Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Ba gã cùng thuyền - Jord. J. Clapka

Đôi lời về tác giả.

Jord Jerome Clapka (1859-1927) là nhà văn Anh, nổi tiếng về những chuyện hài hước, tên của ông được nêu trong tất cả các sách Bách khoa toàn thư của những nền văn hóa lớn của nhân loại, cuốn “Ba gã cùng thuyền” viết năm 1889 và nhiều tác phẩm khác như “Chiếc áo ji-lê ở tầng bốn,” “Ba anh chàng trên chiếc xe đạp” đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và được chuyển thể sang phim ảnh từ những năm đầu của thế kỉ truớc.
“Ba người cùng hội cùng thuyền” là cuốn truyện hài hước gồm nhiều chương, người đọc có thể xem từng chương biệt lập và thưởng thức tính khôi hài rất “Ăng-lê” của tác giả.
Cuốn chuyện rất nổi tiếng nhưng đôi chỗ có hơi dài dòng theo phong cách của thế kỉ trước, người dịch đã lược đi một số chi tiết để phù hợp với lối sống khẩn trương hiện đại mà vẫn đảm bảo để người đọc cảm nhận nhanh và rất thoải mái với thủ thuật hài hóm hỉnh của tác giả.

Người dịch: Ngọc Châu.

Chương Một

Ba tên ốm đau quặt quẹo - Tật bệnh của Jord và Hari - Vật hiến tế của một trăm bảy mươi căn bệnh vô phương cứu chữa – Đơn thuốc cứu mạng - Cách chữa bệnh đau gan cho trẻ nít - Thấy rõ như ban ngày rằng cả bọn đã cày như trâu và cần phảí được nghỉ ngơi - Một tuần với cảnh biển - Jord phát biểu về lợi ích của một con sông - Môn-mo-ran-xi cũng tham gia tranh biện - Phương án được chấp nhận với ba xuôi, một chống.

Bọn này gồm bốn mạng: Jord, Wi-li-am Hari, tôi và con Mon-mo-ran-xi. Ngồi trong phòng tôi, rít thuốc, nhả khói và than thở về tình trạng không hay ho của mỗi thằng - Không hay ho, tất nhiên là tôi muốn nói về phương diện y học.
Cả bọn đều thấy ươn người, tên nào cũng lo. Hari bảo rằng hắn thường có những cơn chóng mặt, vào lúc đó hắn chẳng biết được gì ráo trọi, thế là Jord cũng bày tỏ rằng hắn mắc chứng chóng mặt đau đầu, cũng chẳng biết trời xuôi hay đất ngược vào những lúc như vậy. Còn tôi là chuyện gan mật không theo qui củ. Tôi biết mình có chuyện chính với buồng gan là do những ngày rày đọc được mấy tờ quảng cáo cao đan hoàn tán đặc trị chữa bệnh về gan, trong đó nhà bào chế liệt kê vô khối dấu hiệu để một người đang sống có thể xác định chắc chắn rằng buồng gan của hắn sắp sửa đi tong. Những dấu hiệu ấy, khổ thay, đã hội tụ đầy đủ trong tôi.
Có việc kì lạ như thế này: hễ đọc vào tờ quảng cáo thứ thuốc chữa bệnh nào là tôi đi đến kết luận rằng mình đang mắc chính thứ bệnh quái quỉ mà họ miêu tả, mọi triệu chứng hiện rành rành trong lục phủ ngũ tạng của mình.
Một lần tôi ghé vào Đại thư viện Anh để tìm hiểu về cách chữa một thứ bệnh vớ vẩn, không biết bị lây ở đâu đó - hình như thiên hạ gọi là bệnh nổi mề đay. Tôi cầm quyển sách tra cứu và thấy ngay thứ cần tìm. Sau đó do vô công rồi nghề tôi táy máy lật mấy trang khác xem những tay sói đầu trong y học nói về những bệnh khác ra sao. Giờ đã quên khuấy đi tên thứ bệnh mà tôi đã tò mò đọc tới đầu tiên - chỉ biết rằng đó là thứ tai họa khủng khiếp của loài người, thế mà chưa đọc đến một nửa các triệu chứng được liệt kê đã thót người lại vì chính nó đang bén rễ đâm chồi trong tấm thân bảy thước của thằng cha khổng lồ chân đất sét là tôi.
Đến mấy phút liền tôi ngồi chết lặng như bị thần Sấm thầm thì vào tai. Sau đó trong cảnh tuyệt vọng bất cần đời tôi tiếp tục lật sang các quái chứng khác. Lật tới trang nói về bệnh thổ tả, xem các triệu chứng của nó tôi khẳng định rằng thứ quái quỉ này đã đăng kí hộ khẩu thường trú trong cơ thể mình, đã làm cái thân tôi khốn khổ mấy tháng nay, chả còn gì phải nghi ngờ. Tôi đâm ra tò mò: mình còn mắc những bệnh gì nữa nhỉ? Xem căn bệnh múa tay giật chân Vitta và thấy rằng đúng như chờ đợi, quái chứng này chẳng tha tôi; đến lúc này tôi hết sức lưu tâm tới môn triệu chứng bệnh lý và quyết định đọc cho tới cùng: tôi lần giở theo thứ tự danh mục chữ cái, nghiên cứu căn bệnh đầu tiên là anemi (thiếu máu). Thằng cha đứng đầu bảng theo thứ tụ A, B, C này đang hiện diện và làm tôi khốn khổ chí ít cũng vài tuần nay, bệnh Bright tôi chỉ bị ở thể nhẹ, nếu chỉ mắc mình nó thì còn thọ thêm được mấy năm nữa. Viêm phế quản hóa ra khá nặng căn trong tôi, đau thắt ngực xét theo triệu chửng tổng thể thì nó xuất hiện cùng lúc khi bà đỡ quấn cho tôi chiếc tã đầu tiên. Cứ như thế đọc từ A đến Z mà chỉ có mỗi một căn bệnh không sao tìm thấy dấu hiệu trong người tôi là bệnh “sốt hậu sản”.
Đầu tiên tôi thậm chí thấy nóng mặt lên với cảm giác bị xúc phạm. Căn cớ gì mà thứ bệnh này chê thân thể mình nhỉ? Sao bỗng dưng duy nhất thứ ôn dịch này lảng tránh cái bản mặt tôi? Tuy nhiên cảm giác đố kị này cũng dịu đi sau vài phút suy ngẫm. Tôi tự an ủi rằng trong mình có đầy đủ các thứ bệnh khác, những thứ mà chỉ những tay sừng sỏ trong ngành y mới biết hết, cơn bốc đồng dịu xuống và tôi cho qua chuyện tại sao bệnh sốt hậu sản lại lẩn mặt. Tuy nhiên thương hàn biểu hiện nhiều triệu chứng đáng kể, thêm vào đó bệnh lở mồm long móng thì đứt đuôi nòng nọc là tôi đã mắc từ lúc cất tiếng khóc chào đời. Đây là căn bệnh cuối cùng xếp theo vần chữ cái nên có thể yên trí rằng mình không còn bị thứ gì đó đe dọa nữa.
Tôi ngồi và ngẫm nghĩ. Nghĩ về điều mình thực sự là một trường hợp hãn hữu, một phát hiện quí báu cho y học, bọn sinh viên chẳng cần gì phải đi thực tập trong các bệnh viện đa khoa, chẳng phải tham gia hội chẩn gì ráo nếu chúng vớ được tôi. Bản thân tôi là cả một bệnh viện đa khoa trọn vẹn, bọn chúng chỉ cần khảo nghiệm một vòng quanh các căn bệnh mà tôi hội tụ là có thể được nhận bằng đít-lôm ngay tắp lự.
Rồi tôi tò mò nghĩ ngợi không hiểu mình còn bám trụ trên thế gian này được bao lâu, quyết định phải tự khảo nghiệm bệnh lí xem sao. Tôi tự bắt mạch. Đầu tiên thấy mình không có mạch đập! Rồi bỗng dưng nó xuất hiện. Tôi rút đồng hồ ra đếm: một trăm bốn mươi bảy cú đập trong một phút. Chuyển sang tìm xem tim nằm ở chỗ nào. Không thấy tim đâu cả, nó ngừng đập rồi chăng? Nghĩ một tẹo rồi tôi khẳng định rằng dẫu sao nó cũng phải ở vị trí bà mụ giành cho nó, rõ ràng nó đang đập, có điều tôi không tìm ra mà thôi. Tôi gõ vào đằng trước thân thể, bắt đầu từ chỗ tôi coi là eo, chuyển lên trên cổ, vòng qua hai mạng sườn tới lưng. Chẳng tìm thấy gì đặc biệt. Thử ngó nhìn lưỡi xem sao. Tôi thè lưỡi ra ngoài hết cỡ rồi dùng một mắt quan sát, mắt kia nhắm lại. Chỉ nhìn thấy mỗi cái chỏm lưỡi nhưng cũng đủ để hiểu rằng đây là cái lưỡi của người đang sốt phát ban.
Bước vào gian phòng đọc của thư viện tôi là một sinh thể mạnh khỏe và vui sướng, thế mà khi lê lết ra ngoài đã là một kẻ tật bệnh suy sụp đáng thương.
Tôi tới gặp bác sĩ riêng. Hắn là bạn cánh hẩu của tôi, mỗi khi cảm thấy khó ở hắn nắn mạch, nhìn lưỡi, trò chuyện với tôi về thời tiết - tất cả đều không đòi tiền công. Tôi nghĩ rằng đây là lúc có thể đền đáp hắn ta đôi chút. “Cái quan trọng đối với một bác sĩ là thực nghiệm” - tôi nghĩ thế, và giờ đây hắn đã có. Trong một mình tôi hắn có thể nhận được những kiến thức thực nghiệm mà qua hàng ngàn người khác hắn ta cũng không thu thập đủ, những bệnh nhân hạng xoàng, chưa chắc mỗi tên đã có được hai thứ bệnh trong người. Thế là tôi tới gặp hắn. Hắn hỏi:
- Sao, cậu ốm đau gì thế?
Tôi đáp:
- Anh bạn nối khố ơi, tớ sẽ chẳng để cậu phải mất thời gian để nghe tớ kể về tật bệnh. Cuộc đời này ngắn ngủi, cậu có thể sẽ sang thế giới khác trước khi kết thúc cuộc kể lể này. Tốt hơn là kể cho cậu nghe bệnh gì tớ không mắc phải: tớ không bị sốt hậu sản, không thể tự giải thích tại sao lại không bị nhưng đó là thực tế. Tất cả các chứng bệnh khác tớ đều mắc cả.
Tôi kể cho hắn nghe việc tôi đã đọc và tự khảo nghiệm ra sao.
Hắn cởi phắt chiếc áo sơ mi trên người tôi, nghe và gõ, ấn mạnh vào eo lưng rồi bất thình lình thụi tôi một cú vào ngực - theo tôi hành vi này rất thiếu văn hóa - lại còn húc đầu vào bụng tôi một cái. Sau đó hắn ngồi xuống, viết cái gì đó vào mẩu giấy, gấp nó lại đưa cho tôi.
Tôi rời khỏi phòng khám của hắn, giấu đơn thuốc trong túi áo.
Cũng chẳng ngó vào tờ giấy, tôi đi thẳng tới hiệu thuốc gần nhất, chìa tờ đơn cho tay bán hàng. Người này đọc rồi trả lại tôi.
Tay chủ hiệu thuốc nói rằng hắn không có những thứ trong đó. Tôi hỏi:
- Đây là hiệu thuốc phải không?
- Tôi bán thuốc. - anh ta đáp. - Nếu tôi là chủ hiệu thực phẩm hoặc cửa hàng lương thực thì tôi có thể giúp anh nhưng tôi chỉ bán thuốc thôi.
Tôi đọc tờ đơn thuốc. Trong đó tay bác sĩ bạn tôi ghi:

Bit-tết ……………..0,4 kg
Bia……………. 0,5 lít
(6 giờ dùng một lần)
Đi bộ 10 km…….. 1 lần ( thực hiện hàng sáng)
Trèo lên giường….. 1 lần ( vào buổi tối, đúng 11 giờ)
Và không nhồi nhét vào đầu những thứ cậu không hiểu.

Thực hiện theo đúng đơn thuốc đó, cái mẩu giấy của thằng bạn bác sĩ đã dẫn đến một kết cục may mắn (chí ít là cho bản thân tôi): mạng tôi đã được cứu sống và sống nhăn răng cho đến bây giờ.
Nhưng cũng nên quay lại với chuyện quảng cáo thuốc viên thuốc tễ đã nói ở trên. Ngày xưa tôi cũng đã từng có những triệu chứng của bệnh gan (chuyện ngày ấy thì không nhầm đâu) trong đó triệu chứng quan trọng nhất là “uể oải và không thích mó máy gì tới công việc”.
Tôi khốn khổ vì về căn bệnh ấy như thế nào - thực khó mà miêu tả cho hết. Có thể nói từ lúc còn ị đùn đái dầm cho tới khi thò lò mũi xanh đi học căn bệnh trên không buông tha tôi lấy một ngày. Thời đó mọi người trong nhà không biết là tôi mắc bệnh gan, giờ thì ngành y đã có nhiều cách tân lớn lao chứ vào ngày đó triệu chứng của tôi đều bị mọi người đổ cho tội lười.
- Sao? Mày hãy còn ngả ngớn trên giường cơ à, thằng quỉ con lười biếng! Bò dậy mau, bắt tay vào việc đi!
Họ quát tôi như vậy, tất nhiên không biết rằng đó là do tôi bị bệnh gan.
Chẳng ai cho tôi uống viên thuốc nào, chỉ cho những cái bợp gáy. Mà thật lạ, món bợp gáy làm cho tôi khỏi bệnh tức thì. Muốn nói sao thì nói, cú bợp gáy ngày đó đã tác động vào buồng gan tắp lự làm tôi thực hiện ngay mọi công việc được sai bảo hết sức hữu hiệu, gấp mấy lần việc xài cả một hộp bự những viên thuốc chữa đau gan của thời buổi tân tiến bây giờ.
Các quí ngài có thấy không, không hiếm lần những phương cách chữa trị gia đình đơn giản lại triệt để hơn bất kì loại thuốc đắt chảy máu mắt nào đó bán ở quầy hàng!
* * *
Chúng tôi ngồi chừng nửa tiếng, thi nhau miêu tả bệnh tật của mỗi thằng. Tôi nói cho Jord và Hari nghe về việc mình thấy khó ở như thế nào vào mỗi buổi sáng thức dậy, Hari kể về cảm giác khó chịu lúc hắn lên giường vào buổi tối. Jord khoanh tay đứng trên tấm thảm con truớc lò sưởi, với những động tác và cử chỉ nghệ sĩ hiếm hoi, kể về việc hắn ta thường rất hay ươn người vào ban đêm.
Jord nói hắn ốm nhưng tôi xin cam đoan với các quí ngài rằng thằng cha này khỏe như một con bò mộng.
Lúc đó cô Pa-pi xuất hiện ở cửa thông báo rằng bữa ăn đã chuẩn bị xong, có nên đưa vào hay không. Ba tên cười nhăn nhó rồi đều nói là có lẽ phải cố thử nuốt lấy vài miếng gì đó.
Hari nêu ý kiến hay là ta để lũ giun chết đói may ra bệnh tật có thể bớt phần tăng tiến đi chăng?!
Cô Pa-pi mang mâm vào, chúng tôi miễn cưỡng nhích vào cạnh bàn ăn, bắt đầu gạt bới đĩa bí-tết với hành cùng món bánh ngọt nhân địa hoàng.
Có thể do tôi hoàn toàn kiệt quệ nên sau khoảng nửa giờ thì đã hết thấy ngon miệng - việc này hiếm khi xảy ra với tôi - thậm chí không đụng gì tới món phó - mát.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ theo cách thức như vậy, chúng tôi rót cho mình đầy cốc, châm thuốc và khôi phục câu chuyện về tình trạng tuyệt vọng của mỗi thằng về vấn đề thể lực.
Thực sự đó là vấn đề gì thì cũng chẳng tên nào xác định được một cách rành mạch nhưng cả ba tam hợp một điều rằng nói gì thì nói rơi vào tình trạng quá mệt mỏi là cái chắc.
- Hết sức đơn giản, bọn mình cần một đợt đi nghỉ - ý kiến của Hari.
- Nghỉ và thay đổi không khí. - Jord bổ xung. - Mệt mỏi quá độ đã làm kiệt quệ tất cả các cơ quan đoàn thể trong người tớ. Thay đổi cách sống và thoát khỏi được những suy nghĩ chết tiệt hàng ngày sẽ khôi phục lại trạng thái thăng bằng thần kinh!
Jord có một tay anh em họ, tay này mỗi lần bị điệu vào bốt cảnh sát đều đưa ra tờ giấy chứng thực rằng hắn là sinh viên Y khoa, có lẽ vì thế chẳng ai lấy làm lạ việc Jord mang dấu ấn của gia đình về khuynh hướng y khoa trong ngôn ngữ !
Tôi đồng ý với Jord và bảo rằng giá mà tìm được một nơi khỉ ho cò gáy, thật xa nền văn minh quái đản của nhân loại để mơ mộng vẩn vơ lấy một tuần dưới ánh mặt trời, một nơi hẻo lánh bị che dấu và thoát xa lũ người nhốn nháo, có một tổ chim đại bàng cao trên vách đá, nhờ pháp thuật của bà Tiên nào đó mà chưa bị moi mất trứng hoặc chim non. Một nơi phải khó khăn lắm mới nghe thấy tiếng sóng vỗ mu mơ của thế kỉ hai mươi vọng tới.
Hari không nghe, hắn bảo thế thì buồn như chấu cắn. Hắn nói hắn đã có một nơi vừa ý. Nơi của thằng cha này thì chả cần đến trí tưởng tượng tôi cũng miêu tả được ngay - đó là một xóm nhỏ hẻo lánh, cư dân và lũ gà cùng lên giường một lúc, chỗ đó có bao nhiêu tiền cũng không kiếm được một vé xem thể thao và phải hành hạ cặp giò qua chừng mươi dặm mới xoay ra một bao thuốc lá.
- Không phải thế. - Hari phản đối. - nếu quả thật cả bọn cần nghỉ ngơi và thay đổi cảnh quan thì tốt nhất cứ đi ra biển.
Tôi cực lực phản đối chuyện đi ra biển. Đi chơi biển cũng tốt nếu như có lấy vài ba tháng nghỉ ngơi nhưng chỉ một tuần thì cực vô lý. Các ngài đi ra biển vào ngày thứ hai, nâng niu mơ ước về một đợt nghỉ ngơi và tiêu khiển, các ngài vẫy lấy vẫy để mấy anh bạn ra chia tay đang đứng trên bờ, khoái trá châm lửa vào tẩu thuốc, sải chân đi lại trên boong với dáng vẻ tự hào đáng kính hơn cả Cô-lôm-bô, thuyền trưởng Kúc và Ma-gien-lăng cộng lại.
Sang ngày thứ hai, sau vài ba đợt sóng ngài đã bắt đầu hối về chuyện đi ra biển. Thứ tư, thứ năm và thứ sáu ngài thấy nỗi đau khổ vì đã chót sinh ra trên thế gian. Thứ bảy, ngài thu sức tàn lực kiệt cố xơi vài ngụm nước dùng, ngồi trên boong nở nụ cười méo xệch để trả lời những câu thăm hỏi của các bạn đồng cảnh ngộ. Chủ nhật thì ngài đã quen quen với sóng, đủ khả năng đi loạng choạng sang phòng ăn để xực chút gì răn rắn. Sáng thứ hai tiếp theo, khi thấy đi biển cũng hay hay thì ngài đã tay vali tay cầm ô, đứng ở cầu thang chuẩn bị xuống tàu!
Tôi còn nhớ cậu em cọc chèo của mình đã tiến hành một chuyến đi biển nho nhỏ để củng cố sức lực ra sao. Cậu chàng mua vé khứ hồi từ Luân-đôn đi Li-vớc-pun, nhưng khi tới được Li-vơc-pun thì tâm trí hắn để hết vào việc làm sao có thể nhượng lại chiếc vé cho ai đó. Người ta kể rằng hắn gí chiếc vé vào mũi từng người hắn gặp trên ga cảng để gạ họ mua với giá rẻ bất ngờ, cuối cùng vé cũng bán được với giá mười tám xu cho một tay thanh niên gày như cá mắm, một anh chàng được bác sĩ cho đơn thuốc có bao gồm nhu cầu hít thở không khí và dạo chơi ngoài biển.
- Không khí biển hở! - Vừa sung sướng nhét rất dịu dàng chiếc vé vào tay anh chàng khốn khổ, câu em cọc chèo của tôi vừa thốt lên. - Ồ, cậu sẽ no nê không khí biển cho cả cuộc đời, còn về chuyện đi dạo ấy à, ngồi trên boong tàu cậu sẽ được đi dạo gấp mấy lần việc choãi cặp chân cà kheo ra mà đi trên bãi cát!
Hắn - thằng em cọc chèo của tôi - quay về bằng tàu hỏa, giải thích rằng cuốc tàu hỏa bắc - đông là quá đủ để bồi bổ cho sức khỏe rồi.
Một người quen khác của tôi làm chuyến du ngoạn một tuần dọc theo bờ biển. Truớc khi tàu nhổ neo chiêu đãi viên của tàu tới gặp hỏi anh ta ưng trả tiền ăn cho từng bữa hay ưng trả tiền trước cho cả chuyến đi. Tay chiêu đãi viên khuyên nên chọn cách thứ hai, như thế lợi hơn. Hắn bảo tiền ăn cho cả hai tuần là hai bảng năm mươi xu, bữa sáng sẽ có cá và thịt rán. Bữa trưa thường vào một giờ với bốn món. Vào sáu giờ là bữa chính gồm súp, khai vị, món nướng, thịt thú, salát, đồ ngọt, phó-mát và hoa quả. Bữa ăn nhẹ cuối cùng vào mười giờ đêm sẽ có mấy món thịt.
Anh bạn tôi (rất khoái nhậu nhẹt) thấy chỉ việc trả một trăm năm mươi xu cho vấn đề ăn uống là ổn nên xì tiền ngay tắp lự. Bữa trưa dọn ra khi chiếc ca-nô mới vừa rời bến. Anh ta chưa đến độ đói như mong đợi nên thỏa mãn với cục thịt rán khá to, dâu tây và mận. Liền tù tì vài bữa dồn dập như vậy cộng với mùi thịt rán từ nhà bếp liên tục bốc lên sặc sụa nên đến ngày hôm sau anh chàng có cảm giác mấy tháng nay chỉ ăn toàn thịt rán với dâu tây và mận, nhưng nghĩ tới số tiền đã trả đành phải cố nhồi nhét cho khỏi phí.
Thêm vài bữa nữa thì anh bạn khốn khổ của tôi lấy làm ngạc nhiên về việc sao trước đây mình lại có thể khoái việc ăn uống đến vậy, hắn phải trốn lên boong thượng sống chay tịnh bằng bánh mì và nước khoáng mấy ngày, cho đến khi có đủ dũng khí quyết định tiếp tục xuống ăn cho hết số tiền chót trả trước cho tay chiêu đãi viên. Tuy nhiên đã đến thời hạn phải bái bai con tàu, và anh ta đành buồn rầu đứng nhìn nó mang một nửa số tiền chưa kịp ăn của mình ra đi mỗi lúc một xa. Hắn cả quyết với tôi rằng chỉ cần một ngày nữa ở lại trên tàu thì cũng quyết không chịu lỗ vốn với tên chiêu đãi viên khốn kiếp!
Vậy nên tôi cương quyết phản đối việc đi chơi biển. Vấn đề không phải ở chỗ tôi lo cho tôi. Tôi chưa từng biết đến cảm giác say sóng, luôn chấp một mắt các vụ tròng trành nhưng tôi sợ cho tên Jord. Jord nói hắn tin ở bản thân nên chẳng việc gì phải phản đối chuyện đi biển nhưng hắn khuyên tôi và Hari đừng nên nghĩ đến việc đó vì cả hai chúng tôi đang ốm. Hari phát biểu rằng hắn bao giờ cũng lấy làm ngạc nhiên khi người ta cố tìm mọi cách giả vờ rằng mình bị say sóng, hắn không tin có hiện tượng đó cũng như không biết thế nào là ốm, có muốn cũng không ốm được.
Sau đấy Hari kể cho chúng tôi nghe chuyện hắn đã từng vượt qua biển Măng-xơ trong một cơn bão khủng khiếp ra sao, tất cả hành khách đều phải bám chặt vào vai giường nằm chỉ có hai người dám đứng trên boong - là hắn và viên thuyền trưởng - Tôi nghĩ là thằng cha này cũng còn biết nói khoác một cách chừng mực vì theo lời hắn kể ít nhất còn có viên thuyền trưởng cũng không bị say sóng như hắn ta.
Có việc lạ lùng như thế này, những người say lăn say lóc khi ở trên tàu thì chẳng bao giờ biết say sóng là gì khi ở trên đất liền! Ở trên biển các ngài có thể gặp người say sóng ở mọi xó xỉnh của con tàu, không cẩn thận dễ dẵm lên người họ, nhưng trên bờ tôi chả thấy ai bảo mình bị say sóng bao giờ, không biết những người say ấy biến đi đâu mất tăm, mà họ không phải ít đâu nhá, lúc nha lúc nhúc trên mỗi con tàu đang hành trình!
Về phần mình tôi tìm ra một cách tuyệt vời để chống lại tình trạng say sóng. Chỉ cần giữ cho trọng tâm thăng bằng là ổn ngay. Các ngài cứ ngồi ở giữa tàu và ngả nghiêng người một cách thích hợp, tương ứng với trạng thái của con tàu lúc đó: khi mũi tàu ngóc lên ngài hãy cúi gập người về phía trước để cho trán mình chạm vào sàn, còn khi đuôi tàu vểnh lên trời xin hãy ngả người ra đằng sau cho gáy tiếp xúc với thảm sàn càng tốt. Làm theo cách đó có thể trụ được với sóng biển chừng một vài giờ nhưng nếu các quí ngài thử giữ thăng bằng độ một tuần lễ như vậy thì tôi rất muốn được nghe cảm tưởng của những ai đã áp dụng biện pháp nêu trên!
Jord bảo:
- Bọn mình đi thuyền chu du ngược dòng sông đi!
Hắn nói rằng cả bọn sẽ được thở hít không khí trong lành không hạn chế, thoải mái lao động chân tay và bình ổn tâm thần, cảnh vật mới sẽ liên tục trình diễn còn sự mệt mỏi vừa mức sẽ gây tác động tốt đến việc thèm ăn và cả bọn sẽ ngủ không hề vẫy đuôi động tai!
Hari có ý kiến rằng liệu có nên để Jord áp dụng liệu pháp gì đó nhằm tăng độ ngủ say hay không vì đó là điều nguy hiểm. Mùa hè hay mùa đông thì một ngày đêm cũng chỉ có hai mươi tư tiếng đồng hồ, làm cách nào để cho tên này có thể ngủ thêm gìơ hơn được nữa, nếu Jord cứ nhất quyết tăng thời lượng ngủ thì có lẽ chỉ thêm vài giờ nữa giấc ngủ của hắn sẽ thành giấc ngủ ngàn thu và bàn ghế sẽ trở thành đồ vô dụng đối với căn phòng của hắn ta.
Tuy nhiên cả ba chúng tôi gặp nhau ở điểm sẽ chọn một con sông làm nơi du ngoạn. Có một thành viên duy nhất không hưởng ứng, đó là con Mon-mo-ran-xi. Sông là thứ chẳng bao giờ con oẳng-văn-gâu của bọn này thấy say mê cả.
- Ba ông trẻ nít lớn người ạ, các ông bàn bạc nghe có vẻ tuyệt đấy. - nó phát biểu. - Các ông phởn chí nhưng tôi thì xin đủ! Tôi sẽ chẳng có việc gì làm ở đó. Tôi không thích phong cảnh và không hút thuốc. Giả dụ có phát hiện một con chuột các ông sẽ chẳng vì tôi mà ghé thuyền vào bờ đâu, còn nếu có cào ván thuyền để ra hiệu thì quí hóa thay, các ông sẽ giả vờ là ngu không hiểu tôi muốn gì mà quẳng luôn tôi qua be. Nói thẳng nhá, ý định của các ông thể hiện việc rất là ngu lâu dốt bền!
Tuy nhiên đã rõ ràng là ba chống một trong truờng hợp này. Ba cái mồm to cùng gào lên thông qua phương án.

Chương Hai

Thảo luận kế hoạch. - Cái khoái của việc ngủ đêm ngoài trời khi thời tiết tốt - Cũng như vậy khi thời tiết xấu. - Đi đến một thoả hiệp. - Các bước đầu tiên của Monmoranxi và tác động của tôi.- Lo lắng nẩy sinh, phải chăng cũng là điều tốt? - Mối lo tan đi.- Buổi họp bị hoãn.

Chúng tôi giở bản đồ, bắt đầu thảo luận kế hoạch hành động tiếp theo. Đã quyết định rằng sẽ khởi hành vào thứ bảy tới tại Kin-sơ-ton. Hari và tôi tới thị trấn đó vào buổi sáng, đưa thuyền tới Che-si, đón Jord ở đó vì hắn buộc phải làm việc đến trưa thứ bảy ở công sở (Jord trực đêm - tôi nghĩ là hắn ngủ thì đúng hơn - ở một nhà băng nào đó từ mười giờ đêm đến bốn giờ sáng hàng ngày ngoại trừ ngày thứ bảy, ngày đó người ta đánh thức hắn và tống ra ngoài cửa từ hai giờ sáng).
Nhưng cả bọn sẽ ngủ đêm ở đâu nhỉ, ngoài trời hay vào khách sạn? Jord và tôi tán thành việc ngủ ngoài trời, như thế mới hoàn toàn tự do và hoang sơ nguyên thủy.
Trong hoàng hôn buồn dịu, những đám mây lặng lẽ tan đi ánh vàng gợi nhớ mặt trời vừa khuất sau dãy núi. Đã không còn nghe thấy tiếng chim chí choé : chúng lặng đi như đám trẻ con hờn dỗi, chỉ còn tiếng gọi thê thiết của chú gà gô và tiếng lích chích của con chim đỗ quyên trong khi Màn Đêm nghiêm nghị đang che phủ dần mặt nước, đâu đó nghe như có tiếng thở dài của Ban Ngày tàn lụi.
Rồi Màn Đêm vỗ đôi cánh không tiếng động duyệt một vòng qua lãnh thổ của mình và chúng tôi ghé con thuyền vào một vụng nước yên tĩnh nào đó. Lều bạt đã dựng xong, bữa cơm tối đơn giản cũng đã chuẩn bị xong và được ăn thủng nồi trôi rế. Những chiếc tẩu nhồi đầy thuốc bắt đầu tỏa khói vào câu chuyện của bạn bè...
- Này nếu mưa thì sao? - Hari giật phắt tôi ra khỏi cơn mơ mộng.
Các ngài sẽ không giây phút nào lôi được tay Hari này thoát ra ngoài vòng áo cơm trần tục hàng ngày. Hắn không có những phút giây bay bổng, không dùng những lời có cánh, chả bao giờ làm mệt não bộ vì ý tưởng nọ kia, không có khả năng “khóc mà không hiều vì sao mà khóc”. Nếu thấy ở khóe mắt Hari có giọt lệ xin các ngài cứ việc yên chí lớn mà đánh cuộc mười ăn một rằng hắn vừa nhá phải củ hành tươi hoặc có ai chơi khăm cho quá nhiều mù-tạt vào món mà hắn khoái khẩu!
Giả dụ vào một buổi tối có anh bạn nào đó đứng cùng Hari bên bờ biển mà chợt thốt lên:
- Này, cậu có nghe thấy không? Đó phải chăng là bài ca của nàng tiên cá hòa trong tiếng sóng vỡ nơi ghềnh đá đằng kia vọng lại? Hay những linh hồn tuyệt vọng đang hát khúc ca tang lễ cho những người chết đuối khốn khổ dưới biển rong kia?
Chắc chắn Hari sẽ chộp lấy khuỷu tay anh chàng đó mà nói:
- Này bố cu, cậu bị cảm gió rồi đấy. Đi thôi, đằng kia có một góc nhỏ hay lắm. ở đó người ta sẽ cho cậu một cốc rượu Xcôt-lan mà họng cậu chưa bao giờ biết đến mùi vị. Mọi chuyện sẽ ổn ngay thôi.
Hari bao giờ cũng biết một quán nhỏ ở một góc nào đó, nơi bạn có thể được hưởng một suất rượu ra rượu. Tôi tin chắc rằng nếu bạn bè gặp hắn ở thiên đường (cứ cho rằng thiên đường là có đi), thì hắn sẽ lập tức chào đón bạn với những câu sau đây:
- Tớ mừng kinh khủng rằng cậu cũng có mặt ở đây, bạn già ạ! Tớ tìm thấy ở góc đằng kia một chỗ hay lắm, tới đó cậu có thể tợp được ngay vài ba ly tiên tửu!
Tuy nhiên cũng phải công bằng mà nhận xét ý kiến của hắn, vì rằng trong trường hợp ngủ đêm dưới trời sao, sự lưu tâm hết sức thực tế của tay Hari cũng hoàn toàn có lý. Ngủ đêm ngoài trời khi có mưa thật chẳng dễ chịu chút nào, chẳng cần đến một trí tưởng tượng thật phong phú các ngài cũng có thể hình dung ra những việc dưới đây:
Trời bắt đầu đổ tối. Người ngợm ướt như chuột lột, nước trong thuyền đã ngập mắt cá chân và mọi thứ đồ nghề đều ngấm nước. Ba chàng lãng du sẽ ngó quanh ngó quất để tìm một nơi ít vũng nước đọng, cập thuyền vào đó rồi vội vàng lôi ra chiếc lều bạt. Hai trong ba tên bắt đầu dựng lều. Lều thì ướt và nặng như cùm, nó vỗ phần phật trong cơn giông, cưỡi lên đầu lên cổ bạn và bạn thành con ma bùn. Mưa cứ từ trên rót xuống, rót xuống. Với những chàng vụng về thì trong lúc khô ráo sáng sủa cũng chẳng dễ gì dựng một chiếc lều cho ngon lành, mà trong mưa thì con quỉ bốn góc này sẽ trở thành quái vật ngay đến Hec-Quyn cũng phải chào thua.
Chẳng còn gì phải nghi ngờ, trong tình hình đó, trợ thủ của bạn thay cho việc giúp đỡ nhau sẽ chỉ diễn cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Bạn vừa cố công cố sức ghim được góc lều của mình thì hắn lại giật mạnh ở góc đằng kia và công của bạn trở thành công cốc.
- Ê, mày làm gì thế? - Bạn gào lên hỏi hắn.
- Còn cậu đang làm trò khỉ gì vậy? - Hắn quát lên đáp lời. - Không thể nới nó ra tí à.
- Đừng lôi nữa, đồ con lừa! Mày làm tung phía này lên rồi, quân hậu đậu ạ!
- Mày hậu đậu thì có. - Hắn phun phì phì như rắn hổ mang. - Nới góc đằng ấy ra...
- Tao đã bảo là mày làm lộn tùng phèo lên rồi - bạn gào lên, gắng nói cho hắn hiểu và căng sợi giây đến mức tung hê lên trời cái cọc ghim mà hắn vừa cố sức đóng được.
Phát điên lên, bạn quẳng búa và cọc vòng sang chỗ hắn để giải thích và thống nhất cách làm việc nhưng hắn cũng đang bực bội vòng sang tìm bạn từ hướng kia và diễn trò đèn kéo quân trong đêm. Tất nhiên hai chuyên gia dựng lều chỉ có thể nhìn thấy nhau khi chiếc lều dựng dở sụp hoàn toàn xuống đất và may mắn có một tia chớp lóe lên vào lúc đó.
Cuối cùng rồi lều cũng dựng xong, mọi thứ đồ đạc được lục cục chuyển vào. Vì lẽ không thể nhóm được bếp các bạn bè đành đem rượu ra đốt và chen chúc nhau như người nguyên thuỷ quanh đống lửa đầu tiên của loài người , cùng giơ ra triển lãm những bàn tay nhăn nhúm vì cóng lạnh.
Bữa tối đã biến thành món nước mưa, bánh mì ướt nhèm co lại còn hai phần ba thể tích, bánh nướng nhân thịt đã bão hòa nước. Mứt, dầu, muối, cà phê trộn lẫn nhau thành thứ xúp lỏng hổ lốn chưa ai từng thấy.
Sau cái gọi là bữa tối, nếu may mắn còn sót lại đâu đó chút thuốc sợi chưa bị ướt, bạn cũng có thể hưng phấn lên đôi chút trước khi chui vào chăn. Trong mơ bạn sẽ thấy một con voi ma mút sinh thiếu tháng cưỡi lên ngực mình, thấy núi lửa nổ tung bắn mình xuống đáy biển nhưng con ma mút không chịu rơi ra ngoài. Bạn bừng tỉnh và hiểu rằng thực sự có điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra. Có thể là Ngày Tận Thế mà Kinh Thánh tiên đoán đã đến rồi chăng?
Hay chí ít cũng có vụ cướp phá hoặc hỏa hoạn, vậy mà không thấy ai đến giúp đỡ bạn thoát khỏi cảnh bị đè nén đến bẹp người trong khi linh hồn bạn đang từ từ bay đi.
Hình như có ai đó cũng gặp cảnh khốn cùng như bạn: bên dưới chiếc chăn có tiếng rên ư ử.
Thế là để rỗi cứu phần hồn phần xác của mình bạn cố nhỏm dậy đâm đầu lao ra ngoài, trong cảnh nhá nhem bạn thấy một tên đạo tặc mình trần trùng trục đang đuổi theo mình, bạn đã sắn sàng liều chết với cuộc đấu thập tử nhất sinh thì nhận ra đó là anh bạn cùng lều.
- Ra là mày à? - Hắn cũng vừa nhận ra bạn.
- Ờ, - bạn giơ tay dụi cặp mắt đỏ như mắt cá chày. - Mày vừa làm trò gì vậy?
- Hình như chiếc lều thổ tả sập xuống mày ạ. - hắn nói. - Mà thằng Bill đâu?
Cả hai bắt đầu gào: Bill ơi! - Thế là đất dưới chân hai anh bạn chợt động đậy, tạo thành những nếp gấp, một giọng quen quen từ dưới đống bùn và vải tuồn vọng ra:
- Thì ra là chúng mày, chúng mày làm trò gì trên đầu tao vậy?
Tên Bill lồm cồm chui ra, trông như nạn nhân của vụ đắm tàu, bùn đất phủ đầy mặt mũi.
Chẳng hiểu sao thằng cha rất đỗi bực bội, hắn nghĩ hai thằng chơi khăm hắn.
Hậu quả tất yếu là cả ba tên đều mất giọng vì bị cảm lạnh, hầm hè nhau trong bữa sáng bằng giọng của nhà vịt đực.
Vậy nên cuối cùng chúng tôi quyết định rằng vào những buổi thời tiết tốt có thể ngủ ngoài trời, còn ngày nào thấy ông trời khó chơi hoăc muốn thay đổi kiểu nghỉ đêm thì sẽ vào khách sạn, nhà nghỉ hoặc chỗ nào đó mà cả bọn ưng ý.
Con Mon-mo-ran-xi nhìn chúng tôi với vẻ hưởng ứng ra mặt. Cô đơn và lãng mạn vốn không phải là bản tính của nó, nếu có những cơ hội để ồn ào và vui vẻ một cách nhặng xị thì hãy dè chừng cu cậu.
Các ngài hãy thử nhìn con Mon-mo-ran-xi, nó như một thiên thần bằng xương bằng thịt, vì một nguyên nhân nào đó còn là điều bí ẩn đối với con người đã mang hình dạng một con chó phốc. Nó luôn luôn thể hiện cái vẻ như muốn nói “Gâu!- sao - cái - thế - giới - này - tồi tệ - quá - vậy. Gâu! - tôi - mong - muốn - làm - cho - nó - tốt - đẹp - và - cao - quí - hơn - cơ - gâu!”. Một dáng vẻ dễ làm rơi nước mắt của các quý bà quý ông giàu tình cảm.
Lần đầu tiên con chó này đến sống nhờ ở chỗ tôi, tôi không hy vọng gì về việc sẽ được cộng sinh với nó lâu dài. Thường thì tôi ngồi trên ghế bành nhìn nó, còn nó ngồi trên tấm thảm chùi chân nhìn lại tôi, tôi thường nghĩ “chú cún này chả trụ được mấy nỗi nữa. Mày sẽ được bay lượn trên thiên đường trong chiếc xe mây ngũ sắc - chả mấy nả nữa đâu”.
Nhưng sau khi tôi đã phải trả tiền đền cho hàng xóm vì vài ba chục con gà con bị nó cắn chết, sau một trăm mười bốn lần tôi quẳng nó như quăng cục giẻ rách ra góc phố, sau khi một bà bủ mồm loa mép giải đem tang chứng là con mèo bị cắn chết đến gí vào mũi tôi, gọi tôi là kẻ sát nhân, sau lần một tay hàng xóm kiện tôi ra tòa vì tội không coi giữ và không xích cổ con vật hung tợn, để hắn phải ngồi chết cóng trong kho rau lạnh hai giờ liền, không dám thò cổ ra ngoài. Sau lần tôi tình cờ biết rằng gã làm vườn của tôi đã thắng cược ba mươi xi-ling, về số lượng lũ chuột bị nó cắn chết trong một thời gian nhất định, thì tôi phải thay đổi nhận định và cho rằng việc nó được lên phục vụ trên thiên đường có lẽ sẽ lui lại lâu hơn.
Quanh quẩn bên chuồng ngựa, tập hợp một bày lũ to tai dài đuôi hơn nhờ vào tiếng tăm bất hủ của nó, Mon-mo-ran-xi thường hay tiến hành những cuộc thi O-lem-pia về môn “đớp” với những tập đoàn tiếng tăm không kém. Theo chủ kiến của nó, đấy mới đúng là cuộc sống, vậy nên tôi biết trước rằng đề nghị vào ngủ trong khách sạn hay phòng khách trong trang trại sẽ được nó ủng hộ nhiệt liệt.
Thế là vấn đề ngủ đêm đã được thông qua với sự tán thành của cả nhóm bốn tên, chỉ còn lại việc cần suy xét là mang theo những thứ gì. Nhưng vừa đưa ra vụ việc Hari đã tuyên bố rằng liều lượng tranh luận cho ngày hôm nay quá dư thừa rồi, hắn đề nghị ra phố làm vài cốc. “Tớ biết một góc nhỏ, ở đó các cậu có thể tợp mấy ngụm rượu Ai-len kha khá đấy”
Jord nói rằng hắn khát muốn chết (không thể nhớ ra có lúc nào tay này nói là hắn không khát không nhỉ ?!) và tôi cũng có ý nghĩ rằng chút ít rượu mạnh với chanh có thể sẽ tốt hơn cho tình trạng bệnh tật của mình, thế nên cuộc họp được nhất trí hoãn lại đến chiều hôm sau. Cả bọn đội mũ và bước ra phố.

Chương Ba

Những vấn đề về tổ chức - Phương pháp làm việc của Hari - Ông bố đáng kính treo tranh ra sao - Jord có một nhận xét thông minh - Sự tuyệt vời của buổi tắm sáng - Dự trữ cho trường hợp con thuyền thích nổi phía đáy lên trên mặt nước.

Vậy là chúng tôi lại tụ họp vào chiều ngày hôm sau, để hoàn tất chương trình nghị sự. Hari bảo:
- Trước tiên phải bàn dứt điểm chuyện sẽ mang theo những thứ gì, Janne (đó là tên tôi), lấy giấy ra đây và chuẩn bị viết. Còn cậu, Jord, xoay lấy một tờ bảng giá thực phẩm. Ờ, nếu có cậu nào tìm cho tớ mẩu bút chì, tớ sẽ lập bản danh mục.
Mọi việc đều do tay Hari lo lắng: hắn bao giờ cũng đảm đương phần việc nặng nhọc nhất nhưng sau đó cũng chẳng ngượng ngùng gì trút rất nhẹ sang vai kẻ khác. Hắn luôn luôn làm tôi nhớ tới ông bác Polin tội nghiệp đã khuất núi của tôi. Tôi xin cam đoan rằng chưa bao giờ các ngài được chứng kiến cảnh lộn xộn như thế trong một ngôi nhà, khi ông bác Polin của tôi đảm nhận công việc gia đình nào đó. Xin dẫn trường hợp sau: có một bức tranh được lồng trong chiếc khung mới do bác thợ mộc vừa đem đến, dựng nghiêng nghiêng vào chân tường của phòng ăn, thím Polin đi vào trông thấy liền hỏi xem nên làm thế nào. Bác Polin nói ngay:
- Còn gì nữa, đó là việc của tôi! Không cần ai, nghe rõ chưa, không cần ai phải lo lắng về chuyện đó. Mình tôi sẽ làm tất.
Ông bác cởi áo bành tô ngay tắp lự và bắt tay vào công việc.
Ông phái con sen đi mua sáu xu đinh, sau cô ta là một thằng cu con chạy theo để cấp thêm thông tin về kích thước và chất lượng loại đinh cần mua. Từ phút đó ông bác thực sự bắt tay vào công việc một cách nghiêm túc và cảm thấy không yên tâm khi chưa bắt cả nhà chạy nháo nhào.
- Nào, anh nhớn, tìm cho bố cái búa. - ông quát. - Tôm, lục trong tủ đưa cái thước ra đây. Cô cả đâu, đưa bố cái thang xếp, đưa thêm chiếc ghế nữa càng tốt. Này, Jim! Chạy ngay sang nhà bác Gonda bảo bác ấy rằng bố cháu hỏi thăm tình hình chân cẳng của bác và bảo bác ấy làm ơn cho mượn cái ống thủy chuẩn. Cô út Maria, xin cô đừng chạy nhông đâu đó đấy nhá! Phải có ai đó cầm đèn soi cho tôi chứ. Này, khi con sen về bảo nó chạy đi mua tiếp một cuộn dây ngay nhé. Tôm ơi, ơ thằng Tôm đâu rồi! Lại đây, đưa cho bố bức tranh nào.
Ông nâng bức tranh lên và tuột tay đánh rơi làm khung một đằng tranh một nẻo, do cố cứu đỡ tấm kính nên ông già bị chảy máu tay, ông nháo nhào trong nhà tìm chiếc khăn mùi-xoa.
Không thể tìm thấy khăn tay vì lẽ nó đang ở trong túi chiếc áo bành tô lúc nãy ông cởi ra nhưng không hiểu bây giờ nó biến đi đâu và cả nhà phải dừng việc huy động vật tư thiết bị để tìm cho ra chiếc áo khoác.
- Chẳng lẽ cả nhà không ai biết cái áo bành-tô đâu à? Tao thật sự chưa bao giờ gặp một lũ vô tích sự như bọn bay. Chúng bay cả thảy là sáu người mà không thể nào tìm ra chiếc áo tao vừa cởi ra năm phút trước đây hay sao!
Ông đứng lên khỏi chiếc ghế bành, nhận thấy rằng mình vừa ngồi lên trên chiếc áo khốn khổ liền tuyên bố:
- Được rồi, thôi chúng bay chấm dứt tình trạng rối rít tít mù đi xem nào! Tự tao tìm ra nó đây rồi. Dính với bọn chúng mày chỉ rách việc!
Mất khoảng nửa giờ để băng ngón tay chảy máu, mua kính mới và huy động đầy đủ vật tư thiết bị, nào thang xếp, ghế đẩu, nến, dây dọi, đinh, búa.. ông bác tôi lại bắt tay vào việc. Toàn gia, kể cả cô sen và bác làm vườn công nhật đứng xúm quanh, sẵn sàng lao vào giúp đỡ. Hai người tự nguyện làm nhiệm vụ giữ chiếc ghế đẩu cho thật chắc chắn, người thứ ba giúp ông chủ gia đình leo lên ghế và đỡ ông cho khỏi mất thăng bằng, người thứ tư đưa đinh, người thứ năm sẵn sàng chiếc búa trong tay để đưa ông đóng vào thời điểm cần thiết. Ông chủ cầm chiếc đinh lấy dấu nhưng nó trốn khỏi tay ông tụt xuống nền nhà.
- Thế đấy! - Ông bác nói với vẻ bực bội. - Giờ lại đến lựơt cái đinh giở chứng.
Cả bọn chúng tôi đồng loạt quì gối bò lê trên sàn để tìm chiếc đinh chạy trốn nghĩa vụ trong khi ông hỏi xỏ cả lũ rằng chẳng lẽ chúng tôi để ông phải đứng trên ghế đến nửa đêm hay sao!
Chiếc đinh trốn nghĩa vụ cuối cùng cũng không thoát được mạng truy tìm dầy đặc nhưng cái búa biến đâu rồi nhỉ ?
- Búa đâu? Cái búa để chỗ nào hở bọn bay? Chúa ơi, bảy con lừa bò đi bò lại mà không nhìn thấy cái búa ở chỗ nào à!
Chúng tôi tìm thấy búa nhưng ông đang chăm chú sờ mò xem vạch dấu để đóng đinh ở chỗ nào, chả lẽ nó cũng có chân để bò đi như chúng tôi hay sao?! Con cháu tranh nhau leo lên ghế để cùng tìm vết đã đánh dấu. Mỗi đứa tìm thấy một vết, nhưng chẳng vết nào trùng với vết nào nên ông già mắng cả lũ là huênh hoang khoác lác và đuổi cổ xuống hết dưới đất. Ông cầm thước lên để định lại dấu cho thật chuẩn, hóa ra công việc đòi hỏi phải chia đôi cho thật đúng một con số lẻ. Trong khi ông tính nhẩm bọn chúng tôi cũng tranh nhau tính, kết quả tính toán của cả nhà thật đa dạng nên đứa nọ ra sức cười diễu đứa kia.
Ông bác chuyển sang chia bằng dây, vào đúng lúc chỉ cần cố tí nữa thì có thể vươn tay tới điểm cần đánh dấu ông bị mất thăng bằng: cả tay cả người vừa lăn vừa đập vào cây đàn piano gây ra một hiệu ứng âm nhạc thật là khủng khiếp. Bác gái Maria hết sức chịu đựng, bà đi vào đuổi bọn trẻ ra ngoài, bảo rằng thứ âm nhạc mà ông chồng vừa trình diễn làm hỏng tai bọn chúng, trong lúc đó bác Polin đã đưa tay trái đặt chiếc đinh vào chỗ cần thiết, tay phải giơ búa lên đóng như một ông thợ thực thụ. Chỉ có điều nhát búa đầu tiên đã chơi xỏ ông: nó đập vào ngón tay cái của ông chủ thay cho việc đập vào mũ đinh rồi rơi vào chân một thằng cu con nào đó làm thằng bé thét lên. Bà chủ nhà tuyên bố ngắn gọn rằng lần sau nếu ông Polin lại có ý định đóng đinh vào tường, thì làm ơn thông báo trước để bà và lũ trẻ kịp sơ tán về bên ngoại vài tuần!
- Xì, các bà phù nù này thật là... ! Luôn luôn ầm ĩ chỉ vì chuyện vớ vẩn không đâu. - Ông bác tôi đáp lời, cố gượng đứng lên. - Tôi lại thấy thích làm những việc này, thỉnh thoảng phải động chân động tay một tí chứ.
Nhát búa thứ hai của bác cũng không được hay ho cho lắm, nó trượt khỏi đầu đinh làm thủng một lỗ ở bức vách thạch cao. Loay hoay đến tận nửa đêm công việc mới chấm dứt: bức tranh đã treo vào chỗ dự định tuy không được thẳng thớm cho lắm, xung quanh chỗ treo tranh có thể nói là đã thêm một khung trang trí theo trường phái lập thể tạo nên bằng các vết sướt, vết thủng lỗ chỗ và dấu chân dấu tay của ông bác tôi lưu lại. Cả nhà mệt bở hơi tai trong khi ông chủ trò vẫn khỏe re.
- Xong rồi nhé! -Ông Polin nói và nhảy phịch xuống, dẫm đúng vào chỗ chai chân của bác làm vườn công nhật. - Ở nhà khác thì mấy ông chủ phệ bụng đã nghĩ ngay đến chuyện thuê mượn thợ nọ thợ chai, vẽ chuyện!
Khi Hari đạt đến độ tuổi “tam thập nhi lập” chắc chắn sẽ giống hệt như ông bác Polin, tôi đã bảo hắn như vậy, còn bổ xung thêm rằng tôi sẽ không để cho hắn ôm đồm lắm công nhiều chuyện.
Tôi nói:
- Không, tốt hơn là cậu lấy giấy, bút chì và bảng giá thực phẩm ra đây, để cho Jord hắn ghi chép, còn bao nhiêu tớ sẽ làm tất cho các cậu.
Phương án đầu tiên đã bị loại bỏ ngay sau khi ghi chép ra. Không còn gì phải nghi ngờ việc thượng lưu sông Thêm khá nông, không đủ mớn nước để con thuyền đi qua khi chất lên mọi thứ cần thiết cho chuyến du hành. Chúng tôi vò nhàu tờ giấy và băn khoăn nhìn nhau.
Tay Jord bảo:
- Không ổn rồi các cậu ạ. Không nên nghĩ về việc chúng ta cần chuẩn bị mang theo những gì mà nên nghĩ xem những gì không có thì bọn mình sẽ không đi được.
Kể cũng đáng ngạc nhiên, Jord ta đôi khi nghĩ ra những điều đáng đồng tiền bát gạo ra phết!
Suy nghĩ của hắn rõ là có đầu óc - phải thừa nhận rằng không chỉ đối với vấn đề thu xếp đồ đạc mà cả trong cuộc chu du theo dòng sông của chúng tôi sắp tới đây. Đã có khá nhiều người du ngoạn trên dòng sông này do mải suy nghĩ đến vấn đề tiện nghi và hưởng thụ cho thật thoải mái nên cố sức chất không biết bao nhiêu thứ đồ gia dụng và lương thực thực phẩm lên con thuyền, nhưng cuối cùng mới thấy rằng chúng quả thực là vô dụng và gây nhiều phiền nhiễu.
Tôi đã chứng kiến một lần như vậy: không còn thứ gì mà chủ nhân không định xếp xuống con thuyền mỏng mảnh, hàng hóa đồ đạc ngổn ngang đến lưng cột buồm! Nào là quần áo chưng diện đủ các loại mốt, mấy ngôi nhà khung gập sang trọng, nào gia nhân đầy tớ, các vị khách mời với các quí bà sặc sỡ lòe loẹt, quí ông kiêu ngạo huênh hoang mà ở vào địa vị tôi hoặc các ngài, chắc đều chỉ thấy vui khi được nhìn thấy lưng họ!
Tất cả sẽ là những gánh nặng phiền nhiễu, cho qua be thôi các ngài ạ! Nó chỉ làm cho con thuyền của ngài nặng nề đến nỗi người ngồi ở vị trí chèo phải cúi gò lưng tôm, trở nên chậm chạp, khó bề xoay xở và thiếu ổn định đến nỗi các ngài sẽ chẳng còn lấy một phút bình yên, chẳng có lúc nào được ngơi nghỉ để có thể mơ tưởng nọ kia hoặc tận hưởng niềm vui trần thế. Sẽ chẳng bao giờ có thể ngắm nhìn các gợn sóng lăn tăn như lũ thỏ non lướt qua bãi cạn, ngắm nhìn ánh thái dương nhảy nhót trên mặt nước xa xa. Những cây cổ thụ xanh tươi hùng vĩ trên bờ sông sẽ bị coi như những cây cột điện trên đường phố khi các ngài vội vàng đi qua để kịp giờ đến công sở, còn thì giờ đâu để khoan khoái nhìn những bờ lau xanh tươi rậm rạp uốn éo dọc theo bờ sông truớc gió, ngắm đám cỏ lác hay bụi dương xỉ lạ mắt vói những chùm hoa lưu ly biếc xanh.
Cho các thứ phiền nhiễu đó qua be ngay thôi các ngài ạ! Hãy giành tất cả cho sự thanh thản tâm hồn và chỉ nên mang theo những gì tối ư cần thiết, một vài đồ sinh hoạt thiết yếu trong niềm vui khiêm tốn, mang những gì mình yêu mến và thân quí hơn tất cả: vài tay bạn bè cánh hẩu, tri âm đồng điệu xứng đáng gọi là bạn của các ngài, con Miu, con Cún, một vài chiếc tẩu, đầy đủ thức ăn, đầy đủ quần áo và nhiều nhiều, hơi nhiều nhiều chai cay vào các ngài ạ, thứ mà cánh đàn ông ta không ai quay đi khi nhìn thấy nó.
Khi đó các ngài sẽ thấy con thuyền lướt đi lẹ làng trên mặt nước, hầu như không tiềm ẩn hiểm nguy gì về chuyện nó muốn chơi ngông xoay phía mui xuống dưới, mà kể cả trong trường hợp việc đó xảy ra cũng chẳng có gì đáng ngại. Ngài sẽ có dư thừa thời gian cho suy tuởng viển vông, cho những gì mình thích nhìn ngắm, để nghe khúc ca của thần Gió gửi đến con tim chàng lãng du, để, để…
Cho phép tôi được dừng chuyện này ở đây thôi.
Thế nên chung tôi ủy nhiệm Jord lên bản danh mục và hắn bắt tay vào việc.
- Cho qua chuyện mang theo lều ngủ. - Jord nói. - Ta sẽ chọn chiếc thuyền có mui bạt, đơn giản và thoải mái hơn.
Ý tưởng khá đạt, chúng tôi tán đồng ngay. Tôi không hiểu các bạn đã nhìn thấy loại thuyền này bao giờ chưa. Các bạn chỉ việc cố định một khung kim loại vào thuyền, căng vải bạt trùm qua nó từ mũi đến lái, con thuyền sẽ biến thành ngôi nhà nhỏ, ở trong đó khá ấm cúng tuy có hơi chật chội nhưng biết làm thế nào được, “mọi chuyện trên thế gian này đều có mặt trái của nó”. Một anh hàng xóm của tôi đã thốt lên như vậy khi bà nhạc qui tiên và anh ta phải dốc hầu bao ra lo chuyện tang ma.
Jord nói làm như vậy thì cả bọn có thể mang theo nhiều thứ khác: khăn choàng (mỗi tên một chiếc), đèn pin, xà phòng, bàn chải, lược (dùng chung), bàn chải răng (riêng biệt cho từng người), chậu rửa mặt, kem đánh răng, bàn cạo râu, vài chiếc khăn tắm. Tôi đã lưu ý từ lâu rằng người ta thường mang theo đồ tắm mỗi khi có dịp đi đến nơi nào có hồ có biển, nhưng sẽ chẳng có nhiều người xuống tắm như vậy đâu khi đã tới nơi.
Chính tôi đã nghiệm thấy điều ấy qua những lần tắm biển. Khi ở Luân-đôn nghĩ về chuyện này, tôi thường quyết định rằng mình sẽ dậy thật sớm đi tắm cho tới giờ ăn sáng, rất hớn hở xếp sẵn vào va li vài chiếc quần xà lỏn và khăn tắm.
Nhưng khi tới biển tôi thấy mình không háo hức lắm với chuyện tắm như khi còn ở nhà mà thường thích nằm ườn trên giường khách sạn cho tận tới lúc bò dậy đi ăn nhẹ. Một lần sau khi tổng động viên hết mức quyết tâm tôi bò dậy lúc rạng sáng, mặc qua quít quần áo rồi vớ chiếc quần bơi và khăn mặt chạy ào ra biển. Có điều lúc đó quả thực không thấy khoái chuyện tắm biển cho lắm: hình như có kẻ nào đó cố tình làm tôi nhụt chí nên đã thổi ra luồng gió đông lạnh lẽo, hắn lại cố tình xếp toàn đá nhọn với vỏ hà sắc, dấu chúng một phần dưới cát để tôi không nhìn thấy.
Đến cả mặt biển cũng muốn chơi xỏ tôi vì nó cứ lui mãi ra xa và trên đoạn đường đến hàng cây số tôi cứ phải xo ro đôi vai, run cầm cập, bước một cách loạng choạng xen những cú nhảy cẫng vì đau cho đến khi tới được sát mép nước.
Vừa tới nơi một con sóng khổng lồ đã sẵn sàng đón tiếp, nó ôm lấy kẻ tắm sáng vừa đẩy vừa quăng, khiến tôi ngã ngồi lên một doi đá cố tình đợi ở đó một cách hết sức xỏ lá. Tôi chưa kịp kêu và hoàn hồn để nhận biết tình thế thì đợt sóng khác đã nhảy xổ vào lôi tôi ra ngoài khơi. Tôi cuống cuồng đạp chân gạt tay cố sống cố chết mong sao còn được gặp lại ngôi nhà thân yêu và lũ bạn bè, trong giây phút đó tôi chợt thấy hối hận vì hồi nhỏ tôi rất thích bắt nạt đứa em gái bé bỏng của mình.
Đúng vào giây phút tuyệt vọng đến cùng cực, khi tôi đã giã từ với mọi hy vọng được sống tiếp thì con sóng đột nhiên lui ra xa bỏ tôi nằm chỏng gọng trên bãi cát như một con sao biển. Lúc đó mới kịp ngoảnh lại và nhận thấy rằng cuộc chiến dữ dội với Hà Bá vừa rồi để giành mạng sống của mình chỉ xảy ra cách bờ có chục bước chân và có lẽ nếu không có con sóng quái ác thì nước cũng chỉ ngập đến đầu gối bộ cẳng cà kheo của mình mà thôi!
Tôi loạng choạng đi vào bờ, mặc quần áo, về gần đến nhà ăn còn phải cố gắng vẹo môi huýt sáo để tỏ ra rằng tắm biển sớm thật là khoan khoái!
Bây giờ đây cũng vậy, khi nghe chúng tôi thảo luận ai cũng có thể nghĩ rằng sáng nào bọn này cũng sẽ có cuộc bơi ra xa. Jord nói thật là khoan khoái khi thức dậy trên thuyền vào buổi sớm cùng với những tia sáng ngày đầu tiên và trầm mình vào dòng nước sông mát xanh. Hari nói rằng cuộc bơi tới tận giờ ăn sớm là liệu pháp tốt nhất để ăn ngon miệng, hắn bảo riêng với hắn tắm sáng bao giờ cũng làm tăng độ thèm ăn.
Jord lưu tâm rằng nếu Hari có ý định ăn tăng hơn mức mọi ngày thì hắn nhất định sẽ phản đối cho dù Hari chỉ tắm trong bồn đi chăng nữa. Jord bảo việc chèo ngược dòng một con thuyền chất đầy binh lương để làm thoải mái cái bụng của Hari sẽ là một công việc thực sự khổ sai.
Tôi phản đối Jord trong vấn đề này vì tuy thế sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều khi ngồi chung thuyền với một Hari sạch sẽ và vì thế nên chấp nhận việc mang thêm dăm bảy chục cân lương thực còn hơn.
Chúng tôi cuối cùng cũng thống nhất được trong việc sẽ mang theo ba chiếc khăn tắm để người nọ khỏi phải chờ người kia. Về vấn đề quần áo Jord nói chỉ cần mang hai bộ quần áo thể thao bằng phơ-la-len trắng là đủ, khi nào bẩn chúng tôi có thể tự giặt lấy bằng nước sông. Chúng tôi hỏi hắn đã bao giờ giặt phơ-la-len trắng ở sông chưa.
- Nói cho thật đúng thì chưa. - Jord đáp. - nhưng một thằng bạn của tớ đã giặt và cho biết rằng việc ấy thật dễ như trở bàn tay.
Tôi và Hari chỉ có thể gượng gạo tin rằng thằng cha đã suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề này và về việc ba tên đàn ông chưa bao giờ mó tay vào một công việc tương tự, chỉ với sự trợ giúp của cục xà phòng lại có thể giặt sạch áo sơ mi của mình bằng nước sông Thêm.
Sau này chúng tôi bắt buộc phải nhận biết - than ôi, lúc đó đã quá muộn - rằng thằng cha Jord đã là một tên nói dối trắng trợn trong vấn đề này. Nếu các ngài được nhìn thấy quần áo của chúng tôi sau khi… Nhưng thôi, giống như những cuốn tiểu thuyết tầm tầm đã viết, chúng ta chẳng cần biết trước sự kiện làm gì.
Jord lái chúng tôi tới sự nhất trí trong việc mang theo kha khá quần áo lót và một lượng đáng kể quần dài để phòng khi con thuyền bị lật, chúng tôi cần phải thay đồ cũng như mang theo thật nhiều khăn mùi-xoa để lau chùi đồ đạc, mỗi tên hai đôi giày không kể hai đôi giày vải thể thao cũng để dự phòng cho trường hợp đó.

Chương Bốn

Vấn đề lương thực - Phản đối dầu hỏa - Phó-mát là anh bạn đồng hành cực kì khó chịu - Bà chủ bỏ nhà ra khách sạn - Tiếp tục dự phòng cho trường hợp lật thuyền - Tôi xếp đồ đạc - Jord và Hari xếp đồ - Hành vi của Mon-mo-ran-xi - Ai là người đánh thức.

Sau đó chúng tôi bàn đến vấn đề lương thực, thực phẩm. Jord có ý kiến:
- Hãy bắt đầu từ bữa sáng (thằng cha này cái gì cũng có vẻ bài bản). Thế này nhá, với bữa sáng bọn ta phải có chảo…- Hari nói rằng thứ đó cồng kềnh nhưng hai chúng tôi chặn ngay không cho hắn nói thêm những ý kiến khá xuẩn nữa và Jord tiếp tuc: - … ấm để đun nước, bình pha trà và đèn cồn.
- Nhưng không mang một giọt dầu hỏa nào cả. - Jord nói với một vẻ đầy ngụ ý, Hari và tôi tán thành tắp lự.
Một lần chúng tôi đã mang theo dầu hỏa trong cuộc hành trình nhưng đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Suốt một tuần chúng tôi như phải sống trong quầy bán dầu. Đó là thứ chất lỏng có thể thẩm thấu và loang đi không sót chỗ nào, tôi không biết còn có thứ gì hơn được dầu hỏa nữa hay không. Bọn tôi để dầu ở đằng mũi nhưng nó loang ra đến tận bánh lái, thấm vào tất cả mọi thứ đồ đạc trên đường chu du của chất lỏng quái ác đó, loang xuống nước sông, đổi sắc màu cảnh vật và đầu độc bầu khí quyển. Lúc thì gió dầu đến từ phía tây, lúc từ hướng đông, gió bắc cũng mang mùi dầu hỏa, giá có cả các loại gió thổi đến từ Nam Cực băng hay Sa Mạc héo tôi chắc cũng phải đượm thứ mùi chết tiệt này!
Chúng tôi phải hít thở mùi của nó mãi đến nỗi có cảm giác rằng dầu hỏa đã kéo màn che cả mặt trời lúc hoàng hôn và làm mờ ánh trăng đêm. Đến Marlo cả bọn tìm cách thoát thân: con thuyền được buộc lại ở mố cầu, người thì chạy bộ lẻn sang phía kia của thành phố nhưng chẳng hiểu từ đâu thứ mùi hôi mà bọn tôi đặc biệt nhạy cảm này cứ bám theo mãi ngay cả khi chúng tôi đã mệt nhoài phải trốn ra ngồi ở khu nghĩa địa hoang vắng!
Sau khi kết thúc chuyến đi lần đó chúng tôi đã hẹn nhau tới gốc sồi già linh thiêng vào lúc nửa đêm để cùng thề nguyền một lời thề đáng sợ: sẽ không bao giờ đem dầu hỏa xuống thuyền cho dù chỉ để trị mấy con bọ chó.
Vậy nên lần đi này chúng tôi quyết không đụng gì tới dầu hỏa mà dùng cồn biến tính để đun nấu.
Thứ này cũng vào loại khó ngửi nhưng đành chấp nhận việc xơi bánh nướng bánh rán có thêm mùi cồn mà hình như thầy thuốc cho rằng một liều lượng nhỏ cồn biến tính vào trong người cũng có lợi cho sức khỏe.
Về các thành phần khác cấu thành bữa sáng, Jord đề nghị mang trứng và xúc xích, những thứ chế biến dễ dàng, thit nguội, chè, bánh mì với bơ và mứt - nhưng không một gam phó mát nào - Phó mát cũng như dầu hỏa đều tỏa mùi đặc trưng khủng khiếp. Nếu có mặt thứ tội nợ đó trên thuyền thì nó sẽ là ông chủ, sẽ ra tay khủng bố và chinh phục mọi thứ khác thành thần dân và bắt tất cả chư hầu phải mang theo thứ mùi đặc trưng của nó.
Có một lần một trong số các anh bạn tôi mua ở Li-vơc-pun mấy cục phó mát. Đó là loại phó mát rất cực kì, tươi rói và ẩm ướt, mùi mạnh tới hai trăm sức ngựa. Tôi cam đoan rằng nó có thể tác động vào khứu giác của mọi sinh vật trong vòng bán kính ba dặm Anh và có thể quật ngã một nữ khách ngoại quốc chưa biết nó bao giờ từ khoảng cách hai mươi mét ( xin các bạn đừng cho là bịa, các bạn đã thừa biết rằng ở một số đất nước có những loại quả mà người này thì nâng niu hôn hít trên tay nhưng người khác có thể chóng mặt lăn quay ra đất khi đứng gần!). Lần đó tôi cũng đang ở Li-vớc-pun, vì có công chuyện phải nán lại vài ngày nên anh bạn hỏi tôi xem có sẵn lòng mang giùm chỗ phó mát đó về Luân-đôn hộ anh ta hay không.
- Rất sẵn sàng, bồ ạ. - Tôi đáp - Rất sẵn sàng!
Người ta đưa gói hàng đến và tôi xếp nó lên xe. Đó là một thứ phương tiên vận tải xác xơ cổ lỗ, chịu trách nhiệm lôi nó đi là một sinh vật mộng du chân thọt, đã rụng hết răng mà tay chủ xe trong lúc vui chuyện với tôi vẫn gọi là con nghẽo.
Tôi đặt gói phó mát ở phía trên và con vật bắt đầu đi nước kiệu nhỏ, có thể coi đó là phương tiện đi nhanh nhất nếu so sánh với những chiếc xe lu chạy hơi nước và mọi chuyện diễn ra êm ả cho đến khi chúng tôi qua một khúc quanh. Lúc đó gió thổi mùi phó mát về phía con vật mộng du làm nó xuất thần bừng tỉnh. Quá khiếp sợ con vật phi lồng lên với tốc độ ba dặm một giờ, gió vẫn tiếp tục thổi theo hướng đó nên chưa kịp đến cuối phố, thì cụ chiến mã bất đắc dĩ đã chạy đến nước cuồng, vượt qua tất cả các phế nhân thiếu cẳng và các quí bà voi còi phục phịch đang hốt hoảng.
Bác tài phải nhờ sự trợ giúp của hai người phu khuân vác để dừng chiếc xe ở nhà ga nhưng chắc chắn việc đó cũng sẽ quá sức của họ, nếu một người không nhanh trí nghĩ ra cách nhét chiếc khăn mùi xoa vào mũi con ngựa đang phát điên, còn người kia thì bật quẹt đốt mấy mẩu giấy hơ đi hơ lại trước mõm con vật khốn khổ. Tôi mua vé tàu hỏa rồi nghênh ngang khoan khoái đi dọc theo đường ke trong khi mọi hành khách dạt sang hai bên để tránh đường. Chuyến tàu đã chật ních nên tôi phải len vào một ngăn đã có bảy hành khách khác, một khách gia đáng kính nào đó định giơ tay ngăn cản nhưng dù sao thì tôi cũng vào được bên trong và đặt gói hàng mang hộ anh bạn lên giá lưới để đồ. Với nụ cười hết sức khả ái tôi tiến đến ngồi chung đi-văng với họ và phát biểu rằng hôm nay thời tiết thật là ấm áp.
Mấy phút trôi qua rồi một quí khách bỗng dưng cựa quậy.
- Ngăn này sao ngạt quá nhỉ? - Ông ta nói.
- Có thứ gì nặng mùi thế nhỉ? - Người ngồi bên nói theo.
Họ bắt đầu khịt mũi đánh hơi và tìm ra ngay nguyên nhân nên cùng lặng lẽ đứng lên bước sang ngăn khác. Sau đó một quí bà phục phịch đứng lên nói rằng nhà tàu thật không biết xấu hổ khi hành hạ một phụ nhân đáng kính, bà ta đi ra và kéo lê theo mình bảy chiếc gói với một chiếc vali. Bốn hành khách còn lại nán thêm một chút cho đến khi người đàn ông ngồi trong góc - trông trang nghiêm và ảm đạm như một viên chức của ngành mai táng - nói rằng có mùi gì làm ông ta nghĩ tới các tử thi, thế là ba người cùng đứng lên đi ra cửa vội vàng đến nỗi cụng trán vào nhau.
Tôi cười nụ với người đàn ông ngăm đen còn lại và nói rằng rõ ràng ngăn tàu này giành riêng cho tôi với ông ta, vị này cũng cười hết sức nhã nhặn đáp lại tôi và nói người đời thường hay thích thổi con nhặng lên thành con ma mút. Tuy nhiên khi tàu chuyển bánh vẻ mặt ông ta cũng chợt như mang nặng khổ đau, nên khi tàu tới ga Kru tôi mời ông ta ra ngoài uống gì đó cho mát họng. Con người can đảm này tán thành và chúng tôi cùng đi tới quầy bar, ở đây chúng tôi phải khua khoắng cây ô và gọi đến mười lăm phút mới có một nhân vật nữ đến gần hỏi chúng tôi muốn uống gì.
- Ngài muốn uống gì? - Tôi quay sang hỏi ông bạn cùng buồng.
- Xin chị cho tôi nửa cu-ron rượu mạnh nguyên chất. - Ông ta nói.
Quí ngài này làm một tợp cạn hết cốc rượu rồi lập tức chuồn sang ngăn khác.
Từ Kru trở đi ngăn toa được giành riêng cho tôi vẫy vùng thoải mái dù rằng con tàu chật như nêm cối. Ở ga tiếp theo hành khách nhìn thấy có toa vắng liền xô nhau chạy đến. “Maria, lại đây! Chỗ này còn trống!” - “Lại đây Tôm ơi!”. Họ gọi nhau í ới, chen chúc, xô đẩy với đủ loại gói lớn gói nhỏ và người đầu tiên đã mở bật cánh cửa. Anh ta định bước vào nhưng chợt nhủn gối ngã ngửa ra những người đứng sau, vài hành khách nhanh chân đã vào được trong ngăn, tôi chưa kịp chào hỏi thì chẳng ai bảo ai bỗng nhiên họ lục đục kéo nhau chạy xô ra ngoài như bị ma đuổi.
Xuống ga U-xơ-ton tôi mang phó mát về nhà anh bạn. Chị vợ anh ta bước qua ngưỡng cửa phòng khách bỗng dừng chân đánh hơi rồi hỏi:
- Có chuyện gì vậy? Anh đừng giấu tôi cái gì đấy nhé.
Tôi đáp:
- Phó mát đấy mà. Tôm mua nó Li-vớc-pun và nhờ tôi mang về cho chị. Tôi nói thêm với chị ta rằng tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này, mong chị ta hiểu rằng tôi chỉ mang hộ chồng chị ta mà thôi. Bà chủ bảo rằng chị ta cũng nghĩ vậy nhưng khi Tôm về đến nhà thì sẽ có chuyện phải quấy với anh ta.
Anh bạn tôi còn nán lại ở Li-vớc-pun thêm ít thời gian nữa so với dự kiến nên ba ngày sau chị vợ anh ta tìm đến chỗ tôi.
Chị chàng chất vấn:
- Tôm nói thế nào với anh về chuyện gói phó mát nhỉ?
Tôi bảo anh ta yêu cầu để nó trong phòng lạnh và đừng để ai đụng vào món khoái khẩu đó của mình.
Chị ta la lên:
- Chả ma nào dám nghĩ đến việc đụng vào cái gói ấy. Tôm có ngửi nó không nhỉ?
Tôi đáp rằng chắc chắn đức phu quân của chị ta đã ngửi (không phải một lần) và đức ngài xem chừng rất mãn nguyện.
- Anh nghĩ thế nào. - chi ta thăm dò.- Liệu Tôm có nổi cáu nếu tôi bảo người quét sân đem nó đi chôn ở đâu đó?
Tôi đáp rằng sau một sự kiện như vậy chắc rằng chị ta sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy Tôm nhe cái răng khểnh ra cười nữa.
Chị chàng bỗng nẩy sáng kiến:
- Hay anh mang gói phó mát về bảo quản hộ nhé? Tôi sẽ bảo họ mang ngay tới chỗ anh.
- Thưa quí nương! - tôi đáp lời. - Cá nhân tôi cũng khoái mùi phó mát đó và chuyến đi từ Li-vớc-pun về đây cùng với thứ hàng Tôm gửi thật tuyệt vời khoan khoái, tôi sẽ nhớ đến lúc xuống mồ. Nhưng trong cái thế giới chật hẹp này tôi bắt buộc phải để tâm đến những người xung quanh. Quí nương ạ, tôi đang ở cùng dưới một mái nhà với một bà góa và đứa bé mà bà ta gọi là đứa con mồ côi. Bà chủ nhà tôi có đức tính kiên quyết như một vị tướng, nhất là khi mặt bà ta mang màu quả cà chua, khi nghĩ rằng có ai đó chơi trò kém tắm với mẹ con mình. Quả thực tôi không thể chọc giận một nhân vật như vậy đâu, thưa quí nương!
- Thôi vậy. - vợ bạn tôi nói. - Rõ là tôi không còn cách nào khác ngoài việc đưa mấy đứa trẻ đến trọ ở khách sạn chừng nào món phó-mát đó chưa ăn hết. Tôi không thể sống thêm một phút nào trong cùng một ngôi nhà với cái thứ quỉ tha ma bắt đó nữa.
Chị ta đã giữ lời, để ngôi nhà lại nhờ một chị coi hộ trả lương công nhật, người đàn bà này khi được hỏi có thể chịu nổi mùi trong ngôi nhà đó không đã đáp: “Mùi gì cơ, tôi thấy không khí ở đây có mùi thơm nhè nhẹ của dưa bở chín, dễ chịu lắm!”.
Yên tâm vì sẽ không phải lo lắng tới một vụ kiện tụng do sức khỏe bị xâm hại của người mình thuê mướn, mấy mẹ con lập tức chuyển đến ở trong khách sạn.
Tiền thuê phòng khách sạn sẽ bằng mười lăm ghi-nê và anh bạn tôi sau khi làm con tính tổng hợp thấy rằng giá một phun phó-mát sẽ lên tới tám xi-linh và sáu xu. Hắn bảo mặc dù rất thích chén phó-mát nhưng với giá đó thì cơ túi của hắn chắc chắn bị viêm nên đành rứt ruột đem thứ mình khoái khẩu đi thanh lý. Hắn thẳng tay quăng gói phó-mát xuống kênh đào nhưng lại phải lội xuống vớt lên vì đám phu thuyền và xà-lan phản đối dữ dội.Trong một đêm tối trời anh ta lén đem ra quăng ở mộ địa nhưng viên cảnh sát hình sự khu vực đó đã làm om lên và định buộc Tôm tội đào mồ người khác…
Cuối cùng thì anh bạn chịu nhiều khốn khổ của tôi cũng thoát nợ bằng việc đem gói hàng đến một thị trấn ven biển chôn xuống dưới bờ cát. Chẳng bao lâu sau khu thị trấn bỗng dưng trở nên nổi tiếng vì có người phát hiện không khí biển ở đó có khả năng chữa bệnh cực kì. Sau đó hàng mấy năm đám dân chúng bị ho lao thối phổi vẫn còn kéo nghìn nghịt đến thị trấn đó để dưỡng bệnh!
Vậy nên mặc dù cũng khoái món phó-mát chẳng kém gì chàng Tôm tội nghiệp nhưng tôi vẫn đành phải thở dài chấp nhận việc Jord không cho mang theo là đúng.
- Sẽ không có buổi uống trà vào lúc năm giờ chiều. - Jord nói tiếp (nghe câu này mặt tên Hari trở nên rất khó coi). - nhưng vào bảy giờ sẽ là một bữa đại tiệc đủ đầy, no nê, phè phỡn - bữa chiều, bữa tối và khẩu phần trà sẽ dồn vào cùng lúc.
Hari tươi mặt lên ngay. Jord đưa vào danh mục món bánh nướng nhân thịt, nhân mứt, thịt rán, cà chua, quả và rau. Để làm mát cổ họng chúng tôi quyết định mang theo một thứ nước quánh cực kì đặc biệt do Hari tự pha chế, sau sẽ thêm nước vào và có thể coi là nước chanh, một lượng trà khá lớn và một chai bố uýt-sờ-ki để đề phòng trrường hợp có tên nào đó rơi tõm xuống sông hoặc bị lật thuyền (theo ý kiến của Jord).
Sao cái thằng cha Jord này suốt ngày chỉ nghĩ đến việc bị lật thuyền nhỉ? Làm một chuyến du lịch trên sông mà hắn chỉ toàn nói gở, phỉ phui! Tuy nhiên rượu thì chả có tên nào phản đối.
Cả bọn quyết định không mang theo bia lẫn rượu vang. Sẽ là cái lầm to khi mang những thứ đó đi du lịch trên sông. Tợp vào bạn sẽ trở nên nặng đầu, ngái ngủ. Một cốc bia không là vấn đề gì khi sau đó đi bát phố ngó nghiêng mấy cô nàng, nhưng hãy liệu hồn khi mặt trời rọi trên đầu và những việc giành cho trâu bò đang chờ đợi bạn.
Chiều hôm đó ba tên cùng hội chỉ chia tay sau khi danh mục các việc cần làm đã được ghi chép rất chi tiết, đầy đủ và dài dòng văn tự như bản sớ của Táo Quân vào dịp cuối năm. Ngày hôm sau (đó là ngày thứ sáu) bọn này dùng để tập kết các loại binh lương tại một địa điểm, khi chiều đến lại cùng nhau đóng gói. Quần áo xếp vào trong một chiếc hòm da to bự, lương thực thực phẩm và dụng cụ chế biến cho vào hai chiếc giành tổ bố. Chúng tôi đẩy chiếc bàn lại bên cửa sổ để một đống các thứ cần đóng gói ở giữa phòng rồi xúm quanh bàn luận. Tôi nói rằng tôi sẽ chịu trách nhiệm đóng gói.
Tôi thường tự hào về khả năng đóng gói của mình. Gói, mở đồ đạc là một trong những công việc rõ ràng là tôi có kiến thức kha khá so với bất kì ai (chính tôi đôi khi cũng thấy kinh ngạc là trên thế gian này sao lại có nhiều loại công việc cần tri thức đến như vậy). Tôi cho hai tên kia biết điều tôi nghĩ và bảo rằng tốt hơn là bọn chúng cứ để mình tôi làm là hơn. Hari và Jord sẵn sàng nhường cho tôi nhưng với vẻ nghi ngờ ra mặt, tên Jord nằm ngả ra ghế bành châm tẩu thuốc, còn Hari khụy một chân tựa lưng vào bàn cũng phì phèo khói thuốc.
Thực lòng mà nói, hành vi của hai tên này làm tôi thấy phật lòng. Ý của tôi là sẽ chỉ dẫn cách làm và sai phái bọn chúng như các trợ thủ đắc lực, tôi thỉnh thoảng sẽ chỉ phải nhắc nhở: “Ê, sao lại thế !”, “Đặt cái đó vào đây cơ mà, thôi để tao..”, “ Xem đây này, dễ như trở bàn tay!”, để bọn chúng rồi đây có thể cũng trở nên khéo tay. Vậy nên tôi bất bình với bọn lười thối thây này, tính tôi rất dễ cáu kỉnh khi mình thì làm cật lực còn bọn chúng lại ườn ra như vậy.
Đã có lần tôi ở chung nhà với một tên bạn, thằng cha thực có tài làm tôi phải nổi điên. Hắn có thể duỗi cẳng nằm trên đi-văng dõi mắt theo tôi hàng giờ dù tôi có ở vào góc nào trong căn hộ. Hắn bảo bản tính hắn rất đỗi quan tâm thông cảm khi có người nào đang hối hả bận rộn, theo hắn hình như chỉ có những phút như vậy cuộc sống mới có ý nghĩa, mới không phải là một giấc mộng mị vẩn vơ, chỉ có ngáp với dụi mắt. Cuộc đời khi đó như có cơ hội để lập nên kì tích, nhất là không phải ngày nào hắn cũng có dịp để đươc nhìn một người đang lao động thực sự như tôi.
Nhưng tôi dứt khoát không thuộc vào giống đó. Tôi không thể ngồi yên khoanh tay nhìn người khác làm đổ mồ hôi. Khi đó tôi dứt khoát phải đứng dậy tham gia vào việc chỉ dẫn, ra những mệnh lệnh cần thiết (tay có thể đút trong túi cho đúng phong thái của người chỉ huy), tôi bẩm sinh đã là người hoạt động, không thể làm thế nào khác đi được.
Vậy nên mặc xác bọn chúng tôi cứ im lặng xếp đặt đồ đạc. Việc này hóa ra cần nhiều thời gian hơn tôi nghĩ nhưng dẫu sao tôi cũng kết thúc xong với chiếc hòm da to bự và ngồi lên nó để kéo phéc-mơ-tuya.
- Thế còn giày thì sao? Cậu không định để giày vào trong đó à? - Hari hỏi.
Tôi ngoái lại và phát hiện rằng mình đã quên mất những chiếc giày. Chuyện này làm tên Hari rất khoái. Hắn im như một xác chết trong quan tài, dứt khoát không chịu mở miệng cho đến khi tôi đóng hòm, kéo xong dây khóa. Còn tên Hari thì cười với cái kiểu cười rất ngu của hắn nghĩa là buông ra từng tiếng như con gà cục tác, rất khó chịu khi lọt vào màng nhĩ người khác. Bọn chúng đôi khi làm tôi nổi cáu đến phát điên lên.
Tôi mở khóa hòm, đặt các đôi giày vào. Khi tôi đã đóng trở lại thì chợt thót người với ý nghĩ không biết đã xếp bàn chải răng của tôi vào hay chưa? Không hiểu sao tôi chưa bao giờ vững tin rằng mình đã xếp bàn chải răng vào rồi.
Bàn chải răng là thứ cực kì quan trọng, nó bám theo hành hạ tôi suốt trong các cuộc hành trình.
Đêm đang ngủ tôi bỗng nằm mơ quên bàn chải liền bừng tỉnh, đầu mặt ướt đẫm mồ hôi vội lật giường xem nó có ở đấy không rồi hối hả đi tìm. Sáng dậy tôi nhớ ngay đến việc cất nó đến nỗi quên rằng mình chưa đánh răng thế là lại phải mở túi xách bới tìm mà bao giờ nó cũng cố tình chỉ ló mặt ra khi tôi đã dỡ hết tất cả mọi thứ. Khi xếp đồ trở lại nó cũng hay giở trò lẩn tránh nên không ít lần tôi đành phải quấn vào khăn mùi xoa nhét vào túi rồi vội vàng chạy xuống cầu thang ra ga cho kịp giờ.
Tất nhiên lần này không thoát được chuyện phải moi tất cả các thứ trong hòm da ra và cũng tất nhiên không thấy nó đâu cả. Điên người lên, tôi quăng giũ mọi thứ ra sàn thành một đống hỗn độn như trái đất vào thuở sơ khai, đến vài chục lần tôi nhìn thấy cặp bàn chải của Jord và Hari nhưng chiếc của tôi như thể đã đục lỗ chui xuống đất, cuối cùng hóa ra nó nằm im không chút ho he trong chiếc giày tổ bố của tên Hari!
Khi tôi kết thúc việc tìm bàn chải và xếp đồ trở lại Jord hỏi liệu tôi có quên không xếp xà phòng không nhỉ. Tôi đáp là tôi nhổ toẹt vào việc có hay không có cục xà phòng trong hòm da, lấy hết sức sập nắp và kéo khóa nhưng hóa ra tôi đã bỏ túi thuốc lào thuốc lá của mình vào trong đó rồi nên không còn cách nào khác là làm lại từ đầu. Việc xếp mọi thứ vào xắc da kết thúc mỹ mãn vào lúc mười giờ năm phút, bắt đầu chuyển sang việc xếp tải cho hai chiếc làn bự. Hari nói rằng cần khởi hành vào lúc mười hai giờ nên tốt hơn là hắn với Jord đảm nhiệm việc này. Tôi tán thành, ngồi vào ghế nghỉ còn hai tên bắt tay vào việc.
Bọn chúng rất hăm hở, rõ ràng là muốn cho tôi thấy chúng làm ăn hay ho ra sao. Tôi chưa vội phát lời bình luận, chỉ quan sát thôi. Giả thử khi tên Jord phạm tội phải bị treo cổ, thì trên thế gian này Hari sẽ được nhận danh hiệu kẻ đóng gói cẩu thả nhất nên tôi nhìn vào một đống các loại ấm chén, đĩa, thìa, bánh nướng, bánh dẻo… đợi xem thứ nào sẽ phải chịu tội đồ đầu tiên.
Sự việc đã diễn ra. Khởi đầu là chiếc chén bị đánh vỡ nhưng tôi cho là chúng cố ý làm vỡ để gây sự chú ý của tôi khi chúng biểu diễn kĩ năng. Sau đó Hari đặt lọ mứt dâu tây lên cà chua làm nó biến thành cháo bột, hai tên đành phải dùng thìa múc thứ cháo đó ra khỏi làn.
Đến lượt Jord, hắn dẵm lên cục bơ. Tôi vẫn ngậm miệng ăn tiền, chỉ tiến lại gần ngồi ghé xuống mép bàn quan sát. Hành động của tôi làm bọn chúng nổi cáu hơn bất cứ lời chỉ trích nào, tôi cảm thấy được hiệu ứng đó. Chúng bắt đầu cãi vã, dẫm đạp lên đồ đạc, thục đẩy mỗi thứ đi một góc để rồi đến lúc xếp chúng vào làn thì không sao tìm thấy; Chúng xếp bánh nướng xuống đáy làn, bên trên là những thứ nặng nên bánh nướng biến thành bánh bèo.
Hai tên vãi ra nhà toàn bộ gói muối, còn cục bơ thì sao!... Đời tôi chưa bao giờ được thấy hai con người phải bấn bíu với một cục bơ giá có hai xi-ling năm xu như vậy. Sau khi Jord bóc nó ra khỏi đế giày, hai tên cố tọng vào chiếc ấm thiếc. Nó không chịu chui vào mà phần đã lọt vào nhất định không chịu chui ra. Dẫu sao rồi nó cũng không cưỡng được việc phải cách li chiếc ấm thiếc để lên nằm tạm trên ghế. Đợi khi Hari vô tình đặt mông lên chiếc ghế, cục bơ bám chặt vào hắn và hai thằng hậu đậu chạy lồng lên khắp phòng để truy tìm cục bơ ma quái.
- Chúa ơi, tao để nó lên chiếc ghế này mà. - Jord nói, chỉ tay vào chiếc ghế trống không.
- Chính tao cũng nhìn thấy mày đặt nó lên đấy một phút trước đây. - Hari khẳng định.
Hai bậc thầy về đóng gói sờ mò hết các xó xỉnh rồi tụ vào giữa phòng bấn xúc xích với nhau.
- Tao chưa gặp chuyện lạ lùng như thế này bao giờ. - Jord nói.
- Quái quỉ thật đấy! - Phát biểu của Hari.
Jord vòng ra sau lưng Hari và chợt nhìn thấy cục bơ.
- Thế ra nó ở đây suốt từ nãy đến giờ. - Hắn cáu kỉnh.
- Đâu cơ? - Hari quay một trăm tám mươi độ để tìm can phạm.
- Mày hãy đứng im như tượng gỗ để tao xem nào! - Jord vừa thét vừa xoay theo, chỉ sợ nó lại biến đi lần nữa.
Hai quí nhân bóc được cục bơ ra khỏi mông cho vào chiếc bình pha trà.
Tất nhiên là con Mon-mo-ran-xi luôn luôn ở vào trung tâm của những sự kiện nóng bỏng nhất.
Thói hiếu thắng và bắng nhắng của con cún này là ở chỗ nó luôn luôn cố gắng đón nhận những bước chân đụng vào lưng càng nhiều càng tốt, và sau đó là những câu chửi thề của các ông chủ hai chân. Nếu như nó tìm được cách có mặt ở những chỗ bất ngờ nhất đối với bọn chúng tôi, làm cho đám hai chân nổi khùng lên, tống đạp nó không tiếc sức thì cu cậu hết sức mãn nguyện, thấy ngày hôm đó thật là đẹp trời, đáng sống!
Nó ngồi chễm chệ trên thứ đồ đến lượt phải xếp vào hòm và chọn vị trí cực kì chính xác, sao cho mỗi lần Jord hoặc Hari quài tay ra sau thì thế nào cũng chạm vào cái mũi ướt của nó. Nó thò cẳng vào mứt, gây chiến với đám đĩa thìa, giả vờ cho những quả chanh là lũ chuột cần phải truy đuổi, nó chui vào trong làn tiêu diệt được ba tên chuột giả tưởng trước khi Hari kịp tặng cho một cú tiu bằng đáy chảo.
Tay Hari đồ rằng tôi xùy suỵt xúi giục tên cún mất dạy này. Tôi không hề xùy suỵt, tướng quân Mon-mo-ran-xi xưa nay tác chiến có cần ai thổi kèn hiệu đâu, tất cả những trò tinh quái khốn kiếp của nó đã mang sẵn từ trong máu khi nó còn chưa mở mắt.
Việc đóng gói hoàn thành vào hồi mười hai giờ năm mươi phút. Hari ngồi lên chiếc rương lớn và nói rằng thiệt hại không đáng kể. Jord cũng bình luận rằng nếu thứ gì có thể vỡ thì đã vỡ rồi và cảm thấy yên tâm. Hắn nói thêm rằng bây giờ dù trời sập thì hắn cũng phải ngủ đã. Tôi và Jord cũng cùng quan điểm.
Hari phải ngủ lại chỗ bọn tôi nên cả bọn kéo vào phòng ngủ. Chúng tôi rút thăm và giường tôi phải chứa thêm tên Hari.
- Cậu thích ngủ xoay về hướng nào?
Tôi đáp việc chính là có cái giường, còn xoay hướng nào mà chả được. Hắn nhận xét rằng quan điểm không được thông minh cho lắm.
Jord bỗng hỏi:
- Mấy giờ thì báo thức hở các tướng?
- Bảy giờ - Hari đáp.
Tôi nói:
- Không, sáu giờ, vì tớ còn định viết vài bức thư.
Sau một hồi cãi cọ cả bọn thống nhất lấy số trung bình cộng là sáu giờ rưỡi.
- Đánh thức bọn này vào lúc sáu rưỡi nhá, Jord. - Chúng tôi bảo hắn.
Jord không hề đáp lời, bọn tôi phát hiện ra rằng hắn đã ngủ từ đời tám hoánh nào rồi. Chúng tôi đành múc sẵn một chậu nước để ở đầu giường để sáng mai có thứ vã lên mặt thằng cha này mới hòng lôi cổ hắn dậy đúng giờ.
----------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét