
Bác Alexandra nói bác phải đi ngủ sớm, bác đã trang trí sân khấu suốt buổi chiều và mệt muốn chết... Bác ngưng bặt ngay giữa câu nói. Bác ngậm miệng, rồi mở ra để nói một điều gì đó, nhưng không lời nào thoát ra.
- Có chuyện gì vậy, bác? - Tôi hỏi.
- Ồ, không có gì, không có gì, - bác nói, - ai đó vừa bước qua huyệt mộ của bác [7].
Bác gạt bỏ bất cứ điều gì gây cho bác lo sợ, và gợi ý rằng tôi nên cho gia đình xem trước màn diễn của tôi trong phòng khách. Vì vậy Jem nhét tôi vào lớp trang phục của tôi, đứng tại cửa phòng khách, gọi to, “Thịt he-eo” đúng y như bà Merriweather sẽ làm, và tôi bước ra. Bố Atticus và bác Alexandra hài lòng.
Tôi lặp lại vai của tôi cho Calpurnia xem trong bếp và bà nói tôi thật tuyệt vời. Tôi muốn đi qua bên kia đường để trình diễn cho cô Maudie xem, nhưng Jem nói chắc cô đang ở chỗ chuẩn bị hoạt cảnh.
Rốt cuộc, họ đi hay không cũng chẳng quan trọng, Jem nói anh sẽ đưa tôi đi. Chuyến hành trình dài nhất của chúng tôi với nhau đã khởi đầu như vậy.
------------
1. Tức Robert “love” Taylor (Bob là tên gọi thân mật của Robert) chính khách và nhà hùng biện cuối thế kỷ mười chín.
2. Ladies’ Law: bộ Hình luật Alabama, tập III, 1907, có ghi, “Bất cứ ai bước vào, hoặc đến đủ gần nơi cư trú của người khác, và trước sự hiện diện hoặc nghe thấy của gia đình người đó, hoặc bất cứ thành viên nào trong gia đình người đó, hoặc bất kỳ ai, trước sự hiện diện và nghe thấy của bất kỳ nữ giới nào, lại sử dụng ngôn từ tục tĩu, xúc phạm hoặc thô lỗ, nếu bị xác định có tội, sẽ bị phạt vạ tối đa 200 đô la, và có thể bị tù giam, hoặc lao động khổ sai cho hạt, tối đa sáu tháng”.
3. J. Thomas “Cotton Tom” Heflin là một chính khách và nhà hùng biện của đảng Cộng hòa. Ông là tổng trưởng ngoại giao của bang Alabama vào đầu thế kỷ 20, sau đó được bầu vào Quốc hội Mỹ (1905-1920) và Thượng viện (1921-1931). Khối ủng hộ Heflin chủ yếu là nông dân và thành viên Ku Klux Klan.
4. NRA-WE DO OUR PART: Khẩu hiệu của NRA, tức National Recovery Administration (Cơ quan phục hồi kinh tế quốc gia). NRA cũng là tên viết tắt của National Recovery Act (Đạo luật phục hồi kinh tế quốc gia) có mục đích tiến hành một loạt chương trình nhằm giúp nước Mỹ, nhất là các doanh nghiệp, phục hồi sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Năm 1935 Tối cao Pháp viện Mỹ phán quyết luật này vi phạm hiến pháp. Atticus nói chín ông già giết chết NRA là ám chỉ chín thành viên của Tối cao Pháp viện.
5. Dog Victrolas; ám chỉ biểu tượng quảng cáo của hãng RCA/ Victor, có hình một con chó “Nipper” đang nhìn vào loa của chiếc máy quay đĩa Victrolas.
6. Tiếng latinh, nghĩa là: vượt qua khó khăn vươn tới các vì sao.
7. Dân miền Nam nước Mỹ thường nói câu này (somebody just walked over my grave) khi họ bị một cơn ớn lạnh rùng mình.

Chương 28

Thời tiết ấm khác thường đối với ngày cuối cùng của tháng Mười. Thậm chí chúng tôi không cần áo khoác. Gió thổi mạnh hơn, và Jem nói trời sẽ mưa trước khi chúng tôi về đến nhà. Không có trăng.
Đèn đường ngay góc hắt những chiếc bóng sắc nét lên nhà Radley. Tôi nghe Jem cười nhẹ.
- Cá là không có ai quấy rầy họ tối nay, - anh nói. Jem đang cầm bộ đồ giăm bông của tôi, hơi lóng ngóng vì nó khó ôm theo. Tôi nghĩ anh làm thế thì quả là lịch sự với nữ giới.
- Dù sao thì đó cũng là một nơi đáng sợ, đúng không? - Tôi nói. - Boo không có ý làm hại bất kỳ ai, nhưng em rất vui khi có anh đi chung.
- Em biết bố Atticus không để em đến trường một mình mà. - Jem nói.
- Không hiểu sao bố nghĩ vậy, chỉ quẹo một ngã tư rồi băng qua một cái sân.
- Cái sân đó dài quá mức mấy cô bé băng qua vào ban đêm, - Jem chọc tôi. - Em không sợ ma hả?
Tụi tôi cười lớn. Ma, hồn nóng, những câu thần chú, những dấu hiệu mật, đã biến mất với năm tháng như sương mù dưới mặt trời.
- Câu hồi xưa đó là gì nhỉ, - Jem nói, - Thiên thần sáng láng, sống chết lộn nhau, rời khỏi đường này, đừng hút hơi tao.
- Thôi đi, - tôi nói. Chúng tôi đang ở trước nhà Radley.
Jem nói:
- Chắc Boo không có ở nhà. Nghe kìa.
Trên đầu chúng tôi trong bóng tối có một con chim nhại lẻ loi đang trút ra toàn bộ tuyệt kỹ nhái giọng của nó trong niềm vui sướng chẳng cần biết chủ của cái cây nó đang đậu là ai, nó đã chuyển từ tiếng kii kii chói tai của chim hướng dương đến tiếng qua-ack giận dữ của con giẻ cái, đến lời than vãn buồn bã của chim đớp mồi.
Chúng tôi quẹo góc phố và tôi vấp phải một rễ cây nhô lên trên đường, Jem cố giúp tôi, nhưng tất cả những gì anh làm là đánh rơi trang phục của tôi xuống đất. Dù sao thì tôi cũng không bị ngã và chúng tôi đi tiếp.
Chúng tôi rời khỏi đường chính và bước vào sân trường. Nó tối thui.
- Làm sao anh biết mình đang ở đâu, Jem? - Tôi hỏi, khi chúng tôi đã đi vài bước.
- Anh dám chắc mình đang ở dưới tán cây sồi to vì mình vừa đi qua một nơi mát lạnh. Bây giờ cẩn thận đó, coi chừng ngã nữa đấy.
Chúng tôi thận trọng đi chậm lại, và dò đường phía trước để không đụng vào gốc cây. Đó là cây sồi cổ thụ đơn lẻ; hai đứa bé không thể ôm hết vòng thân cây. Nó cách xa các giáo viên, các do thám của họ, và những láng giềng tò mò: nó gần khu đất nhà Radley, nhưng người nhà Radley không tò mò. Một khoảng đất nhỏ dưới tán cây là nơi diễn ra nhiều trận đánh lộn và những trò chơi nhảm nhí thẩm lén.
Những ngọn đèn ở hội trường của trường trung học sáng rực từ xa, nhưng chúng chỉ tổ làm chúng tôi chói mắt.
- Đừng nhìn đằng trước, Scout, - Jem nói. - Nhìn xuống đất không là ngã đó.
- Đúng ra anh nên mang theo đèn pin, Jem.
- Ai mà biết trước tối như vậy. Hồi nãy trời đâu có tối dữ vậy. Tại mày đó. Dù sao thì chút nữa sẽ hết.
Ai đó nhảy xô vào chúng tôi.
- Chúa ơi! - Jem hét lên.
Một vòng ánh sáng bùng chiếu vào mặt chúng tôi, và Cecil Jacobs nhảy cẫng khoái chí sau luồng sáng.
- Ha-a-a ngay chóc! - Nó hét lên. - Tao đã đoán tụi bay đi theo đường này mà!
- Mày làm gì ở ngoài này vậy, nhóc? Mày không sợ Boo Radley hả?
Cecil đã ngồi trên xe an toàn với ba mẹ nó tới hội trường, không thấy tụi tôi, nó mò mẫm tới tận đây vì nó biết rõ tụi tôi đi theo lối này. Nhưng nó cứ nghĩ bố Finch sẽ đi với tụi tôi.
- Có xa lắm đâu, chỉ quẹo cua này thôi mà, - Jem nói. - Ai mà sợ đi qua vòng cua này?
Dù sao chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng Cecil giỏi. Nó đã làm chúng tôi một phen hoảng hồn, và nó có thể kháo chuyện này khắp trường, đó là đặc quyền của nó.
- Ê, - tôi nói, - tối nay mày không làm bò hả? Trang phục của mày đâu?
- Để đằng sau sân khấu cơ, - nó nói. - Bà Merriweather nói chưa tới hoạt cảnh này đâu. Mày cứ để bộ đồ này phía sau sân khấu kế bộ đồ của tao, Scout, rồi tụi mình với mấy đứa kia.
Đó là một ý tưởng tuyệt hay, Jem nghĩ. Anh cũng nghĩ thật hay khi tôi đi chơi với Cecil.
Như vậy, anh sẽ được rảnh rang đi chơi cùng bạn bè cùng trang lứa của anh.
Khi bọn tôi tới hội trường, cả thị trấn đã có mặt ở đó trừ bố Atticus và các bà mệt lử vì trang trí, và những kẻ vô gia cư và những người thường ru rú ở trong nhà. Có vẻ như cả hạt đều ở đó: hành lang đầy dân trong hạt ăn mặc chải chuốt. Trường trung học có một tiền sảnh tầng trệt rộng lớn. Người ta chen chúc quanh các quầy được lắp đặt dọc hai bên.
- Ôi, Jem. Em quên mang tiền rồi. - tôi thở dài khi tôi thấy khu này.
- Bố Atticus không quên. - Jem nói. - Ba mươi xu nè, em có thể chơi ở sáu quầy. Gặp lại sau nghen.
- Rồi. - tôi nói, hoàn toàn hài lòng với ba mươi xu và Cecil. Tôi đi với Cecil tới phía hội trường, qua một cánh cửa bên hông và vào hậu trường. Tôi để bộ trang phục giăm bông tại đó và vọt lẹ, vì bà Merriweather đang đứng ngay bục phát biểu ngay hàng ghế đầu để sửa kịch bản lần cuối.
- Mày có bao nhiêu? - tôi hỏi Cecil.
Cecil cũng có ba mươi xu, vậy là chúng tôi bằng nhau. Chúng tôi tiêu những đồng năm xu đầu tiên của mình ở Ngôi nhà kinh hoàng, vốn chẳng làm tụi tôi sợ chút nào, tụi tôi bước vào phòng lớp bảy đen thui và được dẫn đi loanh quanh bởi một con ma cà rồng tạm thời trong đó và được hướng dẫn rờ vào những món được cho là bộ phận cấu thành con người.
“Đây là đôi mắt”, chúng tôi được nói cho biết khi chạm vào hai quả nho bóc vỏ để trên một cái đĩa. “Đây là trái tim”, vốn tạo cảm giác giống lá gan khi còn sống. “Những thứ này là bao tử và ruột”, và tay chúng tôi được nhét vào một đĩa mì sợi lạnh ngắt.
Cecil và tôi ghé qua vài quầy nữa. Bọn tôi mỗi đứa mua một gói kẹo tự làm của bà quan tòa Taylor. Tôi muốn chơi trò dùng răng cắn những quả táo trôi bập bềnh trong chậu, nhưng Cecil nói làm thế mất vệ sinh lắm. Mẹ nó nói nó có thể lây một thứ gì đó từ đầu của người khác chui vào trong cùng một cái chậu.
- Bây giờ trong thị trấn này không có thứ gì để bị lây đâu, - tôi phản đối.
Nhưng Cecil nói mẹ nó bảo không hợp vệ sinh khi ăn sau người khác. Sau đó tôi hỏi bác Alexandra về chuyện này, và bác nói những người còn những quan điểm như thế thường là những kẻ bon chen trong xã hội.
Chúng tôi định mua một miếng kẹo bơ thì những tay đưa tin của bà Merriweather xuất hiện bảo chúng tôi đến hậu trường, đến lúc phải chuẩn bị rồi. Hội trường đang dần đầy nhóc người. Ban nhạc Trường trung học Maycomb đã tập hợp bên dưới ngay trước sân khấu; đèn rọi sân khấu đã bật lên và tấm màn nhung đỏ nhấp nhô do có người đi lại nhộn nhạo đằng sau đó.
Ở hậu trường, Cecil và tôi thấy lối đi hẹp đầy nhóc người; người lớn đội những cái mũ ba góc tự chế, mũ lưỡi trai của quân miền Nam, mũ thời Chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha, và mũ sắt thời Thế chiến. Trẻ em ăn mặc như những công nhân nông nghiệp khác nhau tụ tập quanh một ô cửa nhỏ.
- Ai giẫm nát trang phục của tao rồi, - tôi rên rỉ trong đau khổ. Bà Merriweather phóng về phía tôi, sửa lại tấm lưới áo và đẩy tôi chui vào trong.
- Mày trong đó êm không, Scout? - Cecil hỏi. - Nghe tiếng mày xa lắc, cứ như ở tuốt bên kia đồi vậy.
- Tiếng mày nghe đâu có gần hơn chút nào đâu. - tôi nói.
Ban nhạc đang chơi quốc ca, và chúng tôi nghe khán giả đứng lên. Rồi tiếng trống vang lên.
Bà Merriweather, đứng đằng sau bục cạnh ban nhạc, xướng lên, “Maycomb Country. Ad Astra Aspera”. Tiếng trống trầm vang lên lần nữa. “Điều đó có nghĩa là”, bà Merriweather nói, dịch cho đám cư dân nông thôn hiểu, “từ bùn lầy lên những ngôi sao”. Bà thêm, theo tôi là không cần thiết, “Một màn hoạt cảnh”.
- Làm cứ như họ không hiểu nổi nó là cái gì nếu như bà ta không nói cho họ biết vậy. - Cecil thì thào, lập tức bị nhắc giữ im lặng.
- Cả thị trấn này đều biết rồi. - tôi nói nhỏ.
- Những dân nông thôn cũng tới. - Cecil nói.
- Im hết coi. - một giọng ra lệnh, và chúng tôi im lặng.
Trống trầm đánh lên theo mỗi câu bà Merriweather thốt ra. Bà nói lê thê về hạt Maycomb còn lâu đời hơn tiểu bang, rằng nó là một phần lãnh thổ của Mississippi và Alabama, rằng người da trắng đầu tiên đặt chân lên khu rừng nguyên sinh là cụ tổ năm đời của Quan tòa di chúc, người không bao giờ được nghe nhắc lại. Sau đó là đại tá Maycomb dũng cảm, người được lấy tên để đặt cho hạt này.
Andrew Jackson đã bổ nhiệm ông vào vị trí cầm quyền và sự tự tin không đúng chỗ và có ý thức định hướng kém cỏi của đại tá Maycomb đã mang đến tai họa cho tất cả những người chiến đấu cùng ông trong những cuộc chiến tranh với người Da đỏ Creck. Đại tá đã nỗ lực kiên trì biến khu vực này trở thành vùng an toàn cho một nền dân chủ, nhưng chiến dịch đầu tiên của ông cũng là chiến dịch cuối cùng. Những mệnh lệnh của ông được truyền tới qua một phái viên Da đỏ thân thiện và tiến về phía Nam. Sau khi nghiên cứu địa y của một thân cây để xác định hướng nào là hướng Nam, và bỏ ngoài tai lời khuyên của những thuộc cấp vốn đã mạo muội sửa sai ông, đại tá Maycomb thực hiện một chuyến hành trình cương quyết nhằm đánh tan kẻ thù và khiến binh lính của ông đi lạc về hướng Tây Bắc trong rừng nguyên sinh đến độ cuối cùng được những người khẩn hoang giải cứu khi họ đi sâu vào nội địa.
Bà Merriweather kể lể khoảng ba mươi phút về những chiến công của đại tá Maycomb. Tôi phát hiện ra rằng nếu quỳ xuống tôi có thể nhét đầu gối vào trong trang phục của mình và sau cùng ngồi xuống được. Tôi ngồi xuống lắng nghe bài nói chuyện của bà Merriweather và tiếng trống trầm vỗ rồi ngủ hồi nào không hay.
Sau này họ nói rằng bà Merriweather đã dành hết tâm trí của bà vào màn cuối cùng tráng lệ này, rằng bà đã ngân nga, “Gi-ăm bô-ng”, với một niềm tin hình thành khi thấy những cây thông và những hạt đậu đều ra sân khấu đúng thời điểm. Bà chờ vài giây rồi gọi, “Gi-ăm bô-ng?”. Khi không có gì xuất hiện, bà gào lên, “Giăm bông!”
Hẳn tôi đã nghe tiếng bà trong giấc ngủ, hoặc ban nhạc chơi bài Dixie đánh thức tôi, nhưng khi bà Merriweather trèo lên trên sân khấu với lá cờ tiểu bang tôi mới quyết định bước ra. Quyết định này quả không đúng lúc khi nghĩ tốt hơn tôi nên bắt kịp những đứa khác.
Sau này họ nói với tôi rằng quan tòa Taylor đi ra phía sau hội trường và đứng đó vỗ đầu gối của ông mạnh đến độ bà Taylor phải mang cho ông một ly nước và một viên thuốc.
Có vẻ như bà Merriweather đã thành công, mọi người khen ngợi như thế, nhưng bà đã chộp lấy tôi ở hậu trường và nói tôi đã làm hỏng cả màn hoạt cảnh của bà. Bà làm tôi cảm thấy khó chịu, nhưng khi Jem đến để dẫn tôi về, anh rất thông cảm. Anh nói từ chỗ ngồi anh không thấy rõ trang phục của tôi. Làm thế nào anh biết tôi cảm thấy khó chịu dưới lớp trang phục thì tôi không biết, nhưng anh nói tôi diễn cũng tốt, tôi chỉ lên trễ có chút xíu, có vậy thôi. Jem đang trở nên tốt gần bằng bố Atticus trong việc làm bạn cảm thấy dễ chịu khi mọi việc bị trục trặc. Hầu như - Jem không chỉ có thể dẫn tôi đi qua đám đông đó, mà anh còn bằng lòng chờ ở hậu trường với tôi cho đến khi khán giả về hết.
- Em muốn cởi nó ra không, Scout? - Anh hỏi.
- Không, em muốn mặc nguyên vậy. - tôi nói. Tôi có thể giấu nỗi xấu hổ của mình dưới lớp hóa trang đó.
- Mấy đứa có muốn quá giang về nhà không? - Ai đó hỏi.
- Không thưa ông, cám ơn, - tôi nghe Jem nói. - Tụi cháu chỉ phải đi bộ một chút thôi.
- Coi chừng ma đó, - giọng đó nói. - Tốt hơn nên bảo mấy con ma coi chừng Scout.
- Người ta về gần hết rồi, - Jem nói với tôi. - Tụi mình đi thôi.
Chúng tôi đi qua hội trường ra tiền sảnh, rồi xuống các bậc thềm. Trời vẫn tối thui. Những chiếc xe hơi còn lại đậu bên kia tòa nhà, và đèn pha của chúng chẳng có tác dụng gì.
- Nếu có chiếc nào đi theo hướng tụi mình thì tụi mình có thể thấy đường rõ hơn,- Jem nói.- Scout này, để anh giữ bộ trang phục cho. Em có thể mất thăng bằng đó.
- Em thấy đường mà.
- Đúng, nhưng em có thể mất thăng bằng. - Tôi cảm thấy một lực đè nhè trên đầu, và cho rằng Jem đã túm lấy đầu của khúc giăm bông. - Anh nắm em hả?
- Ừ!
Chúng tôi bắt đầu băng qua sân trường tối thui, căng mắt nhìn xuống bàn chân.
- Jem này,- tôi nói, - em quên đôi giày, còn bỏ ở đằng sau sân khấu.
- Trở lại lấy đi, - nhưng khi chúng tôi vòng qua hội trường thì đèn đã tắt. - Để mai lấy cũng được. - anh nói.
- Nhưng mai là Chủ nhật, - tôi phản đối, khi Jem xoay tôi về nhà.
- Em có thể nhờ chú bảo vệ cho vào mà... Scout!
- Hả?
- Không có gì.
Anh nín lặng hồi lâu. Tôi tự hỏi anh đang nghĩ gì. Anh sẽ nói cho tôi hay khi nào anh muốn, chắc là khi tụi tôi về tới nhà. Tôi cảm thấy những ngón tay của anh ấn trên đầu trang phục của tôi, có vẻ quá mạnh. Tôi lắc đầu:
- Jem, anh đâu cần phải...
- Im một chút coi, Scout. - anh nói, nhéo tôi.
Chúng tôi im lặng đi.
- Hết một chút rồi, - tôi nói. - Anh nghĩ gì vậy?
Tôi quay sang nhìn anh, nhưng bóng dáng anh khó mà thấy rõ.
- Hình như anh nghe có cái gì đó, - anh nói. - Dừng lại chút đi.
Chúng tôi dừng lại.
- Có nghe gì không? - Anh nói.
- Không.
Chúng tôi đi chưa tới năm bước thì anh bảo dừng lại lần nữa.
- Jem, bộ anh tính nhát em đó hả? Anh biết là em đã quá lớn...
- Im nào. - anh nói, và tôi biết anh không đùa.
Đêm im ắng. Tôi có thể nghe rõ hơi thở của anh ngay cạnh tôi. Thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ bất ngờ làm mát đôi chân trần của tôi, nhưng đó là tất cả những gì còn sót lại của một đêm hứa hẹn đầy gió. Đây là sự yên tĩnh trước một cơn bão. Chúng tôi lắng nghe.
- Chỉ có tiếng con chó già. - tôi nói.
- Không phải nó, - Jem đáp. - Anh chỉ nghe tiếng đó khi mình đi, nhưng khi dừng lại anh không nghe thấy nữa.
- Anh nghe tiếng trang phục của em kêu sột soạt chứ gì. Ôi, anh nhiễm Halloween rồi...
Tôi nói vậy để trấn an tôi hơn là Jem, chắc là thế, khi chúng tôi bắt đầu đi tiếp, tôi nghe thấy tiếng động mà anh vừa nói. Nó không phải từ trang phục của tôi.
- Chắc chỉ là thẳng quỷ Cecil, - Jem nói ngay. - Nó không hù được mình nữa đâu. Đừng để nó nghĩ mình đang vội.
Chúng tôi đi chậm lại gần như bò. Tôi hỏi Jem làm sao Cecil có thể theo chúng tôi trong đêm tối thế này, rình chờ để hù chúng tôi từ sau lưng.
- Anh thấy được em mà, Scout. - Jem nói.
- Sao được? Em đâu thấy anh.
- Mấy đường sọc to của em thấy rõ lắm. Bà Crenshaw đã sơn chúng bằng chất gì đó lấp lánh để chúng nổi bật trên ánh đèn sân khấu. Anh có thể thấy em khá rõ và anh nghĩ rằng Cecil có thể thấy em đủ rõ để không đến quá gần.
Tôi sẽ cho Cecil thấy rằng chúng tôi biết nó ở sau lưng và đã sẵn sàng với nó.
- Cecil là con g-à m-á-i ghẹ mắc mưa! - Bất ngờ tôi quay lại, gào lên.
Chúng tôi dừng lại. Không một lời đáp lại nào trừ tiếng con g-à m-á-i dội lại từ bức tường trường học đằng xa.
- Anh sẽ tóm nó. - Jem kêu. - N-à-y!
Này-à-này-à-này-à, bức tường trường học vọng lại. Không có vẻ Cecil cố tình trì hoãn lâu như vậy; một khi nó đã thắng đẹp một trò đùa nó sẽ lặp đi lặp lại vụ đó. Chúng tôi hẳn đã bị nó nhảy xổ vào người rồi. Jem ra dấu cho tôi dừng lại lần nữa.
Anh nói thì thào:
- Scout, em có thể cởi cái áo đó ra không?
- Em chắc được, nhưng em không mặc đồ nhiều bên trong.
- Anh có mang váy cho em đây.
- Em không mặc được nó ở chỗ tối hù như vậy.
- Được rồi, - anh nói. - Đừng lo.
- Jem, anh sợ hả?
- Không. Chắc mình sắp tới chỗ cái cây rồi. Chừng vài thước nữa thôi, rồi mình sẽ ra tới đường. Lúc đó mình sẽ thấy đèn đường. - Jem nói bằng giọng đều đều, không gấp. Tôi tự hỏi anh sẽ giữ huyền thoại Cecil kéo dài bao lâu.
- Anh nghĩ mình phải hát lên hả, Jem?
- Không. Im nữa coi, Scout.
Chúng tôi không tăng tốc độ. Jem cũng như tôi biết rõ rằng khó đi nhanh mà không bị vấp đầu ngón chân, trượt trên đá sỏi, và những phiền phức khác, mà tôi lại còn đi chân không nữa chứ. Có lẽ đó là gió đang lùa trong hàng cây. Nhưng đâu có gió và cũng không có cây cối gì trừ cây sồi cổ thụ đó.
Người đồng hành với chúng tôi kéo lê chân của hắn như thể đang mang đôi giầy nặng. Dù đó là ai thì hắn cũng mặc một quần vải dày, âm thanh mà tôi nghĩ là cây cối xào xạo chính là tiếng sột soạt của vải cọ vào vải, soạt soạt theo mỗi bước chân.
Tôi cảm thấy cát dưới chân tôi trở lạnh và tôi biết chúng tôi gần tới cây sồi già, Jem ấn đầu tôi. Chúng tôi dừng lại và lắng nghe.
Lần này tiếng chân lê không dừng lại theo chúng tôi. Quần y kêu sột soạt nhẹ nhàng và đều đặn. Rồi chúng dừng lại. Y đang chạy, chạy về phía chúng tôi không phải bằng những bước chân trẻ con.
- Chạy đi, Scout! Chạy! Chạy! - Jem gào lên.
Tôi bước một bước dài và thấy mình lảo đảo: hai cánh tay tôi vô dụng, trong bóng tối, tôi không thể giữ thăng bằng.
- Jem, Jem, cứu em, Jem!
Có cái gì đó chạm mạnh vào lớp lưới thép mỏng bao quanh tôi. Kim loại chọc toạc kim loại và tôi té xuống đất lăn ra xa đến hết sức mình, vật lộn để thoát khỏi nhà tù lưới của tôi. Từ đâu đó gần bên tôi vang lên những âm thanh đá, âm thanh của những đôi giày và da thịt cọ sát vào đất và rễ cây. Ai đó lăn đụng vào tôi và tôi cảm giác đó là Jem. Anh đứng lên nhanh như chớp và lôi tôi theo anh nhưng, dù đầu và vai tôi đã thoát ra, tôi vẫn quá vướng víu nên chúng tôi không đi xa được.
Khi chúng tôi gần đến đường lộ thì tôi có cảm giác tay Jem rời khỏi tôi, cảm thấy anh bị giật ngược ra sau đè xuống đất. Lại có xô xát, và có tiếng lụp cụp trầm đục và tiếng Jem rú lên.
Tôi chạy theo hướng tiếng rú của Jem và ập vào cái bụng mềm nhão của một người đàn ông.
Chủ nhân của cái bụng đó kêu lên, “Hự!” và cố nắm hai cánh tay của tôi, nhưng chúng đã bị khóa chặt. Bụng y mềm nhưng hai cánh tay cứng như thép. Y từ từ ép chặt làm tôi ngạt thở. Tôi không nhúc nhích được. Bất ngờ y bị kéo ngược ra sau và bị vật xuống đất, gần như lôi cả tôi theo. Tôi nghĩ, đó là Jem.
Nhiều khi đầu óc con người hoạt động rất chậm. Choáng váng tôi đứng đó đờ đẫn. Tiếng vật lộn im hẳn, ai đó thở khò khè và đêm yên tĩnh trở lại.
Yên tĩnh trừ tiếng một người đàn ông thở nặng nhọc, thở nặng nhọc và lảo đảo. Tôi nghĩ y đi đến cây sồi và dựa vào đó. Y ho dữ dội, một cơn ho khàn đục, co giật cả người.
- Jem hả?
Không có tiếng trả lời trừ tiếng thở nặng nhọc của người đó.
- Jem?
Jem không trả lời.
Người đó bắt đầu di chuyển loanh quanh, như thể đang mò tìm cái gì. Tôi nghe y rên rỉ và kéo cái gì đó nặng lê dưới đất. Từ từ tôi nhận ra rằng hiện có tới bốn người dưới tán cây.
- Bố Atticus hả...?
Người đàn ông bước nặng nhọc và lảo đảo về phía đường lộ.
Tôi đi đến chỗ tôi nghĩ ông ta đứng và điên cuồng mò mẫm dưới đất, quờ mấy ngón chân tìm. Rồi tôi chạm phải ai đó.
- Jem hả?
Mấy ngón chân của tôi chạm phải cái quần, khóa thắt lưng, nút, một thứ gì đó mà tôi không xác định được, một cổ áo và một cái mặt. Những sợi râu lởm chởm trên cái mặt đó cho tôi biết không phải là Jem. Tôi ngửi thấy mùi rượu mạnh chua loét.
Tôi đi dọc theo phía mà tôi nghĩ là dẫn ra đường lộ. Tôi không dám chắc, bởi vì tôi bị quay tới quay lui quá nhiều. Nhưng tôi tìm ra nó và nhìn thấy đèn đường. Một người đàn ông đang đi qua dưới ánh đèn. Người đàn ông đang đi bằng những bước lịch bịch của một người đang mang một vật nặng quá sức mình. Ông ta đang quẹo góc đường. Ông ta đang vác Jem. Cánh tay của Jem đung đưa dữ dội trước ngực ông ta.
Đến khi tôi tới góc đường thì người đó đã băng qua sân trước nhà tôi. Đèn từ cửa trước nhà tôi soi rõ bố Atticus trong tích tắc; ông chạy xuống những bậc thềm, và cùng người đó mang Jem vào nhà.
Tôi đến được cửa trước khi họ đi vào hành lang. Bác Alexandra chạy ra đón tôi.
- Gọi bác sĩ Reynolds ngay! - Giọng bố Atticus đanh gọn từ phòng Jem. - Scout đâu?
- Con bé đây, - bác Alexandra đáp, lôi tôi theo bác đến điện thoại. Bác lo lắng kéo mạnh tôi.
- Cháu không sao, bác, - tôi nói, - tốt nhất bác nên gọi điện thoại.
Bác nhấc ống nghe khỏi giá và nói:
- Eula May, gọi bác sĩ Reynolds, nhanh lên!
- Agnes, ba cháu có nhà không? Chúa ơi, ông ấy đâu rồi? Làm ơn báo ông ấy đến đây ngay khi ông ấy về tới. Làm ơn, gấp lắm!
Bác Alexandra không cần xưng bác là ai; mọi người ở Maycomb đều biết giọng của nhau.
Bố Atticus bước ra khỏi phòng Jem. Ngay khi bác Alexandra nói xong, bố Atticus đón lấy ống nghe từ tay bác. Ông vỗ vỗ giá điện thoại và nói.
- Eula May, làm ơn gọi cảnh sát trưởng giùm tôi.
- Heck hả? Atticus Finch đây. Có người đuổi theo đám con tôi. Jem bị thương. Đoạn từ nhà tôi đến trường. Tôi không bỏ con trai tôi một mình được. Làm ơn chạy ra đó giùm tôi, và xem hắn còn loanh quanh ở đó không. Không chắc anh sẽ tìm ra hắn lúc này, nhưng tôi muốn gặp hắn. Đi ngay đi. Cám ơn Heck!
- Bố Atticus, Jem chết rồi hả?
- Không, Scout. Chị chăm sóc con bé giùm, - ông gọi, khi đi ra hành lang.
Những ngón tay của bác run lên khi tháo lớp vải và miếng lưới sắt quanh người tôi.
- Cháu có sao không, cục cưng? - Bác cứ hỏi mãi câu đó khi tháo lớp vải quanh tôi.
Quả là nhẹ nhõm khi được giải thoát. Hai cánh tay tôi bắt đầu tê và chúng đỏ ửng lên với những vết lục giác nhỏ. Tôi chà sát chúng và thấy đỡ hơn.
- Bác này, Jem chết rồi hả?
- Không... không, cưng, nó chỉ ngất đi thôi. Mình chưa biết nó bị thương cỡ nào cho đến khi bác sĩ Reynolds tới. Jean Louise, chuyện gì xảy ra vậy?
- Cháu không biết.
Bác tạm ngưng ở đó. Bác mang cho tôi thứ gì đó để mặc vào, và đến lúc đó tôi nghĩ về nó, tôi hẳn sẽ không bao giờ để bác quên: trong cơn bối rối, bác đã mang cho tôi bộ áo liền quần.
- Mặc vào đi, cưng. - bác nói, và đưa cho tôi bộ đồ mà bác ghét nhất.
Bác ào vào phòng Jem, sau đó chạy ra chỗ tôi ngoài hành lang. Bác vỗ nhẹ vào người tôi rồi trở vào phòng Jem.
Một chiếc xe hơi dừng ngay cửa nhà tôi. Tôi nhận tiếng bước chân của bác sĩ Reynolds rõ như tiếng bước chân của bố tôi. Ông đã đỡ đẻ cho tôi và Jem, và đưa chúng tôi vượt qua những bệnh tật hồi nhỏ mà con người thường mắc phải gồm cả lần Jem té từ ngôi nhà trên cây xuống và ông không bao giờ mất đi tình bạn của tụi tôi. Bác sĩ Reynolds nói, nếu chúng tôi thuộc loại dễ bị nổi nhọt thì mọi chuyện sẽ khác, nhưng chúng tôi không tin điều đó.
Ông bước đến cửa và nói: “Chúa ơi”. Ông bước về phía tôi và nói, “cháu vẫn đứng vững được”, và đổi hướng. Ông biết mọi căn phòng trong nhà này. Ông cũng biết ngay tôi có gặp tình trạng tệ hại hay không, và biết cả Jem nữa.
Sau mười phút dài đằng đẵng bác sĩ Reynolds trở ra.
- Jem chết rồi hả? - Tôi hỏi.
- Còn lâu lắm, - ông nói, quỳ xuống cạnh tôi. - Cậu ấy bị một cục u trên đầu giống như cục u của cháu vậy, và gãy một cánh tay. Scout, nhìn hướng đó - không, đừng quay đầu, chỉ đảo mắt thôi. Bây giờ nhìn ra đằng kia. Cậu ấy bị gãy tay nặng lắm, giờ bác chỉ có nói là ngay khuỷu tay. Kiểu như ai đó đã cố ý bẻ tay cậu ấy.... Giờ thì nhìn bác nè!
- Vậy anh ấy không chết hả?
- Khô-ng! - bác sĩ Reynolds đứng lên. - Tối nay mình không làm gì được nhiều, - ông nói,-  trừ việc làm cho cậu bé thoải mái hết sức. Mình sẽ phải chụp X quang cánh tay cậu ấy - chắc chắn cậu ấy phải treo cánh tay xa một bên hông trong ít lâu. Dù gì cũng đừng lo, cậu ta sẽ lành lại thôi. Con trai ở tuổi cậu ấy sẽ lành nhanh lắm.
Trong khi nói, bác sĩ Reynolds nhìn tôi chăm chú, nhẹ nhàng rờ cục u trên trán tôi.
- Cháu không thấy có chỗ nào bị sứt mẻ hết hả?
Trò đùa nho nhỏ của bác sĩ Reynolds làm tôi cười.
- Vậy cháu không nghĩ là anh cháu chết chưa hén?
Ông đội mũ lên.
- Bây giờ có thể bác sai, dĩ nhiên, nhưng bác nghĩ cậu ấy còn rất khỏe. Thể hiện được mọi dấu hiệu của sự sống. Vào thăm anh cháu đi, và khi bác quay lại mình gặp nhau rồi quyết định.
Bước chân của bác sĩ Reynolds trẻ trung và nhanh nhẹn. Bước chân của ông Heck Tate thì không. Đôi ủng nặng nề của ông hành hạ hàng hiên và ông mở cửa một cách vụng về, nhưng ông nói y câu của bác sĩ Reynolds khi bước vào. Rồi ông thêm:
- Cháu ổn chứ, Scout!
- Ổn, thưa ông, cháu sẽ vào thăm Jem. Bố Atticus với mọi người đang ở trong đó.
- Ta sẽ đi với cháu. - Ông Tate nói.
Bác Alexandra đã che đèn đọc sách của Jem bằng một cái khăn và phòng anh mờ mờ, Jem đang nằm ngửa. Có một vết xấu xí chạy dọc một bên mặt anh. Cánh tay trái của anh dang xa khỏi thân người; khuỷu tay hơi cong lại, nhưng theo một hướng kỳ cục. Jem đang nhíu mày.
- Jem...?
Bố Atticus nói.
- Anh con không nghe tiếng con đâu, Scout, anh bị ngất. Anh sắp tỉnh lại, nhưng bác sĩ Reynolds làm anh mê trở lại.
- Vâng, thưa bố, - tôi rút lui. Phòng của Jem to và vuông. Bác Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế đu cạnh lò sưởi. Người đàn ông cõng Jem đứng trong một góc, tựa lưng vào tường. Ông ta là một nông dân nông thôn nào đó tôi không biết, có lẽ ông ta có mặt tại buổi hoạt cảnh, và ở gần đâu đó khi sự việc xảy ra. Hẳn ông ta đã nghe tiếng rú của chúng tôi và chạy đến.
Bố Atticus đứng cạnh giường của Jem.
Ông Heck Tate đứng ngay khung cửa. Mũ ông trên tay, và chiếc đèn pin cộm lên trong túi quần. Ông đang mặc cảnh phục.
- Vào đây, Heck, - bố Atticus nói. - Anh có tìm thấy gì không? Tôi không nghĩ ra ai lại hèn mạt đến độ làm một chuyện như vầy, nhưng tôi hy vọng anh tìm ra hắn.
Ông Tate khịt mũi. Ông nhìn sắc lẻm vào người đàn ông trong góc phòng, gật đầu với ông ta, rồi nhìn quanh phòng... vào Jem, vào bác Alexandra và vào bố Atticus.
- Ngồi xuống đi, ông Finch, - ông nói một cách thoải mái.
Bố Atticus nói:
- Mình ngồi cả đi. Có cái ghế đó, Heck. Để tôi ra phòng khách lấy một cái nữa.
Ông Heck ngồi xuống chiếc ghế ngay bàn của Jem. Ông chờ cho tới khi bố Atticus trở vào và ngồi xuống. Tôi tự hỏi sao bố Atticus không mang một cái ghế nữa cho người đàn ông trong góc, nhưng bố Atticus hiểu rõ cung cách của dân nông thôn hơn tôi nhiều. Một số thân chủ nông thôn của ông sẽ cột mấy con lừa tai dài của họ bên mấy cây đào ở sân sau, và bố Atticus vẫn thường trao đổi với họ ở ngay bậc thềm sau nhà. Người đàn ông này chắc chắn thoải mái hơn khi đứng ở đó.
- Ông Finch, - ông Tate nói, - để cho tôi cho ông biết tôi đã tìm thấy gì. Tôi tìm thấy một cái váy của bé gái - nó ở ngoài xe tôi. Cái váy đó của cháu hả, Scout?
- Phải, thưa ông, nếu đó là váy hồng có xếp nhiều nếp nhún, - tôi nói.
Ông Tate cư xử như đang ở trên bục nhân chứng. Ông thích kể mọi chuyện theo cách của riêng ông, không bị bên công tố hay luật sư cản trở, và đôi khi việc đó làm ông tốn thời gian.
- Tôi tìm thấy mấy miếng vải lấm bùn trông kỳ cục và...
- Đó là đồ hóa trang của cháu, ông Tate.
Ông Tate lần tay xuống đùi. Ông chà xát cánh tay phải và nghiên cứu bệ lò sưởi của Jem, rồi có vẻ ông quan tâm đến lò sưởi. Nhưng ngón tay của ông sờ lên sống mũi dài của ông.
- Có gì nữa vậy hả, Tate? - Bố Atticus hỏi.
Ông Tate mò xuống cổ và chà xát nó.
- Bob Ewell nằm dưới đất dưới tán cây đằng đó với một con dao làm bếp cắm sâu vào sườn. Hắn chết rồi, ông Finch ạ.

Chương 29

Bác Alexandra đứng lên và với tay lên chỗ bệ lò sưởi. Ông Tate nhỏm dậy, nhưng bác từ chối sự giúp đỡ. Như một ngoại lệ trong cuộc đời ông, bản năng lịch sự của bố Atticus đã quên không thể hiện: ông ngồi ỳ tại chỗ.
Chả hiểu sao tôi chẳng thể nghĩ về điều gì ngoài việc ông Bob Ewell nói ông ta sẽ trả thù bố Atticus cho dù phải bỏ ra cả phần đời còn lại của ông ta. Ông Ewell hầu như đã trả thù được bố tôi, và đó là việc cuối cùng của ông ta.
- Anh chắc chứ? - Bố Atticus hỏi một cách ảo não.
- Hắn chết ngắc rồi, - ông Tate nói. - Hắn chết rồi. Hắn không còn làm tổn thương bọn trẻ con được nữa.
- Tôi không có ý đó. - Bố Atticus có vẻ như đang nói trong giấc ngủ. Tuổi tác của ông đã bắt đầu lộ ra, một dấu hiệu sự bối rối trong lòng ông, đường nét mạnh mẽ của quai hàm ông hơi chảy ra, người ta thấy rõ những nếp nhăn tố cáo tuổi tác hình thành bên dưới tai ông, người ta không nhận ra mái tóc đen huyền của ông mà chỉ thấy những vệt bạc ngày càng nhiều ở hai bên thái dương ông.
- Sao mình không ra phòng khách đi? - Cuối cùng bác Alexandra nói.
- Nếu bà không phiền, - ông Tate nói, - tôi thích chúng ta ở lại trong này hơn nếu điều đó không làm tổn thương Jem thêm. Tôi muốn xem xét vết thương của nó trong khi Scout... kể cho chúng ta nghe sự vụ này.
- Vậy tôi xin kiếu thì có phiền gì không? - Bác nói. - Tôi là người thừa ở đây. Tôi ở trong phòng nếu cậu cần tôi, Atticus.
Bác Alexandra đi ra cửa, nhưng bác dừng bước và quay lại.
- Atticus, tối nay tôi có linh cảm về chuyện này rồi... tôi... đây là lỗi của tôi. - bác tiếp.- Đúng ra tôi nên...
Ông Tate giơ tay lên.
- Bà cứ về phòng đi, bà Alexandra, tôi biết đây là cú sốc cho bà. Bà đừng tự trách móc mình vì bất cứ chuyện gì nữa... ôi, nếu lúc nào chúng ta cũng đi theo những linh cảm của mình, thì ta sẽ giống những con mèo đuổi theo đuôi của chúng vậy. Scout này, xem cháu có thể kể cho mọi người ở đây nghe những gì xảy ra, trong khi nó còn đậm nét trong đầu cháu không. Cháu kể được không? Cháu thấy hắn ta theo tụi cháu hả?
Tôi đi đến bên bố Atticus và cảm thấy hai cánh tay ông vòng qua người tôi. Tôi vùi đầu vào lòng ông.
- Tụi cháu bắt đầu về nhà. Cháu bảo Jem, em bỏ quên đôi giày rồi. Tụi cháu lật đật quay lại tìm thì đèn tắt. Jem nói để mai đến lấy...
- Scout, nói lớn lên cho ông Tate nghe rõ. - bố Atticus nói. Tôi bò lên đùi ông.
- Rồi Jem nói im một lát. Cháu nghĩ anh ấy đang suy nghĩ - anh ấy luôn luôn muốn làm người ta im lặng để anh ấy suy nghĩ - rồi anh ấy nói anh ấy nghe thấy gì đó. Tụi cháu nghĩ đó là Cecil.
- Cecil?
- Cecil Jacobs. Tối nay nó đã hù tụi cháu được một lần, và tụi cháu nghĩ là nó. Nó trùm một tấm vải. Họ thưởng hai mươi lăm xu cho bộ trang phục đẹp nhất, cháu không biết ai giành được nó...
- Cháu ở đâu khi cháu nghĩ đó là Cecil?
- Mới ra khỏi trường một chút. Cháu hét một câu vào mặt nó...
- Cháu hét cái gì?
- Cecil là con gà mái ghẹ mập ú, cháu nghĩ vậy. Tụi cháu không nghe thấy gì... sau đó Jem la to xin chào hay câu gì đại loại như vậy lớn đến độ đánh thức cả người chết...
- Chờ chút, Scout, - ông Tate nói. - Ông Finch, ông có nghe thấy chúng không?
Bố Atticus nói ông không nghe thấy. Ông đang bật radio. Bác Alexandra cũng bật một cái khác trong phòng bác. Ông nhớ bởi vì bác bảo ông vặn nhỏ một chút để bác nghe được radio của bác. Bố Atticus mỉm cười “Tôi luôn bật radio hơi lớn”.
- Không biết những người láng giềng có nghe được gì không... - Ông Tate nói.
- Chắc không đâu, ông Heck. Hầu hết họ đều nghe radio hoặc đi ngủ cùng lúc với gà. Maudie Atkinson có thể còn thức, nhưng tôi không chắc.
- Nói tiếp đi, Scout. - ông Tate nói.
- Rồi sau khi Jem hét to một tiếng tụi cháu lại đi tiếp. Ông Tate, cháu bị trùm trong bộ đồ hóa trang nhưng cháu vẫn nghe thấy. Ý cháu muốn nói tiếng bước chân. Nó đi theo khi tụi cháu đi và dừng lại khi tụi cháu dừng. Jem nói ông ta thấy được cháu vì bà Crenshaw có phết sơn chiếu sáng trên trang phục của cháu. Cháu là một miếng giăm bông.
- Cái đó là sao? - Ông Tate hỏi, giật mình.
Bố Atticus mô tả vai diễn của tôi cho ông Tate nghe, cùng cấu tạo của bộ đồ hóa trang.
- Anh phải thấy con bé khi nó mới về tới mới hiểu được, - bố tôi nói, - nó bị rách tả tơi.
Ông Tate xoa xoa cằm.
- Tôi tự hỏi sao thằng bé có những vết đó trên người. Hai tay áo nó bị lủng lỗ chỗ. Có một vài vết đâm nhỏ trên cánh tay nó trùng với những lỗ thủng. Cho tôi xem bộ trang phục đó đi.
Bố Atticus tìm và đem ra những gì còn lại của bộ trang phục của tôi. Ông Tate lật nó tới lui và uốn lại để nhận ra hình dạng ban đầu của nó.
- Vật này chắc chắn đã cứu mạng cô bé. - ông nói. - Nhìn nè.
Ông chỉ bằng ngón trỏ dài. Một lằn sáng rõ ràng nổi bật trên khung thép mờ xỉn.
- Bob Ewell có ý đồ thật sự. - ông Tate lầm bầm.
- Ông ta phát điên rồi. - bố Atticus nói.
- Không thích cãi lại ông, ông Finch - không hề khùng, mà có ý định xấu xa. Tên đốn mạt đê hèn đã nốc rượu đủ để hắn có can đảm giết bọn trẻ. Hắn chưa từng gặp ông mặt đối mặt.
Bố Atticus lắc đầu.
- Tôi không thể tưởng tượng một người mà...
- Ông Finch, có hạng người mà ông phải bắn trước khi ông có thể nói câu xin chào với chúng. Thậm chí đến lúc đó chúng cũng không xứng đáng nhận viên đạn để dành bắn chúng nữa. Ewell thuộc vào loại đó.
Bố Atticus nói:
- Tôi nghĩ ông ta có ý đồ này ngay từ ngày ông ta đe dọa tôi. Ngay cả nếu ông ta không hăm dọa, tôi vẫn nghĩ ông ta săn đuổi tôi.
- Hắn ta có đủ can đảm để quấy nhiễu một người phụ nữ da màu tội nghiệp, hắn đã có đủ can đảm để quấy nhiễu quan tòa Taylor khi hắn nghĩ trong nhà không còn ai khác, vậy mà ông nghĩ hắn sẽ đối mặt với ông giữa ban ngày hả? - Ông Tate thở dài, - Thôi chúng ta tiếp tục đi. Scout, cháu nghe tiếng hắn ta sau lưng cháu...
- Vâng, thưa ông. Khi tụi cháu tới chỗ tán cây...
- Làm sao cháu biết mình đang đứng dưới tán cây, ở ngoài đó cả sấm chớp cháu còn không thấy được mà.
- Cháu đi chân không và Jem nói đất dưới tán cây luôn luôn mát lạnh hơn.
- Mình phải đưa nó làm phụ tá cảnh sát trưởng mới được, nói tiếp đi.
- Sau đó có một cái gì đó bất ngờ chộp lấy cháu và dập nát trang phục của cháu... cháu nghĩ mình chúi nhủi xuống đất... nghe có tiếng vật lộn dưới tán cây kiểu như... họ va đụng vào thân cây. Jem tìm thấy cháu và lôi cháu về phía đường lộ. Ai đó... ông Ewell vật anh ấy xuống, cháu cho là vậy. Họ ẩu đả dữ dội hơn rồi sau đó có tiếng động lạ lùng... Jem thét lên... - Tôi ngưng bặt, đó là cánh tay của Jem. - Dù sao thì Jem thét lên và cháu không nghe tiếng anh ấy nữa rồi kế đó... ông Ewell cố bóp cổ cháu, cháu nghĩ vậy... rồi ai đó vật ông Ewell xuống. Chắc Jem đã đứng dậy, cháu đoán vậy. Cháu chỉ biết bấy nhiêu thôi...
- Rồi sau đó? - Ông Tate nhìn tôi đăm đăm.
- Ai đó lảo đảo, thở hổn hển... và ho dữ dội. Mới đầu cháu nghĩ đó là Jem, nhưng nghe tiếng không giống Jem vì vậy cháu tiếp tục mò dưới đất tìm Jem. Cháu nghĩ bố Atticus đã đến cứu tụi cháu và kiệt sức...
- Đó là ai?
- Ông ta đó, ông Tate, ông ta có thể nói cho ông biết tên mà.
Khi nói điều đó, tôi nửa chỉ người đàn ông trong góc, nhưng vội hạ tay xuống vì sợ bố Atticus quở trách tội chỉ trỏ. Chỉ trỏ là bất lịch sự.
Ông ta vẫn tựa vào tường. Ông ta đã dựa tường khi tôi bước vào phòng, hai tay ông ta khoanh trước ngực. Khi tôi chỉ tay, ông thả hai cánh tay xuống và áp lòng bàn tay áp sát tường. Hai bàn tay đó trắng, trắng một cách bệnh hoạn vì chưa từng gặp ánh nắng mặt trời, quá trắng đến độ chúng nổi bật trước bức tường màu kem mờ xỉn trong ánh sáng lờ mờ của căn phòng Jem.
Tôi nhìn từ hai bàn tay ông ta đến chiếc quần kaki bạc màu; mắt tôi đưa dần lên thân hình gày gò đến chiếc áo sơ mi vải tả tơi của ông ta. Mặt ông ta trắng như bàn tay ông trừ một đốm đen trên chiếc cằm chìa ra của ông ta. Đồi gò má ông ta gầy đến mức hóp vào; miệng ông rộng, có những vết lõm nông, hầu như khó thấy trên hai thái dương ông ta, đôi mắt xám ông ta không màu đến độ tôi nghĩ ông ta mù. Tóc ông mỏng và thưa, hầu như lơ thơ trên đỉnh đầu.
Khi tôi chỉ vào ông, lòng bàn tay ông trượt nhẹ, để lại những vết mồ hôi nhờn trên tường, vì ông móc ngón tay cái vào thắt lưng. Một cơn co thắt nhẹ kỳ lạ lướt qua thân người, như thể ông nghe tiếng móng tay cào vào phiến đá, nhưng khi tôi hoang mang nhìn ông thì vẻ căng thẳng từ từ biến khỏi mặt ông. Đôi môi ông ta nở thành một nụ cười bẽn lẽn, và hình ảnh người hàng xóm của tôi mờ đi trong dòng nước mắt bất ngờ của tôi.
- Xin chào, ông Boo. - tôi nói.

Chương 30

- Ông Arthur chứ, cục cưng, - bố Atticus nói, nhẹ nhàng sửa lời tôi. - Jean Louise, đây là ông Arthur Radley. Bố tin là ông ấy đã biết con.
Nếu bố Atticus có thể thản nhiên giới thiệu tôi với Boo Radley vào một thời điểm như bây giờ, ồ... đó là bố Atticus.
Boo nhìn tôi chạy theo bản năng đến chiếc giường Jem đang nằm, vì chính nụ cười bẽn lẽn nở trên mặt ông. Quá mắc cỡ, tôi cố giấu mặt bằng cách chúi vào Jem.
- Ấy ấy, đừng đụng anh con. - bố Atticus nói.
Ông Heck Tate ngồi nhìn Boo chăm chú qua cặp kính gọng sừng của ông. Ông định mở miệng nói thì bác sĩ Reynolds từ hành lang bước vào.
- Mọi người ra thôi, - ông nói khi ông bước tới cửa phòng. - Chào buổi tối, Arthur, hồi nãy ở đây tôi không thấy ông.
Giọng của bác sĩ Reynolds vui tươi như bước chân của ông, như thể ông nói câu đó mỗi tối trong cuộc đời của mình, một thông báo gây sửng sốt cho tôi thậm chí còn hơn việc ở cùng phòng với Boo Radley. Dĩ nhiên... tôi nghĩ, cả Boo Radley đôi khi cũng bị bệnh chứ. Nhưng mặt khác tôi không dám chắc.
Bác sĩ Reynolds mang một cái túi lớn quấn trong tờ báo. Ông đặt nó xuống bàn của Jem và cởi áo khoác ra.
- Giờ hẳn cháu hoàn toàn hài lòng vì anh cháu còn sống rồi hả? Để bác nói cho cháu là làm sao bác biết. Khi bác khám cho cậu ta, cậu ta đã đá bác. Phải làm cho cậu ta mê đi mới đụng vào cậu ta được. Thôi ra ngoài đi. - ông nói với tôi.
- Ừm... - Bố Atticus nói, liếc nhìn Boo. - Heck này, tụi mình ra hàng hiên trước đi. Ngoài đó có nhiều ghế lắm, mà trời vẫn còn ấm.
Tôi tự hỏi tại sao bố Atticus mời chúng tôi ra hiên trước mà không vào phòng khách, rồi tôi hiểu ra. Đèn phòng khách quá sáng.
Chúng tôi lần lượt đi ra, trước tiên là ông Tate - bố Atticus chờ ông ngay cửa để dẫn đường cho ông. Rồi ông đổi ý và đi theo sau ông Tate.
Người ta có thói quen làm những công việc hàng ngày ngay cả trong những điều kiện kỳ cục nhất. Tôi cũng không là ngoại lệ:
- Đi nào, Arthur, - tôi nghe mình nói, - ông không biết rõ ngôi nhà này. Cháu sẽ dắt ông ra hiên nhà.
Ông nhìn xuống tôi và gật đầu.
Tôi dẫn ông đi qua hành lang và đi ngang phòng khách.
- Sao ông không ngồi, ông Arthur? Cái ghế bập bênh này êm và dễ chịu lắm.
Trí tưởng tượng nhỏ bé của tôi về ông ta sống lại lần nữa: ông sẽ ngồi trên hiên nhà... mình có mấy ngày đẹp trời liên tiếp, phải không, ông Arthur?
Phải, mấy ngày đẹp trời liên tiếp. Cảm giác có phần hư ảo, tôi dẫn ông đến chiếc ghế cách xa bố Atticus và ông Tate nhất. Nó nằm hoàn toàn trong bóng tối. Boo sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong bóng tối.
Bố Atticus đang ngồi trên ghế xích đu, ông Tate ngồi trên một chiếc ghế cạnh ông. Đèn từ cửa sổ phòng khách rọi thẳng vào họ. Tôi ngồi cạnh Boo.
- Heck này, - bố Atticus đang nói, - tôi đoán việc cần làm... Chúa ơi, tôi đang mất trí nhớ...
Bố Atticus đẩy kính lên và chà xát mắt.
- Jem chưa đến mười ba... không, nó mười ba rồi... tôi không nhớ rõ. Nhưng dù sao chuyện cũng ra trước tòa án hạt...
- Cái gì ra, ông Finch? - Ông Tate nhấc cái chân đang bắt chéo và chồm tới.
- Dĩ nhiên đó rõ ràng là trường hợp tự vệ, nhưng tôi sẽ phải đến văn phòng và tìm kiếm...
- Ông Finch, ông nghĩ Jem đã giết Bob Ewell hả? Ông nghĩ vậy hả?
- Ông nghe những gì Scout nói rồi đó, không còn nghi ngờ gì về chuyện này. Con bé nói Jem đứng dậy và lôi hắn ta ra khỏi con bé... chắc chắn bằng cách nào đó nó đã vớ được con dao của Bob Ewell trong bóng tối… ngày mai chúng ta sẽ tìm ra.
- Ô-ô-ông Finch, nghe nè, - ông Tate nói. - Jem không hề đâm Bob Ewell.
Bố Atticus im lặng một lát. Ông nhìn ông Tate như thể ông đánh giá cao điều ông ấy nói. Nhưng bố Atticus lắc đầu.
- Heck, ông thật tử tế và tôi biết ông làm điều đó vì lòng tốt, nhưng đừng bầy ra bất cứ chuyện gì như vậy.
Ông Tate đứng dậy, và đi đến mép hàng hiên. Ông nhổ nước bọt vào bụi cây, rồi đút hai tay vào túi bên hông và đối diện với bố Atticus.
- Như cái gì? - Ông hỏi.
- Tôi xin lỗi nếu tôi ăn nói thẳng thừng quá, Heck, - bố Atticus nói một cách đơn giản, - nhưng, không ai bưng bít chuyện này. Tôi không sống kiểu đó.
- Chẳng ai bưng bít gì cả, ông Finch.
Giọng ông Tate thật ôn tồn, nhưng đôi giày của ông đặt quá vững chãi trên hàng hiên đến độ có vẻ như chúng mọc lên từ đó. Một cuộc ganh đua kỳ cục, mà bản chất của nó tôi không hiểu ra, đang phát triển giữa bố tôi và ông cảnh sát trưởng.
Đến lượt bố Atticus đứng dậy và đi tới mé hiên. Ông nói, “Hừm” và nhổ nước bọt xuống sân. Ông thọc hai tay vào túi và đối mặt với ông Tate.
- Heck, ông không nói nhưng tôi biết ông đang nghĩ gì. Cám ơn vì điều đó. Jean Louise...
Ông quay sang tôi.
- Con nói Jem lôi ông Ewell khỏi con hả?
- Vâng, thưa bố, con nghĩ vậy... con...
- Thấy chưa, Heck? Tận đáy lòng tôi cám ơn ông, nhưng tôi không muốn con trai tôi bước vào cuộc đời với một điều gì đó như chuyện này trên đầu nó. Cách hay nhất để làm sạch bầu không khí là đưa mọi chuyện ra công khai. Hãy để cả hạt này đến và mang theo sandwich [1]. Tôi không muốn nó lớn lên với những tiếng xì xào về nó, tôi không muốn bất cứ ai nói, “Jem Finch... bố nó đã đút lót rất nhiều tiền để gỡ nó ra khỏi vụ đó”. Chúng ta giải quyết chuyện này càng sớm càng tốt.
- Ông Finch, - ông Tate nói một cách dửng dưng, - Bob Ewell té ngay trên con dao của hắn ta. Hắn ta tự giết mình.
Bố Atticus đi tới góc hàng hiên. Ông nhìn giàn đậu tía. Theo tôi hai người đều ương ngạnh như nhau. Tôi tự hỏi ai sẽ đầu hàng trước đây. Tính ương ngạnh của bố Atticus thì lặng lẽ và hiếm khi thể hiện rõ rệt, nhưng trong một số cách ông cố chấp như những người nhà Cunningham. Tính cố chấp của ông Tate thì không theo bài bản và lộ liễu, nhưng nó cũng ngang bằng với bố tôi.
- Heck này, - bố Atticus quay lại. - Nếu việc này bị ỉm đi thì đối với Jem đó sẽ là sự phủ nhận thẳng thừng phương cách mà tôi đã cố công nuôi dạy nó. Đôi khi tôi nghĩ trong vai trò cha mẹ thì tôi đã thất bại hoàn toàn, nhưng tôi là tất cả những gì chúng có. Trước khi Jem nhìn vào bất cứ người nào khác, nó sẽ nhìn vào tôi, và tôi cố sống để tôi có thể thẳng thắn nhìn lại nó... Nếu tôi đồng lõa với một chuyện như vầy, tôi không thể thẳng thắn nhìn vào mắt nó, và vào cái ngày tôi không làm được điều đó tôi biết tôi sẽ mất nó. Tôi không muốn mất nó với Scout, bởi vì chúng là tất cả những gì tôi có.
- Ông Finch, - ông Tate vẫn chôn chân trên sàn nhà. - Bob Ewell té trên con dao của hắn. Tôi có thể chứng minh điều đó.
Bố Atticus quay sang. Hay tay ông thọc vào túi.
- Heck này, ông thậm chí không thể nhìn vụ này theo cách của tôi sao? Ông có con, nhưng tôi già hơn ông. Khi con tôi lớn tôi đã là một ông già nếu tôi còn sống, nhưng ngay bây giờ tôi là... nếu chúng không tin tôi, chúng sẽ không tin bất cứ ai. Jem và Scout biết chuyện gì đã xảy ra. Nếu chúng nghe ở thị trấn tôi nói một điều gì đó khác việc đã xảy ra... Heck, tôi sẽ không còn chúng nữa. Tôi không thể sống ngoài thị trấn theo kiểu này và sống ở nhà theo kiểu khác.
Ông Tate lắc lư trên gót chân ông và nói một cách kiên nhẫn:
- Hắn vật Jem xuống, hắn vấp và rễ cây và... nhìn nè, tôi có thể cho ông thấy.
Ông Tate thọc tay vào túi bên hông và rút ra một con dao bấm. Khi ông ta làm thế, bác sĩ Reynolds bước ra cửa.
- Đứa con trai... À, người chết dưới tán cây đó, bác sĩ, ngay bên trong sân trường. Có đèn pin không? Tốt hơn nên lấy cái này.
- Tôi có thể lái xe tới rồi bật đèn xe lên, - bác sĩ Reynolds nói, nhưng vẫn lấy đèn pin của ông Tate. - Jem ổn rồi. Tôi nghĩ là tối nay cậu ấy không tỉnh dậy đâu, cho nên đừng lo. Đó là con dao đã giết ông ta hả, Heck?
- Không, thưa ông, nó vẫn còn cắm trong người hắn ta. Nhìn chuôi dao thì thấy giống loại dao làm bếp. Hiện giờ chắc Ken đã có mặt ở đấy với xe chở xác, bác sĩ, tạm biệt.
Ông Tate bấm mở con dao:
- Nó giống như vậy nè, - ông nói. Ông cầm con dao và giả bộ như bị vấp; khi ông chồm tới cánh tay trái của ông chõi xuống trước mặt ông. - Thấy chưa? Tự đâm mình xuyên qua lớp thịt mềm giữa các xương sườn. Toàn bộ sức nặng của hắn đổ lên nó.
Ông Tate đóng con dao lại và nhét nó trở vào túi.
- Scout tám tuổi, - ông nói. - Con bé quá sợ đến độ không biết chuyện gì xảy ra.
- Ông sẽ phải ngạc nhiên đó, - bố Atticus nói một cách nghiêm khắc.
- Tôi không nói con bé bịa ra chuyện này, tôi nói con bé quá sợ đến độ không biết chính xác những gì đã xảy ra. Ngoài đó trời rất tối, tối đen như mực. Phải ai đó rất quen với bóng tối mới làm nhân chứng tốt được...
- Tôi sẽ không chấp nhận chuyện đó. - bố Atticus nói một cách nhẹ nhàng.
- Khỉ mốc, tôi không nghĩ đến Jem!
Giày của ông Tate giậm lên sàn nhà mạnh đến độ đèn trong phòng ngủ của cô Maudie bật sáng. Đèn của cô Stephanie Crawford cũng bật sáng. Bố Atticus và ông Tate nhìn qua bên kia đường, rồi nhìn nhau. Họ chờ đợi.
Khi ông Tate nói tiếp giọng ông chỉ vừa đủ nghe.
- Ông Finch, tôi ghét tranh cãi với ông khi ông giống vầy. Tối nay ông đã trải qua một chuyện căng thẳng mà không một người nào trải qua. Tôi không hiểu sao ông không dẹp chuyện này sang một bên, nhưng tôi biết rằng lúc này ông không cộng hai với hai lại được, và chúng ta phải giải quyết chuyện này tối nay bởi vì ngày mai là quá trễ. Bob Ewell lãnh một con dao làm bếp vào bụng hắn ta.
Ông Tate nói thêm rằng bố Atticus không nên đứng đó và cứ cho rằng một đứa con trai cỡ như Jem với một cánh tay gãy lại còn đủ sức chiến đấu để khống chế và giết một người lớn trong đêm tối như hũ nút.
- Heck này, - bố Atticus bất chợt nói, - thứ ông đang cầm là một con dao bấm. Ở đâu ông có nó vậy?
- Tước từ một tên say rượu. - ông Tate đáp một cách lạnh nhạt.
Tôi đang cố nhớ lại. Ông Ewell xấn vào tôi - rồi ông ta ngã xuống... Jem hẳn đã đứng dậy. Ít nhất tôi nghĩ....
- Heck này?
- Tôi nói tôi tước nó từ một tên say rượu dưới thị trấn hồi tối. Ewell có lẽ vớ được con dao làm bếp đâu đó trong bãi rác. Mài nó và chờ cơ hội... chỉ chờ có cơ hội.
Bố Atticus bước tới cái ghế xích đu và ngồi xuống. Hai bàn tay ông buông thõng giữa hai đầu gối. Ông đang nhìn xuống sàn nhà. Ông cử động với vẻ chậm chạp y như trong cái đêm đó trước cửa nhà tù, khi tôi nghĩ sao ông gấp tờ báo và ném nó xuống ghế lâu đến thế.
Ông Tate đi nhẹ nhàng quanh hiên nhà.
- Đó không phải là quyết định của ông, ông Finch, tất cả là của tôi. Nó là quyết định của tôi và trách nhiệm của tôi. Lần cuối, nếu ông không nhìn nó theo cách nhìn của tôi, ông chẳng thể làm gì được đâu. Nếu ông muốn thử, tôi sẽ gọi thẳng vào mặt ông rằng ông là kẻ nói dối. Con trai ông không hề đâm Bob Ewell, - ông nói chậm rãi, - tuyệt đối không hề làm được chuyện gì đại loại như thế và giờ ông biết mà. Nó chỉ muốn một chuyện là đưa nó và em gái về nhà an toàn.
Ông Tate thôi đếm bước. Ông ngừng ngay trước mặt bố Atticus và quay lưng về phía chúng tôi.
- Tôi không phải là người rất tốt, thưa ngài, nhưng tôi là cảnh sát trưởng hạt Maycomb. Đã sống ở thị trấn này cả đời và tôi gần bốn mươi ba tuổi. Biết mọi việc ở đây từ trước khi tôi ra đời. Có một chàng trai da đen chết chẳng vì lý do gì cả, và người đàn ông này chịu trách nhiệm cho cái chết đó. Lần này hãy để người chết chôn người chết. ông Finch. Hãy để người chết chôn người chết.
Ông Tate đi đến chỗ ghế xích đu và cầm mũ lên. Nó nằm cạnh bố Atticus. Ông Tate vuốt ngược tóc ra sau và đội mũ lên.
- Tôi chưa từng nghe nói rằng sẽ là phạm pháp nếu một công dân cố hết sức mình để ngăn không cho một tội ác xảy ra, và đó chính xác là điều anh ta đã làm, nhưng có thể ông cho rằng nhiệm vụ của tôi là phải nói cho cả thị trấn này biết chuyện và không được ỉm nó đi. Biết sau đó sẽ xảy ra chuyện gì không? Tất cả phụ nữ ở Maycomb này, kể cả vợ tôi, sẽ gõ cửa nhà anh ta mang theo bánh xốp. Theo tôi nghĩ, ông Finch, bắt giữ một người vốn đã giúp đỡ rất nhiều cho ông và cho cả thị trấn này rồi lôi anh ta ra cùng với cung cách rụt rè của anh ta trước công chúng... với tôi, đó là một tội ác. Đó là một tội ác và tôi không định chứa nó trong đầu tôi đâu. Nếu đó là bất cứ người đàn ông nào khác thì lại khác. Nhưng không phải người đàn ông này, ông Finch.
Ông Tate đang cố đào một cái lỗ trên sàn nhà bằng mũi giày của ông. Ông kéo mũ, rồi ông chà xát cánh tay trái.
- Tôi chẳng là gì cả, ông Finch, nhưng tôi vẫn là cảnh sát trưởng hạt Maycomb và Bob Ewell đã té trên con dao của hắn. Chúc ngủ ngon, thưa ngài.
Ông Tate bước khỏi hàng hiên và băng qua sân trước. Cửa xe ông đóng sầm và ông lái xe đi.
Bố Atticus ngồi nhìn xuống sàn nhà hồi lâu. Cuối cùng ông cũng ngẩng đầu lên.
- Scout, - ông nói, - ông Ewell té trên con dao của ông, chắc con hiểu chứ?
Có vẻ bố Atticus cần được cổ vũ. Tôi chạy đến bên ông, ôm ông và hôn ông tới tấp.
- Vâng, thưa bố, con hiểu, - tôi đoan chắc với ông. - Ông Tate nói đúng.
Bố Atticus nhẹ nhõm và nhìn tôi.
- Ý con là sao?
- Ồ, nó giống như việc bắn một con chim nhại vậy, đúng không bố?
Bố Atticus úp mặt ông vào tóc tôi và xoa nó. Khi ông đứng lên bước qua hàng hiên vào chỗ bóng tối, bước chân trẻ trung của ông đã trở lại. Trước khi đi vào nhà, ông dừng lại trước mặt Boo Rayley.
- Cám ơn vì những gì đã làm cho những đứa con của tôi, Arthur! - ông nói.
-----------
1. Atticus hàm ý cứ đem Jem ra xử trước tòa cho mọi người tới xem.

Chương 31

Khi Boo Rayley loẹt xoẹt đứng dậy, ánh đèn từ các cửa sổ phòng khách chiếu lấp lánh trên trán ông. Mọi cử động của ông đều không chắc chắn như thể ông không bảo đảm tay và chân mình đặt đúng vào những thứ ông tiếp xúc. Ông ho một trận dữ dội đến độ ông phải lảo đảo ngồi xuống lại. Tay ông mò tìm trong túi bên hông, và ông lôi ra một chiếc khăn tay. Ông ho vào đó, rồi ông lau trán.
Đã quá quen với sự vắng mặt của ông, tôi thấy thật không thể tin được rằng ông đã ngồi bên tôi suốt thời gian đó. Ông không gây một tiếng động nào.
Ông lại đứng lên. Ông quay sang tôi và hất đầu về phía trước.
- Ông muốn chúc Jem ngủ ngon phải không, ông Arthur? Cứ vào đi.
Tôi dẫn ông đi theo hành lang. Bác Alexandra đang ngồi cạnh giường Jem.
- Vào đi, Arthur, - bác nói. - Nó còn ngủ. Bác sĩ Reynolds cho nó một liều an thần mạnh, Jean Louise, bố cháu trong phòng khách hả?
- Vâng, thưa bác, cháu nghĩ thế.
- Để bác ra nói chuyện với bố cháu một lát. Bác sĩ Reynolds để lại một số... - giọng bác xa dần.
Boo đã tới góc phòng, ông đứng đó với cái cằm hếch lên, nhìn Jem từ xa. Tôi cầm tay ông, bàn tay ấm một cách kinh ngạc so với vẻ trắng bệch của nó. Tôi giật nhẹ ông, và ông để cho tôi dẫn đến giường Jem.
Bác sĩ Reynolds đã làm một thứ giống như cái lều bên trên cánh tay Jem, giữ cho chăn khỏi phủ lên nó, và Boo chồm tới nhìn qua đó, một vẻ tò mò hiện lên trên mặt ông ta, cứ như thể ông ta chưa từng thấy một cậu con trai. Miệng ông ta hé mở, và ông ta nhìn Jem từ đầu đến chân. Boo giơ tay ra, nhưng ông lại buông thõng nó xuống bên hông.
- Ông có thể nựng anh ấy, ông Arthur, anh ấy ngủ rồi. Nhưng ông không thể làm chuyện đó nếu ảnh thức, ảnh sẽ không để cho ông... - Tôi nhận ra mình đang giải thích. - Cứ tự nhiên đi.
Bàn tay Boo chờn vờn trên đầu Jem.
- Làm đại đi, ông, ảnh ngủ rồi.
Bàn tay ông ta đáp nhẹ xuống tóc Jem.
Tôi bắt đầu hiểu ra tiếng Anh bằng ngôn ngữ cơ thể của ông. Tay ông siết chặt tay tôi vào báo hiệu ông muốn cáo lui.
Tôi dẫn ông ra hiên trước, ở đó những bước chân dùng dằng của ông dừng lại. Ông vẫn cầm tay tôi và không tỏ dấu hiệu muốn buông ra.
- Cô sẽ đưa tôi về nhà chứ?
Ông hầu như thì thào câu đó, với giọng điệu một đứa trẻ sợ bóng tối.
Tôi đặt chân lên bậc thềm cao nhất và dừng lại. Tôi có thể dẫn ông đi qua nhà tôi, nhưng tôi không thể dẫn ông về nhà.
- Ông Arthur, cong cánh tay ông xuống vầy. Đúng rồi, thưa ông.
Tôi đưa tay bám vào khuỷu tay khuỳnh ra của ông.
Ông phải khom xuống một chút để thuận tiện cho tôi, nhưng nếu cô Stephanie Crawford đang nhìn qua cửa sổ trên lầu nhà cô, cô sẽ thấy Arthur Radley đang hộ tống tôi đi dọc hè đường, như bất cứ trang nam tử nào sẽ làm.
Chúng tôi tới chỗ đèn đường ở góc phố và tôi tự hỏi bao nhiêu lần. Dill đã đứng đây ôm cây cột to tướng này, nhìn, đợi và hy vọng. Tôi tự hỏi đã bao nhiêu lần Jem và tôi thực hiện chuyến hành trình này, nhưng tôi đang bước vào cổng trước nhà Radley lần thứ hai trong đời. Boo và tôi đi trên những bậc thềm đến hiên nhà. Những ngón tay của ông tìm nắm đấm cửa trước. Ông nhẹ nhàng buông tay tôi, mở cửa, đi vào trong và đóng lại.
Tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.
Hàng xóm mang thức ăn đến khi nhà có tang và mang hoa tới khi có người bệnh và các thứ linh tinh vào những lúc khác. Boo là láng giềng của chúng tôi. Ông đã cho chúng tôi hai con búp bê bằng xà phòng, một đồng hồ có dây chuyền bị đứt, hai đồng hai mươi lăm xu may mắn, và cả mạng sống của chúng tôi. Nhưng láng giềng thì thường cho qua cho lại. Chúng tôi không bao giờ để lại cái cây đó những gì chúng tôi đã lấy ra, chúng tôi chẳng cho ông ta thứ gì cả và điều đó làm tôi buồn.
Tôi quay người trở về nhà. Đèn đường sáng suốt con đường tới thị trấn. Tôi chưa từng nhìn con phố của chúng tôi từ góc này. Kia là nhà cô Maudie, nhà cô Stephanie Crawford, đó là nhà của chúng tôi, tôi có thể thấy chiếc xích đu ở hàng hiên, nhà của cô Rachel đằng sau nhà tôi, hơi khuất. Thậm chí tôi có thể thấy nhà của bà Dubose.
Tôi nhìn đằng sau. Bên trái cánh cửa nâu là một cửa chớp dài. Tôi đi tới đó, đứng trước nó, rồi quay lại. Vào ban ngày, tôi nghĩ, bạn có thể nhìn thấy tận ngã tư bưu điện.
Ban ngày... trong đầu tôi, đêm đã tàn. Đã là ban ngày và hàng xóm bận rộn. Cô Stephanie Crawford băng qua đường để kể tin tức mới nhất cho cô Rachel. Cô Maudie cúi người bên những bụi đỗ quyên khô của cô. Đó là mùa hè, và hai đứa trẻ chạy láu táu theo lề đường về phía người đàn ông ở xa đang tiến đến. Người đàn ông vẫy tay, và hai đứa trẻ đua nhau chạy đến bên ông ta.
Vẫn là mùa hè, và bọn trẻ đến gần hơn. Một cậu trai lê bước dọc lề đường lôi theo chiếc cần câu đằng sau. Một người đàn ông đứng đợi hai tay chống nạnh. Mùa hè, và bọn trẻ của ông ta chơi trong sân trước với bạn bè chúng, trình diễn một vở kịch nhỏ lạ lùng do chúng tự bịa ra.
Đó là mùa thu, và hai đứa con của ông ta đánh nhau trên lề đường trước nhà bà Dubose. Cậu con trai giúp em gái nó đứng dậy, và chúng đi về nhà. Mùa thu, con cái ông ta chạy lúp xúp tới lui góc đường, niềm vui sướng và buồn phiền của ngày hôm đó. Chúng dừng trước ngay cây sồi lớn, thích thú, lúng túng, sợ hãi.
Mùa đông, và bọn trẻ của ông ta run rẩy ở cổng trước, in bóng vào một ngôi nhà đang cháy. Mùa đông và một người đàn ông bước xuống lòng đường làm rớt kính của ông và bắn một con chó.
Mùa hè, và ông theo dõi trái tim tan vỡ của bọn trẻ con ông. Mùa thu lại về, và bọn trẻ của Boo cần ông.
Bố Atticus đúng. Có lần ông nói bạn không bao giờ thực sự biết một người cho đến khi bạn ở vào địa vị của họ và cư xử theo kiểu của họ. Chỉ đứng bên hàng hiên nhà Radley cũng đủ.
Đèn đường mờ đi dưới hàng mưa bụi đang rơi. Trên đường về nhà, tôi cảm thấy mình rất già, nhưng chỉ nhìn vào chóp mũi mình tôi có thể thấy những hạt sương tuyệt đẹp, nhưng hai mắt tập trung nhìn vào một chỗ quá gần làm tôi chóng mặt nên tôi bỏ trò đó. Trên đường về nhà, tôi nghĩ nói với Jem về chuyện này vào ngày mai mới hay làm sao. Anh sẽ tức điên lên vì bỏ lỡ nó đến độ anh sẽ không nói chuyện với tôi trong nhiều ngày. Khi đi về nhà, tôi nghĩ Jem và tôi sẽ lớn lên nhưng không còn nhiều điều gì cho chúng tôi học, có lẽ trừ môn đại số.
Tôi chạy lên những bậc tam cấp vào nhà. Bác Alexandra đã đi ngủ, và phòng của bố Atticus tối thui. Tôi sẽ xem Jem tỉnh lại chưa. Bố Atticus trong phòng của Jem, ngồi cạnh giường. Bố đang đọc một cuốn sách.
- Jem thức chưa?
- Ngủ ngon lành. Tới sáng nó mới thức.
- Ô, bố ngồi suốt với anh ấy hả?
- Chỉ một chút nữa thôi. Đi ngủ đi, Scout. Con đã trải qua một ngày dài rồi.
- Ư, con muốn ở lại với bố một lát.
- Tùy con, - bố Atticus nói. Chắc phải quá nửa đêm, và tôi bối rối bởi sự đồng ý dễ chịu của ông. Tuy nhiên ông khôn ngoan hơn tôi: ngay lúc ngồi xuống tôi đã cảm thấy buồn ngủ.
- Bố đọc gì vậy?  Tôi hỏi.
Bố Atticus lật qua cuốn sách.
- Sách của Jem. Tên là The Gray Ghost.
Tôi chợt tỉnh hẳn.
- Sao bố lấy cuốn đó?
- Cục cưng, bố không biết. Bố chỉ lấy đại. Một trong mấy thứ bố chưa đọc. - ông nói rõ ràng.
- Đọc lớn lên đi, bố Atticus. Nó thấy ghê lắm.
- Không, - ông nói. - Bữa nay con sợ thế là đủ rồi. Truyện này quá...
- Bố Atticus, con không sợ.
Ông nhướn mày và tôi phản đối:
- Ít ra cũng không cho đến khi con kể cho ông Tate nghe. Jem không sợ. Đã hỏi và nói anh ấy không sợ. Với lại, chẳng có gì thực sự đáng sợ trừ trong sách.
Bố Atticus mở miệng định nói điều gì đó, nhưng ngậm miệng lại. Ông nhấc ngón tay ra khỏi chỗ giữa cuốn sách và lật trở lại trang đầu. Tôi xoay người qua và kê đầu vào gối ông.
- Hừm, - ông đọc. - Con ma xám của Seckatary Hawkins, Chương một...
Tôi quyết chí thức, nhưng mưa quá êm và căn phòng quá ấm và giọng của ông quá trầm và gối ông quá êm đến độ tôi ngủ mất.
Có vẻ như vài giây sau, giày ông thúc nhẹ vào sườn tôi. Ông đõ tôi dậy và đi với tôi về phòng tôi.
- Vẫn nghe từng chữ bố đọc... - tôi lầm bầm, - ...đâu có ngủ gì đâu, nó kể về một con tàu và Fred ba ngón và cậu trai của Stoner...
Ông tháo móc bộ quần áo liền quần của tôi, dựa tôi sát vào ông, và kéo bộ áo ra. Ông vịn tôi một tay còn tay kia với bộ đồ ngủ của tôi.
- Phải, tất cả họ đều nghĩ chính cậu trai của Stoner đang quậy tung ngôi nhà của câu lạc bộ và rắc mực văng tứ tung và...
Ông dẫn tôi tới giường và đặt tôi ngồi xuống. Ông giơ hai chân tôi lên và đắp mền cho tôi.
- Và họ đuổi theo cậu ta và không bao giờ bắt được cậu ta vì họ không biết mặt mũi cậu ta trông ra sao, và bố Atticus này, khi cuối cùng họ thấy cậu ta, tại sao cậu ta không làm bất cứ chuyện gì trong những chuyện đó... bố Atticus, cậu ta thực sự dễ thương.
Hai tay ông ở dưới cằm tôi, kéo mền lên, dém nó lại quanh tôi.
- Hầu hết con người là vậy, Scout, khi cuối cùng con gặp được họ.
Ông tắt đèn và đi sang phòng Jem. Ông sẽ ở đó suốt đêm, và ông sẽ ở đó khi Jem thức dậy vào ngày mai.

                                                          Hết

Hà Nội, mùa Đông 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét