Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

Lại thằng nhóc Emil - Astrid Lindgren - P1

Emil mắc đầu trong liễn súp

Thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày Emil chui đầu vào liễn súp.
Chủ nhật, ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày Emil kéo bé Ida lên đỉnh cột cờ.
Chủ nhật ngày mồng 8 tháng Bảy, ngày Emil “sống cuộc đời vui nhộn” tại lễ hội vùng Hultsfred.

Emil làng Lönneberga là tên một thằng nhóc sống ở làng Lönneberga. Đó là một thằng nhóc hiếu động và bướng bỉnh chứ không ngoan ngoãn được như các bạn, mặc dù trông nó dễ thương. Mà quả dễ thương thật những lúc nó không gào thét.
Mắt Emil xanh và tròn xoe, gương mặt cũng tròn, hai má đỏ au, mái tóc sáng màu vừa bông vừa mềm. Mọi nét gộp lại khiến nó trông dễ thương đến nỗi người ta có thể tưởng đâu Emil là một thiên thần nhỏ đích thực. Nhưng ai ơi chớ có tưởng bở.
Thằng nhóc lên năm tuổi và khỏe như một con bò mộng nhỏ. Nó sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland, một vùng đất thuộc Thụy Điển. Và bởi dân vùng Smăland nói tiếng địa phương Smăland nên Emil cũng đặc sệt giọng ấy. Đấy đâu phải lỗi của nó. Giả sử nó muốn lấy mũ, nó không nói như những đứa trẻ khác: “Cho con xin cái mũ”, mà nói: “Đưa con cái mú!”. Cái “mú” của Emil là một chiếc mũ mềm xanh lơ có lưỡi trai màu đen, trông xấu chết. Bố đã mua cho nó trong một lần lên thị trấn.
Emil rất khoái cái mũ. Tối tối hễ đến lúc phải đi ngủ, nó lại nói: “Đưa con cái mú!”. Tuy nhiên mẹ lại cho rằng Emil không nên mang mũ lên giường . Bà định cất chiếc mũ trên mắc áo ngoài hành lang. Thế là Emil hét toáng lên khiến cả làng Lönneberga đều nghe: “Đưa con cái mú!”.
Cứ như vậy suốt ba tuần lễ, đêm nào Emil cũng ngủ với cái mũ sùm sụp trên đầu. Rốt cuộc nó có sao đâu, dù hơi bó đầu một tẹo. Cái chính là Emil được làm theo ý mình, đấy mới là điều nó quan tâm nhất. Đặc biệt Emil không thích nghe theo những gì mẹ muốn. Lần nọ, vào ngày lễ Giáng sinh, mẹ tìm cách dỗ Emil ăn món đậu đũa, vì rau rất có lợi cho sức khỏe. Nhưng Emil bảo không.
- Con định không khi nào ăn rau sao? -Mẹ nó nói.
-  Có chứ ạ, - Emil đáp, - nhưng phải đúng là rau.
Rồi rất lặng lẽ, nó đến ngồi sau cây thông Noen và bắt đầu gặm lá thông. Nhưng nó đã vội dừng lại vì bị lá thông nhọn chọc vào mồm.
Emil ương bướng thế đấy. Nó muốn quyết định về bố mẹ mình, về trang tại Katthult, và thích nhất là quyết định cho cả làng Lönneberga luôn, nhưng dân làng Lönneberga đâu có chịu.
- Khổ thân cái nhà anh chị Svensson ở trang trại Katthult, có thằng con nghịch như quỷ sứ! - Họ nói. - Ngữ ấy chẳng bao giờ nên người được.
Dân làng Lönneberga nghĩ vậy đó! Giá mà họ biết được rồi ra Emil sẽ trở thành người như thế nào, hẳn họ đã không nói thế. Giá mà họ biết có ngày Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã, khi nó lớn lên ấy! Chắc bạn không biết chủ tịch hội đồng xã là cái gì, nhưng đó là một thứ rất tuyệt, tôi xin đảm bảo với bạn, và rốt cuộc Emil sẽ trở thành thứ đó.
Nhưng giờ chúng ta cứ xem xem chuyện gì đã xảy ra khi Emil còn bé và sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland cùng với bố tên là Anton Svensson, bà mẹ tên là Alma Svensson và đứa em gái nhỏ Ida. Gia đình họ còn nuôi một đầy tớ trai là chú Alfred và một cô hầu gái là cô Lina.. Vì thời Emil còn bé, ở làng Lönneberga và đâu đâu cũng sẵn đầy tớ và người hầu. Đám đầy tớ trai lo cày cuốc, chăn ngựa và bò kéo, chở rơm rạ ngoài đồng về và trồng khoai tây, trong khi đám hầu gái lo vắt sữa bò, dọn rửa, giặt giũ, quét tước và hát dỗ lũ trẻ.
Bây giờ thì bạn biết những ai sống ở trang trại Katthult rồi nhé: bố Anton, mẹ Alma, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Ngoài ra còn có hai con ngựa, vài con bò kéo, tám con bò sữa, ba con lợn, chục con cừu, mười lăm con gà, một chú gà trống, một chú mèo và một chú chó. Rồi đến Emil.
Katthult là một trang trại nhỏ xinh đẹp với một ngôi nhà quét vôi đỏ nằm giữa những cây táo và tử đinh hương trên một triền đồi. Bao quanh trang trại là những cánh đồng, bãi cỏ, những cánh rừng nhỏ, một cái hồ và một khu rừng to ơi là to.
Katthult sẽ yên bình xiết bao, nếu thằng nhóc Emil không ở đó.
- Lúc nào nó cũng gây chuyện chẳng lành, cái thằng nhóc này, - cô Lina nói. - Mà nếu chính nó không gây chuyện đi nữa, thì cũng xảy ra quá đủ chuyện với Emil. Thật cháu chưa từng thấy thằng oắt nào như nó!
Nhưng mẹ Emil vội bênh con:
- Emil có đến nỗi nào. Hôm nay nó chỉ véo con bé Ida mỗi một cái và làm đổ váng sữa để pha cà phê, chỉ thế thôi mà... ừ, thì đúng là thằng bé có đuổi con mèo chạy quanh chuồng gà thật. Nhưng dù sao thì tôi cũng thấy nó bớt hiếu động và ngoan hơn rồi.
Emil không hề độc ác, không thể nói là nó ác. Cả bé Ida và con mèo nó đều rất quý. Nhưng nó phải véo bé Ida một chút, nếu không đời nào con bé chịu đưa miếng bánh phết mứt của mình cho nó chứ, còn con mèo thì Emil rượt đuổi với tất cả niềm thương mến, cốt chỉ để thử xem mình có chạy nhanh bằng con mèo không. Nhưng con mèo làm sao hiểu được.
Đó là ngày mồng 7 tháng Ba, cái ngày mà Emil thật đáng yêu khi chỉ véo bé Ida có mỗi một cái, chỉ làm đổ váng sữa và đuổi theo con mèo. Nhưng bây giờ bạn hãy nghe về những ngày khác nữa trong cuộc đời Emil, khi có nhiều chuyện xảy ra hơn, hoặc do chính Emil gây ra, như cô Lina nói, hoặc đơn giản chỉ bởi bao giờ cũng có lắm chuyện xảy ra với thằng bé.
Chúng ta có thể bắt đầu với một ngày thứ Ba. Đó là:

Thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày Emil chui đầu vào liễn súp.

Hôm đó bữa trưa ở trang trại Katthult có món súp thịt bò. Cô Lina bưng súp đựng trong cái liễn sâu có vẽ hình hoa lên và mọi người ngồi quanh bàn ăn thưởng thức món súp, đặc biệt là Emil. Nó thích súp, và hễ nó ăn súp là nghe thấy liền.
- Con cứ phải húp sụp soạp như thế mới được sao? - Mẹ nó hỏi.
- Nếu không thế, thì làm sao người ta biết được đây là súp ạ, - Emil đáp.
Mọi người tha hồ chén thỏa thích, chẳng mấy mà liễn súp cạn sạch. Chỉ còn một hớp nhỏ ơi là nhỏ đọng lại dưới đáy liễn. Emil muốn ăn nốt hớp súp ấy, và muốn như thế chỉ có mỗi một cách chui đầu vào liễn súp để cố húp thôi. Thế là Emil làm liền, và mọi người lắng nghe tiếng nó húp trong liễn rõ mồn một.
Nhưng rồi Emil định rút đầu ra, và - không thể tin nổi - nó không rút ra được. Đầu nó mắc kẹt trong đó. Sợ quá nó nhảy phắt dậy khỏi bàn và đứng đó với liễn súp như một chậu cây úp lên đầu, sụp xuống tận dưới mặt, che hết cả mắt lẫn tai. Emil vừa cố giằng cái liễn vừa gào toáng lên. Cô Lina cũng phát hoảng.
- Cái liễn đẹp của nhà ta, - cô xuýt xoa.- Ôi cái liễn hoa quý là thế của nhà ta! Giờ thì biết đựng súp vào đâu cơ chứ?
Là vì nếu đầu Emil cứ ở trong cái liễn thì không đổ súp vào được nữa, chí ít cô Lina cũng hiểu như thế, mặc dù bình thường cô không sáng ý cho lắm.
Nhưng mẹ Emil nghĩ đến nó nhiều hơn.
- Ôi trời, làm sao chúng ta lôi thằng bé ra được đây? Chúng ta phải lấy thanh sắt chọc lò mà đập vỡ cái liễn thôi.
- Mình có điên không hả? - Bố Emil kêu lên. - Mua cái liễn mất những bốn đồng bạc đấy!
- Để cháu thử xem đã, - chú đầy tớ khỏe mạnh và chăm chỉ Alfred nói. Chú nắm hai quai liễn và lấy hết sức bình sinh nhấc cái liễn lên. Nhưng ăn thua gì chứ? Emil cũng bị nhấc bổng lên, vì đầu nó mắc cứng trong đó. Thế là nó giãy giụa hai chân trong trạng thái treo lơ lửng để rồi lại được hạ xuống đất.
- Thôi đi! Bỏ cháu xuống! Thôi đi, đã bảo mà! - Nó gào lên.
Thế là chú Alfred đành thôi.
Giờ thì ai nấy đều ỉu xìu thật sự. Họ xúm quanh Emil trong bếp và ra sức nghĩ cách. Bố Anton, mẹ Alme, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Không ai biết làm sao lôi nổi Emil ra khỏi liễn súp.
- Nhìn kìa, anh Emil khóc đấy, - bé Ida nói, tay chỉ vào mấy giọt nước mắt to tướng đang rỏ từ mép liễn rồi từ từ lăn dài trên má Emil.
- Khóc đâu mà khóc, - Emil cãi, - Nước súp thịt thì có!
Nó vẫn tỏ ra gan lỳ như nó vốn thế, nhưng bị mắc kẹt trong liễn súp hẳn chẳng sung sướng gì. Mà sẽ thế nào nhỉ, nếu nó vĩnh viễn không rũ bỏ được cái liễn này? Tội nghiệp Emil, đến bao giờ nó mới lại có thể đội mũ lên đầu? Mẹ Emil xót xa cho thằng con bé bỏng của mình. Bà lại toan lấy que cời đập vỡ cái liễn, nhưng bố Emil ngăn lại.
- Không đời nào! Cái liễn đáng giá những bốn đồng bạc. Tốt hơn là chúng ta nên đến Mariannelund tìm ông bác sĩ. Ông ấy sẽ lôi ra được. Thế nào ông ấy cũng chỉ lấy ba đồng tiền công, vậy là chúng ta kiếm được một đồng.
Mẹ Emil thấy sáng kiến này hay. Xét cho cùng, đâu phải ngày nào cũng kiếm được hẳn một đồng bạc. Nhất là khi nghĩ có thể dùng đồng bạc ấy mua bao nhiêu thứ đồ lặt vặt, một món quà gì đó cho bé Ida chẳng hạn, vì con bé phải ngồi nhà trong lúc thằng anh Emil được đi chơi xa.
Thế là người ở trang trại Katthult tất bật cả lên. Cần phải cho Emil ăn vận thật tươm tất, phải tắm rửa cho nó và cho nó diện bộ quần áo đẹp nhất. Không thể chải đầu cho Emil, cũng không thể lau rửa tai cho nó, mặc dù rất cần phải như thế. Tuy nhiên mẹ nó vẫn cố thử luồn ngón tay chỏ từ dưới miệng liễn súp lên để cọ tai cho Emil. Nhưng kết cục thật tồi tệ vì đến lượt ngón tay của bà cũng bị kẹt lại trong liễn súp.
- Vâng vâng như thế đấy, - bé Ida nói. Còn bố Anton nổi giận thật sự, mặc dù bình thường ông hiền lành đến thế.
- Lại có kẻ cũng muốn mắc kẹt trong liễn súp hả? - Ông quát lên. - Xin cứ việc! Rồi tôi sẽ lấy cỗ xe lớn chở cỏ rước tất cả các người đến ông bác sĩ ở Mariannelund.
Nhưng mẹ của Emil giật mạnh và rút được ngón tay ra.
- Thôi con cứ để tai bẩn mà đi cũng được, Emil ạ, - bà vừa nói vừa thồi phù phù vào ngón tay.
Thế là Emil nở một nụ cười mãn nguyện trong liễn súp và bảo:
- Đúng là lần đầu tiên cái liễn có lợi cho con.
Nhưng lúc này chú Alfred đã cho xe ngựa đến đỗ bên cầu thang lớn. Emil đi ra để trèo lên xe. Trông nó rõ bảnh bao với bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, đôi ủng cài cúc màu đen và cái liễn súp - ừ thì trông nó có phần hơi lập dị với cái liễn chụp kín đầu, nhưng cái liễn có vẽ hoa đẹp ra phết và nom lại giông giống một chiếc mũ mùa hè theo mốt mới. Thứ duy nhất khiến người khác để ý là chiếc mũ này sụp khá sâu, che kín cả mắt của Emil.
Bây giờ họ muốn khởi hành đến Mariannelund.
- Nhớ trông nom bé Ida cẩn thận khi chúng tôi vắng nhà nhé! - Mẹ Emil dặn với. Mẹ ngồi cùng bố trên băng ghế trước. Emil ngồi ghế sau cùng cái liễn. Còn chiếc “mú” của Emil để trên ghế, ngay cạnh nó. Thì lúc quay về nhà nó cũng phải có gì đội đầu chứ. May mà nó lại nghĩ ra!
- Thế cháu phải nấu gì cho bữa tối đây ạ? - Cô Lina kêu lên khi xe ngựa vừa chuyển bánh.
- Tùy cô, - mẹ Emil đáp. - Giờ tôi đang bận nghĩ chuyện khác.
- Thế thì chắc cháu lại nấu món súp thịt bò, - cô hầu gái nói. Nhưng đúng lúc đó cô thoáng trông thấy cái gì có vẽ hình hoa khuất sau lối rẽ trên đường và sực nhớ chuyện gì đã xảy ra. Cô quay sang chú Alfred và bé Ida với đầy vẻ ưu phiền.
- Xem ra tối nay sẽ chỉ có bánh mì và thịt lợn nguội, - cô nói.
Emil đã được đi Mariannelund nhiều lần. Nó thích ngồi vắt vẻo trên xe ngựa ngắm những con đường chạy ngoằn ngoèo và những trang trại mà nó đi ngang qua, nhìn lũ trẻ sống trong trang trại đó, rồi những con chó sủa nhặng xị sau bờ giậu, rồi bò rồi ngựa được chăn thả trên những bãi cỏ. Nhưng lúc này ít thú vị hơn. Lúc này nó ngồi trên xe với cái liễn sùm sụp che kín mắt và chỉ còn trông thấy một phần tý tẹo đôi ủng của mình qua khe hở dưới miệng liễn súp. Nó phải luôn mồm hỏi bố:
- Mình đến đâu rồi bố? Đã qua trang trại Bánh Rán chưa? Sắp đến trang trại Lợn Xinh chưa?
Chả là Emil tự đặt cho mỗi trang trại ven đường một cái tên riêng. Bánh Rán là tên trang trại mà lần nọ Emil đi xe ngựa ngang qua thấy hai đứa nhóc béo tròn đứng bên bờ giậu chén bánh rán. Còn trang trại Lợn Xinh được gọi theo một chú lợn con ngộ nghĩnh mà thi thoảng Emil vẫn xoa lưng.
Nhưng lúc này thì Emil đang ngồi buồn bã ngó xuống đôi ủng của mình, chẳng thấy đâu bánh rán lẫn chú lợn con ngộ nghĩnh. Thế nên không có gì lạ khi nó cứ hỏi dồn:
- Chúng mình đang ở đâu rồi ạ? Sắp đến Mariannelund chưa bố?
Phòng chờ chỗ ông bác sĩ đến là đông người khi Emil bước vào với liễn súp trên đầu. Lập tức hết thảy những ai có mặt đều cảm thương Emil. Họ hiểu vừa xảy ra một tai nạn nhỏ. Riêng một lão già thấp bé cất tiếng cười độc địa, làm như mắc kẹt trong liễn súp là điều vui nhộn lắm không bằng.
- Hô hô hô! Lạnh cóng ở tai hả, nhóc con? - lão hỏi.
- Đâu ạ! - Emil đáp.
- Thật hả? Thế sao lại cần cái bịt tai?
- Vì nếu không tai cháu sẽ lạnh cóng, - Emil đáp. Dù còn bé, nó vẫn có thể thật dí dỏm.
Nhưng rồi nó được gọi vào phòng khám. Ông bác sĩ không cười nó chỉ nói:
- Chào cháu! Chào cháu! Cháu làm gì trong đó vậy?
Mặc dù không thể nhìn thấy ông bác sĩ, nhưng Emil vẫn phải chào ông ấy chứ. Nó bèn cúi đầu rõ thấp - tất nhiên cùng với cái liễn. Choang! Cái liễn nằm đó, vỡ làm hai mảnh. Là vì Emil vô tình cụng đầu rất mạnh xuống bàn viết của ông bác sĩ.
- Thế là tan tành bốn đồng bạc, - bố Emil khẽ bảo mẹ Emil. Nhưng ông bác sĩ nghe được.
- Đúng, nhưng dẫu sao anh chị cũng kiếm được một đồng đấy, - ông nói. - Vì tôi vẫn lấy năm đồng tiền công mỗi khi giải thoát các chú bé ra khỏi những liễn súp. Chú bé này đã giải quyết được rồi.
Bố Emil trở nên phấn khởi, thầm biết ơn thằng con đã đập vỡ cái liễn và nhờ thế kiếm được hẳn một đồng. Ông vội nhặt hai mảnh liễn, lôi vợ con ra về.
Nhưng ra tới ngoài đường, mẹ Emil bảo:
- Tuyệt quá! Chúng ta lại vừa kiếm được một đồng! Để mua gì đây nhỉ?
- Không mua bán gì hết, - bố Emil đáp. - Đồng bạc ấy sẽ để tiết kiệm. Nhưng cũng là công bằng và ít tốn kém nếu thưởng cho Emil năm xu. Khi về nhà nó được phép bỏ năm xu ấy vào con lợn đất của nó.
Nói đoạn ông liền lục trong hầu bao lấy ra đồng năm xu đưa cho Emil. Thử đoán xem Emil có sướng không nào?
Rồi họ lên đường trở về làng Lönneberga.
Emil thích chí ngồi ở băng ghế sau với đồng năm xu trong tay, cái “mú” trên đầu, và từ trên xa quan sát tất cả những đứa trẻ, những con chó, con ngựa, con bò, con lợn mà nó bắt gặp trên đường.
Giá Emil chỉ là một thằng bé bình thường thì ngày hôm đó đã chẳng xảy ra thêm chuyện gì. Nhưng Emil không phải là một thằng bé bình thường. Thử đoán xem nó làm gì? Phởn chí, nó đút đồng năm xu vào mồm, và đúng lúc cả nhà đi ngang qua trang trại Lợn Xinh, từ băng ghế sau khẽ vang lên tiếng “Ực”. Đó là Emil nuốt phải đồng năm xu.
- Ôi, - Emil kêu lên, - sao nhanh thế nhỉ.
Thế là mẹ nó lại có chuyện mới để ca thán.
- Trời ơi, làm sao lấy đồng năm xu ra khỏi bụng thằng bé được đây? Chúng ta phải quay lại chỗ ông bác sĩ thôi.
- Thế à, mình tính toán giỏi gớm nhỉ, - bố Emil nói. - Chẳng lẽ chúng ta phải trả ông bác sĩ năm đồng để lấy lại đồng năm xu sao? Hồi còn đi học, mình được mấy điểm môn toán thế không biết?
Nhưng Emil rất thản nhiên trước sự cố. Nó vỗ vỗ bụng bảo:
- Con tự làm con lợn đất cũng được và giữ đồng năm xu trung bụng tốt chẳng kém gì con lợn đất ở nhà. Vì lợn đất ở nhà cũng có moi được tiền ra đâu. Con thử moi bằng dao ăn mãi rồi, con còn lạ gì.
Nhưng mẹ Emil không nhân nhượng. Bà đòi quay lại Mariannelund tìm ông bác sĩ.
- Ngày trước, khi thằng bé nuốt tất cả chỗ cúc quần, em có nói gì đâu,- mẹ nhắc bố nhớ lại.- Nhưng một đồng năm xu khó tiêu hóa hơn, nó có thể gây hậu quả tồi tệ, mình nghe em đi!
Và mẹ đã thành công khi khiến bố sợ đến nỗi ông cho ngựa quay đầu và đánh xe trở lại Mariannelund. Vì thật ra bố Emil cũng lo lắng cho con trai.
Thở không ra hơi, ba bố mẹ con xông vào phòng ông bác sĩ.
- Các vị quên gì à? - ông bác sĩ hỏi.
- Không, thưa bác sĩ, chỉ là… cháu Emil nuốt phải một đồng năm xu, - bố Emil nói. - Vâng giá như bác sĩ có thể mổ cho cháu một tẹo… với giá bốn đồng gì đó... Đồng năm xu ấy xin biếu bác sĩ luôn cũng được ạ.
Nhưng Emil đã giật giật gấu áo bố, thì thào:
- Bố đừng có làm thế nhá! Đồng năm xu ấy là của con.
Ông bác sĩ không nghĩ đến việc lấy đồng năm xu của Emil. Ông bảo không cần phải mổ thì vài hôm nữa đồng năm xu ấy cũng sẽ tự ra.
- Nhưng có lẽ cháu nên ăn năm chiếc bánh mì con độn nho, - ông dặn Emil. - Như thế đồng năm xu sẽ có bầu có bạn và không cào vào dạ dày cháu.
Một ông bác sĩ tuyệt vời làm sao! Mà lần này ông cũng không lấy tiền. Bố Emil hài lòng đến rạng rỡ cả mày mặt khi ba người ra tới ngoài đường.
Nhưng lúc này mẹ Emil lại muốn vào ngay hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson để mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho.
- Không đời nào, - bố nói. - Ở nhà chúng ta cũng có bánh mì độn nho.
Emil ra chiều nghĩ ngợi. Nó giỏi cân nhắc suy tính và cũng thấy đói rồi. Vì vậy nó bảo:
- Con còn giữ một đồng năm xu cơ mà. Giá mà lấy ngay ra được thì con cũng thừa sức tự mua bánh mì nho.
Nó suy nghĩ thêm giây lát rồi bảo:
- Bố, thế bố không cho con vay tạm năm xu trong vài ngày được ạ? Con sẽ trả cho bố mà, con thề đấy!
Thế là bố chịu thua và cả ba đi đến hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho, những chiếc bánh rất rất ngon, tròn, vàng rộm và có rắc đường. Loáng cái, Emil đã chén hết.
- Đây là loại thuốc tốt nhất con được dùng từ bé đến giờ, - nó nhận xét.
Lúc này bố Emil bỗng vui vẻ và phấn chấn tới mức không còn biết mình đang làm gì.
- Dẫu sao hôm nay chúng ta cũng kiếm được kha khá tiền, - ông tuyên bố và bỏ luôn ra năm xu mua cho bé Ida ở nhà một gói đường thanh.
Bạn phải biết rằng chuyện này diễn ra vào cái thời mà trẻ con không hề bận tâm xem chúng có hai hàm răng hay không, chúng ngốc ngếch và kém hiểu biết như chúng vốn như thế. Ngày nay lũ trẻ làng Lönneberga không ăn đồ ngọt nữa, nhưng bù lại chúng có hai hàm răng.
Sau đó cả nhà quay lại trang trại Katthult.
Bố chỉ vừa đặt chân qua cửa nhà, còn chưa kịp cởi bỏ mũ và áo khoác, đã vội lôi hai nửa liễn súp ra gắn lại. Cũng chẳng khó khăn gì, vì cái liễn chỉ vỡ làm đôi.
Thấy vậy, cô Lina sướng đến nỗi nhảy cẫng lên và reo to với chú Alfred lúc bấy giờ đang tháo ngựa khỏi cỗ xe.
- Từ nay ở Katthult lại có súp thịt bò rồi nhá!
Đấy là cô Lina tưởng thế! Chắc hẳn cô đã quên mất Emil.
Chiều hôm ấy Emil chịu khó chơi với bé Ida lâu một cách khác thường. Nó dựng hẳn cho em một ngôi nhà giữa các tảng đá giữa bãi cỏ để chui ra chui vào. Bé Ida thích lắm. Và chỉ thi thoảng, khi muốn chén một miếng trong chỗ đường thanh của Ida, Emil mới véo em một cái. Nhưng rồi trời sẩm tối và hai anh em thấy đã đến lúc phải vào nhà. Chúng xuống bếp xem mẹ có ở đó không. Không có mẹ. Chẳng có ai dưới bếp. Chỉ thấy mỗi cái liễn súp để trên bàn, đã được gắn lại đẹp đẽ.
Emil và bé Ida đến bên bàn ngắm nghía cái liễn kỳ lạ đã được chở đi lòng vòng suốt cả ngày hôm nay.
- Anh tưởng tượng xem, nó đã đến tận Mariannelund! - Bé Ida trầm trồ, rồi hỏi:
- Anh Emil, anh làm thế nào mà chui đầu vào cái liễn được thế?
- Có gì khó đâu, - Emil đáp. - Anh chỉ làm thế này này!
Đúng lúc đó mẹ bước vào bếp. Và thứ đầu tiên bà trông thấy là thằng bé Emil đang đứng đó với cái liễn chụp kín đầu. Emil ra sức lôi cái liễn ra, và con bé Ida thét toáng lên. Emil cũng thét toáng lên. Vì nó đang mắc cứng trong cái liễn y như lúc ban trưa.
Thế là mẹ chạy đi lấy thanh sắt chọc lò, thẳng tay đập vào cái liễn, khiến cả làng cùng nghe thấy. Choang! Cái liễn tan thành ngàn mảnh, rơi như mưa rào quanh người Emil.
Bố đang ở chuồng cừu, nhưng nghe tiếng động vội chạy vào.
Bố dừng lại trên ngưỡng cửa bếp, sững sờ hết nhìn Emil lại nhìn những mảnh vỡ dưới sàn, rồi đến thanh sắt chọc lò trên tay mẹ.
Chẳng nói chẳng rằng, ông quay gót trở lại chuồng cừu.
Nhưng hai hôm sau ông được Emil trả lại đồng năm xu. Chí ít đấy cũng là niềm an ủi nho nhỏ.
Phải, giờ thì bạn đã biết đại khái Emil là người như thế nào. Đó là thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày xảy ra sự cố với cái liễn súp. Nhưng có thể bạn muốn nghe thêm về một ngày Chủ nhật nọ. Đó là:

Chủ nhật, ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày Emil kéo bé Ida lên đỉnh cột cờ.

Chủ nhật, ngày mồng mười tháng Sáu, trang trại Katthult mở tiệc. Sẽ có nhiều khách đến từ làng Lönneberga, và từ những nơi khác nữa. Mẹ Emil bận bịu nấu nướng suốt mấy ngày nay.
- Sẽ tốn kém đấy, - bố Emil nói. - Nhưng đã ăn thì phải cho ra ăn! Chỉ cần đừng hà tiện. Mặc dù mình có thể nặn những viên thịt băm bé đi một tẹo.
- Em làm món thịt viên đúng chuẩn miễn chê. - Mẹ Emil nói. - Vừa đủ to, vừa đủ tròn, và rán vừa đủ độ.
Mà quả đúng thế. Ngoài ra mẹ còn làm món sườn, món thịt bê cuốn và món sa lát cá, rồi thì cá muối, bánh táo, lươn nấu đông, lại cả chè thạch, và hai cái bánh ngọt to tướng nữa, chưa kể còn món xúc xích đặc biệt, ngon đến nỗi nhiều người chẳng quản đường xa, thậm chí từ tít thị trấn Vimmerby và Hultsfred cũng sẵn sàng đánh đường đến tận đây để được thưởng thức.
Cả Emil cũng rất thích ăn loại xúc xích này.
Hôm nay quả là một ngày đẹp dành cho tiệc tùng. Mặt trời lên rực rỡ, những cây táo và tử đinh hương nở hoa. Tiếng chim hót ngập tràn không trung. Cả trang trại Katthult nằm trên triền đồi đẹp như một giấc mơ. Sân trước được dọn quang, mọi ngóc ngách trong nhà đều được quét tước sạch sẽ, các món ăn đã chuẩn bị xong. Chẳng còn thiếu thứ gì. Ồ không, vẫn còn thiếu một thứ đấy.
- Ồ chúng ta quên chưa kéo cờ lên rồi! - Mẹ Emil sực nhớ ra.
Thế là bố Emil vội vắt chân lên cổ chạy đến chỗ cột cờ, theo sát ông là Emil và bé Ida. Chúng muốn xem kéo cờ lên như thế nào.
- Tôi nghĩ lần này chúng ta sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và dễ chịu, - mẹ Emil bảo cô Lina khi chỉ có hai người trong bếp.
- Vâng, nhưng có sẽ lẽ chắc chắn hơn khi cứ nhốt Emil lại như lần trước ấy, bà nhỉ?
Mẹ Emil nhìn cô hầu gái đầy trách móc, nhưng không nói gì.
Thế là cô Lina vác mặt lên, lẩm bẩm:
- Cháu thì thế nào cũng được! Để rồi xem sẽ xảy ra chuyện gì.
- Emil là thằng bé dễ thương, - mẹ Emil nói rất quả quyết. Qua cửa sổ bếp, bà trông thấy thằng bé dễ thương đang chạy lăng quăng và chơi với em gái nó. Bà thấy hai đứa đều xinh đẹp như thiên thần: Emil trong bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, trên mái tóc bồng bềnh là chiếc mũ lưỡi trai, còn bé Ida mặc váy mới màu đỏ, một chiếc đai nơ trắng quấn quanh cái bụng mũm mĩm. Mẹ Emil cười tủm tỉm. Nhưng rồi bà lo lắng ngó xuôi con đường xuống là và nói:
- Không biết bao giờ ông Anton nhà tôi mới chịu kéo cờ lên đây, vì khách khứa của chúng ta có thể đến bất kỳ lúc nào.
Xem ra mọi việc rồi sẽ suôn sẻ. Nhưng thật bực quá - đúng lúc bố Emil đang bận bịu với lá cờ thì chú Alfred tất tả chạy từ phía chuồng bò đến, miệng kêu lên:
- Bò nhà ta đẻ! Bò nhà ta đẻ!
Tất nhiên đó là con bò cái Broka. Con bò hư thế thì thôi, nhè đúng lúc người ta đang bấn lên với hàng trăm thứ việc rồi lại còn phải kéo cờ mà đẻ cơ chứ!
Thế là bố đành bỏ tất cả đó để chạy xuống chuồng bò. Nhưng hai anh em Emil vẫn ở bên cột cờ.
Bé Ida ngửa cổ hết cỡ ngó lên quả cầu bằng vàng trên đỉnh cột cờ.
- Sao mà cao thế! - Cô bé nói. - Từ trên ấy thể nào cũng nhìn được tới tận Mariannelund!
Emil nghĩ ngợi, nhưng không lâu.
- Chúng mình có thể thử thật nhanh, - nó nói. - Có muốn anh kéo em lên trên ấy không?
Bé Ida bật cười. Ồ, anh Emil thật đáng yêu, lúc nào cũng có những sáng kiến đến là ngộ.
- Có, em muốn nhìn thấy Mariannelund! - Bé Ida đáp.
- Thì em sẽ thấy, - Emil ân cần nói. Nó cầm cái móc vốn dùng để móc lá cờ móc vào chiếc đai nơ ở bụng Ida. Xong đâu đấy nó cầm chắc dây kéo cờ bằng cả hai tay.
- Bắt đầu này, - Emil tuyên bố.
- Hi hi,- bé Ida cười.
Thế là bé Ida được kéo lên đến tận đỉnh cột cờ. Rồi Emil buộc thật chặt dây vào chân cột, giống như bố nó vẫn làm, vì nó không muốn làm Ida rơi xuống đất và bị đau. Lúc này bé Ida đã được neo chắc chắn và ngay ngắn hơn bao giờ hết ở trên kia.
- Có trông thấy Mariannelund không? - Emil gọi với lên hỏi.
- Không ạ, chỉ thấy làng Lönneberga thôi, - bé Ida hét xuống.
- Dào, chỉ thấy làng Lönneberga thôi à… thế đã muốn xuống chưa?
- Chưa, chưa đâu. Nhìn làng Lönneberga cũng thích lắm. Nhưng, ô kìa, khách đang đến kia kìa! Tất cả mọi người đang cùng đến kìa!
Và khách khứa kéo đến thật. Trên sân lớn của trang trại chẳng mấy chốc đã đầy xe và ngựa. Khách đã lũ lượt qua cổng tiến dần đến phía nhà chính.
Đi đầu là bà Petrell quý phái. Bà thậm chí đi xe ngựa từ mãi tận thị trấn Vimmerby đến đây để ăn món xúc xích của mẹ Emil. Bà là một phụ nữ rất đỏm dáng với chiếc mũ cắm lông đà điểu, khắp người chỗ nào cũng lộng lẫy. Bà hài lòng ngó quanh. Trang trại Katthult nằm phơi mình dưới nắng giữa những cây táo và tử đinh hương trông thật xinh đẹp. Ồ, mọi thứ ở đây đều tràn ngập không khí tiệc tùng, cờ cũng đã được kéo lên. Đúng, cờ đã được kéo lên, bà Petrell thấy rồi, cho dù bà hơi bị cận thị.
Cờ gì thế này? Bỗng bà Petrell dừng lại với vẻ vô cùng bối rối. Không hiểu vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult nghĩ ngợi ra sao mà lại như thế nhỉ? Đúng là không hiểu nổi.
Vừa lúc ấy bố Emil từ chuồng bò đi ra. Bà Petrell bèn gọi:
- Này Anton, bạn tốt nhất của tôi ơi, thế này là nghĩa làm sao hả? Sao nhà anh chị lại treo cờ Đan Mạch hả?
Emil đứng ngay cạnh bà. Nó không biết cờ Đan Mạch là gì. Nó đâu biết cờ Đan Mạch là tên lá quốc kỳ mang hai màu đỏ trắng của đất nước Đan Mạch, nơi những người Đan Mạch sinh sống. Nhưng có một điều nó biết chắc, ấy là cái vật mang hai màu đỏ trắng treo chót vót trên đỉnh cột cờ kia không phải là cờ Đan Mạch.
- Hi hi! Đấy chỉ là Ida thôi mà! - Emil nói.
Và bé Ida ở trên cao cũng bật cười.
- Hi hi, là con đây mà! - Cô bé reo lên. - Con nhìn được khắp cả làng Lönneberga.
Nhưng bố Emil không cười. Ông tất tả chạy tới hạ Ida xuống. Cô bé hớn hở:
- Từ cái lần anh Emil nhúng con vào thùng mứt dâu, mãi đến bây giờ con mới lại được vui như thế!
Ấy là Ida nhắc tới cái hôm hai anh em chơi trò thổ dân da đỏ, Emil đã nhúng em gái nó vào thùng mứt dâu để toàn thân cô bé đỏ au như một người da đỏ.
Phải, Emil luôn làm cho Ida vui. Thế mà chẳng ai thèm cảm ơn nó. Ngược lại thì có! Giờ đây bố tóm chặt cánh tay nó mà lắc lấy lắc để.
- Mình đã bảo mà, - cô Lina lẩm bẩm khi trông thấy hai bố con đi về phía xuởng mộc. Đây luôn là nơi Emil bị phạt giam sau mỗi lần nghịch dại.
Emil gào khóc.
- Chính nó muốn nhìn thấy Ma-ri-anne-u-nd đấy-chứ, - nó thổn thức.
Nó thấy bố khá là bất công. Chưa từng có ai dặn nó không được cho bé Ida nhìn thấy Meriannelund. Còn Ida không nhìn quá được làng Lönneberga thì đó đâu phải là lỗi của nó chứ!
Emil cứ thế mà khóc. Nhưng chỉ đến lúc bố khóa cửa xong bỏ đi là nó nín liền. Thực ra ở trong một xưởng mộc cũng thích đáo để. Trong này có bao nhiêu là mẩu gỗ và những tấm ván đầu thừa đuôi thẹo có thể dùng làm khối thứ. Mỗi lần bị phạt giam trong xưởng mộc sau một trò nghịch ngợm nào đó. Emil lại tự đẽo cho mình một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Nó đã đẽo được tất cả năm mươi tư hình nhân và xem ra con số này vẫn còn tăng đều đều.
- Mình thèm vào bữa tiệc thiu của họ, - Emil tự nhủ. - Nếu bố thích thì đi mà treo cờ lấy. Mình sẽ lại đẽo một hình nhân và mình sẽ cau có, cáu bẳn thật là lâu cho họ biết tay.
Emil biết bố lại sắp thả mình ra ngay thôi. Chưa bao giờ nó phải ngồi lâu trong xưởng mộc cả.
“Chỉ cần đủ để con suy nghĩ thấm thía về lỗi của mình và sẽ không tái phạm nữa”, bố luôn nói như vậy.
Còn Emil thì biết nghe lời ở chừng mực hiếm khi nó lặp lại lần thứ hai một trò nghịch ngợm, mà luôn nghĩ ra một trò mới toe.
Lúc này nó ngồi đây cặm cụi đẽo hình nhân và suy nghĩ về trò nghịch dại treo bé Ida lên. Hình nhân đã xong vì Emil đâu có nghĩ ngợi gì nhiều, mà nó lại đẽo gọt rất nhanh và thuần thục.
Bây giờ Emil muốn ra ngoài. Nhưng hẳn mọi người quá mải tiệc tùng nên đã quên mất nó. Nó đợi, đợi mãi, nhưng chẳng ai đến cả. Thế là Emil bèn nghĩ cách tự giải thoát.
Chui qua cửa sổ chăng? Cái đó không quá khó, Emil nghĩ. Cửa sổ ở trên cao thật, nhưng Emil có thể leo tuốt lên chồng ván xếp vô cùng thuận tiện ngay sát tường. Emil mở cánh cửa sổ, toan nhảy ra ngoài. Nhưng nó chợt thấy những chiếc lá han tua tủa mọc từ dưới lên bên ngoài cửa sổ. Emil đã từng sờ thử vào lá han nên quá rõ rồi, giờ không muốn lại bị nếm mùi nữa. “Mình đâu có điên”, nó tự nhủ. “Nhất định mình sẽ nghĩ ra chiêu gì đấy hay hơn”.
Nếu bạn đã từng đến trang trại như Katthult, thì bạn biết rằng ở đó có rất nhiều ngôi nhà mọc san sát nhau. Hễ cứ đến đấy là tự nhiên lại muốn chơi trò trốn tìm. Ở trang trại Katthult không chỉ có một kho cỏ, một chuồng dành cho ngựa lẫn bò, một chuồng lợn, một chuồng gà và một chuồng cừu, mà còn có một loạt các căn nhà nhỏ và kho. Có một nhà hun khói, nơi mẹ Emil hun món xúc xích tuyệt ngon của bà này, rồi nhà giặt, nơi cô Lina giặt tất cả quần áo chăn màn bẩn này, rồi còn có hai căn nhà nhỏ đứng kề nhau nữa. Trong một căn là kho củi và xưởng mộc, còn căn thứ hai là kho chứa đồ và kho thực phẩm.
Chiều chiều Emil và bé Ida thường chơi trốn tìm và len lỏi giữa những căn nhà này. Tất nhiên chúng không mò vào nơi có lá han mọc.
Nhưng đúng lúc này thì Emil hầu như chẳng chơi gì được. Nó phải chôn chân tại đây chỉ vì trên khoảng đất nhỏ xen giữa xưởng mộc và kho thực phẩm mọc lên quá nhiều lá han.
Emil nghĩ ngợi. Nhìn cửa sổ bên kho thực phẩm mở toang, nó nảy ra một sáng kiến. Hẳn là rất dễ dàng bắc một tấm ván từ cửa sổ xưởng mộc sang cửa sổ kho thực phẩm rồi bò qua bên đó. Nó đã ngồi trong xưởng mộc quá đủ lâu rồi, hơn nữa nó bắt đầu thấy đói bụng.
Một khi đã nảy ra ý hay thì Emil chẳng bao giờ mất công cân nhắc nữa. Loáng một cái, tấm ván đã sẵn sàng và Emil bắt đầu bò qua. Trông thật nguy hiểm, vì tấm ván thì mỏng mà Emil thì nặng.
“Nếu phen này thoát thì mình sẽ cho Ida con búp bê chăn cừu của mình, mình hứa đấy”, Emil vừa bò vừa lẩm bẩm. Tấm ván kẽo kẹt nghe ghê người. Khi nhìn thấy đám lá han phía dưới, Emil phát hoảng và loạng choạng.
- Cứu với! 
Nó kịp hét lên trước khi bị tuột khỏi tấm ván. Chỉ thiếu một chút nữa là nó bị rơi xuống đám lá han, nhưng đúng tích tắc cuối cùng nó quắp được hai cẳng chân vào tấm ván và lại đu người lên được. Lúc này nó đã bình tĩnh hơn và bò sang kho thực phẩm.
“Trò này thật chả khó gì”, nó lẩm bẩm. “Nhưng dù sao bé Ida vẫn được con búp bê… của mình... mình nghĩ thế... hay để lần khác… biết đâu đến lúc ấy nó cũng bị hỏng rồi… Ừ, phải tính xem nên làm thế nào…”.
Emil đẩy mạnh cho tấm ván tụt trở lại xưởng mộc. Với nó, mọi thứ cứ là phải đâu vào đấy. Nó chạy tới vặn thử cửa kho từ bên trong, nhưng cửa bị khóa.
- Mình biết ngay mà, - nó nói. - Nhưng thể nào họ cũng sắp đến lấy xúc xích, và mình sẽ biết một kẻ đào tẩu thành công.
Emil hểnh mũi hít hít. Mùi trong kho thực phẩm đến là thơm. Nhưng ở bàn tiệc cũng có bao nhiêu món ngon. Emil ngó quanh. Ô đúng rồi, ở đây cứ là tha hồ chén! Dưới trần nhà treo hàng dây nào đùi lợn hun khói, nào bánh tiết cuộn tròn, vì bố đặc biệt thích ăn bánh tiết với thịt lợn và nước sốt kem. Còn ở góc kho đằng kia, bên cạnh chiếc bàn gấp để đầy những bánh pho mát vàng ươm và những vại gốm đựng bơ tươi và chiếc hòm đựng đủ loại bánh mì. Phía sau bàn có cái thùng gỗ đựng đầy thịt lợn muối, còn bên cạnh là chiếc tủ lớn, nơi mẹ chuyên cất nào nước dâu ép, nào dưa chuột muối, nào lê, nào dâu đất. Nhưng ngăn giữa của tủ thì mẹ dành để cất loại xúc xích đặc sản của mẹ.
Emil rất khoái xúc xích, thật đấy!
Lúc này bữa tiệc ở trang trại Katthult đang vào lúc rôm rả nhất, khách khứa đã dùng cà phê và bánh ngọt. Lúc này họ chờ cho bụng ngơi bớt để có thể ăn thịt lợn rán, xa lát cá, xúc xích và nhiều món khác nữa.
Nhưng chợt mẹ Emil la lên:
- Ồ, chúng ta quên mất Emil! Nó đã bị phạt giam suốt từ nãy tới giờ, tội nghiệp thằng bé!
Bố Emil lập tức chạy tới xưởng mộc, có Ida te tái theo sau.
- Giờ con được phép ra rồi, Emil! - Bố vừa gọi vừa mở toang cánh cửa. Đoán xem ông ấy có ngạc nhiên không? Bên trong chẳng có Emil nào cả.
- Nó chuồn qua lối cửa sổ rồi, cái thằng ranh này, - bố nói.
Nhưng khi thò đầu ra và trông thấy bậu cửa sổ những bụi lá han vẫn mọc thẳng đứng mà không bị xéo nát thì ông đâm hoảng.
- Ở đây có cái gì không ổn, - ông nói. Không ai bước vào chỗ này cả, ít nhất cũng không một dấu chân người.
Bé Ida bắt đầu khóc. Anh Emil bị làm sao rồi? Cô Lina thường xuyên hát một bài hát rất buồn. Bài hát kể về một cô bé biến thành chim bồ câu bay lên trời và không còn phải ngồi trong cái thùng đinh gớm ghiếc mà người ta cầm tù nó. Anh Emil chẳng vừa bị giam là gì. Ai biết được liệu anh ấy có biến thành con gì để bay đi không! Bé Ida vội ngó quanh xem có con chim bồ câu nào quanh đó không. Nhưng vật duy nhất mà nó thấy là một con gà mái lông trắng, béo múp, đang luẩn quẩn bới giun trước xưởng mộc.
Con bé òa khóc, chỉ tay vào con gà:
- Hay anh Emil đây, - nó nói.
Bố không tin. Nhưng để cho chắc, bố chạy lại hỏi mẹ xem có bao giờ mẹ nhận thấy ở Emil một biểu hiện biết bay không.
Mẹ bảo không. Thế là trang trại Katthult trộn rộn cả lên. Chuyện ăn uống tạm gác lại sau cũng không sao. Mọi người chạy túa đi tìm Emil.
- Nhất định thằng bé phải ở trong xưởng mộc, - mẹ Emil nói. Thế là mọi người đổ xô tới đó tìm cho kỹ.
Nhưng ở đây chẳng thấy Emil nào cả. Chỉ thấy năm mươi lăm hình nhân nhỏ bằng gỗ xếp hàng ngang trên một cái giá. Bà Petrell chưa từng trông thấy một lúc nhiều hình nhân bằng gỗ như thế, bèn hỏi ai đã đẽo ra chúng.
- Chẳng ai khác ngoài thằng bé Emil nhà chúng tôi, - mẹ Emil đáp và bắt đầu khóc. - Thằng bé mới đáng yêu làm sao!
- Ồ phải, - cô Lina vừa nói vừa vác mặt lên. Đoạn cô nói thêm: - Tốt nhất là hãy tìm kiếm ở kho thực phẩm.
Ý kiến này của cô Lina không đến nỗi ngớ ngẩn. Mọi nguời lại kéo nhau chạy sang kho thực phẩm. Nhưng ở đấy cũng không có Emil nốt!
Bé Ida cứ khóc rấm rứt mãi. Khi chẳng bị ai nhìn, cô bé đến bên con gà mái lông trắng thì thào:
- Đừng bay lên trời, Emil yêu quý nhé! Em sẽ cho anh ăn thóc và cả xô đầy cơm thừa canh cặn, chỉ cần anh ở lại Katthult!
Nhưng con gà mái không muốn hứa hẹn gì cả, nó kêu lên quang quác và bỏ đi.
Khổ thân những người ở trang trại Katthult cứ nhọc công tìm kiếm! Họ sục vào kho củi, kho chứa đồ, chẳng ở đâu có Emil! Rồi trong chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng lợn, cả trong chuồng gà nữa - không có Emil! Trong chuồng cừu, trong nhà hun khói, nhà giặt - cũng không có Emil nốt! Cuối cùng họ nhòm xuống giếng. Dưới giếng cũng không thấy Emil, và thế là đáng mừng, nhưng giờ đây tất cả đều bật khóc. Và những người dân làng Lönneberga có mặt dự tiệc hôm nay rỉ tai nhau:
- Thật ra Emil là một thằng bé đáng yêu! Nó đâu phải là thằng bé nghịch như quỷ sứ… mà tôi cũng chưa bao giờ như thế đâu nhé!
- Chắc cu cậu ngã xuống suối mất rồi, - cô Lina nói. Con suối ở Katthult chảy xiết, rất dữ và nguy hiểm, trẻ con bé dễ bị chết đuối ở đây.
- Cháu nó không được phép ra đó, cô biết rõ rồi mà! - Mẹ Emil nghiêm khắc nói. Cô Lina vác ngay mặt lên.
- Thì chính vì thế mà lị! - Cô đáp.
Tất cả xô nhau chạy ra suối. May quá không tìm thấy Emil ở đó. Dầu vậy mọi người vẫn khóc nhiều hơn ban nãy. Thế mà mẹ Emil đã đinh ninh rằng họ sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm lắm!
Bây giờ thì chẳng còn chỗ nào để mà tìm nữa.
- Chúng ta biết làm gì bây giờ hả trời! - Mẹ Emil than.
- Dù sao cũng phải đi lấy cái gì ra ăn đã,- bố Emil nói, và ông có lý vì ai nấy đều đói sau một hồi lo lắng và tìm kiếm.
Mẹ Emil lập tức dọn tiệc. Khi bưng món sa lát cá ra, nước mắt bà rỏ cả vào đấy, nhưng bà vẫn đặt nó lên bàn, bên cạnh các món thịt bê cuộn, thịt lợn rán, bánh ngọt và nhiều món khác.
Bà Petrell liếm môi. Bàn tiệc trông đầy hứa hẹn. Nhưng chưa thấy món xúc xích thì bà còn chưa yên tâm.
Đúng lúc ấy mẹ Emil kêu lên:
- Cô Lina, chúng ta quên món xúc xích! Cô chạy đi lấy mau lên!
Cô Lina chạy liền, tất cả hồi hộp chờ đợi, còn bà Petrell gật gù:
- Ồ phải, xúc xích! Đúng lúc buồn thế này, ăn món ấy sẽ thấy ngon miệng đấy.
Cô Lina quay lại kia rồi. Không thấy xúc xích.
- Tất cả theo tôi, tôi chỉ cho xem cái này! - Cô Lina nói.
Trông cô có vẻ hơi bí hiểm, nhưng cô vẫn thế luôn nên chẳng ai để ý làm gì.
- Giờ cô lại nghĩ ra những trò gì ngu ngốc nữa đây? - Mẹ Emil nghiêm giọng hỏi.
Lina càng tỏ vẻ bí hiểm tợn, cô cười khe khẽ và là lạ.
- Cứ theo tôi, - cô nói. Thế là tất cả những ai đến dự tiệc tại Katthult đều đi theo cô.
Cô Lina le te chạy trước, còn mọi người ngạc nhiên theo chân cô đến kho thực phẩm. Suốt dọc đường cô Lina cứ cười khúc khích một mình, nghe lạ lắm. Cô đẩy cánh cửa kho nặng trịch, bước qua ngưỡng cửa khá cao, rồi dẫn mọi người đến trước cái tủ to, mở cánh cửa tủ khiến nó kêu cót két, và chỉ vào ngăn giữa, nơi mẹ Emil luôn cất xúc xích. Giờ ở đó tịnh chẳng thấy cái xúc xích nào, nhưng thấy Emil.
Thằng bé đang ngủ. Nó nằm giữa cả đống vỏ xúc xích mà ngủ, cái thằng bé đáng yêu nhất trần đời này! Còn mẹ nó thì sướng vui khôn tả, như thể bà vừa phát hiện trong tủ nhà mình cả một mỏ vàng. Có sao đâu, nếu Emil đã tọng hết vào bụng tất cả chỗ xúc xích! Tìm thấy Emil trong tủ lại chẳng ngàn lần tốt hơn là tìm thấy vài cân xúc xích ấy chứ! Cả bố Emil cũng nghĩ thế.
- Hi hi, anh Emil kia rồi! - Bé Ida hoan hỉ. - Anh ấy không bị phù phép, hoặc chỉ bị phù phép một tẹo.
Không thể tin nổi việc một thằng bé được tìm thấy sau khi ních căng một bụng xúc xích lại có thể làm nhiều người vui sướng đến thế.
Rốt cuộc ở trang trại Katthult vẫn diễn ra một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm. Mẹ Emil tìm thấy một chiếc xúc xích nhỏ còn sót lại do Emil chịu không ăn nổi nữa. Và bà Petrell mừng rõ đón nhận ngay. Tất cả những ai dù chẳng được ăn xúc xích, cũng không phải bụng đói ra về. Họ tha hồ chén thỏa thích thịt lợn rán, thịt bê cuốn, thịt viên, cá muối, cá nướng, chè thạch và lươn nấu đông. Kết thúc bữa tiệc. Họ còn tráng miệng món bánh ngọt tuyệt vời nhất phủ đầy thạch dâu và kem tươi.
- Bánh này ngon nhất trên đời! - Emil nói. Và nếu bạn từng được nếm một chiếc bánh ngọt như chiếc bánh ở Katthult, hẳn bạn biết Emil đã phát ngôn một câu chí lý.
Trời dần về chiều, hoàng hôn hiền hòa phủ bóng xuống trang trại Katthult, xuống làng Lönneberga và khắp vùng Smăland. Bố Emil hạ cờ xuống, Emil và bé Ida đứng xem bên cạnh.
Rồi tiệc tàn. Tất cả lên đường ai về nhà nấy. Những cỗ xe nối đuôi nhau lăn bánh. Bà Petrell quý phái rời Katthult sau cùng trên cỗ xe ngựa. Emil và bé Ida còn nghe tiếng vó ngựa lộp cộp lắng dần giữa những triền đồi.
- Mong là bà ấy tử tế với con chuột của anh, - Emil nói.
- Chuột nào cơ? - Bé Ida hỏi.
- Con chuốt mà anh đút vào xắc tay bà ấy chứ con chuột nào, - Emil đáp.
- Sao anh lại làm thế? - Bé Ida hỏi.
- À, tại anh thương con chuột, - Emil đáp. - Suốt đời nó chẳng nhìn thấy gì ngoài cái tủ to đựng xúc xích. Anh nghĩ, làm như thế chí ít con chuột cũng một lần được nhìn thấy thị trấn Vimmerby.
- Nếu bà Petrell tử tế với nó, - bé Ida nói.
- Ồ, nhất định là bà ấy tử tế với nó rồi, - Emil nói.
Đó là ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày mà Emil treo bé Ida lên đỉnh cột cờ và xơi hết chỗ xúc xích. Có lẽ bạn còn muốn nghe chuyện cuối cùng xảy ra vào ngày mồng 8 tháng Bảy. Ấy là:

Chủ nhật ngày mồng 8 tháng Bảy, ngày Emil “sống cuộc đời vui nhộn” tại lễ hội vùng Hultsfred.

Chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult, rất yêu trẻ con. Đặc biệt là Emil. Emil ngỗ nghịch và ương ngạnh, nhưng chú Alfred chẳng bận tâm. Chú vẫn yêu quý Emil như thường và đẽo cho nó một khẩu súng gỗ đẹp tuyệt vời. Trông y như một khẩu súng thực thụ, mặc dù tất nhiên không thể dùng để bắn rồi.
Vậy mà Emil vẫn vừa bóp cò khẩu súng của nó vừa hét: “Pằng! Pằng!”, khiến nhiều ngày trời lũ chim sẻ ở trang trại Katthult không dám thò ra khỏi tổ. Emil yêu khẩu súng của nó đến nỗi ban đêm nó muốn đem súng cả lên giường ngủ.
- Đưa con cái “sún”! - Nó gào lên giọng địa phương đặc sệt và bất bình khi mẹ hiểu sai, tất tả mang “mú” đến cho nó.
- Con không muốn cái “mú”, - nó hét lên. - Con muốn cái “sún”!
Thế là nó được toại nguyện.
Phải, Emil yêu khẩu súng, Nhưng nó còn yêu chú Alfred, người đã đẽo khẩu súng cho nó hơn nữa. Vì thế việc Emil khóc khi chú Alfred lên đường đến Hulsfred làm nghĩa vụ quân sự chẳng có gì là lạ.
Hẳn bạn không hiểu người ta làm gì khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhưng bạn thấy đấy, trước kia người ta vẫn gọi thế khi đi lính. Tất cả đầy tớ trai ở làng Lönneberga và ở đâu cũng vậy thôi, đều phải làm nghĩa vụ quân sự và trở thành người lính.
- Lại nhè đúng lúc nhà ta đang định chở rơm về cơ chứ, - bố Emil phàn nàn.
Bố chẳng muốn mất chú Alfred vào giữa mùa thu hoạch chút nào vì như thế trang trại Katthult sẽ rất bấn người. Nhưng bố có phải là người quyết định bao giờ đám đầy tớ trai trong làng Lönneberga phải đến Hulsfred để làm lính đâu, mà chính là đức vua và đám tướng lĩnh của ngài chứ. Hơn nữa, rồi chú Alfred sẽ lại trở về nhà sau khi được huấn luyện xong - mà cũng chẳng lâu đâu. Thế nên thật ra Emil cần gì phải khóc, nhưng nó vẫn cứ khóc, cả cô Lina nữa. Là vì đâu chỉ có một mình Emil yêu quý chú Alfred.
Chú Alfred không khóc. Chú bảo: “ở Hulsfred người ra có thể sống cuộc đời vui nhộn và nói chung là rất sướng”. Khi chiếc xe chở chú Alfred rời bánh và mọi người buồn bã đứng vẫy tay tiễn biệt, thì chú nhỏm phắt dậy vừa hát vừa reo lên hoan hỉ để mọi người hết lo lắng. Bài hát mà chú hát như sau:

Nơi thành phố Eksjö lễ hội sớm trưa
Thiên hạ vui cười nhảy múa say sưa,
Cứ xem các cô nàng Hulsfred đong đưa,
Thế nào một cô cũng bị tớ cưa.
Halli halllo, tớ sướng chưa,
Halli halllo, tớ sướng chưa!

Rồi không ai còn nghe được tiếng hát của chú Alfred nữa, vì cô Lina bắt đầu khóc tu tu, khóc to hết cỡ. Lát sau chiếc xe chở chú Alfred khuất sau lối rẽ.
Mẹ Emil tìm cách an ủi cô Lina:
- Thôi đừng buồn thế, Lina! Cô chịu khó đợi đến ngày mồng 8 tháng Bảy có lễ hội ở Hultsfred, rồi chúng ta sẽ tới đó thăm Alfred.
- Con cũng muốn tới Hultsfred để sống một cuộc đời vui nhộn và thăm chú Alfred,- Emil tuyên bố.
- Con nữa! - Bé Ida nói.
Nhưng mẹ lắc đầu.
- Những lễ hội như thế không phải dành cho trẻ con bé. Trẻ con đến đấy chỉ tổ bị lạc đường giữa đám đông chen chúc mà thôi.
- Con thấy bị lạc giữa đám đông mới vui, - Emil nói. Nhưng chẳng ăn thua gì.
Ngày mồng 8 tháng Bảy bố mẹ cùng cô Lina đi Hultsfred dự lễ hội từ sáng sớm, để Emil và bé Ida ở nhà cho bà Krösa-Maja trông coi. Krösa-Maja là một bà lão nhỏ bé thỉnh thoảng vẫn đến Katthult giúp dăm ba việc lặt vặt.
Bé Ida là một đứa trẻ ngoan ngoãn. Cô bé lập tức ngồi vào lòng bà Krösa-Maja và xin bà kể cho mình nghe một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất của bà. Thế thôi đã đủ khiến Ida mãn nguyện và hạnh phúc.
Nhưng Emil thì khác. Tay lăm lăm khẩu súng gỗ, nó đi ra chuồng ngựa, bước chân giận dữ đến mức gót giầy kêu lên ken két.
- Mình đừng hòng cam chịu, - Emil nói. - Mình muốn đến Hultsfred sống cuộc đời vui nhộn y như những kẻ khác, mình đã quyết rồi đấy. Mày có hiểu không hả, Julla?
Câu hỏi cuối cùng nó dành cho con ngựa cái già đang gặm cỏ trên bãi cỏ phía sau chuồng. Ở trang trại Katthult còn có một chú ngựa non tên là Markus. Nhưng Markus đang trên đường chở bố mẹ và cô Lina đi Hultsfred. Thế đấy, những người khác thì được phép đi chơi xa và vui vẻ.
- Nhưng tao biết có hai kẻ sẽ đuổi kịp họ, khiến họ ù cả tai lên, - Emil nói. - Đó là mày và tao đấy, Julla ơi!
Đã nói là làm. Emil đóng dây cương vào con ngựa cái già Julla và dắt nó rời bãi cỏ.
- Mày không việc gì phải sợ,- nó bảo Julla. - Chú Alfred sẽ rất mừng khi tao đến, và chắc chắn mày sẽ tìm được bà ngựa già đáng mến khác để cùng ngồi buôn chuyện, nếu mày cũng muốn nếm mùi cuộc đời vui nhộn tý chút.
Emil lùa con ngựa đến bên cổng trang trại, vì nó cần có bước đệm để leo lên ngựa. Cái thằng nhóc này đúng là tinh ranh thật!
- Nào, lên đường! - Nó nói, - Halli hallo, tớ sướng chưa! Chúng ta sẽ chào tạm biệt bà Krösa-Maja  khi trở về.
Thế là con Julla đi nước kiệu xuôi theo những triền đồi, còn Emil ngồi ngay ngắn và can trường trên lưng ngựa với khẩu súng trước ngực. Đúng, phải mang khẩu súng theo, nếu bây giờ chú Alfred là lính thì Emil cũng muốn như chú. Chú Alfred có súng của chú, thì Emil có súng của nó, hai khẩu gần như là một, cả hai chú cháu đều là lính, phải thế chứ, Emil nghĩ.
Con Julla đã già, không thể đi nhanh. Để con ngựa không bị mất hứng, Emil bèn hát cho nó nghe.

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió,
Rệu rã rồi, chân cẳng nó.
Có hề chi?
Cõng tớ, nó vẫn đàng hoàng phi,
tuy nước kiệu hơi chậm tí ti -
trên những con đường phẳng lỳ.

Dù con Julla hết đi nước kiệu lại giậm chân tại chỗ hoặc lê từng bước mệt mỏi, thì cuối cùng cả hai đứa, nó và Emil, cũng vẫn đến được Hultsfred.
- Ha! - Emil reo. - Cuộc đời vui nhộn bắt đầu!
Nhưng thằng bé bỗng im tịt và trố mắt lên. Cố nhiên nó biết trên thế giới có rất nhiều người, nhưng nó ngờ đâu tất cả số người ấy lại đổ dồn về đông nghìn nghịt trên bãi cỏ rộng dành cho lễ hội Hultsfred. Chưa bao giờ Emil nhìn thấy người đông đến thế, hàng ngàn người đang xúm xít xung quanh bãi cỏ, trên khoảng trống ở giữa là các chú lính đang bồng súng trên vai, rồi tập quay phải, quay trái, đủ thứ như lính vẫn quen làm. Một ông già béo, lùn, vẻ mặt dữ tợn, cứ cưỡi ngựa chạy vòng quanh và hò hét bắt các chú lình làm thế này, làm thế nọ. Vậy mà các chú lính cũng chịu, nhất nhất làm theo ý ông ta. Emil thấy kỳ cục.
- Chú Alfred không phải là người ra lệnh ở đây hay sao? - Nó hỏi mấy thằng bé nông dân đứng cạnh đó. Nhưng lũ này còn mải xem các chú lính nên không trả lời nó.
Emil khá thích thú xem cảnh các chú lính bồng súng trên vai, nhưng không được lâu. Chỉ một lát sau nó đã nghĩ phải gặp chú Alfred, vì xét cho cùng nó đến đây là để thăm chú ấy. Nhưng tất cả các chú lính đều mặc quân phục màu tím than và giống như như đúc. Tìm ra chú Alfred giữa cái đám này đây có dễ.
- Ô hô, hay chờ tới lúc chú Alfred trông thấy tao. - Emil bảo con Julla. - Rồi chú ấy sẽ chạy ù đến với tao, còn lão già độc ác kia nếu thích thì đi mà múa may với khẩu súng.
Và để chú Alfred có thể nhìn thấy mình. Emil cưỡi ngựa đi qua tất cả các chú lính, miệng hét to hết cỡ:
- Chú Alfred, chú ở đâu? Lại đây chú ôi, rồi chúng ta sẽ sống một cuộc đời vui nhộn! Chú không thấy cháu hay sao, chú Alfred ơi?
Có chứ, tất nhiên chú Alfred có trông thấy Emil đến. Emil với “mú” “sún” của nó trên lưng con ngựa cái già Julla. Nhưng chú Alfred đang đứng giữa đám lính và không dám đi ra vì sợ lão béo già lùn độc ác suốt nãy giờ cứ hò hét và ra lệnh kia.
Thay vì chú Alfred, lão già béo lùn độc ác cưỡi ngựa đến bên Emil và hỏi một câu ân cần:
- Chuyện gì xảy ra vậy, cậu bé của ta? Cháu bị lạc bố mẹ sao?
Đây là câu hỏi ngu ngốc nhất mà đã từ lâu lắm Emil mới nghe thấy.
- Cháu đâu có bị lạc, cháu đang ở đây cơ mà! - Nó đáp. - Nếu có người đang bị lạc thì đó là bố mẹ cháu.
Mà nó nói chí phải. Trẻ con bé có thể bị lạc nơi lễ hội rộng lớn ở Hultsfred, mẹ đã bảo thế. Vậy mà sự thực giờ đây chính bố cùng mẹ và cô Lina đang kẹt cứng giữa đám đông và cả ba đều cảm thấy tuyệt vọng chẳng khác gì trẻ lạc, vì không ai trong số họ nhúc nhích nổi một bước.
Nhưng Emil thì họ có trông thấy, thật thế! Họ nhìn thấy họ đến trên lưng con ngựa cái già với đầy đủ “mú”“sún”. Bố Emil nói:
- Bây giờ phải lôi được thằng Emil về, bắt ngồi đẽo một hình nhân mới.
- Được rồi, - mẹ bảo. - Nhưng làm sao túm được nó đây?
Phải, vấn đề là thế! Nếu bạn đã từng dự lễ hội ở Hultsfred, bạn sẽ hiểu ở đó đông đúc và nhộn nhạo tới mức nào.
Đám lính vừa tập tành xong và rầm rập đi khỏi, lập tức cả sân bãi rộng mênh mông này tràn ngập người là người. Khi ấy ta có cảm giác dường như không thể tìm ra chính bản thân mình nữa, huống hồ tìm ra Emil.
Không riêng bố mẹ Emil tìm nó, mà cả chú Alfred cũng tìm nó. Vì lúc này chú đã được tự do, không phải tập tành gì nữa. Lúc này chú muốn vui chơi cùng Emil. Nhưng đơn giản là không thể tìm ra ai giữa cái đám đông lễ hội này. Hầu như tất cả những người có mặt tại đây đều đang nháo nhác chạy quanh tìm kiếm ai đó. Chú Alfred tìm Emil còn Emil tìm chú Alfred, mẹ tìm Emil, cô Lina tìm chú Alfred, còn bố tìm mẹ.
Phải, mẹ đã bị lạc khá lâu. Sau hai tiếng đồng hồ chạy đôn chạy đáo, rốt cuộc bố mới tìm thấy mẹ đang vô cùng tuyệt vọng và kẹt cứng giữa hai người đàn ông cao lớn kềnh càng đến từ thị trấn Vimmerby.
Nhưng Emil chẳng tìm thấy ai, cũng không ai tìm thấy nó. Vậy là Emil hiểu nó đành phải một mình bắt đầu cuộc đời vui nhộn vậy, nếu muốn vớt vát được tí chút.
Thế nhưng trước khi có thể bắt đầu, Emil còn phải lo tìm cho Julla một con ngựa già nào đó để cùng buôn chuyện đã, nó trót hứa thế rồi.
Emil chẳng kiếm đâu ra một bà bạn già cho Julla. Nhưng nó tìm được con Markus, như thế càng hay. Bị buộc vào thân cây, con Markus đang đứng nhai rơm bên rìa rừng phía sau. Sát cạnh nó là cỗ xe ngựa của trang trại Katthult mà Emil quá quen thuộc. Con Julla mừng ra mặt khi trông thấy con Markus. Emil bèn buộc nó vào cùng thân cây với con Merkus và lấy từ trên xe xuống một ôm cỏ khô. Thời đó người ta luôn chở cỏ khô theo cho ngựa. Ngay lập tức con Jullia bắt đầu ăn và Emil cảm thấy mình cũng đã đói bụng.
- Mặc dù thật ra mình không ăn cỏ khô, - Emil nói.
Mà cũng tội gì phải ăn. Ở lễ hội đầy rẫy những gian hàng nhỏ, nơi người ta có thể mua bánh mì bơ, xúc xích, bánh mì con và bánh ngọt bao nhiêu tùy thích, miễn là có tiền.
Còn với kẻ nào muốn sống cuộc đời vui nhộn thì ở đây cũng có cơ man trò chơi giải trí: một rạp xiếc này, một sàn nhảy này, và một sân chơi đu quay và nhiều thú vui khác… Bạn thử hình dung xem, ở đây thậm chí còn có cả một nghệ sĩ nuốt kiếm, rồi một nghệ sĩ nuốt lửa - ông ta nuốt được lửa, rồi lại một quý cô xinh đẹp lộng lẫy có râu quai nón - nhưng cô này không nuốt được gì khác ngoài cà phê và bánh mì sau mỗi giờ đồng hồ. Tất nhiên cô ta không thể làm giàu nổi với cái tài mọn đó, nhưng may mà còn có bộ râu. Cô ta phô bộ râu để thu tiền, và cũng kiếm được kha khá.
Ở lễ hội Hultsfred cái gì cũng phải trả tiền. Mà Emil lại chẳng có tiền. Thế nhưng nó lại là một thằng nhóc tinh ranh, như tôi đã nói. Emil muốn xem được càng nhiều càng tốt và nó bắt đầu từ rạp xiếc, vì việc đó dễ nhất. Nó chỉ cần trèo lên một cái hòm đằng sau rạp, rồi ngó qua một lỗ thủng trên lều rạp.
Thế nhưng tiết mục của chú hề đang nhảy nhót và chọc cười trên sàn diễn khiến Emil cười khiếp quá, đến mức nó ngã huỵch khỏi cái hòm, đầu va vào một hòn đá. Thế là nó nhổ toẹt vào rạp xiếc. Hơn nữa nó thấy đói bụng, bụng còn cồn cào hơn cả ban nãy.
- Một cuộc đời vui nhộn mà không có gì ăn thì cũng vứt đi, - Emil nói. - Mà không có tiền thì lấy gì ăn. Vậy mình phải nghĩ cách thôi.
Nó đã thấy người ta có rất nhiều cách kiếm tiền ở lễ hội, vậy cũng phải có cách nào cho nó chứ. Lửa và kiếm thì nó chịu không nuốt được rồi, râu nó cũng chẳng có - nó nên làm gì đây?
Emil cứ đứng đực ra mà nghĩ ngợi. Rồi nó thấy một ông già mù nghèo khổ ngồi trên một cái hòm ngay giữa đám đông. Ông già ca những bài ca u buồn nhất, nghe rất thê lương, thế mà ông lại được thưởng tiền. Ông đặt dưới đất, ngay bên cạnh chân mình, một cái mũ và những người thân thiện đi ngang cứ bỏ xu vào đấy suốt.
Mình cũng làm được tốt, Emil nghĩ, may quá mình có mang “mú” theo. Nó bèn đặt cái mũ xuống đất, ngay trước mặt, sửa tư thế đứng và bắt đầu hát cho những ai muốn nghe:
Con ngựa của tớ chẳng phi như gió…
Thoáng cái, một đám đông đã bu kín quanh nó.
- Ồ, một chú bé mới dễ thương làm sao! - Họ nói. - Chắc nó phải nghèo lắm mới ra đây đứng hát kiếm tiền.
Thời đó có nhiều trẻ em nghèo chẳng có gì ăn. Lúc này một quý bà thân thiện tiến đến gần Emil và hỏi:
- Anh bạn nhỏ của tôi, hôm nay cháu đã có gì ăn chưa?
- Thưa có, nhưng chỉ là cỏ khô thôi ạ, - Emil đáp.
Câu trả lời khiến ai nấy đều thương xót. Một bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena ứa nước mắt. Bác ta khóc vì thương đứa trẻ nghèo rất đỗi cô đơn đang đứng đó với mái tóc bồng bềnh mới đẹp làm sao.
Tất cả bèn đua nhau bỏ vào “mú” của Emil những đồng hai xu, năm xu và mười xu. Bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena lục tìm trong hầu bao đồng hai xu, nhưng rồi bác ta kịp nghĩ lại trước khi quá muộn và đút tọt đồng tiền trở lại túi mình. Bác ta thì thào bảo Emil:
- Nếu chú mày đi cùng với ta đến chỗ ta để xe, chú mày có thể lấy thêm ít cỏ khô!
Nhưng bây giờ Emil đã giàu với một cái mũ đầy tiền. Nó chỉ muốn bỏ đi và mua cho mình thật nhiều bánh mì bơ, bánh mì con, bánh ngọt và nước quả.
Sau khi đã ních tất cả vào bụng, Emil bỏ ra bốn đồng và hai mươi xu để đi bốn mươi hai vòng đu quay. Trước đây nó chưa từng được đi đu quay nên không hề biết trên thế gian lại có trò vui nhộn như thế.
Rõ ràng mình đang sống một cuộc đời vui nhộn, Emil nghĩ khi ngồi quay tròn trên đu quay, khiến mái tóc bồng bềnh của nó tung bay. Từ bé mình đã biết nhiều trò vui nhưng trò này thì chưa.
Rồi nó đi xem nghệ sĩ nuốt kiếm, nghệ sĩ nuốt lửa và quý cô có râu quai nón. Thưởng thức xong những trò đó nó chỉ còn thừa lại hai xu.
Mình có thể hát thêm một bài hát nữa và lại làm đầy “mú” của mình, Emil nghĩ. Ở đây ai ai cũng thân thiện thế cơ mà.
Nhưng rồi nó cảm thấy buồn ngủ. Nó không muốn hát nữa, cũng không muốn có tiền nữa. Thế là nó đem đồng hai xu cho ông lão mù. Sau đó nó chạy loăng quăng một chút và tìm chú Alfred.
Nếu Emil nghĩ rằng ai ai cũng thân thiện thì nó đã nhầm. Thế nào hôm ấy chẳng có kẻ này hay kẻ khác xấu xa độc ác cũng mò đến Hultsfred dự lễ hội. Thời đó trong vùng có một tên trộm khét tiếng đang tác oai tác quái. Hắn được gọi là Quạ Đen. Khắp vùng Smăland đều sợ hắn. Người ta có thể đọc trên tờ “Nhật báo Smăland ” và trên tờ “Bưu điện Hultsfred” về những vụ trộm cướp mà hắn gây ra. Bất kỳ ở đâu có hội hè, họp chợ hoặc cứ ở đâu có người và tiền tụ hội, là thế nào Quạ Đen cũng xuất hiện và trộm cắp những gì hắn có thể khoắng được. Để không ai nhận dạng được mình, mỗi lần hắn lại gắn một bộ râu và bộ ria khác. Lúc này hắn đã mò đến lễ hội Hultsfred và với chiếc mũ mềm rộng vành đen sì cùng bộ ria giả cũng màu đen, hắn đang len lỏi quanh đó để xem xem có gì thó được không. Không ai biết kẻ phất phơ lượn lờ kia chính là Quạ Đen, nếu biết thì hẳn tất cả đã sợ phát khiếp.
Nhưng giá mà Quạ Đen thông mình thì hắn đã không mò tới lễ hội Hultsfred vào đúng cái ngày mà Emil từ làng Lönneberga cũng có mặt ở đó với khẩu súng gỗ của nó.
Lúc này Emil lặng lẽ đi loanh quanh tìm chú Alfred. Nó đi ngang qua căn lều của quý cô có bộ râu quai nón và tình cờ nhìn qua cửa lều thấy cô ta đang ngồi đếm tiền. Hẳn cô ta muốn biết trong cái ngày Chủ nhật may mắn duy nhất ở Hultsfred này mình đã kiếm được bao nhiêu tiền nhờ bộ râu.
Chắc số tiền không ít, vì cô ta cười tủm tỉm, hài lòng vuốt râu. Sau đó cô ta phát hiện ra Emil.
- Cứ vào trong này đi, cậu bé, - cô ta gọi. - Cậu cứ việc vào ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí. Vì trông cậu rất dễ thương.
Thật ra Emil ngắm bộ râu rồi, nhưng đã được mời thì tội gì nó từ chối. Mà bởi lần này được miễn phí hoàn toàn, nên nó bước vào trong lều - với đủ cả mũ lẫn súng - định bụng sẽ ngắm quý cô có râu một cách hào phóng, với quãng thời gian mà lẽ ra nó phải chi hai mươi lăm xu.
- Làm thế nào mà cô nuôi được bộ râu đẹp thế ạ? - Nó lịch sự hỏi.
Nhưng quý cô có râu chưa kịp trả lời thì một giọng ghê sợ rít lên:
- Đưa ngay tiền ra đây, nếu không ta sẽ vặt trụi bộ râu của ngươi!
Đó là Quạ Đen, hắn đã lẻn vào lều lúc nào không ai hay biết.
Quý cô có râu tái mét cả mặt mũi - cố nhiên trừ chỗ râu mọc. Người phụ nữ đáng thương đang định trao hết số tiền cho Quạ Đen thì Emil thì thào bảo:
- Cầm lấy súng của cháu này!
Quý cô có râu cầm lấy khẩu súng gỗ mà Emil thận trọng dúi cho. Trong lều khá tối nên không thể nhìn rõ vật gì. Quý cô có râu đinh ninh là khẩu súng thật và có thể bắn được. Nhưng hay hơn tất cả là chính Quạ Đen cũng tưởng như vậy:
- Giơ tay lên không ta bắn! - Quý cô có râu thét.
Bây giờ tới lượt Quạ Đen tái mét mặt, hắn giơ tay lên quá đầu, người run lẩy bẩy, trong khi quý cô có râu la toáng lên gọi cảnh sát, đến nỗi khắp khu vực lễ hội đều nghe thấy.
Cảnh sát đến, và kể từ đó người ta không bao giờ còn nhìn thấy Quạ Đen nữa, dù ở Hultsfred hay bất kỳ đâu, và nạn trộm cắp ở Smăland cũng chấm dứt. Phải, phải, chuyện là thế đấy. Quý cô có râu quai nón trở nên tiếng tăm lừng lẫy, vì đã bắt được Quạ Đen. Nhưng chẳng ai viết một dòng về Emil và khẩu súng gỗ của nó. Vì vậy tôi cho rằng đã đến lúc phải có ai đó kể lại diễn biến thực sự của câu chuyện.
- May quá cháu đã đem theo cả “mú”“sún” đến Hultsfred. - Emil nói khi cảnh sát giải Quạ Đen đi để bỏ tù hắn.
- Phải, cháu là một cậu bé ngoan, - quý cô có bộ râu quai nón nói. - Vì vậy cháu được phép ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí, bất kể lúc nào cháu muốn.
Nhưng Emil đã thấm mệt. Nó chẳng thiết ngắm bộ râu nào nữa, cũng chẳng thiết sống cuộc đời vui nhộn hay bất cứ thứ gì khác nữa. Nó chỉ muốn ngủ. Vì lúc này bóng tối đã phủ xuống khắp khu vực lễ hội ở Hultsfred. Một ngày dài đã trôi qua, vậy mà Emil vẫn chẳng tìm thấy chú Alfred!
Bố mẹ và cô Lina cũng mệt rồi. Họ đã tìm kiếm Emil khắp nơi khắp chốn, bây giờ chẳng ai còn hơi sức đâu mà tìm tiếp.
- Ôi, chân tôi ê ẩm này, - mẹ than vãn, còn bố cau có gật đầu.
- Phải, những lễ hội kiểu này vui gớm, - bố nói. - Nào ta quay về Katthult thôi. Chẳng còn cách nào khác đâu.
Thế là họ lê bước đi đến bìa rừng để thắng ngựa vào xe lên đường.
Rồi họ trông thấy con Julla bị buộc vào cùng một thân cây với con Markus và đang nhai rơm.
Mẹ Emil òa lên khóc.
- Ôi trời, Emil bé bỏng của tôi đâu rồi? - Mẹ nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên.
- Nó thì có bao giờ là không gây rắc rối đâu, cái thằng ngỗ nghịch ấy. Nó đúng là đồ quỷ sứ,- cô nói.
Vừa lúc họ nghe tiếng ai đang chạy lại, người đó thở không ra hơi. Đó là chú Alfred.
- Emil đâu? Tôi tìm nó suốt cả ngày.
- Nó ở đâu tôi không cần biết, - cô Lina nói, rồi ngúng ngẩy bỏ lên xe để đi về nhà.
Và bạn hãy tưởng tượng xem, cô giẫm luôn phải Emil! Trên xe vẫn còn lại ít cỏ khô. Emil nằm trên đống cỏ khô ấy, ngủ khì khì. Nhưng nó thức giấc khi bị cô Lina giẫm phải, và trông thấy một người mặc quân phục màu xanh lơ đang thở hổn hển đứng ngay cạnh xe. Nó bèn giơ một cánh tay quàng lên cổ chú Alfred.
- Chú đây rồi, chú Alfred! - Nó nói và lại ngủ thiếp đi.
Thế là cả nhà lên đường đi về Katthult. Con Markus phải kéo xe, còn con Jullia - được buộc vào xe - tấp tểnh chạy theo sau. Thi thoảng Emil tỉnh giấc giữa chừng, trông thấy cánh rừng thẫm đen và bầu trời đêm mùa hạ trong trẻo. Nó ngửi thấy mùi cỏ khô, mùi ngựa, mùi đêm tối, nghe tiếng vó ngựa cộp cộp và tiếng bánh xe cót két. Còn nói chung nó ngủ suốt quãng đường và mơ thấy chú Alfred sắp được giải ngũ về nhà. Về Katthult với Emil. Và cũng đúng là chú sẽ về thật.
Đó là ngày mồng 8 tháng Bảy, ngày mà Emil sống cuộc đời vui vẻ ở lễ hội tại Katthult. Bạn nghĩ sao, liệu hôm ấy có còn ai nữa cũng tìm Emil không? Bạn hãy hỏi bà lão Krösa-Maja ấy! Đừng, tốt hơn bạn đừng hỏi, kẻo bà Krösa-Maja lại tức giận đến đỏ ửng cả hai cánh tay lên, đến cả ngày cũng chưa hết đỏ cho mà xem.
Giờ thì bạn đã nghe Emil làm những gì trong các ngày mồng 7 tháng Ba, 22 tháng Năm, mồng 10 tháng Sáu và mồng 8 tháng Bảy, nhưng còn nhiều ngày khác trong lịch của một đứa muốn bày trò nghịch ngợm như Emil. Gần như hàng ngày, trong suốt cả năm, thằng bé lúc nào cũng gây chuyện, nhưng đặc biệt là vào các ngày 19 tháng Tám, 11 tháng Mười và mồng 3 tháng Mười Một.
Hô hô hô, tôi không thể nín cười khi nghĩ đến chuyện Emil đã làm trong ngày mồng 3 tháng Mười một.
Nhưng tôi chẳng kể ra đâu, tôi đã hứa với mẹ của Emil rồi. Mặc dù sau đó dân làng Lönneberga đã phải tổ chức một cuộc họp nội bộ. Họ thấy thương cho vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult có thằng con ngỗ nghịch. Vì vậy họ họp lại và mỗi người đóng góp năm mươi xu. Sau đó bỏ chỗ tiền vào một cái túi vải nhỏ và cùng tìm gặp mẹ Emil.
- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ, - họ nói.
Phải, nếu chuyện đó xảy ra nhỉ! Gửi Emil sang Mỹ…
Nếu chuyện đó xảy ra, có trời biết rồi họ sẽ lấy ai làm chủ tịch hội đồng xã cho họ đây? Là tôi muốn nói về sau này, khi Emil đã thành đạt ấy.
May mà mẹ Emil không nghe theo những đề nghị ngu xuẩn kiểu đó. Bà nổi giận, quăng luôn túi tiền đi, khiến những đồng tiên xu bay vung vãi khắp làng Lönneberga.
- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Và chúng tôi yêu nó như nó vốn thế!
Mặc dù vậy chắc bà vẫn lo lắng cho Emil. Các bà mẹ bao giờ cũng thế, nếu người khác phàn nàn về con mình.
Tối đến, khi Emil nằm trên giường với “mú”“sún” của nó, mẹ bèn vào ngồi với nó một lát.
- Emil, - mẹ nói. - Con sắp lớn và sắp đi học. Sẽ ra sao đây, nếu con cứ là một cậu bé nghịch ngợm và quậy phá như thế này?
Emil nằm trên giường và trông chẳng khác gì một thiên thần nhỏ với đôi mắt xanh tròn và mái tóc bồng bềnh sáng màu.
- Halli hallo, tớ sướng chưa, - nó hát, vì nó chúa ghét nghe những chuyện đại loại như thế.
- Emil, - mẹ nghiêm giọng nói. - Con nghĩ thế nào, sẽ ra sao khi bắt đầu khai giảng?
- Thôi được, - Emil cười. - Thì con sẽ thôi quậy, con nghĩ thế… nếu con đi học.
Mẹ nó thở dài.
- Phải, bố mẹ mong là như vậy, - mẹ nói và đi ra cửa.
Thế là Emil nhỏm đầu ngó qua thành giường, nhoẻn cười như một thiên thần nhỏ và nói:
- Dù sao, chắc gì sẽ là như vậy!

Emil phải đẽo nhiều hình nhân nữa

Thứ Bảy, ngày 28 tháng Bảy, ngày Emil trút bột nhão trộn tiết lên đầu bố và phải đẽo hình nhân bằng gỗ thứ 100.
 Thứ tư ngày 31 tháng Mười, ngày Emil sắm cho mình một con ngựa riêng và khiến bà Petrell cùng cả thị trấn Vimmerby phát điên.
 Thứ Hai, ngày 26 tháng Mười hai, ngày Emil tổ chức “cuộc tổng càn quét ở Katthult” và bắt được mụ Maduskan trong bẫy sói.

Bạn đã từng nghe gì về Emil ở làng Lönneberga chưa? Cái thằng bé sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga thuộc vùng Smăland ấy? Chưa ư? Ai chứ dân làng Lönneberga - tôi cam đoan với bạn thế - thì không ai không biết cái thằng bé kinh khủng ở trang trại Katthult, cái thằng bé Emil từng gây chuyện nhiều hơn cơm bữa, đã khiến dân làng Lönneberga khiếp sợ đến nỗi chỉ muốn gửi nó sang Mỹ. Phải, phải, có thể thật, dân làng Lönneberga đã quyên một túi đầy tiền, rồi đem đến gặp mẹ Emil và bảo:
- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ.
Họ tin rằng làng Lönneberga sẽ yên tĩnh hơn nhiều nếu Emil không còn sống ở đó, và cố nhiên họ có lý. Nhưng mẹ Emil đã nổi giận đùng đùng, quăng ngay túi tiền ra cửa sổ, khiến những đồng tiền bay vung vãi khắp làng.
- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Chúng tôi yêu nó như nó vốn thế.
Còn Lina, cô hầu gái của trang trại Katthult thì bảo:
- Thì chúng ta cũng phải nghĩ cho người Mỹ một tý chứ. Họ có làm điều gì xấu với chúng ta đâu. Hà cớ gì chúng ta lại đem thằng bé Emil quàng vào cổ họ?
Mẹ Emil nghiêm khắc lừ mắt với Lina, khiến cô nhận ra mình vừa nói điều gì ngu ngốc. Cô bắt đầu lắp bắp, định sửa sai:
- Vâng thưa bà, chả là trên tờ “Thời báo Vimmerby” có đăng tin về trận động đất khủng kiếp bên Mỹ… Ý cháu là… bên ấy có quá nhiều tai họa, nếu như bây giờ lại thêm thằng Emil…
- Im đi, Lina! - Mẹ Emil nói. - Cô xuống chuồng bò mà vắt sữa đi, đấy mới là việc của cô.
Thế là Lina xách xô sữa chạy xuống chuồng bò. Cô ngồi xuống, vắt lấy vắt để khiến sữa văng tung tóe. Cô Lina luôn làm việc tốt nhất mỗi khi cô hơi nổi giận. Vì thế nên lúc này cô vắt sữa hăng hơn bình thường, miệng làu nhàu:
- Thì cũng phải công bằng một tí chứ! Sao lại bắt người Mỹ phải gánh chịu mọi khổ ải. Nhưng nếu được, mình sẵn sàng đánh đổi với họ, mình nghĩ… mình nghĩ mình sẽ viết cho họ thế này: “Đấy, phần các ngươi thằng bé Emil! Mau gởi động đất sang đây cho tôi!”.
Chỗ này thì cô Lina hơi quá lời. Cô rõ khéo tự phong cho mình là người viết thư sang Mỹ, chính cô, người mà đến viết chữ nước mình cho ngay dân ta ở Smăland đọc còn chẳng viết nổi.
Không, nếu có ai đó viết thư sang Mỹ thì đó chỉ có thể là mẹ của Emil. Bà rất chăm viết. Bà ghi chép tất cả những trò nghich của Emil vào một cuốn vở màu xanh cất trong ngăn kéo.
- Mình làm thế để làm gì? - Bố Emil hỏi. - Tự nhiên lại ghi chép tất cả những trò khỉ của thằng nhóc gây ra! Chỉ tổ tốn giấy tốn mực. Mình có nghĩ tới điều đó không?
Mẹ Emil chẳng buồn bận tâm điều đó. Bà cứ miệt mài ghi lại tất cả. Rồi đến một ngày, khi Emil lớn, thằng bé sẽ biết được những việc nó đã làm hồi nhỏ. Chí phải, rồi ra nó sẽ hiểu vì sao tóc mẹ nó bạc, và biết đâu nó vẫn yêu mẹ bất chấp mái tóc đã bạc màu vì nó.
Giờ bạn không được hiểu rằng Emil là một đứa trẻ vô giáo dục. Ồ không, mẹ nó đã rất có lý khi nói rằng Emil là một thằng bé dễ thương và trông chẳng khác gì một thiên thần với đôi mắt xanh ngoan đạo vào mái tóc sáng màu bồng bềnh. Chắc chắn là Emil ngoan và mẹ nó đã công bằng, mẹ nó cũng đã viết điều này một cách đầy tin tưởng vào cuốn vở màu xanh.
“Hôm qua Emil ngoan,” - ngày 27 tháng Bảy bà viết vào cuốn vở. “Cả ngày thằng bé không gây ra chuyện gì. Có lẽ vì nó đang sốt cao và đơn giản là không còn sức để nghịch ngợm”.
Nhưng chỉ sang ngày 28 tháng Bảy, cơn sốt của Emil đã lui tới mức các trò nghịch ngợm của nó chiếm liền tù tì nhiều trang trong cuốn vở. Vì thằng bé khỏe như một chú bò mộng nhỏ, và nếu không ốm thì nó dư sức bày trò tai quái.
- Chưa từng thấy một thằng oắt nào như nó! - Cô Lina nói.
Có lẽ bạn nhận thấy cô Lina không mấy hài lòng với Emil. Cô yêu quý bé Ida, em gái của Emil, một cô bé ngoan ngoãn và biết vâng lời hơn nhiều. Nhưng chú Alfred, đầy tớ trai của trang trại Katthult, lại ưng Emil - chẳng biết tại sao. Còn Emil rất yêu quý chú Alfred. Hai chú cháu cùng chơi đùa với nhau mỗi khi chú Alfred xong việc. Emil học được ở chú mọi điều có ích, ví như cách buộc đai ngựa, cách câu cá măng và nhai thuốc lá. Vâng, điều sau cùng chắc không đặc biệt có ích, và Emil cũng chỉ thử có mỗi một lần, nhưng nó vẫn thử, vì nó muốn làm được tất cả những gì chú Alfred làm được và bắt chước chú trong mọi việc. Chú Alfred đã đẽo cho nó một khẩu súng gỗ - chú thật tốt, phải không? Đối với Emil, khẩu súng gỗ này là báu vật quý giá nhất. Báu vật quý thứ nhì là cái mũ lưỡi trai xấu xí mà bố đã mua cho Emil trong lần ông vào thành phố và không biết rõ mình đang làm gì.
- Con thích cái “sún” và cái “mú” của con, - Emil luôn nói như vậy với giọng địa phương đặc sệt của người vùng Smăland. Không có tối nào mà nó không tha cả súng và mũ lên giường ngủ.
Bạn còn nhớ những ai sống ở trang trại Katthult chứ? Bố của Emil tên là Anton, rồi mẹ của Emil tên là Alma, em gái của Emil tên là Ida, chú đầy tớ tên là Alfred, cô hầu gái tên là Lina, và cả Emil tên là Emil nữa.
Và đương nhiên chúng ta không được phép quên Krösa-Maja. Đó là một bà lão gày gò sống ở một túp lều trong rừng. Thi thoảng bà đến trang trại Katthult để giúp những việc lặt vặt như giặt giũ, nhồi xúc xích, hoặc để hù dọa Emil và bé Ida với những câu chuyện rùng rợn của bà, những câu chuyện về thần linh, ma quỷ, về lũ sát nhân, trộm cắp và những thứ hay ho đại loại mà bà biết rõ.
Nhưng có lẽ bây giờ bạn muốn nghe một chút về những trò nghịch ngợm của Emil? Trừ những hôm thằng bé bị sốt, còn ngày nào nó chẳng quậy phá. Chúng ta có thể từ tốn nhặt ra một ngày bất kỳ trong cái mớ hỗn độn đầy những trò quỷ của Emil, và thử xem xem nó đã làm gì nhé. Vâng, tại sao không xem ngày 28 tháng Bảy này nhỉ, đó là:

Thứ Bảy, ngày 28 tháng Bảy, ngày Emil trút bột nhão trộn tiết lên đầu bố và phải đẽo hình nhân bằng gỗ thứ 100.

Trong bếp của trang trại Katthult có một cái ghế thấp dài bằng gỗ, quét sơn xanh, mà cô Lina vẫn ngủ trên đó. Vào cái thời xảy ra tất cả những câu chuyện này, khắp vùng Smăland đầy những chiếc ghế dài kiểu đó, nơi các cô hầu gái trải những chiếc đệm sờn rách và nằm ngủ giữa những chú ruồi vo ve - vậy thì tại sao ở trang trại Katthult lại phải khác cơ chứ? Cô Lina ngủ ngon lành trên chiếc ghế dài kê trong bếp ấy, và trước bốn rưỡi sáng, là giờ đồng hồ báo thức đổ chuông và cô phải dậy đi vắt sữa bò, thì đố cái gì đánh thức nổi cô.
Cô Lina vừa đi khỏi thì bố Emil rón rén vào bếp, để được nhâm nhi tách cà phê sáng, trước khi Emil thức dậy. Bố thấy thật tuyệt vời khi được ngồi hoàn toàn một mình trên chiếc bàn gấp lớn, không phải thấy mặt thằng bé Emil ở bất kỳ đâu, chỉ nghe ngoài kia tiếng chim hót và tiếng lũ gà mái kêu cúc cúc, rồi vừa nhâm nhi cà phê vừa khẽ đu đưa người trên ghế, cảm nhận được sàn bếp dưới đôi bàn chân mà cô Lina đã kỳ cọ trắng tinh như tuyết. Không, sàn bếp mới là thứ mà cô Lina đã kỳ cọ, bạn phải hiểu như thế, chứ không phải đôi bàn chân của bố Emil, cho dù có khi lẽ ra nó cũng cần được kỳ cọ như thế - có trời biết! Sáng sớm bố Emil thường đi chân đất loanh quanh trong nhà, nhưng không phải chỉ vì ông thích thế.
- Như vậy cũng phần nào cũng tiết kiệm được giầy dép, - ông bảo mẹ Emil, người cứ ương bướng nhất định không bao giờ chịu đi chân đất. - Cứ xem cái cách mình mài mòn đôi giầy của mình, thì quả thật... quả thật là cứ mười năm lại phải sắm cho mình một đôi giày mới mất thôi.
- Vâng chính thế đấy, - mẹ Emil đáp, và họ không đả động tới chuyện đó nữa.
Vừa nãy tôi đã kể là không thể đánh thức cô Lina nếu không có chiếc đồng hồ báo thức. Nhưng một sáng nọ cô đã bị đánh thức bởi một thứ khác. Ấy là vào ngày 27 tháng Bảy, đúng vào ngày Emil bị sốt. Có thể hình dung chuyện kinh khủng này không - mới bốn giờ sáng cô Lina đã tỉnh giấc, vì một con chuột to tướng chạy đúng qua mặt cô. Cô Lina rú lên, bật dậy và vớ một thanh củi, nhưng con chuột đã lủi vào cái lỗ ở ngay cạnh hòm gỗ.
Bố Emil nổi đóa khi nghe chuyện con chuột.
- Chuyện hay ho gớm nhỉ! - ông nói. - Trong bếp có chuột! Chúng dám ăn hết bánh mì và thịt của nhà ta lắm.
- Ăn cả cháu nữa ấy chứ! - Cô Lina nói.
- Phải, rồi đến thịt và bánh mì của nhà ta, - bố Emil nói. - Đêm nay phải cho con mèo ở trong bếp thôi!
Emil nghe được chuyện con chuột, và mặc dù đang bị sốt, nó lập tức nghĩ xem làm cách nào để bắt được con chuột, nếu như con mèo không hoàn toàn phát huy được khả năng.
Đúng mười giờ tối ngày 27 tháng Bảy thì Emil đã hết hẳn sốt và tràn đầy sinh lực. Vào giờ này tất cả những người khác ở Katthult đều đã ngủ: bố Emil, mẹ Emil, bé Ida trong buồng ngủ cạnh bếp, cô Lina trên chiếc ghế dài trong bếp, chú Alfred trong lán đầy tớ cảnh xưởng mộc.
Lợn và gà thì ngủ trong chuồng lợn, chuồng gà, còn bò, ngựa, cừu ngủ ngoài trời trên bãi cỏ xanh. Riêng con mèo ngồi thức trong bếp và thấy nhớ kho thóc, nơi có nhiều chuột hơn.
Emil cũng thức. Nó rời khỏi chiếc giường trong phòng ngủ và nhón chân lẻn vào bếp.
- Con miu tội nghiệp, - nó nói khi thấy đôi mắt mèo lóe sáng bên cạnh cửa bếp, - mày ngồi đây à.
- Meo! - Con mèo đáp.
Và vốn là đứa rất yêu các loài vật, Emil mở cửa thả ngay con mèo.
Tất nhiên con chuột phải bị bắt, Emil hiểu rõ như thế, nhưng vì con mèo không còn ngồi đây nữa nên phải tìm cách khác.
Emil bèn lấy cái bẫy chuột ra, găm một miếng mỡ vào đó và đặt cái bẫy ngay cạnh chiếc hòm gỗ. Nhưng rồi nó suy tính lại. Nếu con chuột vừa thò mũi ra khỏi cái lỗ đã thấy ngay cái bẫy thì con chuột sẽ sinh nghi và sẽ không để mình bị sập bẫy nữa. Tốt hơn là, Emil nghĩ, nếu đầu tiên cứ để con chuột thoải mái loăng quăng trong bếp rồi bỗng đâu sa vào cái bẫy đặt ở chỗ nó không ngờ nhất. Emil cũng thoáng nghĩ đến chuyện đặt cái bẫy ngay trên mặt cô Lina, vì đấy là nơi con chuột thích lượn lờ nhất. Nhưng thằng bé lại sợ cô Lina thức giấc và làm hỏng việc. Không, phải tìm chỗ khác thôi. Mà tại sao lại không đặt bẫy ở dưới cái bàn gấp lớn nhỉ? Đấy chính là nơi con chuột cần chạy đến để tìm những mẩu vụn bánh mì rơi vãi từ trên bàn xuống. Tất nhiên không phải ở ngay dưới chỗ của bố rồi, ở đấy thì hiếm bánh vụn lắm.
Khiếp quá, - Emil chợt rùng mình dừng lại ở giữa bếp. - Ngộ nhỡ con chuột lại mò đến đúng chỗ đấy, rồi không tìm được vụn bánh nào, lại quay sang gặm ngón chân cái của bố thì chết.
Emil sẽ lo sao để chuyện đó không thể xảy ra. Thế nên nó đặt bẫy đúng chỗ bố hay để chân. Xong đâu đấy, nó lại bò về giường, vô cùng hài lòng với bản thân.
Mãi tới lúc trời sáng bạch Emil mới thức giấc. Tiếng la hét trong bếp đã đánh thức nó.
Mọi người thấy con chuột bị sập bẫy mừng quá có khác, hò la to thế, Emil nghĩ. Nhưng đúng lúc đó mẹ Emil lao vào phòng, lôi nó ra khỏi giường và thì thào vào tai nó:
- Nhanh, trốn ngay xuống xưởng mộc, trước khi bố gỡ được ngón chân cái ra khỏi cái bẫy chuột! Mau lên, nếu không mẹ e rằng giờ tận số của con đã điểm rồi đấy.
Mẹ dắt tay Emil kéo nó cùng chạy. Trên người thằng bé phong phanh độc chiếc áo ngủ, vì làm gì có thời gian mặc quần áo.
- Nhưng phải đem theo “sún”“mú” của con cơ! - Emil la lên. Nó chộp lấy mũ và súng rồi cắm đầu chạy thẳng xuống xưởng mộc, chiếc áo ngủ bay phần phật.
Xưởng mộc là nơi Emil luôn phải ngồi chịu phạt sau mỗi trò tinh nghịch. Mẹ đóng chốt bên ngoài để Emil không ra được, còn Emil cài then bên trong để bố không vào được. Cả hai mẹ con đều khôn ngoan và biết lo xa.
Mẹ Emil cho rằng tốt nhất Emil không nên chạm mặt bố trong vài giờ nữa. Emil cũng nghĩ thế, bởi vậy nó mới cẩn thận cài then cửa, trước khi nó yên chí ngồi xuống cái thớt gỗ lớn và đẽo một hình nhân bằng gỗ. Nó luôn làm việc này mỗi khi bị nhốt vào xưởng mộc sau mỗi trò nghịch ngợm, và đã đẽo được cả thảy chín mươi bảy hình nhân. Đám hình nhân đứng dàn hàng ngay ngắn trên một cái giá, và Emil vui mừng mỗi khi ngắm nhìn chúng, nghĩ bụng mình sắp đẽo đủ một trăm hình nhân. Khi ấy nhất định phải ăn mừng thật to!
“Ngày đó mình sẽ mở tiệc trong xưởng mộc và chỉ mời một mình chú Alfred”, Emil bụng bảo dạ khi ngồi trên thớt gõ với con dao gọt trên tay. Nó nghe tiếng bố quát lác từ xa, nhưng sau đó cứ nhỏ dần. Thay vào đó bỗng vang lên một tiếng kêu khác, chói tai hơn nhiều. Emil chột dạ, không hiểu mẹ bị sao. Nhưng rồi nó chợt nhớ hôm nay là ngày con lợn nái to bị chọc tiết. Chính con lợn đã kêu tiếng eng éc. Tội nghiệp con nái, với con lợn thì ngày 28 tháng Bảy này cũng chẳng vui vẻ gì! Té ra hôm nay có kha khá người không gặp may.
Quãng trưa thì Emil được thả, Nó vừa bước vào bếp thì Ida hớn hở chạy ra đón.
- Trưa hôm nay có bánh tiết cơ đấy! - Cô bé hớn hở khoe.
Có thể bạn không biết bánh tiết là gì chăng? Đó là những chiếc bánh tròn to màu đen, nhân thịt mỡ. Mà một khi trang trại Katthult mổ lợn thì đương nhiên là mẹ Emil sẽ làm bánh tiết rồi. Mẹ đã quấy bột trong một cái âu lớn và trên bếp nước bắt đầu sôi sùng sục trong một cái nồi sắt to tướng. Sắp sửa có bánh tiết ăn rồi, thật là sướng.
- Em sẽ ăn mười cái bánh tiết, - bé Ida khoe khoang, trong khi nó gầy như cái que và giỏi lắm cũng chỉ ăn hết được nửa cái bánh tiết.
- Đừng hòng bố cho ăn lắm thế, - Emil nói. - Thế bố đâu rồi.
- Bố đang nằm nghỉ ngoài kia, - bé Ida đáp.
Emil ngó qua cửa sổ bếp. Đúng vậy, bố nằm trên bãi cỏ, ngay dưới cửa sổ bếp, chiếc mũ cói che mặt và đang nghỉ trưa như thường lệ. Bình thường tất nhiên bố không nghỉ trưa trước mà sau bữa ăn, nhưng hôm nay chắc bố quá mệt - người ta có thể bị thế lắm, nếu người ta bắt đầu một ngày mới trong cái bẫy chuột.
Emil trông thấy bố chỉ đi một chiếc giầy bên chân phải. Thoạt đầu nó hy vọng bố quá ư tiết kiệm chỉ muốn dùng mòn từng chiếc giầy một.
Nhưng rồi Emil nhìn thấy cái băng đẫm đầy máu quấn quanh ngón cái chân trái bố, và hiểu ra rằng ngón chân đau khiến bố không thể xỏ giày được.
Emil thấy xấu hổ và ân hận vì cái trò bẫy chuột ngu ngốc của mình. Lúc này nó muốn làm bố vui trở lại, và bởi nó biết bố khoái món bánh tiết hơn hết thảy, nó bèn bưng âu bột lên, giơ ra ngoài cửa sổ.
- Bố xem này, - nó hoan hỉ reo to, - bữa trưa hôm nay có bánh tiết.
Bố nó nhấc chiếc mũ cói khỏi mặt, buồn bã ngước nhìn Emil. Có thể thấy bố chưa quên cái bẫy chuột. Và để lập công chuộc tội, Emil càng gắng sức hơn.
- Bố xem này, bao nhiêu là bột! - Nó reo và cố giơ cái âu ra xa nữa bên ngoài khung cửa sổ. Nhưng - người ta có thể tưởng tượng ra điều gì kinh khủng như thế này chăng? - Thằng bé không còn giữ nổi cái âu, và cả âu bột nhão trộn tiết rơi úp xuống, đúng vào chỗ bố Emil đang nằm ngửa mặt lên trời.
- Blupp, - bố chỉ kêu được có vậy. Vì khi bị bột nhão bịt kín mặt mũi như thế, thử hỏi ai còn nói năng gì được nữa. Nhưng rồi bố khó nhọc ngồi gượng dậy và cuối cùng cũng gầm lên được, thoạt đầu tiếng gầm bị bột nhão cản bớt, nhưng sau thì to đến nỗi cả làng Lönneberga nghe thấy. Cái âu úp trên đầu bố như chiếc mũ giáp của một tên cướp biển, và bột cứ thế cứ chảy lòng thòng theo người bố. Đúng lúc đó bà lão Krösa-Maja đi từ trong nhà giặt - nơi bà vừa rửa sạch chỗ lòng lợn - đi ra. Vừa trông thấy bố Emil đỏ lòe từ đầu xuống chân như thể tắm trong máu, bà rú lên còn chói tai hơn cả con lợn bị chọc tiết, rồi cắm đầu cắm cổ chạy với tin dữ khủng khiếp.
- Xong đời ông chủ ở Katthult rồi, - bà Krösa-Maja kêu lên.- Cái thằng Emil tội nợ đã đánh bố nó đến xối cả máu ra. Ôi, ôi, ôi khiếp quá bà con ơi!
Khi trông thấy sự tình, mẹ Emil đã vội vã nắm tay nó lôi xuống xưởng mộc. Và trong khi Emil - vẫn chỉ mặc độc chiếc áo ngủ - ngồi đẽo hình nhân thứ chín mươi chín, thì mẹ nó tay năm tay mười gột rửa cho bố nó.
- Mình cũng phải khéo vét thế nào để chí ít cũng còn làm được dăm ba cái bánh chứ, - bố nói. Nhưng mẹ lắc đầu.
- Cái gì phí cũng đã phí rồi. Giờ em sẽ làm bánh khoai tây chiên.
- Hí hí, hôm nay nhà mình sẽ không còn bữa ăn trưa trước bữa ăn tối, - bé Ida nói. Nhưng rồi nó im bặt, vì chợt nhìn thấy cặp mắt rầu rĩ của bố giữa đám bột.
Mẹ Emil để cô Lina nạo khoai tây làm bột bánh khoai tây chiên. Có thể bạn không biết bánh khoai tây chiên là gì chăng? Đó là một loại bánh xếp làm bằng bột nạo từ khoai tây tươi, ngon hơn tên gọi của nó nhiều, tôi cam đoan với bạn đấy.
Chẳng mấy chốc cô Lina đã làm được kha khá thứ bột bánh màu vàng nâu, rất quánh và mịn đựng trong cái âu mà bố Emil ban nãy gỡ xuống khỏi đầu. Bố không muốn suốt ngày chạy quanh trong bộ dạng của một tên cướp biển. Khi đã được gột rửa tương đối sạch sẽ, bố ra đồng tranh thủ bắt tay vào thu hoạch lúa mạch đen trong khi chờ làm xong món bánh khoai tây chiên. Thế là mẹ thả Emil ra khỏi xưởng mộc.
Emil đã ngồi yên khá lâu. Giờ đây nó cảm thấy phải vận động.
- Chơi trò “Cù rốn - cù rốn!” đi, - nó rủ Ida, và bé Ida lập tức co cẳng chạy ngay.
“Cù rốn - cù rốn!” là một trò chơi Emil tự nghĩ ra. Trò chơi như sau: Bọn trẻ chạy thục mạng từ bếp ra hành lang, từ hành lang vào buồng ngủ, từ buồng ngủ vào bếp, rồi lại từ bếp ra hành lang, cứ thế chạy ù tai hết vòng này sang vòng khác. Nhưng Emil và bé Ida chạy ngược hướng nhau và mỗi khi chạm trán, chúng lại chọc ngón trỏ vào bụng nhau và kêu lên: “Cù rốn - cù rốn!”. Vì thế mà trò chơi có cái tên này. Hai anh em Emil thấy trò “Cù rốn - cù rốn” vui nhộn kinh khủng.
Nhưng Emil đang lao ở vòng thứ tám mươi tám vào bếp thì gặp cô Lina đúng lúc cô đang bưng âu bột khoai tây sang lò để làm bánh. Vì Emil cũng muốn cô được vui một tý, nó bèn chọc ngay ngón tay vào bụng cô mà reo: “Cù rốn - cù rốn!”. Lẽ ra nó không nên làm như thế. Nó vẫn biết cô Lina có máu buồn cơ mà.
- Kiiia! - Cô Lina rú lên và cong gập người như một con sâu. Rồi - có thể tưởng tượng chuyện nào kinh khủng tới mức này không? - Cái âu bay khỏi tay cô Lina. không ai biết sự thể đã diễn ra như thế nào. Chỉ biết là lúc ấy bố Emil, bụng đói cồn cào, vừa bước vào cửa bếp thì lĩnh trọn âu bột khoai tây nhão vào giữa mặt.
- Blupp, - bố lại kêu lên. Vì khi mặt bít đầy bột khoai tây nhão như thế, thử hỏi ai còn nói năng gì được nữa. Từ cảnh tượng này, về sau hai anh em Emil đã sáng tác hẳn một câu gần như thành ngữ.
“Blupp, bố kêu trong bột khoai tây nhão”, chúng thường vừa cười khúc khích vừa đọc hoặc: “Blupp, bố kêu trong bột trộn tiết nhão”, - lúc này cũng đúng một trong hai tình huống.
Nhưng giờ đây Emil không còn thời gian để cười khúc khích, vì mẹ đã nắm tay nó lôi tuột xuống xưởng mộc. Emil còn nghe sau lưng tiếng gầm của bố, thoạt đầu tiếng gầm bị bột khoai tây nhão cản bớt, nhưng sau thì to đến nỗi cả làng Lönneberga đều nghe thấy.
Khi Emil ngồi trên cái thớt gỗ lớn trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm thì nó chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện ăn mừng nữa. Ngược lại, nó tức giận như một chú kiến lửa đang trở nên hung dữ. Trong một ngày mà bị nhốt đến ba lần trong xưởng mộc thì thật là quá lắm, nó nghĩ, - mà hơn nữa còn bất công.
- Đâu phải lỗi của mình, nếu bố chỗ nào cũng thò mặt tới, - Emil tức tối nói. - Ở cái trang trại này đến một cái bẫy chuột cũng không biết đặt vào đâu... vừa đặt thì bố đã lò dò đến và thò ngay ngón chân cái vào. Mà tại sao bố cứ phải nhè đúng chỗ bột trộn tiết nhão với bột khoai tây nhão bay vèo vèo mà hứng mặt vào cho kỳ được!
Nhưng bây giờ tôi không đời nào muốn bạn nghĩ rằng Emil không yêu bố và bố thằng bé không yêu nó. Bình thường hai bố con họ vẫn yêu quý nhau, nhưng ngay cả những người yêu quý nhau cũng xung khắc, nếu xảy ra chuyện chẳng lành với cái bẫy chuột, hoặc với bột tiết hay bột khoai tây.
Thứ Bảy, ngày 28 tháng Bảy sắp kết thúc. Emil ngồi trong xưởng mộc, mỗi lúc càng thêm tức giận. Nó đâu có ngờ lễ ăn mừng con hình nhân gỗ thứ một trăm của nó lại ra nông nỗi này. Thứ nhất, giờ đang là tối thứ Bảy, thử hỏi nó làm sao mời được chú Alfred đến xưởng mộc đây? Tối thứ Bảy chú Alfred còn bận chuyện khác. Chú ngồi trên bậc thang ở lán đầy tớ, tán tỉnh cô Lina và chơi đàn phong cầm cho cô nghe. Không, quả là chú không có thời gian cho lễ ăn mừng của Emil.
Emil quăng con dao gọt gỗ đi. Đến chú Alfred nó cũng không có, nó hoàn toàn cô đơn, và nó chỉ thêm tức giận khi nghĩ đến cái cách mọi người cư xử với mình. Cái lối ở đâu mà lại bắt người ta suốt cả ngày thứ Bảy dài đằng đẵng cứ ngồi một chỗ trong chiếc áo ngủ - không cho người ta cả thời gian mặc quần áo nữa, lúc nào cũng phải chạy hộc tốc xốc gan đến xưởng mộc. Thế nhưng xem ra họ lại thích nhốt nó trong cái xưởng mộc này, những người lớn ở trang trại Katthult! Họ sẽ được toại nguyện!
Emil đấm tay cái rầm xuống cái bàn dùng để bào gỗ. Được, rồi họ sẽ toại nguyện! Và trong khoảnh khắc ấy Emil đã đưa ra một quyết định kinh khủng: nó sẽ sống nốt quãng đời còn lại trong xưởng mộc này. Chỉ trong chiếc áo ngủ phong phanh, chiếc “mú” đội đầu, cô đơn và bị mọi người ruồng bỏ - Emil sẽ ở lại đây, chừng nào nó còn sống trên trái đất này.
Hẳn cuối cùng mọi người sẽ hài lòng và không cần thiết phải tất tả ngược xuôi giữa nhà chính và xưởng mộc nữa, thằng bé nghĩ. Nhưng đừng hòng tìm cách vào xưởng mộc của mình - vô ích thôi! Nếu bố muốn bào các tấm ván, thì tốt hơn là bố cứ mặc chúng, khỏi bào làm gì, vì nếu có bào thì thể nào bố cũng lại bào bay ngón tay mất thôi. Mình chưa thấy ai hay bị đen đủi như bố.
Nhưng khi trời nhá nhem tối, mẹ của Emil đi xuống xưởng mộc và đẩy chốt cửa - tất nhiên là cái chốt bên ngoài. Bà kéo cánh cửa và nhận ra cửa bị cài then bên trong. Thế là bà mỉm cười dịu dàng và bảo:
- Con không việc gì phải sợ nữa. Emil bé bỏng! Bố đã đi nằm rồi. Bây giờ con có thể ra được rồi.
Nhưng từ trong xưởng mộc vọng ra một tiếng “Ha!” nghe rất đáng sợ.
- Sao con lại nói “Ha!”, - mẹ Emil hỏi. - Mở cửa và đi ra nào, Emil bé bỏng!
- Con sẽ không bao giờ ra khỏi đây nữa, - Emil trầm giọng nói. - Mẹ đừng tìm cách vào đây, nếu không con sẽ bắn!
Mẹ Emil nhìn đứa con trai bé bỏng đứng bên cửa sổ trong xưởng, tay lăm lăm khẩu súng. Thoạt đầu bà không muốn tin thằng bé nói nghiêm chỉnh, nhưng cuối cùng, khi hiểu ra là nó nói thật, bà vừa khóc vừa ù té chạy vào nhà đánh thức bố Emil.
- Emil ngồi trong xưởng mộc và không chịu ra nữa, - bà nói. - Chúng ta phải làm sao đây?
Bé Ida vừa thức giấc và lập tức khóc òa lên. Thế là tất cả chạy vội xuống xưởng mộc: bố Emil, mẹ Emil và cả Ida. Còn chú Alfred và cô Lina lúc đấy đang ngồi trên bậc thang ở lán đầy tớ tán tỉnh nhau đành phải dừng lại - khiến cô Lina rất cáu. Giờ đây mọi người đều phải giúp sức dỗ Emil ra.
- Nào nào! Nếu đói bụng, con sẽ phải ra thôi! - Bố Emil gọi.
- Ha! - Emil lại nói.
Bố không biết Emil có gì trong cái hộp để sau bàn bào. Trong hộp để toàn thức ăn dự trữ ngon lành, thật đấy! Vốn tinh khôn, Emil đã lo xa dự trữ thức ăn để không bị chết đói trong xưởng mộc. Nó đâu biết vào ngày nào, giờ nào sẽ bị tống vào đây, và vì vậy nó luôn trữ thứ gì ăn được trong cái hộp. Đúng lúc này trong hộp đang có bánh mì và phô mai, mấy miếng thịt nguội, và ngoài ra còn có những trái anh đào khô và nhiều bánh mì sấy. Những chiến binh ngày xưa thường giữ vững những thành trì bị bao vây của họ với ít lương thực hơn ấy chứ. Với Emil, xưởng mộc giờ đây là một pháo đài bị bao vây, và nó quyết bảo vệ pháo đài này trước mọi kẻ thù.
Can đảm như một dũng tướng, nó đứng sát bên cửa sổ, chĩa súng ngắm:
- Kẻ nào tiến lại gần đầu tiên, ta sẽ bắn! - Nó thét.
- Ồ, Emil, con trai bé bỏng yêu quý của mẹ, đừng nói năng như thế, ra đi con trai, - mẹ Emil van vỉ. Nhưng không ăn thua, Emil cứng như đá. Dỗ ngọt như chú Alfred cũng chẳng nước non gì:
- Nghe này, Emil, ra đây rồi hai chú cháu mình ra hồ bơi nhé, chỉ chú cháu mình thôi!
- Không! - Emil thét lên quyết liệt. - Chú đi mà ngồi cầu thang với cô Lina, cháu cóc cần! Còn cháu, cháu cứ ở đây đấy.
Chẳng thay đổi được gì. Emil vẫn ở nguyên chỗ. Cuối cùng, khi thấy mọi cách - từ dọa nạt đến van xin - đều vô hiệu, bố mẹ và Ida đành đi ngủ.
Một tối thứ Bảy buồn, mẹ và bé Ida khóc như mưa. Bố thì thở dài thườn thượt khi bò lên giường, bố thấy nhớ cậu con trai bé bỏng bình thường vẫn nằm ngủ trên chiếc giường xinh xắn đằng kia với mái tóc tơ bồng bềnh xõa trên gối, “mú”“sún” kè kè bên người.
Chỉ mỗi cô Lina chẳng nhớ gì Emil, cô cũng chưa muốn đi nằm. Cô chỉ muốn ngồi cùng chú Alfred trên bậc thang dẫn lên lán đầy tớ mà chẳng bị ai quấy rầy. Vì vậy cô rất hài lòng khi biết Emil đang giam mình trong xưởng mộc.
- Nhưng ai mà biết được thằng nhóc đáng nguyền rủa này thực sự ở trong đó bao lâu, - cô lẩm bẩm, rồi lặng lẽ đi đến xưởng mộc và lén cài cái chốt cửa ngoài.
Chú Alfred mải kéo đàn và hát, không nhận thấy hành vi xấu xa của cô Lina. “Các chiến binh từ chiến trường trở về trên lưng ngựa…”, Emil nghe chú hát. Nó ngồi trên cái thớt gỗ và thở dài.
Nhưng cô Lina đã quàng tay bá cổ chú Alfred mà tỉ tê nũng nịu, như cô lúc nào cũng thế, và chú Alfred đáp lại bằng câu trả lời muôn thủa:
- Tất nhiên anh có thể cưới em, nếu em nhất định muốn thế, nhưng có vội gì đâu.
- Nhưng sang năm là phải cưới đấy, - cô Lina nói không khoan nhượng, và chú Alfred còn thở dài não ruột hơn cả Emil, rồi chú hát bài ca về Cô dâu sư tử Hà Đông. Emil cũng nghe chú hát, bụng nghĩ: giá được ra hồ bơi với chú Alfred cũng thích.
- Mà tội gì lại không nhỉ? - Nó tự nhủ.- Mình có thể dễ dàng đi bơi với chú Alfred. Sau đó nếu muốn, mình lại vẫn chui vào xưởng mộc của mình được mà.
Emil lao về phía cửa, rút cái then ra. Nhưng ích gì nữa, vì cái cô Lina đầy mưu mô ấy đã cài chốt bên ngoài mất rồi. Cánh cửa không chịu mở, cho dù Emil đã lấy hết sức húc vào đấy. Thế là nó hiểu. Nó biết ngay kẻ nào đã giam nó.
- Rồi cô ta sẽ thấy. - nó nói. - Cô ta sẽ thấy.
Emil ngó quanh, trong xưởng lúc này đã khá tối. Lần nọ, sau khi gây ra một lỗi tồi tệ nhất, Emil đã từng thoát thân qua cửa sổ xưởng mộc. Nhưng sau đó bố đã đóng mấy thanh gỗ bắt chéo phía ngoài cửa sổ, để Emil không thể chui ra một lần nữa mà không bị rơi xuống đám lá han mọc bên dưới cửa sổ. Bố Emil thực sự lo lắng cho thằng con bé bỏng và không muốn nó bị bỏng lá han.
- Mình không ra được lối cửa sổ, - Emil nói, - lối cửa ra vào cũng không nốt. Kêu cứu thì mình thà chết còn hơn. Vậy mình ra cách nào được đây?
Nó tư lự nhìn về phía lò sưởi, nơi vẫn đốt lửa để sưởi ấm xưởng mộc trong mùa đông, và để bố Emil đun nóng keo dán.
- Chỉ còn cách chui qua ống khói, - Emil nghĩ và nhanh nhẹn trèo qua bệ lò sưởi, bước vào giữa đống tro than còn lại từ mùa đông năm ngoái, khiến những lớp tro mềm bám cả vào đôi chân trần của nó.
Thằng bé ngước nhìn lên theo đường ống khói và phát hiện ra một thứ rất hay. Trong cái lỗ phía trên, đúng đỉnh đầu nó, vầng trăng tháng Bảy đỏ ối đang ngó xuống Emil.
- Chào ông trăng, - Emil reo lên. - Giờ ông hãy xem một đứa biết trèo nhé !
Đoạn nó tỳ vào thành ống khói đầy muội than và trườn dần lên.
Nếu bạn đã từng thử trườn mình lên theo đường ống khói chật hẹp, hẳn bạn biết việc đó khó khăn nhường nào và khắp mình mẩy sẽ đen nhẻm ra sao. Nhưng bạn chớ nghĩ điều đó ngăn cản được Emil.
Lina, cô hầu gái đáng thương nhất đời, đang ngồi bên chú Alfred trên bậc thang, hai tay bá cổ người tình, mà không hề linh cảm điều gì. Nhưng Emil thề là cô ta sẽ thấy, và cô ta sắp thấy thật.
Bỗng Lina ngước mắt lên để ngắm trăng, và cô ta rú lên một tiếng làm kinh động cả làng Lönneberga.
- Ma! - Cô Lina rú lên. - Có con ma trên ống khói!
Trước kia dân làng Lönneberga rất sợ ma. Cô Lina cũng từng nghe câu chuyện rùng rợn của bà Krösa-Maja về tất cả những thứ ma quỷ mà người ta có thể bắt gặp, thế nên cô rú lên như hóa dại khi trông thấy một con ma ngồi thù lù trên miệng ống khói, mặt mũi đen sì, từ đầu xuống chân chỗ nào trông cũng nhọ nhem phát khiếp.
Chú Alfred cũng nhìn thấy con ma, nhưng chú chỉ cười.
- Ta nhận ra con ma nhỏ này, - chú nói. - Xuống đi, Emil!
Emil nhỏm dậy trong chiếc áo ngủ đầy bồ hóng và đứng trên mái nhà, hiên ngang như một tổng tư lệnh. Nó giơ thẳng nắm đấm đen thui lên trời và thét to khắp làng Lönneberga đều nghe thấy:
- Tối nay xưởng mộc này sẽ bị phá tan hoang và ta sẽ không bao giờ ngồi trong ấy nữa!
Chú Alfred đi đến xưởng mộc, dang rộng hai cánh tay.
- Nhảy xuống nào, Emil! - Chú nói.
Thế là Emil nhảy. Đúng vào vòng tay của chú Alfred. Rồi hai chú cháu đi ra hồ bơi. Emil cần phải được tắm táp.
- Mình chưa từng thấy một thằng oắt nào như nó! - Cô Lina nói, rồi tức tối bỏ vào nhà đi nằm.
Trong khi dưới hồ của trang trại Katthult, giữa những bông hoa súng trắng, Emil và chú Alfred bơi lội thỏa thích trong làn nước mát. Trên trời, vầng trăng tháng Bảy như một chiếc đèn lồng treo lơ lửng đang tỏa sáng.
- Hai chú cháu mình, chú Alfred nhỉ, - Emil nói.
- Phải, hai chú cháu mình, Emil, - chú Alfred đáp. - Nhất định phải thế rồi!
Vắt ngang mặt hồ là một dải đường rộng lóng lánh bạc được tạo bởi ánh trăng, nhưng xung quanh hồ lại tối đen. Bởi đêm đã khuya, và ngày 28 tháng Bảy cũng đã hết.
Nhưng rồi sẽ đến ngày mới với trò nghịch ngợm mới. Mẹ của Emil ghi chép vào cuốn sổ xanh miệt mài tới mức mỏi cứng cả tay. Rốt cuộc cuốn vở đã được viết kín từ trang đầu tới trang cuối.
- Mình phải kiếm một cuốn vở mới, - mẹ Emil nói. - Đằng nào cũng sắp có chợ phiên hàng năm ở thị trấn Vimmerby, khi đến đó mình phải nhớ mua một cuốn vở mới được.
Và bà đã nhớ mua, may thế! Vì nếu không bà biết ghi chép vào đâu tất cả những trò quái quỷ mà Emil đã gây ra trong ngày có phiên chợ đó?
“Cầu Chúa phù hộ cho thằng bé”, bà viết. “Để thằng bé thành đạt, nếu nó còn sống tới lúc nó trưởng thành, cho dù bố nó không tin điều này”.
Thế nhưng ở đây bố Emil đã nhầm, còn mẹ lại có lý. Emil sau này đã rất thành đạt, trở thành chủ tịch hội đồng xã và là người đàn ông tốt nhất, giỏi giang nhất làng Lönneberga.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy cứ xem xem chuyện gì đã xảy ra tại phiên chợ hàng năm ở thị trấn Vimmerby thời đó, khi Emil vẫn còn nhỏ. Đó là:

Thứ tư ngày 31 tháng Mười, ngày Emil sắm cho mình một con ngựa riêng và khiến bà Petrell cùng cả thị trấn Vimmerby phát điên.

Trong cái ngày thứ Tư cuối cùng của tháng Mười, thị trấn Vimmerby mở chợ phiên hàng năm và cứ chộn rộn từ sáng sớm tinh mơ tới tối mịt, tôi cam đoan thế. Tất cả dân làng Lönneberga và cư dân từ các vùng khác đều lũ lượt kéo đến đây để mua bán bò cày, bò sữa, để đổi ngựa, để gặp gỡ nhau, để kiếm chồng, để mút đường thanh, để nhảy điệu Polka, để đánh lộn và để mua vui... Tóm lại mỗi người mỗi kiểu.
Có lần mẹ hỏi cô Lina xem cô có thể kể các ngày lễ lớn trong năm không, vì mẹ muốn thử trí khôn của cô Lina.
- Có chứ ạ, lễ Giáng sinh này, lễ Phục sinh này, rồi cả chợ phiên hàng năm của Vimmerby nữa, là cháu nghĩ thế!
Giờ thì bạn hiểu vì sao ngày 31 tháng Mười ai ai cũng muốn đến Vimmerby rồi nhé! Mới năm giờ sáng, khi trời vẫn còn tối mịt, chú Alfred đã thắng hai con ngựa Markus và Jullia vào cỗ xe lớn và thế là tất cả dân cư của trang trại Katthult lên đường: bố Emil, mẹ Emil, chú Alfred, cô Lina, Emil và bé Ida. Riêng bà Krösa-Maja phải ở nhà chăm lo cho bày gia súc.
- Krösa-Maja đáng thương, bà không muốn cùng đi chợ phiên sao? - Chú Alfred, một tâm hồn nhân hậu hỏi.
- Ta có điên đâu,- bà Krösa-aja đáp. - Đúng vào hôm nay, ngày thiên thạch khổng lồ rớt xuống đấy ư! Ồ không, xin đa tạ! Ta muốn được chết ở làng Lönneberga, nơi ta sống.
Chuyện là thế này: Người dân ở Smăland đang chờ đợi một thiên thạch lớn sẽ đến vì tờ “Bưu điện Vimmerby” loan tin rằng đúng vào ngày 31 tháng Mười thiên thạch này sẽ bay với tốc độ điên cuồng và có thể va vào trái đất khiến trái đất tan thành ngàn mảnh.
Chắc bạn không biết thiên thạch là gì, tôi cũng hầu như không biết, nhưng tôi nghĩ đó là một mẩu của vì sao bị tách ra và rơi xuống, rồi cứ thế bay lang thang trong vũ trụ. Mọi người dân vùng Smăland đều hãi hùng trước một thiên thạch có thể bất ngờ đập vỡ tan tành cả trái đất, và chấm dứt mọi điều tốt đẹp trên đời.
- Rõ là cái thiên thạch chết tiệt đã nhè đúng ngày chợ phiên ở Vimmerby mà đến, - cô Lina tức giận nói. - Nhưng thây kệ, biết đâu mãi chiều tối nó mới tới, khi ấy thì mình cũng chơi gần hết phiên chợ rồi.
Cô Lina cười ranh mãnh và huých cái cùi chỏ vào người chú Alfred đang ngồi cạnh cô trên băng ghế sau. Cô chờ đợi rất nhiều ở ngày hôm nay.
Phía trước là mẹ ngồi ôm bé Ida trong lòng và bố ngồi ôm Emil trong lòng. Thử đoán xem ai là người đánh xe nào? Tất nhiên là Emil rồi. Tôi quên không kể Emil là một xà ích giỏi như thế nào. Từ nhỏ Emil đã được chú Alfred dậy cho tất cả những điều cần biết về ngựa, rốt cuộc nó thạo về ngựa hơn bất kỳ ai trong làng Lönneberga và điều khiển ngựa còn tài tình hơn cả chú Alfred. Lúc ấy nó đang ngồi trong lòng bố và đánh xe như một xà ích thiện nghệ nhất, - phải, thằng nhóc biết phải cầm cương ra sao!
Đêm qua trời mưa, thành thử vào buổi sáng tháng Mười u ám này, bóng tối và sương mù như một tấm chăn phủ lên làng Lönneberga và khắp vùng Smăland. Khi chiếc xe ngựa chở người của trang trại Katthult đi qua, phía trên các ngọn cây trời vẫn chưa hửng sáng, còn rừng hai bên thì tối đen và ẩm ướt. Dẫu vậy ai nấy đều hớn hở và cả con Markus lần con Julla đều đi nước kiệu khiến bùn nhão trên con đường lầy lội bắn tung tóe dưới móng của chúng.
Con Julla chắc chắn không phấn khởi cho lắm. Nó đã già yếu, và chỉ thích nhất là được đứng trong chuồng ở nhà. Từ lâu Emil đã tỉ tê vào tai bố là bố hãy mua một con ngựa non, đủ trẻ đủ khỏe để chạy cùng con Markus. Bây giờ sẽ là cơ hội tốt nhất để làm việc đó, vì cả nhà sẽ đến chợ phiên, Emil nói.
Nhưng bố lại bảo:
- Dễ con tưởng nhà ta dư tiền để sắm tất tần tật mọi cái và mua thêm thứ nọ thứ kia hay sao? Không, không, con ngựa già Julla sẽ phải chạy thêm vài năm nữa. Chẳng ích gì đâu.
Và con Julla cùng chạy, chắc chắn rồi. Con ngựa can đảm chạy trên những triền dốc, còn Emil, vốn quý mến Julla, bèn hát cho Julla nghe như nó thường hát mỗi khi muốn động viên con ngựa già:

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió.
Rệu rã rồi, chân cẳng nó.
Có hề chi?
Cõng tớ, nó vẫn đàng hoàng phi,
tuy nước kiệu hơi chậm tí ti,
trên những con đường phẳng lỳ.

Đến Vimmerby, việc đầu tiên của những người trang trại Katthult là tìm một chỗ tốt cho hai con ngựa, không xa khu chợ súc vật là bao. Sau đó mỗi người đều muốn lo việc của mình. Mẹ Emil, cô bé Ida bám váy theo sau, tính sẽ tìm mua một cuốn vở màu xanh. Ngoài ra bà định bán tại chợ chỗ len và trứng mang theo. Cô Lina muốn cùng chú Alfred vào một tiệm bánh ngọt để cùng uống cà phê, và quả nhiên cô đã lôi được chú đi, mặc dù thoạt đầu chú cứ giằng ra, cố thoát khỏi cô, vì chú muốn cùng hai bố con Emil đến khu chợ súc vật.
Nếu bạn đã từng tham dự phiên chợ hàng năm ở Vimmerby, thì bạn sẽ biết thế nào là khu chợ súc vật, nơi người ta mua bán bò ngựa. Vào giờ này khu chợ ấy đã rộn rã, tấp nập lắm. Emil chỉ muốn đến đó luôn, và bố không phản đối việc đi cùng nó, mặc dù bố chẳng định bụng mua gì, chỉ muốn xem cho biết thôi.
- Nhưng phải nhớ đúng mười hai giờ trưa nay chúng ta được mời dùng bữa trưa tại nhà bà Petrell đấy nhé! - Mẹ Emil dặn trước khi mất hút cùng bé Ida.
- Mình khỏi lo, tôi mà quên được một việc như thế sao, - bố Emil đáp, rồi bố cùng đi với Emil.
Có mặt ở chợ súc vật chưa đầy năm phút, Emil đã trông thấy con ngựa. Con ngựa mà nó muốn có, con ngựa đã khiến tim nó đập loạn xạ chưa từng thấy. Ngựa thế mới là ngựa! Đó là một con ngựa nhỏ ba tuổi, màu nâu, đẹp tuyệt vời. Bị cột vào hàng rào, con ngựa đứng nhìn Emil rất dịu dàng, như thể hy vọng cậu bé rồi sẽ mua mình. Emil muốn mua, ồ, nó mới thèm mua con ngựa làm sao! Nó quay người ngó tìm bố: bây giờ nó sẽ bắt đầu nũng nịu kỳ kèo bố dai như đỉa, cho tới lúc bố đành mua con ngựa, để chấm dứt màn mè nheo của nó. Nhưng có ai ngờ nổi nỗi bất hạnh này không: bố đã biến mất! Bố chuồn đi thật đúng lúc, lẩn vào đám đông nông dân nhốn nháo đang gọi nhau í ới và cười nói bô bô, đám ngựa vừa hí vừa giậm chân thình thịch và đám bò cái bò đực thi nhau kêu ầm ĩ.
Bao giờ cũng thế, Emil chua chát nghĩ: Không tài nào rủ bố đi đâu được. Việc đầu tiên là bố tìm đường chuồn mất.
Mà lại đúng vào lúc đang vội. Kìa một gã lái ngựa to kềnh càng người vùng Målilla đi tới và ngắm nghía con ngựa của Emil.
- Con này giá bao nhiêu? - Gã kia hỏi bác nông dân đang muốn bán con ngựa. Đó là một người xanh xao bé nhỏ đến từ Tuna.
- Ba trăm đồng ạ, - bác nông dân vùng Tuma đáp, còn Emil thấy tim nhói đau khi nghe câu trả lời. Moi được ba trăm đồng từ bố cũng khó ngang việc khoét được số tiền ấy từ một tảng đá, nó biết thế.
Nhưng mình vẫn cứ thử xem, Emil nghĩ. Thì nó vốn là thằng bé ương ngạnh nhất làng Lönneberga, thậm chí nhất vùng Smăland mà. Thế là nó lao người chạy như bay qua đám đông để tìm bố thật nhanh. Nó sục sạo chỗ này, chỗ khác, mỗi lúc một nôn nóng. Thấy bất kỳ bác nông dân nào nó cũng lôi tay kéo áo, vì cứ ngỡ là bố mình - trông đằng sau họ giống bố lắm. Nhưng lần nào quay lại cũng là một bác nông dân lạ hoắc, hoặc người làng Söedravi hoặc người làng Locknevi, chứ chẳng có ai là Anton Svensson đến từ trang trại Katthult làng Lönneberga cả.
Bạn chớ tưởng Emil sẽ chịu bó tay! Trên chợ súc vật có một cột cờ nhỏ, thoắt cái Emil đã leo lên đến đỉnh cột để ai ai cũng trông thấy nó, và lấy hết sức gào to:
- Mọi người ơi, mọi người ơi, có ai biết thằng bé ở trên này không ạ? Bố nó chạy đâu mất rồi ấy ạ!
Và nó thấy có chuyện gì đó đang xảy ra trong đám đông hỗn độn những nông dân, bò và ngựa bên dưới. Lập tức đám đông rẽ ra và ai đó đang phi nước đại tới chân cột cờ. Còn ai khác ngoài bố của Emil.
Bố Anton Svensson lay cột chờ cho thằng con phải xuống như người ta rung cây táo cho trái táo chín rụng vậy, đoạn bố véo tai Emil kéo đi.
- Cái thằng nhóc hư đốn này, - bố mắng. - Con đã ở đâu vậy hả? Sao lúc nào việc đầu tiên con làm cũng là chuồn mất thế hả?
Emil không có thời gian trả lời bố.
- Bố lại đây, - nó nói, - có một con ngựa mà nhất định bố phải trông thấy!
Phải, chắc chắn bố Emil trông thấy con ngựa, nhưng con ngựa đã bị bán! Có thể nào tưởng tượng một chuyện kinh khủng như thế chăng? Emil và bố đến vừa đúng lúc gã lái ngựa người vùng Målilla rút ví ba trăm đồng dúi vào tay bác nông dân vùng Tuna.
Thế là Emil òa khóc.
- Con ngựa này xem ra rất thân thiện, đúng không? - Gã lái ngựa hỏi.
- Thân thiện lắm ấy chứ ạ, - bác nông dân đáp. Nhưng khi nói thế, bác ta lại nhìn tránh sang bên, trông như thể đang suy tính chuyện gì.
- Tôi thấy nó vẫn chưa có móng sắt, - gã lái ngựa nói. - Tôi phải cho đóng móng xong trước khi đưa nó về nhà.
Emil cứ đứng đó mà khóc khiến bố nó mủi lòng.
- Thôi đừng khóc nữa, Emil, - bố nói, đoạn gật đầu vẻ quyết đoán. - Chúng ta sẽ mua hẳn một túi đường thanh, đắt mấy cũng mua!
Bố Emil dắt Emil vào chợ, nơi những bà bán kẹo ngồi trong quầy kẹo của họ, và mua cho Emil mười xu đường thanh có hình kẻ sọc. Nhưng rồi bố nó gặp một bác nông dân cùng làng và mải trò chuyện với bác này đến nỗi quên cả Emil. Thằng bé đứng đấy, mồm đầy đường thanh, mắt đẫm lệ, bụng nghĩ đến con ngựa. Bỗng nó trông thấy chú Alfred. Cô Lina theo sau chú. Trông chú thật mệt mỏi, chú Alfred đáng thương, và điều đó chẳng có gì lạ, vì cô Lina đã mười bảy lần dắt chú chú đi qua đi lại trước tiệm vàng và lần nào cũng tìm cách lôi chú vào để bắt chú mua nhẫn đính hôn cho cô.
- Nếu chú không ghì cả hai chân cự lại, thì ai mà biết kết cục sẽ thế nào, - chú Alfred sung sướng nói.
Tất nhiên chú rất vui khi trông thấy Emil. Emil vội kể cho chú về con ngựa và cả hai chú cháu cùng đứng đấy mà thở dài vì nỗi con ngựa sẽ chẳng khi nào về trang trại Katthult. Sau đó chú Alfred mua từ bác thợ gốm đang rao bán hàng giữa chợ một con chim cúc cu bằng gốm cho Emil.
- Đây là quà chợ phiên của chú tặng cháu, - chú Alfred nói và lập tức Emil cảm thấy sâu trong lòng nó, nơi mọi thứ đều ảm đạm, bỗng như tươi sáng hơn.
- Thế đấy, cái còi chim cu thì anh mua được, - cô Lina dằn dỗi. - Mà này, khi nào thì cái thiên thạch đó rơi xuống đây? Theo tôi thì bây giờ nó rơi xuống được rồi đấy.
Nhưng chẳng thấy thiên thạch nào cả. Mà cũng mới gần mười hai giờ trưa, thiên thạch việc gì phải vội. Lúc này chú Alfred và cô Lina phải đi xem xét hai con ngựa Markus và Julla thế nào và ăn chút gì đó, họ để một giỏ thức ăn dưới ghế trong xe ngựa. Emil rất muốn đi cùng họ, nhưng nó biết đúng mười hai giờ trưa phải ăn trưa nhà bà Petrell, vì vậy nó quay sang bố. Và - bạn tin tôi hay không thì tùy - bố nó lại biến mất! Bố chuồn thật đúng lúc, lẩn vào đám đông hỗn độn trên quảng trường chợ, giữa bát nháo dân chợ, những bà bán kẹo, những ông thợ gốm, những chú đan sọt, những cô bện sợi, những bác bán bóng bay và ti tỉ những người đi chợ khác.
- Không thể tin được cái ngữ ấy sao mà giỏi biến thế, - Emil nói. - Lần sau mà mình vào thị trấn, sẽ bắt bố ngồi nhà. Vì mình không chấp nhận được nữa.
Emil không chịu bỏ cuộc chỉ vì bố nó đã biến mất. Trước kia nó đã từng vào thị trấn và biết đại khái chỗ ở của bà Petrell. Bà ấy ở đâu đó gần phố chính, trong một ngôi nhà đỏm dáng quét vôi trắng, có sân thượng lồng kính.
Gì mà không tìm được tới đó, Emil nghĩ.
Bà Petrell là một trong những quý bà sang trọng nhất vùng Vimmerby. Việc bà ấy mời những người trong trang trại Katthult tới dùng cơm trưa cũng đã là lạ. Tôi không thể nghĩ bà làm thế chỉ vì món xúc xích ngon lành mà lần nào mẹ Emil cũng mang theo biếu bà - làm gì có ai mê xúc xích đến mức ấy. Không, mà là vì bà Petrell thích tham dự mọi bữa tiệc ở trang trại Katthult, nào là tiệc anh đào, tiệc cua, tiệc bánh ngọt và tất cả những bữa liên hoan khác có món xúc xích, món sườn rán, thịt bê cuốn, thịt băm viên, trứng ốp la, lươn nấu đông và cơ man những món ngon khác nữa. Xét cho cùng không thể cứ đi ăn tiệc triền miên nhà người ta mà không mời lại lấy một lần, bà Petrell nghĩ thế. Cũng phải có đi có lại một chút chứ, bà tự nhủ, và bởi thế bà tranh thủ ngày chợ phiên, ngày mà đằng nào nhà Svensson cũng đến thị trấn để mời họ đến dùng bữa trưa lúc mười hai giờ. Họ sẽ dùng món chè cá và món súp dâu tím hâm nóng, bà tính thế. Riêng bà, từ quãng mười một giờ trưa bà đã dùng cơm trước với mỗi một mẩu nhỏ thịt thăn bê và một miếng to bánh hạnh nhân, vì món chè cá còn hơi ít. Trông sẽ kỳ cục lắm, nếu chính bà lại ngồi đấy mà múc lấy múc để món chè cá, trong khi khách ăn không đủ no! Không, bà Petrell không đời nào làm thế.
Lúc này họ đã ngồi trên bàn ăn trên sân thượng, bố Emil, mẹ Emil và bé Ida.
- Cái thằng quỷ này nữa, giữ một túi bọ chét còn dễ hơn giữ chân nó. Bọ chét cũng không biến nhanh như nó.- bố Emil phàn nàn.
Ấy là bố đang nói về Emil.
Mẹ Emil chỉ muốn chạy ngay đi tìm con trai bé bỏng của bà, mặc dù bố cam đoan rằng bố đã tìm nó khắp nơi khắp chốn.
Nhưng bà Petrell bảo:
- Cứ như tôi biết thì thằng bé sẽ tự tìm đến đây được.
Bà Petrell nói không sai. Chả là đúng lúc ấy Emil đang trên đường đi vào cổng vườn nhà bà. Nhưng nó bỗng thấy một thứ níu chân nó lại. Ông thị trưởng Vimmerby ở ngay cạnh bà Petrell, trong một ngôi nhà đẹp có vườn bao quanh. Trong vườn, giữa những cây táo là một thằng bé đang đi lò dò trên đôi cà kheo lênh khênh. Đó là Gottfried, cậu con trai nhỏ của ông thị trưởng. Nó phát hiện ra Emil và lập tức ngã cắm đầu xuống bụi tử đinh hương. Nếu bạn đã từng đi thử trên đôi cà kheo, bạn sẽ hiểu vì sao. Thật không dễ giữ được thăng bằng trên hai thanh cọc dài mà trên mỗi thanh cọc chỉ nhô ra một mẩu gỗ nhỏ vừa để bạn đặt chân lên. Gottfried nhanh chóng thò mũi ra khỏi bụi cây và thích thú nhìn Emil. Hai thằng nhóc cùng một giuộc chỉ mới lần đầu gặp nhau mắt đã lập tức sáng lên. Gottfried và Emil nhìn nhau cười.
- Tớ cũng rất muốn có một cái “mú” như của cậu. - Gottfried nói. - Cho tớ mượn nhé!
- Không được. - Emil đáp. -Nhưng đổi lại cậu có thể cho tớ mượn đôi cà kheo của cậu.
Gottfried thấy đây là một cuộc đổi chác ngon lành.
- Nhưng tớ không tin là cậu dùng được chúng. - nó nói. - Vì khó lắm đấy.
- Để rồi xem.- Emil đáp.
Emil hiếu động hơn là Gottfried tưởng. Loáng cái nó đã lênh khênh trên đôi cà kheo và bước những bước dặt dẹo hối hả giữa những cây táo. Nó đã quên phéng bữa ăn trưa ở nhà bà Petrell.
Trong khi ấy bố mẹ Emil và bé Ida ngồi trên sân thượng bịt kính nuốt món chè cá. Chẳng mấy mà hết, nên họ quay ra món súp dâu tím. Món này thì nhiều, cả một liễn tướng đầy phè đặt thù lù giữa bàn.
- Ăn đi thôi, – bà Petrell mời. - Tôi hy vọng cả nhà ngon miệng.
Chính bà lại không thấy món súp dâu có gì ngon, nên chẳng hề động đến. Bù lại bà lại lắm lời hơn. Bà nói về cái thiên thạch khổng lồ nọ, vì nó chính là chủ đề câu chuyện của tất cả mọi người ở thị trấn Vimmerby ngày hôm nay.
- Sẽ là quá ư khủng kiếp, nếu một thiên thạch có thể kết liễu tất cả, - bà nói.
- Vâng, ai mà biết được, có khi món súp dâu tím này là món ăn cuối cùng trong đời chúng ta, - mẹ Emil nói, thế là bố Emil vội chìa cái đĩa của mình ra.
- Cho tôi xin thêm chút nữa được không? - ông hỏi. - Đề phòng mọi bất trắc mà.
Nhưng bà Petrell chưa kịp múc đầy súp vào đĩa thì đã xảy ra một chuyện kinh khủng, một tiếng choang, một tiếng rú, rồi từ phía sau bà Petrell một vật gì bay vèo qua khung cửa sổ lớn, rồi bỗng nhiên nào mảnh thủy tinh nào súp dâu tím văng loạn xạ trên khắp sân thượng.
- Thiên thạch! - Bà Petrell kêu thét lên và - “Phịch” bà ta ngã lăn ra sàn bất tỉnh.
Nhưng đó không phải là thiên thạch, chỉ là thằng nhóc Emil đã như là một viên đạn đại bác xuyên qua kính cửa sổ, đầu cắm thẳng vào liễn súp khiếp súp bắn ra tung tóe.
Ôi trời, thế là trên sân thượng bịt kính loạn xị ngầu cả lên. Mẹ la hét, bố quát tháo còn bé Ida thì khóc. Có mỗi bà Petrell tỏ thái độ hoàn toàn im lặng, thì bà đang nằm bất tỉnh dưới sàn mà.
- Chạy xuống bếp mau! Lấy nước lạnh lại đây! - Bố Emil hét. - Phải đắp nước lạnh lên trán bà ấy!
Thế là mẹ Emil co cẳng chạy hết tốc lực, bố cũng vừa chạy theo vừa đẩy lưng mẹ, vì bố muốn mẹ chạy nhanh nữa.
Emil từ từ ngóc khuôn mặt bê bết dâu tím lên khỏi liễn súp.
- Sao lúc nào muốn ăn anh cứ vội vội vàng vàng thế? - Bé Ida hỏi đầy trách móc.
Emil không trả lời.
- Gottfried nói thế mà đúng, - nó nói. - Không thể đi cà kheo mà trèo qua hàng rào được. Ít nhất điều đó đã được chứng minh.
Đoạn nó trông thấy bà Petrell tội nghiệp nằm bất động dưới sàn nhà và thấy thương bà.
- Có lấy nước lên thôi mà cũng lâu đến thế sao? - Nó nói. - Phải cấp cứu nhanh, thật nhanh vào chứ!
Emil không quá khó tính. Nó nhanh tay bưng ngay liễn súp dâu tím và hắt hết phần súp còn lại vào chính giữa mặt bà Petrell. Mặc bạn có tin tôi hay không, - cách này đúng là hiệu nghiệm.
- Blupp, - bà Petrell nói và nhanh như chớp đứng phắt dậy. Có thể thấy ích lợi của việc nấu nhiều súp dâu tím, nó đủ dùng trong trường hợp xảy ra tai nạn.
- Con đã chữa khỏi cho bác ấy rồi! - Emil tự hào khoe, khi bố mẹ nó cuối cùng cũng mang được nước từ nhà bếp lên.
Bố Emil nhìn nó hằm hằm và bảo:
- Bố biết khi chúng ta về đến nhà, có kẻ sẽ được chữa khỏi trong xưởng mộc.
Đầu óc bà Petrell vẫn còn rối tinh. Mặt mũi bà nhoe nhoét tím chẳng kém gì Emil. Nhưng mẹ Emil, vốn nhanh nhẹn khéo léo, đã đặt bà Petrell nằm trên ghế sô pha rồi cầm một cái bàn chải to bản.
- Phải làm vệ sinh chỗ này mới được, - mẹ tuyên bố rồi bắt đầu cọ, đầu tiên là bà Petrell, sau đến lượt Emil, rồi tới sàn sân thượng. Chẳng mấy chốc đã chẳng còn chút dấu vết nào của món súp dâu tím - trừ một tí tẹo súp còn đọng lại bên tai của Emil. Mẹ còn quét những mảnh kính vỡ vụn thành đống, trong khi bố chạy đến ông hàng kính cắt một miếng kính mới đem về lắp đền vào chỗ kính vỡ. Emil mon men định giúp, nhưng bố không cho nó lại gần kính cửa sổ.
- Tránh xa ra! - Bố rít lên. - Biến ra ngoài kia và đừng có quay trở vào trước khi chúng ta ra về.
Emil không phản đối việc phải biến ra ngoài. Nó đang muốn tán chuyện với Gottfried thêm tí nữa. Nhưng nó đói. Nó chẳng có gì trong bụng ngoài một ngụm nhỏ súp dâu tím mà nó nuốt phải khi cắm đầu vào cái liễn.
- Trong nhà cậu có gì ăn được không? - Nó hỏi cậu bé Gottfried nãy giờ vẫn đứng sau hàng rào.
- Chà, tớ nghĩ là có đấy, - Gottfried đáp. - Hôm nay bố tớ tròn năm mươi tuổi nên nhà tớ sẽ liên hoan to. Thức ăn nhiều đến nỗi các cánh cửa kho căng phồng lên ấy chứ.
- Tốt, - Emil nói. - Có lẽ tớ có thể nếm một chút xem đã vừa muối chưa.
Gottfried chẳng nghĩ ngợi lâu. Nó vào bếp nhà ông thị trưởng lấy ra một đĩa đầy ụ toàn là món ngon: xúc xích này, thịt băm viên này, cả pate gan nữa, mỗi thứ một ít. Thế là Gottfried và Emil - mỗi đứa đứng một bên hàng rào - ngon lành chén hết đĩa thức ăn. Emil sung sướng mãn nguyện lắm.
Cho tới khi Gottfried bảo:
- Tối nay chúng tớ sẽ có một cuộc đốt pháo hoa lớn chưa từng thấy ở Vimmerby!
Emil tội nghiệp cả đời đã được xem đốt pháo hoa bao giờ đâu - dân làng Lönneberga chẳng dư tiền cho những trò điên rồ như thế - cho nên giờ đây thằng bé bực mình vì nỗi ở đây sẽ có một đêm pháo hoa cực kỳ hoành tráng mà nó lại chẳng được xem, bởi trước lúc trời tối cả nhà nó đã phải lên đường trở về trang trại Katthult rồi.
Emil thở dài. Nghĩ cho kỹ thì đây là một ngày chợ phiên buồn thảm. Không ngựa, không pháo hoa, chỉ toàn chuyện bực mình và cả một xưởng mộc còn đang chờ đợi ai đó ở nhà. Đấy, tất cả chỉ có thế.
Emil rầu rĩ chào từ biệt Gottfried, và lên đường tìm chú Alfred, người bạn của nó, niềm an ủi của nó những lúc nó buồn.
Nhưng chú Alfred đâu nhỉ? Đường phố đông nghẹt những người, những bác nông dân đi chợ, và cư dân của thị trấn Vimmerby, cứ tán loạn hết cả lên. Gặp được chú Alfred giữa đám đông bát nháo này không phải là chuyện dễ nhất. Emil chạy loanh quanh tìm kiếm cả tiếng đồng hồ và kịp gây khá nhiều rắc rối, những rắc rối không bao giờ được ghi vào cuốn sổ xanh do không ai phát hiện ra. Nhưng chú Alfred thì nó không tìm thấy.
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối. Mấy chốc nữa mà trời nhập nhoạng, mấy chốc nữa mà chợ phiên năm nay kết thúc. Khách đi chợ đã nghĩ đến chuyện lên xe ra về, và thật ra người dân thị trấn Vimmerby cũng đã đến lúc rục rịch chuẩn bị về nhà được rồi, nhưng họ chưa muốn. Họ vẫn muốn nán lại ngoài đường mà cười, mà tán gẫu, mà làm ầm ĩ phố xá. Tất cả bọn họ đều có vẻ phấn khích lạ thường - đúng vậy, nhưng hãy xem hôm nay là một ngày thế nào chứ! Nào phiên chợ một năm mới có một lần, nào sinh nhật ông thị trưởng, rồi biết đâu lại là ngày tận thế nếu mảnh thiên thạch ấy lại vù vù lao tới thật. Chắc bạn sẽ hiểu cảm giác của người dân Vimmerby khi họ cứ đi loanh quanh dưới trời chiều chạng vạng và chờ đợi mà chẳng biết thứ họ chờ đợi sẽ vui hay khủng khiếp nữa. Khi con người ta cùng lúc vừa hân hoan lại vừa sợ hãi thì họ sẽ gây ồn ào hơn bình thường. Bởi thế mà trên các phố mỗi lúc một sôi nổi và ầm ĩ hơn. Nhưng trong các ngôi nhà lặng lẽ và yên ả, chẳng có ai ngoài lũ mèo và bà cụ này hay bà cụ khác phải ngồi nhà trông cháu nội, cháu ngoại.
Nếu bạn đã từng đi dạo qua một thị trấn như Vimmerby, có thể vào một ngày chợ phiên hoặc đúng vào lúc trời chạng vạng tối, thì bạn sẽ biết cảm giác tuyệt vời khi đi qua những con đường nhỏ lát đá và nhìn những bà cụ cùng bầy cháu nội, cháu ngoại rồi lũ mèo sau những ô cửa sổ của những căn nhà nhỏ. Và bạn cũng sẽ biết cái cảm giác hồi hộp khi lách người qua những ngõ, những cổng tối tăm và bước vào những khoảng sân tối om, nơi khách thăm chợ để những cỗ xe ngựa của họ và lúc này họ vẫn đứng luẩn quẩn trên sân, tay cầm chai bia, trước khi thắng ngựa vào xe lên đường về nhà.
Emil cũng thấy thích và hồi hộp. Chỉ lát sau nó đã quên khuấy là vừa nãy thôi nó còn rất bất bình, và nó tin rằng sớm muộn nó cũng tìm được chú Alfred. Mà nó tìm được chú Alfred thật, nhưng trước tiên nó tìm thấy một thứ khác.
Đang đi qua một ngõ nhỏ, Emil bỗng nghe thấy tiếng ầm ĩ kinh khủng vọng ra từ một cái sân tối tăm. Nó nghe tiếng đàn ông chửi rủa và tiếng một con ngựa hí. Emil lập tức vọt qua cổng vào sân xem có chuyện gì xảy ra. Điều mà Emil trông thấy cũng chẳng vui vẻ gì với nó. Trên sân có một xưởng rèn móng ngựa cũ kỹ, và trong ánh lửa Emil thấy con ngựa của nó, con ngựa lông nâu xinh đẹp của nó, lọt giữa đám đàn ông đang nổi giận đùng đùng. Bạn đoán xem tại sao họ lại tức giận? Chỉ vì con ngựa lông nâu không chịu để cho họ đóng móng sắt. Hễ bác thợ rèn thử tìm cách nhấc chân con ngựa là con ngựa lồng lên điên cuồng, chân đá tứ tung, khiến đám đàn ông chỉ còn nước chạy dạt ra. Bác thợ rèn vò đầu bứt tai không biết làm sao.
- Đời tôi, tôi đã đóng móng cho biết bao nhiêu con ngựa, - bác nói. - Nhưng tôi chưa từng gặp con nào như nó.
Có thể bạn không biết một thợ rèn móng là gì? Đó là một người đàn ông chuyên đóng giày cho ngựa. Phải, ngựa cũng cần giầy như bạn vậy, nếu không nó sẽ bị mòn móng, bị trượt chân và chạy rất khó khăn trên những con đường xấu. Tất nhiên ngựa không mang những đôi giầy bình thường, mà là miếng sắt uốn vừa vặn và đóng chặt vào móng của nó: đơn giản là những chiếc móng sắt - nếu bạn đã từng trông thấy.
Rõ ràng con ngựa lông nâu đã quyết định không chấp nhận móng sắt. Nó đứng rất yên lặng và hiền từ, như người ta không thể mong gì hơn thế, chừng nào không có ai chạm đến một trong hai chân sau của nó. Nhưng chỉ cần bác thợ rèn đưa tay vuốt nhẹ lên chân con ngựa là màn xiếc dữ dội vừa rồi sẽ lập tức tái diễn, và con ngựa sẽ giãy ra kỳ được, bất chấp cả nửa tá đàn ông đang gắng sức giữ lấy nó. Gã lái ngựa người vùng Målilla, kẻ đã mua con ngựa, mỗi lúc một cau có.
- Giờ tôi sẽ tự ra tay... - Cuối cùng gã nói và tóm mạnh một chân sau con ngựa. Nhưng gã đã bị con ngựa đá bay, rơi phịch xuống chính giữa một vũng nước mưa.
- Chà chà, thế đấy, - một bác nông dân đứng xem nói. - Tin tôi đi, không đóng móng cho con ngựa này được đâu. Vì chủ cũ của nó ở Tuna đã thử ít nhất cả hai chục lần rồi.
Thế là gã lái buôn hiểu ra mình đã bị lừa khi mua con ngựa và càng tức lồng tức lộn.
- Ai thích thì đi mà dắt cái con nghẽo chết tiệt này về! - Gã gầm lên. - Chỉ cần đây thoát được nó!
Ai bước vội lên thế nhỉ? Cố nhiên là Emil.
- Cháu có thể dắt nó về ạ, - Emil nói.
Gã lái ngựa phá lên cười:
- Choắt con như mày ư?
Là gã nói thế, chứ gã đâu định cho con ngựa đi thật. Nhưng bởi đang có đông người xúm quanh và lắng nghe, gã phải tìm cách khôn khéo gỡ bí cho đỡ ngượng. Vì thế gã bảo:
- Tất nhiên mày sẽ được con ngựa, với điều kiện mày có thể giữ chặt chân nó để chúng tao đóng móng cho nó.
Tất cả mọi người đứng đó đều cười ồ, vì chính họ đã từng thử và biết không ai có thể giữ được con ngựa này.
Nhưng bạn chớ nghĩ rằng Emil ngu ngốc. Thằng bé hiểu biết về ngựa hơn bất kỳ ai ở làng Lönneberga cũng như khắp vùng Smăland. Và ban nãy, khi con ngựa lông nâu lồng lộn, đá lung tung và hí lên hung tợn, Emil đã tự nhủ: Nó phản ứng y như cô Lina ở nhà khi cô bị cù vậy!
Chính xác là như vậy, và Emil là người duy nhất hiểu được điều ấy! Rất đơn giản là con ngựa có máu buồn. Vì thế con ngựa mới thở phì phò và tung vó loạn xạ y như cô Lina, và nó hí to nhường ấy cũng bởi nó cười gần chết như cô Lina khi ai đó chạm vào chân sau của nó. Chính bạn cũng biết cảm giác thế nào khi bị cù mà.
Thế là Emil đi đến bên con ngựa, đưa đôi tay khỏe khoắn bé nhỏ ôm lấy đầu con ngựa.
- Nghe này, ngựa ơi, - nó nói. - Đừng giận dữ nữa nhé. Mày phải có móng sắt chứ. Tao hứa sẽ không cù mày đâu.
Đoán xem Emil làm gì tiếp nào! Nó vòng ra sau con ngựa, nắm thật nhanh một móng sau và nhấc lên. Con ngựa chỉ ngoái đầu lại và nhìn Emil rất thân thiện, như thể muốn xem Emil đang định làm gì. Vì bạn thấy đấy, ngựa cảm nhận ở móng không hơn gì bạn cảm nhận ở móng tay, và giờ thì bạn biết nó không hề có cảm giác buồn hay nhột gì ở đó.
- Mời bác, - Emil bảo bác thợ rèn. - Bác hãy đem móng sắt lại đây! Cháu giữ chặt nó rồi.
Tiếng trầm trồ rộ lên trong đám đông, và họ còn tiếp tục trầm trồ khi Emil giúp bác thợ rèn đóng móng sắt vào cả bốn vó của con ngựa.
Nhưng khi công việc xong xuôi, gã lái ngựa bắt đầu trở mặt. Gã thừa biết mình đã hứa gì, nhưng không muốn giữ lời. Thay vào đó, gã rút ví đưa tờ năm đồng cho Emil.
- Thế này hẳn đã đủ rồi, - gã nói.
Nhưng đám đông nổi giận. Tất thảy bọn họ đều trọng danh dự và quen hành xử theo phương châm “Quân tử nhất ngôn”.
- Đừng có giở trò nữa, - họ nói. - Con ngựa là của thằng bé!
Thế là đã quyết định. Mọi người đều biết gã lái ngựa rất giàu có và vì sĩ diện gã sẽ phải giữ lời.
- Thôi được, ba trăm đồng bạc đâu phải cả thế gian, - gã nói. - Nhận lấy cón nghẽo và xéo đi!
Hãy đoán xem Emil mừng rỡ tới cỡ nào! Nó nhảy phắt lên lưng con ngựa vừa đóng móng của mình và đi ra cổng, hiên ngang như một vị tướng quả cảm nhất. Cả đám nông dân đồng thanh hô “Hurra!”, còn bác thợ rèn thì bảo:
- Những chuyện như thế này chỉ xảy ra khi có chợ phiên ở Vimmerby.
Emil cưỡi ngựa xuyên qua đám đông đang họp chợ với vẻ sung sướng và kiêu hãnh, khiến xung quanh chỉ còn biết ngước nhìn ngưỡng mộ. Trên phố chính, đúng nơi người ngựa chen chúc nhất, nó quả nhiên chạm mặt chú Alfred.
Chú Alfred đứng sững lại, trố mắt nhìn:
- Ôi chao, ôi chao, - chú kêu lên. - con ngựa nào vậy hở?
- Ngựa của cháu, - Emil đáp. - Nó tên là Lukas. Chú tin cháu đi: Nó có máu buồn y như cô Lina!
Đúng lúc đó cô Lina chạy tới, kéo tay chú Alfred.
- Chúng mình phải về nhà thôi, - cô nói. - Ông chủ đang thắng ngựa vào xe rồi.
Phải, giờ đây mọi sự vui vẻ đã chấm dứt. Giờ đây những người của trang trại Katthult muốn trở về làng Lönneberga. Nhưng Emil nhất định muốn làm một việc nữa: Nó phải khoe con ngựa với Gottfried.
- Bảo với bố cháu là năm phút nữa cháu sẽ quay lại!
Emil kêu to và thúc ngựa đi đến nhà ông thị trưởng, tiếng móng ngựa gõ vang trên con đường lát đá.
Màn chiều tháng Mười đã buông xuống khu vườn và khu nhà của ông thị trưởng, nhưng mọi ô cửa sổ đều rực rỡ ánh đèn và từ trong nhà vọng ra tiếng cười nói vui vẻ. Tiệc sinh nhật của ông thị trưởng đang vào lúc cao trào.
Ngoài vườn, Gottfried đang đi tới đi lui với đôi cà kheo. Nó vốn chẳng ưa gì tiệc tùng nên bỏ ra đây. Vừa trông thấy Emil cưỡi ngựa tới, nó đã ngã cắm đầu xuống bụi tử đinh hương.
- Ngựa của ai thế? - Chưa kịp ngóc đầu lên nó đã hỏi.
- Của tớ, - Emil đáp. - Con ngựa thuộc về tớ.
Thoạt đầu Gottfried không muốn tin, nhưng cuối cùng khi đã hiểu ra, nó nổi giận. Nó đã mất công rót vào tai bố nó bao nhiêu lần là hãy mua ngựa cho nó. Nó từng năn nỉ bố suốt từ sáng đến tối - và bố đã luôn luôn trả lời nó như thế nào chứ?
- Con còn quá nhỏ. Không có đứa trẻ nào ở tuổi con mà lại có ngựa cả!
Một lời nói dối trắng trợn làm sao! Bây giờ thì Emil đã tới đây rồi - bây giờ bố có thể tự thấy, nếu trên đầu bố vẫn còn có hai con mắt và nếu bố chịu ra đây mà nhìn! Nhưng bố còn đang mải ngồi trong nhà còn tiệc tùng cơ, Gottfried giải thích cho Emil. Bố ngồi lì giữa một đám những kẻ ngu ngốc, những kẻ chỉ biết ăn, uống, tán chuyện và diễn thuyết không bao giờ dứt.
- Tớ không thể lôi bố ra đây, - Gottfried buồn bã nói, nước mắt rơm rớm.
Emil thấy thương Gottfried và nó không bao giờ bối rối khi nghĩ cách giải quyết. Nếu ông thị trưởng không thể ra với con ngựa, thì con ngựa có thể vào với ông thị trưởng chứ sao, khó khăn gì đâu. Chỉ cần đi lên cầu thang, qua cửa, qua sảnh là vào phòng tiệc thôi mà. Việc duy nhất mà Gottfried phải làm là mở và giữ hộ các cánh cửa.
Nếu bạn đã từng có mặt trong một bữa tiệc, nơi đột nhiên có một con ngựa lừng lững tiến vào, thì bạn biết không ít người sẽ tròn mắt và giật thót cả người, như thể suốt đời họ chưa từng thấy một con ngựa! Ở bữa tiệc này cũng thế. Đặc biệt là ông thị trưởng. Ông giật mình đến nỗi một miếng bánh to tướng mắc nghẹn trong cổ ông.
Vì vậy mà ông không thể thốt ra một lời chống chế khi thằng con Gottfried gào lên:
- Giờ thì bố nói gì nào? Nhìn đây, giờ thì bố đã thấy trẻ con cũng có ngựa rồi nhé!
Thực ra trong thâm tâm đám thực khách lấy làm hoan hỉ khi con ngựa xuất hiện, mà điều này cũng hoàn toàn tất nhiên thôi, vì ngựa là loài vật đáng yêu. Ai cũng muốn vuốt ve con Lukas. Emil ngồi trên lưng ngựa, mỉm cười mãn nguyện. Họ cứ việc vuốt ve con ngựa của nó.
Nhưng rồi một ông đại tá già tiến lại gần, ông ta muốn chứng tỏ mình sành ngựa đến thế nào và định véo yêu vào cẳng con ngựa. Trời ạ, ông ta đâu biết Lukas là chúa có máu buồn! Đúng lúc ông thị trưởng vừa tạm nuốt trôi miếng bánh và toan nói gì đó với Gottfried, thì ông đại tá véo vào cẳng sau con Lukas. Con ngựa lập tức tung vó đá văng chiếc bàn nhỏ đặt cạnh đó, khiến cả chiếc bánh kem bày trên bàn bay vèo ngang căn phòng, úp đánh “bẹt!” vào chính giữa mặt ông thị trưởng.
- Blupp, - ông thị trưởng chỉ thốt lên được có thế.
Lạ một điều là tất cả đều phá lên cười, họ cũng chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Riêng phu nhân thị trưởng không dám cười. Sợ hãi, bà vơ cái đĩa lớn lật đật chạy đến và bắt tay vào việc cào kem trên mặt đức ông chồng, để chí ít ông cũng hở được hai lỗ quanh mắt mà nhìn ra, nếu không làm sao ông thấy được chuyện gì sẽ còn tiếp diễn tại bữa tiệc sinh nhật của mình.
Nhưng sực nhớ ra đã đến lúc phải trở về nhà ở làng Lönneberga, Emil vội phi ngựa ra cửa. Gottfried chạy theo, vì đằng nào cũng chưa nói được chuyện với bố khi mặt ông phủ đầy những bánh kem, hơn nữa Gottfried không nỡ rời xa con ngựa.
Emil đứng lại đợi bên cổng vườn để chào tạm biệt.
- Cậu may thế, - Gottfried vừa nói vừa vuốt ve con ngựa lần cuối.
- Ừ, tớ may thật, - Emil đáp.
Gottfried thở dài.
- Nhưng dù sao chúng tớ cũng sẽ có một màn pháo hoa ra trò, - Gottfried nói như để tự an ủi. - Pháo kia kìa!
Gottfried chỉ cho Emil thấy cả đống pháo trên chiếc bàn kê trong vườn giữa những bụi tử đinh hương, thế là Emil lập tức nóng ran cả người. Chắc chắn là Emil đang vội rồi - nhưng trong suốt cuộc đời đáng thương của mình, nó chưa từng được biết thế nào là pháo hoa.
- Tớ có thể châm thử một quả xem sao, - nó nói. - Xem nổ có giòn không.
Gottfried chẳng nghĩ ngợi lâu. Nó nhặt từ đống pháo lên một quả và bảo:
- Được, nhưng chỉ quả pháo ếch nhỏ này thôi đấy!
Emil gật đầu, tụt khỏi lưng ngựa:
- Ừ, chỉ quả pháo ếch nhỏ này thôi. Cho tớ xin que diêm được không?
Nó nhận que diêm. Và... pip… pap, quả pháo ếch nhỏ vừa nổ vừa nhảy loi choi. Được, nổ giòn đấy! Quả pháo nhảy tới nhảy lui, cuối cùng nhảy lên chiếc bàn, chui tọt vào giữa đống pháo. Hẳn quả pháo không muốn ở một mình, tôi đoán thế. Nhưng cả Gottfried và Emil đều không hề nhận thấy điều này, vì đúng lúc đó chúng nghe tiếng gọi to đằng sau lưng. Đó là ông thị trưởng đang chạy tất tả xuống bậc tam cấp ra vườn, ông muốn nói chuyện với hai đứa. Lúc này mặt ông đã gần như sạch kem, chỉ bộ râu là vẫn trắng lấp loáng trong màn đêm tháng Mười.
Trên các phố thị trấn Vimmerby, người dân Vimmerby vẫn còn đang dạo chơi, cười đùa, hò reo mà không biết mình đang chờ đợi một điều gì đó vui vẻ hay khủng khiếp.
Và rồi nó đến! Cái điều khủng khiếp mà họ đã rùng mình chờ đợi. Đột nhiên cả bầu trời phía trên nhà ông thị trưởng chìm trong lửa. Đột nhiên khắp thế gian tràn ngập những con rắn rực đỏ gầm rít, những vầng sáng chói lòa và những chùm lửa dội từ trên cao xuống. Những tiếng nổ chát chúa, đùng đoàng rồi tiếng rít và xé gió tạo thành một tạp âm ghê rợn đến nỗi đám cư dân tội nghiệp của thị trấn Vimmerby sợ hãi xanh xám hết mặt mày.
- Thiên thạch! - Họ rú lên. - Cứu với! Chúng tôi chết mất!
Chưa bao giờ ở thị trấn này tiếng than khóc lại nổi lên ầm ĩ như thế, và ai nấy đều đinh ninh giờ tận số của mình đã điểm. Những kẻ đáng thương! Chẳng có gì lạ khi họ cứ ra sức gào rú và ngã lăn ra bất tỉnh, chất thành đống trên đường phố. Duy có bà Petrell vẫn điềm nhiên ngồi trên sân thượng mà ngắm nhìn những trái bóng lửa bay loạn xạ.
- Ta không tin vào chuyện thiên thạch, - bà thủ thỉ với con mèo của mình. - Ta đánh cuộc lại thằng bé Emil bày trò đấy thôi.
Bà Petrell đã nói chí lý. Dĩ nhiên chính là Emil và quả pháo ếch nhỏ của nó đã làm cho cả đống pháo “nổ giòn” và bay tung hết lên trời.
Nhưng thật may là ông thị trưởng đã mò ra vườn đúng lúc, nếu không có lẽ ông đã chẳng được thưởng thức màn pháo hoa tuyệt vời vốn dành mừng sinh nhật ông. Còn bây giờ ông ở đó, nơi tập trung nhiều tiếng nổ và chớp lửa nhất, và quả thật ông rất vất vả khi cứ phải nhảy loi choi hết qua phải lại qua trái để tránh những quả cầu lửa cứ rin rít bay sát sạt ngang tai. Emil và Gottfried đoán ông thích thú lắm, vì mỗi lần nhảy cẫng lên ông lại hét to hoan hỉ. Chỉ khi bị một quả pháo bay tọt vào một bên ống quần, thì ông thị trưởng mới tức giận ra mặt. Nếu không tại sao ông lại rú lên một tiếng khủng khiếp và cứ bướng bỉnh rú mãi lên như thế trong khi vội vã chạy lại chum nước ở góc nhà và nhúng cả cẳng chân vào đó như một người điên! Ai lại nhúng pháo vào nước cơ chứ, sẽ bị xịt ngóm còn gì là pháo! Lẽ ra ông thị trưởng phải tính được như vậy.
- Cuối cùng thì tớ cũng đã được xem pháo hoa rồi, - Emil nói. Nó đang nằm nấp cạnh Gottfried sau kho củi nhà ông thị trưởng.
- Ừ, giờ thì quả là cậu đã được xem một màn pháo hoa, - Gottfried đáp.
Rồi chúng im lặng chờ đợi. Cũng chẳng chờ đợi gì đặc biệt, mà chỉ chờ cho ông thị trưởng thôi lượn vè vè trong vườn như một con ong vò vẽ to kềnh càng hung dữ.
Nhưng sau đó một lát, khi cỗ xe ngựa trang trại Katthult lăn bánh trở về làng Lönneberga, thì tất cả những vầng pháo sáng và những quả bóng lửa đều đã tắt ngóm từ lâu. Chỉ các vì sao còn nhấp nháy trên những ngọn thông. Rừng tối om, đường cũng tối om, nhưng Emil vẫn sung sướng hát vang khi nó cưỡi ngựa đi xuyên bóng đêm:

Ha-hop! Bố yêu ơi!
Thế mới là con ngựa của tôi:
Ngựa nhanh nhất, giỏi nhất trên đời
Lại chẳng tốn tiền, thế mới hời!

Còn bố Emil ngồi đánh xe, rất hài lòng về cậu con trai. Chắc chắn là thằng bé đã khiến bà Petrell và cả thị trấn Vimmerby suýt phát điên với những trò nghịch ngợm và màn trình làng thiên thạch của nó, nhưng chẳng phải Emil cũng đã kiếm được hẳn một con ngựa đó sao? Mà lại chẳng tốn lấy một xu - mà rốt cuộc đây mới là điều then chốt. Đào đâu ra ở khắp làng Lönneberga một thằng bé như thế, và lần này thằng bé sẽ không bị nhốt vào xưởng mộc, bố Emil bụng bảo dạ như vậy.
Hơn nữa bố lại đang lâng lâng khoan khoái, có lẽ vì đúng lúc cả nhà định lên đường về thì bố gặp một người quen cũ và được ông này mời uống hẳn mấy chai bia. Bình thường bố không uống bia, không, bố không phải hạng người thích bia bọt, nhưng nếu đã được mời uống không mất tiền thì bố còn biết làm thế nào khác?
Bố Emil phấn khích quất ròi đèn đẹt trong lúc đánh xe ngựa và thét vang:
- Ông bố tô ố t ở trang trại Katthult… người đàn ông qua a an trọng đang đến!
- Ha ha ha, phải, phải, - mẹ của Emil nói. - May quá, không phải ngày nào cũng có phiên chợ hàng năm. Ồ, được trở về nhà mới sướng làm sao!
Bé Ida đang ngủ trong lòng mẹ, hai bàn tay ôm chặt món quà chợ phiên của nó. Đó là một cái giỏ nhỏ bằng sứ màu trắng với những bông hồng cũng bằng sứ, trên có dòng chữ “Kỷ niệm Vimmerby”.
Trên hàng ghế sau, cô Lina tựa vào cánh tay chú Alfred mà ngủ. Cánh tay chú Alfred cũng ngủ, vì bị cô Lina tỳ vừa nặng vừa lâu. Nhưng ngoài ra chú đang tươi tỉnh và vô cùng phấn chấn, đúng như một nông dân thực thụ. Chú quay sang bảo Emil đang cưỡi ngựa đi bên cạnh:
- Mai nhà ta chở phân cả ngày, sẽ vui lắm đấy.
- Mai cháu sẽ cưỡi con ngựa của cháu cả ngày, - Emil nói. - Sẽ vui lắm đấy.
Đúng lúc ấy cả nhà quành vào chỗ rẽ cuối cùng và cả nhà có thể trông thấy ánh sáng sau ô cửa sổ bếp của trang trại Katthult, nơi bà Krösa-Maja đang chờ họ về ăn tối.
Lúc này bạn có thể tưởng tượng rằng Emil sẽ thôi bày trò nghịch ngợm chỉ vì nó đã có một con ngựa. Nhưng không phải như thế. Hai ngày liền nó mê mải cưỡi ngựa chạy loăng quăng, nhưng sang ngày thứ ba tức ngày mồng 3 tháng Mười một, nó lại bắt đầu giở trò... Hô hô hô, cứ nghĩ đến đấy là tôi không sao nhịn được cười. Là thế này, đúng vào hôm đó, Emil đã… Thôi, dừng lại! Dừng lại! Tôi đã hứa với mẹ của Emil là sẽ không bao giờ kể cái thằng bé đã gây ra chuyện gì trong ngày mồng 3 tháng Mười một đấy, vì sau trò quỷ quái đó dân làng Lönneberga đã quyên góp tiền - bạn vẫn nhớ chứ - và muốn gửi Emil sang Mỹ. Sau này mẹ của Emil chỉ ước gì quên được mọi sự. Bà cũng không hề ghi lại chuyện này vào cuốn vở xanh, vậy thì hà cớ gì tôi lại phải kể ra đây nhỉ? Không, và thay vào đó bạn sẽ được nghe chuyện Emil đã làm gì trong ngày thứ Hai của lễ Giáng sinh. Đó là:

Thứ Hai, ngày 26 tháng Mười hai, ngày Emil tổ chức “cuộc tổng càn quét ở Katthult” và bắt được mụ Maduskan trong bẫy sói.

Trước khi có thể đón lễ Giáng sinh, người ta còn phải vượt qua mùa Thu lạnh giá, mùa gió và u ám, cái tiết trời chẳng dễ chịu ở bất kỳ đâu. Cũng chẳng dễ chịu ở Katthult. Dưới màn mưa phùn, chú Alfred lầm lũi theo sau hai con bò cày thửa ruộng rắn như đá, bám sau chú là Emil bước thập thõm trên luống cày. Nó giúp chú Alfred thúc giục mấy con bò vừa lười chảy thây vừa hầu như không hiểu nổi tại sao ruộng cứ phải cày mới tốt. Nhưng rồi chẳng mấy chốc trời đã nhá nhem tối, nên chú Alfred tháo cày ra và cả bọn lê bước về nhà: chú Alfred, Emil và hai con bò. Sau đó hai chú cháu cứ thế dận nguyên cả ủng còn bê bết những tảng bùn lớn vào bếp khiến cô Lina nổi đóa vì cô sợ họ bôi bẩn sàn bếp vừa cọ sạch của cô.
- Người đâu mà đanh đá, - chú Alfred nói. - Ai cưới phải ngữ này thì đố còn nổi một giây yên tĩnh cho tới lúc chết.
- Vâng, mà chắc là chú chứ ai, - Emil đáp.
Chú Alfred im lặng nghĩ ngợi.
- Không, cháu thấy đấy, không phải chú, - cuối cùng chú Alfred nói. - Chú chẳng dám. Nhưng chú cũng không dám nói với cô ấy điều đó.
- Chú muốn cháu nói hộ không? - Emil, thằng bé rất can đảm và sốt sắng, bèn hỏi. Nhưng chú Alfred không muốn.
Chú Alfred cứ suy nghĩ mãi xem làm thế nào để cô Lina hiểu là chú không muốn cưới cô, nhưng chẳng nảy ra được ý gì hay ho.
Lúc này bóng tối mùa Thu đã đè nặng lên trang trại Katthult. Mới ba giờ chiều mà đã phải thắp đèn dầu trong bếp, nơi mọi người ngồi quây quần, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil đang quay guồng kéo những sợi len trắng mịn sẽ dùng để đan bít tất cho Emil và bé Ida. Cô Lina cào bông và bà Krösa-Maja cũng vậy, nếu bà có mặt. Bố Emil vá giày và nhờ thế tiết kiệm được vô khối tiền mà đáng ra bác thợ giày trong làng đã được đút túi. Chú Alfred cũng chăm chỉ không kém, chú đang tự mạng lấy bít tất. Những chiếc tất của chú thường xuyên thủng những lỗ to tướng ở ngón chân cái và gót chân, nhưng chú đã nhanh chóng khâu tịt chúng lại. Cô Lina rất muốn giúp, nhưng chú không khiến.
- Không, cháu thấy đấy, để chú bị sa vào bẫy à, - chú Alfred giải thích với Emil. - Trót nhờ rồi, thì sau này có khéo nói đến đâu cũng đừng hòng cô ấy chịu hiểu.
Emil và bé Ida thường chui dưới gầm bàn chơi với con mèo. Lần nọ Emil cố thuyết phục Ida rằng con mèo thực ra là một con sói, và khi thấy cô em nhất định không chịu tin, thằng anh bèn bắt chước tiếng sói tru khiến ai nấy trong bếp đều giật thót người. Mẹ muốn biết sao Emil lại tru lên như thế. Emil đáp:
- Chúng con đang có một con sói dưới gầm bàn ạ.
Lập tức bà Krösa-Maja bắt đầu kể chuyện sói, và lập tức cả Emil và bé Ida lần lượt hớn hở bò ra khỏi gầm bàn để lắng nghe. Thế nào cũng sắp có cái gì đó kinh dị, chúng biết thế, vì bà Krösa-Maja toàn kể những chuyện kinh dị. Nếu không phải chuyện lũ sát nhân hay trộm cắp, ma quỷ, thì lại là những cảnh chặt đầu ghê rợn, giàn thiêu khủng khiếp, tai nạn kinh hoàng, bệnh tật chết người hoặc những con thú nguy hiểm. Ví như sói chẳng hạn.
- Thời tôi còn nhỏ, - bà Krösa-Maja mở đầu, - ở xứ Smăland này có rất nhiều sói.
- Nhưng Đức Vua Karl thứ Mười Hai đã đến và bắn chết chúng… may quá! - Cô Lina xen vào.
Thế là bà Krösa-Maja nổi giận. Bà cao tuổi thật, nhưng đâu đã già tới mức như cô Lina tưởng.
- Cô thì biết gì mà nói, - bà mắng và không muốn kể chuyện nữa. Nhưng Emil cứ ngon ngọt năn nỉ và thúc ép quá, nên cuối cùng bà lại nhượng bộ và kể cơ man là chuyện đáng sợ về bầy sói và chuyện thời xưa, khi bà còn nhỏ, người ta đã đào bẫy sói như thế nào, và bắt được sói trong đó ra sao.
– Thế nghĩa là Karl thứ Mười Hai khỏi cần đến nữa... - Cô Lina lại bắt đầu ngứa miệng, nhưng cô đã vội im tịt, vì bà Krösa-Maja lại tức mình, và điều đó cũng không có gì lạ. Karl thứ Mười Hai là vị vua sống cách đây hàng trăm năm, bạn nên biết thế, mà bà Krösa-Maja đâu có già khú già khụ đến mức ấy.
Nhưng Emil lại làm bà mềm lòng lần nữa. Thế là bà Krösa-Maja kể về người sói, loài đáng sợ nhất trong các loài sói, luôn chỉ lượn lờ dưới ánh trăng. Người sói biết nói, bà Krösa-Maja bảo, vì chúng không phải những con sói thường, mà nửa người nửa sói, là loài thú đáng sợ nhất. Ai không may gặp phải người sói trong những đêm trăng thì yên tâm nói lời vĩnh biệt với trần gian, vì trên đời này không có loài dã thú nào tệ hại hơn. Và chính vì vậy mà người ta cần ở trong nhà vào những đêm trăng rằm - bà Krösa-Maja nói vậy, mắt chằm chằm nhìn cô Lina với vẻ tức giận.
- Mặc dù Karl thứ Mười Hai… - Cô Lina lại mở miệng. Thế là bà Krösa-Maja quăng luôn cái bàn chải cào bông đi và tuyên bố đã đến lúc bà phải về nhà, vì bà đang cảm thấy thực sự già nua và mệt mỏi.
Nhưng tối đến, khi đã lên giường nằm, Emil và bé Ida lại bàn luận về những con sói.
- May mà bây giờ không có sói nữa, - bé Ida bảo.
- Không có là thế nào? - Emil vặc lại. - Sao em biết được, khi mà em chẳng có cái bẫy nào để bẫy chúng?
Emil nằm thao thức, nghĩ ngợi rõ lâu. Càng nghĩ, nó càng tin chắc rằng chỉ cần có một cái bẫy sói là thể nào nó cũng bắt được một con sói trong bẫy. Vốn nhanh nhẹn, ngay sáng hôm sau Emil đã bắt tay vào đào một cái bẫy sói trên khoảng đất giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn. Đây là nơi rất nhiều bụi lá han sẽ mọc vào mùa hè, nhưng lúc này chúng đã thâm đen, héo rũ trên mặt đất.
Phải mất khá lâu mới đào xong bẫy sói. Hố bẫy phải sâu để con sói sa xuống rồi thì không tài nào leo lên được nữa. Thi thoảng chú Alfred lại đào giúp Emil vài nhát thuổng, ấy vậy mà mãi đến trước kỳ lễ Giáng sinh cái bẫy mới hoàn tất.
- Thế mà lại hay, - chú Alfred nói. - Vì lũ sói sẽ không mò ra khỏi rừng chừng nào chưa vào tiết đông giá lạnh và chúng chưa đói rã họng.
Bé Ida rùng mình khi nghĩ đến những con sói đói trong rừng sẽ rón rén mò ra giữa đêm đông giá lạnh và vừa cất tiếng tru vừa lượn lờ quanh các góc nhà. Nhưng Emil chẳng rùng mình. Mắt sáng rỡ, nó nhìn chú Alfred, trong lòng khấp khởi nghĩ đến con sói sẽ sa xuống bẫy.
- Bây giờ cháu chỉ còn việc lấy cành cây phủ lên trên để con sói không phát hiện ra cái bẫy,- Emil hài lòng tuyên bố.
- Đúng thế! Ở đời phải có mưu mẹo, Stolle - Jocke nói và bắt rận bằng ngón chân, - chú Alfred liền phụ họa.
Đó là câu cửa miệng của dân làng Lönneberga. Riêng chú Alfred lẽ ra không được phép nói vậy, vì Stoll-Jocke là ông nội của chú, cụ hiện đang tá túc trong trại tế bần của làng. Mà đã là cháu thì không được phép đưa ông nội mình ra làm trò cười. Tất nhiên chú Alfred nói không có chút ác ý nào, không đời nào. Chú chỉ nhắc lại lời mà tất cả những người khác đều nói thôi.
Bây giờ thì còn phải đợi mùa Đông thế nào cũng phải đến. Và mùa Đông đến thật. Trước Giáng sinh ít ngày có sương giá, rồi bỗng nhiên tuyết bắt đầu rơi khiến ai nấy đều mừng rỡ. Tuyết rơi trên khắp trang trại Katthult, trên khắp làng Lönneberga, trên khắp vùng Smăland, cho tới khi tất cả đều bị phủ kín dưới một tấm chăn tuyết duy nhất. Những tấm ván rào vẫn nhô lên vừa đủ để người ta có thể nhìn ra đâu là đường. Nhưng bây giờ không ai còn có thể nhận biết được ở khoảng giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn có một cái bẫy sói. Tuyết phủ trên miệng bẫy như một tấm thảm mỏng màu trắng, và tối nào Emil cũng cầu nguyện sao cho những cành cây tấp trên miệng hố không bị sập trước khi một con sói dẫn xác đến và rơi bịch xuống hố.
Lúc này mọi người ở trang trại Katthult khá bận bịu, vì lễ Giáng sinh ở đây được chuẩn bị khá kỹ càng. Trước tiên là tổng giặt giũ chăn ga gối đệm. Cô Lina và bà Krösa-Maja quỳ trên cái cầu lạnh ngắt bên dòng suối ở Katthult mà giặt. Cô Lina vừa khóc vừa thổi phù phù vào những ngón tay tê cóng vì giá lạnh. Con lợn được vỗ béo cho lễ Giáng sinh bị đem ra mổ thịt và bây giờ, theo lời cô Lina, trong bếp hầu như chẳng còn chỗ nào mà đứng nữa. Đâu đâu cũng la liệt nào giò nạc, thịt băm viên, nào xúc xích rán, dồi gan, rồi đùi lợn muối, sườn lợn hun khói, và những món gì gì nữa tôi chịu không biết hết. Đã là Giáng sinh thì phải có bia tươi nữa. Mẹ Emil đã ủ bia trong cái thùng gỗ to tướng trong kho. Còn bánh thì ôi chao, mẹ làm nhiều loại đến nỗi chỉ nhìn cũng đủ chóng mặt: nào bánh siro, bánh mạch đen, bánh nghệ, bánh mì, bánh quế, và đặc biệt là những chiếc bánh vừng xinh xinh, rồi bánh kem, bánh quy nhiều màu, bánh rắc đường... chẳng tài nào kể ra cho hết. Tất nhiên cũng phải có nến nữa. Mẹ Emil và cô Lina thức gần một đêm để đổ nến, những cây nến to, nến nhỏ, rồi nến hình cây thông, vì dù sao cũng sắp Giáng sinh rồi. Chú Alfred và Emil thắng con Lukas vào cỗ xe trượt bằng gỗ và đi vào rừng chặt một cây thông đem về làm cây thông Noel, trong khi bố vào kho thóc lôi ra mấy bó lúa mạch mà bố đã cất dành cho bầy chim sẻ.
- Tất nhiên thế này là quá ư lãng phí, - bố nói. - Nhưng Giáng sinh thì lũ chim sẽ cũng phải được một lần chén thỏa thuê chứ.
Còn nhiều nữa những đối tượng mà người ta phải nghĩ đến, nhiều những đối tượng cũng cần một bữa no vào dịp Giáng sinh. Đó là những kẻ nghèo khó đang tá túc trong trại tế bần! Chắc chắn bạn không biết trại tế bần là gì, và bạn hãy mừng về điều đó. Trại tế bần là một thứ từng có ngày xưa, và nếu tôi kể tất cả thật chi tiết về nó, thì câu chuyện sẽ hẳn còn ghê rợn hơn mọi thứ chuyện kinh dị mà bà Krösa-Maja thường kể về bọn sát nhân, ma quỷ và dã thú. Nếu bạn tưởng tượng một căn lều nhỏ tồi tàn ngăn làm vài gian, nơi toàn những ông già bà lão tiều tụy, nghèo khổ chung sống giữa một mớ hỗn độn những rác rưởi, giẻ rách, chấy rận, đói khát và khốn khó, thì bạn sẽ biết thuở đó người nghèo sống ra sao trong trại tế bần. Chắc chắn trại tế bần ở làng Lönneberga không tệ hơn trại tế bần nơi nào khác, nhưng cũng đủ kinh khủng cho ai phải đến đó nương thân khi đã già yếu và không còn tự lo cho bản thân được nữa.
- Tội nghiệp ông nội, - chú Alfred thường nói. - Ông chẳng được lấy một ngày vui vẻ. Giá như ở đó đừng có mụ Maduskan hống hách, thích gây gổ tác oai tác quái thì còn đỡ!
Mụ đàn bà hổ lửa này nắm quyền sinh quyền sát trong trại tế bần. Chắc chắn mụ cũng chỉ là một người sống nương nhờ trong trại, nhưng mụ to cao nhất, khỏe nhất và độc ác nhất, và vì thế là người ra lệnh ở đây - điều mà đáng lẽ đã chẳng thể xảy ra, nếu Emil có cách nào lớn mau hơn và sớm trở thành ông chủ tịch hội đồng xã hơn. Nhưng đáng tiếc nó vẫn còn là một thằng bé và chưa thể làm gì để chống lại mụ Maduskan. Ông nội của chú Alfred sợ mụ và những người khác trong trại tế bần cũng sợ mụ.
- Nhìn xem mụ bước đi dữ dằn như một con sư tử cái giữa bầy cừu, - cụ Stolle-Jocke luôn nói vậy. Cụ có hơi lập di, cái cụ Jocke này, và nói năng cứ như trích dẫn Kinh Thánh, nhưng cụ nhân hậu và chú Alfred rất yêu người ông già nua của mình.
Những người già sống trong trại tế bần hầu như chẳng bao giờ được ăn no, đúng là quá khổ, mẹ Emil nghĩ vậy.
- Tội nghiệp các cụ, họ cũng phải có chút gì cho ấm bụng vào dịp Giáng sinh chứ, - mẹ bảo. Và vì thế mà vài ngày trước Giáng sinh người ta trông thấy Emil và bé Ida cùng xách một giỏ lớn đi trên con đường tuyết phủ đến trại tế bần. Mẹ đã xếp vào giỏ toàn những thứ ngon lành, mỗi món một ít, đủ tất cả các loại xúc xích, thịt lợn hun khói, đùi lợn muối, thịt băm viên, rồi bánh mì trắng, bánh tiêu đen, bánh ngọt Giáng sinh, lại cả những cây nến và một hộp thuốc lá ngửi cho cụ Stolle-Jocke nữa.
Chỉ ai bản thân cũng đã từng phải nhịn đói lâu ngày mới hình dung nổi các cụ ở trại tế bần hoan hỉ tới mức nào khi Emil và bé Ida mang đồ ăn đến. Tất cả bọn họ không mong ước gì hơn là lập tức đánh chén: nào cụ Stolle-Jocke, và cụ Kalle-Caro, cụ Johann-Một xu, cụ Niklas-Ve chai, cụ bà Fia-Tổ Đỉa, cụ bà Ulla-Tiên đoán tai ương, các cụ Vibergsche và Salia Amalia và còn nhiều nhiều cụ nữa bất kể tên gì. Nhưng mụ Maduskan quyết định:
- Không được ăn trước ngày Giáng sinh, ta nói để các ngươi biết!
Thế là chẳng ai dám hé răng cãi lại.
Emil và Ida ra về. Rồi đến ngày Giáng sinh. Hôm đó và những hôm sau nữa ở trang trại Katthult thật tuyệt. Tất cả mọi người cùng đến nhà thờ làng Lönneberga dự lễ Chúa Giáng sinh, và Emil thật sự vui sướng khi ngồi trên xe trượt, vì hai con ngựa Markus và Lukas phi nhanh đến nỗi tuyết bay xoáy quanh vó chúng và chúng bỏ xa các cỗ xe trượt khác.
Suốt buổi lễ, Emil ngồi ngoan ngoãn và yên lặng tại chỗ, phải, Emil cư xử đúng mực đến nỗi mẹ nó ghi lại như sau vào cuốn vở xanh:
“Thằng bé thực ra rất ngoan đạo; nó không bày tý trò nghịch ngợm nào trong nhà thờ”.
Cả ngày lễ Giáng sinh đầu tiên Emil vẫn hiền hòa như thế. Nó và bé Ida ngoan ngoãn chơi những món quà Giáng sinh, và khắp trang trại Katthult yên ả tuyệt vời.
Nhưng rồi sang ngày Giáng sinh thứ hai, bố mẹ Emil phải đến Skorphult dự tiệc Giáng sinh. Skorphult là một trang trại ở tít đầu làng bên kia. Dân làng Lönneberga chẳng ai lạ gì Emil, thế nên trẻ con nhà này không được mời dự tiệc.
- Dào, anh cóc cần, - Emil nói. - Chỉ tội nghiệp cho nhà Skorphult. Cứ thế này thì những con người đáng thương ấy chẳng khi nào làm quen được với anh!
Tất nhiên bố mẹ định để cô Lina ở nhà trông bọn trẻ, nhưng mới sáng sớm cô đã khóc lóc và nhất định đòi về thăm mẹ cô hiện đang ở trong một túp lều gần trang trại Skorphult. Hẳn cô Lina đã hình dung sẽ tiện lợi biết bao nếu cô được đi ké xe trượt, vì đằng nào xe cũng chạy về hướng ấy.
- Thôi, để cháu trông nom bọn trẻ cũng được, - chú Alfred nói. - Thức ăn thì đã có sẵn. Cháu sẽ trông chừng không cho chúng nghịch diêm hoặc không cho chúng mó vào thứ này thứ khác là được chứ gì.
- Chắc chắn rồi, nhưng cậu biết thằng bé Emil thế nào rồi đấy, - bố Emil nói, mắt đăm đăm nhìn ra phía trước đầy vẻ u ám.
Nhưng mẹ đã vội xen vào:
- Emil là một thằng bé dễ thương. Nó sẽ không nghịch ngợm, chí ít là trong lễ Giáng sinh này. Thôi đừng khóc nữa, Lina, chúng tôi cho cô đi cùng đấy!
Thế là xong.
Chú Alfred, Emil và bé Ida đứng bên cửa sổ bếp nhìn theo cỗ xe trượt khuất dần sau đầu dốc. Khi cỗ xe đã mất dạng, Emil hài lòng nhảy cẫng lên mà reo:
- Hoan hô! Bây giờ bọn mình sẽ đem sự sống vào ngôi nhà này!
Nhưng bỗng bé Ida giơ ngón tay trỏ gày gò chỉ ra đường.
- Nhìn kìa, cụ Stolle-Jocke đang đến, - cô bé nói.
- Ừ, thật nhỉ, - chú Alfred bảo. - Chắc xảy ra chuyện gì rồi.
Số là cụ Stolle-Jocke không được phép đi ra ngoài. Đầu óc cụ lẩn thẩn và cụ không tự nhớ đường được. Ít nhất thì mụ Maduskan cũng khẳng định như vậy.
- Lão già không tìm nổi đường đi lẫn lối về, - mụ nói. - Mà tôi thì chẳng có thời gian đâu mà đôn đáo chạy quanh tìm lão khi lão bị lạc.
Nhưng cụ Jocke luôn tìm được đường đến trang trại Katthult, và lúc này đây cụ lê bước trên đường tựa hồ như trên vai cụ đang chồng chất bao nỗi đau. Những sợi tóc bạc trắng bay lơ phơ quanh tai cụ và chả mấy chốc cụ đã nghẹn ngào đứng trên ngưỡng cửa bếp.
- Bọn ông không được ăn thịt băm viên! - Cụ mách. - Cả xúc xích cũng không. Mụ Maduskan đã giành lấy hết.
Thế rồi cụ không nói được nữa vì khóc dữ quá.
Thế là Emil nổi giận, giận khủng khiếp tới mức cả chú Alfred và bé Ida đều không dám nhìn nó. Trong mắt Emil ánh lên vẻ hoang dại, và nó chộp một cái bát sứ để trên bàn.
- Mụ Maduskan có giỏi hãy lại đây! - Nó hét lên và ném thẳng cái bát vào tường khiến các mảnh vỡ bắn tung tóe. - Đưa khẩu “sún” cho cháu!
Chú Alfred hoảng thật sự.
- Cháu hãy bình tĩnh đã nào, - chú nói. - Tức giận như thế nguy hiểm lắm đấy.
Đoạn chú quay sang vỗ về an ủi người ông tội nghiệp của mình và hỏi tại sao mụ Maduskan lại làm một việc kinh khủng như thế, nhưng điều duy nhất cụ Jocke có thể nói được lúc này là:
- Bọn ông không được chia thịt băm viên! Cả xúc xích cũng không. Mà ông chẳng được nhận thuố-ố-c l-á-á h-í-í-ít gì sất.
Bé Ida lại chỉ tay ra đường.
- Nhìn kìa, cụ Ulla-Tiên Đoán Tai Ương đến kìa!
- Để đưa ông về đấy mà, - cụ Jocke nói và bắt đầu run bắn toàn thân.
Cụ Ulla-Tiên Đoán Tai Ương là một bà lão nhỏ bé, nhanh nhẹn sống trong trại tế bần. Lần nào cũng vậy, hễ cụ Jocke biến mất là mụ Maduskan lại bắt bà cụ đi đến trang trại Katthult. Cụ Jocke hay mò đến trang trại Katthult, là nơi ngoài việc tìm thấy đứa cháu nội Alfred cụ còn được gặp mẹ Emil, người lúc nào cũng rất ân cần với những ai nghèo khó.
Qua cụ bà Ulla-Tiên Đoán Tai Ương, mấy chú cháu Emil mới nghe thủng câu chuyện. Đồ ăn từ trang trại Katthult mang đến bị mụ Maduskan cất hết trong một cái tủ để trên căn xép áp mái vốn khá lạnh vào mùa này. Nhưng vào hôm Giáng sinh, khi định đem số đồ ăn dự trữ ra, cụ thấy thiếu một mẩu xúc xích nhỏ, thế là mụ nổi ngay cơn tam bành.
- Cứ như con sư tử cái lồng lộn giữa bầy cừu vậy, - cụ Stolle Jocke nói và cụ Ulla-Tiên Đoán Tai Ương tán thành. Ôi chao, cái mụ Maduskan đã hành họ đến khốn khổ vì mẩu xúc xích và muốn dùng bạo lực để truy cho ra tên tội đồ đã đánh cắp mẩu xúc xích.
- Nếu không, ở đây sẽ có một ngày Giáng sinh mà mới chỉ nghĩ đến thôi thiên thần của Chúa cũng phải khóc thét.- mụ hăm doạ. - Và quả sẽ thế thật, cụ bà Ulla-Tiên Đoán Tai Ương cam đoan. - Là bởi không một ai muốn thú nhận mình đã lấy mẩu xúc xích, cho dù mụ Maduskan có nhảy chồm chồm và gào thét điên cuồng đến đâu. Nhưng một số người lại cho rằng chẳng qua mụ bịa ra như thế để lấy cớ giữ lại những miếng ngon cho mình. Dù thế nào thì đó cũng là một ngày Giáng sinh mà quả thật khi nghĩ đến thì ngay những thiên thần của Chúa cũng phải khóc, - cụ bà Ulla-Tiên Đoán Tai Ương nói.
Suốt hôm đó mụ Maduskan ngồi lì trên căn xép áp mái, bên chiếc bàn thắp nến lung linh mà chén liền tù tì nào xúc xích, thịt băm viên, rồi đùi lợn muối và bánh Giáng sinh, ních nhiều đến nỗi bụng căng muốn nổ tung. Trong khi ở gian dưới của trại tế bần, những kẻ khác ngồi khóc và chỉ có một tí cá muối bỏ vào mồm, cho dù đang lễ Giáng sinh.
Ngày hôm sau vẫn tệ như thế. Mụ Maduskan hơn một lần thề rằng chừng nào tên ăn cắp xúc xích chưa chịu thò mặt ra thú tội thì không kẻ nào được nhận dù chỉ một nửa viên thịt băm. Và trong lúc chờ đợi mụ lại leo tót lên căn xép ăn lấy ăn để, chẳng thèm trò chuyện với ai. Cứ một tiếng một lần, cụ bà Ulla lại nhòm qua lỗ khóa quan sát và chứng kiến tất cả lần lượt chui vào cái mồm rộng ngoác của mụ. Nhưng bây giờ hình như mụ Maduskan sợ rằng cụ Stolle-Jocke đã đến trang trại Katthult để tố cáo mụ, vì vậy mụ bảo cụ bà Ulla phải lập tức lôi cổ cụ Stolle-Jocke về nhà - bất kể còn sống hay đã chết.
- Thế nên có lẽ tốt hơn là chúng ta về nhà thôi, ông Jocke, - cụ bà Ulla nói.
- Phải đấy, ông ạ, - chú Alfred cũng bảo. - Người nghèo bao giờ cũng thua thiệt!
Emil không nói gì. Nó ngồi trên chiếc hòm gỗ, nghiến răng trèo trẹo. Cụ Jocke và cụ Ulla đã đi khỏi từ lâu mà nó vẫn ngồi đó, và người ta nhận thấy nó đang nghĩ ngợi. Cuối cùng nó đấm tay xuống chiếc hòm gỗ và nói:
- Anh biết ai sẽ mở tiệc rồi!
- Ai thế ạ? - Bé Ida hỏi.
Emil lại đấm tay lần nữa xuống chiếc hòm gỗ.
- Anh! - Nó đáp. Đoạn nó kể bữa tiệc sẽ như thế nào. Sẽ là bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, vì bây giờ tất cả những người ở trại tế bần làng Lönneberga sẽ được mời đến trang trại Katthult này, thậm chí ngay lập tức!
- Vâng, nhưng mà anh Emil, anh chắc đây không phải là một trò nghịch dại đấy chứ? - Bé Ida sợ hãi hỏi.
Chú Alfred cũng sợ và nghĩ đây là một trò nghịch dại. Nhưng Emil cam đoan với chú rằng không phải. Đây là một việc làm tốt, và ngay đến các thiên thần của Chúa cũng sẽ phải vỗ tay hoan hô, giống như đã từng phải khóc trước lễ Giáng sinh khốn khổ của các cụ ở trại tế bần.
- Mẹ cũng sẽ vui cho mà xem, - Emil nói.
- Vâng, nhưng còn bố... - bé Ida rụt rè nói.
- Hừm, - Emil tư lự. - Nhưng dù thế nào thì đây cũng không phải là trò nghịch dại. - Nói rồi nó lại im lặng và ra chiều nghĩ ngợi.
- Nhưng lôi được tất cả bọn họ ra khỏi cái hang của mụ sư tử ấy mới là điều khó nhất, - Emil nói. - Nào, chúng mình tới đó thử xem!
Lúc này mụ Maduskan đã tọng hết xúc xích, thịt băm viên, đùi lợn muối, thịt hun khói, rồi cả chỗ bánh Giáng sinh còn lại cũng như những chiếc bánh quế cuối cùng vào bụng. Mụ còn hít lấy hít để chỗ thuốc lá ngửi lẽ ra sẽ là của cụ Stolle-Jocke. Giờ đây mụ ngồi trong gian buồng áp mái và cảm thấy khổ sở, như người ta vẫn thường cảm thấy mỗi khi đã làm điều gì không phải, hơn nữa lại còn ăn hơi nhiều thịt băm viên. Xuống dưới nhà với đám già kia thì mụ không muốn. Bọn họ cứ thở dài sườn sượt và cứ giương mắt nhìn mụ mà chẳng nói chẳng rằng.
Đang ngồi rầu rĩ thì mụ nghe có tiếng gõ cửa bên ngoài. Mụ vội lật đật xuống thang xem ai.
Đứng ngoài cửa té ra là Emil. Thằng bé Emil ở trang trại Katthult. Mụ đâm hoảng. Chắc lão Stolle-Jocke và mụ Ulla-Tiên Đoán Tai Ương đã mách lẻo gì rồi, nên thằng bé Emil mới mò tới tận đây.
Nhưng Emil bé bỏng chỉ cúi chào lễ phép và hỏi:
- Lần trước đến đây cháu có bỏ quên con dao nhíp của cháu không ạ?
Thử nghĩ xem Emil có láu cá không cơ chứ? Con dao nhíp của nó vẫn nằm nguyên trong túi quần mà. Nhưng Emil cần kiếm cớ để vào trại tế bần nên bịa ra câu hỏi này.
Mụ Maduskan cam đoan rằng bọn họ không hề thấy con dao nhíp nào cả. Thế là Emil bèn hỏi:
- Món xúc xích có ngon không ạ? Cả món thịt đông và những món khác nữa.
Mụ Maduskan cụp măt, ngó đăm đăm xuống hai bàn chân to bè của mụ.
- Có chứ, có chứ, - mụ vội đáp. - Phải, bà mẹ đáng mến của cậu ở trang trại Katthult… bà ấy rất biết người nghèo cần gì. Cho tôi gửi lời chào thắm thiết đến bà ấy nhé!
Lúc này Emil muốn nói ra điều nó định nói, cũng chính là lý do mà nó đến đây. Tuy nhiên nó làm như thể tiện mồm thì nói chứ chẳng có gì quan trọng.
- Bố mẹ cháu đang dự tiệc Giáng sinh ở Skorphult,- nó nói.
Mụ Maduskan nổi tò mò.
- Vậy hả, hôm nay ở Skorphult có tiệc hả? Thế mà ta không biết đấy.
Phải, nếu biết thì bà đã chẳng mò đến đó từ lâu rồi. Emil nghĩ. Cũng như mọi dân làng Lönneberga, Emil biết tỏng là hễ biết bất kỳ ở đâu có tiệc, y như rằng mụ Maduskan lù lù dẫn xác đến trước nhà bếp. Và đừng hòng mụ chịu rời bước nếu chưa nhận được ít nhất là một miếng bánh pho mát. Mụ sẵn sàng lao qua lửa vì bánh pho mát. Và nếu bạn từng dự một bữa tiệc ở làng Lönneberga, thì bạn cũng biết rõ như mụ Maduskan rằng trên bàn ở đây xếp cả dãy âu đồng sáng loáng đựng đầy bánh pho mát mà khi tàn tiệc thực khách sẽ được biếu đem về, coi như “chút lộc” - như dân làng Lönneberga thường gọi.
- Mười bảy ổ bánh phô mai, - Emil nói.- Bà nghĩ sao ạ?
Emil làm sao biết được liệu ở trang trại Skorphult có tới mười bảy ổ bánh phô mát hay không. Nó cũng không khẳng định điều đó, vì không muốn nói dối. Vì vậy mà nó chỉ ranh mãnh nói bâng quơ.
“Mười bảy ổ bánh phô mát, bà nghĩ sao ạ?”
- Phải, ta cũng đang muốn biết đây, - mụ Maduskan đáp.
Rồi Emil bỏ đi. Nó đã làm xong việc cần làm. Nó biết chậm nhất chỉ nửa giờ nữa, mụ Maduskan sẽ lên đường đến trang trại Skorphult.
Và Emil đã tính toán đúng. Cùng chú Alfred và bé Ida nấp sau đống củi lớn, nó thấy mụ Maduskan quấn chiếc khăn quàng rõ dày, tay khoác cái bị ăn xin, ra khỏi nhà: mụ sắp đánh đường đến Skorphult. Nhưng - có ai hình dung nổi một mụ phù thủy như mụ chăng? - Mụ khóa trái cửa và lặn chiếc chìa khóa vào người. Mụ đã nghĩ ra trò quái quỷ gì vậy! Giờ đây những con người khốn khổ kia đã bị giam như trong nhà ngục. Và hẳn mụ Maduskan đắc chí cho rằng làm thế là phải. Lão Stolle-Jocke thế nào chẳng tìm cách thoát ra và mụ muốn cho lão biết ở đây ai là người có quyền và lão đừng hòng giỡn mặt ai!
Rồi với tốc độ nhanh nhất mà cặp giò mập ú của mụ cho phép, mụ Maduskan tất tả chạy về hướng Skorphult.
Emil đi đến lay lay cánh cửa và nhận thấy cửa được khóa rất kỹ. Cả chú Alfred và bé Ida cũng góp một tay, nhưng cửa đã khóa trái và không tài nào giật ra được.
Tất cả ông lão bà lão sống trong trại tế bần đổ xô đến bên cửa sổ, hoảng hốt trân trối nhìn ba chú cháu lúc bấy giờ đứng bên ngoài đang tìm cách vào trong. Emil gọi:
- Các ông các bà hãy đến trang trại Katthult để ăn tiệc! Chỉ cần các ông các bà ra khỏi đây thôi ạ!
Trong nhà lời qua tiếng lại bắt đầu nổ lên rào rào như trong tổ ong. Tiếng động có một không hai, kỳ lạ, đồng thời toát lên một nỗi khốn khổ đến tuyệt vọng, vì họ đang bị nhốt trong đó và không biết làm cách nào để thoát ra ngoài.
Có thể bây giờ bạn sẽ nói: Tại sao họ không mở cửa sổ mà trèo ra, có khó gì nhỉ? Người ta liền nhận thấy bạn chẳng biết tí gì về lớp cửa sổ bên trong cả. Vào mùa Đông không thể mở một cánh cửa sổ nào của trại tế bần cũng vì lớp cửa sổ bên trong này. Lớp cửa sổ bên trong bị đóng đinh rất chắc, hơn thế nữa người ta còn dán những băng giấy bịt dọc theo khung cửa để gió không lọt vào được. Thế thì làm sao lưu thông khí trong nhà? Có thể bạn sẽ hỏi. Bạn nhỏ thân mến ơi, sao bạn có thể đặt một câu hỏi ngốc nghếch thế cơ chứ! Có ai bảo người ta thường thông khí trong trại tế bần đâu? Chẳng ai thèm quan tâm đến việc điên rồ đấy, vì chẳng ai khao khát thêm không khí trong lành ngoài một tí tẹo khí trời lọt qua đường ống khói, qua những kẽ hở trên tường và sàn nhà.
Không, những con người khốn khổ đó không thể ra qua lối cửa sổ! Kể ra cũng có một cửa sổ mở được, nhưng ở tận trên căn buồng áp mái của mụ Maduskan cơ. Nhưng chẳng ai trong số các cụ ở trại tế bần bụng đang đói meo có thể nhảy từ độ cao bốn mét từ trên đó xuống để đi ăn tiệc cả - thế có khác nào nhảy lên thiên đường chầu trời, ai cũng biết thế.
Nhưng đời nào Emil chịu bó tay trước những việc cỏn con như thế. Quả nhiên nó tìm được một cái thang dấu dưới kho củi, bèn bắc thang cửa sổ áp mái mà cụ Ulla đã vui sướng mở toang hai cánh. Chú Alfred trèo lên thang. Chú to cao, khỏe mạnh, với chú thì việc vác các cụ già thấp bé nhẹ cân nhẹ tựa lông hồng. Các cụ cũng than những tiếng “ồ, à”, nhưng rốt cuộc đều “hạ cánh” an toàn cả. Mỗi cụ bà Salia Amalia ở lại. Cụ không dám và cũng không muốn đi. Nhưng cụ Vibergsche hứa sẽ ra sức tha thật nhiều thức ăn về cho bạn, thế là cụ Salia Amalia hài lòng.
Nếu trong ngày Giáng sinh này có ai đi xe ngựa dọc đường đến trang trại Katthult vào lúc trời chiều chạng vạng, hẳn sẽ tin rằng đang nhìn thấy một đoàn các bóng ma xám xịt vừa thở hào hển vừa cà nhắc cà nhót lê chân trên triền đồi thẳng hướng Katthult. Mà quả thật trông họ rất ma quái trong những bộ cánh rách rưới, những cụ già đáng thương này, nhưng họ đang vui như chim và hân hoan tựa trẻ nhỏ. Ôi trời, ôi trời! Lần cuối cùng họ được có mặt trong tiệc Giáng sinh đã xửa xưa lắm rồi! Họ vui sướng khi nghĩ đến việc mụ Maduskan lát nữa quay về sẽ chỉ thấy khu trại tế bần trống không, chỉ còn lại trơ trọi một sinh linh tội nghiệp, ấy là cụ bà Salia Amalia.
- Hihi, đáng đời mụ! - Cụ Johann-Một Xu nói, - Hi hi, thế là mụ trơ thân mụ mà không có chúng ta! Cho mụ nếm mùi cô đơn!
Ai nấy đều cười hể hả. Nhưng sau đó, khi họ bước vào bếp của trang trại Katthult và Emil thắp lên năm ngọn nến to, ánh nến phản chiếu trên những chiếc chảo đồng vừa mới cọ sáng choang treo trên tường làm mọi vật trở nên lung linh huyền ảo, thì họ bỗng im phăng phắc, còn cụ Stolle-Jocke cữ ngỡ mình đang ở trên thiên đàng.
- Xem kìa, ấy là ánh sáng và phước lành vô biên… - cụ nói và bật khóc. Vì cụ Jocke luôn khóc khi quá vui hay quá buồn.
Nhưng Emil đã bảo:
- Chúng ta vào cuộc thôi!
Và họ bắt đầu vào cuộc, Emil, chú Alfred và bé Ida bưng lên tất cả những gì có thể tha được từ kho thực phẩm ra. Và bây giờ bạn cần biết trên bàn ăn của trang trại Katthult có những gì sau khi chú cháu họ đã bày ra hết.
Này nhé:

một liễn dồi tiết
một liễn xúc xích lợn
một liễn thịt muối
một liễn pate gan
một liễn xúc xích hun khói
một liễn thịt băm viên
một liễn thăn bê
một liễn sườn lợn nướng
một liễn xúc xích rán để nguội
một liễn dồi gan mới làm
một liễn xa–lát cá muối
một liễn thịt hun khói
một liễn lưỡi bò dầm muối
một chảo tướng đùi lợn muối Giáng sinh
một chảo tướng phô mai Giáng sinh
một giỏ bánh mì trắng
một giỏ bánh mì ngọt
một giỏ bánh mì lúa mạch
một can nước ép quả tươi
một can sữa tươi
một liễn cháo tấm kiều mạch
một khay bánh pho mát
một tô mận bỏ lò
một khay bánh táo
một liễn kem tươi
một tô mứt dâu tây
một tô mứt lê



một chú lợn sữa nhỏ quay nguyên con, hai mắt gắn hai viên kẹo đường màu trắng.

Tôi nghĩ đó là tất cả. Tôi không thể quên quá ba món, nhiều lắm là bốn món, ừ, mà thôi để chắc chắn, cứ cho tôi quên quá 5 món đi... còn lại tôi đã liệt kê ra hết rồi đấy.
Các cụ già của trại tế bần làng Lönneberga ngồi quanh bàn, họ ngồi chờ đợi rất kiên nhẫn, nhưng cứ mỗi chiếc liễn được bưng ra là một lần họ cảm động đến rớt nước mắt.
Cuối cùng Emil nói:
- Xin mời các cụ! Ta nhào vô thôi!
Thế là họ nhào vô thật, họ ăn rào rào.
Chú Alfred, Emil và bé Ida cũng ăn. Bé Ida không nuốt được quá mấy viên thịt băm, vì nó bắt đầu băn khoăn. Nó bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải việc không nên làm. Nó chợt nhớ là ngày mai, tức ngày thứ ba của lễ Giáng sinh, những người họ hàng từ Ingatorp định đến trang trại Katthult. Vậy mà thức ăn cho bữa tiệc ngày mai đã bị chén sạch từ hôm nay. Nó nghe xung quanh tiếng cắn rau ráu, tiếng húp sụp soạp và tiếng nhai chóp chép. Cứ như thể có một bầy thú ăn thịt đang sà xuống những cái liễn, những tô và những can đồ ăn thức uống vậy. Bé Ida hiểu rằng chỉ có những ai đói khát thực sự mới ăn uống như vậy, nhưng nó vẫn sợ. Nó kéo ống tay áo Emil, thì thầm để không ai ngoài Emil nghe được.
- Anh chắc đây không phải trò nghịch dại đấy chứ? Nên nhớ mai là ngày họ hàng nhà mình ở Ingatorp đến đấy!
- Họ đủ béo rồi, - Emil thản nhiên đáp. - Hẳn thức ăn chảy vào đâu có ích thì vẫn hơn.
Nhưng sau đó nó cũng hơi lo lo, vì xem ra sau khi bữa tiệc này tàn sẽ không còn lại nổi dăm lạng thịt băm viên. Những gì không chui được vào mồm thì cũng chui vào nào túi, nào ruột tượng, loáng cái cả liễn lẫn tô đã đã sạch nhẵn.
- Giờ tôi đã tổng càn quét xong món sườn lợn, - cụ Kalle-Carô vừa nói vừa gậm mẩu xương cuối cùng.
- Còn tôi tổng càn quét món xa lát cá muối, - cụ Fia-Tổ đỉa nói.
Họ nói “tổng càn quét” có nghĩa là họ vét sạch mọi thứ khiến các liễn thức ăn giờ đây nhẵn như chùi.
- Bây giờ chúng ta đã tổng dọn dẹp hết mọi thứ rồi, - cuối cùng cụ Niklas-Ve chai tuyên bố, và chưa bao giờ cụ tả được một câu thực hơn thế.
Bởi vậy mà sau này bữa tiệc mãi mãi được gọi là “cuộc tổng càn quét ở Katthult”, vì bạn phải biết rằng rất lâu sau dân làng Lönneberga và các thôn khác vẫn còn kháo nhau hoài về chuyện đó.
Lúc này còn duy nhất một thứ là chú lợn sữa quay giòn. Chú đứng trên bàn, hai con mắt bằng hai viên kẹo trân trối nhìn với vẻ rầu rĩ.
- Ui chao, trông con lợn chẳng khác gì một con tiểu yêu, - cụ Fia-Tổ đỉa nói. - Tôi hãi chạm vào nó lắm!
Chưa bao giờ cụ thấy lợn quay nguyên con cả, các cụ khác cũng vậy. Vì vậy mà các cụ như có phần kính nể con lợn, không động đến nó.
- Chắc chẳng còn chiếc xúc xích nhỏ nào đâu nhỉ? - Cụ Kalle-Carô nói, sau khi tất cả các liễn đã sạch nhẵn. Nhưng Emil đáp rằng khắp trang trại Katthult chỉ còn một chiếc xúc xích nhỏ được găm ở đầu một cái que trên cái bẫy sói của nó. Và chiếc xúc xích phải ở lại đó làm mồi nhử con sói mà Emil đang đợi. Không, cụ Kalle không được ăn chiếc xúc xích đó, các cụ khác cũng vậy.
Bỗng cụ bà Vibergsche kêu lên:
- Còn bà Salia Amalia! Chúng ta quên mất bà ấy!
Cụ nháo nhác nhìn quanh tìm lời khuyên, và dừng mắt ở con lợn quay.
- Chắc có thể đề phần thứ đó cho bà ấy chứ, cụ bà Amalia ấy mà? Mặc dù trông nó như một con ma. Hay cháu nghĩ sao hở, Emil?
- Vâng, hẳn phải để phần con lợn cho bà ấy thôi, - Emil thở dài đáp.
Lúc này tất thảy bọn họ đều no đến nỗi không nhúc nhắc nổi nữa. Họ hoàn toàn không còn khả năng tự tha thân xác trên đôi chân của mình trở về trại tế bần.
- Chắc chúng ta phải dùng cỗ xe trượt thôi, - Emil nói.
Và họ đã làm thế. Trang trại có một cỗ xe trượt rất to bằng gỗ dài, nhưng dùng để tải đồ. Trên cỗ xe tải trượt đó có thể tha hồ chở các cụ trại tế bần, dù rằng lúc này các cụ có ngẫu nhiên béo hơn bình thường một chút.
Trời đã tối, trên trời lấp lánh các vì sao. Trăng rằm cũng lửng lơ treo, và tuyết trải trắng cả vùng. Thời tiết mới êm dịu và tuyệt vời làm sao! Đúng là một buổi tối lý tưởng để đi xe trượt. Emil và chú Alfred đỡ tất cả các cụ lên xe. Cụ Vibergsche ôm con lợn ngồi ở đầu xe, sau đó lần lượt đến các cụ khác, tít sau cùng là bé Ida, Emil và chú Alfred.
- Lên đường nào! - Emil thét to.
Thế là cỗ xe trượt lao xuôi xuống triền đồi Katthult, khiến tuyết tung trắng xóa và các cụ trên xe rú lên hoan hỉ, vì lần cuối cùng họ được đi xe trượt đã xa xưa lắm rồi. Ồ, họ hò reo mới khiếp chứ! Mỗi chú lợn quay là đứng im lìm trong tay cụ Vibergsche.
Nào, còn mụ Maduskan, nãy giờ mụ làm gì nhỉ?
Phải, bạn cần phải nghe chuyện này. Tôi ước gì bạn trông thấy mụ khi mụ từ Skorphult trở về, trở về từ cuộc săn bánh pho mát của mụ! Nhìn xem mụ về tới nơi trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ, béo tốt và thỏa mãn, xem mụ móc chìa khóa ra và tra vào ổ - mụ gừ gừ vui sướng khi nghĩ đến những kẻ đáng thương trong kia giờ đã trở nên khiêm nhường và ngoan ngoãn thế nào. Phải, phải, cuối cùng chúng cũng nên biết ở đây ai là người quyết định. Đương nhiên bao giờ cũng là ta!
Lúc này mụ vặn chìa khóa, bước qua ngưỡng cửa, vào đến hành lang - nhưng sao im ắng thế này! Chúng ngủ rồi chăng? Hay chúng chỉ biết gục đầu ủ rũ trong ấy? Ánh trăng rọi qua cửa sổ, mọi góc nhà đều sáng - sao mụ không trông thấy một sinh vật sống nào? Là vì ở đó làm gì có ai! Không, khốn nạn thân mụ, chẳng có ma nào ở trong nhà cả! Mụ Maduskan bắt đầu run bắn toàn thân, cả đời mụ chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Ai có thể đi qua những cánh cửa khóa chặt chứ? Không ai ngoài những thiên thần của Chúa trên trời… Phải, chắc đúng thế rồi! Những kẻ nghèo túng bị mụ lừa chiếm hết xúc xích, thịt viên và thuốc lá ngửi, giờ đã được các thiên thần của Chúa đem đến một nơi tốt đẹp hơn là trại tế bần. Chỉ có mụ là khốn khổ khốn nạn, bị bỏ lại nơi đây, ôi khốn thay thân mụ, khốn thân mụ quá! Mụ Maduskan khóc hú lên như một con chó. Nhưng sau lưng mụ, một tiếng nói bỗng cất lên từ dãy giường, từ một sinh linh nhỏ bé đáng thương đang rúc dưới tấm chăn.
- Sao bà lại khóc? - Cụ Salia Amalia hỏi.
Mụ Maduskan lấy lại bình tĩnh mới nhanh làm sao. Và cũng thật mau lẹ, mụ ép cụ Amalia khai hết cả ra. Mụ Maduskan biết cách làm chuyện ấy. Loáng cái, mụ đã lên đường đến trang trại Katthult. Bây giờ họ phải về nhà. Phải làm sao về thật nhanh và lặng lẽ, để dân làng Lönneberga không biết mà đàm tiếu ầm ĩ về toàn bộ câu chuyện chẳng có gì là hay ho này.
Trang trại Katthult tuyệt đẹp dưới ánh trăng. Mụ thấy ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ bếp như từ rất nhiều ngọn nến. Nhưng bây giờ mụ bỗng cảm thấy xấu hổ và không còn dám thò mặt vào. Thoạt tiên mụ định nhòm vào xem có đúng người của mụ có đúng ngồi trong đó và đang đánh chén hay không. Nhưng mụ cần có cái gì để kê mà trèo lên, một chiếc hòm gỗ hoặc vật gì đấy tương tự, nếu không mụ có kiễng chân mấy cũng chẳng nhòm vào được.
Mụ bèn đi vòng xuống xưởng mộc. Biết đâu lại chẳng kiếm được thứ gì đó ở đây.
Mà mụ kiếm được thật. Không phải hòm gỗ. Mụ tìm thấy một cái xúc xích! Ai mà ngờ được chứ? Ngay dưới ánh trăng, giữa mênh mông tuyết, mụ lại tìm thấy một cái xúc xích nhỏ xiên ở đầu một cái que. Lúc này mụ đã no đến nứt bụng vì ăn bánh pho mát, nhưng mụ cũng biết con người ta mau đói trở lại lắm, và họa có điên mới để nguyên một cái xúc xích nằm thiu ra ở đấy, mụ Maduskan nghĩ. Mụ bèn bước lên một bước, một bước dài duy nhất.
Ngày xưa ở vùng Smăland người ta vẫn bẫy sói như thế.
Lúc mụ Maduskan sa xuống bẫy cũng là lúc bữa tiệc ở Katthult kết thúc, và các cụ ông cụ bà của trại tế bần lục tục kéo nhau đi ra, lên xe trượt để về nhà. Không có tiếng động nào vọng lên từ bẫy sói, vì mụ Maduskan không muốn kêu cứu ngay. Hẳn mụ tin rằng tự mình sẽ leo lên được mà chẳng cần kêu cứu, thế nên mụ lặng thinh.
Trong khi ấy, các cụ già ngồi trên cỗ xe trượt lướt nhanh xuống đồi trở về trại tế bần, và các cụ thấy làm lạ khi thấy cửa nhà mở toang. Vừa vào nhà, họ đã lảo đảo quăng mình ngay xuống giường, kiệt sức vì ăn uống và đi xe trượt, nhưng hạnh phúc như chưa từng thấy từ nhiều năm qua.
Emil, bé Ida và chú Alfred trở lại trang trại Katthult dưới ánh trăng rằm và muôn vì sao lấp lánh. Emil và chú Alfred kéo xe trượt ngược lên triền đồi, bé Ida được phép ngồi trên xe vì nó còn bé.
Nếu bạn đã từng cùng chiếc xe trượt của mình đi trên một con đường mùa đông như thế ở khu vực làng Lönneberga trong một đêm trăng sáng thì bạn sẽ biết không gian lúc đó im ắng đến lạ lùng, dường như cả thế giới đang say ngủ. Và có thể bạn tưởng tượng mức độ bàng hoàng khi giữa lúc đó nghe một tiếng hú kinh khủng. Đúng lúc chú Alfred, Emil và bé Ida - không hề linh cảm chuyện gì tồi tệ - đang cùng cỗ xe trượt leo nốt con dốc cuối cùng thì đột nhiên nghe từ dưới bẫy sói của Emil một tiếng hú có thể khiến cho máu của bất kỳ ai đông cứng lại trong huyết quản. Bé Ida tái mét mặt và trong phút đó bé khao khát có mẹ ở bên biết chừng nào. Nhưng Emil thì không! Nó nhảy cẫng lên vì vui sướng.
- Một con sói trong bẫy của cháu! - Nó reo lên. - Ồ, “sún” của cháu đâu rồi?
Họ càng tiến đến gần, tiếng hú càng ghê rợn, nó vang dội khắp trang trại Katthult, khiến người ta có thể ngỡ như cả khu rừng đầy những con sói đang đáp lại tiếng kêu than của con sói bị sa bẫy.
Nhưng chú Alfred bảo:
- Tiếng hú của con sói này lạ sao ấy! Nghe mà xem!
Ba chú cháu đứng im dưới ánh trăng và lắng nghe tiếng hú ghê rợn của con sói.
- Cứu! Cứu! Cứu! - Con sói tru lên.
Mắt Emil sáng rỡ.
- Người sói! - Nó reo. - Nhưng thật ra cháu không tin đó là người sói đâu nhé.
Chỉ vài bước chạy nó đã tiến đến miệng bẫy trước cả chú Alfred và bé Ida. Và nó trông thấy mình đã bẫy được con sói như thế nào. Nói chung không phải là người sói, mà chỉ là mụ Maduskan khốn khổ. Emil nổi giận - mụ có gì để tìm kiếm dưới bẫy sói của nó cơ chứ! Nó đã muốn bẫy một con sói thực thụ kia mà! Nhưng rồi nó nghĩ lại. Có thể việc mụ Maduskan bị sa xuống bẫy sói của nó cũng có một ý nghĩa nào đó! Nó nghĩ xem liệu có thể nhân cơ hội này thuần hóa mụ một tí, để mụ ít nhiều tử tế hơn và không độc ác nữa. Phải, nó nghĩ xem có nên dạy cho mụ biết ăn nói nhẹ nhàng được chăng. Vì mụ Maduskan cần điều đó. Thế nên Emil thét gọi chú Emil và bé Ida.
- Lại đây nào! Lại đây mà xem một con thú dữ xấu xí và độc ác!
Rồi cả ba chú cháu cùng đứng trên miệng hố ngó xuống mụ Maduskan trông gần giống một con sói trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ.
- Anh có chắc đây là một người sói không? - Bé Ida run giọng hỏi.
- Tin anh đi! - Emil đáp. - Đây là một người sói cái ác độc, và người sói là loài nguy hiểm nhất trên đời.
- Phải, vì chúng rất tham lam, - chú Alfred phụ họa.
- Tất nhiên, cứ nhìn con này mà xem, - Emil nói. - Đời nó đã nuốt bao nhiêu con mồi. Nhưng bây giờ sẽ chấm dứt. Đưa cháu khẩu “sún” nào, chú Alfred!
- Ô kìa, ô kìa, Emil bé bỏng, cháu không nhận ra ta là ai sao? - Mụ Maduskan vội vã kêu lên thất thanh. Nghe Emil nhắc đến “sún” của nó, mụ sợ mất mạng. Mụ đâu có biết đó chỉ là một khẩu súng đồ chơi bằng gỗ mà chú Alfred đã đẽo cho Emil.
- Chú Alfred, chú có nghe con người sói nói gì không? - Emil hỏi. - Cháu chẳng nghe thấy gì sất!
Chú Alfred lắc đầu:
- Không, chú cũng không nghe thấy.
- Hơn nữa cháu cũng không quan tâm, - Emil nói. - Đưa cháu khẩu “sún” đi chú Alfred!
Thế là mụ Maduskan thét lên, hoàn toàn tuyệt vọng.
- Các ngươi không nhận ra bà già này hay sao?
- Nó nói gì thế? - Emil nói to. - Nó hỏi về bà dì của nó ạ?
- Ừ, nhưng chúng ta đâu có trông thấy bà dì nào, - chú Alfred đáp.
- Đúng vậy, may quá cả bà nội nó mình cũng không trông thấy, - Emil nói. - Nào, đưa cháu khẩu “sún”, chú Alfred!
Thế là mụ Maduskan bắt đầu khóc lóc ầm ĩ.
- Bây giờ các ngươi thật quá đáng, - mụ khóc nức nở. - Các người muốn không để ta yên chứ gì?
- Nó nói gì đấy ạ? - Emil hỏi. - Nó muốn thịt băm viên à?
- Ừ, nhưng chúng ta không còn thịt băm viên. - Chú Alfred đáp.
- Vâng, khắp vùng Smăland này chẳng bói đâu ra thịt băm viên nữa, - Emil nói.- Có bao nhiêu thì mụ Maduskan đã nuốt hết rồi còn gì.
Lúc này mụ Maduskan còn khóc dữ hơn trước đấy vì mụ hiểu rằng Emil đã biết mụ đối xử tệ thế nào với ông Stolle-Jocke và những người nghèo khác trong trại tế bần. Mụ khóc lóc thảm thiết sao cho Emil động lòng thương mụ, vì cậu bé vốn có tấm lòng nhân hậu. Nhưng nếu muốn tình hình ở trại tế bần tốt lên, thì không được để mụ Maduskan dễ dàng thoát khỏi đây, nghĩ vậy nên Emil nói:
- Này chú Alfred, nếu nhìn con sói này kỹ hơn thì chú có nghĩ là nó có nét gì đó giống với bà Maduskan ở trại tế bần không ạ?
- Không, làm gì có chuyện ấy, - chú Alfred đáp. - Bà ta còn tệ hại hơn cả lũ người sói ở khắp vùng Smăland cộng lại ấy chứ.
- Vâng, tất nhiên rồi, - Emil tán thành. - Chắc chắn so với bà Maduskan thì lũ người sói chỉ là lũ cún con hiền lành dễ thương. Vì bà ta không bao giờ tha cho ai điều gì. Hơn nữa cháu tự hỏi không biết kẻ nào đã ăn cắp chiếc xúc xích nhỏ trong tủ của bà ta.
- Đấy là tôi, - mụ Maduskan kêu lên. - Đấy là tôi mà! Tôi sẽ thú nhận hết, chỉ cần các người giúp tôi lên khỏi đây!
Thế là chú Alfred và Emil nhìn nhau mỉm cười.
- Chú Alfred, - Emil nói.- Mắt mũi chú để đi đâu vậy? Chú không thấy đây là bà Maduskan chứ không phải người sói à?
- Ôi trời đất ơi, - chú Alfred thốt lên. - Sao chúng ta lại có thể nhầm lẫn thế cơ chứ?
- Vâng cháu cũng chẳng hiểu tại sao. Tất nhiên là trông họ giống nhau, đành là thế, nhưng như cháu biết thì người sói không choàng khăn.
- Ừ, chắc chắn là không rồi! Nhưng sói cũng có ria mép chứ, đúng không nhỉ?
- Thôi nào, chú Alfred, bây giờ chú phải tử tế với bà Maduskan chứ, - Emil nói.- Chú đi lấy một cái thang lại đây!
Vừa nhận cái thang được thả xuống, mụ Maduskan bèn hổn hển leo lên. Đoạn mụ ù té chạy, chạy đến rẽ cả tóc, vì mụ chỉ muốn rời xa Katthult càng nhanh càng tốt, mãi mãi. Mụ không bao giờ còn muốn đặt dù chỉ một bàn chân đến đấy. Nhưng trước khi biến mất sau khúc ngoặt, mụ ngoái lại kêu to:
- Phải, chính tôi đã ăn cắp chiếc xúc xích đó! Chúa tha tội cho tôi, nhưng vào đêm Giáng sinh tôi lại quên mất điều ấy. Tôi thề là tôi đã trót quên mất.
- Vậy thì việc bà ta được ngồi dưới kia một lúc cũng tốt, để bà ta lại sực nhớ ra, - Emil nói. - Dù sao thì cái hố bẫy sói cũng không hoàn toàn vô dụng.
Phần mụ Maduskan thì - trong chừng mực cặp giò mập ú của mụ cho phép - ba chân bốn cẳng chạy xuống triền đồi. Khi về tới trại tế bần, mụ gần như không thở nổi nữa. Lúc này tất cả đều đã ngủ trên chiếc giường đầy chấy rận của họ, và mụ không đời nào muốn làm họ thức giấc. Vì thế mụ khẽ rón rén vào nhà như một bóng ma, chưa bao giờ mụ nhón chân nhẹ nhàng đến thế.
Tất cả họ đang ngủ yên, những kẻ nghèo hèn của mụ. Mụ đếm họ như đếm cừu. Stolle-Jocke và Kalle-Carô, Johann-Một Xu và Niklas-Ve Chai, Fia-Tổ Đỉa và Ulla-Tiên Đoán Tai Ương, Vibergsche và Salia Amalia, họ đủ cả, mụ thấy vậy. Nhưng bỗng mụ thấy một vật nữa. Trên chiếc bàn cạnh giường của Amalia - ôi kinh khủng, ôi ghê sợ - lừng lững một con ma! Phải, nhất định đây là một con ma, cho dù trông nó giống một con lợn - một con lợn nhỏ ghê rợn tắm mình trong ánh trăng. Mà biết đâu con vật đó đang đứng trân trối nhìn mụ với cặp mắt lồi trắng dã khủng khiếp kia thậm chí là một con người sói không biết chừng.
Bấy nhiêu sợ hãi trong một ngày là quá sức chịu đựng đối với mụ Maduskan. Mụ thở hắt ra và ngã phịch xuống đất. Mụ cứ nằm đó và không hồi tỉnh trước khi ánh mặt trời rọi qua cửa sổ trại tế bần. Đã sang ngày thứ ba của lễ Giáng sinh.
Ngày Giáng sinh thứ ba chính là ngày mà những người họ hàng ở Ingatorp định đến trang trại Katthult ăn tiệc. Ôi chao, ôi chao, bữa tiệc sẽ như thế nào đây? Ừ thì dù sao trong kho trữ thực phẩm vẫn còn món thịt lợn muối vừa ướp trong thùng, và trong trường hợp khẩn cấp thì món thịt lợn rán với khoai tây và nước sốt hành vẫn có thể được bầy ra mời ngay cả một vị hoàng đế.
Nhưng tối hôm đó, khi ghi chép vào cuốn vở màu xanh, mẹ của Emil thật buồn bã - phải thừa nhận như thế - và trên trang vở hôm ấy vẫn còn những vết loang, như thể ai đó đã khóc và nước mắt nhỏ xuống đó.
“Ngày Giáng sinh thứ hai, buổi tối, trong nỗi khổ tâm của tôi”, là tiêu đề của trang viết. Sau đó thì: “Hôm nay thằng bé ngồi cả ngày trong xưởng mộc, đứa con tội nghiệp của tôi. Thực ra thằng bé chắc chắn là đứa bé ngoan đạo, mặc dù đôi khi tôi nghĩ nó quá ư điên rồ”.
Nhưng cuộc sống ở Katthult vẫn tiếp tục. Chẳng mấy chốc mà đông qua, xuân tới. Emil thường xuyên ngồi trong xưởng mộc, nếu không thì chơi với bé Ida hoặc cưỡi con Lukas, hoặc làm xà ích cho cỗ xe chở sữa, hay chọc tức cô Lina, trò chuyện với chú Alfred và luôn luôn bày những trò nghịch ngợm mới, những trò khiến cho cuộc sống của nó - từ sáng đến tối - trở nên phong phú và không buồn tẻ. Vào đầu tháng Năm thì Emil - cái thằng bé chăm chỉ này! - đã có không dưới một trăm hai nhăm hình nhân bằng gỗ để trên giá trong xưởng mộc.
Chú Alfred không bày trò nghịch ngợm, và dù sao chú cũng có nỗi lo của riêng mình, vì chú vẫn chưa dám nói cho cô Lina biết chú không muốn cưới cô.
- Chắc để cháu nói cho thì hay hơn, - Emil đề nghị, nhưng chú Alfred không nghe.
- Chú đã giải thích với cháu rồi, phải lựa lời nói sao cho thật khéo để cô ấy khỏi buồn.
Chú Alfred có một tâm hồn nhân hậu, nhưng chú không biết ăn nói với cô Lina ra sao. Thế nhưng vào một chiều thứ Bảy đầu tháng Năm, khi cô Lina ngồi trên bậc tam cấp trước căn lán của đầy tớ nam và lì lợm chờ chú Alfred ra kỳ được để làm trò hò hẹn với cô, thì chú Alfred quyết định phải nói ra cho xong. Thế là chú từ trong nhà thò đầu ra cửa sổ, cúi gập người xuống gọi cô:
- Nghe này, Lina! Đây là chuyện mà lâu nay anh muốn nói với em!
Cô Lina cười khúc khích. Hẳn bây giờ chú sẽ nói cái điều mà cô muốn nghe.
- Gì vậy, Alfred yêu quý của em? - Cô đáp. - Anh muốn bảo gì em cơ?
- Phải, cái trò cưới xin mà chúng ta đã nói đến ý mà, cô nghe đấy chứ, quẳng quách nó đi! Cứt lắm!
Chú nói thế đấy, chú Alfred đáng thương! Phải kể lại điều này thật khủng khiếp. Thật ra tôi cũng không muốn kể lại, vì tôi không muốn dạy cho bạn thêm những từ ngữ khó nghe ngoài những từ ngữ thô lỗ mà bạn đã biết. Nhưng bạn phải hiểu rằng chú Alfred chỉ là một đầy tớ nghèo ở làng Lönneberga, chứ bạn thì không thế. Chú ấy không thể nói năng lịch sự hơn, mặc dù đã nghĩ rõ là lâu, tưởng đến nát cả óc - cái chú Alfred tội nghiệp đó!
Nhưng cô Lina không buồn.
- Anh nghĩ thế, hả? - Cô đáp. - Được, rồi anh sẽ biết!
Trong khoảnh khắc đấy chú Alfred hiểu rằng hẳn chú sẽ chẳng bao giờ rũ bỏ nổi cô Lina. Có điều chiều nay chú muốn được tự do và hạnh phúc. Vì vậy chú cùng Emil đi ra hồ Katthult câu cá măng.
Đấy là buổi chiều đẹp đến nỗi dường như chỉ có ở vùng Smăland. Mọi cây anh đào ở Katthult đều nở hoa, bầy chim sáo hót véo von, đàn muỗi vo ve, còn lũ cá măng thì đớp mồi. Emil và chú Alfred ngồi đó nhìn những cái bấc ở dây câu nổi lên chìm xuống trên mặt nước phẳng lặng. Hai chú cháu chẳng nói gì nhiều nhưng cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Hai chú cháu ngồi đó cho tới lúc mặt trời lặn mới quay về nhà. Chú Alfred xách đám cá măng câu được, còn Emil thổi cây sáo mà chú Alfred đã làm cho nó. Họ đi qua cánh đồng cỏ, đi qua con đường mòn uốn mình dưới những rặng lê xanh mướt mùa xuân. Emil thổi sáo hăng đến mức bầy chim sáo cũng phải kinh ngạc, nhưng đột nhiên nó ngừng thổi, bỏ cây sáo khỏi miệng.
- Chú biết mai cháu sẽ làm gì không? - Nó hỏi chú Alfred.
- Chịu, - chú Alfred đáp. - Lại trò nghịch ngợm gì à?
Emil lại đưa sáo lên miệng và thổi. Nó vừa đi vừa thổi sáo và vắt óc suy nghĩ.
- Cháu cũng chẳng biết, - cuối cùng nó nói. - Cháu chẳng bao giờ biết trước lát nữa.
------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét