Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Sông Đông êm đềm (phần 2) - Mikhail Solokhov


Phần II – 1


Gia phả nhà Sergey Platonovich còn ghi được những ông tổ xa xưa. Dưới triều hoàng đế Petr đệ nhất (đọc là Pi-ốt, 1672 - 1725. Hoàng đế nước Nga, đã đánh bại quân Thụy-Điển ở Poltava, xây dựng thủ đô mới Peterburg, áp dụng văn minh phương Tây vào nước Nga, và làm cho nước Nga trở thành một cường quốc lớn ở châu Âu), có lần một chiếc thuyền chở lương khô và thuốc súng của Nga hoàng xuôi theo sông Đông ra biển Azop. Trên thượng lưu sông Đông, gần cửa nhánh Khop, có thị trấn Trigonac, dân ở đây chuyên đầu trộm đuôi cướp. Bọn Cô-dắc trong thị trấn đã lợi dụng đêm tối đánh úp chiếc thuyền, chém cổ tên lính gác đang ngủ gà ngủ gật, cướp hết lương khô và thuốc súng, còn thuyền thì họ đánh chìm xuống sông.
Theo lệnh Nga hoàng, quân đội ở Voronez đã kéo đến đốt trụi thị trấn “cường đạo” Trigonac ấy, và trong khi chiến đấu đã giết không chùn tay những tên Cô-dắc tham gia đánh cướp chiếc thuyền.
Đại úy Yakirka cùng bốn mươi gã Cô-dắc bị bắt. Quan quân đã đóng những chiếc giá trên bè, treo cổ tất cả, rồi thả cho trôi xuống hạ lưu, hòng dùng những chiếc đu ấy để răn đe các trấn đang sôi sục muốn làm loạn ở miền dưới.
Mười năm sau, một số người Cô-dắc mới di cư đến và cả những người sống sót sau vụ tàn sát, lại đến sinh cơ lập nghiệp ở ngay chỗ xưa kia những ngôi nhà của thị trấn Trigonac đã chìm trong khói lửa.
Trấn nầy lại mỗi ngày một lớn mạnh và đã đắp được một dãy luỹ chiến đấu vây quanh thị trấn. Cũng từ hồi ấy, một tên thám tử là lão mu-gích Mokhov Nhikiska nhận sắc lệnh của chính quỷền Nga hoàng từ Voronez đến đây làm tai mắt cho hoàng triều. Lão buôn bán trăm thứ đồ lặt vặt cần dùng trong đời sống hàng ngày của người Cô-dắc như cán dao, thuốc lá, đá lửa. Lão mua bán cả những đồ ăn cắp và mỗi năm lão lại đi Voronez hai lần, ngoài miệng thì nói là để cất hàng, nhưng thật ra chỉ để báo cáo, chẳng hạn tình hình trong trấn tạm thời vẫn yên tĩnh, dân Cô-dắc chưa âm mưu phạm thêm một tội ác nào.
Dòng họ những tên lái buôn Mokhov chính là bắt nguồn từ lão Mokhov Nhikiska nầy. Họ đã sinh cơ lập nghiệp vững vàng trên mảnh đất Cô-dắc nầy. Hạt giống của họ đã bay đến trấn nầy, đã bám rễ ở đây như loài cỏ dại “móng ngựa”, rồi không ai có tài nào nhổ hết. Con cháu nhà Mokhov đã gìn giữ như một vật thiêng liêng tờ chứng chỉ gần mục nát mà tỉnh trưởng Voronez đã trao cho ông tổ của họ, khi lão được phái đến cái trấn làm loạn nầy. Tờ chứng chỉ ấy đã được cất trong một cái tráp gỗ đặt trên ổ tượng thánh. Chưa biết chừng nó còn giữ được đến ngày nay, nếu mồ ma ông nội Sergey Platonovich, nó không bị đốt ra tro cùng với cái tráp trong một đám cháy lớn. Lão già này máu mê cờ bạc, của chìm của nổi có bao nhiêu nướng sạch rồi bị phá sản. Sau đó lão cũng xây đựng lại được cơ nghiệp, nhưng thần lửa đã thiêu hết, thành thử đến đời Sergey Platonovich, tay này đã phải làm lại từ đầu. Sau khi chôn xong thằng bố bán thân bất toại, lão đã bắt tay vào kinh doanh với độc một đồng rúp cóc gặm. Đầu tiên lão lang thang qua các thôn mua lông lợn và lông gà vịt. Sau năm năm sống cơ cực, năm năm lừa gạt, bòn mót từng đồng xu nhỏ của bà con Cô-dắc các thôn lân cận, gã buôn lông lợn Seriogia (Tên dùng để gọi Sergey một cách thân mật) đã nghiễm nhiên biến thành “ông” Sergey Platonovich, hầu như chỉ một sớm một chiều. Lão mở ngay ở trấn một quán hàng tạp hóa nhỏ, lấy con gái lão cố đạo dở điên dở dại, đào mỏ được một món hồi môn không phải là nhỏ, rồi khai trương một cửa hàng vải, Sergey Platonovich bước vào nghề buôn vải thật là đúng lúc. Vùng tả ngạn sông Đông toàn là đất khô cằn, nếu không là cát thì cũng là đất sét rắn như đá. Vì thế, theo lệnh chính quyền quân khu, người Cô-dắc các trấn bên ấy đã phải di cư sang hữu ngạn từng thôn một. Trấn Kratnokuskaia mới thành lập đã lớn lên vùn vụt, nhà cửa mọc như nấm. Sát bên những khu đất cũ của bọn địa chủ, hai bên các sông Tria, Chernaia và Florovka, những thôn mới thi nhau mọc lên ở những khe, những khoảng đất trũng trên đồng cỏ, cho mãi tới rìa các làng của người Ukraina: Bà con các nơi ấy thường phải đi hàng năm chục vec-xta hoặc xa hơn nữa mới mua được hàng, thế mà nay lại thấy ngay một cửa hiệu với những cái giá bằng gỗ thông mới tinh, xếp đầy các thứ vải vóc tơ lụa thơm phức. Vì thế nên việc buôn bán của Sergey Platonovich mỗi ngày một kéo rộng ra như một chiếc accordeon. Ngoài các thứ hàng vải vóc lão còn buôn tất cả các thứ cần thiết cho cuộc sống đơn giản ở nông thôn: đồ da, muối, dầu hỏa, hàng tạp hóa. Thời gian gần đây, lão còn cung cấp cả máy móc nông nghiệp. Những chiếc máy gặt, máy cày, máy quạt thóc, máy sàng thóc đã từ nhà máy Arsaisky đến xếp hàng ngay ngắn bên cửa hiệu hai cánh màu xanh lá cây, mùa hè rất mát. Làm thế nào mà đếm được xem trong hầu bao người ta có bao nhiêu tiền, nhưng chắc chắn là công việc buôn bán đã đem lại cho con người thừa tài xoay xở Sergey Platonovich những món lời không phải nhỏ. Ba năm sau, lão mở thêm một nơi thu mua và chứa lúa mì, rồi một năm sau, khi mụ vợ thứ nhất của lão qua đời, lão lại bắt tay vào xây một nhà máy xay chạy bằng hơi nước.
Trong bàn tay ngăm ngăm, đầy những lông thưa nhưng đen bóng, Sergey Platonovich đã nắm rất chặt thôn Tatarsky cùng các thôn lân cận. Chẳng có nhà nào không phải ký tên trên mảnh giấy màu xanh lá cây, viền hoa màu da cam nhận thực còn chịu của Sergey Platonovich một món tiền mua máy gặt hoặc tư trang cho con gái về nhà chồng (sắp đến ngày con gái mình phải về nhà người ta rồi mà kho thu mua Paramonovsky lại dìm giá lúa mì quá hạ, thành thử cũng đành tặc lưỡi: “Ông Sergey Platonovich, ông cho tôi mua chịu vậy!”). Nhưng thiếu gì những chuyện khác nữa… Nhà máy xay có chín công nhân, cửa hiệu thuê bảy người, thêm kẻ hầu người hạ trong nhà bốn người nữa, hai chục miệng ăn ấy đều trông mong vào sự ban ơn của lão lái buôn. Mụ vợ trước để lại cho lão hai đứa con: đứa con gái tên là Lida và thằng con trai tên là Vladimir, kém chị nó hai tuổi, bị bệnh tràng nhạc, người héo hon phờ phạc. Anna Ivanovna, người vợ kế mũi hỉn, khô quắt, chẳng đẻ đái gì cả. Tâm trạng một người đàn bà mãi không có đứa con nào để có chỗ dốc hết lòng yêu thương của mình, cùng cái tính cáu kỉnh bực bội mà mụ tích luỹ đã lâu năm (sắp ba mươi tư tuổi mụ mới về làm vợ Sergey Platonovich), tất cả những cái ấy hai đứa con chồng đã phải chịu đựng hết. Tính tình nóng nảy của mẹ kế đã ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục hai đứa trẻ. Còn người bố thì quan tâm đến con cũng chẳng hơn gì mức lão để ý tới anh coi ngựa Nikita hay chị nấu bếp.
Công việc làm ăn và các chuyến đi nơi này nơi nọ đã choán hết thời gian nhàn rỗi của lão: khi thì Moskva, khi thì Nhitnhi, khi thì Uriupinskaia, khi thì chợ phiên ở các trấn. Thế là hai đứa trẻ cứ lớn lên chẳng có ai chăm nom dạy dỗ. Mụ Anna Ivanovna vốn thờ ơ ghẻ lạnh, nên cũng chẳng tìm cách đi sâu vào những điều thầm kín trong tâm hồn con trẻ, hơn nữa công việc trong nhà lại bề bộn, nên mụ càng không có tâm trí nào làm việc ấy. Vì thế hai chị em Lida chẳng giống nhau chút nào cả, tính tình mỗi đứa một khác, chẳng có vẻ gì là cùng một bố mẹ sinh ra. Vladimir càng lớn lên càng cô độc, ủ rũ, mắt nhìn quằm quặm, vẻ mặt nghiêm nghị như ông cụ non, Lida thì luôn luôn lởn vởn chỗ bọn hầu phòng, nấu bếp, mấy ả phóng đãng, nếm đủ mùi đời, vì thế đã sớm để ý tới mặt trái của cuộc sống. Mấy ả đàn bà ấy đã gây cho Lida một tính tò mò không lành mạnh, ngay từ khi nó còn là một cô bé rụt rè và ngượng nghịu. Thế là Lida đã lớn lên tự do, chẳng bị ai ngăn giữ, cứ như một bụi sao hoa mọc hoang trong rừng.
Năm tháng thủng thẳng trôi qua.
Như bao giờ cũng vậy, người già thì ngày càng già, con con trẻ thì cứ lớn lên mơn mởn như cỏ xanh.
Rồi một hôm trong khi uống trà buổi tối, Sergey Platonovich đã vô cùng ngạc nhiên khi lão để ý nhìn con gái lão. (Hồi ấy, Lida đã tốt nghiệp trung học, và đã kịp trở thành một cô gái khá xinh). Lão nhìn con, cái tách đựng nước trà màu hổ phách cứ nảy bần bật trong tay: “Sao nó giống mồ ma mẹ nó thế. Lạy Chúa tôi, giống như lột ấy!”.
- Lida, nào, quay lại cho bố ngắm cái!
Lão đâu có biết rằng ngay từ nhỏ, con gái lão đã giống mẹ nó như đúc.
Vladimir Mokhov là một học sinh lớp năm, gầy gò, có khuôn mặt vàng ệch của một đứa bé bệnh hoạn. Nó đang đi trong sân nhà máy xay. Nó mới cùng chị nó về đây nghỉ hè chưa được mấy ngày.
Cũng như mọi lần, Vladimir vừa về nhà là tới thăm ngay nhà máy xay để nhìn ngang nhìn dọc, láng cháng giữa những người bê bết bột mì, nghe tiếng những cái trục cán, những bánh răng quay ầm ầm đều đặn, những cu-roa chạy loạt xoạt. Nó phổng mũi trước những lời xì xào cung kính của mấy người Cô-dắc đến làm phu khuân vác:
- Cậu chủ, sẽ hưởng thừa tự của ông chủ đấy…
Nó đi rón rén, tránh những đống phân bò và những cái xe tải để rải rác khắp sân. Vladimir đã ra tới cửa hàng rào mới nhớ rằng nó còn chưa xem phòng máy. Nó bèn quay trở lại.
Gần một cái phuy đỏ đựng dầu hoả đặt cạnh cửa phòng máy, ba người đang xắn quần móng lợn lên đến đầu gối, nhào một bãi đất sét tròn rất to: anh thợ máy cán Timofey, anh thợ cân biệt hiệu là “Bồi” (Một cây trong bộ bài tây, còn gọi là “Trếch”) và anh phụ thợ cán Davydka, một anh chàng còn trẻ có hàm răng trắng lóa.
- A-a-a, cậu chủ? – “Bồi” chào Vladimir bằng giọng chế nhạo.
- Chào các anh.
- Chào cậu cậu Vladimir Sergeevich!
- Các anh làm gì đấy?
- Nhào bùn chứ còn làm gì nữa. - Davydka cười nhạt bực bội cố rút chân ra khỏi chất bùn đặc sệt nhớp nháp, sặc mùi phân bò - Ông cụ nhà cậu tiếc một đồng rúp, không chịu thuê vài mụ đàn bà, lại bắt chúng tôi phải làm. Thật là thần giữ của! - Davydka nói thêm, hai chân vẫn dẫm ộp oạp.
Vladimir đỏ mặt. Nó cảm thấy ghét cay ghét đắng cái gã Davydka lúc nào cũng nhăn nhăn nhở nhở, ghét cái giọng khinh bạc, ghét cả hai hàm răng trắng nhởn của gã.
- Sao lại thần giữ của?
- Còn gì nữa? Hà tiện vắt cổ chày ra nước. Ỉa ra rồi lại ăn vào được, - Davydka giải thích gọn lỏn rồi lại mỉm cười.
“Bồi” và Timofey cũng cười đồng tình. Vladimir cảm thấy bị xúc phạm đau nhói như kim châm. Nó nhìn Davydka bằng cặp mắt lạnh như tiền.
- Sao vậy, như thế là anh không vừa ý có phải không?
- Cậu đứng vào đây, nhào một lát rồi sẽ biết. Có thằng ngu xuẩn nào mà lại vừa ý được? Phải đưa ông cụ nhà cậu tới đây, lắc cho cái bụng của ông ấy nhỏ bớt đi mới được!
Davydka nặng nề đi vòng tròn, người lắc lư, chân nhấc lên rất cao. Lúc nầy nụ cười của anh ta đã vui vẻ và chẳng còn chút gì ác ý nữa.
Vladimir khoan khoái cảm thấy trước sự thích thú sau khi tìm ra câu trả lời cần thiết. Nó đảo đi đảo lại các ý nảy ra trong óc và cuối cùng đã lựa chọn xong.
- Được - Nó nói tách bạch từng tiếng, - Tôi sẽ nói lại với cha tôi rằng các anh bất mãn với công việc.
Nó liếc nhìn vào mặt Davydka và, bất giác kinh ngạc trước tác động của lời mình vừa nói: Davydka dành môi ra cười gượng gạo nom đến là thảm hại, còn mặt hai người kia thì nhăn như bị. Cả ba lầm lì nhào đống đất sét nhão trong một lát, chẳng ai nói gì thêm.
Cuối cùng Davydka không dán mắt xuống hai bàn chân nhớp nhúa của mình nữa, anh ta ngước nhìn lên và nói bằng một giọng van lơn, nhưng đầy vẻ bực bội.
- Tôi chỉ nói đùa một câu thôi mà, cậu Vladimir ạ… Thật đấy, chỉ nói cho vui thôi…
- Tôi sẽ thưa lại với cha tôi những lời anh vừa nói.
Vladimir cảm thấy nước mắt nó trào ra vì nhục cho mình, cho bố, cho cả cái mỉm cười thảm hại của Davydka. Nó bước khỏi chỗ cái phuy dầu.
- Cậu Vladimir! Cậu Vladimir Sergeevich! - Davydka hốt hoảng kêu lên rồi nhảy ra khỏi đống bùn, làm cho ống quần tụt cả xuống hai cẳng chân lấm bê bết đến đầu gối.
Vladimir đứng lại. Davydka hổn hển chạy tới trước mặt nó.
- Cậu đừng nói với ông chủ nhé. Tôi chỉ nói đùa thôi mà… Tôi ngu xuẩn quá, xin cậu thứ lỗi cho tôi… Thật đấy, tôi chẳng có ý bậy bạ gì đâu? Chỉ nói đùa thôi mà…
- Thôi được Tôi sẽ không nói nữa! - Vladimir cau mày quát lên rồi đi về phía cửa hàng rào.
Thế là ý nghĩ thương hại Davydka đã chiếm phần thắng. Vladimir đi bên dãy hàng rào sơn trắng, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Từ trong căn lò rèn dựng ở góc sân nhà máy xay vang ra những tiếng búa đập rộn rã: một nhát trên sắt, trầm và chắc hai nhát trên cái đe dội tiếng, kèm theo tiếng búa nảy.
- Cậu dây vào nó làm gì hử? - Vladimir đi đã khá xa còn nghe thấy cái giọng trầm cố nén thấp của “Bồi”. - Không dây vào thì việc gì phải ngửi thối.
“Thằng chó chết nầy, nó lại dám cắn càn, - Vladimir tức sôi lên, nghĩ thầm. - Mình sẽ nói hay không nói bây giờ”.
Nó ngoái cổ lại, thấy Davydka vẫn nhe hai hàm răng trắng nhởn ra cười như mọi khi, bèn quyết định: “Mình sẽ nói!”.
Trên cái bãi bên cạnh cửa hiệu có chiếc xe tải thắng một con ngựa, con ngựa bị buộc vào một cái cột. Một bầy trẻ đang đuổi đàn chim sẻ lông xám xám ríu rít trên mái nhà kho để các đồ chữa cháy.
Từ trên sân thượng vẳng xuống cái giọng nam trung sang sảng của gã sinh viên Boiarykin. Ngoài ra còn có một giọng rè rè, khàn khàn, không biết của ai.
Vladimir bước lên thềm nhà. Giàn nho dại đung đưa rung rinh trên đầu nó, những đám cành lá xum xuê đan vào nhau trên thềm và trên sân thượng, rủ lủng lẳng từ những hình chạm xanh trên đường gờ của hàng hiên, nom như những cái mũ lồm xồm màu xanh da trời.
Boiarykin lắc lắc cái đầu cạo nhẵn thín, xám ngoét, nói với gã giáo viên Balanda ngồi bên cạnh hắn, gã nầy còn trẻ mà đã râu ria xồm xoàm:
- Tôi vốn là con một gia đình nông dân Cô-dắc do đó đã có sẵn một lòng căm ghét hoàn toàn tự nhiên đối với tất cả các giai cấp được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng trong khi đọc cuốn sách của ông ta, thì ông thử tưởng tượng xem, tôi đã thương hại một cách lạ lùng các tầng lớp đang chết dần chết mòn nầy. Bản thân tôi đã hầu như biến thành một anh chàng quý tốc và địa chủ, tôi hân hoan đi sâu nghiên cứu lý tưởng của người phụ nữ thuộc tầng lớp ấy, tôi ủng hộ các quyền lợi của họ. Tóm lại là chẳng làm thế quái nào hiểu được nữa! Đấy, ông bạn thân mến ạ, thiên tài là như thế đấy! Ngay đến niềm tin cũng có thể thay đổi được.
Balanda mân mê cái ngù của chiếc dây lưng lụa, chỉ mỉm một nụ cười nhạo báng, mắt gã cứ đăm đăm nhìn những đường hoa đỏ thêu bằng sợi len dưới gấu áo sơ-mi của gã. Linda ngả người nằm thuồn thuỗn trên chiếc ghế bành. Xem ra cô nàng không cảm thấy chút hứng thú gì đối với câu chuyện giữa hai gã. Vẫn với cặp mắt lúc nào cũng như đang mất một vật gì, đang tìm kiếm một vật gì, Lida chán ngán nhìn cái đầu xám ngoét, sẹo ngang sẹo dọc của Boiarykin.
Vladimir cúi chào, bước qua, rồi tới gõ cửa phòng làm việc của bố. Sergey Platonovich đang ngồi trên chiếc ghế bành bọc da dùng khi hóng mát, giở xem tập “Của cải của nước Nga” (Tạp chí xuất bản Peterburg từ khoảng 1890 rồi trở thành cơ quan của đảng Dân tuý, phản đối chủ nghĩa Mác) số tháng sáu. Một con dao bằng xương vàng khè bị rơi nằm trên sàn.
- Con có việc gì đấy?
Vladimir rụt cổ, xốc lại một cách bực bội cái áo sơ-mi đang mặc.
- Con vừa ở nhà máy xay về… - Nó bắt đầu nói, giọng hơi ngần ngại, nhưng chợt nhớ tới nụ cười nhạo báng với hàm răng trắng nhởn của Davydka, bèn vừa nhìn cái bụng căng tròn của bố dưới chiếc ghi-lê bằng tusso, vừa kiên quyết nói tiếp - Con nghe thấy thằng Davydka nói rằng…
Sergey Platonovich chăm chú nghe rồi nói:
- Ta sẽ đuổi cổ nó. Thôi con ra ngoài đi. - Rồi lão è è trong họng, cúi xuống nhặt con dao.
Tối tối, giới trí thức trong thôn thường tụ tập ở nhà Sergey Platonovich: Boiarykin, một sinh viên trường Đại học kỹ thuật Moskva; gã giáo viên ho lao Balanda, một anh chàng gầy nhom, luôn luôn bị cái thói tự ái làm tình làm tội, ả nhân tình cùng ở với gã là nữ giáo viên Marfa Gerasimovna, người tròn xoay, tuổi không còn ít nữa nhưng chẳng có vẻ gì là già, cái váy lót bao giờ cũng mặc thòi ra ngoài, nom hết sức khó coi; chủ sự nhà dây thép, một thằng cha cổ quái, vợ chẳng có, con thì không, người hôi như tổ cú luôn luôn nặc mùi xi đóng dấu và mùi nước hoa rẻ tiền. Viên trung úy kỵ binh trẻ tuổi Epghênhi Litnhitki ở cái trại gần đây với bố là một địa chủ quý tộc, năm thì mười họa cũng có tạt vào chơi.
Chiều chiều họ lên sân thượng uống trà và kéo dài những câu chuyện vô vị. Mỗi khi cái chuỗi những lời tán gẫu thẫn thờ đứt quãng, một người nào đó trong đám khách khứa lại ra lên dây cót cái máy hát đắt tiền nạm đá quý của chủ nhà.
Họa hoằn lắm, nhân những ngày lễ lớn, Sergey Platonovich cũng muốn làm ra vẻ một chút để che mắt thế gian: lão mời khách đến ăn, cho họ uống những thứ rượu quý, cho ăn trứng cá chiên tươi đặc biệt đặt mua trong dịp này ở Bataisk cùng những đồ nhắm ngon nhất.
Ngày thường thì lão sống rất bủn xỉn. Chỉ có một thứ duy nhất mà Sergey Platonovich không tiếc đối với lão là sách. Lão thích đọc sách và điều gì lão cũng muốn tìm hiểu bằng bộ óc bám dai như cỏ dại của lão.
Người chung vốn buôn bán với Sergey Platonovich là Emelian Konstatinovich Atepin, một người tóc vàng, có chòm râu nhọn hoắt và cặp mắt lươn ti hí. Ít khi Atepin đến nhà Mokhov. Hắn lấy một mụ nữ tu đã bỏ nhà tu kín Ust-Medvedisk. Hai vợ chồng ăn ở với nhau mười lăm năm trời, đẻ được tám đứa con. Phần nhiều hắn chỉ ru rú xó nhà. Atepin đã từ một tên thư ký trung đoàn leo lên một địa vị nào đó trong xã hội, vì thế hắn đã đem về gia đình cả một lối sống mốc meo, khúm núm, xu nịnh. Có mặt bố, những đứa con chỉ dám đi rón rén, nói thầm thì. Sáng sáng, lau rửa xong, chúng nó lại vào đứng xếp hàng trong phòng ăn, bên dưới chiếc đồng hồ treo tường đen sì, to lù lù như một cái quan tài. Người mẹ đứng sau đàn con. Từ trong phòng ngủ vừa vẳng ra tiếng húng hắng ho là tất cả đều bắt đầu lao nhao nguyện kinh bằng đủ mọi giọng, nhưng giọng nào cũng giả dối: “Lạy Chúa, cầu Chúa cứu vớt con chiên của Chúa…”, rồi “Lạy cha”.
Vợ con Atepin vừa nguyện kinh xong thì hắn cũng vừa kịp mặc xong quần áo. Hắn nheo cặp mắt lá răm bước ra phòng ăn, rồi giơ bàn tay mũm mĩm không đeo găng, làm cứ như một ông tổng giám mục. Bầy trẻ lần lượt tới hôn tay bố. Atepin hôn qua má vợ, rồi nói với âm “tr” phát âm rất sai.
- Bà Polotka, đã pha “chà” chưa?
- Tôi pha rồi đấy, ông Emelian Konstatinovich ạ.
- Cho đặc đặc vào nhé!
Hắn giữ sổ sách kế toán của cửa hiệu. Dưới những chữ “Thu” và “Chi” viết đậm nét, trong sổ nào cũng đầy những chữ và con số viết rất bay bướm, những chữ và con số của một viên thư ký. Lão đọc tờ “Tin tức thị trường”, mắt chẳng sao mà cũng kẹp vào cái mũi sần sùi một cặp kính không gọng. Đối với người làm hắn nói năng rất lịch sự
- Bác Ivan Petrovich, bác để giúp cho cái ông người Tavria (Tavria xưa nay là Krym) này ít vải chúc bâu nhé.
Vợ hắn gọi hắn là ông Emelian Konstatinovich, các con hắn gọi hắn là cha yêu, còn người làm trong cửa hiệu thì gọi hắn là Chacha (Biệt hiệu nầy chế giễu cái tật của Atepin nói trệch âm “tr” thành âm “ch”)
Hai lão cố đạo là cha Visarion và trưởng giáo Pankrati thì có thù cũ nên không đi lại chơi bời với Sergey Platonovich. Nhưng trong cuộc sống hai người cũng chẳng ăn ý gì với nhau. Cha Pankrati vốn tính ngang ngạnh, hay thưa kiện và hay xúi nguyên giục bị, chia rẽ những người sống gần mình. Cha Visarion tính tình lại hồ hởi nên không thích và lảng tránh trưởng giáo vì lão thấy trưởng giáo quá kiêu ngạo và chỉ hay kiếm chuyện. Cha Visarion góa vợ, sống với một mụ quản gia người Ukraina. Lão bị giang mai nên nói cứ ồm ồm giọng mũi.
Trừ gã giáo viên Balanda, tất cả mọi người đều có nhà riêng trong thôn. Ngay trên bãi, ngôi nhà to lù lù sơn xanh da trời của Mokhov đứng vênh vang với cái mái tôn bóng nhoáng. Trước mặt, ngay giữa bãi, cửa hiệu của lão nằm dài ngang ngạnh với cái cửa thông suốt và tấm biển treo đã bạc màu: “HÃNG BUÔN MOKHOV S.P VÀ ATEPIN E.C”
Sát cạnh cửa hiệu là dãy nhà kho có hầm vừa dài vừa thấp. Cách đó chừng hai mươi xa-gien là bức tường bao bằng gạch ôm quanh nhà thờ như một cái nhẫn, cùng ngôi nhà thờ có cái mái hình cầu nom chẳng khác gì một củ hành khổng lồ màu xanh lá cây đã quá già.
Bên kia nhà thờ là ngôi nhà trường quét vôi trắng, trang nghiêm với cái dáng của một công thự. Ngoài ra còn có hai ngôi nhà đẹp: ngôi nhà màu xanh da trời có dãy hàng rào sơn cùng màu của cha Pankrati, còn ngôi nhà màu nâu (cho khỏi giống) có dãy tường bao chạm trổi và một cái ban-công rất rộng là của cha Visarion. Ngôi nhà nhỏ của Atepin, xây hai tầng, cầu kỳ nhưng dơ dáng, nằm từ góc phố này đến góc phố kia. Sau ngôi nhà này là nhà bưu điện, những cái mái rơm hay mái tôn trên những căn nhà của bà con Cô-dắc, cái lưng xuôi xuôi của nhà máy xay với những con gà trống bằng sắt tây gỉ trên mái.
Mọi người sống tự cách biệt với toàn thế giới bên ngoài, cửa ngoài cửa trong đều cài then đóng kín. Tối tối, nếu không đi thăm ai, người ta lại chốt cửa, thả những con chó xích, và trong cái thôn chết lặng chỉ còn nghe thấy tiếng mõ cầm canh của tuần phiên.

2


Đến cuối tháng tám, Mitka Korsunov lại ngẫu nhiên được gặp Lida, con gái lão Mokhov bên bờ sông Đông. Nó vừa ở bên kia sông về còn đang cho thuyền tiến vào sát một gốc cây cụt thì thấy một chiếc thuyền nhỏ sơn màu nhẹ nhàng rẽ nước lướt tới. Con thuyền bơi từ đằng chân núi về phía bến đò. Gã sinh viên Boiarykin cầm chèo. Mồ hôi lóng lánh trên cái đầu trần của gã, những đường gân xanh nổi lên cả trên trán lẫn hai bên thái dương.
Mitka đã không nhận ra ngay Lida. Chiếc mũ rơm in một cái bóng xanh xanh xám xám xuống tới mắt Lida. Hai bàn tay rám nắng của Lida áp vào ngực một bó hoa súng vàng vàng.
- Anh Korsunov! - Lida nhìn thấy Mitka, bèn khẽ gật đầu. - Anh đã nói dối tôi phải không?
- Có gì mà nói dối?
- Anh có nhớ không, anh đã hứa đi câu với tôi cơ mà?
Boiarykin quẳng mái chèo xuống, rướn thẳng lưng. Con thuyền lao bừa vào bờ, mũi thuyền siết ràn rạt vào lớp đá phấn ven bờ và húc mũi lên đất.
- Anh nhớ ra chưa nào? - Lida mỉm cười nhảy ra khỏi thuyền.
- Chẳng còn lúc nào mà đi được nữa. Công việc bận quá, - Mitka vừa chống chế, vừa nhìn cô gái đi về phía mình. Nó cảm thấy nghẹt thở.
- Không? Không thể thế này được! Cô Elizaveta Sergeyeevna ạ, tôi xin kiếu thôi. Nầy chèo, nầy lái, trả lại cô đây, tôi không làm đầy tớ cho cô nữa đâu! Cô thử nghĩ mà xem, người ta đã phải vượt một chặng dài như thế nào trên cái dòng nước đáng nguyền rủa nầy rồi. Chèo đến thành chai, đến bật máu tay tôi ra rồi còn gì. Chốc chốc lại một anh chàng!
Boiarykin giậm rắn rỏi hai bàn chân không trên lớp đá phấn vụn nhọn như gai, rồi đưa cái đỉnh mũ sinh viên nhăn nhúm lên lau trán.
Lida chẳng buồn trả lời gã, cứ đi thẳng tới gần Mitka. Mitka nắm một cách vụng về bàn tay Lida chìa ra.
- Thế bao giờ chúng ta đi câu cá nào? - Lida ngửa đầu ra, dim mắt hỏi.
- Ngày mai cũng được. Lúa đã đập xong, bây giờ đi được rồi.
- Anh lại đánh lừa tôi phải không?
- Không, không đâu!
- Anh đến sớm chứ?
- Trước lúc trời rạng.
- Tôi sẽ chờ đây.
- Tôi sẽ đến, thật đấy, thế nào tôi cũng đến!
- Anh chưa quên phải gõ vào cửa sổ nào chứ!
- Tôi sẽ tìm ra, - Mitka mỉm cười.
- Có lẽ không bao lâu nữa tôi không còn ở đây nữa. Tôi cũng muốn thử đi câu một cái.
Mitka lặng thinh quay quay chiếc chìa khóa thuyền han rỉ và cứ nhìn trân trân cặp môi của Lida.
- Chuyện sắp xong chưa nào? - Boiarykin vừa hỏi vừa xem một cái vỏ trai lằn vằn trong tay gã.
- Chúng mình đi ngay bây giờ đây.
Lida nín lặng một lát, rồi không hiểu sao tự nhiên mỉm cười và hỏi:
- Nhà anh vừa có đám cưới ai thì phải?
- Em gái tôi vừa lấy chồng.
- Lấy ai thế? - Hỏi xong, chưa chờ Mitka trả lời, Lida đã mỉm một nụ cười ỡm ờ, khó hiểu. - Thế nào anh cũng đến nhé!
Cũng như hôm ấy, trong lần đầu tiên, trên sân thượng của nhà Mokhov, nụ cười của Linda lại làm cho Mitka ngứa ngáy như xát phải lá han.
Mitka đưa mắt tiễn cô gái ra tới thuyền. Boiarykin dạng chân đẩy thuyền ra. Lida nhìn qua đầu Boiarykin, mỉm cười gật đầu chào Mitka. Lúc nầy anh chàng vẫn nghịch nghịch chiếc chìa khóa.
Ra khỏi bờ chừng năm xa-gien, Boiarykin khẽ hỏi:
- Thằng cha nào thế?
- Người quen.
- Bạn lòng phải không?
Mitka cố nghe thấy hai người nói chuyện với nhau, nhưng đến câu trả lời của Lida thì tiếng chốt mái chèo rít đã làm cho nó không nghe rõ. Nó chỉ thấy Boiarykin gò người đẩy mái chèo rồi ngả ra sau phá lên cười. Lida ngồi quay lưng lại nên Mitka không nhìn thấy mặt Lida ra sao. Một cái dải mũ màu tím ngát thõng xuống, gió thổi rất nhẹ làm cái dải rung rung khẽ đập vào bên vai xuôi xuôi để trần. Mắt Mitka mờ đi, nhưng cái dải tím vẫn cứ như chọc vào mắt nó.
Mitka rất ít khi đi câu nên chưa bao giờ người ta thấy nó sửa soạn sốt sắng như chiều hôm ấy. Nó bẻ vài miếng phân khô rồi ra vườn rau nấu ít cháo đặc bằng lúa mạch. Dây câu đã ẩm mục, nó thay ngay.
Mikhey đứng xem Mitka sửa soạn. Hắn hỏi:
- Cậu Mitka cho tôi đi với. Một mình không câu được đâu.
- Một mình vẫn câu được.
Mikhey thở dài:
- Lâu lắm cậu cháu mình chưa đi câu với nhau. Chưa biết chừng lần này có thể câu được con cá chép đến nửa pút đấy. (Một pút bằng 16,38kg)
Cháo trong chiếc nồi gang bốc lên thành một cột hơi nóng hổi, làm Mitka nhăn mặt. Nó chẳng nói chẳng rằng, sửa soạn xong vào nhà trong.
Cụ Grisaka đang ngồi bên cửa sổ đọc sách Phúc âm (Một trong hai phần của Kinh thánh, ghi những lời nói và việc làm của Giêsu), một cái kính gọng đồng mắt tròn chồm chỗm trên mũi cụ.
- Ông ơi! - Mitka tựa vai vào cái đà ngang trên cửa sổ gọi.
Cụ Grisaka nhìn ngước lên qua phía trên mắt kính.
- Cái gì hử?
- Sáng mai gà gáy xong đợt đầu thì ông gọi cháu nhé.
- Mới bảnh mắt như vậy mày đã định đi đâu hử?
- Cháu đi câu!
Ông cụ thích ăn cá lắm nhưng vẫn vờ như không bằng lòng:
- Bố mày bảo ngày mai còn phải đập đay cơ mà. Không chơi bời nghịch ngợm gì cả? Hừ, kiếm được một buổi đi câu!
Mitka có ngay mẹo đối phó. Nó rời vai khỏi mi cửa:
- Cháu đi hay không thì cũng thế thôi. Chỉ muốn có con cá để ông xơi. Nhưng nếu phải đập đay thì cháu chẳng đi nữa vậy.
- Hượm cái đã. Mày định đi đâu bây giờ hử? - Cụ Grisaka hoảng lên, vội bỏ kính xuống. - Tao sẽ bảo với thằng Miron, mày cứ đi cũng được. Nấu món cá ám, chén cái cũng thú, ngày mai lại vừa đúng là thứ tư (Ngày kiêng ăn thịt). Thôi được, tao sẽ gọi mày dậy. Đi đi, đi đi, đồ ngu xuẩn! Làm gì mà nhăn nhăn nhở nhở như thế hử?
Mới nửa đêm cụ Grisaka đã mò mẫm lần xuống những bậc thềm. Một tay cụ xốc cái quần bằng vải thô, còn tay kia chống nạng dò đường. Cụ qua sân ra nhà thóc, chập chờn như một bóng ma run rẩy. Mitka đang ngáy o o trên một tấm chăn đắp chân trên xe. Cụ lấy nạng chọc nó. Trong nhà thóc nặc mùi lúa mới đập, mùi cứt chuột và mùi mạng nhện lưu cữu, chua chua, của những nơi không có người ở.
Mitka nằm trên chăn, bên cạnh vựa thóc. Đánh thức được thằng này đâu phải chuyện chóng vánh. Đầu tiên cụ Grisaka còn khẽ lấy nạng chọc nó, gọi nhỏ:
- Nào thằng Mitka của ông! Mitka! Nầy, cái thằng chết tiệt, Mitka!
Mitka co chân, ngáy càng dữ hơn. Ông cụ bực mình lấy cái đầu nạng tròn ngoáy trên bụng nó, rồi ngoáy xuống như một mũi khoan.
Mitka ối chà một tiếng nắm lấy đầu nạng, tỉnh dậy:
- Ngủ gì mà mê mệt? Ngủ thế nầy không sợ có ngày tai họa à! - Ông cụ chửi.
- Khẽ chứ nào, khẽ chứ nào, ông đừng làm rầm lên nữa, - Mitka vừa khẽ nói, giọng còn ngái ngủ, vừa sờ soạng dưới đất tìm đôi ủng.
Mitka ra tới bãi. Gà trong thôn đã gáy đợt hai. Nó đi dọc theo dãy phố, qua nhà cha Visarion thì nghe thấy trong chuồng gà, con gà trống đã vỗ cánh phành phạch, cất tiếng gáy ồm ồm như giọng của một lão đại tư tế. Những con gà mái cũng hoảng sợ khẽ cục cục rộn cả lên.
Gã tuần phiên đang rúc mũi vào cái cổ áo lông cừu ấm áp, ngủ gà ngủ gật ngay trên bậc thềm thấp nhất của cửa hiệu. Mitka đi tới bên hàng rào nhà Mokhov, đặt cần câu và cái túi đựng các đồ đi câu khác xuống đất, rồi cố rón chân cho mấy con chó khỏi nghe thấy, bước lên thềm. Nó đặt tay lên quả đấm cửa lạnh ngắt, thấy cửa đã đóng chặt, bèn leo qua lan can, tới bên cửa sổ. Hai cánh cửa sổ nửa khép nửa mở. Qua khe cửa đen ngòm thoảng cái mùi ngầy ngậy toát ra từ tấm thân ấm ấm của một cô gái đang ngủ và một mùi nước hoa ngọt ngọt là lạ.
- Cô Elizaveta Sergeyeevna!
Mitka có cảm tưởng như nó gọi to lắm. Nó chờ một lát. Vẫn lặng như tờ. “Sao thế nhỉ, sao lại nhầm cửa sổ được nhỉ? Nếu chính lão chủ hiệu nằm ở đây thì sao? Thế thì bỏ mẹ… Lão sẽ cho mình ăn đạn mất”. - Mitka ấn vào quả đấm trên cánh cửa sổ!
- Cô Elizaveta Sergeyeevna, dậy đi câu đi. - Và nghĩ thầm - “Nhầm cửa sổ thì tha hồ mà câu!”.
- Có dậy đi không nào? - Mitka tức giận nói rồị ngó cổ vào trong phòng.
- Gì thế? Ai đấy? - Trong bóng tối có tiếng người hoảng hốt khẽ trả lời.
- Cô có đi câu cá không? Tôi đây, Korsunov đây.
- Á-à-à tôi dậy ngay đây.
Trong phòng bắt đầu có tiếng loạt soạt: Giọng Lida ngái ngủ, ấm áp hình như thoáng có mùi bạc hà. Mitka nhìn thấy một cái gì trắng trắng loạt soạt đi lại trong phòng.
“Chà vào nằm với nó nốt buổi sáng thì khoái nhỉ… Câu với kiếc làm cái gì… Ra ngồi ngoài ấy, cóng bỏ mẹ…”. Mitka hít hít cái hơi trong căn phòng ngủ, trong óc thoáng những ý nghĩ không rõ rệt.
Trong khung cửa sổ thấy hiện ra một khuôn mặt tươi cười, đầu bịt một khăn choàng trắng.
- Tôi ra qua cửa sổ, anh đỡ tôi một tay.
- Cô cứ trèo qua đi. - Mitka đỡ Lida.
Lida tỳ vào tay Mitka và nhìn sát vào mắt Mitka.
- Anh xem tôi có nhanh không nào?
- Không sao cả. Còn kịp chán.
Hai người đi ra sông Đông. Lida đưa bàn tay hồng hồng lên dụi cặp mắt mòng mọng và nói:
- Tôi ngủ say quá. Đáng lẽ phải ngủ thêm một lát mới phải. Chúng ta đi sớm quá đấy.
- Đi thế này là vừa đấy.
Hai người xuống sông Đông theo cái ngõ đầu tiên trên bãi. Ban đêm không biết có nước từ đầu dồn về mà con thuyền hôm qua buộc vào gốc cây khô, hôm nay đã tròng trành, chung quanh toàn là nước.
- Phải cởi giày ra thôi, - Lida đưa mắt ước lượng khoảng phải lội ra tới con thuyền và thở dài.
- Hay tôi bế cô ra nhé? - Mitka đề nghị.
- Như vậy không tiện đâu… Để tôi cởi giầy thì hơn.
- Như thế tiện hơn chứ.
- Không nên đâu - Lida ngập ngừng, đỏ mặt.
Mitka đưa luôn tay trái ra ôm lấy hai chân Lida phía trên đầu gối, nhẹ nhàng bế bổng Lida lên, rồi lội xuống nước, bì bõm đi ra con thuyền. Lida miễn cưỡng ôm lấy cái cổ rám nắng, chắc nịch của Mitka, khẽ cười khúc khích.
Bờ sông có tảng đá trên đó những người đàn bà trong thôn thường dùng chày đập quần áo giặt. Nếu Mitka không vấp phải tảng đá ấy thì đã chẳng có cái hôn chớp nhoáng bất ngờ nầy. Lida ối chà một tiếng, áp chặt vào cặp môi khô nẻ của Mitka. Lúc ấy Mitka đang đứng cách mạn thuyền sơn xám có hai bước. Nước tràn vào trong ủng, hai chân lạnh cóng.
Mitka tháo dây buộc thuyền, ra sức đẩy con thuyền rời khỏi gốc cây cụt rồi nhảy lên trong lúc con thuyền đang trôi ra. Nó chèo đứng bằng một mái chèo ngắn. Nước sau đuôi thuyền lọc ọc như nức nờ. Mũi thuyền hơi ngổng lên, nhẹ nhàng rẽ làn nước, hướng về phía bờ bên kia. Cái cần câu nảy bần bật, kêu lạch xạch.
- Anh định cho thuyền đến đâu? - Lida ngoái nhìn lại rồi hỏi.
- Sang bờ bên kia.
Con thuyền đến đậu ở một khoảng bờ cát dốc. Mitka chẳng nói chẳng rằng, bế thốc luôn Lida vào một bụi sơn trà ven sông. Lida cắn vào mặt Mitka, cào cấu nó, hai lần nghẹn ngào kêu lên, nhưng rồi cảm thấy chân tay mình rã rời, đành bực tức khóc òa lên, nhưng chẳng có giọt nước mắt nào…
Hai người trở về lúc khoảng chín giờ. Một làn sương vàng hồng hồng phủ khắp trời. Gió như khiêu vũ trên sông Đông, làm mặt nước sờm cả lên. Con thuyền chồm qua những làn sóng cuộn ngang trước mặt. Những dòng nước giá lạnh chảy xối lên từ dưới đáy sông bắn tóe vào khuôn mặt nhợt nhạt của Lida, rồi chảy ròng ròng xuống, đọng lại trên hai hàng mi, trên những món tóc tuột ra ngoài chiếc khăn bịt đầu.
Lida mệt mỏi nheo nheo cặp mắt trống rỗng, mấy ngón tay khẽ bẻ cuống một đóa hoa mang theo lên thuyền. Mitka không nhìn Lida, cứ cắm cúi chèo, một con cá chép nhỏ và một con cá diếc nằm sóng soài dưới chân nó. Trong lúc giãy chết, miệng hai con cá đờ ra, những con mắt lồi ra trong vành mắt vàng da cam. Trên mặt Mitka thoáng một vẻ ngượng ngùng của kẻ có tội, niềm thoả mãn trong lòng nó xen lẫn một nỗi lo lắng…
- Tôi đưa Lida về bến Semenovaya nhé. Từ đấy về nhà Lida gần hơn. - Mitka vừa nói vừa quay thuyền cho trôi theo dòng.
- Cũng được, - Lida khẽ nhận lời.
Trên bờ sông không một bóng người. Những dãy hàng rào quanh các vườn rau ven sông đầy bột cá phấn, nom khô héo tiều tụy dưới những làn gió nung nấu, và cứ làm không khí nồng nặc cái mùi củi cháy. Những đóa hướng dương chín rũ, bị chim sẻ mổ nham nhở, nặng nề trĩu đầu xuống đất, để rơi những hạt long ra. Bãi cỏ hoang ven sông hiện ra xanh ngắt như ngọc bích với lớp chồi mới nhú sau lần cắt cỏ vừa qua. Xa xa mấy con ngựa non nô rỡn, làn gió nồm nam đưa tới bờ sông tiếng nhạc buộc trên cổ ngựa rền lanh lảnh như tiếng cười.
Lida bước trên thuyền xuống, Mitka đưa cho Lida một con cá:
- Cá câu được Lida cầm lấy này. Nào?
Lida sợ hãi chớp chớp hai hàng mi, nhưng cũng nhận.
- Thôi, tôi về đây.
- Lida về nhé…
Lida ra về, một lòng bàn tay quay ra ngoài xách con cá xâu bằng một nhành liễu nhỏ, nom thật thảm hại. Cái vẻ tự tin và vui cười mới đây đã bỏ lại cả trong bụi sơn trà rồi.
- Lida?
Lida quay lại, trong cặp lông mày gãy khúc có thể thấy cả một tâm trạng vừa tức giận vừa ngạc nhiên.
- Lại đây cái đã.
Khi Lida đã bước tới gần hơn, Mitka vừa nói vừa bực mình vì bối rối:
- Lúc nãy chúng mình không chú ý… ấy, đằng sau váy… có một vết nhỏ rất nhỏ thôi…
Mặt Lida đỏ bừng, đỏ lan xuống tận xương đòn gánh.
Mitka nín lặng một lát rồi khuyên:
- Đi vòng ra sau nhà về vậy.
- Nhưng dù sao vẫn phải đi qua bãi. Tôi đã định mặc một cái váy đen cơ đấy, - Lida khẽ nói, rồi buồn rầu nhìn vào mặt Mitka và bất giác cảm thấy căm ghét nó lạ.
- Để tôi lấy lá bôi xanh đi nhé? - Mitka góp ý một cách giản đơn, nhưng nó ngạc nhiên thấy nước mắt Lida trào ra.
Cái tin “Con gái Sergey Platonovich đã bị Mitka Korsunov chơi chán chê” được truyền đi khắp thôn như cơn gió xào xạc trong rừng.
Chuyện ấy được bọn đàn bà bàn ra tán vào trong ngõ lúc trời rạng, khi họ đuổi đàn bò ra đồng, dưới cái bóng dài nghêu chìm trong làn bụi xám của cái cần kéo nước giếng, khi họ đổ nước trong thùng ra, hay bên bờ sông, quanh những phiến đá tự nhiên, khi họ đập quần áo đem giặt.
- Con không có mẹ thì thế thôi.
- Lão ấy bận tối mắt tối mũi, còn con mẹ kế thì cứ lờ đi như chẳng hay biết gì cả…
- Hôm kia lão phu tuần Davydka “Tay thiếu ngón” có kể lại rằng: “Nửa đêm tôi nhìn ra thì thấy có kẻ leo lên khung cửa sổ cuối cùng. Chà, tôi cứ ngỡ có trộm vào nhà Platonovich. Tất nhiên tôi đã chạy tới. Ai thế nầy? Cảnh sát đây, lại đây mau? Té ra vớ đúng ngay cu cậu đúng cái thằng Mitka”.
- Các cô ấy bây giờ thì vẫy tay một cái là theo ngay…
- Thằng Mitka có viết thư cho thằng Mikiska nhà tôi. Nó viết: “Mình sẽ xin cưới”.
- Bảo nó vắt mũi cho sạch đã!
- Người ta nói rằng thằng ấy cưỡng dâm con bé?
- Thôi đi ông bạn đỡ đầu ơi!
Như những vết nhựa chưng đặc xịt quệt trên một cái cửa gỗ mới, những lời bàn tán truyền lan trong ngõ ngoài đường như thế đã bôi tro trát trấu lên thanh danh cô gái.
Những lời ấy đã đổ xuống cái đầu hói của Sergey Platonovich, dúi nó xuống bùn đen. Hai ngày hai đêm liền lão không dám vác mặt ra cửa hàng, cũng không tới nhà máy xay. Người đầy tớ gái ở tầng dưới chỉ trông thấy lão lúc sắp ăn trưa.
Đến ngày thứ ba người ta thắng con ngựa xám đốm hoa vào chiếc xe thi cho Sergey Platonovich lên trấn. Gặp bà con Cô-dắc trên đường, lão gật cái đầu kiêu ngạo như không cho phép người ta lại gần. Theo sau cái xe thi, một chiếc xe nhẹ kiểu Viên sơn véc-ni bóng nhoáng lạo xạo chạy trong sân ra. Anh đánh xe Emelian cầm lại cho thuận những đoạn dây cương bằng lụa màu lam. Trong miệng anh ta, cái tẩu cong đẫm nước bọt làm cháy cả chòm râu hoa râm. Cặp ngựa huyền lồng lên, bắt đầu chạy lộp cộp theo dọc phố. Sau cái lưng rất phẳng của Emelian, người ta nhìn thấy khuôn mặt nhợt nhạt của Lida. Một chiếc va-li nhẹ xách trong tay, Lida mỉm một nụ cười chẳng có gì vui vẻ, vẫy găng tay chào từ biệt Vladimir và mẹ kế.
Ông Panteley Prokofievich khập khiễng đi trong cửa hiệu ra cũng muốn biết có chuyện gì xảy ra, bèn hỏi anh đầy tớ Nikita:
- Cô tiểu thư của ông chủ đi đâu thế anh?
Nikita cũng chiếu cố cái nhược điểm đơn giản của con người là tính tò mò, bèn trả lời:
- Lên học trên Moskva, vào đại học đấy.
Ngay hôm sau đã xảy ra một chuyện mà người ta còn kể đi kể lại mãi ven sông Đông, dưới bóng những cái cần kéo nước giếng, cũng như trong cái ngõ dành cho gia súc ra đồng… Lúc trời sắp tối, (đàn bò đã được đuổi từ đồng cỏ về thôn), Mitka đến nhà Sergey Platonovich (anh chàng cố ý đến muộn để khỏi có người trông thấy), đâu phải là đến chơi suông mà là để hỏi lấy cô Elizaveta, con gái nhà người ta.
Trước hôm ấy, Mitka có gặp Lida bốn lần, chỉ bốn lần là cùng thôi. Trong lần cuối, giữa hai người đã có một cuộc trao đổi như thế nầy:
- Lida về làm vợ tôi nhé, thế nào?
- Chuyện ngớ ngẩn!
- Tôi sẽ thương Lida, sẽ chiều Lida… Việc nhà đã có đủ người làm, Lida sẽ chỉ ngồi bên cửa sổ đọc sách thôi.
- Anh xuẩn lắm.
Mitka giận lắm không nói gì nữa. Tối hôm ấy, nó về nhà rất sớm.
Sáng hôm sau, Miron Grigorievich rất ngạc nhiên khi thấy thằng con đến nói với ông:
- Cha đi hỏi vợ cho con đi.
- Mày vội quá đấy.
- Con nói thật đấy, không đùa đâu.
- Mày không nhịn được nữa à?
- Đâu phải chuyện ấy…
- Thế thì mày mê đứa nào, mê con Marfuska dở người có phải không?
- Cha đánh mối đến nhà Sergey Platonovich cho con.
Miron Grigorievich đặt rất cẩn thận con dao cắt da xuống chiếc ghế dài (ông đang chữa một đoạn đai mông ngựa) rồi phá lên cười:
- Con ạ, hôm nay cha thấy mày nhộn quá đấy.
Chẳng khác gì một con bò mộng húc tường, Mitka vẫn khăng khăng không nghe. Người bố nổi xung:
- Đồ ngu xuẩn! Nhà Mokhov vốn liếng có tới hơn mười vạn; họ là một nhà buôn, còn mày là cái thớ gì? Xéo ngay cho khuất mắt tao, đừng có giở cái trò ngớ ngẩn như thế nữa, nếu không sẵn có cái đai mông ngựa này, tạo lại cho luôn chú rể một trận bây giờ!
- Nhà ta cũng có mười bốn đôi bò, cơ ngơi đường hoàng như thế này, dù sao Sergey Platonovich cũng chỉ là một lão mu-gích, còn nhà ta lại là người Cô-dắc.
- Xéo ngay! - Miron Grigorievich ra lệnh gọn lỏn, ông vốn không thích nhiều lời.
Mitka chỉ tìm được sự đồng tình ở cụ Grisaka. Ông cụ khập khiễng đi đến trước mặt con trai và chống nạnh cái nạng xuống đất.
- Miron!
- Có việc gì thế cha?
- Sao mày lại phản đối hử? Nếu con bé ấy đã hợp với thằng Mitka…
- Cha ạ, cha cũng quá là trẻ con, thật thế đấy! Thằng Mitka đã ngu xuẩn, mà cha cũng thật là kỳ quặc…
- Câm ngay cái mồm! - Cụ Grisaka đập nạng xuống sàn. - Chẳng nhẽ nhà ta không môn đăng hộ đối với nhà nó hay sao? Nó phải lấy làm vinh dự được con trai một người Cô-dắc đến hỏi con gái nó mới phải. Nó phải gả ngay con bé cùng với mọi thứ hồi môn mới đúng. Nhà ta là những người mà toàn khu đều biết tiếng. Đâu phải là phường khố rách áo ôm, ít nhất cũng có người ăn người ở hẳn hoi! Chẳng thế thì còn gì? Thôi đi đi, Miron, không nói gì nữa? Bảo nó đem cái nhà máy xay làm của hồi môn đi. Đi hỏi đi.
Miron Grigorievich phì một cái rồi bỏ ra sân. Còn Mitka thì quyết định chờ đến tối sẽ tự đi hỏi vợ lấy. Nó đã biết cái tính cố chấp không thể lay chuyển của bố, cứ như một cây dâu da đã mọc rễ sâu: muốn uốn một chút thì còn được, chứ tìm cách bẻ thì đừng hòng.
Trước khi tới cái cổng lớn, Mitka còn vừa đi vừa huýt sáo. Nhưng vừa đến đấy thì nó bỗng thấy ngài ngại. Nó đứng lại một lát rồi đi qua cái sân. Lên đến thềm, nó hỏi một chị đầy tớ gái mặc chiếc tạp dề hồ bột kêu loạt soạt:
- Ông chủ có nhà không chị?
- Ông nhà đang uống trà. Anh chờ một lát.
Mitka ngồi đợi. Nó hút hết điếu thuốc, dính nước bọt vào đầu ngón tay bóp tắt rồi dí nát mẩu còn lại trên sàn. Sergey Platonovich bước ra, lão vừa đi vừa phủi những miếng bích qui vụn trên áo gi-lê. Trông thấy Mitka, lão cau mày:
- Anh vào trong này.
Mitka đi trước vào căn phòng làm việc mát rượi, nặc mùi sách và mùi thuốc lá, và nó bỗng cảm thấy rằng tất cả cái vốn dũng khí tích sẵn từ nhà chỉ đủ cho nó đi tới ngưỡng cửa căn phòng làm việc nầy thôi.
Sergey Platonovich bước tới bên cạnh cái bàn, rồi xoay mình trên hai gót giày rít như hai cái trục.
- Nào nói đi? - Lão chắp tay sau lưng, những ngón tay lão cào lên tấm ván của cái bàn viết.
- Tôi định đến hỏi xem… - Mitka cảm thấy như nó bị chìm trong cái chất lầy nhầy lạnh như tiền của cặp mắt đang xoắn vào nó như lưỡi khoan. Nó so vai như bị lạnh, - Có lẽ ông có thể gả Elizaveta cho tôi?
Quyết tâm liều mạng, lòng căm tức và khiếp hãi làm hiện ra trên khuôn mặt đầy vẻ bối rối của Mitka vài giọt mồ hôi lấm tấm như những giọt sương ngày hạn hán.
Hàng lông mày bên trái của Sergey Platonovich run lên. Lão nhe nanh, môi trên cong lật lên, để lộ mặt trong môi đỏ tía. Rồi lão vươn cổ ngả hẳn về phía trước:
- Cái gì? Cái gì hư-ứ-ừ? Đồ đểu cáng! Cút ngay! Mày thì đáng bị xách cổ lên ông ataman? Đồ chó đẻ? Đồ bẩn thỉu!
Càng thấy lão kia hét to, Mitka càng cảm thấy mình thêm can đảm. Nó theo dõi những đợt máu xanh tím dồn lên cổ Sergey Platonovich.
- Xin ông đừng bực mình… Tôi chỉ muốn bù đắp việc mình đã làm sai.
Sergey Platonovich long hai con mắt mọng những máu và nước mắt, lão ném một cái gạt tàn thuốc lá đúc nguyên tảng bằng gang xuống trước mặt Mitka. Khối gang đập xuống đất, bật lên trúng xương bánh chè chân trái của Mitka. Nhưng Mitka dũng cảm chịu đau, đẩy mạnh cánh cửa. Vừa tức vừa đau, Mitka càng liều mạng, nó nhe nanh quát lớn:
- Ông Sergey Platonovich, ông muốn thế nào tùy ông, còn tôi đến đây chỉ vì thực lòng… Con gái ông đã như thế thì còn ai muốn vời đến nữa? Tôi chỉ muốn che đậy cho cái danh dự… Một miếng ăn thừa thì thử hỏi còn ai thèm. Có họa là chó.
Sergey Platonovich vo tròn một chiếc khăn tay, tự bịt lấy miệng, rồi chạy theo sát gót Mitka. Lão chặn đường ra cổng lớn, còn Mitka thì chạy ra sân. Gã đánh xe Emelian đang đứng ở đấy. Sergey Platonovich đưa mắt cho Emilian. Trong khi Mitka đang loay hoay với cái then cài rất chắc trên cửa xép hàng rào thì từ trong một góc nhà kho bốn con chó vừa được tháo xích xồ ra. Thấy người lạ, chúng lao thẳng qua cái sân quét sạch như lau.
Năm 1910, Sergey Platonovich mua được ở chợ phiên Nhigiơnhi về hai con chó con, một con đực, một con cái. Cả hai đều mõm to, lông đen và quăn, mới một năm đã lớn như thổi, bằng con bê đầy năm. Đầu tiên hai con chó chỉ xé váy những người đàn bà đi qua nhà Mokhov, nhưng sau chúng đã biết vật họ xuống đất mà cắn đùi. Mãi khi chúng cắn chết con bê của cha Pankrati và một đôi lợn sữa giống quý của Atepin, Sergey Platonovich mới ra lệnh xích lại. Hai con chó chỉ được thả ban đêm, ngoài ra mỗi năm một lần, đến mùa xuân, lại được cho nhảy nhau.
Mitka chưa kịp quay mặt lại thì đã bị con đầu tiên tên là Baian chồm hai chân lên vai, cắn chặt lấy cái áo bông ngắn. Bốn con chó thi nhau cắn xé, con lôi bên nầy, con kéo bên kia, tất cả quay lộn thành một đống đen xì. Mitka dùng tay chống cự, cố giữ cho mình khỏi ngã. Nó thoáng thấy Emilian đóng sập cái cánh cửa sơn, bỏ đi vào trong bếp, những tàn lửa trên cái píp của hắn bắn vung ra chung quanh.
Trên một góc thềm, Sergey Platonovich đứng tựa lưng vào ống máng, nắm chặt hai bàn tay nhỏ bé trắng hếu, đầy những sợi lông cứng đen nhánh. Mitka lảo đảo, cố mở chốt cửa. Hai chân đẫm máu của nó lôi theo sau đàn chó cắn nhặng xị, mùi chó vừa nóng vừa hôi xông lên nồng nặc, Mitka bóp họng con Baian đến chết, còn mấy con kia thì những người qua đường phải vất vả lắm mới xua được vào nhà để cứu Mitka.

3


Natalia sống hoà hợp ngay với gia đình Melekhov. Miron Grigorievich thật biết dạy con. Tuy giàu có, và ngoài các con ra trong nhà còn có người làm, nhưng ông vẫn bắt các con ông phải lao động cho quen công quen việc. Natalia hay lam hay làm nên được mẹ chồng quý mến. Daria thích làm dáng làm đỏm nên bà Ilinhitna ghét ngầm con dâu trưởng. Còn Natalia thì mới vài ngày đầu, bà đã yêu quý nàng ngay.
- Cứ ngủ nữa đi, cứ ngủ nữa đi, con yêu của mẹ? Mày làm gì mà dậy sớm thế? - Bà vừa lê cặp chân to đần đẫn đi lại trong bếp, vừa âu yếm khẽ bảo con dâu. - Lại vào trong nhà đi, cứ ngủ đến sáng đi, không có mày công việc vẫn làm xong cơ mà!
Natalia đã dậy từ tảng sáng để giúp công việc bếp núc. Nàng nghe nói thế lại vào nhà trong ngủ thêm.
Ông Panteley Prokofievich vốn rất nghiêm khắc đối với gia đình, thế mà ông cũng thường bảo vợ:
- Bà mày có nghe thấy không, đừng gọi con Natalia dậy nhé. Ban ngày nó tối mắt tối mũi như thế là đủ rồi. Lại còn phải sắp sửa đi cày với thằng Griska nữa. Còn cái con Daria, con Daria thì phải quật cho nó mới xong. Đàn bà gì mà ườn thây ườn xác, hư thân mất nết… Hết đánh má hồng lại tô lông mày, cái con chó đẻ.
- Năm đầu hãy cho chúng nó hú hí với nhau đã, - Bà Ilinhitna thở dài nhớ lại cuộc đời lao động cực nhọc của mình.
Grigori cũng dần dần có phần quen quen với cuộc sống mới của chàng, cuộc sống của một kẻ có vợ.
Nhưng sau chừng ba tuần, chàng vừa bực bội vừa hoảng sợ nhận thấy rằng trong thâm tâm, mình vẫn chưa cắt đứt được hẳn với Acxinhia, và trong lòng vẫn còn sót một cái gì như một cái gai. Mà nỗi đau khổ ấy thì không phải ngày một ngày hai mà gạt bỏ được. Grigori đã từng đinh ninh rằng trong hoàn cảnh có vợ, được sống thỏa mãn, mình sẽ gạt bỏ được hết dễ như trở bàn tay: tất cả rồi cũng sẽ quên đi… Nhưng đến nay chàng lại thấy là không thể nào quên được và mỗi khi nhớ lại thì vết thương lại rỉ máu. Ngay từ hồi còn chưa cưởi, có lần Petro đã hỏi Grigori trong lúc đập lúa trên sân:
- Griska à, mầy định sẽ như thế nào với con Acxinhia?
- Sao cơ chứ?
- Có lẽ bỏ thì thương?
- Tôi bỏ thì lại có người nhặt chứ sao? - Hôm ấy Grigori còn cười mà nói thế.
- Nhưng mày phải cẩn thận đấy. - Petro nhay nhay một đám ria nhai đã nát nhừ. - Nếu không mày lấy vợ thật không đúng lúc.
- Ăn no béo mầm, việc gì chẳng quên. - Grigori pha trò.
Nhưng rồi tình hình đâu có diễn ra như thế. Đêm đêm, trong khi Grigori làm nhiệm vụ người chồng âu yếm vuốt ve vợ, trong khi chàng cố truyền cho Natalia cái lửa tình ngùn ngụt của tuổi trẻ, thì lại chỉ gặp thấy về phía Natalia một thái độ lạnh lùng, vâng chịu ngượng ngùng. Việc vợ chồng đi lại với nhau, Natalia làm rất miễn cưỡng, vì ngay từ khi lọt lòng, nàng đã được mẹ truyền cho một dòng máu thờ ơ hờ hững, chảy như rất chậm. Nhớ lại cái kiểu yêu đương đến cuồng dại của Acxinhia, Grigori thở dài:
- Natalia à, chắc hẳn ông cụ nhà em đã làm bà cụ nhà em thụ thai ra em trên băng… Em băng giá quá chừng.
Còn Acxinhia thì mỗi lần gặp Grigori, nàng đều mỉm một nụ cười ỡm ờ, tròng con mắt đục đi, giọng nói dính như keo:
- Chào anh, anh Griska yêu quý! Lấy cô vợ trẻ như thế, nâng niu chìu chuộng nhau thế nào?
- Vẫn sống như thường thôi. - Grigori trả lời qua loa cho xong chuyện, và chỉ mong mau chóng thoát khỏi ánh mắt ve vuốt của Acxinhia.
Stepan thì hình như đã làm lành với vợ. Anh ta đã bớt la cà ở quán rượu và một buổi chiều, trong khi quạt thóc trên sân đập lúa, lần đầu tiên sau chuyện lục đục vừa qua, Stepan bảo vợ:
- Acxiutca à, ta thử hát một bài đi!
Hai vợ chồng ngồi dựa lưng vào đống lúa mạch mới đập xong còn đầy bụi. Stepan cất giọng hát một bài của lính, Acxinhia hòa theo bằng một giọng rất cao, rất mạnh, phát ra từ trong ức. Hai người hát rất ăn giọng, cứ như đang sống lại tuần trăng mật.
Lại có lần, trong khi ráng chiều phủ khắp cánh đồng một làn ánh sáng đỏ tía, Stepan đi làm đồng về ngồi lắc lư trên chiếc xe tải, kéo dài giọng hát một bài cổ, giọng hát trường và buồn, như con đường trên cánh đồng cỏ hoang vu đầy cỏ dại, không một bóng người. Acxinhia ngả hẳn đầu lên bộ ngực nở nang của chồng, hát tiếp. Hai con ngựa kéo chiếc xe chạy cót két, gọng xe lắc sang bên nầy rồi lại lắc sang bên kia. Từ xa, mấy cụ già trong thôn lắng nghe bài hát:
- Stepan kiếm được cô vợ đến là tốt giọng.
- Nghe mà xem… họ hát ăn giọng quá!
- Cả giọng của Stepan cũng tốt nhỉ, sang sảng như tiếng chuông ấy!
Mấy cụ già ngồi trên những bức tường đất đắp quanh nhà đưa tiễn ánh chiều đỏ rực, mung lung sương khói nói vọng với nhau qua đường phố:
- Họ đang hát bài của trung đoàn Nizovsky đấy.
- Ông bạn đồng ngũ ạ, bài nầy được soạn ở Gruzia.
- Mồ ma bác Kiriuska thích bài nầy lắm!
Chiều nào Grigori cũng nghe thấy hai vợ chồng nhà Astakhov cùng hát với nhau (sân đập lúa nhà Grigori nằm sát sân đập lúa nhà Stepan). Mỗi lần đập lúa, chàng lại nhìn thấy Acxinhia với cái vẻ tự tin, hình như hạnh phúc như xưa. Ít nhất là chàng có cảm tưởng như thế.
Stepan không chào hỏi những người trong nhà Melekhov nữa. Anh ta vác cái chàng nạng đi đi lại lại trong sân, cặp vai rộng nhưng xuôi khẽ động đậy, và thỉnh thoảng lại nói đùa với vợ một câu.
Acxinhia cười, cặp mắt đen láy long lanh dưới khăn bịt đầu. Grigori nhắm mắt lại vẫn thấy cái váy màu xanh lá cây của Acxinhia gợn sóng trước mắt. Một sức mạnh vô hình cứ xoay cổ của Grigori, làm cho chàng chốc chốc lại quay đầu nhìn sang sân nhà Stepan.
Chàng không biết rằng tuy Natalia đang giúp ông Panteley Prokofievich xếp các bó lúa, nhưng lần nào nàng cũng bắt gặp cái nhìn không tự chủ của chồng bằng cặp mắt vừa buồn vừa ghen.
Grigori cũng không thấy rằng trong khi đuổi mấy con ngựa chạy vòng tròn, Petro hếch mũi nhìn mình với một nụ cười châm biếm kín đáo.
Giữa những tiếng ầm ì trầm trầm (tiếng rên siết của mảnh đất bị hành hạ dưới những quả lăn bằng đá), đầu óc Grigori rối bời với những ý nghĩ mung lung. Chàng cố tìm cách nắm những mảnh ý nghĩ vụn vặt trơn tuồn tuột lẩn trốn ý thức, nhưng không tài nào năm nổi.
Từ những sân đập lúa ở gần cũng như ở xa, tiếng đập lúa, tiếng trẻ chăn bò đuổi đàn bò, tiếng roi quất đen đét, tiếng hòm quạt thóc kêu phành phạch, vẳng tới rồi lại tan đi trên bãi cỏ hoang ven sông.
Thôn xóm béo đẫy ra trong ngày mùa nằm đê mê dưới cái nắng tháng chín mát rượi trải ra trên sông Đông như con rắn thuỷ tinh nằm vắt ngang đường. Trong mỗi căn hộ nằm giữa những dãy hàng rào, dưới mỗi mái nhà đều có một cuộc sống riêng quay tít như con thò lò, một cuộc sống sôi nổi, đầy đắng cay ngọt bùi, tách biệt với các cuộc sống khác: cụ Grisaka bị lạnh, đang đau khổ vì đau răng; Sergey Platonovich quỵ xuống sau cái nhục vừa qua, đang đưa hai tay lên vo chòm râu chải tẽ sang hai bên, và cứ nghiến răng, khóc thầm một mình; Stepan vẫn mang nặng trong lòng mối thù với Grigori, đêm đêm lại vò nát cái chăn đã rách bươm trong hai bàn tay rắn như thép; Natalia chạy vào nhà kho, lăn mình xuống đống phân khô, nằm co quắp, khóc nức nở vì hạnh phúc của mình bị người ta phá hoại; Khristonhia đi chợ phiên, đem số tiền bán con bê ăn nhậu sạch, đang bị lương tâm dày vò; Grigori đau khổ vì những dự cảm trong khi các thèm khát của chàng chưa được thoả mãn, và vì vết thương lòng lại mở miệng, đang thở dài thườn thượt; Acxinhia vừa vuốt ve đi lại với Stepan vừa tưới nước mắt lên lòng căm thù không sao nguôi được đối với chồng. Chàng thợ cán bột Davydka bị đuổi khỏi nhà máy xay ngồi thâu đêm trong căn nhà đắp bằng đất trộn rơm của “Bồi”. “Bồi” long lanh hai con mắt đầy căm hờn nói:
- Khô-ô-ông, khô-ô-ông thể như thế được. Chẳng bao lâu nữa người ta sẽ cắt mạch máu của chúng nó. Đối với chúng nó thì một cuộc cách mạng còn chưa đủ. Chúng nó sẽ phải nếm lại cái năm một nghìn chín trăm linh năm lần nữa (Ý muốn nói cuộc cách mạng tư sản thất bại ở nước Nga năm 1905), lúc đó chúng ta sẽ tính sổ? Chúng ta sẽ tính sổ! – “Bồi” giơ một ngón tay đầy sẹo lên dọa rồi nhún vai sửa lại cái áo vét-tông khoác trên lưng.
Nhưng thời gian vẫn trôi qua trên thôn xóm, hết ngày lại đêm, hết tuần nầy qua tuần khác. Hết tháng nọ qua tháng kia. Gió vẫn thổi, trời dông bão vẫn làm những ngọn núi ầm ầm tiếng sấm, và sông Đông in hình bầu trời thu xanh trong suốt vẫn thờ ơ trôi ra biển.

4


Đến cuối tháng mười, vào một ngày chủ nhật, Fedot Bodovskov đánh xe lên trấn.
Hắn mang ra chợ bốn đôi vịt béo căng nhốt trong một cái lồng, bán được hết rồi vào hiệu mua cho vợ ít vải hoa rất diêm dúa. Hắn đã tì chân vào vành bánh xe, siết chặt đoạn dây buộc dưới cổ ngựa, sắp sửa ra về, thì vừa lúc ấy có một người dân vùng khác, không phải là trong trấn, bước tới:
- Chào bác! - Người ấy đưa những ngón tay ngăm ngăm lên vành chiếc mũ dạ đen chào Fedot.
- Chào bác! - Fedot nheo cặp mắt xếch như mắt người Kalmys, nói lí nhí qua kẽ răng, chờ xem có chuyện gì.
- Bác ở đâu đến thế?
- Tôi ở dưới thôn lên, không phải người ở đây đâu.
- Thế bác ở thôn nào vậy?
- Thôn Tatarsky.
Người lạ kia lấy trong túi bên ra một cái hộp thuốc lá bằng bạc, nắp hộp có chạm hình một chiếc thuyền nhỏ. Anh ta mời Fedot hút điếu thuốc và hỏi tiếp:
- Thôn ta có to không bác?
- Cám ơn bác, tôi vừa hút xong. Thôn chúng tôi ấy à! Một thôn khá đấy. Có lẽ chừng ba trăm hộ.
- Có nhà thờ không?
- Còn sao nữa, phải có chứ.
- Có thợ rèn không?
- Lò rèn ấy à? Lò rèn cũng có đấy.
- Thế nhà máy xay đã có xưởng nguội chưa?
Con ngựa không chịu đứng yên, Fedot phải giữ chặt dây cương. Hắn nhìn một cách không thân thiện cái mũ dạ đen cùng những vết nhăn trên khuôn mặt trắng bệch của người lạ, các vết nhăn nầy đều hướng cả vào chòm râu đen ngăn ngắn.
- Bác cần gì mà hỏi thế?
- Tôi chuyển đến ở thôn bác đây. Tôi vừa ở chỗ ông ataman trấn ra. Bác về xe không à?
- Vâng, xe không.
- Bác cho tôi về cùng nhé. Nhưng tôi không phải chỉ đi một mình đâu, còn cả nhà tôi và hai chiếc hòm chừng tám pút.
- Về cùng cũng được thôi.
Tiền xe ngã giá là hai rúp. Fedot đánh xe đến nhà mụ làm bánh mì vòng Frotka, nơi người đi nhờ xe của hắn thuê phòng, đón một người đàn bà tóc vàng, gầy yếu lên xe, rồi khiêng hai chiếc hòm đánh đai sắt đặt lên phía sau xe.
Ra khỏi trấn. Fedot chặc lưỡi, vung đoạn dây cương bện bằng lông đánh con ngựa nhỏ nhưng chạy rất khỏe. Chốc chốc hắn lại quay cái đầu méo mó trên cái gáy phẳng đứng để nhìn lại: hắn không cưỡng nổi tính tò mò. Hai người khách đi xe của hắn ngồi khiêm tốn phía sau, chẳng nói chẳng rằng. Đầu tiên Fedot xin đốt điếu thuốc rồi hỏi.
- Hai bác từ đâu về ở thôn chúng tôi thế?
- Từ Rostov.
- Cố cựu ở đấy à?
- Bác bảo sao?
- Tôi hỏi bác ở sinh quán ở đấy à?
- À, phải phải, tôi vốn người ở đấy, ở Rostov.
Fedot ngẩng hai gò má màu đồng thau, nhìn kỹ những đám cỏ dại mọc xa tít trên đồng cỏ: con đường của các Ghết-man kéo dài tới chỗ ngoặc, và trên sống đồi, trong đám cỏ khô nâu nâu, cách con đường chừng nửa vec-xta, cặp mắt giàu kinh nghiệm, tinh như mắt người Kalmys đã nhận ra những cái đầu nhỏ xíu của vài con vịt trời đang di động rất khó thấy.
- Tiếc là không mang súng, nếu không chúng ta đã tạt vào đấy kiếm vài chú vịt trời. Bác trông nó đang đi kia kìa… - Fedot thở dài giơ tay chỉ.
- Tôi chẳng thấy gì cả. - Người khách đi xe thú nhận, hai con mắt anh ta hấp háy như mắt người thong manh.
Fedot đưa mắt theo dõi mấy con vịt trời sà xuống một cái khe, rồi quay lại nhìn người thuê xe. Khách là một người tầm thước, xương xương, có hai con mắt linh lợi long lanh rất gần chỗ tinh mũi lồi lên. Trong khi nói chuyện, anh ta rất hay cười. Người vợ quấn một chiếc khăn choàng đan tay, ngủ gà ngủ gật. Fedot không trông thấy mặt người đàn bà.
- Vì sao mà hai bác phải đến ở thôn chúng tôi?
- Tôi làm thợ nguội, muốn đến mở một cửa hiệu thợ nguội. Tôi còn làm cả đồ mộc.
Fedot nhìn hai bàn tay to bè bè của người khách đi xe, có ý nghi ngại. Người kia bắt gặp ánh mắt của Fedot bèn nói thêm:
- Tôi cũng làm thêm đại lý cho hãng “Singer” cung cấp máy khâu.
- Thế tên bác là gì? - Fedot hỏi.
- Họ của tôi là Stokman.
- Có lẽ bác không phải là người Nga?
- Không, tôi là người Nga đấy. Nhưng ông nội tôi gốc ở Latvia.
Chỉ một lát sau, Fedot đã được biết rằng anh thợ nguội Stokman Yosif Davidovich trước kia làm việc ở nhà máy “Acxai”, sau đó đến một nơi nào đó ở Kuban, rồi vào làm tại xưởng sửa chữa đường sắt Đông Nam. Ngoài ra Fedot vốn tính tò mò còn hỏi được thêm rất nhiều chi tiết về cuộc đời của anh ta.
Xe chạy tới rừng cấm thì câu chuyện cạn dần. Con ngựa chạy đã toát mồ hôi, Fedot cho nó uống nước ở một cái giếng bên cạnh đường Xe lắc trên chặng đường bắt đầu làm Fedot thần ra, hắn ngủ gà ngủ gật. Từ đây về đến thôn còn chừng năm vec-xta.
Fedot cuộn dây cương, thõng chân, ngả người ra cho thoải mái. Nhưng hắn đã không được chợp mắt.
- Vùng ta sinh sống như thế nào hả bác? - Stokman bị lắc rất ghê, cứ nảy chồm chồm trên ghế, nhưng anh ta vẫn hỏi.
- Chúng tôi vẫn sống, vẫn có bánh mì ăn.
- Bà con Cô-dắc nói chung có vừa ý với cuộc sống không?
- Có người vừa ý, có người thì không. Làm thế nào mà tất cả mọi người đều vừa ý được?
- Đúng đấy, đúng đấy… - Người thợ nguội tỏ vẻ đồng ý. Anh ta nín lặng một lát rồi lại đưa ra những câu hỏi như có hàm một ý ngầm gì đó - Bác bảo mọi người đều no đủ à?
- Cuộc sống cũng khá sung túc.
- Nhưng có lẽ công việc nhà binh cũng là một gánh nặng đấy nhỉ? Có phải không?
- Công việc nhà binh ấy à? Chúng tôi đã quen rồi. Còn sống thì còn nằm trong quân số.
- Tai hại nhất là người Cô-dắc phải tự trang bị lấy tất cả.
- Còn sao nữa, mẹ chúng nó chứ! - Fedot bắt đầu hăng lên. Hắn liếc nhìn có ý nghi ngại người đàn bà lúc này đã quay đầu sang bên.- Với cái bọn quan lớn như thế thì thật là tai họa… Hồi tôi đi lính, phải bán mấy con bò đi sắm một con ngựa. Nhưng họ mang đi khám xong lại bảo là không đủ tiêu chuẩn.
- Bảo là không đủ tiêu chuẩn à? - Người thợ nguội vờ ngạc nhiên.
- Hoàn toàn đúng thế đấy. Họ bảo chân có khuyết tật. Tôi cố nài: “Xin các ngài cứ nhận cho. Bốn chân nó có gì khác một con ngựa thi giật giải. Chỉ có điều là nước kiệu chạy nom giống con gà trống… Nó có cái nước kiệu kiểu gà trống mà lại”. Nhưng họ vẫn không nhận. Thế là hết nghiệp!
Câu chuyện nói mỗi lúc một thêm rôm rả. Mải mê với câu chuyện, Fedot vui vẻ nhảy từ trên xe xuống, sẵn sàng kể về bà con trong thôn, hết chửi lão ataman thôn về chuyện chia bãi cỏ không công bằng, lại khen hết lời lối làm ăn ngăn nắp ở Ba Lan, nơi trung đoàn của Fedot đóng trong thời gian hắn ở đơn vị. Fedot đi bên cạnh xe. Hai con mắt sắc như dao nheo lại rất nhỏ của người thợ nguội nhìn khắp người hắn. Anh ta hút một thứ thuốc lá nhẹ bằng một cái bót xương trên có những cái vòng nhỏ, một nụ cười luôn nở trên môi. Nhưng chéo ngang vầng trán hơi dốc, da rất trắng, có một vết nhăn hằn sâu, vết nhăn này di động chậm chạp, nặng nề, cứ như bị đẩy lên đẩy xuống từ bên trong bởi những ý nghĩ gì thầm kín.
Xe về tới thôn trước khi trời hoàng hôn.
Theo lời khuyên của Fedot, Stokman xuống xe trước nhà mụ góa Lukeska Popopa và thuê của mụ hai gian phòng.
- Bác đưa ai từ trên trấn về đấy? - Mấy mụ láng giềng đã chờ Fedot ở cổng để hỏi.
- Một người đại lý.
- Đại lý gì cơ chứ?
- Chà ngốc gì mà ngốc khổ ngốc sở! Tôi xin nói cho các bà các chị biết rằng người đại lý này bán máy khâu. Ai đẹp được biếu không, còn xấu như thím, thím Maria ạ, thì phải trả tiền.
- Đồ quỷ dữ tay chuối mắn như bác mà cứ tưởng mình đẹp đẽ lắm đấy phỏng. Cái mặt Kalmys của bác thì cứ nhìn mà tởm… Đến ngựa cũng chẳng dám gần: trông thấy đã đủ khiếp.
- Này thím chớ tưởng đùa, trên thảo nguyên thì chỉ có người Kalmys và người Tarta là nhất đấy thôi! - Fedot cố chống chế rồi bỏ đi.
Anh thợ nguội Stokman đã dọn xong chỗ ở tại nhà mụ Lukeska, một người đàn bà vừa lác vừa lắm mồm. Anh ta chưa kịp ngủ yên một đêm, khắp thôn đã thấy bọn đàn bà bàn ra tán vào.
- Này bà bạn đỡ đầu, bác đã nghe thấy chuyện chưa?
- Chuyện gì thế?
- Gã Kalmys Fedot đưa ở đâu về một thằng Đức đấy.
- Thật ư?
- Tôi dám thề trước Đức Mẹ là đúng như thế đấy! Đội mũ dạ, tên là Stôpôn hay Stôcan gì đó…
- Hay là mật thám?
- Nhân viên phòng thuế đấy, bà bạn thân mến ạ.
- I-i i các bà các chị ạ, thiên hạ nói láo tuốt. Nghe nói hắn ta làm kế “xoán” (toán) cũng như cậu cả con cha Pankrati thì phải.
- Paska, con yêu của mẹ, mày thử chạy đến tìm bác Lukeska, hỏi bác ấy khẽ khẽ thôi nhé: “Bác ơi, xe đưa ai về nhà bác thế?”.
- Chạy ù lên nhé, thằng bé đến là ngoan!
Hôm sau, người mới đến ngụ cư tới gặp lão ataman thôn.
Fedor Manykov giữ cái gậy ataman đến nay đã được ba năm. (Mỗi ataman các cấp đều có một cái gậy tượng trưng chức quyền của mình )
Lão lật đi lật lại mãi trong tay tờ giấy thông hành bọc vải dầu đen. Rồi đến lượt viên thư ký Egor Zakov cũng lật lật xem qua. Hai tên đưa mắt cho nhau, rồi theo thói quen của một viên quản kỵ binh, lão ataman trịnh trọng khoát tay:
- Ông được ở lại đây.
Người mới đến cúi chào rồi ra ngoài. Suốt một tuần liền anh ta chẳng ló mặt đi đâu, cứ sống ru rú như một con chuột đồng trong hang. Bắt đầu có tiếng rìu đẽo chan chát, rồi xưởng thợ nguội được đặt trong gian bếp mùa hè, bỏ không từ lâu. Bọn đàn bà trước kia tò mò dò hỏi không biết chán, đến nay không còn để ý gì nữa, chỉ còn bầy trẻ là ngày nào cũng leo lên hàng rào nhìn người khách lạ của thôn.

5


Vợ chồng Grigori đi cày ba ngày trước lễ Đức Mẹ (Theo lịch của người Nga lễ Đức Mẹ vào ngày mồng một tháng mười). Ông Panteley Prokofievich bị mệt cũng ra đưa tiễn. Ông chống cái nạng, chỗ thắt lưng đau quá chốc chốc lại làm ông kêu lên.
- Griska à, mày hãy cày trước hai mảnh sau bãi chăn bò chung ở cái khe nước Đỏ ấy nhé.
- Vâng, vâng. Thế còn cái khoảng ở gần bờ Vách Liễu thì sao? - Grigori khẽ hỏi, khàn khàn. Chàng đi câu bị cảm, phải quấn một cái khăn quanh cổ.
- Qua lễ Đức Mẹ hẵng hay. Đi một lần cày hai mảnh ấy đủ rồi. Chỗ gần khe nước Đỏ cũng đến một kruk rưỡi rồi đấy. Đừng quá tham. (Một kruk bằng bốn héc ta. (Lời chú của bản tiếng Nga)
- Thế anh Petro không đến giúp thêm à?
- Nó với con Daria còn phải ra nhà máy xay. Hôm nay phải xay cho xong, nếu không sẽ quá lượt mất.
Bà Ilinhitna giúi vào trong cái áo ngắn của Natalia vài cái bánh mềm và khẽ bảo nàng:
- Hay bảo con Dunhiaska đi thêm cho nó đánh bò?
- Hai chúng con làm cũng được rồi.
- Thôi cẩn thận nhé, con yêu của mẹ. Cầu Chúa che chở cho con.
Dunhiaska khiêng một đống quần áo ướt, nặng quá oằn cả cái lưng mảnh dẻ. Cô bé chạy qua sân để ra sông giũ.
- Chị Natasa, chị Natasa yêu quý, ở khe nước Đỏ quả toan mô mọc nhiều lắm đấy, chị nhớ hái về đấy! (Quả toan mô đốt ra than có thể dùng để giặt quần áo)
- Ừ chị sẽ hái, chị sẽ hái.
- Câm ngay, léo nha léo nhéo như con mẹ ranh! - Ông Panteley Prokofievich vung cái nạng.
Ba cặp bò mộng kéo lê trên đường cái cày gieo hạt lật ngửa, vạch hằn một vệt trên mặt đất vốn đã rắn lại bị khí trời mùa thu thiếu mưa làm càng rắn thêm. Grigori húng hắng ho đi bên lề đường, thỉnh thoảng lại sửa cái khăn cuốn cổ. Natalia đi bên cạnh Grigori, túi thức ăn lủng lẳng sau lưng.
Ra đến ngoài thôn, không khí trên đồng cỏ lặng như tờ, vừa trong vừa lạnh. Sau bãi chăn nuôi chung, sau ngọn gò nom như cái lưng gù những lưỡi cày đang xới tung mặt đất, trẻ chăn bò huýt sáo ầm ĩ nhưng ở đây, hai bên con đường cái nầy, chỉ có những bụi ngải cứu thấp lè tè màu xanh da trời lốm đốm như tóc hoa râm, những bụi linh lăng hương dại cừu cắn nham nhở, những đám gô-riu-nốc (Một thứ rau đắng ỏ vùng sông Đông) khom khom như người làm lễ ở nhà thờ, ngoài ra chỉ có bầu trời dội tiếng, trong vắt như thuỷ tinh, mỗi lúc một lạnh. Loáng thoáng có những cái mạng nhện lấp loáng màu ngọc quý bay lơ lửng.
Sau khi đưa tiễn hai vợ chồng Grigori đi cày, Petro và Daria cũng sửa soạn ra nhà máy xay. Petro treo một cái máy sàng trong nhà thóc, bắt đầu quạt thóc. Daria đổ thóc vào những chiếc bao tải, mang ra chiếc britka.
Ông Panteley Prokofievich thắng ngựa xong còn sửa lại rất cẩn thận các đồ thắng.
- Đã sắp xong chưa?
- Chúng con xong ngay đây, - Petro trả lời vọng ra từ trong nhà thóc.
*
Tại nhà máy xay, mọi người đang luân phiên đưa bột vào xay.
Những chiếc xe tải đỗ san sát trên cái sân. Người ta chen nhau quanh bàn cân. Petro ném dây cương cho Daria rồi nhảy trên chiếc britka xuống.
- Sắp đến số của tôi chưa? - Petro hỏi “Bồi” đang đứng ở bàn cân.
- Anh đến vừa kịp đấy.
- Đang xóa số bao nhiêu thế?
- Ba mươi tám.
Petro ra khiêng những bao thóc xuống. Giữa lúc ấy trong nhà cân bỗng vang lên tiếng chửi nhau. Không biết người nào quát lên, giọng khàn khàn, hung hãn, nghe như tiếng chó sủa:
- Ngủ cho béo mắt để quá lượt, bây giờ còn muốn leo lên à? Cút ngay đi, đồ khô-khon, không ông nện cho bây giờ!
Petro nghe giọng, đoán là gã Yakov Móng ngựa bèn chú ý lắng nghe thêm. Trong phòng cân có tiếng kêu to vang ra qua cửa.
Rồi có tiếng một miếng đòn rất gọn, và từ trong cửa phòng, một người Tavria râu xồm đã có tuổi lăn vật ra, cái mũ lưỡi trai đen tụt xuống sau gáy.
- Sao mày đánh tao? - Người ấy ôm lấy một bên má, kêu lên.
- Ông không cho mày gãy răng không xong!
- Không dễ đâu, mày chờ đấy sẽ biết!
- Mikíchvo, lại đây?
Hồi Yakov đi lính, một hôm gã đóng móng ngựa, bị con ngựa lồng lên, đá vào mặt. Gã bị dập cái mũi, toạc cả môi, và cái móng ngựa đã in hình trên mặt gã. Vết thương để lại một cái sẹo hình bầu dục, xám ngoét, những cái đinh nhọn cũng in những chấm đen, vì thế mới có cái biệt hiệu Móng ngựa. Yakov Móng ngựa vốn là tay pháo thủ can đảm, vạm vỡ. Gã xắn tay áo, chạy trong cửa ra. Một người Tavria cao lớn, mặc sơ-mi màu hồng, đuổi theo, giáng cho gã một quả đấm nên thân. Móng ngựa lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được.
- Anh em ơi, chúng nó đánh người Cô-dắc!
Như bị dốc trong ống tay áo ra, những người Cô-dắc và người Tavria đổ xô từng đám, từng đám từ trong cửa nhà máy xay ra khoảng sân ngổn ngang xe cộ. Trước đó họ đã kéo tới đây từng toán đông.
Cuộc loạn đả nổ ra ở ngay cổng chính. Cái cửa kêu răng rắc vì bị bao nhiêu thân người ùa ra cùng xô mạnh. Petro ném bao thóc xuống, kêu lên rồi lon ton chạy về phía phòng máy xay. Daria nhổm người trên xe, nhìn thấy Petro xô gạt những người gần anh ta, len vào giữa đám. Đến khi thấy Petro bị đấm dồn vào tường, bị đánh ngã xuống và bị đạp túi bụi, Daria kêu rầm lên, Mitka Kosevoi nhảy cỡn từ trong góc phòng máy ra, tay vung một chiếc bù-loong sắt.
Chính người Tavria lúc nãy đánh vào sau lưng Móng ngựa, bây giờ chạy vùng ra khỏi đám người, một tay áo màu hồng rách toạc đập lõng thõng sau lưng hắn như cái cánh con chim bị thương. Hắn khom lưng xuống thật thấp, hai tay quệt xuống đất, chạy tới chiếc xe tải đầu tiên, rồi tháo ra rất dễ dàng một cái càng. Trên sân nhà máy xay ầm ầm những tiếng la thét kéo dài, khản cả giọng:
- A-a-a-a…
- Ôi -i-i…
-A-i-i-a-a-a!...
Tiếng đánh đấm. Tiếng đập phá. Tiếng rên la. Tiếng gào rú…
Ba anh em nhà Samin ở trong nhà chúng chạy ra. Gã cụt tay Aleksey vướng chân vào những đoạn dây cương không biết có ai ném ra, ngã lăn xuống chỗ cái cửa xép ở hàng rào. Nhưng gã chồm ngay dậy, nhét bên tay áo rỗng vào bụng, và nhảy qua những chiếc gọng xe đặt san sát. Gã Marchin, em của Aleksey thấy một ống quần của gã tuột ra ngoài chiếc bít tất trắng bèn cúi xuống định nhét lại, nhưng giữa lúc ấy, từ bên nhà máy xay vang tới một tiếng rú.
Không biết tiếng người nào kêu mà bay vút lên rất cao trên cái mái rất dốc của nhà máy xay, như một cái mạng nhện bị cuốn đi trong cơn gió lốc, Marchin lại đứng thẳng dậy, vùng chạy theo Aleksey.
Daria đứng trên xe cứ vặn ngón tay, thở hổn hển nhìn ra chung quanh. Chỗ nào cũng có tiếng phụ nữ rít the thé hoặc gào khóc ầm ĩ. Những con ngựa hoảng sợ vểnh tai, những con bò đứng sát vào những chiếc xe tải và xe britka kêu rống lên… Sergey Platonovich mím môi mím lợi khập khiễng chạy qua, mặt cắt không còn hột máu, cái bụng tròn xoay như một quả trứng khổng lồ lúc lắc dưới chiếc áo gi-lê. Daria trông thấy gã người Tavria mặc chiếc áo sơ-mi màu hồng rách tả tơi cầm chiếc càng xe phạt ngã Mitka Korsunov, nhưng chính gã cũng ngã lăn kềnh ra, chiếc càng xe bị gãy văng khỏi tay. Gã Aleksey cụt tay dẫm chân lên gã người Tavria và giáng xuống gáy gã những nắm đấm nặng như chì. Những cảnh đòn hội chợ không đầu không đũa diễn ra loang loáng trước mắt Daria như những mảnh giẻ rách muôn màu. Sergey Platonovich vừa chạy qua, Mitka Korsunov quì luôn dậy, cho lão một cú bù loong sắt.
Daria thấy vậy, chẳng ngạc nhiên chút nào. Sergey Platonovich vươn hai tay lên trời ngoáy loạn xạ, rồi bò lổm ngổm về phía nhà cân như một con tôm. Lão bị những chân người dẫm lên lăn kềnh ra… Daria phá lên cười như hóa dại, cặp lông mày tô đen hình vòng cung cong gập hẳn lại. Nhưng mắt Daria bỗng bắt gặp Petro thế là tiếng cười rồ dại tắt ngấm. Petro lảo đảo len ra khỏi đám người đang ngả nghiêng gào rú, lần đến nằm dưới gầm một chiếc xe tải và nhổ ra một bãi máu. Daria gào lên, chạy bổ tới chỗ chồng. Trong khi đó, dân Cô-dắc trong thôn tiếp tục cầm gậy gộc chạy tới, một người vung cái thuốn sắt vẫn dùng để chọc băng. Cuộc loạn đả lan ra tới mức độ kinh người. Đâu chỉ như những cuộc say rượu đánh nhau trong quán hay những cuộc xô xát trong ngõ nhân lễ tiễn mùa đông.
Một thanh niên người Tavria bị đánh vỡ đầu nằm thẳng cẳng ở cạnh cửa nhà cân. Hai chân anh ta dạng rộng, đầu ngâm trong vũng máu đen đã vón cục, vài món tóc xõa xuống mặt. Xem ra linh hồn chàng trai nầy đã về tới thiên đàng…
Những người Tavria đã bị dồn lại thành một đám lúc nhúc như đàn cừu ở trước gian xưởng nhỏ. Vụ nầy có lẽ sẽ kết thúc tai hại hơn nhiều nếu một cụ già người Tavria không nghĩ ra một kế: cụ nhảy vào trong gian xưởng, rút trong lò ra một thanh củi lửa bắn tung tóe.
Rồi cụ chạy ra khỏi cửa, đến nhà kho chứa thóc đã xay, trong có hơn một ngàn pút thóc. Qua vai ông cụ người ta thấy khói bốc lên như một làn lụa mỏng, những tia lửa tóe ra tứ phía, nom chỉ lờ mờ dưới ánh sáng ban ngày.
- Lão đố-ố-ốt đây! - Cụ gầm lên, giọng man rợ rồi giơ thanh củi gần mái lau, lửa vẫn nổ lách tách.
Bọn Cô-dắc rùng mình, ngừng tay không đánh nhau nữa. Gió hanh thổi từng đợt từ phía đông, tạt khói từ trên mái gian xưởng nhỏ xuống đám người Tavria đang đứng túm tụm một chỗ.
Mái lau cũ đã bết chắc lại, rất khô, vì thế chỉ một tàn lửa khá to bắn vào là khói lửa sẽ trùm lên khắp thôn…
Những tiếng kêu trầm trầm, ngắn ngủi vang lên trong đám dân Cô-dắc. Có người đã bị giật lùi về phía gian máy xay. Ông lão người Tavria kia vẫn vung thanh củi, những tàn lửa vẫn văng tung tóe qua làn khói xám. Cụ vẫn gào lên:
- Lão đốt đây? Đô-ô-ố-ốt đây! Ra khỏi sân mau!
Gã Yakov Móng ngựa, kẻ gây ra cuộc loạn đả, là tên đầu tiên rời khỏi sân nhà máy xay với nhiều chỗ xanh tím trên khuôn mặt bất thành nhân dạng của gã. Những gã Cô-dăc khác cũng vội vã đổ xô ra theo.
Bọn người Tavria cũng bỏ những bao thóc đấy để ra thắng ngựa vào xe. Họ vung những nút dây cương, quất roi đen đét, in những vạch dài trên lưng ngựa. Đoàn xe xông ra khỏi sân, chạy long xòng xọc qua phố ra ngoài thôn.
Gã cụt tay Aleksey đứng ngay giữa sân, đầu ống tay áo sơ-mi rỗng buộc túm lại, lủng lẳng trước cái bụng dài ngoẵng nhưng rất chắc, mắt và má giật lia lịa trong cơn kinh giật thường ngày.
- Anh em Cô-dắc lên ngựa!
- Đuổi theo chúng nó?
- Chúng nó sẽ không kịp chạy quá đường sống đồi đâu?
Mitka Korsunov né né người chạy trong sân ra. Bọn Cô-dắc đứng túm tụm bên cạnh gian máy xay lại nhốn nháo hẳn lên, ồn ào như một đợt sóng. Nhưng giữa lúc ấy, từ trong buồng máy thấy có một người đội mũ dạ đen đi ra rất nhanh. Người ấy lạ mặt nhưng từ nãy chẳng có ai chú ý đến anh ta. Hai con mắt sắc ngọt của người ấy nheo hẳn lại, lướt trên đám người như hai lưỡi bào. Người ấy giơ tay:
- Hượm cái đã!
- Anh là ai hử? - Móng ngựa nhíu hai hàng lông mày rung rung.
- Hắn ở đâu mò ra thế?
- Trói nó lại!
- Hừ!
- Phì!
- Bà con hãy hượm cái đã!
- Chỉ bọn chó cộc (chỉ người Tavria) mới bà con với anh! (ở vùng sông Đông, người Tavria là cái tên dùng để gọi những người Ukraina mà tổ tiên đã theo lệnh nữ hoàng Ekaterina đệ nhị di cư đến đây từ những địa điểm miền Nam sát với Krym (Tavria), (Lời chú của bản tiếng Nga).
- Đồ mu-gích!
- Đồ guốc gỗ!
- Cho nó một trận, Yakov!
- Đấm vào hai con mắt nó ấy! Cho nó một quả vào mắt ấy!
Người kia mỉm một nụ cười ngượng nghịu, nhưng không có vẻ gì sợ hãi. Anh ta bỏ mũ, đưa tay lên xoa trán, cử chỉ rất hồn nhiên. Cuối cùng nụ cười của anh ta đã tước được vũ khí của bọn Cô-dắc.
- Có việc gì vậy? - Người ấy vung cái mũ dạ gập đôi, chỉ đám máu đen đã ngấm xuống đất bên cạnh cửa phòng cân.
- Đánh bọn khô-khon, - Gã cụt tay Aleksey trả lời, giọng ôn hoà, cả má lẫn mắt đều giật lia lịa.
- Nhưng vì sao đánh chứ?
- Để xếp hàng cho có trật tự. Khỏi có cái lối chèn lên trên. - Móng ngựa vừa bước lên trước, vừa khoát rộng tay quệt một đám nước mũi đỏ lòm.
- Cho chúng nó nhớ đến già.
- Chà, nếu đuổi kịp chúng nó nhỉ… Trên đồng cỏ thì đừng có hòng đốt được cái gì.
- Ban nãy chúng mình hoảng sợ đấy thôi, chứ có lẽ nó chẳng dám đốt đâu
- Con người đã đến lúc liều mạng thì phóng hỏa cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.
- Cái bọn khô-khon, chúng nó chúa là dễ nổi nóng. - Afonka Ozerov cười nhạo.
Người lạ mặt vung cái mũ dạ về phía Afonka:
- Thế anh là người gì?
Gã Afonka chúm cái miệng rỗ nhằng rỗ nhịt, nhổ một bãi nước bọt ra vẻ khinh bỉ, rồi dạng chân nhìn theo những tia nước bọt rơi xuống đất.
- Tôi là người Cô-dắc, còn anh có phải dân Di-gan không?
- Không. Tôi cũng như anh, cả hai chúng mình đều là người Nga.
Anh nói láo! - Afonka nói dằn từng tiếng.
- Người Cô-dắc bắt nguồn từ người Nga đấy. Anh có biết điều đó không?
- Còn tôi thì tôi bảo cho anh biết tổ tiên của người Cô-dắc là người Cô-dắc.
- Xưa kia những người nông nô bỏ bọn địa chủ, chạy trốn đến vùng sông Đông, chính họ đã được gọi là Cô-dắc đấy.
- Thôi anh bạn thân mến ạ, anh hãy cứ đi con đường của anh. - Gã cụt tay Aleksey nắm chặt những ngón tay xưng vù, khuyên bằng một giọng tức tối cố trấn tĩnh và nháy mắt càng dữ.
- Trong thôn lại đến thêm một thằng chết tiệt? Chà, đồ chó chết, nó lại muốn biến mình thành dân mu-gích.
- Nó là đứa nào thế hả? Cậu có biết không, Afonka?
- Nó là một thằng cha nào đó mới đến đây. Nó thuê phòng ở nhà mụ lác Lukeska đấy.
Bây giờ mà đuổi theo thì đã muộn. Bọn Cô-dắc kéo nhau ra về, họ vừa đi vừa bàn tán sôi nổi về trận ẩu đả vừa nãy.
* * *
Đêm ấy, ở một nơi trên đồng cỏ cách thôn tám vec-xta, Grigori nằm cuộn tròn trong chiếc áo choàng lông cứng rất bền, buồn rầu nói với Natalia:
- Natalia cứ như một người xa lạ thế nào ấy… Natalia chẳng khác gì vừng trăng kia: không làm tôi lạnh, cũng chẳng sưởi cho tôi ấm. Tôi nói Natalia đừng giận, nhưng tôi không yêu Natalia. Tôi đâu muốn nói như thế, nhưng rõ ràng là không thể sống mãi như thế nầy được nữa rồi… Tôí thương Natalia, và hình như trong những ngày gần đây chúng ta có gần gũi nhau hơn, nhưng trong lòng vẫn chẳng cảm thấy chút gì… Hoàn toàn trống rỗng. Y như cánh đồng cỏ trong lúc nầy.
Natalia không nói gì, nàng chỉ ngước nhìn lên cánh đồng sao mà mình không tài nào với tới, nhìn tấm màn hư ảo và âm thầm của những đám mây chập chờn trên đầu hai người. Từ trên kia, trên tít khoảng không xanh thẫm, vài con sếu lạc đàn cất lên những liếng gọi lanh lảnh như tiếng chuông bạc.
Từ lớp cỏ cuối mùa xông lên một mùi hương u uất, đầy tử khí. Ở một chỗ nào đó trên ngọn gò, lấp loáng ánh lửa đo đỏ nhỏ xíu còn lại trong đống củi mà những người đi cày đã nhóm…
Grigori thức giấc trước khi trời hửng. Tuyết phủ trên tấm áo choàng dầy tới hai véc-sốc. Đồng cỏ nằm chết lịm dưới lớp tuyết đầu mùa nhấp nhoáng một màu xanh đồng trinh. Bên cạnh chỗ nghỉ đêm còn hằn rõ những vết chân xanh xanh của con thỏ bị lớp tuyết mới rơi làm cho lạc đường.

6


Từ những thời rất xa xưa các cụ đã truyền lại rằng nếu trên con đường đi Minlerovo mà một người Cô-dắc đơn thương độc mã chạm trán với vài người Ukraina (các làng của người Ukraina bắt đầu từ thôn Hạ Yablovsky và kéo dài tới Minlerovo trên một khoảng bảy mươi lăm vec-xta) mà không nhường đường thì sẽ bị những người Ukraina kia đánh cho thừa sống thiếu chết. Vì thế hễ họ lên trấn là phải có mấy chiếc xe cùng đi để nhỡ có một cuộc chạm trán trên đồng cỏ thì cũng không sợ đấu khẩu.
- Nầy, thằng khô-khon! Tránh đường mau? Đồ chết tử chết tiệt, mày sống ngụ cư trên đất của người Cô-dắc mà không muốn tránh cho chúng ông đi hay sao?
Cả đến người Ukraina cũng không cảm thấy thoải mái khi phải chở thóc ra kho thóc Paramonovskaia bên sông Đông. Tại đấy những cuộc đánh lộn thường nổ ra vì bất cứ nguyên nhân nhỏ mọn nào, dù chỉ vì hai tiếng “khô-khon”. Hễ “khô-khon” là choảng nhau liền.
Một trăm năm trước đây đã có một bàn tay tìm mọi cách gieo rắc trên mảnh đất nầy hạt giống của sự bất hoà giữa các tầng lớp và vun bón chăm sóc cho nó đâm chồi nảy lộc. Trong các cuộc loạn đả, máu của người Cô-dắc cũng như máu của dân ngụ cư, Nga và Ukraina đã tưới đẫm mảnh đất nầy.
Hai tuần sau vụ đánh nhau ở nhà máy xay, viên cảnh sát trưởng và viên dự thẩm trên trấn đã xuống thôn.
Người đầu tiên bị gọi tới thẩm vấn là Stokman. Viên dự thẩm là một công chức còn trẻ, xuất thân trong một gia đình quý tộc Cô-dắc.
Hắn lục lọi trong cái cặp, hỏi:
- Trước khi đến đây ông ở đâu?
- Ở Rostov.
- Năm một nghìn chín trăm linh bảy vì sao ông bị kết án tù?
Stokman nhìn lướt qua cái cặp và đường ngôi lệch đầy gàu trên cái đầu cúi gầm của viên dự thẩm.
- Vì gây mất trật tự.
- Hừ-ừ-ừm… Thế hồi ấy ông làm việc ở đâu?
- Ở xưởng sửa chữa xe lửa.
- Nghề nghiệp?
- Thợ nguội.
- Ông có phải là dân Do Thái không? Có phải là dân công giáo mới theo đạo không?
- Không. Tôi nghĩ rằng…
- Tôi không cần biết ông nghĩ gì. Ông đã bị đi đày phải không?
- Vâng, có.
Viên dự thẩm ngẩng đầu lên khỏi cái cặp. Hắn nhay nhay cặp môi cạo nhẵn nhụi, đầy mụn nhọt:
- Tôi khuyên ông nên đi khỏi nơi nầy… - Rồi hắn tự nói với mình - Mà mình cũng phải làm cho kỳ được việc đó…
- Vì sao vậy, thưa ngài dự thẩm.
Trả lời câu hỏi ấy lại là một câu hỏi:
- Hôm xảy ra vụ đánh nhau ở nhà máy xay ông đã nói những gì với những người Cô-dắc địa phương?
- Thật ra…
- Thôi, ông có thể ra ngoài.
Stokman bước ra khỏi sân thượng của nhà Mokhov (bọn quan lại bao giờ cũng tránh ở nhà trọ và đến ở nhà Sergey Platonovich) rồi nhún vai, ngoái cổ lại nhìn hai cánh cửa sơn.

7


Trời không chuyển sang mùa đông. Tuyết đã rơi trước lễ Đức mẹ, nhưng sau ngày lễ người ta lại có thể cho gia súc ra ăn cỏ ngoài đồng. Gió nồm thổi suốt một tuần, trời ấm lại, mảnh đất lại tỉnh táo, ngoài đồng cỏ, cỏ xanh cuối mùa loăn xoăn như rêu cố nở vớt những đoá hoa tươi thắm.
Thời tiết ấm trở lại cho đến ngày lễ thánh Misen. Sau đó lại bắt đầu rét ngọt, tuyết đổ xuống như trút, và mỗi ngày một rét dữ. Lại rơi thêm một phần tư ác-sin tuyết. Trong các vườn rau hoang vắng ven sông Đông, những chuỗi vết chân thỏ hình cánh hoa chạy qua bên dưới những dãy hàng rào tuyết phủ đến ngọn, nom như những hình thêu rua trên áo các cô gái. Phố xá không một bóng người.
Khói phân khô bốc lên tãi ra khắp thôn. Vài con quạ đen tìm đến chỗ có người ở đi đi lại lại gần đống tro đổ ven đường. Xe trượt tuyết chạy trong thôn vạch thành những đường ngoằn ngoèo trông như những dải vải xanh bạc màu.
Một hôm trên bãi họp việc làng có một cuộc họp: sắp đến ngày chia phần chặt củi. Dân trong thôn, kẻ áo da dài, người áo da ngắn, đứng chen chúc bên thềm nhà hội đồng, những chiếc ủng dạ dẫm ken két. Vì lạnh nên mọi người ùa cả vào trong nhà. Những người già cả, râu bạc như cước, được trọng vọng thì được ngồi ở cái bàn bên cạnh lão ataman và viên thư ký. Còn bọn Cô-dắc ít tuổi hơn, râu đủ các màu hoặc chưa có râu thì đứng túm tụm từng đám, chuyện trò ầm ĩ qua những cái cổ ấm của áo lông cừu. Viên thư ký viết những dòng li ti trên một tờ giấy. Lão ataman nhìn qua vai hắn xem hắn viết. Trong khi đó căn phòng của nhà hội đồng ầm ĩ những giọng nói cố nén thầm:
- Cỏ bây giờ thì…
- Hừ-hừ… Cỏ ngoài bãi còn cho bò ngựa ăn được, chứ trên đồng cỏ thì chỉ có loại linh lăng hương chẳng được tích sự gì.
- Thời các cụ xưa có thể thả bò ngựa cho ăn cỏ tới Nô-en cơ đấy.
- Thế thì thú cho bọn Kalmys lắm nhỉ?
- Hừ-ừ-ừm…
- Cổ của lão ataman cứ như cổ chó sói ấy: lão có xoay đầu được đâu?
- Lão bạnh cổ ấy ăn hốc lắm vào, béo như con lợn, thật là của quỷ!
- Thế nào ông thông gia, ông sợ lạnh à? Sao phải mặc một cái áo da ghê gớm như thế này…
- Hôm nay có thằng Di-gan bán chiếc áo da.
- Một đêm Nô-en, bọn Di-gan ngủ trên đồng cỏ, chẳng có gì đắp. Một thằng đắp cái lưới đánh cá, ruột già ruột non lạnh cứng cả lại. Nó tỉnh dậy, thò một ngón tay qua mắt lưới, rồi bảo mẹ nó: “Hừ-hừ, mẹ ơi, sao ngoài sân lạnh dữ đến thế nầy!”.
- Lạy Chúa tôi, đường trơn đến nơi rồi.
- Đến phải đóng móng sắt cho bò mất, chẳng còn cách nào khác cả.
- Mấy hôm nọ mình đi chặt liễu trắng ở khe Con quỷ, đẹp đẹp là.
- Zakha à, có cài khuy quần vào không… Cóng sun lại thì cái mụ nhà bác đến tống cổ bác đi thôi.
- Này, bác Apdeit, bác chăn con bò mộng giống của thôn đấy phải không?
- Tôi không nhận chăn nữa rồi. Mụ Paranca Mrykhina chăn đấy. Mụ ta bảo: “Tôi góa chồng, chăn cho vui cửa vui nhà”. Tôi bảo: “Chịu khó mà chăn, may ra còn sinh con đẻ cái…”
- A-hà-hà-hà-hà!
- Ô-khồ khồ-khồ-khồ!
- Thưa các cụ bô lão! Cái chuyện chia củi chúng ta sẽ giải quyết thế nào đây? Khẽ chứ nào!
- Tôi bảo rằng nếu có sinh con đẻ cái… tôi sẽ làm bố đỡ đầu cho…
- Yên lặng một chút! Chúng tôi tha thiết đề nghị!
Cuộc họp bắt đầu. Lão ataman vuốt cái na-xê-ca (gậy tượng trưng cho chức quyền ataman) lấm tấm hơi nước, réo họ tên những người được chia, hơi lão thở ra trắng như khói và thỉnh thoảng lão lại đưa ngón tay út lên gỡ những miếng băng nhỏ trên râu. Sau lưng lão, bên cái cửa luôn đập thình thình, người ta chen chúc, hơi bốc ngùn ngụt, tiếng sì mũi ầm ĩ.
- Thứ năm không thể lấy làm ngày đốn củi được đâu! - Gã Ivan Tomilin nghiêng cái đầu đội mũ cát-két màu lam của lính pháo binh, xát xát hai cái tai đỏ tía, cố hét át tiếng lão ataman.
- Tại sao vậy?
- Nầy cái anh pháo thủ hạng bét kia, giứt béng hai cái tai đi cho xong!
- Chúng ta sẽ khâu thay vào cho hắn hai tai bò.
- Thứ năm, đến nửa thôn phải tập trung đi chở cỏ rồi còn gì. Chúng ta hãy bàn cho kỹ đã!
- Thế thì đi đốn củi ngày chủ nhật vậy.
- Thưa các cụ bô lão?
- Chẳng sao cả!
- Chúc mọi sự tốt lành!
- Khư-ừ-ừ-ừ-ừ!
- Khô ồ-ồ-ồ ồ!
- Khà à-à-à-à!
Lão già Matvey Casulin vươn mình qua cái bàn lung lay như răng bà lão, cầm cái nạng làm bằng gỗ tần bì nhẵn thín xỉa xỉa về phía Tomilin. Lão bực tức rít lên:
- Cái chuyện cỏ hãy để lại đã! Có gì phải lo cơ chứ? Việc ấy là việc chung… Anh vốn dĩ chỉ quen chọc gậy bánh xe mà thôi. Anh bạn trẻ của tôi ạ, anh xuẩn vừa chứ! Đây nầy! Anh hãy xem! Đây này…
- Chính lão mới là cái thằng đến già mà vẫn phải dựa vào trí khôn của láng giềng… - Gã cụt tay Aleksey đứng ở những hàng sau nhô đầu lên phía trước nói liến thoắng. Gã nháy mắt lia lịa, bên má thủng lỗ chỗ giật giật như lên cơn thần kinh.
Đã sáu năm nay, gã mang thù với lão Casulin chỉ vì một mẩu đất cày dôi. Mùa xuân năm nào gã cũng nện cho lão già một trận, mà của đáng tội, lão kia cũng chỉ chiếm của gã một mảnh đất bằng một phần tư con chim sẻ, nhăn mặt một cái là có thể nhổ phẹt bãi nước bọt từ bên này sang bên kia.
- Thôi câm đi, cái thằng kinh giật!
- Tiếc là quá xa, không với tới, nếu không ông đã cho mày một quyền đổ máu mũi rồi!
- Này, cái thằng cụt tay nháy mắt!
- Thôi cả hai im đi, lại gây sự với nhau rồi!
- Có muốn cắn nhau thì cút ra sân mà cắn nhau! Đúng thế đấy.
- Thôi đi, Aleksey, cậu xem kìa, lão già đã hết hồn hết vía rồi, cái mũ lông trên đầu lão đang nảy bần bật lên kia kìa.
- Những ai đánh nhau cãi nhau thì cho vào nhà giam!
Lão ataman đấm mạnh xuống chiếc bàn ọp ẹp:
- Tôi gọi cảnh sát bây giờ đây! Có im đi không!
Những tiếng ầm ầm lặng đi, lan dần xuống tới những hàng cuối cùng rồi im hẳn.
- Thứ năm trời rạng là đi đốn củi ngay.
- Thưa các cụ bô lão, các cụ thấy thế nào?
- Mong mọi sự tốt lành!
- Cầu Chúa che chở!
- Ngày nay chúng nó không chịu nghe lời người già nữa rồi…
- Không lo, rồi chúng nó sẽ phải vâng lời thôi. Chẳng nhẽ không kiếm được cách nào trị chúng nó hay sao? Cái thằng Aliosa thổ tả nhà tôi, định đánh cả tôi. Tôi đã làm cho nó phải câm miệng ngay: “Tao sẽ ra trình với ông ataman và bô lão trong thôn, người ta sẽ lôi mày ra bãi họp việc làng mà nện cho một trận…”. Thế là nó phải biết thân ngay, phải nằm rạp xuống như ngọn cỏ dưới nước lũ.
- Còn việc này nữa, thưa các cụ bô lão, tôi vừa nhận được lệnh của ông ataman trấn. - Lão ataman thôn đổi giọng, xoay xoay đầu, cái cổ đứng của chiếc áo quân phục nâng hẳn lên, siết chặt lấy cổ lão. - Thứ bảy này, những ai đến tuổi tráng đinh đều phải làm lễ tuyên thệ. Trước lúc trời tối đã phải có mặt ở nhà hội đồng trấn.
Ông Panteley Prokofievich co bên chân thọt, đứng bên cạnh ông thông gia ở chỗ cái cửa sổ sát với cửa ra vào. Miron Grigori phanh chiếc áo da dài ngồi trên bậu cửa sổ, một nụ cười lấp loáng sau chòm râu hung hung. Sương muối long lanh trên hai hàng mi ngắn cũn, trắng phếch. Những cái nốt ruồi nâu to tướng mọng máu vì lạnh xám ngắt đi. Cạnh đấy, một đám Cô-dắc trẻ hơn đứng túm tụm, nháy mắt cho nhau, mỉm cười. Lão Apdeit, biệt hiệu là Vua nói phét, kiễng chân đứng lắc lư giữa đám với chiếc mũ lông đỉnh màu lam có đính chữ thập bạc của trung đoàn Atamansky lật ra sau cái gáy phẳng lì. Apdeit cùng tuổi với ông Panteley Prokofievich nhưng chưa có vẻ gì là già, cặp má lúc nào cũng đỏ hồng hồng như quả táo chín.
Apdeit có đi lính trong trung đoàn ngự lâm Atamansky. Lúc đi lão còn mang cái họ là Xinhilin, nhưng lúc về lão đã trở thành… Vua nói phét.
Lão là người đầu tiên trong thôn được biên chế vào trung đoàn Atamansky và một điều quái đản đã xảy ra với lão Cô-dắc nầy, Apdeit đã lớn lên cũng như tất cả các thanh niên khác, chỉ phải cái hồi ít tuổi hơi ngớ ngẩn một chút, nhưng đi lính về thì mồm mép liến thoắng không lúc nào ngơi. Ngay hôm đầu, vừa về thôn, Apdeit đã bắt đầu kể cho mọi người nghe những mẩu chuyện lạ lùng về thời gian lão đóng trong cung điện của vua Nga, và về những việc phi thường lão đã làm ở Peterburg. Đầu tiên người ta còn kinh ngạc, há hốc miệng ra nghe, tin là thật, nhưng sau cũng biết là Apdeit nói khoác. Quả thật từ khi các cụ thành lập thôn này cho đến nay, chưa từng thấy có một tay nói khoác như thế bao giờ. Khi đã có chứng cớ rành rành là những chuyện kỳ dị của lão đều do lão bịa ra, người ta cười ngay vào mũi lão, nhưng lão cũng chẳng đỏ mặt (có lẽ lão cũng có đỏ mặt đấy, nhưng vì da lão lúc nào cũng đã đỏ rồi nên người ta không nhận ra thôi) và sau đó vẫn tiếp tục nói khoác như thường. Về già, lão càng thêm điên cuồng rồ dại. Nếu bị hỏi vặn đến cứng lưỡi thì lão nổi khùng, gây sự đánh nhau, nhưng nếu người ta lặng thinh, chỉ mỉm cười chế nhạo thì lão càng một tấc đến trời, bất chấp những lời thiên hạ chế giễu.
Trong công việc làm ăn, Apdeit là một tay Cô-dắc tháo vát, chăm chỉ cần cù, việc gì cũng làm đâu vào đó, có khi còn khôn ngoan ranh ma nữa là khác. Nhưng hễ động đến chuyện lão đi lính ở trung đoàn Atamansky… là bất cứ ai cũng phải khoát tay vì ngạc nhiên hay ôm bụng ngồi xuống đất mà cười nôn ruột.
Hôm nay Apdeit lại lắc lư trên đôi ủng dạ mòn gót, đứng giữa một đám Cô-dắc xúm đông chung quanh. Lão đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói bằng một giọng trầm trầm đầy vẻ nghiêm trọng:
- Những thằng Cô-dắc ngày nay hoàn toàn là của vứt đi. Loắt choắt, nhỏ bé, chẳng được tích sự gì cả. Bất cứ thằng nào cũng xỉ mũi bẻ cái làm đôi được. Nói tóm lại… - Lão mỉm một nụ cười khinh bỉ, lấy mũi ủng di di bãi nước bọt. - Ở trấn Vosenskaia tôi đã từng thấy những xương người chết, đó mới thật là người Cô-dắc, đúng thế đấy!
- Đào được ở đâu thế, bác Apdeit? - Gã Anikey mặt mũi nhẵn thín vừa hỏi vừa hích khuỷu tay vào gã đứng bên.
- Thôi ông bạn đồng ngũ ơi, tết nhất đến nơi rồi, đừng khoác lác nữa làm gì. - Ông Panteley Prokofievich nheo cái mũi mỏ quạ, lắc lắc chiếc vòng tai. Ông vốn không ưa những chuyện ba hoa.
- Không đâu ông bạn ạ, từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi có nói điều gì không đúng sự thật bao giờ đâu,-Apdeit tuyên bố rất long trọng rồi ngạc nhiên giương mắt nhìn Anikey run bần bật như lên cơn sốt rét.- Tôi đã được thấy những cái xương người chết ấy, hôm người ta làm nhà cho cậu em vợ tôi. Vừa bắt đầu đào móng là quật lên được một ngôi mộ. Đúng là xưa kia ven sông Đông, ở gần nhà thờ đã có một cái bãi tha ma.
- Thế những cái xương ấy như thế nào? - Ông Panteley Prokofievich đã sắp sửa bỏ đi chỗ khác, nhưng lại bực mình hỏi thêm.
- Tay thì thế này này. - Apdeit vung rộng hai tay như hai cái cào.- Còn cái đầu, thật đấy, tôi không nói ngoa đâu, chẳng kém gì một cái nồi Ba Lan.
- Này bác Apdeit ạ, tốt nhất bác hãy kể cho bọn trẻ nghe chuyện bác bắt tên cường đạo ở Saint Peterburg thì hơn. - Miron Grigorievich xúi thêm rồi khép tà áo lông, tụt trên bậu cửa sổ xuống.
- Chuyện ấy thì có gì mà kể. - Apdeit vờ khiêm tốn.
- Thôi kể đi bác?
- Tôi van bác đấy?
- Nể chúng tôi một chút, bác Apdeit!
- Thôi được câu chuyện đã xảy ra như thế này này. - Apdeit húng hắng ho, lấy trong túi quần ra một túi thuốc lá. Rồi lão khum khum bàn tay, dốc ra ít thuốc vụn và bỏ lại vào túi thuốc hai đồng tiền đồng rơi trong đó ra. Xong đâu đó lão mới sung sướng đưa mắt nhìn một lượt tất cả những người đứng nghe. - Có một tên hung thủ bị bắt vừa vượt ngục, trốn khỏi pháo đài. Đã tìm khắp chốn khắp nơi mà chẳng thấy bóng vía nó đâu cả. Quan lớn quan bé đều chẳng còn biết đằng nào mà lần. Chim trời cá nước, thế là biệt tăm biệt tích? Đến đêm ngài sĩ quan giám thủ cho gọi mình. Mình bèn lên gặp… Phải… Quan giám thủ nói: “Anh hãy vào cung bái yết hoàng đế bệ hạ… Hoàng đế cho vời anh đấy”. Tất nhiên mình cũng có lo, nhưng vẫn cứ đến. Mình bước vào, đứng nghiêm và Người, đấng Đại ân đại đức của chúng ta, đưa tay vỗ vai mình và bảo: “Có chuyện thế nầy, Ivan Apdeit ạ, tên hung phạm nguy hiểm nhất đối với quốc gia đã trốn mất rồi. Dù phải thăng thiên độn thổ, nhà ngươi cũng phải tìm bắt cho được nó. Nếu không đừng vác mặt về trông thấy trẫm nữa!”. Mình bèn trả lời: “Thần xin lĩnh chỉ, thánh thượng vạn tuế?”. Chà-à-à, các cậu ạ thật là một chuyện làm mình tơi bời ruột gan… Mình bèn vào chuồng ngựa của hoàng đế, thắng những con tuấn mã hạng nhất vào một chiếc troika (Một loại xe ba ngựa kéo, rất nhẹ, có thể dùng làm xe thi), thế là xuất phát, xuất phát. - Apdeit châm thuốc hút, rồi đưa mắt nhìn một lượt những người đang cúi đầu lắng nghe. Lão phấn khởi hẳn lên, cất giọng oang oang qua làn khói thuốc chập chờn quanh đầu - Ngày rong ruổi, đêm ruổi rong, đến ngày thứ ba thì tóm cổ được cu cậu ở gần Moskva. Mình quẳng luôn anh bạn thân mến ấy lên xe rồi lại đường cũ đánh nước mã hồi. Nửa đêm mới về đến nơi, từ đầu đến chân những bùn là bùn, nhưng mình vẫn đi thẳng đến chỗ Ngài ngự. Tất cả các công tước, bá tước to nhỏ đủ mọi kiểu không cho mình vào, nhưng mình vẫn cứ vào. Phải… Mình gõ cửa: “Muôn tâu thánh thượng, thần xin phép được vào. Ngài ngự hỏi: “Ngươi là ai thế?”. Mình thưa: “Tâu thánh thượng, thần đây, Ivan Apdeit đây”. Trong nhà lục đục loạn cả lên, rồi mình nghe thấy chính Ngài ngự quát: “Bà Maria Fedorovna (tên cúng cơm của hoàng hậu) đâu? Dậy mau lên, mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy?”…
Những hàng phía sau phá lên cười như nắc nẻ. Viên thư ký đang đọc tờ thông báo về gia súc bị thất lạc bị tắc ở câu: “chân trái vá trắng tới gót”. Lão ataman vươn cổ như con ngỗng, giương mắt nhìn đám người đang cười ngặt nghẽo.
Apdeit bỏ chiếc mũ lông ra, cau mày, ngơ ngác đưa mắt nhìn từng người một.
- Hượm đã nào!
- Ô-hô-ha-ha-ha!
- Chao ôi, chê-ê-ết cười được!
- Khặc-khặc-khă-khă-khặc!
- Apdeit, cái con chó hói, ô-hô-hô!
- “Mang samova ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy!”… Ái chà chà!
Những người đến họp bắt đầu ra về. Những cái ngưỡng cửa làm bằng gỗ ở thềm bị lạnh giá cọt kẹt mãi không thôi. Stepan Astakhov cùng một gã Cô-dắc đang vật nhau trên đống tuyết bị dẫm nát bên cạnh nhà hội đồng cho nóng người. Gã nầy cao lớn, chân dài nghêu, là chủ cái máy xay gió kiểu Hà Lan.
- Bẻ quặt tay qua đầu? - bọn Cô-dắc đứng vây quanh mách miếng.
- Stepan, lắc cho nó phọt cám ra đi!
- Cậu không đủ sức chộp được nó đâu? Thằng cha nầy láu cá lắm đấy! - Lão Casulin thích quá, cứ nhảy cỡn như một con chim sẻ vì quá mải mê theo dõi, lão không biết rằng một giọt nước mũi sáng sáng rất to đang lủng lẳng ở đầu cái mũi xám ngoét của lão.

8


Ông Panteley Prokofievich vừa ở chỗ họp thôn trở về đã vào thẳng ngay căn buồng bên, nơi ông vẫn ở với bà già. Mấy hôm nay bà Ilinhitna bị mệt. Khuôn mặt phù thũng của bà đầy vẻ mệt mỏi và đau đớn. Bà nằm dài trên một cái đệm nhồi lông chim rất dầy, lưng tựa vào một cái gối dựng đứng. Nghe tiếng những bước chân quen thuộc, bà quay đầu ra, đưa mắt nhìn đức ông chồng với cái vẻ nghiêm khắc từ lâu đã ăn sâu trên khuôn mặt của bà. Mắt bà dừng lại trên những món râu quăn ướt đẫm vì hơi thở ôm chặt lấy miệng ông chồng, cùng hàng ria ẩm bị nén lại, mọc liền với bộ râu quai nón. Bà phập phồng cánh mũi, nhưng ông lão chỉ mang về hơi lạnh cùng mùi da cừu chua loét. “Hôm nay không có chai bố chai con gì rồi”. - Bà vui vẻ nghĩ thầm rồi đặt lên cái bụng tròn xoe của bà chiếc bít tất đan chưa xong gót cùng với những chiếc kim đan.
- Việc đốn củi như thế nào hả ông?
- Đã quyết định là ngày thứ năm. - Ông Panteley Prokofievich vuốt ria. - Thứ năm, ngay từ sáng, - Ông vừa nhắc lại vừa ngồi xuống cái hòm kê bên cạnh giường. Thế nào, bà thấy trong người thế nào? Có nhẹ nhõm được chút nào không?
Bà Ilinhitna sầm mặt lại:
- Vẫn cứ thế… Các khớp xương đau như dần, khắp người ê ẩm.
- Sao bà cứ ương ương dở dở thế, đã bảo mãi là mùa thu thì chớ có mò xuống nước: Biết mình bệnh khổ bệnh sở như thế thì chớ có dính vào? - Ông Prokofievich phát khùng lên, vừa nói vừa cẩm cái nạng ngoáy những cái vòng rộng trên mặt đất. - Nhà còn ít đàn bà hay sao? Cái đống đay của bà thật ba lần đáng nguyền rủa: đi mà ngâm nước cho nó, để rồi bây giờ… Trời ơi là trơ-ơ-ời! Khổ quá lắm!
- Đay thì không thể để hỏng được. Mà đàn bà con gái có đứa nào ở nhà đâu? Thằng Grisca và vợ nó thì đi cày, thằng Petro và con Đaria thì chúng nó đưa nhau đi đâu không biết.
Ông già hà hơi vào hai bàn tay chụm vào nhau, cúi xuống sát giường.
- Con Natasa thế nào hả bà?
Bà Ilinhitna sôi nổi hẳn lên, giọng bà trả lời đầy vẻ lo lắng:
- Tôi cũng chẳng biết làm thế nào nữa. Hôm kia nó lại khóc. Lúc ấy tôi ra sân gia súc, thấy cửa nhà thóc có người mở. Tôi định đến đóng lại, nhưng người vừa bước vào thì đã thấy con bé đứng bên cái vựa kê. Tôi hỏi nó: “Con yêu của mẹ, con làm sao thế?”. Nó trả lời: “Con nhức đầu thế nào ấy, mẹ ạ”. Sự thật là như thế nào thì tôi hỏi sao nó cũng không hé răng.
- Hay nó ốm chăng?
- Không đâu, tôi đã hỏi kỹ rồi… Chỉ sợ có đứa nào bùa chài hại nó, hoặc có chuyện gì với thằng Grisa thôi…
- Hay là thằng ấy với con ấy… nhỡ ra còn tằng tịu với nhau?
- Ông làm sao vậy, cái ông lão này? - Bà Ilinhitna hoảng sợ vỗ tay đen đét. - Thế Stepan, nó là một thằng ngớ ngẩn đấy chắc? Tôi chẳng nhận thấy gì cả, không có chuyện gì đâu.
Ông già ngồi thêm một lát rồi bỏ ra ngoài.
Grigori đang ngồi trong phòng của chàng, dùng giũa mài nhọn những cái móc để lắp vào lưới đánh cá. Natalia bôi mỡ lợn rán chảy vào những cái móc rồi lấy giẻ rách bọc cẩn thận từng cái một. Ông Panteley Prokofievich khập khiễng bước qua, đưa mắt nhìn kỹ xem Natalia ra sao. Trên cặp má vàng úa như tàu lá mùa thu của nàng loáng thoáng một màu hồng héo hon. Một tháng nay, Natalia gầy rộc đi, hai con mắt có một cái gì rất đáng thương, chưa từng thấy ở nàng bao giờ. Ông già đứng lại một lát ở cửa. “Chà, nó chăm chút vợ nó thế đấy!”. - Ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn lại lần nữa cái đầu chải mượt của Natalia, từ nãy vẫn cúi gầm xuống chiếc ghế dài.
Grigori ngồi bên cửa sổ vẫn cắm cúi giũa, cái bờm tóc đen rối như bòng bong đập đập trên trán.
- Vứt mẹ tất cả đi! - Ông già bất thình lình nổi xung, mặt đỏ như gấc. Ông quát to, tay nắm chặt cán cái nạng.
Grigori run bắn người, giương mắt nhìn bố, chẳng hiểu ra sao.
- Con định giũa cả hai đầu, cha ạ.
- Tao bảo mày là thôi ngay! Sửa soạn mà đi đốn củi!
- Con sửa soạn ngay đây.
- Xe trượt tuyết chẳng còn một cái chốt nào nữa, thế mà lại móc với miếc. - Giọng ông già có vẻ đã dịu đi. Ông nói xong còn đứng trùng trình một lát ở cửa phòng (hình như ông còn có gì muốn nói thêm) rồi bước ra ngoài và trút hết phần còn lại của cơn giận lên đầu Petro.
Grigori mặc chiếc áo bông ngắn vào rồi còn nghe thấy tiếng bố quát ngoài sân:
- Sao bây giờ còn chưa cho bò ngựa uống nước hả, mày nhòm ngó đến những việc gì hả, đồ mày là đồ gì hả? Đứa nào lấy rơm ở cây rơm bên hàng rào thế này? Tao đã bảo đứa nào là không được động đến cây rơm ở đầu cùng hử? Bọn chết tiệt, có ít rơm tốt nhất đem dùng hết thì sang xuân cày vỡ lấy gì cho bò ăn hử?
Đến hôm thứ năm, còn hai giờ nữa trời mới rạng, bà Ilinhitna đã gọi Daria dậy.
- Dậy đi thôi, nhóm bếp đi thì vừa.
Daria chạy tới bếp lò, trên mình mặc độc một chiếc áo sơ-mi lót, rồi mò mẫm trong ngách tường, tìm được bao diêm, châm lửa.
- Làm bếp quáng quàng lên nhé. - Petro giục vợ. Anh chàng hút thuốc ho sặc sụa, đầu tóc rối như ổ quạ.
- Người ta thương con Natalia hay sao mà không gọi nó dậy? Cái con mặt dày, bây giờ còn ngủ. Để tôi phải tự xé mình ra làm hai hay sao? - Đaria, lầu bầu, giọng ngái ngủ, đầy vẻ tức tối.
- Thì vào đánh thức nó dậy. - Petro bảo vợ.
Nhưng Natalia đã dậy mà không cần ai gọi. Nàng mặc cái áo ngắn vào rồi ra lấy một ít phân khô.
- Đem mồi lửa lại đây! - Nàng dâu trưởng ra lệnh.
- Con Dunhiaska đã bị sai đi gánh nước rồi, mày có biết không. Đaria? - Bà Ilinhitna lê rất vất vả hai cái chân trong bếp, nói khàn khàn.
Trong bếp nặc mùi hốt bố tươi, mùi những đồ thắng ngựa bằng da, mùi hơi người nóng ran. Đaria chạy kéo lê đôi ủng dạ, quăng loảng xoảng những cái nồi gang. Dưới chiếc áo sơ-mi lót màu hồng, hai tay xắn lên đến khuỷu, cặp vú nho nhỏ của chị chàng cứ nẩy tâng tâng. Xem ra cuộc sống có chồng chẳng làm Đaria héo hon tiều tụy chút nào: vẫn cái thân hình dong dỏng, thanh thanh, mềm mại như một nhành liễu đỏ, nom cứ như một cô gái chưa chồng. Đi đứng thì ưỡn à ưỡn ẹo vai đong đưa, chồng quát chỉ nhe hai hàm răng nhỏ sin sít ra cười nhạo, cặp môi đanh ác mỏng dính.
- Đáng là phải bỏ phân khô vào hong từ tối hôm qua. Xếp bên lò thì làm gì chẳng khô rồi - Bà Ilinhitna không vừa ý, lầu bầu.
- Con quên khuấy đi mất, mẹ ạ. Tai hại thật! - Đaria trả lời thay mọi người.
Nấu nướng xong thì trời vừa hửng. Ông Panteley Prokofievich ăn vội quá, húp cháo bỏng cả miệng. Grigori nhai rất chậm, mặt chàng nhăn nhó, mấy cái hòn tròn tròn cứ lên lên xuống xuống bên dưới hai gò má. Dunhiaska đau răng phải buộc chặt lấy má. Petro cứ rình những lúc bố không biết, chốc chốc lại chòng em gái.
Trong thôn đã có tiếng xe trượt tuyết cót két. Vài chiếc xe bò chạy ra sông Đông trong làn sương mai xám xám. Grigori và Petro ra sân thắng bò vào xe. Grigori thở phải không khí lạnh lại hanh, vừa đi vừa quấn chiếc khăn quàng cổ mềm: quà của cô vợ chưa cưới tặng cho anh chồng chưa cưới. Một con quạ đen bay qua sân buông xuống một tiếng kêu phát thỏa sức từ trong họng nó ra. Trong cái lạnh đại hàn nghe rõ mồn một tiếng soàn soạt của hai cánh vẫy chậm rãi, Petro nhìn theo hướng con chim bay yà nói:
- Nó bay về nơi ấm áp, về miền nam đấy.
Một vành trăng lưỡi liềm mỏng manh ẩn hiện trên trời, sau một đám mây nhỏ đang nhuộm hồng, tươi tắn như nụ cườì một cô gái.
Khói từ trong ống khói bốc thẳng lên cao, như một người cụt tay, cổ vươn tới cái lưỡi mài sắc ngọt, vàng óng, xa lắc không sao với tới được của vành trăng khuyết.
Ngay trước nhà Melekhov, sông Đông còn chưa đóng băng. Nhưng sát ven bờ có một dải băng hơi có ánh sáng xanh lá cây bên dưới những đống tuyết bị dồn tới đã rắn chắc lại. Dưới dải băng ấy, nước không bị luồng nước mạnh giữa sông cuốn theo vẫn lừ đừ sủi bọt. Nhưng ra quá giữa sông, khoảng gần bờ bên kia, chỗ những mạch nước chảy xối từ trong cái vách đen ra, có một khoảng nước chưa đóng băng, đen ngòm đến rợn người, nằm giữa một viền tuyết trắng. Trong cái hố nước ấy, vài con vịt trời ở lại qua mùa đông đang hụp xuống ngoi lên, nom chỉ như những nốt ruồi đen.
Mọi người qua sông từ cái bãi giữa thôn.
Ông Panteley Prokofievich không chờ hai con trai, đã đi trước với hai con bò già. Petro và Grigori nán lại một lát rồi cũng đi theo.
Đến chỗ dốc xuống sông hai anh em đuổi kịp Anikey. Anikey thắt lưng vải xanh lá cây. Hắn gài chiếc rìu mới thay cán vào bên cạnh xe trượt tuyết và đi bên hai con bò. Vợ hắn, một người đàn bà nhỏ bé, đau yếu cầm cương. Từ xa Petro đã kêu lên:
- Nầy, bác láng giềng, đem cả bác gái đi theo cơ à?
Anikey vốn là một anh chàng hay cười. Hắn nhảy cỡn tới cái xe của hai anh em:
- Đem theo, đem theo cho đỡ lạnh lùng.
- Gầy như que củi thế kia thì lấy đâu ra hơi ấm?
- Nuôi toàn bằng yến mạch mà vẫn chẳng khá lên được chút nào.
- Hai nhà chúng ta cùng chung một phần củi phải không? - Grigori nhảy trên xe xuống rồi hỏi.
- Nếu cho tôi hút thuốc thì cùng phần.
- Cái anh Anikey này, lọt lòng mẹ đã sống bám vào người khác.
- Của ăn cắp hệt của đi xin, bao giờ ăn cũng ngon hơn. - Anikey cười khà khà, khuôn mặt nhẵn thín như mặt đàn bà của hắn nhăn nhúm lại.
Vợ chồng Anikey và anh em Petro cùng đi với nhau. Một màu trắng khắc nghiệt, trùm lên khu rừng đầy những đám sương muối, rủ xuống như đăng-ten. Anikey đi trước, vừa đi vừa cầm roi quất vào những cành cây trĩu xuống bên trên con đường. Vợ hắn trùm kín người ngồi trên xe bị tuyết xốp nhọn như kim rơi lả tả từng đám xuống khắp người.
- Đồ quỷ sứ, đừng có làm trò khỉ? - Mụ rũ áo phành phạch kêu rầm lên.
- Giúi đầu mụ mẹ ranh xuống tuyết đi! - Petro vừa kêu lên vừa cố quất cái roi cho trúng dưới bụng con bò để thúc cho nó đi nhanh hơn.
Đến chỗ rẽ sang cái khe lở Bà già thì gặp Stepan. Stepan đang đuổi hai con bò đã tháo dây thắng nhưng còn mang ách. Anh ta bước những bước dài, đôi ủng dạ đóng đế da dẫm loạt soạt trên tuyết. Dưới cái mũ đội lệch, bờm tóc xoăn đầy sương muối rủ xuống như một chùm nho trắng.
- Nầy, Stepan, lạc đường à? - Anikey đi đến ngang Stepan thì hỏi to.
- Lạc đường cái gì, mẹ kiếp!… Xe vừa xuống dốc thì đòn trượt húc đánh rầm vào một gốc cây, gãy đôi. Thế là phải quay về.
Stepan vặc thêm một câu tục tĩu rồi bước qua mặt Petro. Dưới hai hàng mi dài, cặp mắt nhạt màu nom như mắt thằng ăn cướp nheo nheo ngang ngược.
- Thế xe quẳng lại đấy à? - Anikey ngoái cổ lại hỏi to thêm.
Stepan chỉ khoát tay. Gã giơ roi quất hai con bò định rẽ sang khoảng đất hoang ven đường và nhìn theo Grigori rất lâu, lúc này Grigori đang lẽo đẽo đi theo xe trượt tuyết. Đến cách cái khe lở thứ nhất không xa, Grigori nhìn thấy một chiếc xe trượt tuyết bỏ chỏng gọng giữa đường. Acxinhia đứng bên cạnh, tay trái nàng khép tà chiếc áo lông kiểu sông Đông, mắt đăm đăm nhìn theo con đường, đón hai chiếc xe đang đi tới.
- Này cô nàng không phải vợ anh, tránh ra ngay không anh cho xe chẹt bây giờ? - Anikey quát.
Acxinhia mỉm cười lui sang bên và ngồi lên chiếc xe bị lật nghiêng không có đòn trượt.
- Đã có bác gái ngồi kia cùng đi với bác rồi đấy!
- Mụ ấy cứ bám lấy tôi như quả ké bám vào đuôi con lợn, nếu không tôi đã mời cô lên rồi.
- Thôi cũng xin giã ơn bác.
Petro đi đến ngang Acxinhia thì liếc nhanh mắt nhìn Grigori.
Grigori đang đi tới, một nụ cười xao xuyến trên môi. Mỗi cử động của chàng đều cho thấy cả một tâm trạng lo lắng và chờ đợi.
- Chào chị láng giềng, chị có khỏe không? - Petro đưa chiếc găng tay lên vành mũ chào.
- Ơn Chúa!
- Xe bị gãy đấy à chị?
- Vâng, xe bị gãy, - Acxinhia kéo dài giọng trả lời, nhưng mắt lại không nhìn Petro. - Nàng đứng dậy, quay nhìn Grigori đang đi tới.
- Anh Grigori Panteleevich, tôi có chuyện cần nói với anh…
Grigori quay sang nhìn Acxinhia rồi nói theo Petro lúc này vẫn tiếp tục đi:
- Anh trông hộ bò nhé!
- Hừ, được, - Petro cười mỉa một cách khả ố, rồi nhét một món ria đắng khói thuốc lá vào miệng.
Hai người đứng trước mặt nhau, chẳng nói chẳng rằng. Acxinhia lo lắng nhìn quanh rồi ngước cặp mắt ướt đen láy nhìn Grigori.
Nàng thở hổn hển, trong lòng vừa xấu hổ vừa sung sướng. Hai má nàng nóng rực, môi khô bỏng.
Hai chiếc xe của Anikey và Petro đã lấp sau cánh rừng sồi.
Grigori nhìn thẳng vào mắt Acxinhia thấy bừng bừng một ánh nũng nịu liều lĩnh.
- Thế nào, anh Griska, anh muốn thế nào thì muốn, chứ thiếu anh, em không sao sống được. - Acxinhia nói giọng rất kiên quyết rồi mím chặt môi, chờ Grigori trả lời.
Grigori không nói gì. Bầu không khí chết lặng bó chặt lấy khu rừng như cái đai sắt. Không gian trong vắt rung lên trong tai như tiếng chuông. Con đường bị mài nhẵn bóng dưới đòn trưọt của những chiếc xe, bầu trời xám xịt với những đám mây rách mướp, khu rừng câm tiếng, thiếp lặng như chết… Chợt có tiếng quạ quang quác ngay gần đấy, Grigori bừng tỉnh sau giấc mơ ngắn ngủi. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, thấy con chim có bộ lông đen bóng hơi phớt ánh xanh lam đang co chân, lặng lẽ vẫy cánh như từ biệt. Grigori bất giác nói như nói một mình:
- Trời sắp ấm rồi. Nó bay về nơi ấm áp… - Chàng rùng mình, bật cười khàn khàn… - Nào… - chàng dim mắt ngây ngất nhìn quanh như một thằng ăn cắp, rồi ôm phắt Acxinhia vào lòng.

9


Cứ tối đến lại có những người rất khác nhau kéo đến gian Stokman thuê của mụ lác Lukesa: Khristonhia, “Bồi” ở nhà máy xay với chiếc áo vét-tông bê bết dầu mỡ khoác trên vai; anh chàng Davydka hay cười sống vất vưởng đã ba tháng nay; anh thợ máy Kotliarov. Anh thợ giày Finka năm thì mười họa cũng lại chơi.
Nhưng người khách đến đều nhất là Miska Kosevoi, một chàng trai Cô-dắc chưa đến tuổi đi lính thường trực.
Đầu tiên mọi người chỉ đánh bài liên miên, nhưng một hôm Stokman đưa ra khéo léo tập thơ nhỏ của Nekrasov (Nicolai Alekseevich Nekrasov (1821 - 1877). Nhà thơ lớn nước Nga, theo phái cách mạng dân chủ). Anh em đọc to và thấy thích. Xong Nekrasov thì chuyển sang Nikitin (Ivan Savich Nikitin (1824 - 1861). Nhà thơ trữ tình Nga, theo phái cách mạng dân chủ), nhưng đến khoảng lễ Nô-en thì Stokman bảo mọi người thử đọc một quyển vở nhàu nát, không có bìa. Trước kia Miska đã tốt nghiệp trường tiểu học của nhà chung, vì thế anh chàng được mọi người bảo đọc to để cùng nghe. Miska nhìn quyển vở nhớp nhúa, con mắt có vẻ coi thường.
- Cắt ra nấu làm mì sợi được. Béo lắm đấy.
Khristonhia phá lên cười khồ khồ, Davydka cũng nhe hai hàm răng trắng lóa ra cười, nhưng Stokman chờ cho mọi người cười xong mới nói:
- Cậu thử đọc xem, Miska. Cuốn nầy viết về người Cô-dắc đấy. Hay lắm.
Miska cúi đầu làm cái bờm tóc vàng óng xõa xuống bàn, và bắt đầu đọc tách bạch từng tiếng: “Lịch sử tóm tắt về tầng lớp Cô-dắc sông Đông”. Đọc xong Miska nheo mắt nhìn tất cả mọi người có vẻ chờ đợi.
- Cậu đọc đi - Kotliarov nói như ra lệnh.
Họ đọc ba tối liền. Về Pugachev, về cuộc sống tự do, về Stepan Radin và Kondrati Bulavin. Rồi họ đọc tới những thời kỳ gần đây. Tác giả vô danh đã dùng những lời dễ hiểu nhưng sâu cay để chế giễu cuộc sống thảm hại của người Cô-dắc, chế giễu các lề thói hủ tục và chế độ cai trị, chế giễu chính quyền của vua Nga và ngay cả tầng lớp Cô-dắc dấn thân làm những tên tay chân giúp vua Nga đàn áp. Mọi người đều bị kích động. Một cuộc tranh luận sôi nổi nổ ra. Khristonhia dựa ngay đầu vào cái dầm trên đầu, nói oang oang như lệnh vỡ. Stokman thì cứ ngồi bên cạnh cửa phòng, hút thuốc bằng cái bót xương có nạm những cái vòng nhỏ, và chỉ cười bằng hai con mắt.
(Emelian Ivanovich Pugachev (chết 1775) thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của nông dân Nga, vốn là lính Cô-dắc, xưng vương, sau những thắng lợi đầu tiên, bị bắt và bị xử tử.
Stepan Radin (chết 1671) thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa của nông dân Nga, bị xử tử sau khi thất bại.
Kondrati Bulavin (1660 - 1707) lãnh tụ cuộc khởi nghĩa của dân Cô-dắc ở miền Nam nước Nga trong hai năm 1707 - 1708, bị xử tử)
- Đúng lắm! Nói thật là chí lý! - Khristonhia nói ngay.
- Không phải là lỗi của chúng ta, chính chúng nó đã làm cho người Cô-dắc đi tới tình trạng nhục nhã thế này. - Miska khoát hai tay đầy vẻ băn khoăn, khuôn mặt rất đẹp có hai con mắt sẫm màu nhăn lại.
Người Miska vạm vỡ, vai và hông rộng ngang nhau, thành thử trông cứ như hình vuông. Cái cổ đần đẫn đỏ như gạch đặt rất vững vàng trên một cái nền chắc nịch như đúc bằng gang. Nhưng chỉ lạ một điều là trên cái cổ như thế lại có một cái đầu nhỏ nhắn, với cặp má trắng mịn mang những đường nét của phụ nữ, cái miệng nhỏ nhưng bướng bỉnh, hai con mắt màu sẫm dưới một bộ tóc loăn xoăn vàng óng rất dầy. Anh thợ máy Kotliarov là một người Cô-dắc cao lớn to xương, tranh cãi rất hăng. Mỗi tế bào của cái thân hình xương xẩu đó đều thấm đẫm các truyền thống Cô-dắc. Kotliarov long lanh hai con mắt lồi tròn xoe để đập Khristonhia và bênh vực người Cô-dắc.
- Cậu biến thành một thằng mu-gích mất rồi, Khristonhia ạ, cậu đừng cãi làm gì vô ích… Trong cái máu bẩn thỉu của cậu, cả một thùng chỉ có được một giọt máu Cô-dắc mà thôi. Bà cụ nhà cậu đã ngủ với một thằng bán trứng ở Voronez đẻ ra cậu chứ gì!
- Sao cậu ngu khổ ngu sở thế?... Chà, cậu đúng là một thằng ngu xuẩn, người anh em ạ. - Giọng Khristonhia trầm trầm. - Mình chỉ bảo vệ sự thật thôi.
- Mình chưa từng đi lính trung đoàn Atamansky bao giờ. - Kotliarov nói ác. - Chỉ trung đoàn Atamansky mới toàn là một phường ngu xuẩn…
- Nhưng các đơn vị khác còn có những thằng điên rồ bằng vạn.
- Thôi cậu im đi, đồ mu-gích!
- Thế mu-gích không phải là người hay sao!
- Chúng nó là mu-gích chính là vì chúng nó được làm bằng vỏ cây, bằng cành khô.
- Người anh em ạ, hồi mình đi lính đóng ở Peterburg, mình đã được thấy đủ hạng người. Và một lần đã có một câu chuyện như thế này, - Khristonhia nhấn rất mạnh vào âm “a” của tiếng cuối cùng. - Bọn mình phải canh gác hoàng cung, nhưng khi yên tĩnh cũng có những giờ phải ra bên ngoài. Ở bên ngoài bọn mình cưỡi ngựa đi dưới chân hoàng thành: hai thằng đi theo hướng này, hai thằng đi theo hướng kia. Hễ gặp nhau lại hỏi nhau: “Tất cả đều bình an vô sự chứ? Không có chuyện nổi loạn chứ?” - “Chẳng có gì cả”, thế là mỗi đằng lại đi một nẻo, nán lại nói với nhau thêm vài câu cũng không được phép. Bọn mình thì người ngợm cũng phải lựa chọn: họ bắt hai thằng cùng đứng ở một cái cửa phải giống nhau như hai giọt nước. Thằng tóc đen đứng với thằng tóc đen, thằng tóc vàng đứng với thằng tóc vàng. Không riêng tóc mà cả khuôn mặt cũng phải giống nhau. Chính vì những chuyện ngu xuẩn ấy mà có lần lão thợ cạo đã nhuộm cả bộ râu của mình. Hôm ấy mình phải đứng gác với thằng Nikifo Meseriakov. Đại đội của mình vốn có một thằng Cô-dắc trấn Tefikinskaia tên là như thế. Thằng quỷ quái ấy, râu tóc nó đỏ rực như lửa ấy. Dịch tả dịch hạch nào biết được vì sao, hai thái dương nó cứ như có lửa cháy bùng bùng. Tìm đi tìm lại mãi mà trong các đại đội chẳng thấy có thằng nào râu tóc cùng màu như thế. Lão đại đội trưởng Báckin bèn bảo mình: “Mày ra ngay hiệu thợ cạo bảo nó nhuộm thật nhanh râu ria đi”. Mình bèn đi nhuộm… Nhưng vừa soi gương thì thấy lạnh cả tim: mình đang cháy! Đúng là mình cháy bùng bùng, hoàn toàn là thế! Mình đưa tay lên nắm lấy râu, ngón tay cứ như phải bỏng. Đúng thế đấy!
- Này, Khristonhia ạ, cậu nói toàn những chuyện ba láp gì ấy! Cậu định bắt đầu nói về cái gì thế hử? - Kotliarov ngắt lời Khristonhia.
- Mình đang nói về con người mà.
- Được thế thì cậu kể nốt đi. Còn bộ râu của cậu thì có quan hệ quái gì đến chúng mình.
- Đây mình nói ngay đây: Một lần mình phải cưỡi ngựa đi tuần. Cùng đi còn có một cậu nữa. Chợt thấy một bọn sinh viên đổ ra từ một góc tường. Đông ơi là đông. Bọn chúng nó trông thấy hai đứa chúng mình bèn hò la rầm lên: “Ha-a-a-a-a…!”. Rồi lại lần nữa: “Ha-a-a-a-a!”. Chúng mình chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao đã bị vây chặt. “Này, hai anh Cô-dắc, hai anh cưỡi ngựa đi chơi đâu thế?”. Mình bèn trả lời: “Chúng tôi đi tuần đây, còn anh thì bỏ dây cương ra, không được nắm như thế!” - mình vừa nói vừa nắm lấy cán gươm. Nhưng gã kia lại nói: “Này, anh bạn đồng hương ơi, anh đừng nghi ngờ gì cả, chính chúng tôi chôn rau cắt rốn ở trấn Kamenskaia đấy, tôi đến đây theo học trường cao… cao cẳng”, đại khái cao chân cao cẳng gì đó. Lúc ấy mình lại thúc ngựa tiến lên, nhưng một gã mũi to rút trong ví ra một tờ mười rúp và bảo: “Này hai anh Cô-dắc, hai anh hãy cầm lấy uống vì vong linh ông cụ nhà tôi, ông cụ nhà tôi nay đã mồ yên mả đẹp rồi”. Gã đưa cho chúng mình mười rúp rồi lấy trong cặp ra một bức chân dung và nói: “Đây là mặt mũi ông cụ nhà tôi đây, hai anh hãy giữ lấy làm kỷ niệm”. Thế là chúng mình nhận tấm ảnh vì không nhận cũng không tiện. Sau đó bọn sinh viên bỏ đi và lại: “Ha-a-a-a-a?”, rồi cứ thế tiến về phía đại nộ (lộ) Nhepxki. Lão đại đội trưởng đem một trung đội phi ngựa từ cổng sau hoàng cung tới chỗ chúng mình. Phi ngựa đến nơi lão ta hỏi: “Có chuyện gì thế?” Mình bèn trả lời: “Vừa có một đám sinh viên đến vây quanh chúng tôi và bắt chuyện. Chúng tôi chiếu theo điều lệnh đã định rút gươm ra chém, nhưng sau họ lại buông chúng tôi ra, vì thế chúng tôi lại đi”. Bọn mình được thay phiên xong bèn nói với lão chánh quản: “Thưa ngài Lukit, chúng tôi vừa kiếm được mười đồng rúp này đây, nhưng chúng mình phải mua rượu uống hết để vong linh ông bố già này được yên nghỉ nơi thiên đàng”, và chúng mình cho lão xem bức chăn (chân) dung. Đến tối lão chánh quản đem vodka tới, bọn mình túy lúy càn khôn hai ngày hai đêm liền, nhưng sau mới vỡ lẽ là bị chơi xỏ. Gã sinh viên nọ, cái thằng chó chết ấy, nó không đưa cho mình ảnh thằng bố nó mà lại đưa bức hình chụp lão trùm phiến loạn người Đức. Mình đã tin lời nó, nhận lấy và đem treo ngay lên đầu giường để tưởng nhớ, vì mình thấy người trên bức chân dung có chòm râu bạc phơ, mặt mày cũng phúc hậu, y như một lái buôn vậy. Nhưng lão đại đội trưởng nhìn thấy lại hỏi: “Đồ thổ tả, mày tha bức chăn dung nầy ở đâu về đây hử?”. Mình bèn trả lời: “Như thế, như thế đấy”. Lão bèn chửi rầm lên, cho mình mấy cú vào quai hàm, rồi lại một chập nữa… Lão gầm lên: “Mày có biết không, đây là lão ataman của chúng nó, là Cácla…”. Chà, mình quên khuấy đi mất rồi. Không biết tên lão ta là gì nhỉ, cầu Chúa ban cho mình trí nhớ…
- Karl Marx? - Stokman mỉm cười khẽ nhắc.
- Đúng đấy, đúng đấy! Đúng lão ta là Karl Marx đấy… - Khristonhia sung sướng nói. - Chính lão đã chơi mình bị một vố suýt chết… Có khi chính đông cong (cung) thái tử Aleksey cũng cùng với các thầy dạy của thái tử tới thăm phòng cảnh vệ. Họ có thể nhìn thấy, và nếu thế thì không biết câu chuyện sẽ như thế nào.
- Thế mà cậu cứ khen bọn mu-gích nữa đi. Xem đấy, chúng nó đã cho cậu một bài học như thế đấy. - Kotliarov giễu Khristonhia.
- Nhưng dù sao bọn mình cũng đã đem mười rúp mua vodka uống sạch. Tuy là uống vì lão Karla râu xồm nhưng dù sao cũng đã uống rồi.
- Vì Karl Marx thì cũng đáng cạn chén lắm đấy, - Stokman mỉm cười nghịch nghịch cái vòng trên cái bót bằng xương vàng khè vì khói thuốc lá.
- Thế ông lấy đã làm được điều gì tốt? - Miska hỏi.
- Lần sau mình sẽ kể, hôm nay khuya mất rồi, - Stokman gõ cái bót vào lòng bàn tay, tống đầu điếu thuốc đã tắt ra.
Sau một thời gian sàng sảy và lọc đi lọc lại rất lâu, trong căn nhà nhỏ của mụ lác Lukeska đã thành lập được một nhóm nòng cốt chừng mười anh chàng Cô-dắc. Stokman là hạt nhân của nhóm, anh kiên nhẫn tiến về phía một mục đích mà chỉ mình anh biết. Như con mọt đục khoét thân một cây gỗ, anh ăn mòn dần những khái niệm và thói quen sơ lược cũ, nhen lên một niềm kinh tởm, căm thù chế độ hiện hành. Đầu tiên anh cũng có vấp phải chất thép lạnh của lòng hoài nghi, nhưng anh vẫn không lui bước, vẫn cứ gặm cho kỳ thủng…

10


Trấn Vosenskaia nằm trên bờ cát thoai thoải ở tả ngạn sông Đông. Trong số các trấn vùng thượng lưu, đó là trấn có trước nhất. Trước kia tên nó vốn là Trigonac, nhưng dưới triều hoàng đế Petr đệ nhất, Trigonac đã bị phá trụi rồi sau đó di tới đây và đổi tên là Vosenskaia. Có thời kỳ Vosenskaia đã từng là một chặng quan trọng trên con đường thủy lớn từ Voronez ra biển Azop. Sông Đông chảy đến trước thị trấn thì uốn cong như chỗ lượn của một cái bao cung Tarta, làm người ta tưởng như nó rẽ sang trái, nhưng khi đến gần thôn Batki, nó lại uy nghiêm tiến thẳng theo hướng cũ, cuốn những làn nước xanh lá cây in màu da trời, qua những nhánh núi đá phấn và những thôn nằm san sát trên bờ bên phải, qua những trấn thưa thớt trên bờ bên trái ra biển, ra tới biển Adôp xanh biếc.
Tới ngang trấn Ust-Khopeskaia, sông Đông hợp làm một với sông Khop, và ở trước mặt trấn Ust-Medvedikaia nó nhận thêm sông Medvedisa. Từ đấy về xuôi nó chảy với cơ man nào là nước giữa những thôn trấn đông dân làm ăn rất phát đạt.
Vosenskaia toàn là cát vàng. Một trấn buồn tẻ, trơ trụi, không có vườn hoa. Trên quảng trường chính có một tòa nhà thờ cổ, xám xịt qua thời gian, sáu dãy phố chạy song song với dòng sông. Ở chỗ sông Đông lượn vòng để rời thị trấn chảy về thôn Batki, trong những đám tiêu huyền um tùm, bắt đầu có một cái hồ nom như một ống tay áo, rộng bằng lòng sông Đông mùa nước cạn. Chỗ cái hồ chấm dứt thì cũng vừa hết thị trấn. Trên một cái bãi nhỏ mọc đầy những bụi gai vàng óng, nhọn như kim, có ngôi nhà thờ thứ hai với cái mái màu xanh lá cây cũng như cái nóc tròn, lẫn với màu xanh của những cây tiêu huyền mọc trên bờ hồ bên kia.
Ra khỏi trấn đi về phía bắc thì toàn là một thứ cát vàng như nghệ, với đám thông còm cõi, những cái khe lở đáy toàn đất sét đỏ nên nước cũng ánh màu hồng. Và trên những khoảng cát bị ngập khi có nước lũ, trên những gò cát to hạt đàng xa, lác đác có vài chòm thôn xóm, vài khu vườn quả bên lề các thôn hoặc vài đám cây liễu lởm chởm màu hung hung, nom như những hòn đảo.
Một ngày chủ nhật tháng mười hai, một đám có tới năm trăm chàng trai Cô-dắc từ tất cả các thôn trong trấn kéo đến đen ngòm trên bãi trước nhà thờ cổ. Trong nhà thờ đang làm lễ mi-sa sắp xong, những nhịp chuông “Tôn xưng Chúa” vang lên dóng dả. Một viên thượng sĩ ra lệnh “tập hợp”. Đó là một lão Cô-dắc khá nhiều tuổi, coi bộ rất hùng dũng, tay áo đeo lon tái đăng. Đám người vừa nãy còn ồn ào láo nháo chạy tản ra rồi đến xếp thành hai hàng dài so le. Vài tên hạ sĩ chạy dọc theo các hàng sửa lại các đoạn lượn vòng hoặc đứt quãng.
- Thành bốn hàng ngang… - Lão thượng sĩ kéo dài giọng khoát tay với một cử động không hiểu có ý như thế nào, rồi hô nốt: - Bước!
Lão ataman trấn đi vào bên trong dãy tường bao. Lão mặc quân phục, chiếc áo ca-pốt sĩ quan mới tinh, đinh thúc ngựa đập vào nhau leng keng. Một tên phái viên quân sự đi theo lão.
Grigori đứng cạnh Mitka. Hai người khẽ nói chuyện với nhau.
- Một bên ủng của mình bó chặt lấy chân, mình không chịu được nữa đâu. - Mitka than vãn.
- Cố mà chịu, rồi sau nầy sẽ làm ataman.
- Họ sẽ lôi cổ đi ngay đấy?
Như để chứng thực cho câu nói của Mitka, lão thượng sĩ lùi một bước, xoay mình trên gót ủng:
- Bên phải… quay!
Năm trăm cặp chân đi ủng quay lạo xạo.
- Vai trái đưa lên trước, đi đều… bước!
Cái cửa xép trên dãy tường bao nhà thờ mở toang, đội hình hàng dọc của đám thanh niên Cô-dắc tiến vào, những cái mũ lông cất khỏi đầu lấp loáng. Tiếng chân bước rầm rập vang lên đến cái nóc bán cầu của nhà thờ.
Lão cố đạo đọc lời tuyên thệ. Grigori đứng đấy chẳng chú ý nghe một lời nào. Chàng liếc nhìn vào mặt Mitka, thấy nó cứ nhăn như bị vì đau và xoay đi xoay lại bên chân bị bó chặt trong chiếc ủng. Cánh tay Grigori giơ lên tuyên thệ đã tê cứng, những ý nghĩ đắm đuối, hỗn loạn, quay cuồng trong đầu óc chàng. Chàng bước tới gần cây thánh giá, hôn chất bạc đã đẫm nước bọt của bao nhiêu miệng người, nhưng cứ hết nghĩ tới Acxinhia lại nghĩ tới vợ. Những hồi ức phiến đoạn liên tiếp thay nhau lóe lên trong óc Grigori như những ánh chớp lằng nhằng chữ chi: khoảng rừng, những thân cây nâu nâu dưới những cái tán xum xuê trắng toát như đeo những đai thắng huy hoàng bằng bạc, cái ánh ươn ướt, sáng bừng bừng trong hai con mắt đen láy của Acxinhia dưới chiếc khăn bịt đầu lồm xồm.
Mọi người quay ra bãi. Lại đứng thành hàng ngũ. Lão thượng sĩ sỉ mũi, lén chùi ngón tay vào mặt lót áo quân phục, rồi bắt đầu nói:
- Bây giờ các anh không còn là trẻ con nữa, mà đã là những tráng đinh Cô-dắc. Đã tuyên thệ thì phải hiểu rõ nhiệm vụ, bổn phận của mình. Một khi các anh đã lớn lên thành tráng đinh Cô-dắc thì phải bảo vệ danh dự của người Cô-dắc, phải vâng lời bố mẹ và phải cư xử cho đúng về tất cả các mặt khác. Trước kia là trẻ con thì còn có thể nghịch ngợm lung tung, có lẽ còn giật bờm tóc của nhau ở ngoài đường, nhưng từ nay thì phải nghĩ tới việc phục vụ sau này trong quân đội. Chỉ một năm nữa là các anh đã trở thành những binh sĩ hiện dịch. - Nói đến đây lão thượng sĩ lại sỉ mũi, lắc cho hết nước mũi trong lòng bàn tay, rồi lại đeo chiếc găng lông thỏ rất đẹp vào và nói:
- Còn bố mẹ anh thì bắt đầu lo trang bị cho các anh thì vừa. Phải sắm cho mỗi anh một con ngựa chiến, nói chung đại thể là như thế… Thôi bây giờ các chàng trai dũng mãnh về nhà, cầu Chúa che chở cho các anh!
Grigori và Mitka ra tới chỗ cái cầu thì đứng lại chờ các bạn trong thôn cùng về. Mọi người đi dọc theo bờ sông. Khói trong các ống khói tan ra bên trên thôn Batki. Vẳng tiếng chuông nhà thờ nhẹ nhàng, lanh lảnh. Mitka chống một đoạn cọc gãy có rất nhiều mấu, khập khiễng đi sau tất cả.
- Cậu tháo ủng ra đi. - Một gã khuyên.
- Mình bị cóng hỏng chân mất. - Mitka đứng lại, trù trừ.
- Cậu cứ mang bít-tất mà đi.
Mitka ngồi xuống tuyết, mím môi mím lợi kéo ủng ra, rồi khập khiễng đi với một bên chân tháo ủng. Lớp tuyết xốp xốp trên đường in rõ vết chiếc bít-tất móc tay rất dày.
- Chúng mình về bằng đường nào bây giờ. - Aleksey Bêtnhiac nói. Nó là một thằng lùn choằn choằn, để bờm tóc rất dài.
- Đi trên sông mà về. - Grigori trả lời thay cho tất cả.
Mọi người chuyện trò huyên thuyên, vừa đi vừa xô đẩy nhau.
Theo thỏa thuận chung, từng người một lần lượt bị vật xuống tuyết rồi bị tất cả những người khác đè lên thành một đống. Trên đoạn đường giữa hai thôn Batki và Gromkovsky, Mitka là người đầu tiên trông thấy một con chó sói vượt sông Đông.
- Này các cậu, có con chó sói độc… nó kia kìa! Hu-u-u-u!...
- A-liu-liu-liu-liu-liu!...
- Hu-u-u!...
Con chó sói chạy thêm vài xa-gien, vẻ lười nhác, rồi nghiêng nghiêng mình đứng lại cách bờ bên kia không xa.
- Tóm lấy nó!...
- Ha!...
- Hu!... Cái con chết tiệt!...
- Mitka ạ, nó lấy làm lạ không hiểu sao mày chỉ đi bít-tất mà không đi ủng đấy.
- Xem kìa, nó cứ đứng nghiêng nghiêng, cổ nó cứng đờ. Nó không quay cổ được đâu.
- Xem kìa, xem kìa, nó bỏ đi rồi!...
Con thú lông xám đen, nom như tạc bằng đá thiên nhiên, duỗi thẳng cái đuôi như cái gậy, đứng lại một lát, rồi bất thình lình nhảy vọt sang bên, hoảng sợ chạy vào đám liễu mọc thành một đường viền trên bờ sông.
Mọi người về tới thôn thì trời đã tối, Grigori đi trên lớp băng về tới ngõ nhà rồi mới leo tới cổng. Trong sân còn ngổn ngang mấy chiếc xe trượt tuyết bỏ không dùng nữa. Một đàn chim sẻ ríu rít trên đống củi xếp bên cạnh hàng rào. Đã ngửi thấy cái mùi quen thuộc của những nơi có người ở, mùi bồ hóng cháy và cái mùi hâm hấp của sân gia súc.
Grigori bước lên thềm, ghé mắt qua cửa sổ nhìn vào trong nhà.
Cây đèn treo tỏa ra trong bếp một thứ ánh sáng vàng đục. Petro đứng dưới ánh đèn, lưng quay ra cửa sổ. Grigori cầm cái chổi quét hết tuyết trên ủng rồi bước vào trong bếp giữa một làn hơi nước mù mịt như đám mây.
- Tôi về rồi đây. Xin chào cả nhà.
- Mày về sớm nhỉ. Có lẽ cóng lắm phải không? - Petro trả lời, giọng vội vã.
Ông Panteley Prokofievich ngồi gục đầu, hai khuỷu tay tì xuống đầu gối. Daria đạp cái guồng kéo sợi quay vo vo. Natalia xoay lưng về phía Grigori, đứng cạnh bàn, nhưng không quay lại.
Grigori đưa nhanh mắt nhìn quanh căn bếp, rồi nhìn kỹ Petro. Nhìn thấy mặt của Petro đầy vẻ chờ đợi lo lắng, Grigori hiểu rằng đã có chuyện gì xảy ra.
- Mày tuyên thệ rồi chứ?
- Rồi.
Grigori từ từ cởi áo ngoài, cố dành thì giờ để điểm thật nhanh trong óc tất cả các trường hợp ngẫu nhiên có thể gây ra bầu không khí chết lặng và cuộc đón tiếp khá lạnh nhạt nầy.
Bà Ilinhitna ở nhà trong bước ra, vẻ mặt có đôi phần bối rối.
“Chuyện Natalia rồi”. - Grigori vừa nghĩ thầm vừa ngồi xuống bên cạnh bố trên chiếc ghế dài.
- Mang ra cho nó ăn tối đi. - Bà Ilinhítca đưa mắt chỉ Grigori và bảo Natalia.
Daria ngừng tiếng vo vo của chiếc guồng quay sợi, khẽ nhún nhảy hai vai cùng cả cái thân hình thon thon chẳng có vẻ gì là của một người đàn bà đã có chồng. Trong bếp lại lặng như tờ. Bên cạnh cái bếp lò dưới đất, hai mẹ con con dê vừa mới sinh nằm sưởi, thỉnh thoảng lại thở phì phì.
Grigori ăn súp bắp cải, chốc chốc lại đưa mắt nhìn Natalia nhưng không thấy mặt nàng. Natalia ngồi chếch với Grigori, đầu nàng cúi gầm xuống đôi kim đan. Ông Panteley Prokofievich là người đầu tiên không chịu nổi cái cảnh tất cả mọi người đều ngậm tăm như thế nầy! Ông húng hắng ho, tiếng ho khàn khàn, rất không tự nhiên.
- Natalia định trở về nhà nó đấy.
Grigori chẳng nói chẳng rằng, cứ vun những miếng bánh mì rơi vãi, viên tròn lại.
- Như thế là vì sao hử? - Ông bố hỏi, và người ta có thể trông thấy môi dưới của ông run bần bật (đó là triệu chứng đầu tiên báo trước một cơn cuồng nộ sắp nổ ra).
- Con cũng chẳng rõ vì sao. - Grigori nheo mắt đẩy cái bát ra rồi vừa làm dấu phép vừa đứng dậy.
- Nhưng tao thì tao biết! - Người bố nói giật giọng.
- Đừng làm rầm lên như thế, đừng ầm cửa ầm nhà lên ông ơi? - Bà Ilinhitna can.
- Nhưng tao thì tao đã biết rõ vì sao!
- Thôi, có việc gì mà phải to tiếng như vậy? - Petro rời chỗ cửa sổ đứng ra giữa phòng. - Đây là một chuyện cần phải giải quyết nhẹ nhàng cho thỏa đáng: muốn ở lại thì ở, chẳng muốn ở thì đi đâu cũng được…
- Tao không trách con Natalia, tuy dù sao đó cũng là một điều nhục nhã và có tội với Chúa. Tao không trách nó: tội lỗi không do nó gây ra, mà chính là do cái thằng chó đẻ này! - Ông Panteley Prokofievich lúc này đã đứng tựa lưng vào bếp lò.
- Thế tôi có lỗi với ai?
- Mày không biết về bản thân mày à? Mày không biết à, đồ khốn nạn?
- Tôi không biết.
Ông Panteley Prokofievich đứng chồm lên, hất đổ cái ghế dài, xông đến sát trước mặt Grigori. Natalia để rơi cuộn len xuống đất, chiếc kim đan tuột ra nảy lên. Con mèo đang ở trên bếp lò nghe thấy tiếng lách cách bèn nhảy xuống rồi vẹo đầu, khòng chân, vờn cuộn len cho lăn tới bên chiếc rương.
- Bây giờ thì tao bảo cho mày biết. - Ông già bắt đầu nói bằng một giọng cố trấn tĩnh và dằn từng tiếng. - Nếu mày không muốn sống với con Natalia nữa thì cút ngay khỏi nhà tao, bước đi đằng nào thì bước! Tao đã nói thế đấy! Muốn bước đi đằng nào thì bước. Ông nhắc lại bằng một giọng bình tĩnh như ngày thường rồi quay lại nhấc cái ghế dài lên.
Dunhiaska ngồi trên giường, sợ quá, cứ tròn xoe con mắt mà nhìn.
- Cha ạ, con nói thế này cha đừng bực mình. - Giọng Grigori trầm nhưng rất vang. - Không phải tự con đi lấy vợ, mà là cha lấy vợ cho con. Con có theo tán Natalia đâu. Nếu bây giờ muốn về với bố thì tùy ý!
- Cả mày nữa cũng xéo khỏi nhà này!
- Thì con xéo.
- Cút mẹ mày đi ngay!
- Tôi đi đây, tôi đi đây, cha chẳng phải giục! - Grigori cầm tay áo kéo lấy cái áo lông ngắn trên giường, lỗ mũi phập phồng, người run bắn lên trong một cơn tức giận điên cuồng, y như bố.
Trong người hai bố con cùng chảy một dòng máu có pha máu Thổ nhĩ kỳ, vì thế trong lúc này, cả hai giống nhau một cách kỳ quặc.
- Mày định đi đâu bây giờ hở con? - Bà Ilinhitna rền rĩ bíu lấy tay Grigori, nhưng Grigori đẩy mạnh mẹ ra và thuận tay đón bắt luôn chiếc mũ lông rơi trên giường xuống.
- Mặc cho nó xéo đi, con chó dái dâm đãng nầy! Cút ngay, đồ đáng nguyền rủa! Xéo, xéo, cút ngay! - Ông già mở toang cánh cửa, gầm lên.
Grigori chạy lao ra phòng ngoài, và những âm thanh cuối cùng mà chàng nghe thấy là tiếng Natalia òa lên khóc.
Màn đêm giá băng trùm lên thôn xóm. Bột tuyết rơi từ trên bầu trời đen kịt xuống, nhọn sắc như kim. Băng trên mặt sông Đông nứt ra, nổ ầm ầm như tiếng đại bác. Grigori thở hổn hển chạy ra khỏi cổng chính. Đầu thôn đằng kia, có những tiếng chó sủa oăng oẳng đủ mọi giọng. Bóng tối mông lung như khói bị thủng lỗ chỗ vì những đốm lửa vàng vàng.
Grigori chạy không mục đích theo dọc phố. Màu đen trong mấy khung cửa sổ của nhà Stepan lấp loáng như kim cương.
- Griska! - Tiếng gào đau khổ của Natalia vọng từ trong cửa.
“Tao không yêu được mày thì sao mày chẳng chết đi cho xong!” - Grigori nghiến răng ken két, càng rảo bước hơn.
- Griska, quay lại đi anh ơi!
Grigori bước lảo đảo như thằng say rượu, rẽ vào cái ngõ đầu tiên, và nghe thấy lần cuối cùng tiếng gọi ai oán, chỉ còn loáng thoáng vì quá xa:
- Griska, anh yêu của em!
Grigori đi ngang qua cái bãi, đến chỗ ngã ba đường thì đứng lại, để điểm trong óc tên tất cả các bạn quen, xem có thể ngủ nhờ nhà ai.
Grigori dừng lại trước nhà Miska Kosevoi. Miska ở tách hẳn ra bên ngoài thôn, ngay dưới chân núi. Bà mẹ, Miska, đứa em gái chưa lấy chồng, và hai đứa em nhỏ: cả gia đình Kosevoi có ngần ấy người.
Grigori bước vào sân, gõ lên cái cửa sổ của căn nhà đắp bằng đất trộn rơm.
- Ai thế?
- Miska có nhà không.
- Có nhà. Nhưng ai thế?
- Mình đây mà, Grigori Melekhov đây.
Miska vừa chợp mắt, ngủ đang ngon, một phút sau mới mở cửa.
- Cậu đấy à Griska?
- Mình đây.
- Đêm hôm thế này cậu có việc gì thế?
- Cho mình vào trong nhà đã, vào trong ấy sẽ nói.
Vào đến phòng ngoài, Grigori nắm lấy khuỷu tay Miska, nghĩ mãi chẳng biết nói sao cho tiện, bực cả mình. Cuối cùng chàng khẽ nói:
- Cho mình qua đêm nay ở nhà cậu nhé… Mình vừa cãi lộn với gia đình… Nhà cậu thế nào, có chật lắm không? Mình thì nằm chỗ nào cũng được.
- Cậu cứ vào đã chỗ nằm cũng sẽ tìm được thôi. Có chuyện gì mà cãi lộn thế?
- Ối chao, người anh em ạ… sau hẵng hay… Cửa nhà cậu ở chỗ nào thế nhỉ? Mình chẳng thấy đâu cả.
Miska sửa soạn cho Grigori nằm trên chiếc ghế dài. Grigori nằm xuống, rồi lấy cái áo lông ngắn trùm kín đầu để khỏi nghe thấy những tiếng thì thầm của bà mẹ Miska ngủ cùng giường với con gái.
“Không biết bây giờ ở nhà thế nào nhỉ? Natalia có bỏ về không nhỉ? Thôi, từ nay cuộc sống sẽ chảy theo một dòng khác rồi. Mình dựa vào đâu bây giờ?”. Nhưng một ý nghĩ đã nảy ra ngay trong đầu óc Grigori: “Ngày mai mình sẽ gọi Acxinhia, sẽ cùng với Acxinhia đi Kuban, đi thật xa khỏi nơi này… thật xa, thật xa…”.
Tuy Grigori đã nhắm mắt, nhưng trước mắt chàng cứ lờ mờ hiện ra những đỉnh núi trên đồng cỏ, những thôn xóm, những thị trấn mà chàng chưa thấy bao giờ, những nơi xa lạ với lòng chàng. Nhưng đằng sau những ngọn núi trập trùng dựng lên như những dãy tường khổng lồ, bên kia con đường xám xịt lại là cả một vùng trời đất xanh ngát như trong thần thoại đang vui vẻ đón chào, thêm vào đó còn có Acxinhia với mối tình nở hoa muộn màng, ngỗ ngược của nàng.
Grigori ngủ thiếp đi với cả một nỗi lòng xao xuyến trước những điều mới lạ khôn lường đang lừ lừ tiến tới. Nhưng trước khi ngủ, chàng còn cố điểm lại xem có cái gì chưa nói ra được cứ đè nặng trong đầu óc mình, nhưng nghĩ đến mấy cũng không ra. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê như thế này, có cảm tưởng như những ý nghĩ trong đầu đang nối tiếp nhau rất trơn tru, đều đặn như một con thuyền đang thuận dòng trôi xuôi, bỗng bị một cái gì, có vẻ như một dải cát ngầm, chặn lại: Grigori cảm thấy rất khó chịu, tức anh ách, và cứ trằn trọc hỳ hục vật lộn với mọi điều ức đoán: “Có cái gì thế nhỉ? Có cái gì ngáng đường mình thế này nhỉ?”
Nhưng sáng hôm sau, lúc Grigori tỉnh dậy, chàng đã nhớ ra: “Còn phải đi lính! Thế thì mang Acxinhia đi đâu bây giờ? Sang xuân đã phải đến tập trung ở trại, đến mùa thu là chính thức vào lính rồi… Đó chính là cái gậy chọc vào bánh xe đấy”.
Ăn sáng xong, Grigori gọi Miska ra phòng ngoài:
- Miska à, cậu đến nhà Astakhov, nói lại hộ với Acxinhia rằng hôm nay trời bắt đầu nhá nhem thì lại chỗ cái cối xay gió nhé.
- Thế còn Stepan? - Miska ngần ngại.
- Cậu thử nghĩ cách xem, cứ làm như đến có việc.
- Được, mình sẽ đi.
- Cậu đi đi! Bảo giúp Acxinhia là thế nào cũng đến nhé.
- Được!
* * *
Lúc trời bắt đầu tối, Grigori đến ngồi bên cối xay gió, hút thuốc trong ống tay áo. Sau lưng cái cối xay, gió thổi ràn rạt giữa những thân ngô khô. Một mảnh vải tuột chỉ đập phần phật trên những cánh quạt đã chốt chặt. Grigori cảm thấy như có con chim khổng lồ đang vỗ cánh bay lượn vòng trên đầu mình, nhưng không bay đi được.
Vẫn chưa thấy Acxinhia đến. Bên phía trời tây, ánh hoàng hôn tím ngát đang phủ lên nền trời vàng đục. Bên phía trời đông, gió thổi một lúc một nhanh, một mạnh. Bóng đêm ập tới đuổi vượt vầng trăng bị vướng trong đám liễu. Khoảng trời trên cái máy xay đang màu da cam với những chỗ bầm xanh bỗng xám xịt lại như một cái thây ma. Từ trong thôn vẫn còn vẳng ra những tiếng động của công việc bận rộn còn lại trong ngày.
Grigori hút liền một lúc ba điếu thuốc. Chàng dúi mẩu thuốc hút dở cuối cùng xuống tuyết rồi đưa mắt nhìn quanh, trong lòng vừa mong vừa giận. Từ cái cối xay gió tới trong thôn, mọi vật cứ mờ dần rồi đen lại như nhựa chưng. Chẳng thấy có ai trong thôn ra. Grigori đứng dậy, vặn lưng, làm xương vai kêu răng rắc, vươn vai rồi bước về phía ánh đèn như mời chào trong khung cửa sổ nhỏ bên căn nhà của Miska. Chàng huýt sáo qua kẽ răng, đã sắp về tới sân thì thiếu chút nữa đâm sầm phải Acxinhia. Có lẽ nàng đang chạy hay ít nhất cũng cắm đầu cắm cổ rảo bước, vì thế cứ hổn hà hổn hển, cặp môi mát rượi thoảng một mùi thanh thanh không biết là hơi gió hay hương cỏ xa xôi trên đồng cỏ.
- Đợi mãi, cứ tưởng em không đến.
- Mãi mới tống cổ được Stepan đi…
- Làm anh chết cóng rồi đây này, cái ả chết dẫm!
- Em thì đang nóng ran đây, để em sưởi cho anh vậy. - Acxinhia mở rộng hai bên tà không cài khuy của chiếc áo lông kiểu sông Đông, choàng quanh người Grigori như dây hốt bố ôm quanh cây sồi - Nhưng anh gọi em có việc gì thế?
- Hượm đã, nhưng buông tay ra… ở đây có người qua lại đấy.
- Có thật là anh cãi lộn với gia đình không?
- Anh bỏ đi rồi. Anh đã đến ở nhà Miska một ngày một đêm… Bây giờ sống như con chó hoang.
- Anh định thế nào bây giờ? - Acxinhia đang ôm lấy Grigori bỗng buông hai tay ra rồi khép tà áo lông như bị lạnh. - Griska ạ, ta vào bên hàng rào đi. Sao lại đứng giữa đường thế này?
Hai người bước sang bên đường. Grigori đá tung một đống tuyết để đứng dựa lưng vào một dãy hàng rào giá băng kêu răng rắc.
- Anh biết không, Natalia bỏ về nhà bố mẹ rồi đấy!
- Không biết… Nhưng thế nào cũng phải về thôi. Nếu không thì ở lại nhà anh làm gì?
Grigori cầm lấy hai bàn tay giá lạnh của Acxinhia, kéo vào trong ống tay áo mình và nắm chặt những ngón tay trên bàn tay nhỏ nhắn của Acxinhia và hỏi:
- Chúng mình sẽ thế nào bây giờ?
- Anh yêu của em, em làm thế nào mà biết được? Anh thế nào thì em cũng thế.
- Em bỏ Stepan chứ?
- Bỏ không thương tiếc gì cả. Ngay bây giờ cũng được.
- Cả hai chúng mình sẽ cùng đi làm thuê ở nơi nào đó, chúng mình sẽ sống được thôi!
- Dù anh với em phải đi chăn bò, anh Griska… Miễn là được sống với anh.
Hai người cứ đứng như thế một lát, đem hơi nóng trong người mình sưởi ấm cho nhau. Grigori không muốn bỏ về, cứ đứng quay đầu về hướng gió, mắt nhắm nghiền, cánh mũi phập phồng.
Acxinhia rúc mặt vào nách Grigori, hít lấy hít để mùi mồ hôi thân thuộc và ngây ngất của chàng. Grigori không nhìn thấy cặp môi dâm đãng, nụ cười sung sướng vì hạnh phúc đã được thực hiện.
- Mai anh sẽ đến nhà Mokhov, may sẽ kiếm được một việc làm.
Grigori vừa nói vừa nắm bàn tay có những ngón tay đẫm mồ hôi của Acxinhia. Acxinhia không nói gì. Và cũng chẳng ngẩng đầu lên. Nụ cười vừa rạng lên trên môi nàng lúc nầy đã như bị gió thổi bay đi đâu mất.
Hai con mắt nàng mở trừng trừng, đầy buồn thảm và hốt hoảng như con thú bị vây bắt. “Nói hay không nói bây giờ?” - Acxinhia chợt nhớ rằng mình đang có mang bèn tự hỏi. “Phải nói mới được”, - nàng vừa quyết định như thế đã rùng mình hoảng sợ, xua ngay ý nghĩ rùng rợn đó. Linh tính của người đàn bà đã gợi cho nàng hiểu rằng bây giờ chưa phải là lúc nói ra chuyện ấy. Nàng hiểu rằng làm thế thì có thể vĩnh viễn mất Grigori, vì chính nàng còn chưa rõ trong hai người đàn ông, người nào là cha của đứa bé đang ngọ nguậy trong lòng mình. Cuối cùng nàng đã không nói nữa.
- Sao em run bần bật thế? Lạnh à? - Grigori vừa hỏi vừa lấy tà áo lông cuốn chặt lấy người Acxinhia.
- Em hơi lạnh một chút… Nhưng phải về thôi, anh Griska ạ. Nhỡ Stepan về nhà lại không thấy em.
- Nó đi đâu thế?
- Em bảo mãi hắn mới sang nhà Anikey đánh bài.
Hai người chia tay nhau. Trên môi Grigori còn lưu mùi hương ngây ngất của cặp môi nàng, cặp môi quyện cái mùi không biết là của gió đông hay mùi hương xa xôi, khó tả của cỏ khô trên đồng sau trận mưa xuân.
Acxinhia rẽ vào một cái ngõ. Nàng khom lưng, bước rảo gần như chạy. Đến trước cái giếng không biết của nhà ai, chỗ gia súc dẫm nát nhoét một đống bùn tích lại từ mùa thu, nàng bước không khéo bị trượt chân trên một mô đất giá băng. Bụng đau nhói, nàng phải nắm lấy một cái cọc hàng rào. Một lát sau thấy bớt đau, nhưng ở bên sườn có cái gì đầy sức sống cựa mình, giận giữ đạp mạnh liền mấy cái.

11


Sáng hôm sau, Grigori đến nhà Mokhov. Sergey Platonovich vừa ở ngoài hiệu về uống trà. Lão ngồi cùng với Atepin trong phòng ăn, tường dán một thứ giấy đắt tiền giả vân gỗ sồi, và đang chuyên trà, một thứ trà đặc sánh, đỏ như rượu Boóc-đô. Grigori để mũ ở phòng ngoài rồi bước vào phòng ăn.
- Thưa ông Sergey Platonovich, tôi xin phép gặp ông một lát.
- À, hình như anh là cậu hai nhà ông Panteley Prokofievich thì phải.
- Vâng, đúng đấy ạ.
- Anh có việc gì thế?
- Tôi muốn hỏi xem ông có nhận tôi vào một chân làm công được không?
Chợt có tiếng cánh cửa rít, Grigori quay đầu lại. Từ trong phòng khách, bước ra một sĩ quan trẻ tuổi, tay cầm tờ báo gấp tư. Hắn mặc quân phục màu xanh lá cây, đeo lon trung úy. Grigori nhận ra viên sĩ quan bị Mitka Korsunov vượt trong cuộc đua ngựa năm ngoái.
Sergey Platonovich đẩy một chiếc ghế dựa cho viên sĩ quan ngồi rồi nói:
- Sao thế, chẳng nhẽ ông cụ nhà anh đã sa sút đến nỗi phải cho con trai đi làm thuê hay sao?
- Tôi không ở với cha tôi nữa.
- Ra ở riêng à?
- Vâng.
- Tôi cũng rất muốn nhận anh vào làm, vì tôi biết gia đình bên ấy lắm, toàn những người hay lam hay làm, nhưng hiện nay lại không thiếu người.
- Có việc gì thế ông? - Viên trung úy đến ngồi vào bàn, rồi đưa mắt nhìn Grigori và hỏi.
- Anh chàng muốn kiếm việc làm.
- Anh có biết chăm nom ngựa không? Đánh xe có càng giữa thắng hai con ngựa có khá không? - Viên trung úy vừa hỏi vừa khuấy chiếc cùi dìa nhỏ trong cái tách.
- Vâng được, nhà tôi cũng nuôi sáu con ngựa của gia đình.
- Tôi đang cần một tay đánh xe. Thế các điều kiện của anh như thế nào?
- Công xá tôi cũng không xin nhiều đâu…
- Nếu thế ngày mai anh cứ tới dinh cơ ông cụ nhà tôi. Anh có biết trại của cụ Litnhitki Nicolai Alekseevich ở đâu không?
- Vâng có biết.
- Cách đây khoảng mười hai vec-xta thôi. Mai vào buổi sáng nhé. Sang bên ấy ta sẽ thỏa thuận với nhau.
Grigori ngập ngừng nán lại một lát. Cầm quả đấm rồi, chàng mới nói:
- Thưa quan lớn, quan lớn cho gặp riêng một lát, tôi có chuyện muốn thưa với quan lớn…
Viên trung úy bước theo Grigori ra khoảng hành lang tranh tối tranh sáng. ánh sáng hồng hồng ngoài sân thượng lọt vào dè sẻn qua những miếng kính mờ.
- Có việc gì thế?
- Tôi không phải chỉ có một mình… - Mặt Grigori đỏ như gấc. - Cùng đến với tôi còn có một người đàn bà. Không biết có kiếm được cho cô ấy một việc nào làm không?
- Vợ anh à? - Viên trung uý mỉm cười hỏi, hai hàng lông mày giương lên, nắng chiếu vào nom hồng hồng.
- Vợ người khác.
- Chà, ra vậy. Cũng được thôi, chúng tôi sẽ sắp xếp để nấu ăn cho bọn đầy tớ. Thế chồng cô ấy đâu?
- Ở ngay đây, cũng người thôn nầy.
- Sao vậy, anh cướp vợ của người ta à?
- Tự cô ấy theo đấy thôi.
- Câu chuyện cũng lãng mạn nhỉ? Thôi được, sáng mai cứ lại. Bây giờ thì anh về được rồi, người anh em ạ.
Grigori đến Yagonoie, dinh cơ của nhà Litnhitki, khoảng tám giờ sáng. Dãy tường bao bằng gạch loang lổ vây quanh cái sân rất rộng, trong sân có những căn nhà phụ, cái ra cái vào chẳng thành hàng lối gì cả: một dãy nhà ngang mái ngói, giữa mặt trước có con số 1910 đắp bằng ngói, nhà đầy tớ, nhà tắm, tàu ngựa, nhà nuôi gà vịt chuồng bò, một nhà kho dài, nhà để xe. Một tòa nhà cổ rất to nằm giữa khu vườn, từ sân vào phải qua dãy hàng rào. Sau nhà có cánh rừng dựng đứng như bức tường xám với những cây tiêu huyền và dương liễu trơ trụi. Những cái tổ quạ nằm lắt lẻo trên cây nom như những cái mũ màu nâu, nhưng quạ đã bỏ đi hết rồi.
Grigori chưa vào đến trong sân thì một đàn chó mực giống Krym đã chạy ra đón chàng. Một con chó cái già, mắt ướt như mắt bà lão, khập khiễng chạy tới đánh hơi Grigori trước nhất, rồi nó gục cái đầu gầy khô lẽo đẽo đi theo chàng. Trong nhà đầy tớ, mụ nấu bếp đang chửi nhau với chị hầu phòng còn trẻ, mặt đầy tàn hương. Một cụ già loắt choắt ngồi ở ngưỡng cửa, giữa đám khói thuốc lá, như trong một cái túi. Ông cụ có cặp môi rất dày. Chị hầu phòng dẫn Grigori vào trong nhà. Phòng ngoài nặc mùi chó và mùi da thú chưa khô. Một cái bao súng hai nòng nằm bẹp trên mặt bàn, bên cạnh có một chiếc túi dết với những ngù lụa màu xanh lá cây, tua đứt nham nhở.
- Công tử cho gọi anh vào. - Chị hầu phòng trong cửa bên ngó ra.
Grigori lo lắng nhìn xuống đôi ủng đầy bùn của mình, bước tới cửa phòng.
Viên trung úy nằm dài trên chiếc giường kê cạnh cửa sổ. Trên chăn có hộp ống giấy để nhồi thuốc lá và thuốc lá sợi. Nhồi xong một điếu thuốc, hắn cài cúc cổ chiếc áo sơ-mi trắng rồi nói:
- Anh đến sớm quá đấy. Chờ một lát, ông cụ nhà tôi sẽ sang đây ngay.
Grigori đứng chờ bên cửa. Một phút sau có tiếng chân bước lệt sệt trên sàn gỗ ọt ẹt. Một giọng ồm ồm hỏi qua khe cửa:
- Con còn ngủ không đấy, Evgeni?
- Mời cha vào đi.
Một lão già đi ủng dạ đen kiểu Kavkaz bước vào. Grigori đứng bên liếc nhìn lão. Điều đầu tiên đập vào mắt chàng là cái mũi thanh thanh, gẫy sống và bộ ria bạc hình bán nguyệt rất rộng, chỗ dưới mũi vàng khè vì khói thuốc. Lão cao như cây sào, người gầy nhưng vai rất rộng. Một chiếc áo khoác dài bằng lông lạc đà thõng trên người lão cổ áo bó chặt cái cổ nhăn nheo, da nâu sẫm. Hai con mắt đã bạc màu nằm ngay sát tinh mũi.
- Cha ạ, đây là gã đánh xe mà hôm qua con đã thưa với cha là nên thuê đấy. Một anh chàng con nhà cũng tốt.
- Con nhà nào thế? - Giọng lão già nổ ra ồm ồm như tiếng sấm.
- Melekhov ạ.
- Melekhov nào cơ chứ?
- Cha tôi là Panteley Melekhov.
- Ta có biết Prokofi, Panteley ta cũng biết. Lão ấy khập khiễng có máu trec-ket phải không?
- Vâng đúng đấy ạ, có khập khiễng đấy ạ. - Grigori rướn thẳng người như sợi dây cung.
Chàng nhớ lại vài câu chuyện đã được nghe cha kể về vị tướng về hưu Litnhitki, anh hùng trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Thổ nhĩ kỳ.
- Sao phải đi làm thuê hử? - Cái giọng ồm ồm như sấm lại từ trên cao dội xuống.
- Bẩm cụ lớn, tôi không còn ở với cha tôi nữa.
- Đem thân đi làm thuê mà sống thì còn gì là một thằng Cô-dắc? Chẳng nhẽ bố cho ra ở riêng mà không cho gì à?
- Bẩm cụ lớn, đúng thế đấy ạ, chẳng cho gì cả.
- Nếu thế thì lại chuyện khác. Cùng đi ở với vợ có phải không?
Viên trung úy cựa mạnh làm chiếc giường kêu cọt kẹt. Grigori đưa mắt nhìn sang, thấy hắn nháy mắt, lắc đầu ra hiệu.
- Bẩm cụ lớn, vâng ạ.
- Đừng cụ lớn, cụ bé gì cả. Ta không thích thế! Tiền công mỗi tháng tám rúp. Tính cho cả hai. Vợ mầy sẽ nấu nướng cho bọn đầy tớ và thợ làm mùa. Có thuận không?
- Vâng ạ.
- Ngày mai cả hai sẽ phải đến ngay trang trại. Mày sẽ đến ở nhà đầy tớ bên nửa mà thằng đánh xe cũ đã ở ấy.
- Hôm qua cha đi săn thế nào? - Người con hỏi lão già rồi bỏ thõng hai bàn chân nhỏ bé xuống chiếc thảm con.
- Đến khe Gremiatri thì lùa được một con cáo to tướng ở trong đó ra, đuổi tới cánh rừng. Nhưng con cáo già đã lừa được đàn chó rồi mất hút.
- Con Katbech vẫn còn khập khiễng hả cha?
- Có lẽ nó bị sai khớp. Thôi mau mau lên, Evgeni, bữa sáng nguội mất bây giờ.
Rồi ông già quay về phía Grigori và bật đánh tách một cái hai ngón tay gầy gò, xương xẩu.
- Đi đều bước! Ngày mai phải có mặt ở đây trước tám giờ.
Grigori ra khỏi cổng. Đàn chó săn đang nằm sưởi nắng bên bức tường sau lưng nhà kho, chỗ đất đã khô không còn tuyết nữa. Con chó cái già có hai con mắt như mắt bà lão lon ton chạy tới sau lưng Grigori, ngửi ngửi người chàng, rồi lại ủ rũ gục đầu, lẵng nhẵng đưa tiễn Grigori đến khe núi đầu tiên. Đến đấy thì nó quay về.

12


Acxinhia nấu nướng xong rất sớm. Nàng vun than vào một chỗ, quấn giẻ quanh ống khói, rửa bát đĩa rồi nhìn ra khung cửa sổ nhỏ phía sân nuôi gia súc. Stepan đứng cạnh đống gỗ chất thành hình chóp sát dãy hàng rào ngăn với sân gia súc nhà Melekhov. Một điếu thuốc tắt ngấm còn ngậm rủ xuống bên mép cặp môi khô cứng; anh ta lục lọi trong đống gỗ, chọn được một cái cột hợp với công việc. Góc bên trái nhà kho bị sụt cần phải đóng thêm hai cái cột chắc chắn và lợp kín bằng chỗ lau còn sót lại.
Từ sáng, hai gò má Acxinhia cứ đỏ hây hây. Mắt nàng long lanh, nom trẻ hẳn ra. Stepan không khỏi nhận thấy sự thay đổi. Lúc ăn sáng, anh ta hỏi:
- Nhà nó làm sao thế?
- Em làm sao cơ chứ? - Mặt Acxinhia càng đỏ bừng.
- Mặt cứ bóng nhẫy như bôi dầu ấy.
- Đứng mãi bên bếp lò nóng quá… bốc cả lên đầu. - Nàng trả lời rồi quay mặt đi, lấm lét đưa mắt ra cửa sổ - Không biết con bé em gái Mitka Kosevoi có sang không?
Mãi lúc trời sắp tối cô bé mới tới. Đang mong khổ mong sở nẫu ruột nẫu gan, Acxinhia tươi tỉnh hẳn lên.
- Em đến tìm chị đấy à, Masa?
- Chị ra đây cái.
Stepan đang đứng trước mảnh gương gắn trên mặt trước cái bếp lò quét vôi trắng. Hắn chải đầu xong, lại lấy cái lược sừng bò ngắn cũn miết cho mượt bộ ria màu hạt dẻ.
Acxinhia lo lắng nhìn sang phía chồng.
- Anh lại sắp đi đâu phải không?
Stepan không trả lời ngay, anh ta bỏ cái lược vào túi quần, rồi giơ tay với lấy bộ bài tây và túi thuốc để trên bếp lò.
- Sang nhà Anikey, ngồi một lát thôi.
- Thế bao giờ anh mới chán không đi nữa? Ngưởi ta đã có lệnh cấm tiệt đánh bài rồi đấy, thế mà chẳng đêm nào các ông không bài với bạc. Hễ ngồi với nhau là đến gà gáy.
- Thôi đủ rồi, nghe mãi rồi.
- Anh lại chơi “Otko” có phải không? (Một lối chơi bài, tính trăm điểm)
- Thôi đừng lải nhải mãi nữa, Acxinuska. Đang có ai chờ kia kìa, ra ngoài ấy đi.
Acxinhia nghiêng nghiêng người đi ra phòng ngoài. Ra tới cửa thì nàng thấy Masa đang mỉm cười đứng chờ, khuôn mặt đầy tàn hương của cô bé đỏ ửng.
- Anh Grigori về rồi đấy.
- Thật ư?
- Anh ấy dặn trời nhá nhem thì chị lại nhà em.
Acxinhia vồ lấy hai bàn tay Masa, đẩy cô bé ra sát cửa.
- Khẽ chứ, khẽ chứ nào, em yêu của chị. Anh ấy bảo thế nào hả Masa? Chắc còn dặn em nói thêm gì nữa chứ?
- Anh ấy bảo chị có những thứ gì thì thu dọn lại mang cả đi.
Acxinhia run bắn lên, khắp người nóng ran như lửa đốt. Nàng xoay đầu đi xoay đầu lại, chốc chốc lại đảo mắt ra cửa, giậm hết chân nọ đến chân kia, không thể đứng yên một chỗ nữa.
- Lạy Chúa tôi, làm thế nào bây giờ? Hả? Sao lại gấp đến thế? Trời, mình làm thế nào bây giờ? Hượm cái đã, em về bảo anh ấy rằng chị sẽ ra ngay… Thế anh ấy sẽ đợi chị ở đâu?
- Chị sẽ lại nhà em.
- Chao ôi, không được đâu!
- Thôi, không sao, em sẽ bảo, anh ấy sẽ ra.
Stepan mặc áo ngoài, rồi kiễng chân châm thuốc vào ngọn đèn treo.
- Nó đến có việc gì thế? - Hắn hỏi giữa hai hơi thuốc.
- Ai cơ chứ?
- Con Masa nhà Kosevoi ấy.
- À, nó lại có chút việc riêng… Nó nhờ cắt hộ nó cái váy.
Stepan thổi chỗ tàn đen trên điếu thuốc, bước ra cửa.
- Nhà cứ ngủ trước đi nhé, đừng đợi làm gì?
- Thôi được.
Acxinhia tới áp sát người vào khung cửa sổ đóng băng, rồi khuỵu đầu gối xuống trước một chiếc ghế dài. Tiếng bước chân Stepan lạo xạo trên lối mòn ra cửa hàng rào, mỗi lúc một xa. Gió thổi bay vài cái tàn lửa trên đầu điếu thuốc, đưa tới tận bên cửa sổ. Hơi thở của Acxinhia hà tan một khoảng sương muối tròn tròn trên khung kính, làm cho nàng còn thấy trong một loáng ánh lửa của điếu thuốc chiếu sáng hình bán nguyệt của chiếc mũ lông cừu đội lệch áp xuống một bên tai và cái má rám nắng.
Acxinhia cuống cuồng lôi ra từ một cái hòm những đồ tư trang mà mình đã đem về nhà chồng; vài cái váy, áo ngắn mặc ngoài, những chiếc khăn bịt đầu nhỏ, ném bừa tất cả vào một chiếc khăn choàng lớn.
Hai con mắt đầy vẻ hốt hoảng, nàng thở hổn hển tạt vào trong bếp lần cuối cùng, dụi tắt lửa rồi chạy ra thềm. Trong nhà Melekhov không biết có ai ra sân xem lại gia súc. Acxinhia chờ cho tiếng bước chân lắng đi mới lồng cái xích vào vòng mắt xích trên cửa, rồi ôm chặt cái khăn gói, chạy ra sông Đông. Vài món tóc tuột khỏi cái khăn len mềm, xòa xuống má, cọ cọ đến là buồn. Nàng chạy vòng phía sau, tới được sân nhà Kosevoi thì mệt lử, hai chân nặng như chì, nhấc lên gần như không nổi. Grigori đã đứng ở cổng đợi Acxinhia. Chàng xách hộ cái khăn gói rồi chẳng nói chẳng rằng đi trước về phía đồng cỏ.
Đi quá được cái sân đập lúa, Acxinhia bỗng bước chậm lại, kéo tay áo Grigori.
- Hượm một lát, anh.
- Hượm cái gì? Trăng sắp mọc đến nơi rồi, phải rảo bước mới được.
- Hượm hượm đã, Griska, - Acxinhia đứng lại oặt người xuống.
- Em làm sao thế? - Grigori cúi xuống hỏi.
- Ấy đấy trong bụng cứ thấy làm sao ấy. Hôm nay em đã khiêng nặng quá. - Acxinhia liếm cặp môi khô bỏng, đau quá đổ cả đom đóm mắt, cứ phải nheo lại. Nàng ôm chặt lấy bụng, đứng lặng một lát, lưng còng hẳn xuống, nom đến là đáng thương. Cuối cùng nàng nhét mấy món tóc xuống dưới khăn, và lại đi tiếp.
- Thôi, hết đau rồi, ta đi đi!
- Em cũng chẳng hỏi anh đưa em đi đâu nữa. Nhỡ lát nữa đến cái khe đầu tiên, anh đẩy xuống thì sao? - Grigori mỉm cười trong bóng tối.
- Đối với em bây giờ thì dù có chuyện gì xảy ra cũng thế cả… Đã đến nông nỗi nầy… - Tiếng cười xen trong giọng nói của Acxinhia chẳng có gì vui vẻ.
Như bao giờ cũng vậy, hôm ấy đến nửa đêm Stepan mới mò về. Anh ta vào tầu ngựa, vơ chỗ rơm bị ngựa dẫm nát ném lên máng cỏ, tháo đai cổ cho con ngựa rồi bước lên thềm. “Có lẽ lại đi vui chị vui em rồi” - Anh ta gỡ cái xích ra khỏi vòng xích nghĩ thầm. Rồi vào bếp, đóng cửa thật chặt và quệt que diêm. Hôm nay anh chàng được bạc (đánh bài ăn diêm), vì thế không cảm thấy tức tối hằn học gì mà chỉ buồn ngủ. Stepan châm đèn, đưa mắt nhìn khắp các vật buông quăng bỏ vãi trong bếp, không nghĩ được ra duyên cớ vì sao. Anh ta hơi ngạc nhiên, bước vào nhà trong, nhìn thấy ngay cái nắp hòm mở hoác như một cái miệng đen ngòm và chiếc áo ngắn cũ mà vợ bỏ quên trong lúc vội vàng còn nằm trên sàn. Stepan giật phắt cái áo lông ngắn trên vai xuống, chạy bổ vào bếp lấy đèn. Anh ta nhìn quanh nhà trong một lượt, bất giác vỡ lẽ. Stepan quẳng cây đèn xuống, và bây giờ thì dù chính mình đang làm gì, anh ta cũng chẳng biết nữa. Anh ta giật thanh gươm trên tường xuống, mấy ngón tay nắm cán gươm chặt đến tím lại. Anh ta lấy mũi gươm xốc cái áo màu xanh phớt hoa vàng nhạt mà Acxinhia bỏ quên, hất tung lên, rồi vung thanh gươm loáng một cái, chém phăng cái áo làm đôi giữa lúc nó chưa kịp rơi xuống.
Mặt Stepan xám ngoẹt, đau khổ làm anh ta trở nên man rợ, hung dữ như con sói. Anh ta không ngừng hất những mảnh áo xanh xanh đã bị chém nát lên trần, lưỡi thép mài sắc ngọt múa vù vù, chém ngang chém dọc những mảnh vải đang bay.
Rồi anh ta dứt đứt dây ngù buộc gươm, quẳng thanh gươm vào góc nhà, bỏ xuống bếp, ngồi xuống cạnh bàn, đầu ngoẹo xuống, những ngón tay rắn như thép run bần bật xoa mãi cái mặt bàn chưa cọ rửa.

13


Họa nọ chưa qua, rấp kia đã ập tới, chuyện đời bao giờ cũng thế.
Sáng hôm ấy, do Getko không chú ý, con bò mộng đầu đàn của Miron Grigorievich đã văng sừng làm rách toạc cổ con ngựa cái tốt nhất trong nhà. Getko chạy ngay lên nhà trên, mặt mày hốt hoảng, cắt không còn hột máu, người run bần bật.
- Tai họa rồi, ông chủ ơi! Con bò mộng, con bò mộng đáng nguyền rủa, chết mẹ nó đi…
- Con bò mộng làm sao? Cái gì thế hử? - Miron Grigorievich hoảng lên.
- Nó làm hỏng mất con ngựa cái rồi… Nó văng sừng vào con ngựa cái. Tôi thấy…
Miron Grigorievich chẳng nghĩ tới mặc thêm cái áo, cứ phong phanh nhảy luôn ra sân. Bên cái giếng, Mitka đang vung cái cọc đánh lấy đánh để con bò mộng năm tuổi lông đỏ. Còn con bò thì cứ ngoáy loạn xạ cái đầu chúi xuống thật thấp, làm cái yếm da lùng nhùng trước ức nó bị kéo sệt trên tuyết. Nó cào chân xuống tuyết, hất tuyết ra phía sau rất xa, cái đuôi xoắn như lò xo tung ra chung quanh một đám bụi trắng như bạc. Tuy bị đòn đau, nhưng nó không chạy, chỉ gừ gừ và luôn luôn chuyển hai chân sau từ chỗ nọ sang chỗ kia, có vẻ như sắp nhảy chồm lên đến nơi.
Tiếng gừ gừ trong họng con bò mỗi lúc một to, nó bắt đầu rống lên. Mikhey đứng phía sau Mitka kéo dây lưng nó, nhưng Mitka chẳng để ý gì đến hắn, vẫn ra sức đánh vào mặt, vào sườn con bò và không ngớt văng đến khản cả giọng những lời kinh tởm.
- Thôi mặc nó đấy, cậu Mitka! Vì Chúa cứu thế, tôi van cậu!
- Nó húc cậu bây giờ!
- Kìa ông Grigorievich, sao lại đứng mà nhìn thế?
Miron Grigorievich chạy ra giếng. Con ngựa đứng sát hàng roà, đầu thõng xuống nom đến là thiểu não. Giữa những cái xương sườn, những đường hõm đẫm mồ hôi vừa đen vừa sâu lên lên xuống xuống theo nhịp thở. Máu chảy xối trên cổ nó xuống tuyết, xuống cả những bắp thịt tròn tròn trước ngực. Lớp lông màu hạt dẻ nhạt trên lưng và trên sườn nó khẽ rung rung. Hai bên hông cũng run bần bật.
Miron Grigorievich chạy tới gần. Trên cổ con ngựa có vết thương nứt hoác sang hai bên, bốc hơi và sủi lên hồng hồng. Vết thương vừa dài vừa sâu, luồn bàn tay vào cũng vừa. Mỗi lần con ngựa thở dốc lại có thể trông thấy cái cổ họng những đốt là đốt. Con ngựa vẫn gục đầu đứng đấy. Miron Grigorievich nắm lấy bờm, kéo cao đầu nó lên. Nó đưa cái tròng con mắt long lanh tím tím nhìn thẳng vào mắt chủ, tựa như muốn hỏi: “Không biết rồi sẽ ra sao đây?”. Như để trả lời câu hỏi ấy, Miron Grigorievich quát lên:
- Mitka! Bảo chúng nó sắc nước vỏ sồi. Có mau lên không?
Getko chạy đi bóc vỏ cây sồi. Trong khi gã chạy, chỗ lộ hầu hình tam giác cứ rung rung trên cái cổ ghét bám năm tầng bảy lớp. Mitka đi tới gần bố nhưng vẫn ngoái cổ đề phòng con bò đang lồng lộn chạy vòng trong sân. Con bò vẫn rống lên không ngớt và cứ xông đến khắp mọi chỗ trong sân, đỏ lòm trên màu trắng của tuyết tan.
- Nắm lấy bờm nó! - Người bố ra lệnh cho Mitka - Mikhey, chạy đi kiếm sợi dây! Quàng lên không ông cho cái quai hàm bây giờ!
Cái môi trên mượt như nhung, lơ thơ vài sợi lông của con ngựa được buộc bằng sợi dây. Người ta lồng một cái que vào sợi dây, xoắn chặt lại, cho con vật bớt cảm thấy đau. Cụ Grisaka bước tới. Cái tách vẽ hoa đựng chất thuốc sắc tím nâu như quả sồi được mang ra.
- Để nguội đã, có lẽ nóng quá đấy. Mày có nghe thấy không, Miron!
- Thôi cha vào trong nhà đi, lạy Chúa tôi? Đứng đây lại cảm lạnh bây giờ!
- Còn tao thì tao bảo mày để cho nguội đã. Muốn giết chết con ngựa hay sao?
Vết thương đã rửa xong. Miron Grigorievich xâu sợi chỉ thô vào chiếc kim sào bằng những ngón tay rét cóng rồi tự tay khâu kín miệng vết thương. Đường chỉ khâu rất khéo. Miron Grigorievich chưa kịp rời khỏi chỗ cái giếng thì bà Lukinhitna đã lon ton chạy ra. Lo âu càng làm cho cặp má nhẽo nhợt của bà nhăn nhúm thêm, nom cứ như hai cái túi rỗng. Bà gọi chồng ra một chỗ để nói riêng:
- Con Natalia nó bỏ về nhà đấy, ông Grigorievich ạ? Trời ơi là trời, lạy Chúa tôi?
- Lại còn chuyện gì nữa hử? - Đầu tóc Miron Grigorievich xù lên, khuôn mặt trắng bệch đầy tàn hương tái mét.
- Nó có chuyện với thằng Grigori đấy… Thằng rể quý của ông nó bỏ nhà đi rồi? - Bà Lukinhitna vỗ phành phạch vào váy, giơ ngang hai tay như con quạ đen sắp cất cánh bay, và rít lên - Khắp làng trên xóm dưới đã nói ra nói vào rồi đấy! Lạy Chúa tôi, sao mà tội nợ đến thế nầy? Chao ôi? Trời ơi là trời!
Natalia đứng giữa bếp, đầu trùm khăn, mình mặc một chiếc áo rét ngắn. Hai giọt nước mắt mọng mọng đã ứa ra ở gần tinh mũi, nhưng còn chưa rơi. Má nàng đỏ tía như màu gạch.
- Làm sao mà mày còn vác mặt về đây hử? - Người bố vừa bước chân vào bếp đã cho luôn con một trận. - Mày bị chồng đánh à? Ăn ở với nhau không được êm thấm hay sao?
- Anh ấy bỏ đi mất rồi. - Natalia cố nén tiếng nức nở đã dồn lên đến cổ. Nàng hơi lảo đảo rồi quỳ sụp xuống trước mặt bố. - Cha ơi, cha yêu của con, đời con thế là tan nát mất rồi! Cha cho con về sống ở nhà thôi! Griska bỏ đi với con nhân tình của anh ấy rồi! Thế là từ nay con trơ trọi một thân! Cha yêu của con, bây giờ cứ như có cái bánh xe nghiến lên người con ấy!
Natalia mếu máo nói một tràng rất nhanh. Chưa dứt lời nàng đã ngước nhìn lên chòm râu ngô của bố, hai con mắt đầy vẻ van xin.
- Thôi đi có lẽ nào như thế được, hãy chờ xem đã!
- Con không sống được ở bên ấy nữa đâu! Cha cho con về ở nhà thôi!… - Natalia bò nhanh tới bên cái hòm và run run gục đầu xuống hai bàn tay. Chiếc khăn trên đầu nàng tụt ra sau lưng làm lộ làn tóc đen chải mượt lão xoã bên hai vành tai nhợt nhạt. Trong những giây phút đắng cay như thế nầy, nước mắt thật chẳng khác gì cơn mưa ngày đại hạn tháng năm. Người mẹ ôm đầu Natalia vào bụng gầy hõm của bà và cứ luôn miệng than vãn kể lể bằng một tràng những lời ngớ ngẩn, không đầu không đũa của đàn bà. Còn Miron Grigorievich thì tức điên lên, chạy bổ ra ngoài thềm.
- Thắng hai con ngựa vào xe trượt tuyết! Có cái càng giữa.
Nghe thấy tiếng quát như lệnh vỡ, con gà trống đang đạp mái một cách thành thạo bên thềm hoảng lên vội nhảy ngay xuống. Nó khệnh khạng rời xa thềm nhà, vừa đi vừa cục cục trong họng, ra vẻ tức giận lắm.
- Thắng ngựa mau! - Miron Grigorievich đưa ủng đá nát những con tiện chạm trổ trên dãy lan can. Mãi khi Getko chạy trong tàu ngựa ra với một cặp ngựa huyền, vừa chạy vừa lồng vòng cổ ngựa, ông mới bỏ vào trong nhà, để lại dãy lan can gãy nát không còn ra hình thù gì nữa.
Mitka và Getko đánh xe đi lấy tư trang của Natalia về. Anh chàng Ukraina lơ đãng để xe chẹt phải một con lợn sữa không kịp chạy khỏi lòng đường. Hắn nghĩ thầm: “Xảy ra một chuyện như thế nầy thì may ra ông chủ sẽ quên được chuyện con ngựa cái?”. Với ý nghĩ như thế, hắn sung sướng thả lỏng dây cương.
“Nhưng cái lão quỷ dữ hại người ấy, lão có quên chuyện gì bao giờ?”. Ý nghĩ nầy chợt nảy ra làm Getko nhăn mặt, bĩu môi.
- Có nhanh lên không, con chết tử chết tiệt? Nầy ông cho mày biết mùi! - Hắn quát lên rồi hết sức chú ý quất cho một con ngựa huyền một roi, trúng ngay chỗ lá lách.
(Ngọn roi nầy rất hiểm. Ngựa bị đánh vào chỗ nầy thì đau nhất)

14


Viên trung úy kỵ binh Evgeni Litnhitki làm sĩ quan trung đoàn ngự lâm cận vệ Atamansky. Trong một cuộc đua ngựa của sĩ quan, hắn đã ngã ngựa, gãy mất cánh tay trái. Ở bệnh viện ra, hắn xin nghỉ phép về Yagonoie ở với bố một tháng rưỡi.
Viên tướng già sống một thân một mình ở Yagonoie. Lão đã góa vợ từ lâu. Vợ lão đã qua đời tại một nơi ở ngoại ô Varsava trong những năm tám mươi thế kỷ trước. Vốn là kẻ địch nhằm vào viên tướng Cô-dắc, nhưng lại bắn phải vợ lão cùng gã đánh xe và làm chiếc xe bốn bánh thủng lỗ chỗ ở nhiều nơi, còn viên tướng thì thoát chết. Vợ tướng Litnhitki chết đi để lại cho lão thằng Evgeni năm ấy mới lên hai. Sau đó chẳng bao lâu viên tướng về hưu. Lão chuyển đến ở Yagonoie và bắt đầu sống một cuộc đời khắc khổ, cách biệt hẳn với giới thượng lưu. (Đất đai của lão gồm bốn ngàn đê-xi-a-chin nằm trong tỉnh Saratov. Số đất nầy đã được triều đình cắt đất lập ấp cho đời tứ đại của lão sau khi ông này tham gia cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại năm 1812).
Khi Evgeni lớn lên, tướng Litnhitki gửi hắn vào học trường võ bị, còn mình thì tự quản lý lấy công việc làm ăn: lão chăn nuôi gia súc giống tốt. Lão mua được ở trại nuôi ngựa của hoàng đế những con ngựa giống chạy nước kiệu hay, cho nhảy những con ngựa cái tốt nhất mua ở nước Anh và ở trại ngựa giống Provansky vùng sông Đông, cuối cùng gây được một giống riêng. Trên phần đất mà lão được chia với tư cách là dân Cô-dắc và trên các khoảnh mua thêm, lão nuôi những đàn ngựa và trồng lúa mì (bằng tay người khác).
Mùa xuân và mùa thu lão thường đem đàn chó đi săn và thỉnh thoảng lại đóng chặt cửa cái phòng khách màu trắng, ở lì trong đó để túy lúy càn khôn hàng tuần. Cái bệnh đau dạ dày ác nghiệt làm tình làm tội lão rất nhiều; vì thế bác sĩ hết sức nghiêm khắc cấm lão nuốt các thức ăn mà lão đã nhai: lão chỉ nhai, mút lấy nước, rồi nhổ bã vào một cái đĩa nhỏ bằng bạc. Venhiamin, gã hầu phòng trẻ tuổi, dân mu-gích (nông dân không phải dân Cô-dắc), luôn luôn đứng bên cạnh lão, đưa hai tay chìa cái đĩa bạc cho lão nhổ.
Venhiamin là một gã dở hơi dở người, da bánh mật. Không phải là tóc mà là một đám nhung đen nhánh mọc lên trên cái đầu tròn xoe của gã. Lão đã hầu cụ chủ Litnhitki sáu năm trời. Đầu tiên, hồi mới phải cầm cái đĩa bạc đứng bên cạnh ông tướng, gã đã không khỏi buồn nôn mỗi khi nhìn thấy lão già nhổ ra những miếng bã thức ăn xám xịt, nhai nát nhừ. Nhưng rồi gã cũng quen dần.
Kẻ ăn người ở trong dinh cơ, ngoài Venhiamin còn có mụ nấu bếp Lukeria, ông cụ chăn ngựa già yếu hom hem Xaska, chàng chăn bò Tikhol, chàng đánh xe Grigori vừa mới đến làm cùng với Acxinhia. Lukeria là một mụ da thịt nhẽo nhợt, rỗ nhằng rỗ nhịt, mông to tầy dành, toàn thân tương tự như một đống bột bánh vàng chưa lên men. Ngay hôm đầu, mụ đã đuổi không cho Acxinhia bén mảng tới bếp lò.
- Bao giờ sang hè, cụ chủ thuê người làm thì cô hãy thổi nấu, còn bây giờ thì một mình tôi xoay sở cũng xong việc.
Công việc của Acxinhia là lau sàn nhà mỗi tuần ba lần, cho gà vịt chim chóc ăn và quét dọn sân gà vịt cho sạch sẽ. Nàng mới bắt tay vào làm việc đã tỏ ra rất siêng năng, cố làm vừa lòng tất cả mọi người, kể cả mụ Lukeria. Grigori làm việc phần lớn thì giờ cùng với ông lão chăn ngựa Xaska trong cái tàu ngựa rộng thênh thang dựng toàn bằng những khúc gỗ tròn. Ông cụ đã sống đến lúc râu tóc bạc phơ, nhưng vẫn cứ là Xaska với cái tên hồi nhỏ. Chẳng ai muốn làm cụ vừa lòng bằng cách gọi cụ với tên chính thức kèm tên theo bố còn họ của cụ là gì thì có lẽ ngay lão già Litnhitki cũng chẳng biết, dù cho cụ đã sống ở nhà lão hơn hai chục năm rồi. Hồi còn trai trẻ, cụ Xaska đánh xe ngựa, nhưng đến khi gần đất xa trời, sức kiệt mắt kém, cụ phải vào làm trong tàu ngựa. Người cụ loắt choắt, râu tóc toàn một màu bạc trắng có chút ánh xanh lá cây (ngay đến hai tay cụ cũng mọc đầy những cái lông bạc). Từ hồi cụ còn nhỏ, mũi cụ đã bị một nhát vồ đập tẹt dí. Lúc nào người ta cũng thấy cụ hấp háy hai con mắt ngây thơ, nhằng nhịt những vết nhăn đỏ, nhìn mọi vật xung quanh với nụ cười hồn nhiên của con nít.
Hồi đi lính, một lần quá chén (cụ Xaska vốn là một dân “moskan” (Moskan là cái tên mà dân Ukraina và dân Belorussia thường dùng để gọi binh lính, nhân viên chính quyền và dân Nga một cách khinh bỉ) ở Bogutra), cụ đã không uống vodka mà vớ nhầm một chai nước cường toan (Một dung dịch hoá học gồm một phần acide nitric và ba phần một chất muối làm cho dung dịch hoà tan được vàng). Dòng hóa chất nóng bỏng như lửa đã gắn chặt môi dưới ông cụ xuống cằm, rồi chảy thêm đến đâu là để lại đến đấy một cái sẹo chéo hồng hồng, râu không mọc được nữa, nom rất nhộn. Cứ như có một con thú quái đản liếm qua chòm râu của cụ Xaska một cái, và cái sẹo chính là dấu vết cái lưỡi ráp như lưỡi giũa của no.
Cụ Xaska rất hay uống vodka, và mỗi lần có tí tửu vào là cụ lại lang thang trong sân trang trại, cứ như chính mình là ông chủ của dinh cơ nầy. Chân nam đá chân siêu, cụ đến đứng trước cửa sổ phòng ngủ của cụ lớn, rồi giơ một ngón tay lên ngoáy ngoáy một cách tinh quái trước cái mũi buồn cười của cụ.
- Micolai Alechxeit! Micolai Alechxeit đâu thế hử? - Cụ gọi rất to, rất oai.
Nếu lúc ấy lão địa chủ già đang ở trong phòng ngủ thì thể nào lão cũng ra đứng ở cửa sổ.
- Lại tọng phễnh bụng rồi phải không, cái thằng ma men vô tích sự nầy? - Giọng lão ở trong cửa sổ đưa ra ồm ồm như sấm.
Cụ Xaska xốc xốc cái quần đang muốn tụt xuống, nheo mắt, mỉm cười láu lỉnh. Nụ cười hiện lên theo một đường chạy chéo qua khắp mặt ông lão: từ hai con mắt bên trái nheo nheo chếch xuống đến vết sẹo hồng hồng hằn lên từ mép bên phải, nom đến là ngang ngược, nhưng lại rất dễ thương.
- Micolai Lechxeit, quan lớn ạ, ta biết rõ quan lớn lă-ă-ắm đấy nhé? - Cụ Xaska nói rồi giơ thẳng ngón tay khô quắt, đen thui thủi lên doạ. (“Micolai” là hình thức xàm xỡ để gọi “Nicolai”, còn “Lechxeit” là cách gọi tắt “Alexeevich”)
- Thôi đi ngủ đi cho tỉnh rượu, - Lão địa chủ đứng trong cửa sổ mỉm cười làm lành, rồi đưa cả năm ngón tay ám khói thuốc lá lên vê bộ ria chảy xệ.
- Chẳng ma quỷ nào lừa nổi lão Xaska nầy đâu! - Cụ Xaska vừa cười vừa bước tới bên hàng rào. - Micolai Alechxeit ạ, lão… lão thì cũng như ta thôi. Hai chúng mình thật như cá với nước. Cá lặn xuống đáy sông, còn hai ta thì… thì ra sân đập lúa. Mà cả ta lẫn lão đều giàu sang phú quý như thế này này! - Cụ Xaska dạng chân, dang rộng hai tay. - Khắp quân khu sông Đông nầy, ai mà không biết hai chúng mình? Hai chúng mình… - giọng cụ Xaska bỗng trở nên bi thảm và thấm thía. - Ta với quan lớn, quan lớn ạ, thì mặt nào cũng đều tốt đẹp, chỉ phải hai cái mũi của chúng mình cứ thum thủm đấy thôi!
- Tại sao thế? - Lão địa chủ cười đến tái xanh tái tím, râu ria rung loạn xạ; lão ngạc nhiên hỏi cho rõ.
- Vì vodka chứ còn sao nữa? - Cụ Xaska nói rành rọt từng tiếng, nháy mắt lia lịa và thè lưỡi ra liếm dải nước bọt chảy theo vết lõm của cái sẹo hồng hồng. - Này, Micolai Alechxeit ạ, đừng rượu chè nữa đấy, nếu không hai chúng mình đều bỏ mẹ cả thôi, bao nhiêu của chìm của nổi đều khánh kiệt hết thôi!
- Thôi này, nốc thêm vào cho hết say!
Lão địa chủ ném qua cửa sổ một đồng hai mươi kopeik, cụ Xaska đón bắt rất lẹ, rồi giấu đồng tiền vào lần lót của cái mũ cát-két.
- Thôi tạm biệt ông tướng nhé, - Cụ chào xong thở dài bỏ đi.
- Nhưng đã cho ngựa uống nước chưa? - Lão địa chủ vừa hỏi vừa mỉm cười trước. Lão đã biết cụ Xaska sẽ trả lời những gì.
- À cái thằng quỷ ghẻ! Thật là đồ chó đẻ! - Cụ Xaska đỏ mặt tía tai gầm lên, giọng phá ra. Cơn phẫn nộ làm cụ như lên cơn sốt rét. - Thằng Xaska nầy mà quên không cho ngựa uống nước à? Sao lại có chuyện như thế được. Dù chết đến nơi, lão cũng bò lết đem được cho mỗi con một thùng nước giếng, thế mà nó lại dám nghĩ như vậy? Cũng ra cái điều!
Cụ Xaska giơ nắm tay lên dọa, vặc rầm lên một trận rồi bỏ đi. Nhục nhã oan ức đến thế thì chịu sao nổi?
Người ta tha thứ cho cụ Xaska hết thảy: cả cái bệnh rượu chè lẫn cái thói suồng sã bừa bãi với cụ chủ, vì kiếm đâu ra một người coi ngựa làm thay nổi cụ Xaska? Mùa đông cũng như mùa hè, cụ đều ngủ dưới mái tàu ngựa, trong một khoang nhốt ngựa bỏ không. Không ai chăm sóc ngựa được như cụ, cụ vừa coi ngựa vừa là một ông lang chữa thuốc cho ngựa. Mùa xuân, hễ đến tháng Năm, khi các giống cỏ ra hoa cụ lại đi kiếm cỏ dấu, đi đào những rễ cây thuốc ngoài đồng, trong những khe khô và khe nước. Trên tường tàu ngựa treo rất cao những bó đủ mọi thứ cỏ khô: cỏ tảo xuân chữa bỏng, cỏ mắt rắn chống nọc rắn, cỏ hắc diệp dùng khi ngựa gãy chân, một thứ cỏ trắng mọc dưới gốc những cây liễu trong rừng, rất khó nhận ra, dùng khi ngựa bỗng trở nên trái tính. Ngoài ra còn rất nhiều thứ cỏ khác không tên không tuổi để chữa cho ngựa những lúc trái nắng trở trời.
Ở tàu ngựa, nơi cụ Xaska ngủ trong khoang buộc ngựa, mùa đông cũng như hè, lúc nào cũng phảng phất một mùi hương ngai ngái, lờm lợm, lơ lửng trong khôngkhí như cái mạng nhện. Cụ nằm trên chiếc giường ván trải mảnh áo ngựa, lớp rơm đã nén lâu rắn như đá và cái áo choàng bằng dạ thô của cụ. Ngoài cái áo choàng hôi sú nặc mùi mồ hôi ngựa nầy và tấm áo da thuộc ngắn, gia tài của cụ Xaska chẳng còn gì khác.
Tikhol, gã Cô-dắc môi dày, khỏe mạnh nhưng hơi ngớ ngẩn, cùng ở với mụ Lukeria. Tuy chẳng có bằng chứng gì, nhưng gã cứ ghen bóng ghen gió với cụ Xaska. Chừng mỗi tháng một lần, gã lại nắm lấy khuy áo chiếc sơ-mi nhớp nhúa của cụ Xaska, kéo cụ ra sau nhà.
- Này bố già, bố đừng nhòm ngó vợ tôi đấy!
- Chuyện ấy thì nói thế nào bây giờ nhỉ? - Cái nháy mắt của cụ Xaska đầy ý nghĩa.
- Nên thôi đi, bố già ạ? - Tikhol van vỉ.
- Nhưng anh bạn thân mến ạ, lão lại thích những ả mặt rỗ đấy. Chẳng cần cho lão một cốc rượu, cứ đem đến cho lão một ả mặt rỗ là được rồi. Cái bọn khốn nạn ấy, chúng nó càng rỗ nhằng rỗ nhịt lại càng yêu anh em mình.
- Bố đã sống đến ngần này tuổi rồi thì cũng phải biết xấu hổ chứ? Làm như thế là có tội đấy. Mà bố còn là thầy thuốc, bố biết chữa bệnh cho ngựa, biết lời thiêng…
- Lão là thầy thuốc về tất cả các mặt đấy. - Cụ Xaska vẫn khăng khăng.
- Nên thôi đi, bố già ạ? Không thể làm như thế được đâu.
- Này người anh em ạ, mụ Lukeria này nhất định sẽ về tay lão cho mà xem. Cậu hãy chia tay với nó, với con mụ thổ tả ấy đi. Lão sẽ chiếm lấy mụ? Mụ cũng như một cái bánh trứng có nho khô ấy mà. Chỉ vì nho khô đã bị nạy đi cả cho nên mụ mới hơi rỗ một chút như thế thôi. Lão vốn yêu những mụ như thế?
- Thôi cầm lấy này… nhưng chớ có làm vướng chân tôi đấy, tôi thì giết. - Tikhol vừa nói vừa thở dài móc trong túi thuốc ra vài đồng xu đồng.
Chẳng tháng nào không có một lần như thế.
Cuộc sống ở Yagonoie lên mốc lên meo trong một bầu không khí đờ đẫn ngái ngủ. Cái trang trại hẻo lánh này nằm trong một khe núi khô, xa các đường cái, sang thu rồi là chẳng còn dính líu đi lại gì với trên trấn cũng như với các thôn. Mùa đông, trên ngọn gò dựa lưng vào khu rừng, nhô ra như một mũi cát trên mặt biển, đêm đêm thường có những đàn chó sói qua mùa đông trong khu rừng Đen chạy ra gào hú, làm cho những con ngựa hết cả hồn vía. Những lúc như thế, Tikhol lại vác khẩu súng hai nòng của lão địa chủ vào rừng bắn đùng đoàng vài phát. Còn mụ Lukeria thì quấn tấm chăn vải thô quanh cặp mông to bè bè như tám gang đậy lò, nín thở chờ nghe tiếng súng. Mụ đăm đăm nhìn vào bóng tối, hai con mắt sưng húp trên cặp má bánh dầy rỗ nhằng rỗ nhịt. Lúc này, đối với mụ, gã Tikhol dở hơi và hói đầu của mụ là một chàng dũng sĩ đẹp trai dũng cảm tuyệt vời. Rồi đến khi cánh cửa của nhà đầy tớ mở bật ra cho Tikhol vào cùng với một đám hơi nước mù mịt, mụ lại nhường cho gã một chỗ trên giường, rồi vừa lẩm bẩm những lời âu yếm nựng nịu, vừa sung sướng ôm lấy gã nhân tình đang rét run như cầy sấy.
Mùa hè, ở Yagonoie đến khuya vẫn còn lao nhao tiếng những người đến làm công. Lão địa chủ gieo khoảng bốn mươi đê-xi-a-chin những thứ lúa khác nhau, vì thế phải thuê thợ gặt. Mùa hè, năm thì mười họa, Evgeni lại về trang trại. Hắn lang thang ngoài vườn và trong khu rừng sát ven ấp, sống những ngày chán ngán, sáng sáng mang cần câu ra ngồi lì bên bờ ao. Người hắn thấp, nhưng ngực nở nang, tóc để theo kiểu Cô-dắc với một bờm tóc chải sang bên phải. Bộ quân phục sĩ quan may rất khéo bó sát người hắn.
Hồi mới cùng Acxinhia đến trang trại, mấy ngày đầu Grigori cũng thường hay lên chơi với cậu chủ. Venhiamin bước vào nhà đầy tớ, nghiêng cái đầu có bộ tóc đen như nhung, mỉm cưởi.
- Lên nhà đi, Grigori, chỗ công tử ấy, công tử cho gọi cậu đấy.
Grigori bước vào, đứng lại ở chỗ cái đà ngang cửa. Công tử Evgeni Nicolaevich hơi nhe hàm răng to nhưng thưa, giơ tay chỉ một cái ghế dựa:
- Anh ngồi xuống đi.
Grigori ngồi xuống mép ghế.
- Anh có thích những con ngựa của nhà ta không?
- Những con ngựa tốt lắm. Con xám rất tốt.
- Anh hãy lấy nó đi cưỡi nhiều hơn một chút. Nhưng chú ý đừng phóng nước đại.
- Cụ Xaska đã dặn tôi rồi.
- Còn con Kreput thì thế nào?
- Con hạt dẻ ấy à? Nó thì vô giá. Nhưng móng bắt đầu có vết rồi đấy, phải đóng móng lại mới được.
Cậu công tử nheo cặp mắt sắc ngọt hỏi:
- Nhưng đến tháng Năm này anh phải đến trại lính cơ mà?
- Đúng thế đấy ạ.
- Tôi sẽ nói với ông ataman, anh sẽ không phải đi.
- Xin cảm ơn quan lớn lắm.
Hai người nín lặng một lát. Viên trung uý cởi cúc cổ áo quân phục, gãi gãi cái ngực trắng hếu như ngực đàn bà.
- Thế nào, anh không sợ thằng chồng của Acxinhia đến lấy lại nó trong tay anh à?
- Nó bỏ rồi, không lấy lại nữa đâu.
- Ai nói với anh thế?
- Hôm lên trấn mua đinh đóng móng ngựa, tôi có gặp một bà con trong thôn. Người ấy nói Stepan dạo này rượu chè không còn biết trời đất là gì nữa. Nó bảo: “Tôi không thiết gì đến con Acxinhia nữa, nó không còn đáng một đồng xu nhỏ. Mặc xác nó, tôi sẽ kiếm được một đứa khá hơn nhiều”.
- Acxinhia là một cô nàng đẹp đấy. - Viên trung úy vừa nói vừa mơ màng nhìn cao hơn con mắt của Grigori, một nụ cười dâm đãng nở trên môi hắn.
- Kể ra cũng được, - Grigori đồng ý rồi cau mày.
Hạn nghỉ phép của Evgeni đã sắp hết. Hắn đã có thể bỏ băng đeo, dễ dàng giơ tay, nhưng vẫn chưa gập được khuỷu.
Mấy ngày cuối cùng, hắn rất hay xuống la cà dưới gian Grigori ở trong nhà đầy tớ. Acxinhia đã quét vôi lại căn phòng mốc meo bẩn thỉu lau rửa các khung cửa sổ, lấy gạch vụn sát kỹ sàn nhà. Căn phòng nhỏ trống huếch trống hoác nhưng tươi vui tràn ngập không khí ấm cúng của nơi có mặt người đàn bà. Hơi nóng toả ra từ cái bếp lò chôn dưới đất. Viên trung úy khoác lên vai chiếc áo măng-tô ngắn may kiểu Romanov bằng dạ xanh da trời rồi láng cháng xuống nhà đầy tớ. Hắn cứ nhằm những lúc Grigori bận chăm nom cho ngựa mới mò tới. Đầu tiên hắn tạt vào nhà bếp, pha trò vài câu với mụ Lukeria rồi quay ra để rẽ vào nửa nhà bên kia. Hắn ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê bên cạnh bếp lò, gù hẳn lưng xuống và nhìn Acxinhia chằm chằm bằng hai con mắt tươi cười rất vô liêm sỉ. Thấy Evgeni có mặt trong phòng, Acxinhia mất hết bình tĩnh, đôi kim đan trên chiếc bít tất đan dở rung lên trong tay nàng.
- Acxuska, chị ở đây thấy thế nào? - Viên trung úy hỏi rồi hà một hơi thuốc, khói xanh um cả căn phòng nhỏ.
- Xin cám ơn quan lớn.
Acxinhia ngước nhìn lên bắt gặp cặp mắt trong suốt của viên trung úy, thấy trong đó nói lên không cần dùng lời tất cả dục vọng của hắn. Nàng đỏ bừng mặt. Acxinhia cảm thấy bực bội khó chịu mỗi khi nhìn thấy hai con mắt nhạt mầu, trần truồng của cậu chủ Evgeni Nicolaevich. Nàng trả lời không đầu không đũa các câu hỏi vô vị của hắn, và chỉ tìm cách mau chóng bỏ đi chỗ khác.
- Tôi phải đi đây. Còn đổ thóc cho vịt.
- Chị ngồi thêm một lát nào. Còn kịp chán. - Viên trung úy mỉm cười hai chân hắn run bắn lên trong cái quần cưỡi ngựa may rất sát.
Hắn lân la hỏi mãi Acxinhia về cuộc đời của nàng trước kia. Hắn cố ý dùng những âm trầm của cái giọng hệt như giọng của bố hắn, trong khi đó hai con mắt sáng, trong như nước suối của hắn cứ nói lên những điều thô bỉ, vô liêm sỉ.
Làm xong công việc, Grigori trở về nhà đầy tớ. Tên trung úy dập tắt ngay ngọn lửa vừa nãy còn bừng bừng trong mắt hắn, mời Grigori hút điếu thuốc rồi bỏ ra ngoài.
- Nó ngồi đây làm gì thế? - Grigori không nhìn Acxinhia, hỏi giọng khàn khàn.
- Em làm thế nào mà biết được? - Nhớ lại cặp mắt tên trung úy, Acxinhia bật cười, một tiếng cười chẳng tự nhiên chút nào. - Nó vào trong nầy, ngồi xuống ở chỗ kia kìa, anh Griska ạ, anh hãy xem, cứ như thế nầy nầy, - Nàng bắt chước kiểu tên trung uý ngồi, lưng còng xuống rất giống. - Và nó cứ ngồi mãi ngồi mãi, làm em đến buồn nôn. Mà hai đầu gối nó thì nhọn hoăn hoắt, nhọn ơi là nhọn.
- Và em thì tiếp chuyện nó, phải không? - Grigori cau mày đầy vẻ bực tức.
- Em thiết gì cái thớ nó!
- Nầy liệu liệu đấy, kẻo tôi chỉ búng một cái là cho nó bắn ra ngoài thềm ngay.
Acxinhia mỉm cười nhìn Grigori và không thể nào hiểu được là chàng nói thật hay nói đùa.

15


Đến tuần chay thứ tư trời bớt rét. Hai bên dòng sông Đông sùi lên, nom như những cái viền tua. Lớp trên của băng tan một phần trương lên, thủng lỗ chỗ trắng ra. Chiều chiều từ trong núi vang ra những tiếng ì ầm. Theo lời các cụ truyền lại thì đó là triệu chứng sắp đại hàn, nhưng thật ra trời sắp trở ấm. Buổi sáng tiết trời rét nhẹ còn phủ lên mặt đất một lớp băng mỏng, nhưng đến giữa trưa thì đất sạch băng và không khí nặc mùi tháng ba, mùi vỏ cây anh đào bị giá, mùi rơm cỏ mục.
Miron Grigorievich đã nhẩn nha sửa soạn việc cày bừa. Ngày đã dài ra, nhưng hôm nào ông cũng loay hoay dưới mái hiên nhà kho để đẽo những cái răng bừa và cùng Getko làm hai cái khung xe mới, kiểu xe có bánh. Cụ Grisaka ăn chay để đến tuần thứ thì chịu lễ ban ơn thánh thể. Cụ ở nhà thờ về, rét quá, người tím lại như quả bồ quân. Cụ than phiền với con dâu:
- Lão cố đạo làm tình làm tội tao mãi, cha cố cái loại ăn hại, đúng thế đấy, làm lễ cứ như lái trứng đánh xe. Đến là tai hại!
- Cha ạ, đáng là cha nên chờ đến tuần trước lễ Phục sinh hãy ăn chay thì hơn, lúc ấy ấm áp hơn.
- Mày gọi con Natalia vào đây cho tao. Phải bảo nó đan cho một đôi bit-tất thật dày mới được. Còn đi thứ bit-tất hở gót nầy thì đến con sói xám cũng chết cóng.
Natalia về sống ở nhà bố mẹ thật chẳng khác gì “một gã khô-khon lúc gần đất xa trời” (Ý nói kẻ ngụ cư sắp chết nơi đồng đất nước người). Nàng cứ có cảm tưởng như Grigori sẽ quay trở lại với mình. Mặc những lời rỉ tai tỉnh táo của lý trí, con tim nàng vẫn một mực mong đợi. Đêm đêm lòng dạ nàng bị thiêu đốt trong nhớ nhung. Chuyện nhục nhã bất ngờ và đầy oan khuất vừa qua đã dày xéo, chà đạp lên nàng. Nhưng chưa hết tai này đã đến nạn khác, và Natalia kinh hoàng, âm thầm chờ xem kết cục của cái nạn này sẽ ra sao. Bao nhiêu đêm liền nàng trằn trọc trong căn phòng nàng đã ở hồi còn con gái, chẳng khác gì con chim dẽ mào trúng đạn trong đám cỏ bên bờ đầm. Ngay từ mấy ngày đầu Mitka đã bắt đầu nhìn Natalia bằng con mắt khác hẳn trước kia, và một lần nó đã giữ nàng lại ở phòng ngoài, hỏi toạc móng heo:
- Mày buồn khổ vì thiếu thằng Griska à?
- Việc gì đến anh?
- Tao muốn giúp mày xua cái buồn ấy đi…
Natalia nhìn vào mắt nó rồi sợ rủn cả người vì thấy mình đã đoán ra. Cặp mắt xanh lè như mắt mèo của Mitka long lên, hai kẽ đồng tử lấp loáng đầy vẻ dâm đãng trong bóng tối của phòng ngoài. Natalia đóng sầm cửa lại, nhảy thoắt vào căn phòng bên, phòng của cụ Grisaka. Nàng đứng trong đó rất lâu, lắng nghe tiếng tim mình hoảng hốt đập thình thịch. Ngay hôm sau Mitka lại sán đến bên Natalia ở sân nuôi gia súc. Lúc ấy nó đang hất cỏ cho gia súc ăn, những sợi cỏ xanh còn vương trên bộ tóc mượt và cái mũ lông kiểu Tây ban nha của nó. Natalia đang đuổi mấy con chó luẩn quẩn bên cái máng lợn.
- Mày đừng tự làm khổ mày nữa, Natasca ạ…
- Tôi gọi cha bây giờ! - Natalia không dám nhìn nó bèn đưa hai tay lên che mặt và kêu rầm lên.
- Sao thế, mày điên à?
- Cút đi đồ khốn kiếp!…
- Làm gì mà mày kêu toáng lên thế?
- Cút ngay đi, anh Mitka? Tôi vào mách cha bây giờ đây! Sao anh cứ nhìn tôi bằng hai con mắt như thế? Hừ, đồ vô liêm sỉ! Thế mà còn đứng được trên mặt đất à?
- Đất nó vẫn đỡ tao như thường, có lún xuống đâu nào? - Để chứng thực cho lời nó nói, Mitka chống nạnh hai tay và dận đế ủng xuống đất.
- Này anh Mitka, đừng có sán đến gần tôi!
- Bây giờ thì tao không đến gần mày đâu, nhưng đến đêm tao sẽ vào. Đúng thế đấy, thể nào tao cũng vào.
Natalia bước ra khỏi sân gia súc, người run cầm cập. Đến tối, nàng sắp xếp chỗ nằm trên chiếc hòm to, rồi gọi con em gái út vào cùng ngủ với mình. Suốt đêm nàng trằn trọc, mắt bừng bừng cố nhìn xuyên qua bóng tối, chỉ chờ có tiếng động là kêu rầm nhà ngay.
Nhưng trong bầu không khí lặng như tờ chỉ nghe thấy tiếng cụ Grisaka ngáy cạnh đấy, bên kia tường, và tiếng con em bé dạng chân dạng tay nằm bên cạnh lâu lâu lại khịt mũi.
Những ngày bị đầu độc bởi nỗi đau khổ khôn nguôi của một người đàn bà lần lượt trôi qua.
Mitka còn chưa khuây khoả sau cái nhục mà nó đã phải chịu trong lần đi hỏi vợ trước kia. Nó trở nên cau có và hung hãn. Tối tối nó lần đến bãi thanh niên múa hát chơi bời, phần nhiều trời hửng mới thấy nó dẫn xác về. Nó tằng tịu với những mụ vợ lính vắng chồng ngứa nghề hoặc đến nhà Stepan đánh “Otko”. Tạm thời Miron Grigorievich vẫn chưa nói gì, chỉ theo dõi riết.
Trước lễ Phục sinh, một hôm Natalia bỗng gặp ông Panteley Prokofievich ở gần cửa hiệu Mokhov. Ông bố chồng gọi nàng trước:
- Hượm lát đã, Natalia!
Natalia đứng lại. Nhìn bố chồng thấy cái mũi quặp và khuôn mặt hao hao như Grigori, nàng chợt cảm thấy nhớ day dứt.
- Sao Natalia không nhìn ngó tới ông bà già này nữa thế? - Ông già luống cuống tránh cặp mắt của Natalia, cứ như chính mình có lỗi với nàng. - Bà lão ở nhà cũng nhớ Natalia lắm đấy, cứ bảo không biết con về bên ấy thế nào… Thế nào, dạo này con ra sao?
Sau một phút bàng hoàng mà nàng cũng không hiểu vì sao, Natalia đã trấn tĩnh lại được:
- Xin cám ơn… - Đến đây thì nàng ngập ngừng (vốn là nàng định gọi ông già là cha nhưng lại thôi) rồi lúng túng nói nốt - Ông Panteley Prokofievich.
- Sao Natalia không lại thăm chúng tôi nữa thế?
- Cháu còn bận làm… công việc trong nhà.
- Cái thằng Griska nhà chúng tôi, chao ôi! - Ông già lắc đầu cay đắng. - Nó làm chúng tôi cũng đến khổ, cái thằng mất dạy… Trước kia cả nhà sống êm ấm hòa hợp biết bao…
- Còn biết sao được nữa, cha ơi… - Giọng Natalia cất cao lên, thất thanh, - có lẽ tại số đấy thôi.
Nhìn thấy cặp mắt đẫm lệ của Natalia, ông Panteley Prokofievich cuống lên, không biết làm thế nào nữa. Nàng mím chặt môi, cố nuốt nước mắt.
- Thôi tạm biệt, con yêu của cha… Con đừng vì nó mà đau khổ nữa, cái thằng chó đẻ ấy nó không đáng cái móng tay của con đâu. Nhưng có lẽ nó sẽ lại quay về thôi. Cha sẽ tìm nó, rồi thể nào cũng lôi cổ được nó về.
Natalia bỏ đi, đầu rụt lại như người bị đòn. Còn ông Panteley Prokofievich thì cứ đứng tại chỗ mà giậm chân mãi như sắp sửa chạy tế lên. Natalia đi đến đầu phố quay đầu lại thấy bố chồng đang nặng nề tì hẳn người lên cái nạng, khập khiễng đi trên bãi.

16


Các cuộc họp ở nhà Stokman bắt đầu thưa dần. Trời sắp sang xuân. Bà con trong thôn đều sửa soạn cho công việc đồng áng mùa xuân. Đến họp được chỉ có mấy anh chàng ở nhà máy xay. “Bồi” và Davydka cùng anh thợ máy Kotliarov. Anh em đã gặp nhau hôm thứ năm tuần Thánh (Tuần trước lễ Phục sinh), lúc trời sắp tối. Stokman ngồi ở bàn thợ, anh dùng một chiếc dũa nhỏ giũa một cái nhẫn bạc làm bằng một đồng nửa rúp. Một dé ánh sáng của vừng mặt trời sắp lặn chiếu qua cửa sổ, in lên sàn một cái khung vuông đầy bụi, màu hồng hồng vàng vàng. Kotliarov loay hoay với cái kìm bấm.
- Hôm nọ tôi có mặt ở nhà lão chủ, tôi đã đến đấy để nói về chuyện cái pít-tông. Cần phải đem đi Minlerovo, vì chỉ ở đấy mới có thể chữa đến nơi đến chốn, chứ chúng mình ở đây thì làm gì được? Rạn một vết bằng ngần nầy nầy. - Kotliarov giơ ngón tay út ra hiệu kích thước của vết rạn, không biết để ai xem.
- Hình như ở đấy có một nhà máy lớn phải không? - Stokman hỏi, nhưng tay anh vẫn giũa, bụi bạc rất mịn rơi lăn tăn chung quanh ngón tay anh.
- Có một lò Máctanh. Năm ngoái tôi đã có dịp đến đấy.
- Anh em thợ có đông không?
- Đông vô kể, đến bốn trăm ấy.
- Thế đời sống của họ thế nào? - Stokman vẫn vừa làm việc vừa hỏi. Đầu anh lắc lắc, giọng anh tách bạch từng tiếng như người cà lăm cố gắng gượng nói như bình thường.
- Họ sống sung túc lắm. Không phải là cái giai cấp vô sản của anh đâu, mà là… cứt mới đúng.
- Sao lại thế? - “Bồi” thấy lạ bèn hỏi. Hắn ngồi bên cạnh Stokman, những ngón tay vừa ngắn vừa thô đan vào nhau trên đầu gối.
Chàng thợ cán Davydka cứ đi lại lại trong gian xưởng, bột mì bám đầy trên tóc làm đầu hắn nom như bạc. Đôi ủng mũi nhọn thốc phoi tiện bắn tung ra. Hắn mỉm cười lắng nghe tiếng loạt soạt vang lên kèm theo mùi dầu mỡ. Davydka có cảm tưởng như mình đang đi trong một khe núi, lá rụng đỏ tía. Lớp lá lún xuống rất êm, và bên dưới là chất đất ẩm của khe núi, non trẻ, co dãn.
- Đó là vì tất cả chúng nó đều sống có của ăn của để. Thằng nào cũng có một ngôi nhà nhỏ riêng, có vợ và mọi mặt thỏa mãn sung sướng khác. Ngoài ra trong số ấy một nửa lại theo bọn Báp-tít (Còn gọi là giáo phái Tây lễ, một giáo phái của đạo Thiên chúa, chủ trương người lớn tin đạo rồi mới chịu lễ rửa tội). Chính lão chủ nhà máy lại là thằng truyền đạo của chúng nó. Thế là tay nọ rửa tay kia, mà cả hai tay đều đầy cáu ghét, lấy xẻng cạo cũng không thể nào sạch được.
- Anh Kotliarov nầy, bọn Báp-tít là thế nào nhỉ? - Davydka nghe thấy một từ ngữ lạ bèn đứng lại hỏi.
- Bọn Báp-tít ấy à? Bọn chúng nó tin Thượng đế theo kiểu riêng của chúng nó. Cũng đại loại như bọn Pô-li-pôn ấy mà. (Tên gọi nhại những người theo Cựu giáo)
- Mỗi thằng xuẩn ngu đều có một cách riêng để mất trí. - “Bồi” nói thêm.
- Thôi để mình kể nhé. Thế là mình đến gặp Sergey Platonovich, - Kotliarov nói tiếp câu chuyện đã bắt đầu. Đến nhà lão thì thấy Atepin “Chacha” ngồi ở đấy rồi. Lão bảo: “Anh hãy chờ ở phòng ngoài đã”. Mình bèn ngồi đợi. Qua cửa phòng có thể nghe thấy câu chuyện họ nói với nhau. Lão chủ nói với Atepin rằng có lẽ chiến tranh với người Đức sắp nổ ra đến nơi, và lão còn đọc thêm một đoạn trong sách. Còn “Chacha” thì cậu có biết hắn ta trả lời ra sao không? Hắn ta bảo: “Tất nhiên tôi không thể đồng ý với ông về chuyện “chiến chanh” được”.
Kotliarov nhại giọng Atepin giống quá, làm Davydka há hốc miệng ra cười một tiếng ngắn, nhưng anh chàng chợt nhìn thấy vẻ mặt nhạo báng của “Bồi”, lại thôi ngay. Kotliarov tiếp tục kể lại câu chuyện anh được nghe:
- Hắn bảo: “Không thể có chiến “chanh” với nước Nga được vì nước Đức sống bằng lúa mì của chúng ta”. Đến lúc ấy lại có một thằng nữa nói, nhưng tôi nghe giọng nói, không nhận được ra là ai, mãi sau mới biết là thằng con lão địa chủ Litnhitki, một tên sĩ quan. Thằng nầy nói: “Chiến tranh sẽ nổ ra giữa nước Đức và nước Pháp để tranh dành những vườn nho, còn chúng ta thì chẳng có gì dính dáng đến chuyện ấy”.
- Anh Stokman nầy, anh thấy thế nào hả? - Kotliarov hỏi Stokman.
Stokman đưa tay ra xa, chú ý ngắm nghía chiếc nhăn đã giũa xong và trả lời như cho qua chuyện:
- Tôi không biết đoán trước chuyện sau nầy đâu.
- Chúng nó choảng nhau thì chúng mình cũng chẳng yên thân. Dù muốn hay không, hễ xảy ra chuyện gì mình sẽ bị nắm tóc lôi vào cuộc thôi, - “Bồi” suy luận.
- Về chuyện nầy, các bạn ạ, vấn đề là như thế nầy nầy… - Stokman vừa nói vừa nhẹ nhàng lấy lại cái kìm trong tay Kotliarov.
Giọng anh nghiêm trang, rõ ràng là anh định giảng giải cặn kẽ.
“Bồi” co lại cho thoải mái hai chân trượt từ bàn thợ xuống. Trên khuôn mặt Davydka, cặp môi chúm lại vẫn chưa che kín mấy cái răng bàn cuốc đẫm nước bọt. Với những lời lẽ rõ, gọn, chắc như đinh đóng cột mà anh vẫn quen dùng, Stokman phác ra bức tranh về tình hình các nước tư bản đấu tranh với nhau để dành thị trường và thuộc địa.
Cuối cùng Kotliarov nóng nảy ngắt lời Stokman:
- Anh hãy hượm đã nào, nhưng chúng ta thì có gì dính dáng vào những chuyện ấy?
- Cả cậu lẫn những anh chàng khác cũng như cậu đều sẽ nhức đầu vì những kẻ khác say rượu đấy, - Stokman mỉm cười.
- Anh còn trẻ con gì nữa mà không biết, - “Bồi” nói ác, - tục ngữ từ xưa đã có câu: “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”?
- Hừ-ừm, - Kotliarov nhăn mặt, cố gỡ cả một khối rất to những ý nghĩ rối như tơ vò.
- Cái thằng Litnhitki ấy, nó mò đến nhà lão Mokhov làm gì thế? Định ngấp nghé con gái lão ta hay sao? - Davydka hỏi.
- Của ấy đã qua tay thằng ăn thừa tự nhà Korsunov rồi còn gì? – “Bồi” vẫn ác khẩu.
- Anh nghe thấy không, Kotliarov? Thằng sĩ quan ấy gí mũi vào đấy làm gì thế?
Kotliarov giật mình đánh thót, cứ như bị người ta lấy roi quật vào đầu gối.
- Cái gì hử? Cậu bảo sao?
- Ngủ gật đấy à? Ông già? Đang nói về thằng Litnhitki đấy.
- Nó ra ga mà. Nhưng còn có chuyện mới lạ nầy nữa: mình ở trong ấy bước ra thì thấy trên thềm có một anh chàng, các bạn có đoán được ra là ai không? Thằng Griska nhà Melekhov. Nó cầm một cái roi nhỏ đứng đấy. Mình hỏi: “Cậu đến đây làm gì thế, Grigori?”. Nó trả lời: “Tôi đưa công tử Litnhitki ra ga Minlerovo”.
- Nó đánh xe cho nhà ấy đấy - Davydka nói xen vào.
- Nó đến ăn cơm thừa của nhà địa chủ.
- “Bồi” ạ, cậu đúng là một con chó xích, bất kỳ thấy ai cũng sủa.
Câu chuyện lắng đi một chút. Kotliarov đứng dậy ra về.
- Anh vội đi nhà thờ phải không? – “Bồi” nói chọc theo.
- Mình thì ngày nào cũng đi lễ.
Stokman tiễn ba người khách quen ra về, rồi khóa cửa gian xưởng, đi vào nhà trong.
Đêm lễ Phục sinh, những đám mây ưỡn những bộ ngực đen sì che kín bầu trời, mưa lộp bộp từng giọt. Bóng tối đầy hơi ẩm đè nặng lên thôn xóm. Trên sông Đông, ngay từ lúc hoàng hôn, băng đã nứt với những tiếng rên rỉ kéo dài lan dần ra xa. Tảng băng đầu tiên bị cái khối khổng lồ những miếng băng vụn ép lại bắt đầu ngoi lên khỏi mặt nước với những tiếng ràn rạt. Băng nứt liền một đoạn bốn vec-xta, cho tới khúc đầu tiên sau khi con sông chảy ra khỏi thôn.
Rồi băng bắt đầu trôi. Theo nhịp chuông nhà thờ dóng dả đều đặn, những cánh đồng băng trên sông Đông xô vào nhau, tan vỡ, làm rung chuyển cả hai bên bờ. Băng trôi đến quãng sông Đông ngoặt sang trái thì tắc lại. Tiếng nổ ầm ầm và tiếng nứt ràn rạt của những tảng băng xô vào nhau vang đến trong thôn. Thanh niên kéo đàn kéo lũ đến bên trong tường bao nhà thờ, trên cái sân lốm đốm những vũng băng tan nhấp nhoáng. Từ trong nhà thờ, tiếng đọc kinh sang sảng vang ra tới thềm, rồi từ thềm ra sân. ánh đèn nến ngày hội lunglinh vui vẻ sau chấn song các cửa sổ. Trong khi đó, bên trong dãy tường bao bọn con trai sờ nắn cấu chí bọn con gái, còn bọn con gái chốc chốc lại khe khẽ rít lên. Họ hôn nhau, họ thầm thì kể cho nhau nghe những chuyện bù khú.
Từ những thôn xa có, gần có, dân Cô-dắc đến dự buổi lễ thánh vui tươi. Họ đứng chen chúc trong phòng giữ đồ thánh của nhà thờ. Kiệt sức vì mệt và vì không khí ngột ngạt trong phòng, người ta lăn ra ngủ trên những chiếc ghế dài, trên các bậu cửa sổ, hoặc ngay trên sàn nhà.
Có những người ngồi trên những ngưỡng cửa sổ cũ nát hút thuốc, bàn tán về chuyện thời tiết nắng mưa, chuyện công việc đồng áng mùa xuân.
- Bao giờ thì bà con thôn bác bắt đầu ra đồng?
- Có lẽ đến thánh Tôma thì bắt đầu.
- Nếu thế thì tốt lắm, vì đồng cỏ bên bác có nhiều cát.
- Mấy năm nay đất đã được thấm nhiều nước.
- Năm ngoái chúng tôi cày thấy ròn như sụn ấy, cả một dải thượng đẳng điền thẳng cánh cò bay.
- Đunka, ở chỗ nào thế? - Có tiếng léo nhéo bên dưới thềm nhà giữ đồ thánh.
Cạnh cửa hàng rào nhà thờ, có tiếng lầu bầu, khàn khàn và thô bạo:
- Chúng mày không kiếm được chỗ nào khác mà hôn nhau à? Chà hai đứa nầy… Xéo khỏi chỗ nầy ngay, quân đốn mạt dơ dáy! Làm gì mà động cỡn lên thế?
- Ông đang thiếu đôi hay sao? Đến kiếm con chó cái nhà tôi mà hôn vậy, - Trong bóng tối có một giọng con trai đang vỡ tiếng cãi lại.
- Cho-o-ó cái à? Nầy ông cho mày biết…
Rồi có tiếng chân chạy lép nhép, tiếng cười rộ và tiếng váy con gái loạt soạt.
Nước nhỏ trên mái xuống từng giọt, lanh lảnh như tiếng thuỷ tinh. Rồi lại vẫn cái giọng chậm rề rề, lệt sệt như bùn đất đen:
- Hôm kia tôi có đến mặc cả mua cái cày ở nhà Prokho, tôi đã trả mười hai rúp mà lão còn chưa chịu bán. Với thằng cha ấy thì không bớt được đồng nào đâu.
Những tiếng hàng rào, lạo sạo, răng rắc vẫn rền đều trên khắp sông Đông. Hình như dưới kia, bên ngoài thôn, có một người đàn bà trang sức lộng lẫy, rất khỏe, cao như một cây tiêu huyền, đang vừa đi vừa loạt soạt những cái vạt váy to lạ lùng.
Đến nửa đêm, khi bóng tối đã đặc sệt như nước mứt hoa quả, bỗng thấy Mitka Korsunov cưỡi một con ngựa không đóng yên phi đến bên tường bao nhà thờ. Nó xuống ngựa, buộc dây cương lên bờm ngựa, rồi đưa tay vỗ vỗ con ngựa vừa chạy còn đương hăng. Nó đứng lại một lát, lắng nghe tiếng vó ngựa dẫm lọp ọp dưới đất, rồi sửa lại dây lưng, bước vào trong sân. Lên đến thềm nhà thờ, nó bỏ cái mũ lông xuống, cúi cái đầu cạo dành món tóc như hình một cái ngoặc đơn không đều đặn để làm lễ. Lễ xong, nó xô đẩy những người đàn bà, len tới trước bàn thờ. Ở bên trái là cánh đàn ông chen chúc nhau như một đàn cừu đen, còn bên phải là những mầu sặc sỡ của quần áo phụ nữ. Mitka đưa mắt tìm thấy bố đang đứng trên hàng đầu, bèn len tới gần. Miron Grigorievich vừa đưa tay lên làm dấu phép thì Mitka nắm lấy khuỷu tay ông, ghé sát miệng vào cái tai đầy lông lá của ông, khẽ nói:
- Cha ơi, cha ra ngoài kia một lát.
Cánh mũi phập phồng, Mitka lách qua cả một hàng rào người dày đặc, nồng nặc đủ mọi thữ mùi: mùi khói nến lờm lợm, mùi những cơ thể đàn bà đầm đìa mồ hôi, mùi cải mả của những bộ quần áo cất kín quá lâu (các bộ quần áo nầy chỉ được lôi từ dưới đáy hòm ra nhân dịp lễ Thiên chúa giáng sinh hay lễ Phục sinh), mùi da giầy ướt mùi băng phiến, mùi những chất bài tiết từ những cái dạ dày đói meo qua tuần chay.
Ra đến ngoài thềm, Mitka tì ngực vào vai bố và nói:
- Con Natalia chết mất!

17


Grigori đánh xe đưa Eghênhi đi Minlerovo rồi về ngay cho kịp ngày chủ nhật lễ Lá.
Ở một làng của người Ukraina tên là Onkhovyi Rok cách nhà ga hai mươi nhăm vec-xta, thiếu chút nữa thì chàng làm cho hai con ngựa chết đuối trong khi vượt sông. Chàng tới làng nầy từ lúc còn chưa hoàng hôn. Đêm hôm trước băng vỡ, trôi đi, dòng sông nhận thêm những luồng nước tuyết tan nâu nâu, dâng lên, sủi bọt, tràn vào các ngõ.
Quán trọ nơi Grigori nghỉ cho ngựa ăn trên đường ra nhà ga lại ở bờ bên kia. Qua đêm nữa thì nước còn có thể dồn tới nhiều hơn, vì thế Grigori quyết định vượt sông ngay.
Chàng cho ngựa chạy tới chỗ trước đó một ngày một đêm chiếc sẽ đã vượt sông trên băng. Bây giờ thì con sông tràn lên hai bên bờ, cuốn theo lòng sông mở rộng những đám nước bẩn và dễ dàng quay tít giữa dòng một đoạn hàng rào cùng với một nửa cái vành bánh xe.
Trên mặt cát đã sạch hết tuyết, còn hằn những vết đòn trượt mới in, chỉ hơi mờ một chút. Grigori cho ngựa dừng lại. Hai con ngựa chạy đã đẫm mồ hôi, chỗ háng sủi lên như bọt xà phòng. Chàng nhảy trên xe xuống xem kỹ các vết đòn xe, thấy có những vết rạn nứt rất nhỏ.
Ra tới mép nước, các vết đòn đều hơi chệch sang trái một chút rồi mới chìm sâu xuống. Grigori đưa mắt ước lượng khoảng cách: chỉ hai mươi xa-gien, không thể nhiều hơn nữa. Rồi chàng trở về với hai con ngựa để xem lại các đồ thắng. Ngay lúc ấy, từ trong ngôi nhà gần nhất, một người Ukraina có tuổi đi tới gần Grigori. Người ấy đội cái mũ lông cáo có ba mảnh che gáy che tai.
- Chỗ nầy qua được chứ ông? - Grigori vừa hỏi vừa vung dây cương chỉ dòng nước nâu nâu sôi sục.
- Qua được đấy. Sáng nay vừa có người qua.
- Có sâu không?
- Không. Nhưng có lẽ nước tràn được vào trong xe đấy.
Grigori lựa lại những sợi dây cương, cầm ngọn roi sẵn sàng rồi thúc hai con ngựa bằng một tiếng ra lệnh ngắn gọn “Đi!”.
Hai con ngựa thở phì phì, ngửi ngửi làn nước rồi cất bước một cách miễn cưỡng.
- Đi! - Grigori đứng nhổm lên trên chỗ ngồi đánh xe, quất roi đánh đét.
Con ngựa lông hạt dẻ có cặp mông rất to thắng ở bên trái. Nó lắc đầu: thôi cũng liều! Rồi bất thần kéo mạnh dây thắng, Grigori liếc nhìn xuống chân; nước ngập tới thành xe. Lúc đầu hai con ngựa chỉ lội đến đầu gối, nhưng sau bỗng nhiên ngụp tới ngực, Grigori đã muốn quay trở lại, nhưng ngựa đã hẫng chân, bắt đầu bơi trên mặt nước. Phần sau chiếc xe bị nước đẩy xuôi, hai con ngựa quay đầu lên thượng nguồn. Nước tràn qua lưng ngựa, chiếc xe tròng trành rồi bị kéo trở lại rất mạnh.
- Ái chà! ái chà! Giữ cho vững! - Người Ukraina chạy trên bờ kêu rầm lên, và không hiểu sao bác ta cứ giựt cái mũ lông cáo trên đầu xuống mà vung loạn xạ.
Grigori tức sôi lên một cách man rợ. Chàng quát luôn miệng, cố thúc hai con ngựa. Nước xoáy tít phía sau chiếc xe bị chìm xuống một phần, thành những hình phễu nhỏ. Chiếc xe chợt vấp mạnh vào một cái cọc nhô khỏi mặt nước (đó là dấu vết của một chiếc cầu bị cuốn trôi) rồi lật sấp luôn, dễ như trở bàn tay. Grigori vừa kịp ái chà một tiếng đã ngập đầu xuống nước, nhưng tay vẫn nắm chắc dây cương. Cứ như có người nắm tà áo lông ngắn, kéo chân Grigori lôi chàng một cách nhẹ nhàng nhưng dai dẳng, vật vã chàng bên cạnh chiếc xe luôn luôn ngả nghiêng. Tay trái của chàng bỗng nắm được một cái đòn trượt, chàng bèn buông cương, thở hổn hển, bắt đầu thay đổi hai tay, men dần tới cái đòn ngang phía trước. Những ngón tay Grigori vừa nắm được cái đầu bọc sắt của cái đòn ngang thì đầu gối của chàng bị chân sau của con Hạt Dẻ đạp mạnh: con ngựa đang cố giãy để chống lại dòng nước. Grigori bị sặc nước, nhưng chàng vẫn bơi vài sải và túm được một dây cương. Nước chảy mạnh làm chàng không lại gần được hai con ngựa và phải hết sức cố gắng mới duỗi được những ngón tay. Khắp người lạnh buốt như bị những cái gai lửa châm, Grigori xoài được tới đầu con Hạt Dẻ. Nó nhìn như xuyên vào hai cái đồng tử nở căng của Grigori bằng hai con mắt đỏ máu, điên cuồng, đầy kinh hoàng.
Đã mấy lần, những sợi dây cương quá trơn tuột khỏi tay Grigori. Chàng vừa bơi vừa cố túm lấy, song những cái dây da vẫn cứ trơn tuột đi. Cuối cùng không hiểu sao chàng vẫn nắm được và hai chân chàng bỗng nhiên chạm tới đất.
- Đi i-i! - Grigori hết sức lao mình về phía trước nhưng lại bị ngực của một con ngựa húc phải, làm cho chàng mất thăng bằng, ngã lăn xuống một chỗ nước nông ngầu bọt.
Hai con ngựa dẫm qua người Grigori, phóng lên như một cơn lốc, kéo được chiếc xe ra khỏi làn nước, nhưng chỉ chạy thêm được vài bước, chúng đã mệt nhoài phải đứng lại. Hai lưng ngựa ướt đẫm bốc hơi ngùn ngụt, run bắn lên.
Grigori không còn biết đau nữa, chàng đứng chồm ngay dậy. Hơi lạnh bám lên người như thứ bột bánh nóng không thể nào chịu được.
Grigori còn run hơn con ngựa, chàng cảm thấy trong khi đứng, lúc nầy mình cũng yếu như đứa trẻ chưa rời vú mẹ. Bỗng chàng nhớ ra, bèn lật lại chiếc xe cho hai đòn trượt xuống dưới, rồi đánh ngựa phi nước đại, cho hai con ngựa nóng lên. Chiếc xe lao như bay vào một dãy phố, cứ như trong một trận tấn công. Vừa thấy có một cái cổng mở, chàng cho ngựa xông bừa vào ngay mà cũng chẳng ghìm chậm lại. Cũng may gặp một người chủ nhà tốt bụng. Bác ta sai con trai ra làm các việc cần đối với hai con ngựa, còn mình thì tự tay giúp Grigori cởi quần áo rồi ra lệnh cho vợ, giọng không cho phép nói lại:
- Nhóm lò!
Grigori mặc chiếc quần dài của chủ nhà, nằm nghỉ trên bếp lò, chờ quần áo của mình khô. Chàng ăn tối với một món xúp không có thịt rồi đi ngủ.
Chàng lên đường lúc trời còn tranh tối tranh sáng. Trước mặt còn chặng đường một trăm ba mươi nhăm vec-xta, vì thế một phút cũng quý. Mùa xuân đường xá trên đồng cỏ luôn luôn có thể hỏng không đi được Những dòng nước tuyết tan chảy ầm ầm trong tất cả các khe các vực.
Hai con ngựa chạy như bay trên con đường đen xì đã tan hết băng tuyết. Trong sương giá ban mai, Grigori về tới một khu của người Tavria ở cách đường cái bốn vec-xta, rồi cho xe dừng lại ở chỗ ngã ba. Hai con ngựa đẫm mồ hôi bốc hơi ngùn ngụt. Vết đòn xe nhấp nhoáng phía sau trên mặt đất. Grigori bỏ chiếc xe trượt tuyết lại trong khu người Tavria, rồi buộc cao đuôi hai con ngựa, cưỡi một con, còn con kia thì nắm lấy dây cương dắt theo. Chàng về tới Yagonoie sáng hôm chủ nhật lễ Lá.
Lão địa chủ nghe Grigori thuật lại cặn kẽ về chặng đường rồi ra thăm ngựa. Cụ Xaska đang dắt hai con ngựa đi trong sân. Cụ nhìn những cái sườn ngựa hõm sâu xuống bằng con mắt căm giận.
- Ngựa thế nào? - Lão địa chủ bước tới hỏi.
- Cứ nhìn cũng đủ biết. - Cụ Xaska lầu bầu nhưng không đứng lại, chòm râu tròn trắng trắng xanh xanh của cụ run lên.
- Có chạy hỏng mất ngựa không?
- Chưa, chỉ có ngực con Hạt Dẻ bị vòng cổ sát đau thôi. Không có gì đáng kể.
- Mày đi nghỉ đi. - Lão địa chủ hất tay bảo Grigori lúc này vẫn đứng chờ bên cạnh.
Grigori trở về phòng đầy tớ, nhưng chàng cũng chỉ được nghỉ có một đêm. Sáng hôm sau Venhiamin đã tới với chiếc áo sơ-mi xa-tanh mới màu xanh da trời và nụ cười trên bộ mặt phính phính như thường lệ.
- Grigori lên cụ chủ gọi. Lên ngay nhé!
Viên tướng đang lệt sệt đôi giày đế mỏng bằng dạ đi đi lại lại trong phòng khách. Grigori đứng lại ngoài cửa, dặng hắng lần đầu, và giậm hết chân nọ đến chân kia. Chàng dặng hắng lần thứ hai thì lão địa chủ ngẩng đầu lên.
- Mày có việc gì thế?
- Thưa có Venhiamin gọi.
- À phải. Mày ra thắng con ngựa non và con Kreput. Bảo con Lukeria đừng cho nó ăn. Đi săn.
Grigori vừa quay ra thì lão địa chủ gọi giật lại.
- Nghe rõ chưa? Mày sẽ đi với tao.
Acxinhia nhét vào túi áo lông ngắn của Grigori một miếng bánh xốp nhạt, khẽ nói:
- Cái lão khốn khiếp không để cho người ta ăn nữa? Sao ma quỷ không bắt lão đi. Anh Griska ạ, quấn cái khăn vào nhé.
Grigori dắt hai con ngựa yên cương sẵn sàng ra hàng rào rồi huýt sáo gọi chó. Lão địa chủ bước ra sân. Lão mặc một cái áo ca-pôt dạ xanh, thắt một chiếc dây lưng rua thủng, trên vai lủng lẳng một bình nước bằng kền lót gỗ bấc, chiếc roi gân bò xoắn thõng dưới tay lủng lẳng phía sau như con rắn.
Grigori nắm dây cương, chú ý nhìn lão già. Chàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy lão đưa hết sức nhẹ cái thân hình già sóc những xương cùng xẩu lên yên.
- Theo sát tao, không được đứt quãng, - Viên tướng ra lệnh gọn lỏn, bàn tay đeo găng nhẹ nhàng lựa lại dây cương.
Grigori cưỡi con ngựa non bốn tuổi. Nó thích đi ngang, vừa đi vừa nghịch, đầu ngửng cao như con gà trống. Hai chân sau chưa đóng móng, vì thế hễ dăm lên một đám băng mỏng ròn là nó bị trượt bốn vó khuỵu xuống. Trên cái lưng rộng bè bè của con Kreput, lão địa chủ ngồi đung đưa, lưng hơi gù một chút, nhưng dáng ngồi rất vững.
- Chúng ta đi đâu bây giờ? - Grigori cho con ngựa lên ngang với lão rồi hỏi.
- Đến khe Liễu Đỏ! - Lão địa chủ trả lời rất trầm.
Hai con ngựa chạy rất ăn nhịp. Con ngựa non đòi thả lỏng dây cương. Nó uốn cong cái cổ ngắn, như một con thiên nga, nhìn bằng con mắt lồi lồi và tìm cách cắn vào đầu gối người cưỡi nó. Hai người lên tới một ngọn đồi thoai thoải thì lão địa chủ cho con Kreput phi nước đại. Đàn chó chạy theo Grigori, dàn thành một hàng ngang hẹp. Con chó cái già lông đen chạy bám sát, chạm cả cái mõm khum khum của nó vào cuối đuôi con ngựa. Con ngựa non nổi nóng, khuỵu chân xuống, định đạp cho con chó quấy rầy nầy một cái, nhưng con chó đã kịp chạy chậm lại. Grigori ngoái cổ xem có chuyện gì xảy ra thì thấy nó âu sầu đưa cặp mắt bà già nhìn vào mắt chàng.
Ngựa chạy nửa giờ thì đến khe Liễu Đỏ. Lão địa chủ cho ngựa chạy trên bờ cái khe lờm sờm những bụi ngải cứu già nâu nâu.
Grigori lần xuống thấp, để ý nhìn cẩn thận khoảng đáy khe bị nước chảy sói, nứt nẻ lung tung. Chốc chốc chàng lại đưa mắt nhìn lão địa chủ. Qua tấm màn xám như màu thép của đám liễu đỏ thưa thớt, trơ trụi có thể thấy thân hình lão già hiện lên rành rành như vẽ. Lão kiễng chân trên bàn đạp, ngả hẳn người xuống mũi yên, lưng áo ca-pôt nhăn nhúm dưới chiếc thắt lưng Cô-dắc. Đàn chó chạy túm tụm trên sườn đồi. Sau khi vượt qua một cái khe rất dốc, Grigori ngả hẳn người sang một bên yên, tháo găng tay, vò loạt soạt tờ giấy trong túi, bụng bảo dạ: “Hút điếu thuốc đã. Bây giờ thì thả lỏng dây cương lấy túi thuốc”.
- Thúc chó đuổi! - Tiếng quát trên bờ khe nổ ra như phát súng.
Grigori ngửng đầu; lão địa chủ cho ngựa nhảy lên đoạn bờ khe gỗ nhọn rồi giơ cao ngọn roi quất cho con Kreput phi như gió.
- Thúc chó đuổi!
Một con sói màu nâu bẩn đang vượt qua khoảng đáy rãnh bùn lầy đầy lau sậy. Nó chưa thay lông xong, sau bẹn còn lồm xồm đám lông cũ. Con sói áp sát mình xuống đất chạy rất nhanh, vừa chạy vừa trượt. Sau khi nhảy qua cái rãnh nước, nó đứng lại rồi quay phắt sang bên, nhìn thấy đàn chó. Những con chó chạy sát nhau thành hình móng ngựa, cắt đường rút lui của con sói vào khu rừng bắt đầu từ cuối cái khe.
Con sói rập rình như chiếc lò xo, nhảy lên một mô đất nhỏ, có lẽ là ổ chuột đồng cũ, rồi lao vụt về phía cánh rừng. Con chó cái già nhảy những bước ngắn gần như từ trước mặt con sói. Con chó đực lông trắng rất cao tên là Latchev cũng kịp chạy tới từ phía sau. Con nầy vốn là một trong những con chó săn đuổi tốt nhất và hung dữ nhất. Con sói trù trừ một lát như còn chưa quyết định sẽ làm thế nào.
Grigori kéo vòng dây cương, cho con ngựa nhảy từ dưới khe lên. Chàng mất hút con sói trong một phút, nhưng khi lên tới đỉnh một ngọn gò thì thấy nó thấp thoáng mãi tít đằng xa. Những con chó đen chạy chập chờn qua những đám cỏ dại trên dải đất đen kịt, màu lông lẫn với màu đất. Chếch xa một chút, lão địa chủ đánh con Kreput bằng cán roi, bắt nó chạy vòng một cái khe dốc đứng. Con sói cố lao tới cái khe bên cạnh. Đàn chó bám sát, bao vây phía sau nó. Grigori nhìn từ đây cứ có cảm tưởng như con chó trắng Latchev bị treo vào những đám lông lồm xồm ở háng con sói và nom nó chẳng khác gì một mảnh giẻ trắng.
- Đuổi! - Tiếng quát bay đến tai Grigori.
Grigori cho con ngựa non chạy hết sức. Chàng cố nhìn xem tình hình phía trước như thế nào nhưng chỉ hoài công vì nước mắt chảy ra giàn giụa không cho chàng thấy gì nữa, còn hai tai thì điếc đặc do tiếng gió rít vù vù. Không khí cuộc săn đã xâm chiếm Grigori. Chàng rạp người xuống cổ ngựa, hoàn toàn bị cuốn theo chặng phi ngựa như điên. Phi đến cái khe thì sói chẳng có mà chó cũng không.
Một phút sau lão địa chủ đuổi kịp Grigori. Lão thúc con Kreput chạy bạt mạng quát to:
- Nó chạy đường nào?
- Có lẽ xuống khe.
- Mày phi đón đường bên trái! Đuổi!
Con ngựa chồm lên đứng thẳng trên hai chân sau, lão địa chủ thúc gót ủng vào hông nó, bắt rẽ bên phải. Grigori kéo dây cương cho con ngựa xuống khe. Chàng thét lên một tiếng, phi vụt sang bên kia. Tay quất miệng la, chàng thúc con ngựa non mồ hôi đầm đìa chạy một chặng độ một vec-xta rưỡi. Chất đất nhầy nhụa chưa khô bám vào vó ngựa, tóe lên đầy mặt Grigori. Cái khe dài ngoằn ngoèo ôm lấy ngọn đồi, ngoặt sang phải rồi tỏa ra thành ba nhánh. Grigori nhìn thấy đằng xa đàn chó dàn thành một hàng ngang đen sì đuổi theo con sói trên đồng cỏ, bèn vượt qua nhánh khe nằm ngang trước mặt, phi lên một sườn dốc thoai thoải. Có lẽ con thú đã bị đuổi ra khỏi lòng khe, nơi sồi và liễu đỏ mọc rất dầy. Ở chỗ cái khe không còn dốc lắm và bị phân làm ba nhánh đen đen xanh xanh, con sói đã nhảy ra một khoảng đất trống, chạy tắt được chừng trăm xa-gien, rồi loáng cái đã theo chân núi lần vào một khoảng đất khô đầy những bụi cỏ dại lờm xờm mọc không biết từ bao giờ và những bụi cây có gai khô quắt.
Grigori rướn người trên bàn đạp theo dõi con sói, thỉnh thoảng lại phải đưa tay áo lên lau những giọt nước mắt làm mờ hai con mắt bị gió quất như những ngọn roi. Chàng liếc nhanh sang trái, nhận ra mảnh đất nhà mình. Mùa thu qua chàng đã cùng Natalia đi cày mảnh đất bốn góc xiên xẹo nhưng màu mỡ nầy. Grigori cố ý cho con ngựa non chạy qua khoảng đất cày. Nhưng chỉ vài phút ngắn ngủi khi con ngựa lắc lư, khập khiễng đi trên những tảng đất đã làm nguội trong lòng Grigori cái say sưa săn bắn đang xâm chiếm tâm hồn chàng. Đến khi Grigori thúc con ngựa thở phì phì, chàng đã cảm thấy hoàn toàn thờ ơ. Chàng để ý xem lão địa chủ có nhìn mình không rồi chuyển sang nước kiệu nhỏ.
Xa xa, bên khe Đỏ thấy có cái lều thợ cày bỏ trống. Gần đấy, ba đôi bò mộng đang lê bước kéo một cái cày trên khoảng đất cày dở ánh lên như nhung.
“Bà con thôn mình đấy. Nhưng đất nhà ai thế nhỉ? À phải, có lẽ của Anikey”. Grigori nheo mắt nhìn lướt qua nhiều lần, cố nhận ra mấy con bò cùng người đi sau cái cày.
- Bắt lấy nó!
Grigori nhìn thấy hai anh chàng Cô-dắc vứt cày đấy, chạy ra chặn đường con sói lúc nầy đang định phá vòng vây chuồn xuống khe.
Một gã cao lớn vung một cái chốt sắt tháo trong ách bò. Gã đội chiếc mũ cát két viền đỏ, đai mũ thõng xuống dưới cằm. Giữa lúc ấy con sói bất thình lình ngồi sụp xuống, phần sau thân nó lọt vào một luống cày sâu. Con chó trắng Latchev lao quá đà qua đầu nó, vội thu hai chân trước và ngã lăn ra. Con chó cái già chịn mông xuống mặt đất cày lồi lõm, cố hãm đà, nhưng không đứng lại kịp nên đâm sầm vào con sói. Con sói hất mạnh đầu. Con chó bị tung ra xa, nằm sóng soài trên mặt đất. Đàn chó nhảy xổ vào con sói thành một đám đen sì rất to, nghiêng bên nọ, ngả bên kia, lôi nhau trên đất cày vài xa-gien rồi lăn như một quả bóng. Grigori phi ngựa tới nơi trước lão địa chủ chừng nửa phút. Chàng nhảy trên yên xuống, quỳ gối, quặt bàn tay cầm con dao săn ra sau lưng.
- Nó đây rồi! Ở bên dưới ấy! Cho nó một nhát vào họng!
Gã Cô-dắc cầm chốt sắt chạy tới hổn hển kêu lên, giọng nghe quen quen. Gã thở như kéo bễ, nằm phục xuống bên cạnh Grigori. Thấy có con chó đực còn cắn vào bụng con sói, gã bèn nắm lấy đám da trên cổ nó lôi ra rồi khóa chặt hai chân sau bằng một tay. Qua đám lông cứng tua tủa trượt đi trượt lại trong tay, Grigori lần được cái cuống họng bèn đưa dao cứa phắt.
- Chó! Chó! Xua hết đi! - Lão địa chủ kêu lên giọng khàn đặc. Lão ngã trên yên xuống mặt đất cày xốp, mặt xạm đi.
Grigori phải vất vả lắm mới xua được đàn chó. Chàng quay lại nhìn lão địa chủ.
Stepan đứng cách đấy xa một chút với chiếc mũ cát-két có đai véc-ni thõng xuống dưới cằm. Anh ta xoay đi xoay lại trong tay cái chốt sắt, hàm dưới xám ngoét và hai hàng lông mày run run.
- Anh chàng này người ở đâu thế? - Lão địa chủ hỏi Stepan. - Thôn nào hử?
- Thôn Tatarsky, - Stepan trùng trình một lát mới trả lời rồi tiến một nước về phía Grigori.
- Họ gì?
- Astakhov.
- Thế anh chàng thân mến, bao giờ thì anh về nhà?
- Tối hôm nay.
- Anh mang giúp chúng tôi con sói nầy về nhé. - Lão địa chủ đưa chân chỉ con sói. Trong lúc ngoắc ngoải, răng nó thỉnh thoảng còn đập vào nhau lạch cạch, một chân sau duỗi ra, giơ thẳng lên cao, chỗ khuỷu chân có lông nâu nâu tuột ra sắp rụng. - Đáng bao nhiêu tôi sẽ trả, - lão hứa như thế rồi đưa khăn quàng lên lau những giọt mồ hôi tầm tã trên khuôn mặt đỏ lừ. Lau mặt xong, lão bỏ ra chỗ khác, vừa đi vừa nghiêng nghiêng người tháo cái dây đeo bình nước khoác bên sườn.
Grigori bước tới bên con ngựa non. Chàng vừa đặt chân lên bàn đạp vừa ngoái đầu nhìn. Stepan áp hai bàn tay vừa to vừa nặng lên ngực, đi tới gần Grigori, cổ lắc lắc. Người anh ta run bắn lên, không làm thế nào ghìm được.

18


Đêm thứ sáu trước lễ phục sinh, một đám đàn bà túm tụm ở nhà Pelagya, láng giềng nhà Korsunov, Gavrila Maidanikov, chồng Pelagya, ở Lozi có viết thư cho vợ hứa sẽ về nghỉ phép vào dịp lễ Phục sinh. Hôm thứ hai, Pelagya đã quét vôi, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và ngay từ thứ năm đã ra cổng đứng ngóng. Tóc trần, người gầy guộc, mặt đầy tàn hương, chị chàng đứng rất lâu bên hàng rào, chốc chốc lại đưa tảy lên che mắt nhìn ra xa: Gavrila bất ngờ về chưa biết chừng Pelagya đang có mang, nhưng rất đúng quy củ: mùa hè năm ngoái Gavrila ở trung đoàn về, mang làm quà cho vợ một mảnh vải hoa Ba Lan, nhưng cũng chẳng ở nhà được bao lâu. Anh ta ngủ với vợ bốn đêm liền, đến ngày thứ năm thì uống một chầu túy lúy, hết chửi bằng tiếng Ba Lan lại chửi bằng tiếng Đức, rồi vừa khóc vừa hát một bài ca Cô-dắc cổ làm từ năm 1831. Bạn bè và anh em đến tiễn người lính thú, ngồi quanh bàn uống vodka cho tới bữa ăn. Họ hát hòa theo:
Nghe nói đất Ba Lan nhiều tiền lắm bạc,
Nhưng ta thấy mùng tơi nghèo xác,
Ở Ba Lan có một tửu quán,
Tửu quán Ba Lan, tửu quán của ngai vàng.
Rồi một hôm vào uống rượu có ba chàng:
Một Cô-dắc sông Đông, một Phổ, một Ba Lan.
Chàng Phổ uống vodka trả bằng tiền bạc,
Chàng Ba Lan uống vodka đưa trả tiền vàng,
Chàng Cô-dắc uống vodka không có gì đưa trả,
Cứ láng cháng trong hàng, đinh thúc ngựa tình tang.
Đinh thúc ngựa tinh tang, tán tỉnh cô hàng:
“Về cùng anh, hỡi cô nàng yêu quý,
Về sông Đông êm đềm, nơi quê quán của anh.
Sông Đông quê anh không như quê của cô nàng:
Không dệt, không se, không gieo, không gặt,
Không gieo, không gặt, suốt bốn mùa du ngoạn, xênh xang”.
Sau bữa ăn, Gavrila chia tay với gia đình để lên đường. Cũng từ ngày ấy, Pelagya bắt đầu hay nhìn xuống vạt áo. Chị chàng nói cho Natalia biết vì sao mình có mang:
- Cô em yêu quý ạ, trước hôm anh Gavrila về, chị có nằm mơ một lần. Chị thấy như mình đang đi trên bãi cỏ hoang ven sông, nhưng trước mặt lại có con bò sữa già mà nhà chị đã bán ngày lễ Chúa cứu thế mùa hè năm ngoái. Trong khi nó đi, những đầu vú của nó cứ chảy sữa ròng ròng xuống đường… Chị nghĩ thầm: “Lạy Chúa tôi, sao mình vắt sữa cho nó mà lại để còn như thế?”. Sau hôm ấy, mụ Drodikha có đến nhà chị lấy hốt bố chị kể chuyện nằm mộng cho mụ nghe thì mụ bảo: “Phải bẻ cây nến lấy một mẩu sáp ong nhỏ, vê tròn lại, rồi vùi xuống một đống phân bò mới, nếu không tai hoạ đang ngấp nghé ngoài cửa rồi đấy”. Chị bèn sục khắp các nơi nhưng chẳng mò đâu ra nến. Trước kia cũng có một cây, nhưng bọn trẻ đã lấy để làm mồi dụ nhện độc chui ra khỏi lỗ. Thế là anh Gavrila về và tai hoạ cũng đến theo. Ba năm nay áo chị mặc vào người cứ chảy xuống, thế mà bây giờ thì em xem này… - Pelagya ấn ngón tay vào cái bụng căng tròn, mặt rầu rĩ.
Trong khi ngóng chồng về, Pelagya bồn chồn đau khổ. Nhà vắng người cũng buồn, vì thế hôm thứ sáu chị chàng mới mời một số chị em láng giềng sang cùng giết thì giờ. Natalia cũng đến với chiếc bít-tất đang móc dở (xuân sang, cụ Grisaka càng cảm thấy giá lạnh). Hôm nay nàng rất tươi tỉnh hoạt bát nghe chị em pha trò, nàng cười có phần quá mức, nhưng thật ra đó chỉ là vì nàng không muốn mọi người thấy mình đang đau khổ vì mong nhớ chồng. Pelagya ngồi trên bếp lò, thõng hai bàn chân đầy gân xanh, trêu ghẹo Frosia, một cô ả trẻ người nhưng đanh đá có tiếng.
- Nầy, Frosia, cô đã nện anh chàng Cô-dắc nhà cô như thế nào hả?
- Chị không biết nện thế nào à? Vào lưng, vào đầu, vớ được chỗ nào nện chỗ đó.
- Mình có muốn hỏi cái chuyện ấy đâu, mình muốn hỏi hai vợ chồng nhà cô đã bắt đầu có chuyện với nhau như thế nào cơ.
- Thế nào thì thế thôi, - Frosia miễn cưỡng trả lời.
- Cô bắt được quả tang đức ông chồng nằm với một con khác mà sao không nói? - Con dâu Matvey Casulin, một ả cao lêu đêu như cây sào dấm dẳn từng tiếng.
- Cứ kể đi, Frosia!
- Có gì đâu! Có gì đáng nói đâu…
- Thôi đừng cố giấu nữa, ở đây toàn chị em nhà thôi mà.
Frosia nhả một vỏ hướng dương vào lòng bàn tay, mỉm cười:
- Tôi đã để tâm nghi anh chàng từ lâu. Nhưng hôm ấy có người mách: ông tướng nhà cô đang giở trò với một ả vợ lính vắng chồng bên kia sông Đông trong nhà máy xay đấy… Tôi bổ tới thì tóm được cả anh lẫn ả bên cái máy xát.
- Thế nào Natalia, cô không được tin gì về chồng cô à? - Ả con dâu nhà Casulin ngắt lời Frosia, quay sang hỏi Natalia.
- Anh ấy ở Yagotnoie… - Natalia khẽ trả lời.
- Cô có định sống với hắn nữa không?
- Natalia thì có lẽ cũng muốn đấy, nhưng anh chàng kia đâu có hiểu cho, - Chị chủ nhà chõ miệng vào.
Natalia cảm thấy máu dồn lên mặt, nóng bừng, nước mắt chỉ muốn trào ra. Nàng cúi gằm xuống chiếc bít-tất, lấm lét nhìn chị em, thấy mọi người đều chằm chằm nhìn mình và hiểu rằng không thể giấu được ai. Nàng cố ý làm rơi cuộn len đặt trên đầu gối rồi cúi xuống đưa tay quờ quạng trên mặt đất lạnh giá. Nhưng nàng giả vờ quá vụng về. ai cũng nhận thấy.
- Thôi cô em ạ, nhổ vào mặt nó ấy. Có cổ thì có vai cày, cần gì, - Một người không giấu vẻ thương hại, khuyên Natalia.
Cái vẻ tươi tỉnh hoạt bát mà Natalia giả dạng bày ra đã tắt ngấm như tia lửa trước ngọn gió. Bọn đàn bà chuyển sang đơm đặt, dị nghị về những chuyện xảy ra gần đây nhất. Natalia chẳng nói chẳng rằng, cứ cắm cúi móc bít-tất. Nàng cố gắng lắm mới nán lại được đến cùng, và khi ra về nàng đã có thêm trong lòng một quyết tâm chưa hình thành rõ rệt. Nàng vẫn chưa tin rằng Grigori đã bỏ đi hẳn, vì vậy đã tha thứ cho chàng và chờ đợi chàng. Nỗi tủi nhục trước cái tình cảnh nửa dơi nửa chuột của mình đã đưa Natalia đến một hành động: nàng quyết định sẽ gửi một bức thư đến Yagonoie cho Grigori nhưng không cho mọi người trong nhà biết, để hỏi xem chàng có bỏ đi hẳn không và đã nghĩ lại chưa.
Natalia ở nhà Pelagya về thì đêm đã khuya. Cụ Grisaka đang ngồi ở nhà trong đọc quyển Phúc âm đóng da đã rách nát, hoen ố vì những vết nến sáp. Miron Grigorievich còn ở trong bếp, vừa đan nốt mảnh chắn của cái lưới kiểu túi, vừa nghe Mikhey kể một chuyện giết người đời xửa đời xưa. Bà mẹ Natalia cho các con ngủ xong đã lên bếp lò nằm, hai chân gác lên cửa, phơi hai lòng bàn chân đen sì. Natalia thay áo xong, đi một lượt qua các phòng, nhưng chưa biết mình sẽ làm gì. Trong góc phòng chính có tấm ván chặn đống hạt đay để dành làm giống, chuột kêu chi chí.
Nàng ở lại một lát trong phòng của ông và đứng bên cái bàn nhỏ kê ở góc phòng, đờ đẫn nhìn chồng sách đạo xếp dưới những bức hình thánh.
- Ông ơi, ông có giấy không ông?
- Giấy gì cơ chứ? - Khoảng da phía trên mắt kính cụ nhăn lại nhằng nhịt.
- Giấy để viết ấy mà.
Cụ Grisaka lục lọi trong tập Thánh thi (còn gọi là Thi thiên), lấy ra được một tờ giấy nhàu nát, nặc mùi sáp ong và trầm hương ủ đã lâu ngày.
- Còn bút chì?
- Ra hỏi bố mày ấy. Thôi ra đi, cháu yêu của ông, đừng quấy ông nữa.
Natalia lấy được của bố một mẩu bút chì. Nàng ngồi vào bàn, suy nghĩ lại một cách đau khổ những điều mà nàng đã cân nhắc từ lâu, những điều làm lòng nàng tái tê chua xót.
Sáng hôm sau, Natalia đưa cho Getko vodka và nhờ hắn mang hộ đến Yagonoie bức thư:
“Anh Grigori Panteleevich!
Anh hãy viết cho em biết em sống thế nào bây giờ đây, và cuộc đời em đã tan nát hẳn rồi hay chưa? Anh bỏ nhà ra đi mà chẳng nói với em một lời. Em chưa có gì xúc phạm đến anh, em mong chờ anh cởi cho hai tay em khỏi bị trói buộc, bảo cho em biết rằng anh đã bỏ đi hẳn, nhưng anh lại bỏ làng bỏ xóm ra đi, chẳng nói chẳng rằng, cử như một người đã chết.
Em nghĩ rằng anh đã ra đi trong lúc nóng nảy và vẫn đợi anh về nhưng em không muốn chia rẽ hai người. Một mình em bị chà đạp dưới đất còn hơn cả hai. Anh thương lấy em lần chót, viết cho em vài chữ. Em hỏi cho biết, em sẽ nghĩ lấy một cách, kẻo em cứ đứng giữa đường thế nầy.
Anh Griska, vì Chúa, mong anh đừng giận em.
Natalia”.
Mặt nhăn như bị vì đã cảm thấy trước rằng mình sắp bị bệnh rượu hành đến nơi, Getko dắt con ngựa ra sân đập lúa, rồi không cho Miron Grigorievich biết, thắng ngựa, ngất ngưởng ra đi. Hắn cưỡi ngựa với cái dáng ngồi vụng về đặc biệt của những người không phải là dân Cô-dắc. Khi ngựa chạy nước kiệu, hai khuỷu tay hắn cứ khuỳnh ra đưa đi đưa lại. Rồi hắn chuyển sang nước kiệu nhanh giữa những tiếng la thét không ngớt của bọn tiểu yêu Cô-dắc đang đùa nghịch trong ngõ:
- Khô-khon? Khô-khon!
- Ê khô-khon bán dầu!
- Khéo ngã bây giờ!
- Chó dái cưỡi hàng rào! - Bọn trẻ gào lên phía sau hắn.
Đến chiều thì hắn mang về bức thư trả lời, một mẩu giấy gói đường mầu lam. Hắn vừa lấy tờ giấy trong ngực áo ra, vừa nháy mắt với Natalia.
- Đường xá chẳng làm thế nào mà đi được nữa, cô chủ yêu quý ạ! Lắc ghê quá thiếu chút nữa thì bật hết tim gan mề phổi thằng Getko nầy ra rồi!
Natalia đọc xong, mặt xám ngắt. Cứ như có một vật gì nhọn và có răng xuyên liền vào tim nàng bốn lần.
Trên tờ giấy, ngoài chữ ký chỉ nguệch ngoạc bốn tiếng: “Cứ sống một mình. Melekhov Grigori”.
Như không tin rằng sức mình có thể chịu nổi, nàng vội chạy từ ngoài sân vào trong nhà, nằm vật xuống giường. Bà Lukinhitna đã nhóm lò trước để đến đêm dùng vì còn phải làm bữa xong sớm và kịp nướng những cái bánh mì ngọt.
- Nataska, lại giúp mẹ cái? - Bà gọi con gái.
- Con nhức đầu mẹ ạ. Cho con nằm một lát.
Bà Lukinhitna nhòm qua cửa.
- Uống ít nước dưa chuột muối con nhé. Thế nào? Chỉ một lát là dễ chịu ngay thôi.
Natalia không nói gì, chỉ đưa cái lưỡi khô bỏng liếm cặp môi lạnh buốt.
Nàng nằm đến tối, đầu quấn chiếc khăn len lông chim ấm, người co lại như con tôm, thỉnh thoảng lại khẽ rưn lên. Lúc nàng trở dậy đi vào bếp Miron Grigorievich và cụ Grisaka đã sửa soạn đi nhà thờ.
Hai bên thái dương nàng, gần làn tóc đen chải mượt, lóng lánh những giọt mồ hôi, cặp mắt nàng đầy cái vẻ lừ đừ uể oải của một người đang ốm.
Miron Grigorievich cài hàng khuy dài trên miếng vải dầy ốp thêm phía trước cái quần rộng thùng thình, đưa mắt nhìn con gái:
- Con gái yêu của cha, mày muốn ốm hay sao thế?
- Cha với ông cứ đi trước, con sẽ đi sau.
- Mày định tan lễ rồi mới đi hay sao?
- Không, con mặc áo đây… Mặc xong con sẽ đi ngay.
Hai người đàn ông đi trước. Ở nhà chỉ còn bà Lukinhitna và Natalia. Nàng thẫn thờ lê chân từ chiếc hòm tới bên giường, cặp mắt tựa như không nhìn thấy gì lướt mãi trên đống quần áo nhét bừa bãi trong hòm, môi lẩm bẩm, đầu óc không biết đang đau khổ tính toán cân nhắc những gì. Bà Lukinhitna cứ tưởng Natalia do dự không biết nên mặc cái nào, bèn bảo nàng với cả tấm lòng rộng rãi của người mẹ:
- Con gái yêu của mẹ, mày lấy cái váy màu lam của mẹ mà mặc. Hôm nay mày mặc nó thì hợp đấy.
Natalia không được may váy áo mới để diện trong lễ Phục sinh. Bà Lukinhitna nhớ rằng hồi chưa đi lấy chồng, những ngày hội con gái mình thường thích mặc cái váy màu lam hẹp gấu của mình, vì thế bà nghĩ rằng Natalia đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn, bèn cố bảo nàng làm theo lòng tốt của mình.
- Con mặc chứ? Để mẹ lấy cho.
- Không. Con sẽ mặc cái nầy. - Natalia nhẹ nhàng rút cái váy màu xanh lá cây của nàng, nhưng bất giác nhớ lại rằng đây chính là cái váy mà mình đã mặc hôm Grigori đến thăm mình với tư cách là chồng chưa cưới, hôm lần đầu tiên Grigori làm nàng thẹn chín cả người với cái hôn thoảng qua ở chỗ đầu nhà kho mát rượi. Tiếng nức nở bất chợt muốn bật ra làm nàng run bắn người, nàng ngã đập ngực vào mép cái nắp hòm mở dựng thẳng.
- Natalia! Làm sao thế con? - Bà mẹ vỗ hai bàn tay vào nhau, kêu lên.
Natalia cảm thấy nghẹt thở vì một tiếng gào cứ muốn bật ra.
Nàng cố trấn tĩnh, cười một tiếng rin rít rất không tự nhiên.
- Hôm nay con thấy… trong người thế nào ấy.
- Ồ, Nataska, tao biết rồi…
- Nhưng mẹ biết sao cơ chứ? - Natalia bất thình lình giận dữ kêu lên, những ngón tay nắm chặt vò nát chiếc váy màu xanh lá cây.
- Mẹ thấy mày cứ thế nầy thì không thoát khỏi bệnh tật đâu… Phải lấy chồng đi mới được…
- Thôi đi mẹ! Lấy một lần đủ rồi!
Natalia về phòng nàng thay áo xống, chẳng mấy chốc đã lại vào bếp. Trong bộ áo váy mới mặc, nom nàng thon thả như hồi còn con gái, một ánh hồng hồng chẳng có gì vui vẻ thấp thoáng trên làn da xanh trong xanh bóng.
- Mày đi một mình thôi, mẹ sửa soạn còn chưa xong - Người mẹ nói.
Natalia nhét một chiếc khăn tay vào cổ tay áo, bước ra thềm. Gió đưa từ sông Đông vào tiếng băng trôi loạt soạt và mùi tuyết tan ẩm ẩm nhạt thếch nhưng đầy sức sống. Natalia lấy tay trái kéo cao gấu váy, vừa đi vừa tránh những vũng nước nhỏ xanh xanh như xà cừ rải rác khắp dọc phố. Natalia đi tới nhà thờ. Trên đường đi, nàng cố lấy lại bình tĩnh bằng cách nghĩ tới ngày hội, tới chuyện này chuyện khác một cách phiến đoạn và mung lung, nhưng tâm trí nàng cứ gân bướng quay về với mẩu giấy gói hàng màu lam mà nàng giấu trong ngực áo, với Grigori và người đàn bà hạnh phúc trong lúc này đang cười nàng một cách kẻ cả, hoặc có thể còn thương hại nàng…
Natalia bước vào bên trong tường bao nhà thờ. Một đám con trai chặn đường nàng. Natalia đi vòng tránh bọn chúng, nhưng còn nghe thấy sau lưng:
- Con bé nhà nào thế? Cậu có nhận ra không?
- Con Natalia nhà Korsunov chứ còn đứa nào?
- Nghe nói nó bị sa ruột. Vì thế bị chồng bỏ.
- Chỉ nói láo? Nó dấm dớ với thằng bố chồng, với lão thọt Panteley đấy.
- À ra vậy? Thảo nào vì thế mà thằng Griska bỏ nhà ra đi.
- Nếu không thì còn vì sao nữa? Con bé ấy bây giờ…
Natalia lập cập vấp trên lớp đá lát hòn cao hòn thấp, đi tới thềm nhà thờ. Bọn kia còn bồi thêm sau lưng nàng một câu bẩn thỉu, vô liêm sỉ, lời nói khe khẽ nhưng đau như ném đá. Natalia bước qua những tiếng cười rúc rích của bọn con gái đứng trên thềm nhà thờ, đi tới cái cửa nhỏ khác ở tường bao, rồi chạy về nhà, người lảo đảo như say rượu. Chạy đến cổng sân nhà mình, nàng lấy lại hơi, bước vào chân đi cứ vướng trong gấu váy, hai hàm răng cắn chặt cặp môi phồng mọng đã bị cắn đến chảy máu. Cái cửa nhà kho mở he hé hiện ra đen ngòm trong bóng tối tím ngắt chập chờn trên sân. Trong một cố gắng hung dữ, Natalia thu hết chút sức lực còn lại, chạy tới cái cửa ấy, rồi vội vã bước qua ngưỡng cửa. Không khí trong nhà kho hanh hanh lạnh lạnh, nặc mùi dây da và mùi rơm cũ. Natalia mò mẫm tới góc tường, không một ý nghĩ, không một cảm giác chỉ có cái niềm đau khổ đen tối nó cứ đưa những móng nhọn bám chặt lấy tâm hồn nàng, một tâm hồn chìm trong nhục nhã và tuyệt vọng.
Nàng nắm lấy cán của một cái hái, tháo lưỡi hái ra (tay nàng làm mọi việc đều chậm rãi, chắc chắn và chính xác) rồi ngửa cổ cứa mạnh cái lưỡi sắc vào cuống họng với cả một niềm sung sướng trước quyết tâm của mình. Nàng ngã vật ra vì cơn đau man rợ như lửa đốt, nhưng vẫn cảm thấy, vẫn mơ hồ hiểu rằng mình còn chưa làm xong việc đã bắt đầu làm. Vì thế nàng lại lổm ngổm bò dậy, rồi quỳ lên.
Máu chảy lênh láng trên ngực làm nàng sợ, nàng vội vàng đưa những ngón tay run lẩy bẩy bật lên giật những cái khuy áo và cởi phanh cái áo ngắn mặc ngoài. Một tay nàng kéo cái vú căng bướng bỉnh sang một bên, còn tay kia hướng mũi cái hái. Nàng lê gối đến bên tường, tỳ đầu cùn của lưỡi hái, đầu có lắp óc cán vào tường, rồi đưa hai tay lên ôm chặt lấy cái đầu ngửa hẳn ra sau, ưỡn ngực, ấn người về phía trước, về phía trước. Natalia nghe thấy, cảm thấy rất rõ ràng tiếng sạo sạo khó chịu của cái cơ thể bị xọc vào, nghe như tiếng cắt bắp cải. Cảm giác đau nhói mỗi lúc một tăng, dâng lên như một làn sóng lửa, từ ngực tới cuống họng, hai tai như bị những cái kim kêu leng keng chọc vào…
Trong nhà có tiếng cửa cót két. Bà Lukinhitna đưa chân sờ soạng tìm cái ngưỡng cửa, bước trên bậc thềm xuống. Từ trên gác chuông nhà thờ những tiếng chuông buông xuống gióng giả đều đặn. Trên sông Đông, những khối băng dài hàng mấy xa-gien nứt ra, đứng dựng lên, vừa trôi vừa không ngớt kêu ken két. Dòng sông Đông được giải phóng, nước chảy tràn trề, sung sướng cuốn ra biển Azov những gông cùm băng giá của nó.

19


Stepan bước tới gần Grigori rồi nắm lấy bàn đạp, áp sát người vào sườn con ngựa đầm đìa mồ hôi.
- Thế nào, có khỏe không, Grigori!
- Ơn Chúa!
- Mày nghĩ thế nào? Hử?
- Tao thì có gì phải nghĩ?
- Mày dụ dỗ vợ người ta, rồi… ngồi đấy mà hưởng phải không?
- Buông bàn đạp ra.
- Mày đừng sợ… Tao không đánh đâu.
- Tao đâu có sợ, thôi không nói nữa! - Grigori nói to, gò má chàng ửng đỏ. - Hôm nay tao không đánh nhau với mày, tao không muốn…
- Nhưng Griska này, mày hãy nhớ lời tao nói: sớm muộn tao cũng sẽ giết mày.
- Mù mà còn nói: “Chờ đấy mà xem”.
- Mày nhớ kỹ lấy lời tao nói. Mày đã làm nhục tao! Mày đã thiến đời tao như thiến con lợn… Mày xem đây, - Stepan chìa hai bàn tay đen thủi, lòng bàn tay ngửa lên, - tao cày mà cũng chẳng biết để làm gì. Tao sống một thân một mình thì có cần gì nhiều đâu? Tao vừa làm vừa chơi cũng qua được mùa đông nầy. Chỉ có một điều là buồn chết đi được… Grigori ạ, mày làm khổ làm nhục tao quá lắm!
- Mày đừng kể khổ với tao nữa, tao không hiểu đâu. Kẻ ăn no hiểu sao được kẻ chịu đói.
- Đúng thế đấy, - Stepan cũng nhận là như thế, anh ta đưa mắt từ dưới lên nhìn vào mặt Grigori, rồi bỗng nhiên nở nụ cười hồn nhiên như con nít, đuôi con mắt nứt ra thành không biết bao nhiêu vết nhăn li ti. - Tao chỉ hối một điều, thằng nhóc ạ… tao hối quá… Mày còn nhớ tuần ăn mặn năm kia, tao với mày đã có lần đánh nhau rồi không?
- Lần nào thế?
- Lần đánh chết thằng thợ bật len ấy. Hôm ấy những thằng chưa vợ đánh nhau với những thằng có vợ, mày có nhớ không? Mày có nhớ tao đuổi mày như thế nào không? Hồi ấy mày còn vắt ra sữa, so với tao mày chỉ như sợi lau non. Tao đã thương mày, nếu không trong lúc mày đang chạy mà tao cho một đòn thì mày đứt phăng làm đôi rồi! Mày chạy nhanh quá, người như lắp lò xo: tao mà quật cho một dây da vào lưng là mày đã trông thấy ông bà ông vải.
- Thôi đừng buồn tiếc làm gì, tao với mày còn có phen chạm trán.
Stepan đưa tay lên lau trán. Không biết anh ta đang hồi tưởng chuyện gì.
Lão địa chủ kéo dây cương con Kreput, quát gọi Grigori:
- Đi thôi!
Stepan vẫn nắm bàn đạp, đi bên cạnh con ngựa non. Grigori đề phòng theo dõi từng cử động của Stepan. Từ trên cao, chàng nhìn xuống thấy bộ ria màu hạt dẻ nhạt chảy xệ và đám râu chổi sể rậm rì đã lâu không cạo. Dưới cằm Stepan lõng thõng cái quai mũ véc ni đã nứt nẻ nhiều chỗ. Mặt anh ta xám xịt vì cáu ghét và những vết chếch chếch do mồ hôi chảy để lại, vì thế nom không rõ nét và lạ hẳn đi. Nhìn Stepan, Grigori có cảm tưởng như đang đứng trên núi nhìn một khoảng đồng cỏ xa bị phủ bởi một làn hơi mưa. Mặt Stepan đầy vẻ mệt mỏi u tối và trống rỗng. Rồi anh ta tự nhiên đứng lại, cũng chẳng buồn chào. Grigori vẫn cho ngựa đi bước một.
- Hượm đã. Thế còn… Acxiutka thì thế nào?
Grigori đập roi ngựa lên một đám bùn bám trên gót ủng trả lời:
- Vẫn thường thôi.
Rồi chàng ghìm ngựa, quay lại nhìn. Stepan vẫn đứng đấy, hai chân dạng rộng, những cái răng trắng lóe nhe ra nhai nhai một sợi cỏ dại. Grigori bất giác thấy thương hại, nhưng lòng ghen đã xua hết mọi ý nghĩ thương hại của chàng. Chàng xoay người trên cái đệm yên cọt kẹt kêu to:
- Acxiutka không héo hon vì thương nhớ mày đâu; đừng đau lòng làm gì!
- Thật thế ư?
Grigori quất cho con ngựa non một roi vài giữa hai tai, phóng đi thẳng không trả lời.

20


Đến tháng thứ sáu, khi không còn làm thế nào giấu được chuyện mình có mang, Acxinhia mới thú nhận với Grigori. Trước đó nàng vẫn cố giấu vì sợ Grigori không tin rằng đứa con mà nàng đang mang nặng trong lòng là giọt máu của chàng. Sắp đến kỳ sinh nở, nàng vừa buồn vừa lo, mặt vàng ệch và cứ như luôn luôn chờ đợi điều gì. Ngay từ mấy tháng đầu, nàng nhìn thấy những món thịt đã buồn nôn, nhưng Grigori chẳng nhận thấy gì, mà dù có nhận thấy, thì có lẽ chàng cũng không coi đó là một điều đặc biệt quan trọng, vì không đoán được nguyên nhân.
Hai người nói chuyện với nhau vào một buổi chiều. Acxinhia rất cảm động, nàng vừa nói vừa nhìn chằm chằm xem nét mặt Grigori có gì biến đổi không nhưng Grigori cứ quay ra cửa sổ, húng hắng ho một cách bực bội.
- Sao trước đây em chẳng nói gì cả?
- Em sợ, anh Griska ạ… em chỉ lo anh bỏ em.
Grigori gõ gõ ngón tay lên thành giường, hỏi:
- Sắp chưa?
- Em nghĩ có lẽ đến ngày Chúa cứu thế…
- Của Stepan à?
- Của anh.
- Thật thế ư?
- Anh cứ tự tính mà xem… Từ ngày đốn củi ấy mà.
- Đừng nói bậy, Acxiutka! Dù là của Stepan thì bây giờ đem giấu đâu được nào? Anh hỏi thật như thế đấy.
Acxinhia ức quá, nước mắt chảy ròng ròng. Nàng ngồi xuống chiếc ghế dài, nghẹn ngào nói thầm thì nhưng sôi nổi:
- Em đã ăn ở với hắn bao nhiêu năm trời nhưng có gì đâu! Anh cứ ngẫm mà xem! Mà em có phải là một con đàn bà mang bệnh tật gì cho cam… Không con anh thì con ai, thế mà anh…
Grigori không nói thêm về chuyện ấy nữa. Trong thái độ của chàng đối với Acxinhia, từ đó lại có thêm một cái gì mới mới: chàng cứ xa xa lánh lánh như có điều phải đề phòng, và hơi có vẻ thương hại, giễu cợt. Acxinhia thì sống thu mình lại, không đòi hỏi âu yếm vuốt ve nữa. Chỉ qua một mùa hè mà nom nàng tiều tụy hẳn đi.
Nhưng cái thân hình cân đối của nàng hầu như không vì có mang mà bị ảnh hưởng: toàn thân nàng đầy đặn nên vẫn giấu được cái bụng to tròn. Hai con mắt đẹp ra với một ánh ấm áp khác thường làm cho khuôn mặt võ vàng thêm ưa nhìn. Nàng dễ dàng làm xong các công việc phụ bếp nước. Năm ấy thuê ít người làm, vì thế công việc nhà bếp cũng đỡ nặng.
Cụ Xaska quấn quít với Acxinhia với một niềm yêu thương trái chứng của người già. Có lẽ cũng vì nàng chăm nom cho cụ như một người con gái. Nàng giặt quần áo lót, vá quần áo cho cụ, và lúc ngồi ở bàn ăn, dành cho cụ những miếng mềm nhất, ngon nhất. Còn cụ Xaska thì chăm nom ngựa xong lại xách nước vào bếp, sát khoai tây luộc cho lợn, giúp nàng làm mọi việc đâu đó rồi dang hai tay, nhảy cỡn, nhe cặp lợi chẳng còn chiếc răng nào:
- Cô có lòng thương tôi thì tôi không quên ơn đâu! Cô Acxiutka ạ tôi có thể dứt ruột đem biếu cô một chai vodka cũng được. Vì không có bàn tay người đàn bà trông nom, tôi cũng đến đi đời nhà ma. Cô thật có lòng tốt? Hễ cần gì, cô cứ ới lão Xaska nầy một cái là được.
Nhờ có cậu chủ Evgeni Nicolaevich xin xỏ hộ, Grigori được miễn không phải đến trại binh dịch. Công việc của chàng là cắt cỏ, thỉnh thoảng đánh xe đưa lão địa chủ lên trấn, còn thừa thì giờ thì hầu hắn đi săn le hoặc cười ngựa đuổi vịt trời. Cuộc sống dễ dàng, no đủ đã làm chàng hỏng người. Chàng đâm ra lười nhác, béo đẫy ra, nom già trước tuổi. Chỉ có một điều canh cánh bên lòng là sắp phải đi lính đến nơi rồi. Ngựa chẳng có, trang bị thì không, mong chờ cha giúp đỡ thì không chắc chắn. Vì thế tiền công của mình và của Acxinhia, Grigori chắt bóp tằn tiện, cả đến thuốc lá cũng nhịn.
Chàng mong dành đủ tiền sắm được con ngựa mà không phải vác mặt về xin bố. Lão địa chủ cũng có hứa giúp. Grigori đoán trước bố sẽ không cho mình gì cả, điều đó chẳng bao lâu đã được chứng thực.
Cuối tháng sáu, Petro đến thăm em. Trong khi nói chuyện, Petro cho biết rằng bố vẫn còn giận Grigori như xưa và đã nói dứt khoát sẽ không sắm cho chàng con ngựa chiến. Ông lão bảo cứ mặc cho Grigori làm lính địa phương cũng được.
- Không sao cả, ông cụ chớ vội mừng. Em sẽ đi lính với con ngựa của em. - Grigori nói dằn hai tiếng “của em”.
- Mày định kiếm đâu ra ngựa? Đi nhảy kiếm ra tiền à?
Petro nhai nhai một món ria, mỉm cười hỏi.
- Chẳng cần phải nhảy, không xin được thì ăn cắp.
- Anh hùng nhỉ?
- Em sẽ mua bằng tiền công. - Grigori bắt đầu nói giọng không đùa nữa.
Petro ngồi một lát trên cái thềm nhỏ, thăm hỏi về công việc, tình hình ăn uống, công xá. Nghe nói gì anh chàng cũng gật đầu, một món ria đã nát nhừ luôn luôn nhai trong miệng. Đến lúc chia tay Petro mới bảo Grigori:
- Mày về nhà mà ở thì hơn, vẫy đuôi theo người ta làm gì? Mày hám công xá cao hay sao?
- Đâu phải là đuổi theo đồng tiền.
- Mày có định ở với vợ mày hay không?
- Vợ nào cơ chứ!
- Con hiện nay ấy.
- Vẫn còn định thế, nhưng sao cơ chứ?
- Chẳng sao cả, tao chỉ muốn hỏi cho biết thôi.
Grigori tiễn anh ra về. Cuối cùng chàng mới hỏi:
- Tình hình ở nhà như thế nào hả anh?
Petro tháo con ngựa buộc ở lan can thềm nhà, cười mát:
- Con thỏ có bao nhiêu hang thì mày có bấy nhiêu nhà. Ở nhà chẳng có chuyện gì cả, cuộc sống vẫn như thường thôi. Mẹ buồn nhớ mày lắm đấy. Cỏ khô thì hôm nay đánh đống xong rồi, được ba đống.
Petro hồi hộp nhìn kỹ con ngựa cái già cụt tai mà Petro cưỡi đến.
- Nó chưa đẻ à?
- Không em ạ, chẳng đẻ đái gì cả. Nhưng con ngựa cái màu hạt dẻ lấy giống với con của Khristonhia lại vừa có con.
- Con nó ra sao?
- Là một con ngựa con chứ còn sao, cái thằng nầy! Con ngựa ấy thật là vô giá! Chân cao, vó ngay ngắn, ức cũng rất đẹp. Lớn lên sẽ là một con ngựa rất tốt.
Grigori thở dài.
- Em nhớ thôn nhà quá, anh Petro ạ. Em nhớ sông Đông, ở đây thì đến nước chảy cũng chẳng nhìn thấy. Thật là một vùng tởm lợm?
- Cố về thăm nhà nhé, - Petro è è trong họng, tì bụng lên cái lưng có đường sống nhọn của con ngựa và đưa chân phải sang bên kia.
- Có dịp em sẽ về.
- Thôi, anh về nhé!
- Anh đi đường cho khỏe!
Petro đã cưỡi con ngựa ra khỏi sân, nhưng anh chàng chợt nhớ ra, bèn nói to với Grigori đang đứng trên thềm.
- Natalia nó… Anh quên khuấy đi mất… thật tai hại…
Một cơn lốc xoáy tròn trên sân như con diều hâu, làm cho mấy lời cuối câu không đưa được đến tai Grigori. Bụi bị thốc lên như một làn lụa trùm kín cả Petro lẫn con ngựa. Grigori không nghe rõ, chàng xua tay, bước vào tàu ngựa.
* * *
Mùa hè năm ấy bị hạn. Mưa rất ít, lúa chín sớm. Vừa thu xếp xong xuôi với lúa mạch đen thì đã đến lượt lúa đại mạch vàng hoe như những bãi cỏ trong rừng, với những bông lúa nặng như những bờm tóc Cô-dắc. Bốn người thợ gặt thuê ngày từ nơi khác đến cùng đi gặt với Grigori.
Acxinhia làm công việc bếp nước xong rất sớm cũng xin Grigori cho đi theo.
- Em cứ ngồi ở nhà có hơn không, việc gì phải lẵng nhẵng đi theo như thế? - Grigori cố khuyên nhưng Acxinhia vẫn khăng khăng.
Nàng vội vã chít cái khăn lên đầu, chạy ra khỏi cửa, đuổi theo chiếc xe tải chở mấy người thợ gặt.
Điều Acxinhia sốt ruột mong đợi với cả một nỗi lòng vừa lo lắng vừa sung sướng, cũng là điều mà Grigori băn khoăn lo ngại, điều đó đã xảy đến trong khi gặt lúa. Acxinhia đang cào thì cảm thấy có dấu hiệu, bèn ném cái cào đấy, đến nằm bên một đống lúa. Chẳng mấy chốc nàng bắt đầu thấy đau, cái đau lúc trở dạ. Acxinhia nằm sóng sượt hai hàm răng cắn cái lưỡi đen lại. Mấy người thợ gặt ngồi trên máy gặt quát ngựa cho đi vòng lại, ngay bên cạnh nàng. Một gã còn trẻ, có cái mũi nhòm mồm và những vết nhăn chi chít trên khuôn mặt vàng như gỗ bào, vừa đi qua vừa cho Acxinhia một câu:
- Này chị chàng, khéo có cái ấy lại bị nắng thui cháy mất! Đứng dậy đi, kẻo tan ra nước bây giờ!
Grigori bảo người khác coi máy gặt thay mình rồi bước tới bên Acxinhia:
- Em làm sao thế?
Acxinhia nói khàn khàn, môi nàng méo xệch và không theo ý nàng nữa:
- Đau đẻ rồi.
- Đã bảo đừng đi rồi mà, đồ quỷ cái chết tiệt! Nào, bây giờ thì làm thế nào?
- Thôi đừng chửi nữa, anh Griska… Chao ôi? Chao ôi… Anh Griska, thắng ngựa đi! Nếu mà về nhà được… Chao ôi, ở đây em biết làm thế nào bây giờ. Toàn là Cô-dắc (1) cả… - Acxinhia rên rỉ, bụng đau như đánh đai sắt.
(Người Cô-dắc nói chung, trai gái lớn bé tất cả các tầng lớp đểu tự xưng là Cô-dắc để tự phân biệt với những người Nga và người Ukraina ngụ cư. Nhưng đàn bà Cô-dắc lại gọi đàn ông là Cô-dắc, tựa như mình thì không phải. Bọn sĩ quan và ataman các cấp cũng gọi binh sĩ và dân thường là Cô-dắc tựa như mình không phải là Cô-dắc. Đẻ con ra thì con trai gọi là Cô-dắc, còn con gái thì không)
Grigori chạy đến chỗ con ngựa đang ăn trên bãi cỏ. Trong khi chàng thắng ngựa và đánh xe tới, Acxinhia lổm ngổm bò sang bên cạnh rúc đầu vào đống lúa đại mạch lầm bụi, hai chân hai tay vẫn chống xuống đất. Nàng đau quá, nhai cả những bông lúa đầy lông rồi lại nhổ ra. Bằng hai con mắt lồi lên, nom lạ hẳn đi, nàng ngơ ngác nhìn Grigori đang chạy tới như không hiểu gì cả, rồi lại rên rỉ cắn chặt cái tạp dề vo tròn, cố không để mấy người thợ gặt nghe thấy những tiếng kêu thất thanh của mình, những tiếng kêu gớm guốc như của thú vật.
Grigori đặt Acxinhia lên xe rồi đánh ngựa trở về trang trại.
- Chao ôi, đừng chạy nữa? Ối trời ơi, chết mất? Lắc ghê gớm thế-nầy! - Acxinhia gào lên, giọng khàn đi, cái đầu rũ rượi lăn lộn trong thùng xe.
Grigori chẳng nói chẳng rằng, chỉ ra roi đánh ngựa. Chàng quay dây cương vù vù trên đầu, những tiếng gào rú phía sau liên tiếp bật ra từng đợt, chàng cũng không quay đầu lại.
Acxinhia đưa hai tay lên ôm chặt lấy má, cặp mắt như hoá rồ, mở thao láo đưa đi đưa lại nom rất man rợ. Con đường còn chưa có nhiều xe chạy cho đỡ mấp mô, nên chiếc xe hết lắc bên nọ lại lắc bên kia, và người Acxinhia cứ nảy bần bật trong xe. Con ngựa phi như bay, cái ách vòng cung trên cổ con ngựa lên lên xuống xuống đều đặn trước mắt Grigori, một đầu cái ách che khuất đám mây trắng loá lơ lửng trên trời nom như một miếng pha lê mài nhiều cạnh. Bỗng Acxinhia ngừng bặt một phút, rồi lại tiếp đó kêu liên tục, có lúc biến thành tiếng rít. Bánh xe quay long xòng xọc, Acxinhia không giữ được đầu của nàng nữa, cứ để nó đập bình bịch vào thành xe. Grigori không nhận thấy ngay sự yên tĩnh đột ngột đó, nhưng rồi chàng cũng cảm thấy thế, bèn quay lại nhìn. Acxinhia nằm với bộ mặt méo xệch, không còn ra hình thù gì nữa, một bên má áp sát vào ván thành xe, miệng ngáp ngáp như con cá bị ném lên bờ, mồ hôi trên trán chảy như suối xuống hai hố con mắt sâu hoắm. Grigori nâng đầu nàng lên, đệm cái mũ nhàu nát của mình xuống bên dưới.
Acxinhia liếc nhìn chàng, nói như tin chắc:
- Anh Griska ơi, em chết mất. Thôi… thế là hết!
Grigori run bắn lên, một cơn lạnh bất thần truyền lan đến tận mười đầu ngón chân đẫm mồ hôi của chàng. Bị xúc động quá mạnh, chàng cố nói một lời khuyên nhủ, một lời âu yếm, mà không biết nói thế nào. Môi chàng cứng lại như bị chuột rút chỉ lắp bắp được mấy lời:
- Chỉ nói lung tung, sao ngu xuẩn thế? - Chàng lắc đầu rồi cúi gập xuống, nắn bên chân Acxinhia bị vẹo - Acxinhia, con chim cúc cu của anh!
Cơn đau vừa buông tha Acxinhia được một phút đã quay trở lại ngay, nhưng lần nầy còn hung dữ gấp mười. Nàng cảm thấy bụng mình sụt xuống và trong đó có cái gì sắp bật ra, bèn cong người như một cây cung. Một tiếng kêu mỗi lúc một to, khủng khiếp không sao tả được xuyên vào tai Grigori. Gần như mất trí, Grigori lại đánh ngựa.
Qua tiếng bánh xe quay ầm ầm, chàng chỉ thoáng nghe thấy một tiếng kêu the thé kéo dài:
- Gri-i-ska!
Chàng kéo dây cương, quay đầu lại: Acxinhia đang nằm trong vũng máu, hai tay dang rộng, dưới váy cô một vật gì sống oe oe, ngọ nguậy… Grigori mụ người ra, nhảy luôn xuống đất, bước tới đằng sau xe, nhưng hại chân cứ vướng như bị trói. Chàng nhìn vào miệng Acxinhia. Hơi nàng thở ra nóng hổi. Grigori đoán ra hơn là nghe thấy rõ.
- Anh cắn cuống rau… xé sợi chỉ áo… ra buộc…
Bằng những ngón tay run bần bật. Grigori rứt một nắm sợi ở tay chiếc áo sơ-mi vải thô của chàng rồi nhắm chặt hai con mắt đến đau cả mi, cắn đứt cuống rau, sau đó lấy sợi chỉ buộc thật chặt mẩu thịt máu me đầm đìa.

21


Yagonoie, trang trại của nhà Litnhitki bám vào cái thung lũng khô rộng mênh mông, nom như một khối u. Gió cứ đổi chiều, hết nồm lại bấc, mặt trời cứ chập chờn trên bầu trời bềnh bệch, phơn phớt xanh; theo sát mùa hạ, mùa thu lạo xạo những trận lá rụng, rồi mùa đông ập tới với những đợt băng giá và tuyết lạnh, nhưng bao giờ Yagonoie cũng co quắp trong một không khí rầu rĩ tê dại. Và những ngày trang trại bị cắt rời thế giới bên ngoài cứ trôi qua, ngày nào cũng giống hệt ngày nào, y như những đứa con sinh đôi.
Trong sân, vẫn những con vịt đen hớt lẻo, mắt viền vải tây đỏ, lạch bạch hết ra lại vào, những con gà tây lấm tấm như trận mưa hạt cườm, con công trên mái tàu ngựa với bộ lông diêm dúa vẫn cất những tiếng kêu phát ra từ trong bụng như tiếng mèo. Viên tướng già thích mọi thứ chim, cả đến con sếu bị trúng đạn chưa chết lão cũng nuôi. Cứ đến tháng mười một, mỗi khi nghe thấy tiếng những con sếu tự do đang bay líu nhíu gọi đàn, nó lại cất tiếng kêu sầu não, lanh lảnh như tiếng đồng, giật đau nhói những sợi dây đàn trong trái tim con người. Nhưng nó còn bay sao được nữa, cái cánh bị bắn trúng khớp thõng xuống không còn sức sống. Viên tướng đứng trong cửa sổ nhìn con sếu vươn cổ nhảy nhảy, cố hết sức rời khỏi mặt đất.
Lão há cái miệng rộng hoác dưới hàng ria bạc sùm sụp như mái hiên, cười phá lên, tiếng cười ồm ồm chập chờn trong căn phòng khách quét vôi trắng trống huếch trống hoác.
Gã Venhiamin vẫn ngẩng cao cái đầu có bộ tóc đen bết như nhung, rung rung bộ đùi nhẽo nhợt, ngồi ngày nầy sang ngày khác trên cái hòm ở phòng ngoài, đánh bài một mình đến đần độn cả người. Gã Tikhol vẫn vì mụ nhân tình rỗ hoa mà ghen với cụ Xaska, với những người làm thuê, với Grigori, với lão địa chủ, với cả con sếu, vì nó cũng được mụ Lukeria chia sẻ niềm yêu thương quá dạt dào của một người đàn bà góa. Cụ Xaska vẫn thỉnh thoảng say một trận túy lúy để rồi đến trước cửa sổ phòng lão địa chủ đòi một đồng hai mươi kopek.
Suốt thời gian ấy chỉ xảy ra hai việc làm rung động cuộc sống lên mốc lên meo, đờ đẫn như mơ ngủ: chuyện Acxinhia sinh nở và chuyện trong trang trại mất một con ngỗng rất to. Nhưng chẳng bao lâu người ta đã quen với đứa con gái mà Acxinhia mới sinh ra, còn con ngỗng thì người ta có tìm thấy ít lông trong cái khe sau cánh rừng ngay sát trang trại (xem ra nó đã bị cáo bắt). Sau đó không khí lại lắng xuống như thường.
Sáng sáng, lão địa chủ vừa tỉnh dậy đã gọi Venhiamin:
- Mày ngủ có nằm mơ thấy gì không?
- Có ạ, một giấc mơ hết sức kỳ lạ.
- Mày kể đi, - lão vừa ra lệnh gọn lỏn, vừa cuốn điếu thuốc.
Thế là Venhiamin bắt đầu kể. Nếu giấc mơ chẳng có gì thú vị hay quá rùng rợn. Lão lại nổi giận:
- Chà đồ ngu xuẩn, đồ súc sinh? Quân ngu xuẩn thì chỉ nằm mơ thấy toàn những chuyện ngu xuẩn.
Venhiamin cũng láu cá bịa ra những giấc mơ vui tươi và hấp dẫn. Chỉ có một điều làm hắn đau đầu là nghĩ sao cho ra. Vì thế, trước khi kể mấy ngày, hắn đã phải ra ngồi trên cái hòm, đập đen đét xuống một tấm thảm nhỏ những con bài cũng sùi lên và đầy cáu ghét như cặp má của hắn, cố nặn óc ra những giấc mơ vui. Hắn cố suy nghĩ, mắt đăm đăm nhìn vào một điểm, đến nỗi cuối cùng, thực tế là ngay trong khi ngủ, hắn cũng hoàn toàn chẳng còn mộng mị gì nữa. Lúc tỉnh dậy, hắn cố nhớ xem mình đã mơ thấy gì, nhưng đầu óc hắn vẫn đen ngòm, nhẵn thín như đã bào kỹ. Đen ngòm thật, vì chẳng nói gì người trong giấc mơ, ngay đến người sống, hắn cũng chẳng nhìn thấy ma nào cả.
Tuy chỉ là bịa ra những chuyện chắng có rắc rối, nhưng Venhiamin cũng bở hơi tai, còn lão địa chủ thì phát khùng khi lão bắt gặp những chỗ kể lại chuyện cũ:
- Đồ dơ dáy đê tiện, giấc mơ về con ngựa này, hôm thứ Năm mày đã kể cho tao nghe rồi cơ mà? Mày làm sao thế, quỷ tha ma bắt mày đi?
- Tôi lại nằm mơ thấy lần nữa, bẩm cụ lớn Nicolai Alekseevich! Chúa cứu thế chứng giám, thật thế đấy ạ, quả là tôi đã nằm mơ thấy lần thứ hai. - Venhiamin vẫn không bối rối, càng lao đầu nói dối thêm.
Đến cuối tháng Chạp, Grigori cùng một người gác bị gọi lên nhà hội đồng trấn Vosenskaia. Chàng được lĩnh một trăm rúp mua ngựa và nhận một tờ giấy báo cho biết đến ngày thứ hai lễ Nô-en phải có mặt tại trạm lấy lính ở thị trấn Malkovo.
Lên trấn về, Grigori bấn lên chẳng còn biết xoay xở như thế nào nữa: lễ Nô-en sồng sộc đến nơi rồi mà chàng vẫn chưa có gì sẵn sàng cả. Với số tiền ngân khố cấp, cộng thêm tiền dành dụm được, chàng tới thôn Obrypsky mua được một con ngựa một trăm bốn mươi rúp.
Chàng đi cùng với cụ Xaska, mặc cả mua được một con ngựa tạm dùng được: sáu tuổi, lông hạt dẻ, mông xuôi. Nó cũng có một tật, nhưng khó nhận ra. Cụ Xaska vuốt râu nói:
- Cậu không thể nào kiếm được một con rẻ hơn, các quan trên sẽ không biết đâu. Họ làm gì có đủ tinh khôn.
Trên đường về, Grigori cưỡi ngay con ngựa vừa mua được, thử xem bước một và nước kiệu ra sao.
Rồi trước lễ Nô-en một tuần, chính ông Panteley Prokofievich tự nhiên lù lù mò đến Yagonoie. Ông lão không cho con ngựa cái thắng vào chiếc xe trượt tuyết to chạy vào trong sân, mà buộc nó ngay ở hàng rào, rồi vừa khập khiễng bước vào nhà đầy tớ, vừa gỡ những miếng băng bám trong chòm râu tãi ra trên cổ áo như phiến đá đen. Grigori đứng trong cửa sổ nhìn thấy bố tới, cuống lên:
- Xem kìa! Cha đến đấy!
Acxinhia không hiểu sao bọc con lại, chạy đến bên nôi.
Ông Panteley Prokofievich bước vào phòng cùng với một làn hơi lạnh. Ông bỏ cái mũ ba tai xuống, làm dấu phép về phía bức hình thánh, rồi từ từ đưa mắt nhìn khắp bốn bức tường.
- Chào cả nhà.
- Bố lại chơi. - Grigori đang ngồi trên chiếc ghế dài đứng dậy, chào lại rồi bước ra đứng giữa phòng.
Ông Panteley Prokofievich chìa cho Grigori một bàn tay lạnh giá, rồi khép tà áo choàng vừa ngồi xuống một đầu ghế vừa đưa mắt nhìn Acxinhia lúc nầy vẫn đứng yên như phỗng bên cái nôi.
- Mày sắp sửa đi lính phải không?
- Hẳn như thế rồi.
Ông Panteley Prokofievich nín lặng một lát và cứ nhìn mãi Grigori bằng cặp mắt dò hỏi.
- Cha cởi áo choàng ra chứ, có lẽ lạnh lắm phải không?
- Không sao. Tao chịu được.
- Con nhóm samova nhé.
- Cám ơn. - Ông lấy móng tay cậy cậy một vết bùn bám trên áo không biết từ bao giờ rồi nói. - Tao mang đồ trang bị tới cho mày: hai cái áo ca-pốt, một bộ yên, mấy cái quần đi ngựa. Ra mà lấy… Tất cả đều ở ngoài kia.
Grigori chẳng cần đội mũ, chạy ngay ra chiếc xe trượt tuyết, khiêng vào hai cái túi.
- Bao giờ đi? - Ông Panteley Prokofievich vừa hỏi vừa đứng dậy.
- Ngày thứ hai lễ Nô-en. Nhưng sao thế, cha về đấy à?
- Tao phải vội về ngay cho sớm.
Ông chia tay với Grigori, nhìn qua Acxinhia một cái, rồi bước ra sân. Đến lúc đã cầm lấy quả đấm cửa, ông liếc nhìn cái nôi và nói:
- Mẹ mày nhờ chuyền lời hỏi thăm mày đấy, bà lão đang đau chân. - Nói đến đây, ông nín lặng một lát, rồi nói thêm một cách miễn cưỡng, như phải khiêng một vật nặng. - Tao sẽ tới, đưa mày đến Malkovo. Sửa soạn trước đi.
Ông vừa đi ra vừa lồng tay vào đôi găng ấm đan tay. Acxinhia cảm thấy nhục quá, không nói gì cả. Mặt nàng tái mét. Grigori liếc nhìn nàng và cố ý dẫm lên một tấm ván sàn cọt kẹt.
* * *
Hôm thứ nhất lễ Nô-en, Grigori đánh xe đưa lão Litnhitki lên trấn Vosenskaia.
Lão địa chủ dự lễ mi-sa xong, ăn sáng ở nhà một mụ địa chủ, chị em con chú con bác với lão, rồi ra lệnh thắng ngựa.
Grigori chưa kịp ăn hết bát xúp béo nấu với thịt lợn đã phải đứng dậy để ra tàu ngựa.
Chiếc xe trượt tuyết nhẹ kiểu thành thị thắng một con ngựa xám đốm tròn giống Orlovsky, tên là Sibai. Grigori níu dây cương, lôi nó ra khỏi tàu ngựa, rồi vội vã thắng nó vào xe.
Gió thổi bay tứ tung những bông tuyết to, rơi vào người đau như có gai, tuyết dưới chân bị gió thốc lên trắng như bạc, vừa rít vừa bay là là mặt đất. Bên ngoài dãy hàng rào, sương muối dịu mượt như nhung bám đầy những cái cây. Bị gió rung, từng đám sương muối rơi xuống, tung lả tả, lóng lánh dưới nắng với những sắc cầu vồng phối hợp phong phú như trong thần thoại. Một làn khói bốc chếch chếch lên trời từ cái cột ống khói xám đen trên mái nhà. Cạnh đấy, vài con quạ quàng quạc đứng co ro. Nghe thấy những tiếng chân bước loạt soạt, chúng sợ hãi cất cánh bay lên, lượn vòng trên mái nhà như những đám bông xám rồi bay về hướng tây, về phía ngôi nhà thờ đang in rõ một hình xanh xanh trên nền trời tím ngát lúc sớm mai.
- Vào nói hộ cái, xe thắng xong rồi! - Grigori nói với cô hầu phòng đang chạy ra thềm nhà.
Lão địa chủ bước ra, bộ ria rúc hẳn xuống cổ chiếc áo lông gấu chuột. Grigori đắp lên hai chân lão cái cánh gà làm bằng lông sói có viền nhung rồi cài khuy lại.
- Cho nó vài roi! - Lão địa chủ đưa mắt về phía con ngựa.
Grigori ngửa người trên bục đánh xe, hai tay duỗi ra nắm mấy sợi dây cương căng thẳng rung rung. Chàng lo lắng liếc nhìn đoạn đường dốc đầy tuyết trơn và nhớ lại rằng hồi tuyết bắt đầu rơi, có lần chàng cho xe chạy trên một con đường mới, không khéo để xe va mạnh, lão địa chủ đã đấm chàng một cái vào gáy, nắm đấm khỏe chẳng có vẻ gì là của một lão già. Xe chạy tới cái cầu, rồi từ đấy cứ dọc theo sông Đông. Grigori nới lỏng dây cương, đưa găng tay lên sát hai bên má bị gió quật rát như lửa bỏng.
Hai giờ sau xe về tới Yagonoie. Suốt chặng đường lão địa chủ cứ câm như hến, lâu lâu mới cong ngón tay gõ vào lưng Grigori: “Đứng lại” để quay lưng về phía ngọn gió, cuộn điếu thuốc.
Mãi khi xuống cái dốc sắp về tới trang trại, lão mới hỏi:
- Sáng sớm mai à?
Grigori quay nghiêng người, cố mãi mới mở được cặp môi rét cóng.
- Slớm mai - Chàng định nói “sớm” mà lại thành “slớm”. Lưỡi bị lạnh quá cứng lại, hình như sưng lên, dính chặt vào chân răng, vì thế giọng nói thều thào.
- Tiền nhận đủ rồi chứ?
- Vâng.
- Không phải lo lắng về chuyện vợ mày, nó sẽ sống được thôi. Phải lo làm việc quan cho tận tâm. Ông mày xưa là một thằng Cô-dắc dũng cảm. Mày cũng phải như thế, - Giọng lão địa chủ bỗng trầm hẳn xuống (lão lấy cổ áo che mặt để tránh gió) - Mày cũng phải làm thế nào cho xứng đáng với ông mày và cha mày. Có phải cha mày đã đoạt giải nhất trong cuộc đua ngựa lần hoàng đế duyệt binh hay không?
- Vâng, đúng cha tôi.
- Thôi, làm cho đúng như thế - Lão địa chủ kết thúc câu chuyện bằng một giọng nghiêm khắc, gần như đe doạ, rồi giấu hẳn mặt vào trong áo lông.
Grigori dắt con ngựa chuyên chạy nước kiệu trao tận tay cho cụ Xaska rồi bước vào trong nhà đầy tớ.
- Ông cụ nhà cậu đến đấy! - Cụ Xaska đắp chiếc áo ngựa cho con ngựa nói to theo.
Ông Panteley Prokofievich đang ngồi ở bàn ăn ăn nốt món thịt đông.
“Lại có tí tửu rồi”, - Grigori đưa mắt nhìn bố, thấy nét mặt ông cụ đã dịu hơn lần trước nên nghĩ bụng.
- Về rồi à, thầy quyền?
- Chết cóng rồi đây. - Grigori đập hai tay vào nhau, trả lời bố rồi quay sang bảo Acxinhia - Cởi cho anh cái nút buộc mũ, không động được ngón tay nữa rồi.
- Mày phải đi một chuyến khổ quá đấy, đường lại ngược gió. - Người bố nói giọng bực bội, cả râu lẫn ria đều lên lên xuống xuống trong khi ông nhai.
Rồi ông ra lệnh gọn lỏn cho Acxinhia, giọng như chủ nhà, nhưng lần nầy khá dịu dàng:
- Cắt thêm bánh mì ra đây, đừng có hà tiện.
Ăn xong ông rời khỏi bàn và trong khi đi ra cửa hút thuốc, ông đưa đi đưa lại cái nôi hai ba lần như không chủ tâm. Ông đưa chòm râu vào trong cái màn nhỏ xíu và hỏi:
- Cô-dắc à?
- Cháu gái đấy ạ, - Acxinhia trả lời thay Grigori, nhưng nàng nhận thấy một vẻ không vừa ý thoáng hiện trên mặt và ngưng lại ở chòm râu không động đậy nữa của ông lão, bèn vội nói thêm. - Cháu đẹp như vẽ ấy, giống anh Griska con như đúc.
Ông Panteley Prokofievich ngắm đi ngắm lại một cách thành thạo cái đầu nhỏ xíu, đen đen, nhô ra ngoài đám giẻ rách rồi xác nhận, giọng không thiếu vẻ tự hào:
- Dòng máu nhà ta đây… Hừm… Con bé nầy!
- Cha đến bằng gì thế? - Grigori hỏi.
- Đi xe trượt tuyết, thắng con ngựa cái nhỏ và con của thằng Petro.
- Hay là chỉ đem một con đi thôi, thử thắng con của con xem.
- Không cần, cho nó đi không cũng được. Nhưng con ngựa cũng khá đấy.
- Cha xem rồi à?
- Có xem qua.
Hai cha con chỉ nói với nhau những chuyện đâu đâu, tuy cùng xao xuyến với những ý nghĩ về cùng một vấn đề. Acxinhia không nói xen vào câu chuyện, nàng cứ ngồi yên trên giường như người bị dìm xuống nước. Cặp vú của nàng mọng sữa, rắn như đá, căng cả ngực áo. Sau khi sinh nở, nàng đẫy đà ra, dáng người thay đổi hẳn, nom đầy vẻ tự tin và tràn trề hạnh phúc.
Mãi khuya mọi người mới vào giường đi ngủ. Acxinhia ôm chặt lấy Grigori, nước mắt và sữa chảy ra từ cặp vú đứa con bú không hết làm ướt đẫm áo sơ mi của chàng.
- Em nhớ anh đến chết mất… Em sống một thân một mình rồi sẽ ra sao bây giờ?
- Em đừng lo, - Grigori trả lời, giọng cũng thầm thì.
- Đêm thì dài… con lại không chịu ngủ cho… Em sẽ héo mòn vì nhớ anh thôi. Anh ngẫm mà xem, anh Griska, bốn năm trời?
- Nghe nói xưa kia người ta còn đi lính hai mươi nhăm năm cơ.
- Việc xưa kia có liên quan gì đến em.
- Thôi, đừng nói nữa!
- Cái việc đi lính của anh thật đáng nguyền rủa nó làm chia lìa đôi ngả!
- Nghỉ phép anh sẽ về.
- Nghỉ phép, - Acxinhia rầu rĩ nói theo, rồi nàng nức nở và xỉ mũi vào áo lót - Chờ anh về được thì sông Đông đã chảy hết bao nhiêu nước…
- Thôi đừng rền rĩ nỉ non nữa… Nước mắt em sao cứ rả rích như mưa thu ấy?
- Anh cứ ở vào tình cảnh của em mà xem?
Trời sắp hửng thì Grigori thiếp đi, Acxinhia cho con bú xong, chống khuỷu tay, mắt đăm đăm không chớp, nhìn khuôn mặt ngăm ngăm của Grigori lờ mờ trong bóng tối, thầm từ biệt chồng. Nàng nhớ lại cái đêm còn ở trong phòng mình, nàng cố khuyên Grigori đi Kuban. Đêm ấy cũng như thế này, chỉ có khác là lần trước thì sáng trăng và cái sân bên ngoài cửa sổ thì trắng xoá, tràn ngập ánh trăng.
Cảnh tượng cũng như thế, nhưng Grigori thì có phần vẫn như xưa mà cũng có phần đổi khác. Sau lưng hai người đã là cả một chặng đường dài, đan bằng những ngày đã trôi qua.
Grigori trở mình nằm nghiêng, nói rành rọt:
- Ở thôn Olsansky… - Rồi lại nín thinh.
Acxinhia cố chợp mắt, song những ý nghĩ rối bời trong óc đã xua hết cái ngủ đi đâu mất, y như gió thổi tung một đụn rơm. Cho đến khi trời sáng, nàng cứ suy nghĩ quẩn quanh về câu nói không đầu không đũa của Grigori, cố đoán xem ý nghĩa ra sao… Khuôn cửa sổ đầy sương muối vừa hửng một chút, ông Panteley Prokofievich đã thức giấc.
- Grigori, dậy đi, trời sáng rồi!
Acxinhia quỳ dậy, mặc váy. Nàng thở dài tìm mãi mới thấy diêm. Mọi người ăn sáng, thu xếp mọi thứ xong xuôi thì trời sáng bạch.
Ánh ban mai lấp loáng xanh biếc. Dãy hàng rào nhấp nhô hiện lên rành rọt như khảm trong tuyết. Nóc tàu ngựa đen đen che một phần bầu trời tím nhạt rất dịu, mung lung như khói.
Ông Panteley Prokofievich ra thắng ngựa. Acxinhia ôm lấy Grigori hôn lấy hôn để như người mất trí. Grigori cố gỡ ra để đi chào từ biệt cụ Xaska và những người khác.
Acxinhia bọc con cẩn thận rồi ra tiễn chân chồng.
Grigori thơm cái trán nhỏ xíu ươn ướt của con gái rồi bước tới bên con ngựa.
- Mày lên xe mà ngồi! - Ông bố vừa giật cương hai con ngựa vừa kêu lên.
- Không, con cưỡi ngựa.
Grigori cố ý dềnh dàng buộc đai ngựa rồi lên yên, dóng cương.
Acxinhia sờ sờ vào chân chàng, luôn miệng nhắc đi nhắc lại:
- Griska, hượm cái đã… em còn chuyện này muốn nói với anh…
Nàng run lên, luống cuống cau mày cố nghĩ.
- Thôi em ở lại! Chăm con cho cẩn thận… Anh phải đi đây, cha đã đi xa rồi kia kìa…
- Hượm đã nào, anh yêu của em! - Acxinhia đưa tay trái ra nắm lấy bàn đạp lạnh buốt, tay phải ôm chặt lấy đứa con bọc trong tà áo.
Nàng nhìn Grigori chằm chằm không chán mắt, chẳng còn tay nào mà chùi những giọt nước mắt chảy giàn giụa trên hai con mắt mở to không chớp.
Venhiamin bước ra thềm.
- Grigori, cụ chủ cho gọi.
Grigori văng tục một câu, vung roi, cho con ngựa chạy ra khỏi cổng. Acxinhia tất tả chạy theo, hai chân đi ủng dạ sụt xuống những đống tuyết rải rác đầy sân, kéo lên rất khó khăn.
Lên tới đường sống đồi thì Grigori đuổi kịp cha chàng. Chàng ngồi lại cho vững rồi ngoái đầu nhìn lại. Acxinhia vẫn ôm chặt đứa con trong tà áo, đứng bên cổng, gió đập phần phật đầu chiếc khăn choàng đỏ trên vai nàng.
Grigori lên tới ngang chiếc xe trượt. Ngựa đi bước một. Ông Panteley Prokofievich quay lưng về phía hai con ngựa rồi hỏi:
- Thế là mày không nghĩ tới chuyện về ở với vợ mày nữa à?
- Lại cái chuyện ngày xửa ngày xưa… người ta đã nói chán rồi…
- Mày thật không muốn về với nó nữa à?
- Thật như vậy.
- Mày có nghe tin nó tự tử không?
- Con có nghe nói.
- Ai cho biết thế?
- Có lần con đánh xe đưa cụ chủ lên trấn, gặp một bà con trong thôn.
- Thế mày không sợ Chúa trừng phạt à?
- Nhưng còn làm thế nào được nữa hả cha? Nói thật ra thì… bát nước đã đổ xuống đất còn vớt sao cho đầy được nữa!
- Thôi đừng nói với tao những lời của quỷ dữ ấy nữa? Tao chỉ muốn nói cho mày hiểu điều hay lẽ phải. - Ông Panteley Prokofievich nổi nóng, nói càng nhanh.
- Bây giờ con lại đã có con, thế thì còn gì mà nói nữa? Chẳng làm thế nào hàn gắn được nữa rồi.
- Mày phải cẩn thận đấy… nhỡ nuôi con kẻ khác thì sao?
Grigori tái mặt: ông bố đã chạm đúng vết thương chưa kín miệng.
Từ ngày bé ra đời, Grigori luôn luôn bị ray rứt bởi một mối nghi ngờ mà chàng cố giấu Acxinhia, cố lừa dối cả chính mình. Đêm đêm, khi Acxinhia đã ngủ, chàng thường lần đến bên cái nôi, nhìn mãi đứa bé, cố tìm thấy trên khuôn mặt hồng hồng nâu nâu của nó một nét nào của mình, rồi lại bỏ đi, nghi ngờ vẫn hoàn nghi ngờ. Cả Stepan cũng có bộ tóc nâu sẫm, gần như đen, thế thì làm thế nào nhận được ra chất máu đang chảy theo nhịp đập của trái tim trong cái lưới mạch máu hằn lên xanh xanh dưới làn da trong trong của đứa bé là máu của ai? Có lúc Grigori cảm thấy đứa con gái giống mình, nhưng đôi khi chàng lại thấy nó rất giống Stepan, giống đến làm chàng đau lòng. Đối với nó, Grigori chẳng có tình cảm gì cả, ngoài một niềm bực bội vì những phút nặng nề mà chàng đã phải trải qua trong khi đánh xe đưa Acxinhia về qua đồng cỏ, lúc nàng đang quằn quại đau đẻ. Nhưng có lần Acxinhia đang bận tay trong bếp chàng đã bế đứa bé ra khỏi nôi, thay cho nó cái tã ướt, và bất thần cảm động nhói trong tim… Chàng len lén cúi xuống khẽ cắn vào một ngón chân hồng hồng tõe ra trên bàn chân đứa bé.
Người bố đã móc moi vết thương của Grigori, không chút thương hại. Grigori đặt hai bàn tay lên mũi yên, trả lời giọng âm thầm.
- Con ai thì con, tôi cũng không bỏ.
Ông Panteley Prokofievich giơ roi đánh ngựa, nhưng vẫn không quay người lại.
- Sau hôm ấy con Natalia hỏng cả người… Cổ nó vẹo đi như phải gió. Một cái gân chính bị cắt đứt, vì thế cổ nó cứ nghiêng sang một bên.
Nói đến đây ông nín lặng. Đòn trượt nghiến nát tuyết rít lên. Con ngựa của Grigori đạp móng sau lên chân trước đôm đốp.
- Thế bây giờ Natalia như thế nào hả cha? - Grigori hết sức chăm chú gỡ một quả ngưu bàng chín nẫu bám trên bờm ngựa.
- Hình như khỏi rồi. Nó nằm mất bảy tháng trời. Hôm lễ Lá đã tưởng nó đi đứt. Cha Pankrati đã làm lễ cho nó… Nhưng sau vẫn qua khỏi. Mỗi ngày một khá ra, bây giờ đã đứng dậy, đi lại được. Nó lấy cái lưỡi hái đâm vào tim, nhưng run tay, mũi lưỡi hái chệch sang bên, nếu không đã hết đời…
- Cha cho xe xuống chân núi đi!
Grigori vung roi đứng nhỏm trên bàn đạp, cho con ngựa bắt đầu chạy nước kiệu vượt lên trước chiếc xe của bố, móng ngựa hất tung những nắm tuyết vào trong xe.
- Chúng ta sẽ đem con Natalia về nhà! - Ông Panteley Prokofievich cho xe đuổi theo kịp, kêu to. - Con bé nó không muốn ở nhà bố mẹ nó nữa. Hôm nọ tao có gặp, đã bảo nó về nhà ta mà ở.
Grigori không trả lời. Hai người lặng thinh cho tới khi đến thôn đầu tiên. Ông Panteley Prokofievich cũng không đả động tới chuyện ấy nữa.
Hôm ấy hai cha con đi được bảy mươi vec-xta. Hôm sau, lúc mọi nhà đã lên đèn, mới tới được thị trấn Malkovo.
- Anh em trấn Vosenskaia ở khu nào thế? - Ông Panteley Prokofievich vừa gặp một người đã hỏi luôn.
- Cứ thẳng phố lớn mà đi.
Hai cha con đến một ngôi nhà thì thấy năm anh chàng bị gọi vào lính đứng đó cùng với những người cha đưa tiễn con.
- Bà con ta ở thôn nào thế? - Ông Panteley Prokofievich vừa hỏi vừa dắt mấy con ngựa vào buộc dưới hiên nhà kho.
- Chúng tôi từ vùng sông Tria, - Trong bóng tối có một giọng khàn đặc trả lời.
- Nhưng thôn nào cơ chứ?
- Thôn Cácghin cũng có, thôn Napolov, thôn Likhovidov cũng có, còn hai cha con bác ở thôn nào thế?
- Thôn Cu rừng (Biệt hiệu của thôn Tatarsky), - Grigori bật cười trả lời. Chàng tháo yên con ngựa và nắn nắn cái lưng đẫm mồ hôi của nó.
Sáng hôm sau, lão Dudarov, ataman trấn Vosenskaia dẫn đám lính mới của trấn tới nhà hội đồng khám sức khỏe. Grigori gặp anh em cùng tuổi trong thôn. Mitka Korsunov cưỡi con ngựa cao màu hạt dẻ nhạt, đóng bộ yên mới rất diện, đai ngực diêm dúa, dây cương và hàm thiếc trang sức lộng lẫy. Từ sáng sớm nó đã cưỡi ngựa ra giếng, trông thấy Grigori đứng ở cổng nhà chàng ở, bèn đưa tay trái lên giữ cái mũ cát-két đội lệch, cho ngựa chạy qua, không chào hỏi gì cả.
Các chú lính mới lần lượt cởi quần áo trong căn phòng lạnh ngắt của nhà hội đồng thị trấn. Những tên văn thư nhà binh lăng xăng chạy qua chạy lại trong căn phòng. Viên phó quan của lão ataman quân khu đi ủng da véc-ni ngắn cũng ra vẻ bận rộn lắm. Cái nhẫn nạm ngọc đen cùng hai lòng trắng lồi lồi hồng hồng trên cặp mắt rất đẹp của gã càng làm nổi bật màu trắng của da và những cái dây ngù. Từ phòng trong vẳng ra tiếng các bác sĩ trao đổi nhau những ý kiến nhát gừng.
- Sáu mươi chín.
- Ông Panven Ivanovich, xin ông cái bút chì hoá học. - Ngay sau cánh cửa có một giọng ồm ồm đầy hơi men.
- Vòng ngực…
- Vâng, vâng, rõ ràng đây là một biểu hiện của bệnh di truyền…
- Giang mai, ghi vào.
- Làm gì mà che che đậy đậy thế, mày có phải là con gái đâu?
- Người nó cứ như…
- Thôn này vốn là đất tốt cho bệnh này hoành hoành. Cần có ngay những biện pháp đặc biệt. Tôi đã làm báo cáo trình lên cụ lớn.
- Ông Paven Ivanovich, ông xem hộ tôi tên này. Người ngợm của nó ông thấy thế nào?
- Được!
Grigori cởi quần áo bên cạnh một anh chàng tóc đỏ cao lêu đêu người thôn Trukarinsky. Một viên văn thư ở bên trong cửa bước ra với cái lưng áo quân phục nhăn nhúm. Gã gọi rành rọt:
- Panfilov Sebatiau, Melekhov Grigori.
- Nhanh lên cậu! - Anh chàng đứng bên cạnh Grigori khẽ giục và đỏ mặt tháo bít-tất ra.
Grigori bước vào phòng, lưng nổi cả gai ốc. Da chàng vốn đã ngăm ngăm bánh mật, lúc nầy lại bóng lên cái màu của gỗ sồi nhuộm. Chàng ngượng ngùng nhìn xuống hai chân đầy lông đen của mình. Một anh chàng trần như nhộng, người vụng về quê mùa đứng ở góc phòng, cạnh cái sân. Một gã có vẻ là y tá trưởng đẩy quả cân kêu to:
- Bốn, mười. Xuống đi.
Những thủ tục khám sức khỏe nhục nhã làm Grigori bực mình.
Một bác sĩ tóc bạc, mặc áo trắng, nghe nhiều chỗ trên người chàng bằng ống nghe. Một người trẻ hơn lật mí mắt chàng và bắt thè lưỡi ra xem. Một người thứ ba đeo kính gọng sừng, tay áo xắn lên đến khuỷu, cứ xát hai tay vào nhau và lẩn quẩn mãi sau lưng chàng.
- Lên bàn cân.
Grigori bước lên cái mặt bàn cân gạch khía lạnh giá.
- Năm, sáu rưỡi, - Gã đứng cân lách cách gạt quả cân kim khí và cho biết kết quả.
- Quỷ quái gì thế nầy, nó cũng chẳng cao lớn gì lắm. - Bác sĩ tóc bạc lẩm bẩm và nắm tay Grigori xoay chàng quay một vòng.
- Kỳ… quặc thật! - Người trẻ hơn nói cà lăm.
- Bao nhiêu? - Một lão ngồi ở bàn ngạc nhiên hỏi.
- Năm pút, sáu phun-tơ rưỡi (Một pút bằng 16,88 kg, một phun-tơ bằng 409,5 gr. Tất cả là khoảng 84,5 kg), - Bác sĩ tóc bạc trả lời lông mày giương lên vẫn chưa hạ xuống.
- Cho vào đội ngự lâm chứ? - Tên đặc phái viên quân sự của quân khu nghiêng bộ tóc đen chải bóng về phía tên ngồi bên cạnh.
- Mặt mũi nó như quân ăn cướp ấy… Man rợ quá.
- Nầy, quay lưng lại đây! Lưng mày làm sao thế hử? - Một sĩ quan đeo lon đại tá gõ một ngón tay xuống bàn, vẻ nóng nảy.
Bác sĩ đầu bạc lẩm bẩm một câu gì khó hiểu trong khi Grigori quay lưng về phía cái bàn. Chàng cố ghìm cơn run lan rân rân khắp người để trả lời:
- Dạo mùa xuân tôi bị giá. Đó là những chỗ mưng mủ.
Lúc kiểm tra cân đo sắp xong, các quan chức ngồi quanh bàn bàn bạc với nhau rồi quyết định:
- Xuống đơn vị chiến đấu.
- Xuống trung đoàn Mười hai, Melekhov. Nghe rõ không?
Người ta cho phép Grigori ra ngoài. Lúc ra cửa, chàng còn nghe thấy những lời nói thì thầm đầy miệt thị:
- Không thể được. Các ngài thử tưởng tượng xem, hoàng thượng mà trông thấy một cái mặt như thế thì sẽ ra sao? Chỉ hai con mắt nó cũng…
- Thằng nầy lai đấy! Có lẽ người phương Đông.
- Hơn nữa người nó lại không sạch sẽ, lở láy…
Mấy anh em cùng thôn đang chờ lượt đến vây lấy Grigori.
- Nầy, thế nào, Griska?
- Cậu đi đâu thế?
- Có lẽ về trung đoàn Atamansky đấy nhỉ?
Grigori lò cò một chân, cố lồng chân kia vào ống quần. Chàng trả lời qua kẽ răng:
- Thôi đừng quấy rầy nữa, có quái gì mà phải hỏi? Đi đâu à? Trung đoàn Mười hai.
- Korsunov Dmitri, Kargin Ivan - Tên văn thư ngó đầu ra.
Grigori chạy từ trên thềm xuống, vừa chạy vừa cài khuy áo lông ngắn. Tuyết tan, thoảng hơi gió ấm áp, con đường có những chỗ sạch tuyết bốc hơi ngùn ngụt. Vài con gà mái kêu cục cục chạy qua phố, vài con ngỗng đạp lõm bõm trong vũng nước lăn tăn những vết nhăn xiên xiên. Những cái chân ngỗng ngâm dưới nước nom hồng hồng da cam, chẳng khác gì những chiếc lá thu bị sương giá đốt cháy vàng.
Hai ngày sau bắt đầu kiểm tra ngựa. Bọn sĩ quan đi đi lại lại trên bãi. Viên bác sĩ thú y và tên y tá trưởng cầm cái thước đo ngựa phanh tà áo ca-pốt tất tả chạy qua. Một đàn ngựa lông đủ các màu đứng xếp thành hàng dài bên bức tường xây quanh nhà thờ. Giữa bãi kê chiếc bàn nhỏ. Một tên văn thư ngồi đấy ghi kết quả kiểm tra cân đo. Lão ataman trấn Vosenskaia là Dudarov lật đật chạy từ cái cân đi chỗ khác, vừa chạy vừa trượt chân. Tên đặc phái viên quân sự đi qua; không biết hắn đang nói những gì với một viên trung uý kỵ binh trẻ tuổi mà giậm chân thình thịch ra vẻ bực tức lắm.
Số của Grigori là một trăm tám mươi. Chàng dắt ngựa lên cân. Họ đo tất cả những bộ phận trên cơ thể con ngựa rồi cân. Con ngựa chưa bước khỏi bàn cân viên bác sĩ thú y đã nắm lấy môi trên của nó, khám trong mõm nó với một vẻ oai vệ quen thuộc. Hắn bóp rất mạnh, nắn các bắp thịt trước ức, rồi như một con nhện, những ngón tay rắn rỏi của hắn lần xuống dần dần tới bốn chân.
Hắn bóp khắp xương đầu gối, gõ vào đoạn gân dưới bánh chè, nắn những cái xương phía trên các móng…
Con ngựa sợ vểnh cả tai, hắn vẫn bóp nắn nghe ngóng mãi rồi bỏ đi tà áo blu tả tơi tung ra khắp chung quanh mùi phenol hăng hắc.
Con ngựa bị coi là không đủ tiêu chuẩn. Điều mong mỏi của cụ Xaska thế là không được thực hiện. Viên bác sĩ ranh ma đã có đủ kinh nghiệm để nhận ra cái tật ngầm mà cụ Xaska đã nói tới.
Grigori hoảng lên bàn với cha chàng một lát, rồi nửa giờ sau, chàng đã vượt đám xếp hàng, dắt con ngựa của Petro vào cân. Viên bác sĩ nhận cho qua ngay, gần như chẳng khám xét gì cả.
Cách chỗ không xa, Grigori kiếm được một khoảng khô ráo nhất bèn trải áo ngựa, xếp tất cả các đồ trang bị của mình lên. Ông Panteley Prokofievich đứng phía sau giữ con ngựa và nói chuyện với một ông già khác cũng tới tiễn con.
Một viên tướng cao lớn tóc bạc phơ đi ngang qua. Lão mặc áo ca-pôt xám nhạt, đội mũ lông cừu non trắng muốt như bạc. Lão đi hơi lăng chân trái, bàn tay đeo găng trắng vung vẩy.
- Ngài ataman quân khu đấy - Ông Panteley Prokofievich đẩy vào lưng Grigori khẽ nói.
- Có lẽ một cấp tướng?
- Thiếu tướng Makeev. Hắc ghê lắm!
Một đoàn sĩ quan đến từ các trung đoàn và các đại đội pháo lũ lượt đi theo lão ataman. Một viên thượng uý vai rộng mông to, quân phục pháo binh, nói oang oang với bạn hắn, một sĩ quan cao lớn đẹp trai thuộc trung đoàn ngự lâm Atamansky:
- Thật chẳng làm thế nào hiểu được nữa? Một làng nhỏ ở Estonia, dân phần lớn tóc vàng, thế mà con bé ấy lại hoàn toàn khác hẳn, mà đâu phải một mình cô ả! Bọn mình đã đặt rất nhiều giả thuyết nhưng mãi sau mới vỡ lẽ là hai chục năm trước đây… - Hai tên sĩ quan đi vòng, tránh chỗ Grigori xếp các đồ trang bị Cô-dắc của chàng trên tấm áo ngựa. Vì gió nên chàng phải vất vả lắm mới nghe được mấy lời cuối cùng của viên thượng uý pháo binh giữa những tiếng cười của bọn sĩ quan: -… một đại đội thuộc trung đoàn Atamansky của các ngài đã đến đóng tại làng đó.
Gã văn thư vừa chạy vừa đưa những ngón tay run rẩy, bê bết mực hoá học lên cài khuy áo ngoài. Tên trợ lý của đặc phái viên quân sự quân khu đỏ mặt tía tai chạy phía sau, quát rầm lên:
- Làm ba lần, tao đã bảo mày rồi cơ mà! Tao sẽ tống cổ mày xuống đơn vị cho mà xem!
Grigori tò mò nhìn xoi mói những khuôn mặt xa lạ của bọn sĩ quan và quan lại. Một tên phó quan bước qua, hắn đưa cặp mắt âu sầu ươn ướt nhìn Grigori, nhưng vừa bắt gặp cặp mắt chăm chú của chàng, hắn quay ngoắt đi. Một viên trung uý kỵ binh nhiều tuổi gần như chạy lên đuổi theo tên phó quan. Không biết lão đang có gì lo lắng, mà hàm răng vàng khè cứ cắn lấy môi trên. Grigori nhận thấy trên hàng lông mày hung hung như râu ngô của lão trung uý có một nốt ruồi rung rung, gần sát mi mắt.
Dưới chân Grigori trải tấm áo ngựa chưa dùng lần nào trên xếp đúng thứ tự quy định một bộ yên có khung bọc sắt sơn xanh lá cây kèm theo túi trước và túi sau (Túi trước đựng lương ăn cho ngựa, túi sau đựng các đồ dùng và lương ăn cho người), hai cái áo ca-pôt, hai quần đi ngựa, chiếc quân phục ngắn, hai đôi ủng, các đồ lót, một phun-tơ linh năm mươi tư dô-lôt-nhich (1dô-lốt-nhich bằng 4,26gr) lương khô, một hộp đồ hộp, thóc ngựa cùng những lương thực khác theo số lượng quy định cho một lính kỵ binh.
Những cái túi dết mở nắp cho thấy một bộ móng ngựa, dùng cho cả bốn vó ngựa, đinh đóng móng, tất cả đều bọc trong giẻ tẩm dầu, một bao đồ khâu trong có hai cái kim và chỉ, một chiếc khăn mặt.
Grigori nhìn qua lần cuối hành lý lên đường của mình. Chàng ngồi xổm lấy tay áo chùi mép những cái khoá dây đeo bị bẩn. Bắt đầu từ cuối bãi, Ủy ban kiểm tra từ từ đi qua trước các gã Cô-dắc đứng thành hàng bên những chiếc áo ngựa. Bọn sĩ quan và lão ataman kiểm tra rất cẩn thận các đồ trang bị Cô-dắc. Chúng ngồi xuống, vén tà những chiếc áo ca-pôt màu xám nhạt, lục trong các túi dết, nhòm vào các bao đồ khâu, nhấc nhấc các túi lương khô lên xem có đủ cân đủ lạng hay không.
Gã Cô-dắc đứng bên cạnh Grigori giơ ngón tay chỉ tên đặc phái viên quân sự quân khu:
- Các cậu xem cái thằng dài ngoằng kia kìa. Nó bới tung các thứ lên như con chó dái xục hang chuột ấy.
- Ấy đấy ấy đấy mẹ kiếp! Nó lộn mề gà cả cái túi dết!
- Chắc lung tung quá, nếu không ai thừa hơi kiếm chuyện.
- Nó làm gì thế, chẳng nhẽ đếm cả đinh đóng móng hay sao?
- Đúng là một thằng chó má!
Những tiếng xì xào lắng dần, Uỷ ban kiểm tra đã tới gần, chỉ còn vài người là tới chỗ Grigori. Lão ataman quân khu cầm găng trong tay trái, tay phải vung vẩy, nhưng khuỷu tay không gập. Grigori đứng nghiêm lại. Ông bố đứng sau lưng chàng húng hắng ho. Gió đưa đến trên bãi mùi nước đái ngựa và mùi tuyết tan chưa hết. Mặt trời ghé mắt nhòm xuống như chuếnh choáng hơi men, chẳng có gì vui ve.
Nhóm sĩ quan đứng lại trước mặt gã Cô-dắc bên cạnh Grigori, rồi lần lượt đi tới chỗ chàng.
- Họ, tên?
- Melekhov Grigori.
Tên đặc phái viên quân sự cầm lấy đai lưng chiếc áo ca-pôt, xách lên, ngửi mùi lần chót và đếm qua quít số khâu móc. Một tên sĩ quan khác đeo lon thiếu uý, lấy ngón tay vò vò chiếc quần làm bằng dạ tốt. Tên thứ ba cúi xuống thấp quá, nên gió thổi lật tà chiếc áo ca-pôt của hắn lên. Hắn xục trong cái túi dết. Tên đặc phái viên quân sự dùng ngón tay út và ngón tay cái lần lần những cái đinh bọc trong giẻ, môi lẩm bẩm đếm. Tay hắn đếm dờ dẫm, rụt rè, cứ như phải sờ vào một vật gì nóng.
- Sao chỉ có hai mươi ba cái đinh đóng móng? Như thế nghĩa lý ra sao? - Hắn giận dữ giật góc miếng giẻ.
- Bẩm quan lớn không phải thế, đủ hai mươi tư chiếc đấy.
- Sao, tao có mù đâu?
Grigori luống cuống lật chỗ góc miếng giẻ gập lại, che mất cái đinh thứ hai mươi tư. Mấy ngón tay sần sùi, đen thủi của chàng hơi chạm phải những ngón tay trắng như đường của viên đặc phái viên quân sự. Thằng cha giật phắt tay lại như chạm phải gai. Hắn sát mãi tay vào sườn chiếc áo ca-pôt xám, rồi nhăn mặt ra vẻ khinh bỉ, đi bít-tất tay vào.
Grigori nhìn thấy tất cả. Chàng đứng thẳng lên, mỉm nụ cười cay độc. Cặp mắt hai người gặp nhau. Phía trên gò má tên đặc phái viên quân sự ửng đỏ. Hắn cất cao giọng:
- Mày nhìn cái gì? Mày nhìn cái gì hử, thằng Cô-dắc này? - Má thằng cha có một chỗ cạo bị sướt, đỏ dừ từ trên xuống dưới. - Tại sao các dây thồ để lung tung thế nầy? Mày là một thằng Cô-dắc hay là một thằng mu-gích dép vỏ cây hử? Bố thằng này đâu?
Ông Panteley Prokofievich kéo cương ngựa, tiến lên một bước, đập gót bên chân thọt.
- Lão không hiểu công việc nhà binh ra sao à? - Cơn thịnh nộ của tên đặc phái viên quân sự đổ lên đầu ông già. Hắn đã tức tối khó chịu từ sáng vì thua bài.
Vừa lúc ấy lão ataman quân khu đi tới, tên đặc phái viên quân sự không nói gì nữa. Lão ataman đưa mũi ủng đá vào cái đệm yên, nấc lên một cái rồi bước qua người khác. Viên sĩ quan nhận lính mới cho trung đoàn Grigori đến lục lọi xem xét hết sức cẩn thận tất cả các thứ, không từ cả bên trong bao đồ khâu và là tên cuối cùng rời khỏi chỗ Grigori. Hắn đi giật lùi, lấy lưng che gió hút thuốc.
Hai ngày sau, một đoàn xe lửa rời khỏi nhà ga Cherkovo với những toa sơn đỏ chở lính Cô-dắc, ngựa và rơm đi Lisky - Voronez.
Trong một toa xe, Grigori đứng dựa vào cái máng gỗ cho ngựa ăn. Bên ngoài các cửa xe mở toạng, một cánh đồng phẳng lì, xa lạ, lướt vun vút. Xa xa, một dải rừng xanh biếc, mượt mà, xoay tròn như một chiếc đu quay.
Những con ngựa nhai rơm rau ráu, cứ giậm hết chân nọ đến chân kia vì chúng cảm thấy chỗ đứng luôn luôn lên lên xuống xuống.
Trong xe nặc mùi ngải cứu trên đồng cỏ, mùi mồ hôi ngựa, mùi tuyết tan mùa xuân. Cánh rừng phía xa chập chờn trên đường chân trời, xanh biếc, mơ màng, và cũng không thể với tới được như ngôi sao Hôm thấp thoáng trên trời.
--------------
Tiếp p3a: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2012/10/song-ong-em-em-phan-3a-mikhail-solokhov.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét