Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Truyện Loài Vật - Con mèo hoàng gia Ananlostan


Ernest Thompson Seton


Dịch giả: Lê Thùy Dương


Cuộc đời thứ nhất

1

- Thịt đây! Thi ị i t đ â â y! - Tiếng rao nghe vang lanh lảnh trên ngõ hẻm Scrimper.
Tất cả lũ mèo của vùng xung quanh đều chạy đến khi có tiếng rao đó. Nhưng lũ chó thì quay lưng lại với vẻ thờ ơ khinh thị.
- Thịt đây! Thịt đâây! - Tiếng rao mỗi lúc một to hơn.
Cuối cùng, một người đầu tóc rối bù, bẩn thỉu, đẩy một cái xe ba gác đi tới. Lũ mèo từ tứ phía chạy xô đến, kêu gào như lắp lại tiếng rao hàng của lão. Cứ đi được chừng năm chục bước, khi số mèo đã tập hợp đủ thì lão lại dừng xe. Lão rút từ ngăn kéo ra một cái que xiên thịt nướng, đầy những miếng gan nướng thơm phức. Lão dùng một cái que dài gạt lần lượt những miếng gan đó ra khỏi xiên. Mỗi con mèo ngoạm lấy một miếng, tai cụp lại, mắt gườm gườm, rồi vừa gừ gừ chạy đi, tha miếng mồi đến nơi ẩn nấp tin cậy.
- Th-ịt đâ-âyi Th-ịt đâ-ây!
Ngày càng có nhiều kẻ được nuôi dưỡng đến nhận khẩu phần của chúng. Lão bán gan nướng biết rất rõ tất cả lũ chúng. Đây là con mèo cọp của Castiglione, đây là con mèo mun của Jones, đây là con mèo lông đồi mồi của Pralitsky, đây là con mèo trắng của Danton. Kia là con mèo nòi Angora của Blenkinshoff. Còn con mèo vàng già Billy leo lên chiếc xe ba gác là con mèo của Sawyer, một con người tráo trở vô liêm sỉ mà không người nào chưa từng chịu thiệt với hắn cả. Phải ghi nhớ từng con mèo của từng người. Con mèo đang chạy tới là của một người chủ vẫn trả đều đặn mười xu một tuần lễ. Nhưng đây lại là một con khác được trả tiền không chắc chắn lắm. Còn đây là con mèo của John Washee nó được nhận một miếng gan nhỏ hơn vì John còn nợ tiền. Lũ mèo có trang điểm những cái vòng cổ và nơ thắt của gã chủ quán rượu thì được thêm một ít gan nữa vì chủ của chúng khá hào phóng. Con mèo của gã thu thuế cũng hạnh phúc không kém, mặc dầu gã ta không cho mà lại thu tiền của lão. Một con mèo đen có cái mũi đốm trắng chạy lại với vẻ tin cậy, nhưng - than ôi? - nó bị xua đuổi một cách tàn nhẫn. Con vật khốn khổ không hiểu đã có chuyện gì. Nó vẫn nhận phần gan trong nhiều tháng ròng cơ mà. Tại sao bây giờ lại có sự thay đổi tàn khốc đó? Nhưng người bán gan thì biết rõ sự việc: chủ con mèo thôi không trả tiền lão nữa. Lão chẳng có sách vở gì cả mà chỉ dựa vào trí nhớ, nhưng lão chẳng bao giờ nhớ nhầm.
Những con mèo không được kể trong bản liệt kê của giới quý phái đều đứng ở phía xa xa chờ đợi, hít hít cái mùi thơm mê hồn và hi vọng xảy ra một sự ngẫu nhiên hạnh phúc. Trong số những kẻ ăn bám đó có một con mèo cư trú ở khu nhà ổ chuột, không nhà cửa, sinh sống bằng những thứ thượng đế ban cho, nên gầy guộc và bẩn thỉu. Có thể dễ dàng đoán ra được rằng có một gia đình đói khát đang chờ đợi nó ở một xó xỉnh tối tăm nào đó. Một con mắt của nó theo dõi chiếc xe ba gác còn con mắt kia thì canh chừng xem con chó có rình rập mình hay không. Hàng chục con mèo hạnh phúc nhận xong phần gan hằng ngày của mình đã đi xa rồi, nhưng nó vẫn chẳng có chút hi vọng gì được ăn bữa sáng. Nhưng kìa, một con mèo đen to, cũng không nhà cửa như nó, đã nhảy xổ vào một con mèo được nuôi để cướp lấy miếng mồi. Con mèo nạn nhân nhả miếng thịt xuống để chuẩn bị chiến đấu. Trong khi chúng mải đánh nhau, con mèo hoang xám chộp ngay lấy miếng gan và biến mất.
Nó trườn bên dưới một cái cửa con hàng giậu, nhảy qua một hàng rào phía sau rồi ngồi xuống đánh chén hết miếng gan. Nó liếm mép, vẻ hài lòng và đi vòng vèo về phía một bãi đổ rác, tại đó gia đình nó đang chờ đợi ở đáy một cái thùng đựng bánh quy cũ. Đột nhiên nó nghe thấy có tiếng mèo kêu thảm thiết. Nó chạy bổ về phía đàn con và trông thấy con mèo đen to đang thản nhiên ăn thịt các con nó. Con mèo kia lớn gấp đôi nó, nhưng nó nhảy xổ vào kẻ phạm tội bị bắt quả tang với vẻ dữ tợn đến nỗi y phải quay người bỏ chạy. Trong đám mèo con chỉ còn sót lại mỗi một con mèo xám nhỏ giống mẹ nhưng có những vệt đen ở lưng và có mấy chấm trắng ở mũi, tai và chót đuôi.
Mấy ngày đầu mèo mẹ đau đớn vô cùng. Nhưng rồi nỗi đau đớn của nó cũng nguôi dần và nó dồn hết cả tình thương yêu và sự chăm sóc vào đứa con còn sống sót. Con mèo đen đã ăn thịt lũ con nó dĩ nhiên không làm một công việc tốt lành, nhưng vô tình nó đã làm ơn cho cả con mèo mẹ lẫn đứa con của nó: nuôi một con mèo con dễ dàng hơn nuôi nhiều con. Mèo mẹ vẫn tiếp tục tìm kiếm thức ăn hằng ngày. Kiếm chác được ở chỗ người bán gan thì hiếm có dịp nhưng ở các thùng rác thì luôn luôn có vỏ khoai có thể làm dịu được cơn đói.
Một bữa ban đêm mèo mẹ ngửi thấy một mùi kì diệu. Mùi đó đưa đến từ con sông East River ở cuối ngõ hẻm. Nó dẫn con mèo tới một căn nhà, rồi lại dẫn từ đó đến một bến tàu. Nhưng đột nhiên nó nghe thấy tiếng gầm gừ và nó hiểu rằng con chó ở xưởng đóng tàu, kẻ thù cũ của nó đã chặn mất đường chạy rồi. Không thể lựa chọn gì nữa nó nhảy luôn xuống con tàu, nơi có mùi cá kì diệu bốc ra. Con chó ở lại trên bờ, và đến sáng khi con tàu chở cá nhổ neo thì con mèo bắt buộc phải rời bến cùng với tàu, và chẳng ai còn trông thấy nó nữa.

2

Con mèo hoang con chờ đợi mẹ một cách vô ích. Buổi sáng đến rồi đi qua. Mèo con rất đói. Trước lúc trời tối nó đi tìm thức ăn. Nó bò ra khỏi thùng bánh và bới đống rác, đánh hơi tất cả mọi thứ gì tưởng chừng có thể ăn được nhưng không tìm được thứ gì cả. Cuối cùng nó lần đến những bậc thang gỗ dẫn tới gian hàng ở tầng hầm của một người bán chim là anh chàng người Nhật tên gọi Malee. Cánh cửa khép hờ. Mèo con lọt vào cả một thế giới những mùi hăng hắc kì lạ. Nó trông thấy vô số những con vật sống bị nhốt trong những cái lồng.
Một gã đa đen ngồi trên một cái thùng đặt ở trong góc nhà. Gã da đen nhận ra con vật lạ mặt bé nhỏ và tò mò theo dõi nó. Mèo con đi ngang qua một vài cái lồng nhốt thỏ, không để ý gì đến chúng cả. Nhưng nó đã đến gần một cái lồng đan thưa, trong nhốt một con cáo. Vị phu nhân quyền quý có cái đuôi bông này đang ở góc lồng xa nhất. Nó nằm dán chặt xuống sàn nhà. Mắt nó nảy lửa. Mèo con tiến lại gần, đánh hơi rồi thò đầu vào trong lồng và lại đánh hơi. Sau đó nó bò tới chiếc bát đựng thức ăn nhưng đúng lúc đó thì con cáo vẫn rình đợi đã vồ ngay lấy nó. Mèo con sợ hãi kêu: “meo!”, và nó bị con cáo lắc mạnh một cái, rồi có lẽ đã bị con này quật chết ngay nếu như gã da đen không can thiệp kịp thời. Gã không có vũ khí mà cũng không thể chui vào trong lồng được, nhưng gã phóng một tia nước bọt quyết liệt vào mõm con cáo đến mức nó nhả ngay mèo con ra và lủi vào một góc lồng, mắt nhấp nháy vẻ sợ hãi.
Gã da đen lôi con mèo con ra khỏi lồng. Cú quật làm nó sợ hết hồn. Mèo con không việc gì nhưng nó mụ cả người ra. Nó quay cuồng, lảo đảo một lúc tại chỗ rồi sau mới lại hồn. Vài phút sau nó đã kêu gừ gừ trên đầu gối gã da đen. Lúc này anh chàng bán chim Malee, người Nhật đã quay trở về gian hàng. Malee hoàn toàn không phải sinh ở Nhật Bản mà ra đời ở vùng ngoại ô London. Nhưng anh ta có cặp mắt nhỏ, xếch trên khuôn mặt tròn và cái mũi tẹt, khiến cho mọi người quên cái tên thực của anh ta mà cứ gọi là anh chàng người Nhật. Anh ta không hà khắc với lũ chim và thú mà anh ta buôn bán. Anh ta chỉ tuân theo sự lời lãi của bản thân và biết mình phải làm gì. Anh ta không cần con mèo con hoang. Gã da đen cho mèo con ăn thỏa thích rồi mang nó đến một phố xa và thả nó vào một cái sân kho chứa đồ sắt ở đấy.

3

Một bữa ăn no hoàn toàn đủ cho hai - ba ngày. Con mèo con được ăn nhiều rất vui vẻ, phấn chấn. Nó bới các đống rác, tò mò nhìn những cái lồng chim yến treo ở các cửa sổ không thể với tới được, rồi ngó qua hàng rào, và trông thấy một con chó to thì len lén lùi lại, tìm một chỗ trốn ở ngoài nắng và nằm đó ngủ cả giờ đồng hồ.
Một tiếng gừ gừ khe khẽ đánh thức nó dậy. Đứng trước mặt nó là một con mèo đen to có đôi mắt xanh lè. Ở một bên má nó có vết sẹo trắng và một cái tai nó bị rách. Cái nhìn của nó không chút thân thiện. Tai nó cụp sát đầu, đuôi hơi giật giật còn cổ họng thì khe khẽ gừ gừ. Mèo con hồn nhiên tiến lại gặp nó. Nó không biết đó là kẻ đã giết chết anh em nó. Con mèo đen quệt mõm vào một cái cột rồi chầm chậm quay đi một cách bình tĩnh và biến mất. Mèo con chỉ còn trông thấy cái chót đuôi giật giật của nó mà thôi. Mèo con chẳng bao giờ biết được rằng nó đã gần kề cái chết cũng y như giây phút nó liều mạng bước vào trong chiếc lồng cáo vậy.
Đến chiều mèo con thấy đói. Nó nghiên cứu cẩn thận cái dòng không khí dài vô hình và đa dạng có tên gọi là gió. Sau khi lựa chọn một hướng gió đáng quan tâm nhất, nó đi ngược chiều gió thổi và đánh hơi. Ở góc sân có một hố rác mà nó tìm được ở đó một chút thức ăn. Nó uống nước đã đời ở một cái xô đựng nước đặt dưới vòi máy. Suốt đêm nó cần cù nghiên cứu cái sân. Ngày hôm sau nó cũng ngủ ngon lành ngoài nắng y như ngày hôm trước.
Thời gian cứ thế trôi đi.
Có khi mèo con tìm được trong hố rác cả một bữa ăn, có khi lại chẳng tìm được thứ gì. Một lần nó bắt gặp con mèo đen to ở đấy, nhưng nó đã thận trọng tránh xa trước khi con này phát hiện ra nó. Cái xô nước hầu như lúc nào cũng ở nguyên một chỗ, và khi người ta mang nó đi thì ở trên nền đá bên dưới vòi nước còn lại những hũm nước đục ngầu. Nhưng cái hố rác cực kì bấp bênh. Có lần suốt ba ngày mèo con không tìm được thứ gì ăn được ở đó cả. Mèo con liền khảo sát cái hàng rào và tìm được một lỗ hổng nhỏ chui ra ngoài đường phố. Nó chưa kịp nhìn quanh thì đột nhiên có một vật gì đó nhảy xổ vào nó và làm ồn lên: một con chó to lớn nhảy thẳng vào nó. Mèo con chỉ vừa kịp lùi trở lại chui qua lỗ hàng rào về sân. Nó đói kinh khủng. May mắn thay nó tìm được một ít vỏ khoai làm dịu đi cái đói đau thắt ruột. Buổi sáng nó không thể nào ngủ được đành phải đi kiếm mồi.
Trong sân lũ chim sẻ đang ríu rít kêu. Trước đây chúng vẫn đến sân này, nhưng bây giờ mèo con nhìn chúng bằng con mắt khác. Cái đói ghê gớm kích thích bản năng ác thú của nó. Bây giờ chim sẻ là mồi săn, là thức ăn. Mèo con bò sát đất và rón rén đến gần lũ chim sẻ. Nó thử làm nhiều lần nhưng đều thất bại: lũ chim sẻ nhanh nhẹn hơn nó và bao giờ cũng bay đi kịp thời. Cuối cùng nó hiểu rằng, chim sẻ tuy là thức ăn nhưng là thứ thức ăn không với tới được.
Đến ngày thứ năm trong cơn vận đen ấy con mèo hoang con lại ra phố, hi vọng có cái gì ăn được. Khi nó đi khỏi cái khe hở ở hàng rào được một khoảng cách xa thì nó bị một vài đứa trẻ lấy gạch ném. Nó bỏ chạy. Một con chó đuổi theo nó. Tình cảnh kẻ chạy trốn tuyệt vọng. Nhưng đột nhiên nó trông thấy một hàng lan can sắt kiểu cổ ở mặt trước một ngôi nhà bèn luồn qua khe hở, giữa các thanh lan can và vừa kịp thoát khỏi con chó. Ở cửa sổ phía trên của ngôi nhà xuất hiện một người đàn bà lên tiếng gọi con chó. Bà ta ném cho kẻ khốn khổ một miếng thịt và mèo con ăn ngon lành như chưa bao giờ từng được ăn. Sau đó nó ẩn nấp vào dưới mái ngôi nhà và ở đó cho đến khi đêm tối mang lại sự yên tĩnh, lúc đó nó len lén đi trở về cái sân của mình.
Cuộc sống như thế kéo dài hai tháng. Mèo con lớn lên, bồi bổ được thêm sức lực và đã nghiên cứu được rõ tất cả khu vực xung quanh. Nó đã làm quen với đường phố Downey nơi mà sáng nào cũng xuất hiện một dãy thùng rác và căn cứ vào đó có thể phán đoán về cư dân của những căn nhà trong phố. Tòa nhà lớn đối với nó là cái kho chứa những thùng rác luôn luôn có những miếng cá còn nguyên vứt bỏ. Nó cũng làm quen nhanh chóng với người bán gan và gia nhập vào bầy đàn mèo len lén không có ai trả tiền ăn cho. Nó cũng gặp cả con chó ở xưởng đóng tàu cũng như những con chó đáng sợ khác. Nó biết rõ chúng sẽ đem lại cho nó điều gì và học cách chạy trốn khỏi chúng.
Thật may mắn cho nó chẳng bao lâu nó đã phát minh ra một cách kiếm ăn mới. Có lẽ nhiều con mèo đã tụ tập một cách hi vọng hão huyền xung quanh những cái thùng đựng sữa bí hiểm sáng nào cũng xếp đầy trên ngưỡng cửa và bậu cửa sổ của người bán sữa. Một bữa, do ngẫu nhiên may mắn con mèo con của chúng ta gặp một chiếc thùng có nắp đậy bị vỡ. Nó đã học được cách nâng cái nắp ấy và cả một lô cái nắp thùng sữa khác lên và uống sữa thỏa thích. Dĩ nhiên nó không thể mở được các nắp thùng ra nhưng nó đã nhiều lần vớ được những cái thùng có nắp đậy không kĩ. Chú mèo con của chúng ta sốt sắng đi tìm những cái thùng như thế. Nó đã từng bước nghiên cứu tất cả khu phố của nó. Nó đi mỗi ngày một xa hơn và cuối cùng lại rơi vào giữa đám thùng nhỏ và lồng thú ở sân sau ngôi hàng của người bán chim.
Cái sân của kho chứa đồ sắt bao giờ cũng xa lạ đối với nó, nhưng cái sân sau ngôi hàng này thì gợi ngay cho nó một tình cảm đối với vật sở hữu riêng tư và nó công phẫn khi thấy có một con mèo lạ xuất hiện ở đấy. Nó tiến đến lần kẻ ngụ cư với vẻ đe dọa. Tình thế đã căng thẳng đến độ chúng gầm gừ và phun phì phì thì một xô nước từ cửa sổ phía trên đổ ào xuống làm nguội lạnh ý chí quyết chiến của chúng. Chúng nhảy dạt đi mỗi đứa một phía: con mèo lạ chạy qua hàng rào, còn con mèo hoang con thì nhảy vào chiếc thùng bánh cũ nơi nó đã mở mắt chào đời. Cái sân sau này thân thiết với nó một cách khác thường và nó lại định cư ở đó. Thức ăn ở sân này vẫn ít như trước, và lại hoàn toàn không có nước, nhưng những con chuột ngon lành thường đến thăm nó. Nhờ những con chuột này mà con mèo con của chúng ta tìm được bạn.

4

Đến lúc ấy mèo con đã trở thành một con mèo trưởng thành đẹp đẽ có mầu lông hổ. Bộ lông xám tươi của nó điểm những vệt đen và bốn cái chấm trắng ở mũi, đuôi và hai tai đã làm cho nó có vẻ duyên dáng lạ thường. Mặc dầu nó rất khéo tìm kiếm thức ăn nhưng nó vẫn có lần phải nhịn đói vài ngày, và nó lại tiến hành săn chim sẻ một cách không kết quả. Nó hoàn toàn cô đơn.
Một lần vào tháng Tám khi con mèo đang nằm sưởi nắng thì nó trông thấy một con mèo đen to tiến thẳng lại phía nó. Nó nhận ra ngay con này qua cái tai rách liền bước thụt lùi về phía cái thùng của mình và nấp vào trong đó. Con mèo đen thận trọng tiến lên phía trước, nhẹ nhàng nhảy từ tường lên cái kho chứa củi ở cuối sân và sắp sửa băng qua mái nhà kho thì một con mèo vàng tươi nhô ra đột ngột trước mặt nó. Con mèo đen gầm gừ nhìn chằm chằm vào nó, con mèo vàng cũng gầm gừ đáp lại. Đuôi chúng quất qua quất lại một cách giận dữ. Họng chúng gầm gừ và khìn khịt một cách kiên quyết. Chúng tiến sát lại gần nhau, tai cụp xuống, bắp thịt căng thẳng.
“Miao ao-ao!” - con mèo đen lên tiếng.
“Ngào-ào-ào!” - một giọng trầm đầy đe dọa trả lời.
“Miao-ao-ao-ao!” - con mèo đen cất tiếng và tiến thêm bốn inch lại gần.
“Miao-ao-ao!” - con mèo vàng trả lời. Nó ưỡn thẳng hết thân người ra, tiến lên với vẻ cực kì đường bệ - “Miao-ao!” - Và nó lại tiến lên, cái đuôi quật sang bên mạnh mẽ.
“Miaoao-ao!” - con mèo đen cất cao giọng thét lên và lui bước một phần tám inch trước một kẻ đối địch có bộ ngực nở kiên cường.
Các cửa sổ ở xung quanh đều mở toang và nghe thấy tiếng người nói lao xao nhưng cuộc cãi lộn giữa hai con mèo vẫn tiếp tục.
“Miao-ao-ao?” - con mèo vàng cũng cất cao giọng thét lên, ngang với giọng cất cao của con mèo đen – “Miao!” - Và nó lại tiến lên phía trước.
Bây giờ mũi chúng chỉ cách nhau chừng ba inch. Chúng đứng đối mặt nhau, cả hai đều sẵn sàng quấn lấy nhau nhưng còn chờ cho kẻ thù bắt đầu đánh trước. Chúng đứng yên lặng đến ba phút, mắt hau háu nhìn nhau, bất động như hóa đá, chỉ có chót đuôi là hơi động đậy.
Con mèo vàng lại bắt đầu lên tiếng:
“Miao-ao-ao!” - giọng trầm trầm.
“Ngao-ao-ao!” - con mèo đen rít lên, định dùng tiếng thét của nó làm cho kẻ thù sợ hãi, nhưng đồng thời chính nó lại lùi lại một phần sáu inch.
Con mèo vàng tiến thêm lên nửa inch. Bây giờ tai chúng đã chạm vào nhau. Lại tiến thêm một bước nữa và mũi chúng cơ hồ sắp chạm nhau.
“Miao-ao-ao!” - con mèo vàng gầm lên.
“Nga-a-a-a-a-ao!” - con mèo đen thét lên và lùi thêm một phần ba mươi hai inch.
Con mèo vàng tiến lên và nhảy xổ vào kẻ địch.
Ôi, chúng nhào lăn, cào cấu nhau mới ghê gớm làm sao? Chúng cắn xé nhau, vật lộn nhau mới dữ dội làm sao! Con mèo vàng chiếm ưu thế rõ ràng.
Chúng ngã lộn tùng phèo qua đầu nhau, khi thì con này nằm ở trên, khi lại là con khác, và thường thường là con mèo vàng đè lên trên con mèo đen, chúng lăn tròn mỗi lúc một xa hơn cho đến khi tuột khỏi mái nhà trước tiếng reo vui thích của những người xem tụ tập ở các cửa sổ. Thậm chí trong lúc chúng rơi xuống sân mà chúng vẫn còn tiếp tục cào cấu nhau. Con mèo vàng cào đau nhiều hơn.
Khi chúng rơi đến đất thì con mèo vàng đè ở phía trên. Và khi đến phút cuối cùng chúng rời nhau ra thì con nào cũng được ăn đòn thỏa thích, nhất là con mèo đen. Nó nhảy lên bờ tường, người ròng ròng máu, mồm gầm gừ và biến mất trong tiếng loan tin từ cửa sổ này qua cửa sổ khác là con vàng Billy đã nện cho con đen Nig đến nơi đến chốn.
Có thể con mèo vàng tươi là một gã thám tử tài ba, mà cũng có thể ả mèo hoang trốn không được kĩ, nhưng gã ta đã tìm thấy ả ở giữa đống thùng và cô ả cũng không bỏ chạy nữa. Không cái gì chinh phục trái tim con cái tốt hơn chiến thắng trên chiến trường. Gã mèo vàng và ả mèo xám kết bạn với nhau nhanh chóng. Chúng không kết bạn để chia sẻ cuộc sống và thức ăn - đó không phải là tập quán của loài mèo - chúng chỉ thừa nhận những quyền hạn bạn bè đặc biệt đối với nhau mà thôi.

5

Tháng Chín đã qua và những ngày tháng Mười ngắn ngủi đã tới. Trong chiếc thùng bánh cũ đã xảy ra một sự kiện quan trọng. Nếu như con vàng Billy từ đâu đến đây thì nó sẽ trông thấy năm con mèo con đang nằm trong vòng tay âu yếm của mẹ nó, cái con mèo hoang con bé nhỏ hồi nào. Đối với nó đấy là giờ phút hạnh phúc. Nó đã tận hưởng một nỗi hân hoan tột đỉnh, nó âu yếm liếm chúng đến nỗi có lẽ nó cũng tự ngạc nhiên về mình nếu như nó có khả năng phán đoán.
Trong cuộc đời không mấy hạnh phúc của nó đã có một niềm vui và nỗi lo toan cũng đến theo ngay lập tức. Bây giờ mọi sức lực của nó đều dồn vào việc đi kiếm thức ăn. Lũ mèo con càng lớn thì nỗi lo toan càng tăng. Sau một tháng rưỡi chúng đã bắt đầu bò ra khỏi cái thùng và bò đi khắp nơi hằng ngày mỗi khi mẹ nó đi tìm ăn.
Ai cũng biết rõ những người nghèo khó thường gặp nhiều tai họa hơn là may mắn. Lũ chó đã ba lần tấn công con mèo xám, còn gã da đen làm công cho anh chàng người Nhật Malee thì thiếu chút nữa đã ném trúng hòn gạch vào nó. Nhưng rồi sau đã đến lúc có một bước ngoặt. Ngay buổi sáng hôm sau nó tìm được một cái thùng sữa không đậy nắp, rồi lại cướp giật được phần thức ăn của một con mèo được nuôi nhờ lão bán gan và kiếm được cả một cái đầu cá lớn - tất cả những việc đó xảy ra trong có hai giờ đồng hồ. Nó quay trở về nhà trong tâm trạng bình tĩnh yên tâm, cái tâm trạng chỉ có khi dạ dày đầy ních, và đã trông thấy ở trên sân một con vật nhỏ bé màu nâu. Con mèo cái nhớ lại những chuyến săn mồi trước đây của nó. Nó đã cắn chết và ăn thịt nhiều con chuột trong đời, và quyết đoán rằng có lẽ con vật lông nâu ấy là một con chuột to có đuôi ngắn và đôi tai dài.
Nó rón rén đến gần con vật với vẻ thận trọng một cách không cần thiết. Con thỏ nhỏ chỉ nhổm lên dường như tất cả những cái đó chỉ là trò chơi thích thú mà thôi. Nó cũng không có ý định bỏ chạy và con mèo chộp được nó chẳng khó khăn gì.
Vì con mèo không muốn ăn thịt nên nó tha con thỏ con về chỗ cái thùng gỗ và thả nó vào đám mèo con. Con thỏ không bị đau gì cả. Nó hết sợ ngay và sau khi thấy không thể nhảy ra khỏi cái thùng được thì nó liền sán lại gần lũ mèo con. Và khi chúng bắt đầu bú ăn trưa thì nó cũng ghé vào cùng ăn không chút ngại ngần. Con mèo cái ngẩn người ra. Bản năng săn bắt luôn thắng mọi thứ bản năng khác, nhưng nó đang no nê và điều đó đã cứu thoát con thỏ. Bản năng người mẹ trong con mèo của chúng ta trỗi dậy và nó đã cho con thỏ bú dòng sữa của nó.
Con thỏ con trở thành một thành viên của gia đình mèo và cũng được nuôi nấng, chăm sóc như lũ mèo con.
Đã hai tuần lễ trôi qua. Lũ mèo con nô đùa vui vẻ giữa đống thùng những lúc vắng mẹ, và con thỏ con thì không thể nào bò ra ngoài được. Anh chàng người Nhật Malee trông thấy lũ mèo con ở sân sau bèn sai gã da đen bắn chết. Một buổi sáng đẹp trời, gã da đen vâng lệnh chủ mang khẩu súng hai mươi hai inch ra thực hiện. Gã bắn hạ lần lượt từng con mèo con cho đến hết. Đột nhiên trên bờ tường xuất hiện con mèo mẹ, mồm ngoạm chặt một con chuột. Gã da đen cũng định bắn chết luôn cả nó, nhưng gã đã đổi ý khi trông thấy con chuột: Loại mèo diệt chuột xứng đáng được sống.
Đó là con chuột đầu tiên mà con mèo của chúng ta nhân dịp tóm được, nhưng nó đã cứu mèo thoát chết. Con mèo nhảy qua đống rác đến chỗ cái thùng, nhưng nó ngạc nhiên không thấy con mèo con nào chạy tới theo tiếng gọi cả. Còn con thỏ con thì không ăn thịt chuột. Mèo mẹ cho thỏ bú và chốc chốc lại cất tiếng gọi con. Gã da đen nghe thấy tiếng mèo mẹ kêu liền len lén tới gần cái thùng nhòm vào và gã vô cùng kinh ngạc khi trông thấy trong thùng có một con mèo mẹ một con thỏ con sống và một con chuột chết.
Mèo mẹ ép tai sát vào đầu và càu nhàu. Gã da đen bỏ đi nhưng một lát sau gã đã lấy một miếng ván úp chụp lên miệng thùng rồi áp giải tất cả những cư dân trong đó, cả sống lẫn chết, trở về gian hàng nhốt chim ở tầng hầm.
- Xem này, ông chủ ơi, một chú thỏ con rơi vào đây này! Thế mà ông cứ nghi oan cho tôi đã đánh cắp thỏ!
Mèo mẹ và thỏ con được nhốt vào một cái lồng sắt to và đã được trưng bày hằng ngày như mẫu mực của gia đình hạnh phúc. Nhưng chẳng bao lâu con thỏ con bị ốm và chết.
Mèo mẹ bị nhốt trong lồng chẳng cảm thấy lúc nào hạnh phúc. Cho nó ăn uống thỏa thích nào có đáng là bao. Nó u sầu trong cảnh tù túng, và có lẽ nó đã đấu tranh để giành lấy tự do hay là cái chết. Nhưng bất hạnh thay cho nó, trong thời gian bị nhốt trong lồng bốn ngày nó đã được tắm rửa sạch sẽ đến nỗi bộ lông của nó lộ rõ vẻ đẹp lộng lẫy và anh chàng người Nhật đã quyết định giữ nó lại để nuôi.

Cuộc đời thứ hai

6

Anh chàng người Nhật Malee là người tinh ranh nhất trong đám dân vùng ngoại ô London, đã từng có dịp buôn bán những con chim yến rẻ tiền ở tầng hầm. Anh ta rất nghèo, và gã da đen sống với anh ta chỉ vì chàng lái buôn London bằng lòng chia sẻ với gã nơi ăn chốn ngủ và nói chung đã đối xử với gã bình đẳng, khác hẳn đại đa số dân Mỹ.
Anh chàng người Nhật tự coi mình là một người chính trực, tuy rằng mọi người đều biết anh ta kiếm tiền bằng cách tàng trữ những con chó và con mèo ăn trộm được. Anh ta sử dụng khoảng nửa tá chim yến chỉ để làm tấm bình phong che đậy công việc kia mà thôi. Nhưng anh chàng người Nhật không buồn phiền. “Rồi cậu xem, Sammy ạ, tớ sẽ đi chu du bốn phương trên chiếc xe ngựa riêng của mình cho mà xem!”, - anh ta ưa thích nhắc lại như thế sau những công việc mà anh ta cho là thành công. Anh ta cũng háo danh theo cách riêng của mình, và muốn người ta coi mình là người hiểu biết rành rẽ công việc. Thậm chí đã có lần anh ta đánh bạo đem mèo đến dự một cuộc triển lãm thượng lưu về mèo và những vật nuôi được ưa chuộng do hội Knickerbocker tổ chức. Anh ta hành động với ba mục đích khá là mơ hồ: một là việc đó thỏa mãn tính tự ái của anh ta, hai là làm như thế anh ta có thể dự triển lãm không phải trả tiền, và ba là, “cậu có biết không, cần phải nghiên cứu những con mèo quý nếu như đã quan tâm đến vấn đề mèo”. Nhưng cuộc triển lãm là của giới thượng lưu, người ta chỉ nhận mèo của những người có tên tuổi, và con mèo Angora nửa thuần chủng thảm hại đã bị gửi trả về với một sự khinh thị.
Những cột báo duy nhất được anh chàng người Nhật chú ý là những cột đăng tin thất lạc và tìm kiếm chó và mèo, nhưng dù sao thì anh ta cũng đã cắt lấy và cất giữ một mẩu tin về “nuôi mèo để lấy lông”. Mẩu tin đó được dán trên tường của gian hàng, và nó đã bắt buộc anh chàng người Nhật phải tiến hành một cuộc thí nghiệm nghiêm túc trên con mèo hoang. Trước hết anh ta chải lên bộ lông bẩn của con mèo một thứ thuốc đặc biệt để diệt bọ. Sau đó anh ta tắm cho nó thật cẩn thận trong nước ấm có xà bông, bất kể con mèo kêu gào, cào cắn thế nào. Con mèo rất tức giận. Nhưng sau đó cái lồng mèo được đem đặt lại gần lò sưởi và con mèo thấy dễ chịu ngay, còn bộ lông của nó lại bông lên và trở thành sạch sẽ, mềm mại một cách lạ thường. Anh chàng người Nhật và gã giúp việc rất hài lòng. Nhưng đó chỉ mới là bước thứ nhất, còn phải tiếp tục thí nghiệm nữa. “Muốn nâng cao chất lượng bộ lông, phương tiện có kết quả nhất là cho ăn thức ăn nhiều chất dầu và thường xuyên tắm không khí lạnh”, - mẩu tin trong báo nói vậy.
Mùa đông đã sắp tới rồi. Anh chàng người Nhật đem đặt cái lồng mèo ra ngoài sân và chỉ che mưa, gió mà thôi, sau đó cho kẻ tù nhân của mình ăn thật nhiều khô dầu và đầu cá
Chỉ sau một tuần lễ đã thấy khác hẳn. Con mèo mỗi ngày một béo tốt và mượt mà hơn; nó chẳng làm việc gì khác ngoài việc tích trữ mỡ và chăm chút bộ lông mà thôi. Chiếc lồng được giữ sạch sẽ, và thiên nhiên đã hưởng ứng thời tiết lạnh và thức ăn nhiều chất dầu cho nên bộ lông con mèo cứ mỗi ngày một thêm bông xốp và sáng nước hơn, và đến giữa mùa đông thì con mèo hoang đã biến thành một con mèo đẹp đẽ hiếm có, với bộ lông mềm mại diệu kì điểm những vệt đen mĩ lệ. Anh chàng người Nhật rất hài lòng với kết quả thí nghiệm và liền mơ tưởng đến sự vinh quang chưa từng có. Tại sao lại không gửi con mèo đến dự cuộc triển lãm sắp tổ chức nhỉ? Nhưng sau lần thất bại năm ngoái anh chàng đã chín chắn hơn.
- Cậu thấy không, Sammy, - anh ta nói với gã da đen, - không thể giới thiệu nó như một con mèo hoang được. Mà chúng ta phải chiều ý hội Knickerbocker chứ. Trước hết cần có một cái tên hay. Tự cậu cũng hiểu là ở đây cần có một cái gì đó “hoàng gia”, - không cái gì tác động đến các hội viên Knickerbocker bằng một cái gì đó “hoàng gia” đâu. Chẳng hạn như Dick Hoàng gia hoặc Sam Hoàng gia thì cậu bảo sao nào? Nhưng gượm đã nào, toàn là tên mèo đực cả. Sammy, cậu nói đi, hòn đảo quê hương của cậu gọi là gì nhỉ?
- Quê tôi ở hòn đảo Analostan, thưa ngài.
- Hay quá! Con mèo Hoàng gia Analostan, mẹ kiếp! Con hoàng gia Analostan duy nhất có phổ hệ tại toàn cuộc triển lãm. Thật quả là khôi hài!
Và cả hai người đều phá lên cười.
Chỉ còn phải lập một bản phổ hệ con mèo nữa là xong. Và hai người bạn bắt tay ngay vào lập cho con mèo một bản phổ hệ ngụy tạo chi tiết.
Thế rồi một hôm vào lúc chiều tà, Sam diện một chiếc mũ lễ đi thuê và mang con mèo cùng với bản phổ hệ của nó đến giao cho người chủ trì triển lãm. Gã da đen đã thực hiện xuất sắc những điều dự tính. Gã đã từng có thời làm nghề cắt tóc kiêm lang băm ở Đại lộ Sáu và khéo biết giữ vẻ đàng hoàng, trang trọng hơn cả Malee. Có thể đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho con mèo Hoàng gia Analostan được đón nhận một cách tôn kính tại cuộc triển lãm mèo.
Anh chàng người Nhật rất tự hào về việc con mèo của y được tham dự triển lãm: y cho rằng đó là biểu hiện sự tôn kính của giới thượng lưu đối với một người bán hàng gốc London. Hôm khai mạc triển lãm y đến cổng và sung sướng đến nghẹn thở khi trông thấy cả một biển xe ngựa và mũ lễ ở nơi đây. Người gác cửa đưa mắt nhìn y với vẻ soi mói nhưng khi thấy tấm vé thì để cho y đi qua vì có lẽ nghĩ rằng y là người giám mã của một vị quý tộc nào đó có mèo tham dự triển lãm.
Trong gian phòng triển lãm, người ta trải những tấm thảm nhung đằng trước những dãy dài lồng mèo. Anh chàng người Nhật thận trọng bước trên lối đi bên cạnh, nhìn ngắm những con mèo thuộc đủ nòi khác nhau, đọc những chữ ghi trên các băng màu xanh màu đỏ để tìm con mèo của mình, nhưng không dám hỏi ai về nó cả và trong lòng cứ lo sợ về cái ý nghĩ rằng, giới thượng lưu sang trọng hội họp ở đây sẽ nói gì nếu như họ biết y đã dám đùa cợt họ như thế nào.
Y đã trông thấy nhiều con vật được tặng giải thưởng, nhưng không thể nào tìm thấy con mèo hoang của mình. Y len lỏi qua đám đông đứng đầy trên con đường trung tâm nhưng vẫn không thấy con mèo. Anh chàng người Nhật quyết đoán rằng đã có chuyện lầm lẫn xảy ra: có lẽ ban giám khảo cuối cùng đã gạt không nhận con mèo. Cũng chẳng cần: y đã được nhận một tấm vé vào cửa và bây giờ đã biết có thể đến đâu tìm kiếm những con mèo quý giá nòi Ba Tư và Angora.
Ở lối đi trung tâm người ta trưng bày những con mèo loại ưu tú. Rất nhiều người tụ tập xung quanh chúng. Dọc theo lối đi người ta chăng dây và có hai cảnh sát viên đứng giữ trật tự. Anh chàng người Nhật len vào chính giữa đám đông xô đẩy chen chúc. Người y quá thấp bé nên không thể nhìn qua vai người khác được, và tuy rằng đám công chúng ăn mặc sang trọng giãn ra để tránh bộ cánh tồi tàn của y nhưng y vẫn không làm sao lách đến gần cái lồng đặt ở trung tâm được. Tuy nhiên qua những lời bình phẩm của các người xung quanh thì y hiểu rằng chính ở đó trưng bày vật nổi bật nhất của cuộc triển lãm.
- Này, tuyệt trần không kìa? - Một người đàn bà cao lớn nói.
- Thật là kiều diễm? - Có người đáp lại.
- Phải qua hàng thế kỉ sống sành sỏi mới tạo ra được cặp mắt biểu hiện sự lờ đờ như thế đấy.
- Có được cái tạo vật tuyệt diệu này thì thú vị biết mấy?
- Đàng hoàng biết bao! Điềm tĩnh biết bao?
- Người ta nói rằng, theo bản phổ hệ được sử liệu xác nhận thì có lẽ nó bắt nguồn từ nòi mèo thời các hoàng đế Ai Cập đấy.
Và anh chàng người Nhật bé nhỏ, bẩn thỉu, nghèo nàn lấy làm ngạc nhiên là mình đã dám cả gan gửi con mèo hoang đến với cái xã hội thanh nhã như thế.
- Xin lỗi, thưa quý ngài! - Viên giám đốc cuộc triển lãm lách qua đám đông tới. - Ở đây có vị họa sĩ của tờ “Tuần báo thể thao”, ông ta được đặt vẽ một phác thảo về “viên ngọc bích” của cuộc triển lãm để công bố ngay. Xin đề nghị quý ngài giãn ra một chú, được không ạ?... Thế thế, xin cảm ơn.
- Ôi, ngài giám đốc, ngài có thể thuyết phục người ta bán con vật tuyệt mĩ này chăng?
- Hừm, tôi không rõ có làm được không nữa. - viên giám đốc trả lời. - Tôi được biết chủ nhân con mèo này là một người giàu có lớn và rất cô độc; rất khó tiếp xúc. Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi cũng sẽ thử thuyết phục. Người quản gia của ông ta nói với tôi rằng khó lòng mà ông ta chịu đồng ý nhường lại của báu của mình... Này ông bạn, ông chen đi đâu vậy? - Viên giám đốc càu nhàu nói với một người ăn mặc tồi tàn đang có vẻ sốt ruột xô đẩy người họa sĩ đến gần con vật quý phái.
Nhưng cái con người ăn mặc tồi tàn thì lại muốn biết bằng bất cứ giá nào nơi trưng bày những con mèo quý giá. Anh ta liếc mắt nhìn cái lồng và đọc tờ giấy dán ở đó tuyên cáo rằng, dải băng xanh và huy chương vàng của cuộc triển lãm của Hội Knickerbocker được trao tặng cho con mèo Hoàng gia Analostan thuần chủng, do nhà nuôi mèo nghiệp dư nổi tiếng N. Malee gửi tới tham dự triển lãm, (Không bán). Anh chàng người Nhật sung sướng đến nghẹn thở và nhìn kĩ lại. Đúng, rõ ràng là thế: con mèo hoang của y nằm đó trong một chiếc lồng thếp vàng đặt trên một cái đệm nhung phủ lên một bục cao, xung quanh có bốn cảnh sát viên đứng canh gác, con mèo ấy đang lim dim cặp mắt màu xanh, bình thản khoe bộ lông xám nhạt điểm những vệt đen tuyền. Con mèo rất lãnh đạm. Nó chẳng coi cái dư luận ồn ào xung quanh nó đáng giá một chút nào cả.

7

Anh chàng người Nhật Malee đứng ỳ hàng giờ ở gần bên cái lồng, lắng nghe những lời tán tụng con mèo hoang của mình và say mê với niềm vinh quang mà ngay nằm mơ y cũng không thể thấy được. Tuy nhiên y hiểu rằng, thông minh hơn là phải giấu kín mình và trao quyền hành động cho người “quản gia” của mình. Cuộc triển lãm đã mang ơn con mèo hoang nhờ ở toàn bộ kết quả công việc của gã “quản gia” đó. Giá trị con mèo cứ tăng hằng ngày trước con mắt người chủ của nó. Y không có khái niệm về chuyện người ta đôi khi trả những món tiền như thế nào cho những con mèo và nghĩ rằng đã nói thách quá đáng khi “viên quản gia” của y báo cho vị giám đốc triển lãm biết quyết định bán con Analostan với giá một trăm đôla.
Và thế là con mèo hoang được dịp di chuyển từ cuộc triển lãm về một biệt thự ở Đại lộ Năm. Ngay lập tức nó biểu lộ cái tính hoang dã khó hiểu. Nhưng sự ghét vuốt ve của nó lại được lí giải như là tính ghê tởm sự suồng sã của giới thượng lưu. Cái thói chạy vào giữa bàn ăn khi trông thấy chó trong phòng thì được giải thích là ý muốn tránh sự tiếp xúc có tính chất xúc phạm, mặc dầu là một ý muốn khó biện hộ. Việc đánh chén những con chim yến nuôi thì được giải thích là thái độ chuyên chế từng nổi tiếng ở quê hương phương Đông của con mèo. Nhưng thói quen quý phái mở nắp thùng đựng sữa của nó lại làm cho mọi người thán phục nó. Thói không thích ngủ trong cái giỏ lót lụa và cứ thường xuyên húc đầu vào kính cửa sổ chỉ chứng tỏ rằng cái giỏ chưa đủ đẹp và cửa kính không được thông dụng ở cung điện quê hương nó. Việc thường xuyên vồ bắt nhưng thất bại những con chim sẻ bay lượn trong cái sân sau có tường cao bao quanh được coi là một bằng chứng quá đủ về tính chất thiếu thực tế của cách giáo dục chốn cung đình, còn việc đến thăm thùng đựng rác thì chỉ là sự lẩn thẩn có thể tha thứ được của nòi giống cao quý.
Người ta khoản đãi và vuốt ve con mèo nhưng nó không thấy hạnh phúc. Con mèo buồn nhớ quê hương. Nó giật lắc cái băng xanh buộc cổ cho đến khi băng tuột ra; nó húc đầu vào kính cửa sổ vì ngỡ đó là đường ra phố, nó tránh người và chó bởi vì người và chó là kẻ thù cũ của nó. Nó ngồi rất lâu bên cửa sổ, buồn rầu nhìn những mái nhà và những cái sân sau. Nó muốn quay trở về cái sân sau của nó biết bao! Nhưng người ta theo dõi nó chặt chẽ và không bao giờ để cho nó ra phố. Tuy vậy vào một buổi tối tháng Ba con Hoàng gia Analostan chộp được thời cơ người ta mang những cái thùng rác ra ngoài sân, nó liền lách qua cái cửa lớn và biến mất.
Chẳng nói làm gì về nỗi kinh hoàng đã xảy ra xung quanh chuyện con mèo đi mất. Nhưng con mèo không biết và cũng không muốn biết những chuyện đó. Nó chỉ nghĩ đến mỗi một việc làm thế nào mau chóng trở về tới nhà. Sau nhiều cuộc phiêu lưu không đáng kể nó đã tới gần Đồi Gramercy Grange. Nhưng rồi sau đó thì thế nào? Nó không về được nhà mà mặt khác lại mất nơi nuôi nấng chắc chắn. Cái đói đã nhắc nhở nó nhưng bất chấp tất cả mọi chuyện, nó vẫn thấy cực kì sung sướng.
Nó chờ đợi một thời gian, lẩn tránh trong một cái sân nhỏ ở phía trước một ngôi nhà. Rồi một cơn gió dông dữ dội nổi lên, mang tin tức thân thiết đến cho nó. Con người thì gọi cái tin tức đó là mùi tởm lợm đưa từ bến cảng đến, nhưng đối với con mèo của chúng ta thì đó lại là tin tức hằng mong đợi của quê hương. Nó phi nước đại theo con phố dài về hướng đông, cố bám theo các hàng rào của các ngôi nhà, thỉnh thoảng lại đứng lịm tại chỗ như một pho tượng và cuối cùng đã đến được bến cảng và bờ sông. Nhưng nó thấy nơi này lạ hoắc. Có thể rẽ về hướng nam mà cũng có thể quặt lên hướng bắc. Một cái gì đó buộc nó quanh về hướng nam, và sau hai giờ đi len lỏi qua lũ chó, những chiếc xe ngựa và lũ mèo, qua những lối đi vòng vèo của vụng sông và những hàng rào sắt, nó đã có mặt ở giữa những mùi quen thuộc. Mặt trời vẫn còn chưa lặn khi mà con mèo mệt nhoài và tập tễnh trườn qua đúng cái khe hở cũ ở hàng giậu của gian hàng chim - để chui vào đúng cái thùng bánh cũ, nơi nó đã mở mắt chào đời. Ôi, giá mà cái gia đình quý phái ở Đại lộ Năm có thể trông thấy nó, hoàn cảnh “quê hương phương Đông” của nó! Sau khi nghỉ đã đời nó lần đến cái thang dẫn xuống tầng hầm nhốt chim tìm kiếm thức ăn. Cửa mở toang, và gã da đen xuất hiện trước ngưỡng cửa. Gã ta kêu toáng lên với người chủ hàng bán chim:
- Lại đây, ông chủ ơi! Con Hoàng gia Analostan trở về nhà đây này.
Khi anh chàng người Nhật bước ra cửa thì con mèo nhảy phóc qua hàng giậu. Cả hai người đều cất giọng âu yếm gọi thật to: “Meo - meo! Mèo tội nghiệp ơi! Lại đây nào, mèo ơi!”. Nhưng con mèo chẳng ưa gì họ và nó chạy về nơi trú ngụ cũ của mình.
Con mèo Hoàng gia Analostan đã từng một lần là cả một kho của đối với anh chàng Nhật Bản. Với một trăm đôla nhờ con mèo mà có y đã mua được không ít những con vật nhốt trong lồng và mọi vật cần thiết khác. Vì vậy việc tóm bắt “nương nương” mèo là một việc quan trọng đối với y. Y đã dùng một miếng thịt bò thiu và nhiều miếng mồi rất cám dỗ khác để dụ con mèo, và cuối cùng do quá đói nó đã bị một cái đầu cá to đặt trong một cái thùng có bẫy lôi cuốn. Gã da đen giật sợi dây đóng sập cái nắp thùng xuống và một phút sau con mèo Hoàng gia Analostan đã lại bị bắt đưa đến ở chung với những kẻ bị nhốt trong căn nhà hầm. Trong lúc đó anh chàng người Nhật chăm chú đọc những bản cáo thị đăng trên báo. Và y đã tìm thấy: “tặng thưởng 5 đôla” v...v... Ngay buổi tối hôm đó, “viên quản gia” của ngài Malee đã có mặt tại tòa biệt thự ở Đại lộ Năm cùng với con mèo thất lạc:
- Xin kính chào nhân danh ngài Malee, thưa quý ngài. Con mèo Hoàng gia Analostan đã quay trở về với chủ cũ của nó, thưa quý ngài. Ngài Malee rất sung sướng được trao trả ngài con mèo Hoàng gia Analostan, thưa quý ngài.
Dĩ nhiên không thể nói đến việc tặng thưởng ngài Malee, nhưng “viên quản gia” đã làm cho người ta hiểu rằng y vui lòng nhận món tiền thưởng đã hứa để “uống trà”.
Sau chuyện đó con mèo bị tăng cường giám sát. Nhưng đáng lẽ thất vọng với cuộc sống đói khát trước đây và vui sướng với cái góc đầy đủ tiện nghi mới thì nó lại trở nên càng ngày càng hoang dã hơn và dễ nổi nóng hơn.

8

Mùa xuân đã lao động hết sức trong phạm vi có thể làm được ở thành phố New York. Lũ chim sẻ bẩn thỉu đánh lộn và vùng vẫy tắm bên các ống máng xối ở các mái nhà. Lũ mèo đêm đêm kêu gào trên các mái nhà, và cái gia đình ở Đại lộ Năm đã nghĩ đến chuyện đi về tòa biệt thự của họ ở ngoại ô. Họ thu xếp công việc, khóa cửa nhà lại và đi khỏi New York năm mươi dặm, mang theo con mèo đựng trong một cái giỏ.
- Đúng là cần phải làm như thế với nó, sự thay đổi không khí và hoàn cảnh sẽ làm cho nó quên sự chia li với chủ cũ, và nó sẽ có hạnh phúc.
Chiếc giỏ được đặt trong xe chở hành lí. Các âm thanh và mùi vị thoáng qua lọt tới cái giỏ biến mất ngay lập tức. Chiếc xe ngựa đã rẽ ngoặt. Rồi sau lại nghe thấy nhiều tiếng chân bước về cái giỏ lại lắc lư. Một lúc dừng xe ngắn ngủi, một chỗ rẽ nữa, rồi lại tiếng quất roi, tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng huýt gió kéo dài, tiếng chuông leng keng, có mùi ngột ngạt, ghê tởm, mùi hôi thối, độc địa, chết người. Tiếng ồn ào át cả tiếng kêu la của con mèo khốn khổ - nó ngạt thở vì thiếu không khí. Và đột nhiên nó trông thấy ánh sáng chói chang, và được thở hít không khí thỏa thuê. Sau đó nghe thấy tiếng người kêu to: “Dỡ hành lí!”. Dĩ nhiên đối với con mèo đó chỉ là tiếng quát tháo vô nghĩa của con người. Tiếng ồn ào dần dần im bặt.
Chẳng bao lâu lại thấy lúc lắc. Lại vô số những âm thanh và va xóc nhưng không phải ngửi mùi hôi thối độc địa. Tiếng gầm gào điếc tai gia tăng. Và đây là cái mùi dễ chịu của bến cảng. Lại xô đẩy, quát tháo, tiếng ken két, rồi lại những chỗ dừng chân, lại tiếng roi quất, tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng la mắng, những cái lúc lắc. Rồi lại những mùi mới, lại xô đẩy mạnh và yếu, lại mùi khí, mùi khói, những cái lắc lư, tiếng chuông, tiếng la mắng, quát tháo, ầm ầm. Và lại những mùi mới, tiếng lốp cốp mới, những cái lúc lắc mới, tiếng ồn ào mới. Lại những mùi khác. Lại một chỗ dừng chân. Có những tia sáng rọi qua cái nắp giỏ. Con mèo Hoàng gia lại được đặt vào xe ngựa chở hành lí. Thêm một chỗ rẽ nữa, và bánh xe lại lăn lọc cọc trên đường. Có thêm một âm thanh ghê sợ - tiếng chó sủa, rất gần, như sát bên tai. Người ta mở chiếc nắp giỏ ra và con mèo hoang đã ở tòa biệt thự ngoại ô rồi.
Những người xung quanh đều tốt đến mức làm rầy con mèo. Ai cũng muốn làm vừa lòng nó, nhưng không hiểu sao chẳng có ai thành công cả, trừ bà làm bếp to béo mà con mèo làm quen ở nhà bếp. Người đàn bà ấy có cái mùi gợi nhớ đến sự nghèo nàn, và con Hoàng gia Analostan tỏ thái độ thiện cảm ngay với bà ta. Bà nấu bếp biết bà chủ sợ con mèo bỏ trốn nên đã hứa sẽ luyện cho nó quen. Bà ta nhanh nhẹn tóm lấy vị thần linh không ai tới gần được ấy vào trong chiếc tạp dề và làm một việc xúc phạm khủng khiếp là dùng mỡ lợn xoa vào chân nó. Dĩ nhiên là con mèo nổi giận. Nhưng khi bà ta thả nó ra thì nó bắt đầu liếm chân, mỡ lợn rất hợp khẩu vị nó. Nó liếm chân trong suốt cả giờ đồng hồ, và bà nấu bếp đắc thắng tuyên bố rằng, “bây giờ chắc chắn nó sẽ ở lại”. Đúng là con mèo đã ở lại, nhưng người ta đã phát hiện ra là nó có một sự ham mê khó hiểu và bỉ ổi gần gũi căn bếp, bà nấu bếp và cái xô đựng rác.
Mặc dầu bà chủ buồn phiền về những sự gàn dở quý phái đó, song bà cũng vui mừng khi trông thấy con mèo Hoàng gia Analostan hài lòng và tỏ ra ngoan ngoãn hơn. Sau một vài tuần lễ con mèo được thả lỏng nhiều hơn. Người ta bảo vệ nó khỏi mọi điều khó chịu nhỏ nhặt nhất. Lũ chó được dạy cách kính trọng nó. Không một người lớn, một đứa trẻ nào ở vùng xung quanh dám ném đá vào con mèo nổi tiếng có phổ hệ. Nó được cung cấp thức ăn thỏa thích nhưng nó vẫn không thấy hạnh phúc. Nó mơ hồ ước muốn nhiều điều; tự bản thân nó cũng không biết đó là những điều gì. Nó đã có tất cả mọi thứ, nhưng nó lại muốn những điều khác. Nó được ăn uống nhiều nhưng sữa lại không có cái vị như thứ sữa mà nó có thể uống và tợp bao nhiêu cũng được ở những cái thùng đựng sữa. Cần phải lấy trộm được sữa ở cái thùng sắt tây khi bụng đói và khát, còn ở đây thì sữa không có cái vị ngon như thế - không phải là thứ sữa đó, thế thôi.
Thực ra ở ngôi nhà này cũng có một cái sân sau rộng lớn nhưng cái sân lại bị những cây hoa hồng đầu độc bầu không khí. Thậm chí những con ngựa và con chó cũng bốc mùi chẳng ra đầu ra đũa gì cả. Cả khu vực này cứ như một vùng hoang mạc, gồm toàn những vườn cây và đồng cỏ kinh tởm, chẳng có một khu phố chung chỉ gồm những căn lều cỏ nát, chẳng có một cái ống khói nhà máy chung. Tất cả những cái đó đối với nó mới đáng căm ghét làm sao! Trong toàn bộ cái dinh cơ đáng sợ này chỉ có mỗi một bụi cây nhỏ ngát hương nằm khuất nẻo ở một xó xỉnh. Con mèo vui thích bứt những cái lá cây ở đó và nằm lăn lộn trên đám lá. Đó là nơi duy nhất dễ chịu trong dinh cơ này, bởi vì từ lúc nó ra đi đến giờ nó chưa hề trông thấy một cái đầu cá thối, một cái thùng rác nào.
Nơi nghỉ mát đối với nó là một vùng đê tiện, quái gở. Chắc hắn nó muốn chuồn ngay buổi tối đầu tiên nếu như nó được làm theo ý nó. Nhưng mãi sau nhiều tuần lễ nó mới được thực hiện ý mình còn bây giờ thì nó kết bạn với bà nấu bếp. Rồi đến cuối hè đã có một loạt sự kiện lại kích thích những bản năng cũ trỗi dậy trong con mèo hoang.
Người ta mang từ bến cảng về ngôi biệt thự ở vùng quê một kiện hàng lớn. Kiện hàng sặc sụa mùi hương mê hồn của bến cảng và của những túp lều nghèo nàn, và cái quá khứ của con mèo lại hiện ra trước mắt nó một cách vô cùng quyến rũ. Thế mà đến ngày hôm sau bà nấu bếp lại bị sa thải do những sự hiểu lầm nào đó liên quan đến chính kiện hàng kia. Sau khi bà ta đi rồi con mèo hoàn toàn cô độc. Đúng tối hôm đó đứa con trai bé của bà chủ, một đứa trẻ Hoa Kỳ tồi tệ chẳng chút tôn trọng dòng máu hoàng gia đã nghĩ ra cái trò buộc một chiếc hộp sắt tây vào đuôi con mèo quý tộc - chắc chắn rằng đây là một trong những ý định hay ho, tốt đẹp nhất của thằng bé. Nhưng con mèo đã đáp lại sự suồng sã đó bằng một cái vả tay được vũ trang năm móng sắc như năm chiếc lưỡi câu. Tiếng kêu rống lên của nước Hoa Kỳ bị xúc phạm làm cho bà mẹ Hoa Kỳ nổi trận lôi đình. Con mèo chẳng biết nhờ sự thần kì nào mà tránh được quyển sách do bàn tay khéo léo hoàn toàn đàn bà ném vào nó và lập tức bỏ chạy. Dĩ nhiên là nó chạy lên phía trên. Con chuột khi chạy trốn thì rúc xuống phía dưới, con chó thì chạy thẳng còn mèo thì chạy lên phía trên.
Nó nấp ở tầng sát mái nhà để tránh truy nã và chờ đêm xuống. Thế rồi nó mò theo cầu thang xuống dưới nhà, dò dẫm hết cái cửa này đến cái cửa khác cho tới khi tìm được một cánh cửa khép hờ thì lách ra ngoài và lao vào bóng đêm đen của tháng Tám. Màu đen kịt như mực đối với mắt người thì chỉ là màu xám đối với mắt nó. Kẻ trốn chạy len lỏi qua những bụi cây và bồn hoa gớm ghiếc, vặt những cây cỏ khả ái trong vườn trước lúc chia tay và dũng cảm đi ngược trở lại con đường người ta đã mang nó đi hồi mua xuân.
Nhưng làm sao tìm ra con đường mà nó chưa từng bao giờ trông thấy? Mọi sinh vật đều được trang bị một thứ cảm xúc phương hướng. Cảm xúc này ở con người rất yếu ớt và ở con ngựa thì rất mạnh. Ở mèo cảm xúc này cũng mạnh mẽ, và kẻ đưa đường bí mật đó đã hướng dẫn kẻ trốn chạy đi về hướng tây. Sau một giờ nó đã chạy được hai dặm và đến bờ sông Hudson. Khứu giác đã nhiều lần giúp nó khẳng định rằng đã chọn đúng đường. Nó nhớ lại hết mùi nọ đến mùi kia, chẳng khác gì một người khi đi qua một đường phố lạ rồi quên ngay mất nó nhưng đến lúc thấy lại nó lần thứ hai thì bỗng nhiên nhớ lại một điều gì đó và tự nhủ rằng: “Chà, có lần mình đã ở đây rồi mà!”. Như vậy người chỉ huy chủ yếu của con mèo là cảm giác phương hướng. Cái mũi lúc nào cũng động viên nó: “Đúng rồi, bây giờ thì đúng là mùa xuân năm ngoái chúng ta đã có đi qua đây”.
Dọc theo bờ sông có con đường sắt. Con mèo phải lựa chọn đi lên hướng bắc hoặc đi xuống hướng nam. Cảm xúc phương hướng đã thầm bảo nó một cách rành rọt: “Đi về hướng nam”, và con mèo bèn chạy theo con đường nằm giữa đường xe lửa và dãy hàng rào.
Loài mèo có thể leo trèo rất nhanh nhẹn trên cây hoặc trên hàng rào, nhưng trên đường bằng phẳng thì nước phi của chó chiếm vị trí đầu bảng chứ không phải là sự nhảy nhót của mèo. Vì thế mặc dù đường đi bằng phẳng mà con mèo cũng phải mất cả giờ đồng hồ mới đi xa khỏi những bụi hoa hồng đáng ghê tởm được có hai dặm.
Nó mệt mỏi và đã bắt đầu đi hơi cà nhắc. Con vật khốn khổ vừa định nghỉ xả hơi thì đột nhiên nghe thấy một tiếng chó sủa khủng khiếp ở phía bên kia hàng rào. Con mèo sợ hãi lao về phía trước và dốc hết sức chạy trên đường, và vừa chạy vừa nhìn quanh xem con chó có chui qua hàng rào ra ngoài không. Không, vẫn không thấy con chó đâu cả! Nhưng con chó cứ nhảy chồm chồm ngay bên cạnh nó mà gầm gừ một cách đinh tai váng óc rồi sau lại chuyển từ gầm gừ thành tiếng gào thét, rống rít ghê rợn. Một luồng lửa chói lòa rọi tới. Con mèo nhìn lên và trông thấy... không phải là con chó mà là một con quái vật khổng lồ đen ngòm chỉ có một con mắt độc nhất đỏ lòm - con quái vật vừa chạy vừa rú rít như cả một đàn mèo vậy. Con mèo cắm đầu cắm cổ chạy nhanh vun vút nhưng nó vẫn chưa quyết định nhảy qua hàng rào. Nó cứ chạy, cứ lao đi... Nhưng mọi sự đều vô ích: con quái vật đã đuổi kịp nó nhưng lại đánh trượt vào trong bóng đêm và chạy ngang qua rồi mất hút vào không gian, trong khi con mèo vừa thở dốc vừa nằm xoài ra trên mặt đất ở nơi cách tòa nhà gần hơn nửa dặm so với lúc nó bắt đầu nghe thấy con chó khổng lồ lên tiếng.
Lần đầu tiên nó trông thấy con quái vật ghê rợn đó. Thực ra nó đã nhận ra con quái đó qua mùi ngửi được. Nó đã gặp con quái vật đó khi nằm trong chiếc giỏ đi đến nhà nghỉ. Nỗi sợ hãi con quái vật ấy đã giảm bớt hẳn vì nó đã khẳng định được rằng những con quái đó rất vụng về và chẳng bao giờ bắt được nó, chỉ cần nấp vào sát hàng rào là xong. Cho đến trước lúc trời sáng con mèo còn gặp những con quái vật ấy một vài lần nữa nhưng nó chẳng làm sao cả.
Khi trời hửng sáng nó đến được khu vực những túp lều nghèo nàn, và nó tìm được trong đống tro một chút đồ thừa tuyệt vời. Ngày hôm đó nó đi ngang qua một tàu ngựa, ở đó có hai con chó và vô số trẻ con thiếu chút nữa đã giết chết nó. Những căn nhà rách nát và những cái sân ở đây rất giống nơi chôn rau cắt rốn của nó, nhưng nó không dừng lại ở đó. Niềm khát vọng xưa đã lôi cuốn nó không sao cưỡng lại nổi, và đến khi hoàng hôn buông xuống thì nó lại lên đường.
Suốt cả ngày lại có những con quái vật một mắt chạy ngang qua nó. Nhưng bây giờ nó đã quen với chúng rồi và nó cứ tiếp tục chạy suốt đêm chẳng chút sợ hãi gì. Ngày hôm sau nó chạy tới một kho thóc và bắt được chuột ở đó; đêm đó tình hình xảy ra cũng gần giống như đêm trước, chỉ có khác là nó gặp một con chó thực thụ chạy đuổi theo nó một quãng xa. Một vài lần nó đã chạy rẽ sang những ngả đường khác xa, nhưng nó vẫn thường xuyên quay trở về hướng cũ. Ban ngày nó mất nhiều thì giờ tìm kiếm thức ăn và lẩn tránh lũ chó và bọn trẻ con, nhưng đêm đến thì nó lại tiếp tục lên đường. Con mèo khốn khổ đã bắt đầu mệt mỏi nhưng nó vẫn cứ tiến về phía trước như cũ, đi hết dặm đường này đến dặm đường khác, đi mãi về hướng nam. Lũ chó, bọn trẻ con những con quái vật, cái đói... Rồi lại lũ chó, bọn trẻ con, những con quái vật, cái đói... Nhưng nó vẫn chẳng đếm xỉa gì đến cả mà cứ tiến về phía trước, và cái mũi cứ chốc chốc lại khích lệ nó: “Đây đúng là cái mùi chúng ta đã từng ngửi thấy mùa xuân vừa qua”.

9

Sau một tuần lễ, con mèo lấm lem đi tập tễnh, chẳng còn băng đeo trên cổ, đã đến được cầu Harlem. Mặc dù cái cầu có một mùi tuyệt diệu nhưng con mèo không thích cây cầu. Nó đi tới đi lui trên bờ sông đến tận nửa đêm mà không tìm được phương tiện nào khác qua sông ngoài những cây cầu khác, và cũng không biết được điều gì đáng quan tâm hơn rằng, bọn đàn ông cũng nguy hiểm y như bọn trẻ con. Nó miễn cưỡng quay trở lại cầu Harlem. Mùi cây cầu khá quen thuộc nhưng cái chính là khi con quái vật một mắt chạy qua cầu thì thấy nổi lên cái tiếng rầm rầm đinh tai nhức óc mà nó đã từng nghe được trong cuộc phiêu lưu hồi mùa xuân của nó.
Khi con mèo nhảy lên một thanh dầm cầu và chạy qua sông thì bốn bề là bóng đêm yên tĩnh. Nó vừa mới đi được một phần ba cây cầu thì một con quái vật một mắt hồng hộc xông vào từ phía bên kia cầu. Nó rất hoảng sợ nhưng biết rằng con quái khổng lồ ấy vốn ngờ nghệch và mù dở nên nó bèn nhảy xuống một thanh xà ở dưới thấp và nằm im lìm như chết. Con quái vật khổng lồ ngờ nghệch rầm rầm chạy qua, và mọi việc có lẽ sẽ tốt đẹp nếu như đột nhiên nó không quay ngược trở lại hoặc là một con quái vật khác giống như nó lại rầm rập chạy qua trên lưng con mèo.
Con mèo điên đầu liền chạy về phía trước. Có thể nó cũng đã tới được bờ sông quê hương nếu như từ đó không có một con quái vật mắt đỏ thứ ba gầm gào lao vào phía nó. Nó cắm cổ chạy nhưng lại lọt vào giữa hai luồng lửa. Nó chẳng kịp nghĩ ngợi gì được nữa mà chỉ hốt hoảng nhảy đại từ trên cầu xuống. Nó cứ rơi, rơi, rơi mãi... ùm, oạp thế là nó rơi tõm xuống làn nước sâu chưa lạnh cóng của thời tiết tháng Tám. Chà, thật đáng ghê tởm làm sao! Nó bơi trên mặt nước vừa sặc sụa, vừa khạc nhổ, mà mắt vẫn cứ lấm lét nhìn quanh xem con quái vật khổng lồ có rượt đuổi theo không. Nó bơi vào bờ. Nó chưa bao giờ được học bơi, nhưng vẫn bơi được chỉ vì vị trí và sự cử động của con mèo trong lúc bơi cũng như trong lúc đi mà thôi. Khi rơi xuống một nơi chẳng dễ chịu chút nào với nó thì dĩ nhiên là nó đã thử đi và do đó mà bơi được vào bờ. Nhưng nó bơi vào bờ sông bên nào? Tình yêu quê hương không bao giờ lầm lẫn; bờ sông duy nhất đối với nó là bờ phía nam, gần nhà nó nhất. Con mèo ướt sũng leo lên bờ sông đầy bùn và len lỏi qua những đống than và đống rác. Nó đen đúa, lấm lem chẳng còn chút gì là con mèo hoàng gia nữa mà chỉ là một con mèo hoang tầm thường nhất.
Sau khi đã hơi hoàn hồn một chút con mèo hoang hoàng gia lại cảm thấy việc tắm sông đối với nó thật hữu ích. Nó thấy ấm người lên và ý thức được niềm tự hào về chiến thắng đánh lừa được ba con quái vật khổng lồ. Mũi, trí nhớ và cảm xúc phương hướng khuyên nhủ nó quay trở lại theo dấu cũ, nhưng con đường đi thẳng đã nhan nhản lũ khổng lồ một mắt rồi và sự thận trọng bắt buộc nó phải đi theo bờ sông nơi có cái mùi hôi thối gợi nó nhớ tới quê hương. Thế là nó tránh xa những con đường ngầm đầy những đe dọa khủng khiếp không thể diễn tả được.
Con mèo mất hơn ba ngày nghiên cứu những sự nguy hiểm khác nhau của vùng bờ sông East River. Có lần nó đã phạm sai lầm là nhảy lên một chiếc tàu thủy đi đến Long Island, nhưng nó đã quay trở lại ngay trên con tàu chạy ngược trở lại đầu tiên. Cuối cùng đến đêm thứ ba thì nó đến được một nơi quen thuộc mà nó đã có đi qua trong đêm lần nó trốn chạy thứ nhất. Nó đã biết chính xác phải đi đâu và tìm đến được căn nhà mà nó đã từng lẩn tránh con chó. Kẻ trốn chạy rảo bước; tim nó đập rộn ràng. Đi thêm vài bước nữa - thế là nó đã lăn nhào được vào trong chiếc thùng nơi “phương Đông quê hương” tức là cái sân sau của nó.
Chỉ cần đi thêm một khúc quanh nữa là nó sẽ trông thấy những ngôi nhà quen thuộc.
Nhưng cái gì thế này? Tất cả những ngôi nhà đều đã biến mất. Con mèo không còn tin ở mắt mình nữa, nhưng dù thế nào mặc lòng nó vẫn phải tin. Ở nơi đây trước kia là những ngôi nhà tồi tàn xiêu vẹo nhưng nay thấy ngổn ngang những gạch ngói, đồ thải bỏ và hố đào. Con mèo đi lang thang trên mảnh đất bỏ trống. Qua màu sơn của cây cầu nó biết rằng đã về đến quê hương, rằng người bán chim đã từng sống ở nơi đây, ở đây đã từng có một ngôi hàng cũ kĩ. Nhưng tất cả những thứ đó đều biến mất hết tăm tích, mang theo cả đi mọi mùi quen thuộc và trái tim con mèo khốn khổ đau thắt lại vì thất vọng. Tình yêu quê hương là động lực chính của nó. Nó đã hi vọng tất cả trên cõi đời này để quay trở về căn nhà mà nay không còn nữa, và lần đầu tiên trong đời trái tim bé nhỏ dũng cảm của nó tràn đầy sự thất vọng ê chề. Nó đến những đống rác câm lặng và chẳng tìm được cả niềm an ủi cũng như thức ăn.
Sự hoang tàn xâm chiếm vài dãy phố cho đến tận bờ sông. Đây không phải là đám cháy: con mèo đã có lần trông thấy đám cháy và đã biết nó như thế nào rồi. Có lẽ đây là kết quả công việc của cả một bầy quái vật mắt đỏ. Con mèo không chút hoài nghi về cây cầu lớn vừa được dựng lên ở chính nơi này.
Trời hửng sáng nó đi tìm nơi nương náu. Một trong các dãy phố lân cận còn giữ được gần như nguyên dạng ban đầu và con mèo hoàng gia Analostan bèn đi tới đó. Nó đã biết rõ một số đường ra lối vào ở nơi ấy. Nhưng sau khi đến được đó rồi thì nó kinh ngạc và đau buồn thấy có vô số mèo cũng bị xua đuổi như nó khỏi chốn xưa. Bây giờ ở thùng rác nào cũng có vài ba con mèo tìm ăn. Như thế có nghĩa là sẽ đói và con mèo của chúng ta sau vài ngày bắt buộc phải tìm đến một ngôi nhà khác của nó ở Đại lộ Năm. Nó gặp ngôi nhà ấy cửa đóng then cài và hoang vắng. Nó rình đón ở đó suốt ngày và đã gây chuyện xích mích với một người cao lớn mặc bộ quần áo màu xanh. Thế là đến ngày hôm sau nó lại quay trở về nơi ở nghèo nàn đầy rẫy những mèo của nó.
Đã hết tháng Chín, bước sang tháng Mười. Nhiều con mèo gầy rạc đi vì đói, hoặc do yếu quá nên đã làm mồi cho những kẻ thù của chúng. Nhưng con mèo của chúng ta nhờ cương nghị và trẻ trung nên vẫn còn sống.
Trong khi đó ở các dãy phố bị phá đã có những thay đổi lớn lao. Những dãy phố ấy con mèo trông thấy lần đầu tiên vào ban đêm nên hoang vắng; nhưng ban ngày thì chúng tấp nập những công nhân làm việc ồn ào. Đến cuối tháng Mười nơi đây đã mọc lên một tòa nhà lớn, và con mèo hoang bị cái đói săn đuổi một hôm đã len lén đến gần một cái xô mà một gã da đen vừa đem đặt ở ngoài sân. Đáng tiếc đó không phải là một cái xô đựng rác mà lại là xô đựng nước lau nhà - một sự việc mới mẻ ở nơi đây. Tuy nhiên bên cạnh nỗi thất vọng ê chề lại có một điều gì đó an ủi: cái quai xô sặc sụa mùi một bàn tay quen thuộc. Trong khi con mèo đang nghiên cứu cái xô thì gã da đen gác thang máy hiện ra trên ngưỡng cửa. Mặc dầu gã mặc bộ đồng phục màu xanh song con mèo ngửi mùi đã nhận ra gã và lùi ngay lại sang bên kia đường phố. Gã da đen không rời mắt khỏi con mèo.
- Có phải con mèo hoàng gia Analostan không kìa! Meo-meo-meo-eo! Lại đây nào, mèo ơi! Trông nó đói meo kìa!
Đói à! Đã vài tháng nay chưa có lần nào nó được ăn thỏa thích. Gã da đen bước vào trong nhà và quay trở ra với một phần bữa ăn điểm tâm riêng của y.
- Meo-meo-meo-eo!
Bữa ăn rất hấp dẫn nhưng con mèo có cơ sở để không tin vào con người ấy. Cuối cùng gã da đen đặt miếng thịt lên mặt đường và quay trở về của ngôi nhà. Con mèo hoang thận trọng len lén đến gần ngửi hít miếng thịt rồi ngoạm lấy và chạy đi nhanh vun vút như một con hổ để đến nơi an toàn ăn hết miếng mồi.

Cuộc đời thứ ba

10

Thế là bắt đầu một thời kì mới. Bây giờ mỗi khi con mèo quá đói nó lại lần đến cửa ngôi nhà, và mỗi ngày mỗi cảm tình nồng nhiệt của nó đối với gã da đen lại một tăng. Trước đây nó không hiểu con người ấy. Dường như gã luôn luôn là kẻ thù của nó. Nhưng bây giờ dường như gã lại là bạn nó, người bạn duy nhất trên cõi đời này.
Một lần nó gặp cả một tuần lễ hạnh phúc: được bảy bữa ăn no nê trong bảy ngày liền. Và đúng sau bữa ăn thứ bảy nó quay trở về với một con chuột chết, một con chuột thực thụ, thứ thức ăn để dành. Con mèo chưa lần nào gặp một con chuột trưởng thành trong cả cuộc đời gian truân của nó nhưng nó vẫn vồ mồi và kéo lê chuột theo với ý định cất đi để dành. Nó đi ngang qua phố đến gần ngôi nhà mới thì kẻ thù cũ của nó là con chó ở xưởng đóng tàu nhảy xổ vào nó và con mèo bèn lao về phía cái cửa ngôi nhà có người bạn của nó ở. Con mèo vừa tới nơi đúng lúc gã da đen mở toang cánh cửa và một người ăn mặc sang trọng bước ra. Cả hai đều trông thấy con mèo tha con chuột.
- Ô! Xem con mèo kìa!
- Vâng, thưa ngài, - gã da đen đáp lời. - Nó là con mèo của tôi, thưa ngài. Nỗi đe dọa của lũ chuột, thưa ngài. chuột bị bắt gần sạch hết rồi, thưa ngài, chính vì thế nên con mèo mới gầy gò đến thế ạ.
- Đừng để cho nó đói, - người ăn mặc sang trọng nói với dáng vẻ một người chủ nhà, - anh có thể nuôi nó ăn đúng mức cần thiết không?
- Người bán gan vẫn đi qua đây hằng ngày, thưa ngài. Hai mươi nhăm xu một tuần lễ, thưa ngài. - gã da đen nói và cho là mình có đủ quyền tính thêm mười lăm xu cho sự sáng kiến của mình.
- Được thôi, tôi sẽ trả tiền.

11

- Th-ịt đâ-ây! Th-ịt đâ-ây! - Tiếng rao quyến rũ của lão già bán gan đẩy chiếc xe ba gác trên ngõ hẻm Scrimper nghe vang vang, và lũ mèo lại như trước kéo hàng bầy đàn ra chờ đợi phần ăn của chúng.
Cần phải nhớ mặt tất cả lũ mèo - cả mèo đen, mèo trắng, mèo vàng, mèo xám - và điều chủ yếu là phải nhớ đúng chủ nuôi của chúng.
Chiếc xe đến góc ngôi nhà mới thì dừng lại, đây là nơi mà những ngày trước đó nó không dừng lại.
- Nào, xéo ra nào, đồ hà tiện! - Lão bán gan quát lên và vung chiếc xiên thần kì để mở đường cho một con mèo xám có đôi mắt xanh và cái mũi trắng.
Phần nó là một miếng gan to nhất, bởi vì gã da đen đã chia đôi phần lời với lão bán gan. Con mèo hoang tha phần ăn của mình đến dưới mái ngôi nhà lớn dùng làm nơi trú ngụ của nó. Cuộc đời thứ tư đã mang lại cho nó niềm hạnh phúc mà nó chưa từng bao giờ mơ ước có. Thoạt đầu mọi cái đều chống lại nó, còn bây giờ thì chẳng có gì tốt hơn thế nữa. Chưa hẳn là nó đã khôn ngoan ra hơn sau những chuyến viễn du, nhưng bây giờ nó đã biết rõ là nó muốn điều gì và nhận được những gì nó muốn. Ước mơ chính đáng của cả cuộc đời nó đã được thực hiện, bởi vì nó đã vồ được cả chim sẻ, không phải chỉ một con mà đến hai con vào lúc nó rình ở bên cầu.
Nó không bắt chuột nữa nhưng gã da đen đã đi thu nhặt cả đống chuột chết về từ mọi nơi mọi chốn và đem chúng ra bầy hàng. Lũ chuột chết nằm trong đống cỏ khô cho đến lúc người chủ nhà tới rồi được ném ra ngoài một cách vội vã đáng tha thứ.
- Xem con mèo ấy kìa, thưa ngài!... Đó đúng là dòng máu Analostan, thưa ngài, nỗi khủng khiếp của chuột đấy ạ.
Trong thời gian này con mèo cũng có vài ba lần sinh đẻ. Gã da đen cho rằng con mèo đực vàng tươi là cha của một số mèo con do nó cho ra đời trong những lúc ấy, và điều này chắc là gã nói đúng.
Gã đã bán rẻ con mèo nhiều lần một cách yên tâm vì biết rõ rằng chỉ sau vài ngày là con mèo hoàng gia Analostan sẽ quay trở về nhà. Con mèo đã quen với cái thang máy đi lên và đi xuống. Gã da đen quả quyết nói rằng có một hôm đẹp trời khi con mèo nghe thấy tiếng rao hàng của lão bán gan và nó đang ở trên lầu gác thượng thì nó đã khôn ngoan ấn chuông để gọi thang máy lên cho nó xuống.
Bộ lông của nó lại trở lại mượt mà và đẹp đẽ.
Con mèo được kể vào số đứng hàng đầu trong họ mèo quý phái. Lão bán gan rất mực tôn trọng con mèo. Ngay con mèo được nuôi bằng váng sữa và gà con của mụ vợ gã cho vay nặng lãi cũng không giành được vị trí như con mèo hoàng gia Analostan. Trong khi đó thì bất chấp tất cả mọi sự hạnh phúc của nó lẫn vị trí xã hội cũng như danh hiệu hoàng gia và phổ hệ ngụy tạo, con mèo chưa bao giờ thấy hạnh phúc cho bằng những lúc vào buổi hoàng hôn nó lẻn ra đi và đến bới các đống rác, bởi vì từ trong đáy tâm hồn nó đã là và mãi mãi vẫn là một con mèo hoang nghèo nàn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét