Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

Cuộc đời của Pi - Yann Martel (P 6)


Chương 76

Có nhiều kiểu trời. Trời đầy những những đám mây trắng lớn, phẳng, tròn và nở rộng trên đầu. Trời tịnh không một gợn mây, xanh ngăn ngắt đến nỗi các giác quan của ta như bị rạn vỡ hết cả. Trời như một tấm chăn dày nghẹt thở đầy chặt mây xám, mà lại không có tí mưa nào. Trời mỏng dính và u ám. Trời phơ phất những vệt mây trắng nho nhỏ như lông cừu. Trời đầy những dải mây mỏng rất cao trông như thể một cục bông lớn bị kéo ra thành sợi. Trời như một đám mù màu sữa không có gì trong đó. Trời dày đặc những đám mây mưa tối đen và cuồn cuộn trôi qua mà không rơi xuống một hạt nào. Trời được vẽ lên một vài đám mây phẳng bẹt trông như những dải cát. Trời như một mảng phông chỉ để làm nổi bật những hiệu quả thị giác trên chân trời: ánh nắng chan hoà đại dương, các mép viền sáng tối thẳng đứng và rõ rệt. Trời như một tấm màn đen của làn mưa rất xa. Trời là các đám mây tầng tầng lớp lớp, có những đám thật dày và đục, có những đám trông như khói toả. Trời là trận mưa đen ngòm và rát bỏng rơi xuống gương mặt đang cố cười của tôi. Trời chỉ là nước đổ xuống, một trận hồng thuỷ không ngừng làm da tôi nhăn nheo phồng rộp và người tôi lạnh cứng.
Có nhiều loại biển. Biển gầm thét như một con hổ. Biển thì thầm vào tai ta như người bạn rủ rỉ tâm tình. Biển kêu lanh canh như một đồng xu lẻ trong túi quần. Biển sấm sét như những trận đất lở. Biển rít lên như giấy giáp cọ trên mặt gỗ. Biển kêu như người đang nôn mửa. Biển lặng ngắt như chết.
Và ở giữa hai cái đó, giữa trời và biển, là gió và chỉ gió mà thôi.
Rồi còn có đêm, trăng.
Là một kẻ đắm tàu tức là thường trực tại tâm điểm của vòng tròn. Cho dù mọi vật có vẻ như biến động vô cùng – biển từ thì thầm đến gào thét, từ trời xanh ngắt đến trắng xoá rồi đen ngòm – cái hình học kia không bao giờ thay đổi. Cái nhìn ngây dại của ta luôn luôn là đường bán kính mà thôi. Cái vòng tròn đó mãi mãi lớn lao. Mà thực tế là, những vòng tròn còn nhân bản lên nữa. Kẻ bị đắm tàu là kẻ bị mắc cạn trong một màn múa ba lê kì bí của các vòng tròn. Ta là tâm điểm của một vòng tròn, trong khi trên đầu ta, hai vòng tròn đối nghịch cùng đang xoay tít xung quanh. Mặt trời quấy rối ta như một đám đông, một đám đông ồn ào, xô đẩy nhau khiến ta phải bịt tai, nhắm mắt, khiến ta muốn lẩn trốn. Mặt trăng quấy rối ta bằng cách nhắc cho ta nhớ đến tình cảnh cô quạnh của mình, ta mở to mắt để lẩn tránh nỗi cô quạnh đó. Khi ta nhìn lên, đôi khi ta tự hỏi không biết ở tâm điểm của trận bão vũ trụ, hay ở tâm điểm của Biển Yên Bình, liệu cũng có ai như ta, cũng đang nhìn lên, cũng đang mắc cạn bởi thứ hình học này, cũng đang đấu tranh với sợ hãi, giận dữ, điên cuồng, vô vọng và vô tính.
Nếu không thế, thì là một kẻ đắm tàu lại là bị mắc kẹt giữa những đối nghịch lạnh lùng và mệt mỏi. Khi có ánh sáng, cái mênh mang của biển khiến ta mù loà và sợ hãi. Khi không có ánh sáng, bóng tối lại làm cho ta sợ như bị nhốt trong một nơi kín mít. Ban ngày, ta nóng nực và mong được mát mẻ, thèm kem, dội nước biển lên người. Ban đêm, ta rét và quấn hai ba cái chăn không đủ ấm. Khi nắng thì ta khô ran và thèm được ướt. Khi mưa thì ta ướt như chuột lột và chỉ thèm được khô ráo. Khi có thức ăn thì có thừa có thãi ta phải ăn rõ nhiều. Khi đã không có thì tịnh chẳng còn gì và ta phải chịu đói. Lúc biển lặng, ta mong nó động lên. Lúc nó nổi sóng và cái vòng tròn giam hãm ta bị những núi nước bẻ gãy, ta lại phải chịu đựng mọi sự thất thường của biển khơi, ngạt thở vì không gian bao la, và chỉ ước gì biển lặng trở lại. Những đối nghịch thường xảy ra vào cùng một lúc. Khi mặt trời thiêu đốt ta đến mức chỉ có thể ngồi im một chỗ, thì cái nắng thiêu đốt đó cũng đang sấy khô những rẻo thịt cá phơi trên dây và đang ban phước lành cho những chiếc máy cất nước của mình. Ngược lại, khi trời mưa như trút và làm đầy những bình chứa nước ngọt của ta, thì sự ướt át như thế sẽ làm thiu thối những thực phẩm mà ta đã mất công phơi phóng và cất giấu. Khi thời tiết dữ dằn đã qua đi, và ta biết rằng trời biển đã để ta được sống, thì nỗi vui mừng của ta lại nhanh chóng bị tan đi bởi ý nghĩ tiếc hận rằng biết bao nhiêu nước ngọt như thế đã phí phạm rơi xuống biển và bởi một nỗi lo không biết đó có phải là trận dông mưa cuối cùng hay không, rằng liệu ta có chết khát trước khi trời lại mưa trở lại không.
Cặp đối nghịch tệ hại nhất là buồn chán và sợ hãi. Nhiều khi cuộc đời là một chuỗi những chuyển dịch như quả lắc đồng hồ từ cái này sang cái kia. Biển không một gợn sóng. Trời không một gợn gió. Thời gian như vô tận. Ta thấy buồn chán đến mức chìm hẳn vào một tâm trạng vô tình rất gần với bất tỉnh nhân sự. Rồi biển nổi sóng và quất vào các tình cảm của ta như những làn roi và khiến cho chúng phát cuồng. Nhưng ngay cả hai đối nghịch này cũng không tách biệt với nhau. Trong cơn buồn chán cũng vẫn có những yếu tố hãi hùng: ta bật khóc, ta tràn đầy sợ hãi, ta kêu thét, ta cố tình hành hạ bản thân cho đau đớn. Và trong gọng kìm của tình trạng hãi hùng – ví dụ như trong một cơn bão – ta vẫn cảm thấy buồn chán, một nỗi niềm mỏi mệt sâu thẳm về tất cả mọi chuyện.
Chỉ có cái chết là luôn luôn khích động những cảm xúc của ta, cho dù ta nghĩ về nó lúc đang an toàn và yên ắng, hay đang cảm thấy nó khi cuộc sống đang bị đe doạ và trở nên thật quý giá với ta.
Cuộc sống trên một chiếc xuồng không thật sự là cuộc sống. Nó như một ván cờ đang vào kì chung cục, một ván cờ chỉ còn vài quân. Các toan tính không thể nào đơn giản hơn được nữa, và các rủi ro cũng chẳng thể nào cao hơn được nữa. Nó đặc biệt gian khổ về thể xác, và chết chóc về tinh thần. Ta phải điều chỉnh liên tục nếu muốn sống sót, rất nhiều thứ có thể vứt bỏ đi được. Ta chộp lấy cảm giác hạnh phúc bất cứ lúc nào có thể được. Ta như rơi xuống tận đáy địa ngục, nhưng vẫn đứng khoanh tay với một nụ cười trên môi, và cảm thấy ta là người may mắn nhất trên thế gian này. Vì sao? Vì dưới chân ta vẫn có được một con cá chết bé tí xíu.

Chương 77

Ngày nào cũng có cá mập. Chủ yếu là mako và cá mập xanh, nhưng cũng có những con mập đốm trắng chỉ sống ngoài khơi đại dương, và một lần còn có cả một con mập hổ đâm thẳng lên từ chỗ tối tăm nhất của ác mộng. Sáng sớm và chiều tối là thời gian ưa thích nhất của chúng. Chúng không bao giờ thực sự muốn quấy rầy ta. Có lần một con cá mập bơi lên lấy đuôi đập vào vỏ xuồng. Tôi nghĩ không phải là tình cờ. Các con khác cũng làm thế, kể cả rùa và dorado. Chắc hẳn đấy là một cách dò xét xem thực chất cái xuồng là gì. Chỉ một cú rìu giáng xuống mõm là đủ cho một con mập đó vội vàng biến mất xuống đáy biển. Cái phiền chính của cá mập là chúng làm cho việc xuống nước trở thành liều lĩnh và nguy hiểm, như thể đột nhập vào một nơi có biển đề: “Cẩn thận chó dữ”. Ngoại giả việc ấy, tôi rất mến cá mập. Chúng giống những người bạn cũ khó tính chẳng bao giờ thú nhận là có mến tôi nhưng lúc nào cũng lẳng lặng đến thăm. Cá mập xanh nhỏ người hơn, thường không dài quá thước hai hoặc thước rưỡi, và là giống cá mập hấp dẫn nhất, thon thả và nhanh nhẹn, miệng nhỏ và có những khe mang kín đáo. Lưng chúng có màu xanh nước biển rất đẹp và bụng trắng như tuyết, những màu sắc sẽ chuyển thành xám hoặc đen ở các tầng nước sâu khác nhau, nhưng lại rất rực rỡ và hoành tráng khi lên gần mặt nước. Loài mập mako to hơn với những cái miệng đầy nhóc răng nhọn rất đáng sợ, nhưng cũng có màu rất đẹp, một thứ xanh chàm lấp lánh dưới ánh mặt trời. Loài cá mập đốm trắng thường ngắn hơn loài mako – có những con mako dài tới bốn thước – nhưng chúng chắc mình hơn và có những cái vây lưng khổng lồ giương lên trên mặt nước như những lá cờ xung trận di chuyển rất nhanh và bao giờ cũng là một cảnh tượng khiếp đảm. Ngoài ra, chúng có một màu nâu rất xỉn, và những đốm trắng trên vây chúng chẳng có gì hấp dẫn.
Tôi bắt được một số cá mập nhỏ, chủ yếu là mập xanh, nhưng cũng có cả mako. Lần nào cũng là vào buổi chiều tối lúc mặt trời vừa lặn, trong ánh sáng đang lụi tàn, và tôi bắt chúng chỉ bằng tay trần khi chúng vào gần sát chiếc xuồng.
Con đầu tiên cũng là con to nhất, một con mập mako dài hơn một thước hai. Nó đã lẩn quẩn ở mũi xuồng nhiều lần. Khi nó vừa quay trở lại lần nữa, tôi đột ngột thò tay xuống nước và túm được cái chỗ gần đuôi, nơi thon nhỏ nhất của cá. Vì da nó thô nháp nên rất dễ túm chặt, và không nghĩ ngợi gì nhiều, tôi cứ thế kéo nó lên. Nó quẫy, làm tay tôi bị lắc thật dữ dội. Vừa sợ vừa thích thú, tôi nhìn con cá nhảy vọt lên không trung như nổ tung lên từ mặt nước bắn tung toé. Trong giây lát tôi không biết sẽ phải làm gì tiếp theo. Nó nhỏ hơn tôi, nhưng tôi đâu có phải là khổng lồ gì. Thả nó ra chăng? Tôi xoay người vung mạnh nó lên ném về phía đuôi xuồng rồi ngã vật xuống tấm bạt. Con cá rơi thẳng xuống lãnh thổ của Richard Parker. Nó rơi ầm xuống và bắt đầu quẫy mạnh đến nỗi tôi sợ nó sẽ phá hỏng mất chiếc xuồng. Richard Parker giật nảy mình. Nó tấn công ngay lập tức.
Một trận hùng chiến bắt đầu. Với những quan tâm của một nhà động vật học, tôi có thể tường thuật như sau: một con hổ lúc đầu sẽ không tấn công một con cá mập vừa lên khỏi mặt nước bằng hàm mà là bằng móng vuốt hai chân trước. Richard Parker bắt đầu tát con cá. Tôi rùng mình theo mỗi cú tát. Thật kinh khủng. Chỉ một tát đó cũng đủ làm nát xương một con người, đập tan bất kì món đồ đạc nào, và biến một căn nhà thành một đống đổ nát. Con mako quằn quại, lăn lộn và quẫy đuôi loạn xạ, rướn mõm một cách tuyệt vọng, rõ ràng là đau đớn.
Có thể vì Richard Parker không quen thuộc với cá mập, cả đời chưa từng gặp một con cá ăn thịt nào – dù lí do gì đi nữa, thì việc xảy ra tiếp theo đó cũng là một trong số ít trường hợp đã khiến tôi phải nhớ rằng Richard Parker không phải là toàn bích, rằng mặc dù có những bản năng sắc bén, nó vẫn mắc sai lầm như thường. Tự nhiên, nó đút bàn chân trái của mình vào miệng con mako. Con cá mập khoá hàm. Richard Parker lập tức nhảy dựng lên trên hai chân sau. Con cá mập bị kéo giật lên trên, nhưng nó không chịu thua. Richard Parker ngã ngửa xuống sàn, ngoác miệng gầm lên một tiếng xé phổi. Tôi cảm thấy một luồng không khí nóng nổ bùng về phía mình. Không khí rung lên trông thấy, giống như lúc nó bốc lên trên mặt đường trong những ngày nóng bỏng. Tôi có thể tưởng tượng rõ ràng một nơi nào đó cách xa hàng trăm dặm, có một viên gác tàu thủy nhìn lên, giật mình, và sau này báo cáo một hiện tượng lạ, rằng ông ta nghe thấy có tiếng mèo kêu trên biển đến từ phía đông. Tiếng gầm ấy còn rung hết cả màng nhĩ tôi trong nhiều ngày sau. Nhưng cá mập lại điếc, theo như người ta vẫn tưởng. Cho nên trong lúc tôi, kẻ không bao giờ dám nghĩ đến việc cấu chân một con hổ chứ đừng nói đến việc cố nuốt chửng nó, đang run lẩy bẩy và sợ mất mật vì phải hứng một tiếng gầm như núi lửa phụt thẳng vào mặt mình như thế, thì con cá mập chỉ cảm nhận được một rung động rất nhẹ mà thôi.
Richard Parker quay ra cào cấu đầu con cá bằng cái chân trước còn lại và dùng cả miệng cắn xé bụng và lưng. Con cá mập vẫn ngoạm chặt lấy chân con hổ, cách duy nhất vừa để tự vệ, vừa để tấn công, đồng thời quẫy đuôi rất mãnh liệt. Hổ và cá mập quằn quại lăn lộn với nhau. Phải cố hết sức tôi mới làm chủ được cơ thể mình, về được đến bè và thả dây. Chiếc xuồng trôi ra xa. Tôi thấy những nhấp nhoáng màu da cam và xanh sẫm, những lông cùng da, khi chiếc xuồng lắc mạnh bên này bên kia, tiếng gầm thét của Richard Parker thật khủng khiếp.
Cuối cùng chiếc xuồng yên tĩnh trở lại. Nhiều phút sau đó, Richard Parker ngồi dậy và liếm bàn chân trái của nó liên hồi.
Những ngày tiếp theo, nó để rất nhiều thời gian chăm sóc bốn bàn chân của mình. Da con cá mập có những gai nhỏ thô và sắc như giấy nháp. Rõ ràng nó đã bị đứt da khi cố cào xé con cá mập. Bàn chân trái bị thương, song không đến nỗi thành tật; không bị mất ngón nào, móng vuốt còn đủ cả. Còn con mako, trừ phần chóp đuôi và quanh miệng vẫn còn nguyên lành một cách khó hiểu, còn lại là một đám bầy nhầy đã bị ăn mất một nửa. Những mảng thịt xám đỏ và hàng đống ruột gan tung toé khắp xung quanh.
Tôi cũng khều được một ít những gì còn lại của con cá mập, nhưng rồi thất vọng nhận ra rằng dây sống của cá mập không có nước tuỷ. Nhưng ít nhất thì thịt nó cũng ngon và khác hẳn thịt cá khác, sụn giòn tan của nó là một giải lao đầy hứng thú khỏi những đồ ăn mềm nhũn mà tôi vẫn thường phải nuốt.
Sau vụ đó, tôi chỉ nhắm bắt những con cá mập nhỏ hơn thế, gần như là cá con, và tôi tự tay giết chúng. Tôi tìm ra rằng đâm dao vào mắt chúng là cách giết nhanh chóng và nhẹ nhàng hơn nhiều so với dùng rìu bổ vào đỉnh đầu.

Chương 78

Trong tất cả những con dorado, tôi đặc biệt nhớ một con, một con khác thường. Đó là vào sáng sớm một ngày nhiều mây, và chúng tôi đang ở giữa một trận bão cá bay. Richard Parker đang hăng hái bắt cá. Tôi thì đang nấp sau một cái mai rùa. Tôi có một cái lao móc cá với một mảnh lưới treo ở mũi lao, thò ra biển. Tôi đang hi vọng sẽ bắt được cá bằng cách đó. Nhưng vẫn chẳng thấy may mắn cho đến lúc bấy giờ. Một con cá bay vụt qua. Con dorado đang rượt theo nó vọt lên khỏi mặt nước. Một tính toán sai lầm của nó. Con cá bay tí nữa thì mắc vào mảnh lưới của tôi, nhưng vẫn thoát thân, còn con dorado thì đâm vào mạn xuồng như một viên đạn đại bác, ầm một tiếng, rung hết cả xuồng. Một tia máu phun lên tấm bạt. Tôi phản ứng rất lẹ. Tôi rạp người tránh đàn cá bay và với được con dorado trước cả một con cá mập. Tôi kéo nó lên xuồng. Nó đã chết, hoặc gần chết, và đang phát sáng sặc sỡ. Thật là một mẻ lưới ra trò! Hay thật! Tôi cảm thấy rất phấn khởi. Xin cảm ơn các vị thánh thần từ Jesus cho đến Matsya! Con cá béo và nhiều thịt. Nó phải nặng tới hai mươi cân là ít. Đủ nuôi cả một đội quân. Mắt với xương sống nó đủ tưới cả một bãi sa mạc.
Nhưng than ôi, cái đầu vĩ đại của Richard Parker đã quay về phía tôi. Tôi cảm thấy thế từ khoé mắt của mình. Những con cá bay vẫn tiếp tục nhào qua, nhưng Richard Parker không còn thích chúng nữa. Nó đang chỉ chú ý đến con cá trong tay tôi mà thôi. Nó cách tôi khoảng hai mét rưỡi. Miệng nó hé mở một cái cánh cá bay thè lè ra ngoài. Lưng nó cong lên. Mông nó ngoáy. Đuôi nó vẫy mạnh bên này bên kia. Rõ ràng là nó đang phục xuống và chuẩn bị tấn công tôi. Không kịp chạy nữa rồi, không kịp cả thổi còi nữa rồi. Giờ tận số của tôi đã điểm.
Nhưng thế là đủ. Tôi đã khổ quá rồi. Tôi đói. Ngần ấy ngày không có gì ăn là quá đủ rồi.
Và thế là, trong một giây phút mất trí hoàn toàn do đói – bởi lẽ tôi muốn ăn hơn muốn sống – không một phương tiện tự vệ, trần trụi với tất cả ý nghĩa của từ đó, tôi nhìn thẳng vào mắt Richard Parker. Đột nhiên, sức mạnh tàn bạo của nó chỉ nói lên sự yếu ớt về tinh thần mà thôi. Không gì có thể sánh với sức mạnh tinh thần của tôi lúc bấy giờ. Tôi nhìn xoáy vào mắt nó, trợn trừng và thách thức, và chúng tôi đối địch nhau. Người coi thú nào cũng sẽ nói rằng một con hổ, mà bất cứ loài mèo nào cũng thế, sẽ không tấn công khi bị chiếu tướng bằng mắt và sẽ đợi cho đến khi đối thủ, dù là một con hươu, sơn dương hoặc bò rừng, không dám nhìn nó nữa. Nhưng biết thế là một chuyện còn áp dụng vào thực tế lại là một chuyện khác (và biết thế cũng vô ích thôi vì khi ta đang vận hết nội công để nhìn thẳng vào mắt một con sư tử chẳng hạn thì sẽ có con khác đến từ sau lưng!) Trong hai ba giây đồng hồ, một trận chiến tinh thần khủng khiếp đã diễn ra giữa một thằng bé và một con hổ. Chỉ cần một cú nhảy ngắn là nó vồ được tôi. Nhưng tôi đã giữ được luồng mắt của mình.
Richard Parker liếm mũi, rên lên một tiếng và quay đi. Nó giận dữ quật một con cá bay. Tôi đã thắng. Tôi há hốc mồm vì kinh ngạc, bế con dorado lên rồi chuồn về bè. Một lúc sau, tôi ném cho Richard Parker một miếng thịt hậu hĩnh của con cá.
Từ ngày ấy, tôi cảm thấy vai trò ông chủ cùa mình không còn phải nghi ngờ gì nữa, và bắt đấu dần dần tăng thời gian ở trên xuồng của mình lên, đầu tiên là ở mũi xuồng, rồi khi tự tin hơn, ở cả trên mui bạt một cách thoải mái. Tôi vẫn sợ Richard Parker, nhưng chỉ khi nào cần phải sợ mà thôi. Sự có mặt của nó không làm tôi căng thẳng nữa. Người ta có thể quen với mọi thứ trên đời – tôi đã chẳng nói vậy rồi hay sao? Phải chăng kẻ sống sót nào cũng sẽ nói như vậy?
Lúc đầu, tôi nằm trên tấm bạt và gối đầu lên cái mép cuộn lại. Nó hơi cao hơn một chút – vì hai đầu xuồng cao hơn phần giữa xuồng – và tôi có thể để mắt dè chừng Richard Parker.
Về sau tôi nằm quay ngược lại, để đầu ngay phía trên của cái ghế giữa xuồng, lưng quay về phía Richard Parker và lãnh thổ của nó. Trong tư thế ấy, tôi ở xa mép xuồng hơn và tránh được gió với bọt sóng biển nhiều hơn.

Chương 79

Tôi biết chuyện sống sót của tôi rất khó tin. Bây giờ nghĩ lại, chính tôi cũng nghĩ làm lạ.
Việc tôi khai thác được tình trạng say sóng mệt mỏi của Richard Parker không phải là cách giải thích duy nhất. Còn lí do khác khiến tôi sống sót: tôi là nguồn thức ăn và nước uống. Richard Parker đã suốt đời sống trong vườn thú, và đã quen với cuộc sống không phải là làm gì mà vẫn có đồ ăn thức uống. Đúng là khi trời mưa và cả cái xuồng là một cái hứng nước mưa, nó biết nước đó ở đâu mà ra. Hay như khi chúng tôi gặp cá bay, lúc đó vai trò của tôi không rõ ràng. Nhưng những cái đó không làm thay đổi được thực tế của hoàn cảnh: khi nó nhìn ra khỏi mạn xuồng, nó không thấy một khu rừng nào có thể săn mồi, không một con sông nào có thể uống tha hồ khi nó khát. Mà tôi thì mang cho nó đồ ăn và nước uống. Vai trò của tôi là tuyệt đối và đầy phép lạ. Nó làm cho tôi có quyền lực. Bằng chứng ư? Tôi vẫn còn đây để kể chuyện của mình.

Chương 80

Tôi trữ nước mưa và nước thu được từ các máy cất trong tủ trên xuồng, không cho Richard Parker thấy, trong những cái túi nhựa năm mươi lít. Tôi buộc kín chúng bằng dây. Những túi ấy sẽ chẳng quý báu hơn đối với tôi nếu nó chứa đầy vàng, ngọc bích, hồng ngọc hoặc kim cương. Lúc nào tôi cũng lo lắng đến chúng. Cơn ác mộng ghê gớm nhất của tôi là một sáng tỉnh dậy và nhìn thấy chúng bị rò hoặc bị vỡ. Để tránh thảm hoạ đó, tôi lấy chăn bọc chúng lại để khỏi bị chà xát vào vỏ xuồng kim loại, và tôi tránh dịch chuyển chúng để khỏi bị mòn. Nhưng tôi lo nhất là phần cổ chúng. Liệu dây buộc như thế có làm mòn nhựa đi không? Làm thế nào để gắn kín chúng mà không phải dùng dây?
Khi mọi việc thuận lợi, trời mưa to, các túi chứa đầy nước theo mong muốn, tôi đổ đầy cả các cốc tát nước, hai cái xô nhựa, hai cái bình chứa đa năng, ba cái bình đong và những cái hộp nước đã uống hết (tôi đã giữ chúng như những của báu). Sau đó, tôi còn đổ nước vào tất cả các túi nôn, gắn kín chúng bằng cách xoắn nút lại. Chưa xong, nếu trời vẫn tiếp tục mưa, tôi lấy ngay chính mình làm bình chứa. Tôi ngậm cái ống thu của cái hứng nước mưa và cứ thế uống.
Tôi luôn luôn cho thêm một ít nước biển vào phần nước uống cho Richard Parker, tỉ lệ cao hơn một chút trong những ngày mưa và ít hơn một chút khi trời khô hạn. Hồi đầu, có lần nó nhúng cả đầu xuống biển và tợp tợp mấy ngụm, nhưng rồi nó thôi ngay và không uống nước biển như vậy nữa.
Đã như thế rồi mà chúng tôi vẫn thiếu nước. Đó là nỗi lo lắng và chịu đựng thường xuyên trong suốt thời gian khổ nạn của chúng tôi.
Kiếm được bất kì món gì ăn được, Richard Parker cũng được chia sẻ phần nhiều hơn. Tôi không có lựa chọn nào khác. Nó biết ngay lập tức mỗi khi tôi bắt được con rùa, một con dorado, hay một con cá mập, và tôi phải nhanh chóng hậu hĩnh với nó. Có lẽ tôi đã lập kỉ lục thế giới về môn cưa yếm và mai rùa. Còn cá thì ngay khi chúng còn đang quẫy cũng đã bị chặt thành từng miếng. Nếu tôi đã thành bất tri kì vị và tạp thực như thế thì cũng chẳng phải là do đói đơn thuần, mà còn do vội. Nhiều khi tôi không có thời gian để xem mình đang sắp đưa cái gì vào miệng, vì nếu không làm thế ngay thì sẽ mất cho Richard Parker đang gầm gừ và giậm chân sốt ruột ngay bên bờ lãnh thổ của nó. Đến ngày đó, tôi chợt đau đớn và xót xa nhận ra rằng tôi đã ăn như một con vật, tôi đã băng hoại nhân tính, những miếng nhai nuốt ầm ĩ và trợn trạo của tôi đã chẳng khác gì của Richard Parker.

Chương 81

Trận bão từ từ tiến đến vào một buổi chiều. Mây giống như đang vội vã chen nhau chạy trốn gió. Biển nhận ra dấu hiệu hành động. Nó bắt đầu dâng lên hạ xuống khiến cho tim tôi thót lại. Tôi kéo tất cả các máy cất nước và cái lưới về xuồng. Chao ôi, giá như mọi người đều thấy quang cảnh đó! Cho đến tận giờ tôi vẫn còn nhìn thấy những con sóng cao như núi đó. Đúng là những trái núi! Dưới các con sóng ấy, chúng tôi như ở dưới đáy thung lũng tối om. Sườn thung lũng dốc đến mức cái xuồng cứ thế tuột xuống như một cái ván lướt sóng. Cái bè là khổ nhất, bị kéo tung lên khỏi mặt nước và lôi xềnh xệch theo đủ mọi hướng, bắn lên hất xuống đủ mọi kiểu. Tôi thả cả hai cái neo biển ra hết cỡ, dài, ngắn khác nhau để không bị vướng.
Khi trèo lên các con sóng cao ngất ngưởng ấy, chiếc xuồng bám vào hai cái neo biển như một người leo núi bám vào dây. Chúng tôi bị đánh dồn lên rất nhanh cho đến tận đỉnh sóng trắng như tuyết chói loà và đầy bọt khi chiếc xuồng lại bắt đầu chúi xuống. Lúc đó, quang cảnh đột nhiên rõ rệt khắp xung quanh và trải dài hàng nhiều dặm. Nhưng rồi trái núi nước ấy sẽ dịch đi, và chúng tôi sẽ rơi xuống đến quặn ruột. Nhoáng một cái chúng tôi đã ở dưới đáy thung lũng tối om, không phải là cái thung lũng trước đây nhưng cũng hệt như thế, với hàng ngàn tấn nước lơ lửng trên đầu và chỉ có sự mong manh, nhẹ bỗng mới cứu chúng tôi khỏi bị đánh chìm mà thôi. Rồi mọi thứ lại chuyển động, các sợi dây neo lại căng thẳng hết cỡ, và con tàu lộn nhào lại bắt đầu chạy.
Những cái neo biển thả nổi làm nhiệm vụ của chúng rất tốt – hơi quá tốt là đằng khác. Mỗi con sóng dâng chúng tôi lên đến đỉnh đều muốn lật nhào chúng tôi, nhưng hai cái neo, nổi ở bên kia đỉnh sóng, lại dâng lên mạnh mẽ và kéo chúng tôi qua, chỉ phải tội phần trước của xuồng luôn bị chúi xuống. Kết quả là bọt sóng và nước biển bắn lên như bom nổ ở phía mũi xuồng. Tôi bị ướt sũng hết lần này đến lần khác.
Rồi thì một con sóng dâng lên hình như muốn nhất định phải nhấn chìm hẳn xuống nước. Tôi choáng người, lạnh cóng và sợ đến đờ đẫn. Tôi chỉ còn đủ sức bám chặt. Chiếc xuồng chỉ còn đủ sức dìm hẳn xuống nước. Tôi nghe thấy Richard Parker gầm lên hết cỡ. Tôi thấy cái chết đã ở sát cạnh. Lựa chọn duy nhất chỉ là chết bởi nước hay chết bởi con thú kia. Tôi chọn chết vì con thú.
Khi chúng tôi đang tuột theo lưng con sóng, tôi nhảy lên tấm bạt và mở nó ra về phía dưới xuồng, nhốt Richard Parker hẳn vào trong. Nếu nó có phản đối thì tôi cũng chẳng biết. Nhanh hơn cả một cái máy khâu chạy trên tấm vải, tôi móc tấm bạt xuống cả hai bên sườn xuồng. Rồi chúng tôi lại bị sóng dâng lên. Chiếc xuồng nhào lên phía trước rất chắc chắn. Rất khó giữ thăng bằng. Chiếc xuồng bấy giờ đã được tấm bạt bao phủ hết, chỉ trừ chỗ của tôi. Tôi nép người vào giữa cái ghế bên với tấm bạt và kéo đoạn bạt còn lại lên qua đầu. Rất chật. Giữa mặt ghế và mép xuồng chỉ có khoảng ba mươi phân, và cái ghế chỉ rộng chừng bốn mươi lăm phân. Nhưng tôi cũng không ngốc tới mức nhảy xuống sàn xuồng, mặc dù đang đối mặt với tử thần. Còn phải mắc thêm bốn cái móc giữ bạt nữa. Tôi luồn tay qua kẽ hở và kéo sợi dây chằng bạt. Móc được một cái đã khó, cái tiếp theo còn khó hơn. Tôi móc được hai cái. Còn hai cái nữa. Chiếc xuồng đang bị sóng đẩy ngược lên cao, trơn tru và không ngừng. Phải dốc đến ba mươi độ. Tôi thấy mình đang bị lôi tuột xuống phía dưới đuôi xuồng. Điên cuồng xoay tay hết chỗ này chỗ kia, tôi móc được dây chẳng bạt vào cái móc thứ ba. Không thể làm hơn được nữa. Việc đó đáng nhẽ chỉ có thể làm từ phía ngoài. Tôi kéo mạnh sợi dây, cũng là thuận chiều vì việc đó giữ cho tôi khỏi bị văng xuống đuôi xuồng. Chiếc xuồng nhanh chóng vượt qua triền sóng dốc phải đến bốn mươi lăm độ.
Chúng tôi chắc chắn phải dốc đến sáu mươi độ lúc lên đến đỉnh sóng và nhào sang phía bên kia. Một phần nước rất nhỏ của con sóng ập xuống chúng tôi. Tôi cảm thấy như bị một con cá khổng lồ quật ngã. Chiếc xuồng đột ngột chúi về phía trước và mọi thứ đảo lộn hết: tôi thành ra ở phần thấp của xuồng và nước đang tràn ngập vào đó, cùng với một con hổ ướt sũng đang trôi về phía mình. Tôi không cảm thấy con hổ – tôi không có khái niệm rõ ràng Richard Parker đang ở chỗ nào; dưới tấm bạt lúc ấy tối như hũ nút – nhưng trước khi rơi xuống thung lũng tiếp theo thì tôi đã gần như chết đuối.
Đến tận đêm hôm đó, chúng tôi cứ lên lên xuống xuống như vậy cho đến lúc sợ hãi trở thành nhàm chán và bị thay thế bởi tâm trạng đờ đẫn và hoàn toàn phó mặc. Tôi bám lấy sợi dây chằng bạt bằng một tay, tay kia bám vào mép ghế, người nằm bẹp gí trên mặt ghế. Trong tư thế ấy, nước ào vào rồi lại rút ra liên tục – tấm bạt đập tôi nhừ tử, tôi ướt sũng và lạnh cóng, người bầm tím và chảy máu vì bị các mẩu xương và mai rùa cứa phải. Tiếng gào rú của trận bão và gầm thét của Richard Parker không lúc nào ngớt.
Thế rồi đến một lúc trong đêm đó, trí não tôi nhận ra rằng trận bão đã chấm dứt. Chúng tôi dập dềnh trên mặt biển một cách bình thường. Tôi nhìn trời qua một vết bạt rách. Đầy sao và không mây. Tôi chui ra khỏi tấm bạt và nằm lên trên.
Đến rạng ngày hôm sau thì tôi biết mình đã mất cái bè. Mọi thứ còn lại chỉ là hai cái chèo và một cái áo phao chằng ở giữa. Tôi cảm thấy như mình là một người chủ gia đình đang đứng nhìn cây xà gồ duy nhất còn sót lại của ngôi nhà đã bị thiêu cháy của mình. Tôi nhìn sục sạo khắp chân trời. Chẳng thấy gì hết. Cái thị trấn trên biển nhỏ bé của tôi đã biến mất. Lạ lùng thay, hai cái neo biển vẫn còn đó – chúng vẫn được chằng vào chiếc xuồng một cách thủy chung – nhưng chúng chẳng an ủi được tôi. Mất cái bè có thể không nguy hiểm đến phần xác của tôi, nhưng nó làm tử thương phần tinh thần của tôi.
Chiếc xuồng tơi tả thật đáng buồn. Tấm bạt rách nhiều chỗ, và rõ ràng là cũng do Richard Parker đã cào vào nó. Rất nhiều thực phẩm của chúng tôi đã bị mất, chẳng phải bị đánh trôi thì cũng là bị nước ngập ngay trên xuồng. Người tôi đau khắp nơi và bị một vết cắt tương đối sâu ở bẹn, vết cắt đã sưng tấy và trắng bệch. Tôi đã tưởng mình không dám kiểm tra các thứ trong tủ. Tạ ơn Chúa, không có túi chứa nước nào bị vỡ. Cái lưới và những cái máy cất nước mà tôi đã không xịt hết hơi cho bẹp hẳn đã chèn vào các khoảng trống và đệm cho các túi nước kia không bị va đập mạnh.
Tôi kiệt sức và chán nản. Tôi tháo cái bạt ở phần đuôi xuồng. Richard Parker đã im ắng đến mức tôi sợ nó đã chết đuối. Nhưng không phải. Khi tôi cuốn tấm bạt lên đến giữa xuồng và nắng rọi vào nó, nó động đậy, gầm gừ. Nó trèo ra và ngồi lên cái ghế đuôi xuồng. Tôi lấy kim, dây khâu và loay hoay vá các chỗ rách trên tấm bạt.
Sau đó tôi buộc một cái xô vào một sợi dây và tát nước ra khỏi xuồng. Richard Parker nhìn tôi một cách thờ ơ. Có vẻ nó thấy việc gì của tôi cũng nhàm chán. Trời hôm đó thật nóng và tôi làm mọi việc thật chậm chạp. Một cú múc nước làm tôi tìm thấy một thứ đã bị mất. Tôi cầm nó trong tay. Đó là thứ còn lại duy nhất ngăn cách tôi với cái chết: một thứ có màu da cam cuối cùng trên xuồng.

Chương 82

Tôi nằm trên tấm bạt, quấn chăn, ngủ, mơ, dậy, mộng mị, và nói chung là chẳng có việc gì khác. Một làn gió nhẹ đều đặn thổi. Thỉnh thoảng những tia nước từ đỉnh sóng bạc lại bắn lên làm ướt xuồng. Richard Parker đã biến dạng dưới tấm bạt. Nó không ưa bị ướt, cũng như chuyển động dập dềnh của chiếc xuồng. Trời xanh, không khí ấm áp, và biển chuyển mình đều đặn bình thường. Tôi tỉnh dậy vì một tiếng nổ. Tôi mở mắt và thấy nước trên trời. Nó đổ ập xuống tôi. Tôi lại ngẩng lên nhìn. Trời xanh không mây. Lại một tiếng nổ nữa, về phía trái, không mạnh mẽ như tiếng trước. Richard Parker gầm gào dữ tợn. Nước lại ào vào tôi. Nó có mùi khó chịu.
Tôi nhìn qua mép xuồng. Cái đầu tiên tôi thấy là một vật đen sì to lớn đang nổi trên mặt nước. Mất vài giây tôi hiểu ra nó là cái gì. Một vết nhăn hình vòng cung xung quanh mép nó làm cho tôi vỡ nhẽ. Đó là một con mắt. Nó là một con cá voi. Mắt nó to bằng cả đầu tôi, đang nhìn thẳng vào tôi.
Richard Parker từ dưới tấm bạt đi ra. Nó rít lên. Tôi cảm nhận được một sự biến động rất kín đáo trong tia nhìn của con cá voi và biết rằng nó đang nhìn sang Richard Parker. Nó nhìn như thể trong độ ba mươi giây rồi nhẹ nhàng lặn xuống. Tôi đã lo cá voi có thể dùng đuôi quật xuồng, nhưng nó lặn một mạch và biến dạng xuống đáy biển xanh sẫm. Cái đuôi nó là một cái vợt tròn khổng lồ dần dần mờ đi.
Tôi nghĩ cá voi đang tìm bạn. Chắc nó thấy tôi không cùng cỡ với nó, và ngoài ra, có vẻ tôi đã có bạn rồi.
Chúng tôi thấy một số cá voi nhưng không con nào gần như con đầu tiên đó. Tôi thường nghe tiếng chép miệng và phịt nước trước khi nhìn thấy chúng. Thường chúng nổi lên cách một quãng ngắn, có khi ba bốn con một lúc, như một quần đảo núi lửa. Những con vật khổng lồ này luôn luôn nâng đỡ tinh thần tôi. Tôi tin rằng chúng hiểu tình cảm của tôi lắm, hễ nhìn thấy tôi là một con sẽ thốt lên, “Chao ôi! Kia chính là cậu bé đắm tàu với con mèo nhỏ mà Bamphoo đã kể cho tớ nghe. Tội nghiệp chưa kìa. Mong sao cho cậu ấy có đủ tôm riu. Tớ phải bảo cho Mumphoo, Tomphoo và Stimphoo biết mới được. Không biết có con tàu nào quanh đây không để tớ đi báo động cho cậu ấy. Mẹ cậu ấy sung sướng phải biết nếu gặp lại được con. Tạm biết nhé, cậu bé của tớ. Tớ sẽ cố giúp cậu. Tên tớ là Pimphoo”. Và thế là, qua đường thông tin tự nhiên, tất cả cá voi ở Thái Bình Dương đều biết đến tôi, và nhẽ ra tôi đã được cứu rồi nếu Pimphoo không đến kêu cứu với một tàu Nhật Bản và bị họ bắn chết, rồi Lamphoo cũng chịu chung số phận ấy với một con tàu Na Uy. Nghề săn cá là một tội ác tày đình.
Cá heo cũng là những khách thăm tương đối thường xuyên. Một đàn đã ở quanh chúng tôi suốt cả một ngày một đêm. Chúng rất vui vẻ. Chúng lặn, chúng nhảy, chúng rượt đuổi nhau ngay dưới xuồng có vẻ như chẳng có việc gì khác ngoài việc nô giỡn. Tôi đã cố thử bắt một con. Nhưng chẳng có con nào đến gần đủ tầm cái lao. Ngay có đủ tầm đi nữa thì chúng cũng quá nhanh và quá lớn. Tôi bỏ ý định đó và chỉ ngắm nhìn chúng mà thôi.
Tôi thấy cả thảy sáu con chim. Con nào tôi cũng nghĩ là một thiên thần báo hiệu có đất liền ở gần. Nhưng chúng là những loài chim đi biển có thể lượn qua Thái Bình Dương với chỉ một sải cánh mà thôi. Tôi nhìn chúng, sợ hãi, ghen tị và tủi thân.
Đã hai lần tôi được nhìn thấy một con hải điểu chính cống (1). Con nào cũng đang bay rất cao vào không hề lưu ý gì đến chúng tôi. Tôi nhìn chúng, miệng há hốc. Chúng thật sự là cái gì đó siêu nhiên và không thể hiểu được.
Một lần khác, ngay gần xuồng, có hai con chim hải âu pêtren (2) bay lướt qua, chân đập đập trên mặt nước. Chúng cũng không hề để ý đến chúng tôi, và cũng làm cho tôi kinh ngạc không kém.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng thu hút được sự chú ý của một con hải âu đuôi ngắn khác, gọi là loài shearwater, vì khi bay chúng bay đập đầu cánh xuống mặt nước, nhưng cũng thuộc cùng một họ với chim hải âu pêtren. Con này lượn tròn trên đầu chúng tôi, rồi cuối cùng hạ cánh xuống. Nó thò chân, khép cánh và đậu xuống nước, nhẹ nhàng như cái nút chai. Nó nhìn tôi tò mò. Tôi vội vàng mắc mồi bằng một miếng thịt cá bay và quăng dây ra chỗ nó. Không kịp lắp hòn chì nên tôi loay hoay mãi mới cho mồi đến gần được con chim. Nhử nó đến lần thứ ba thì con chim dùng cánh bơi như chèo thuyền đến chỗ cái mồi đang chìm và phấn khích. Tôi để yên thêm vài giây rồi mới giật. Con chim kêu choe choé và khạc ngay miếng mồi ra. Trước khi tôi kịp thử lại lần nữa, nó dang cánh và cất mình lên không trung. Chỉ hai ba cái đập cánh, nó đã rộng đường bay đi mất.
Tôi may mắn hơn với một con chim khoang mặt đen. Nó thình lình hiện ra, lượn về phía chúng tôi, sải cánh dài hàng thước. Nó đậu xuống trên mạn xuồng ngay trong tầm tay của tôi. Cặp mắt tròn xoe của nó hút lấy tôi, vừa ngạc nhiên vừa nghiêm nghị. Đó là một con chim to lớn có tấm thân trắng muốt như tuyết và đôi cánh đen tuyền ở đầu và cạnh. Cái đầu gồ ghề to tướng của nó có một cặp mỏ rất nhọn màu vàng da cam và cặp mắt đỏ giữa khoang mặt đen khiến nó trông hệt như một tên trộm vừa thức trắng một đêm dài. Chỉ có cặp chân rộng có màng màu nâu có vẻ như chưa được thiết kế kĩ lắm. Con chim không biết sợ là gì. Nó đứng ra rỉa lông hàng nhiều phút liền. Lớp lông bên trong của nó thật mềm mại. Khi đã xong, nó ngẩng lên và mọi thứ lại đâu vào đấy, nó lộ nguyên hình là một con tàu không gian có hình khí động học trơn tru tuyệt đẹp. Tôi biếu nó một miếng thịt dorado. Nó nhặt miếng thịt ngay trong tay tôi, mỏ nó đâm vào lòng bàn tay thật dứt khoát.
Tôi bẻ gãy cổ nó bằng cách ấn đầu nó ngửa ra sau, một tay hất mạnh cặp mỏ, tay kia giữ chặt cổ. Lông nó chắc đến nỗi khi tôi vặt lông, da nó bị kéo theo ra soàn soạt. Không phải à vặt lông nữa, mà là xé xác. Nó nhẹ, đúng là để bay lượn, một khối lớn vậy mà không nặng chút nào. Tôi lấy dao lột da nó. Lớn xác nhưng có thật ít thịt, chỉ có một chút ở ngực. Thịt nó nhai sần sật hơn thịt dorado, nhưng vị thì cũng không khác nhiều. Trong bụng nó, ngoài miếng dorado tôi vừa biếu nó, còn thấy có ba con cá nhỏ. Tôi rửa chúng cho hết nhớt rồi chén cả ba. Tôi ăn cả tim, gan, và phổi của con chim. Tôi nuốt cặp mắt và lưỡi nó với một ngụm nước. Tôi đập vỡ sọ nó và nhể những miếng óc nhỏ xíu ra ăn. Tôi ăn cả màng da chân, những gì còn lại của nó chỉ là da, xương và lông. Tôi thả hết xuống cho Richard Parker. Con hổ đã không nhìn thấy con chim lúc nó bay đến. Một bàn chân màu da cam thò ra.
Nhiều ngày sau, lông con chim đã vẫn còn bay lên từ chỗ nằm của Richard Parker và bị gió thổi xuống biển.
Chẳng có con chim nào báo hiệu đất liền.
--------------
Chú thích:
(1) Nguyên văn: albatross, một loài chim biển khổng lồ, sải cánh dài tới gần bốn thước, chân có mạng, thuộc họ Diomedeidae, có thể lượn trên không rất lâu (ND)
(2) Nguyên văn: petrel, một loài chim biển hay bay là là trên mặt nước, nên được đặt theo tên thánh Peter, là người tương truyền đã đi bộ trên mặt nước như chúa Jesus (ND).

Chương 83

Một lần có chớp. Trời đen kịt, ngày giống như đêm. Mưa rất nặng hạt. Tôi nghe thấy sấm rất xa. Tôi tưởng sẽ chỉ như thế. Nhưng rồi gió nổi lên, thổi mưa bay hết chiều này sang chiều khác. Ngay sau đó, một tia lửa trắng xoá từ trời phóng xuống, chọc thủng mặt nước. Chỗ đó cách chiếc xuồng khá xa, nhưng mọi thứ đều nhìn rõ mồn một. Mặt nước bị chọc thủng bởi cái gì đó như mớ rễ cây trắng xoá; và nhoáng một cái, một cái cây nhà trời vĩ đại mọc ngay lên trên đại dương. Tôi đã không khi nào tưởng tượng được chuyện đó – sét đánh xuống biển. Tiếng sấm nổ thật khủng khiếp. Luồng sáng của chớp thật vô cùng sinh động.
Tôi quay sang Richard Parker và nói, “Nhìn kìa, Richard Parker, một tia chớp đấy”. Tôi thấy rõ nó đang ra sao. Nó nằm bẹp dưới sàn xuồng, tứ chi dang rộng và run lẩy bẩy.
Tia chớp đến với tôi lại hoàn toàn khác. Nó là một cái gì đó kéo tôi ra khỏi các nếp sinh tử tầm thường và ném tôi vào một tâm trạng hưng phấn kì diệu.
Thình lình, một tia sét nữa lại đánh xuống, gần hơn. Chắc là chỉ dành cho chúng tôi. Chúng tôi vừa rơi từ trên đỉnh một ngọn sóng xuống và đang chìm trên lưng con sóng thì ngọn sét đánh thẳng xuống đầu sóng. Một vụ nổ của khí nóng và nước nóng. Trong hai hoặc ba giây gì đó, tấm kính khổng lồ của một chiếc cửa sổ vũ trụ vỡ vụn ra trên không trung trắng loá đến mù mắt, vô vật thể nhưng mạnh mẽ đến nỗi choáng ngợp. Mười ngàn cái kèn trom-pét và hai chục ngàn bộ trống cũng không thể gây nên được một âm thanh lớn lao đến thế của ngọn sét. Nó thực sự điếc tai. Biển trắng loá và không còn màu sắc gì nữa. Mọi thứ chỉ là thuần trắng chói loà hoặc thuần đen tối mịt. Luồng sáng ấy chiếu sáng thì ít mà xuyên thủng thì nhiều. Thế rồi cũng đột ngột như thế, tia sét biến mất. Nó biến mất ngay khi những tia nước nóng bỏng kia còn đang tiếp tục rơi xuống chúng tôi. Ngọn sóng bị trừng phạt kia lại đen ngòm trở lại và tiếp tục lồng lộn như không có chuyện gì đã xảy ra.
Tôi ngây người, đúng là bị sét đánh, theo gần với nghĩa đen của từ đó. Nhưng tôi không thấy sợ.
“Chúng con xin ca ngợi đức Allah, Chúa tể của mọi thế giới, đấng trị vì từ bi và đầy thương khó của ngày phán xử cuối cùng!” Tôi lẩm nhẩm. Rồi quay sang Richard Parker, tôi quát lên: “Không được run lẩy bẩy như vậy nữa! Đó là phép lạ. Là sự bùng nổ thiêng liêng. Là… Là…”. Tôi không biết nó là gì nữa. Nó quá lớn lao và kì diệu. Tôi đã cạn lời và hết hơi. Tôi nằm vật xuống tấm bạt, chân tay dang rộng. Mưa lạnh thấu xương. Nhưng tôi mỉm cười. Tôi nhớ lại lần chạm trán với thiên điện đó như một trong những dịp hạnh phúc hiếm hoi và đích thực mà tôi đã có trong suốt cuộc hành trình khổ nạn ấy.
Trong những giây phút diệu kì, người ta dễ tránh được những ý nghĩ nhỏ nhen, và chỉ ân hưởng những tư tưởng bao trùm cả vũ trụ, nó thâu tóm cả sấm sét và những tiếng tích tắc, dày và mỏng, gần và xa.

Chương 84

“Richard Parker, một con tàu!”.
Tôi đã có niềm khoái cảm được hét lên như vậy một lần. Tôi đã choáng ngợp trong hạnh phúc. Mọi đớn đau, bực dọc tan biến hết và tôi thực sự bốc lửa vì vui mừng.
“Chúng ta thắng rồi! Chúng ta sống rồi! Mày có hiểu không Richard Parker? Chúng ta sống rồi! Ha, ha, ha, ha!”
Tôi cố gắng kiềm chế sự phấn khích của mình. Nhỡ con tàu đi ngang quá xa và không nhìn thấy chúng tôi thì sao? Có nên phóng một quả pháo sáng thăng thiên không? Vô lí!
“Nó đang đi thẳng về phía chúng ta kìa, Richard Parker! Chao ôi, con xin tạ ơn ngài, vị chúa tể Ganesha! Phước thiện thay là sự hiện diện của ngài, dù ở hình thức nào cũng vậy, con xin tạ ơn đấng Allah – Brahman!” (1).
Nó không thể không thấy chúng tôi. Có hạnh phúc nào lớn hơn niềm vui được cứu sống? Câu trả lời là, hãy cứ tin tôi đi, không có cái gì như thế cả. Tôi đứng phắt dậy. Đã lâu lắm rồi tôi mới đứng hẳn dậy như thế.
“Mày có tin được không hả Richard Parker? Có người, có đồ ăn, một cái giường. Chúng ta lại có cuộc sống rồi. Chao ôi, có gì vui hơn thế nữa?”
Con tàu đến gần hơn. Trông nó như một tàu chở dầu. Hình dáng mũi tàu đã thấy rõ. Thần cứu mạng đang đến trong một chiếc áo choàng màu đen có viền trắng.
“Nhưng nhỡ ra…?”
Tôi không dám nói tiếp. Nhưng liệu có thể có khả năng là cha, mẹ và Ravi vẫn còn sống hay không? Tàu Tsimtsum có nhiều xuồng cứu nạn. Biết đâu họ đã đến Canada mấy tuần trước rồi và đang nóng lòng chờ tin tức của tôi. Biết đâu tôi là người duy nhất trên chiếc tàu đắm đó còn đang mất tích.
“Lạy Chúa, tàu dầu to thật!”
“Biết đâu họ đã đang ở Winnipeg. Ta tự hỏi ngôi nhà của chúng ta  trông ra sao. Này Richard Parker, mày có nghĩ là nhà cửa ở Canada có sân bên trong như truyền thống vùng Tamil của ta không? Có thể không? Có thể vì nếu vậy thì mùa đông tuyết sẽ chất đống ngoài sân. Đáng tiếc thật. Không có bình yên nào giống như một cái sân trong nhà vào một ngày nắng đẹp. Không biết ở Manitoba người ta trồng được các loại hương liệu gì?”
Con tàu đã đến rất gần. Họ phải dừng hoặc lái tránh chúng tôi ngay mới phái.
“Phải đấy, không biết có hương liệu gì nhỉ…? Lạy Chúa tôi!”
Tôi kinh hoàng nhận ra rằng con tàu dầu không những đang đi về phía chúng tôi – mà nó đang thực sự đâm sầm vào chúng tôi. Mũi tàu là cả một bức tường kim loại cứ to lên trông thấy từng giây một. Một đợt sóng bao quanh nó đang ào về phía chúng tôi không gì ngăn cản nổi. Richard Parker cũng cảm thấy điều gì sắp xảy ra. Nó quay lại sủa nhặng lên, nhưng không như chó sủa, mà là hổ sủa: rất mạnh mẽ, đáng sợ, và hoàn toàn đúng với hoàn cảnh lúc đó.
“Richard Parker, nó sẽ đâm chìm chúng ta mất. Làm gì bây giờ? Mau lên, mau lên, pháo sáng đâu rồi? Không! Phải chèo thôi! Mái chèo ở sẵn đây rồi phải không? Chèo đi! Dô ta! Dô ta! Dô ta! Dô ta!...”
Sóng từ mũi con tàu đánh dạt chúng tôi lên cao. Richard Parker chúi người, lông dựng ngược. Cái xuồng trôi tuột khỏi con sóng ấy và trượt khỏi con tàu chỉ khoảng sáu mươi phân.
Con tàu lừ lừ đi qua, như một vách núi đen sì ngất ngư hàng dặm lên trời, hàng dặm tường pháo đài mà không có một trạm gác nào để họ có thể nhìn thấy chúng tôi đang ngắc ngoải dưới hào sâu ngay cạnh. Tôi đốt một quả pháo sáng thăng thiên, nhưng lại nhắm trượt hướng. Đáng lẽ phải bay ngang qua boong tàu và nổ sáng lòa mắt thuyền trưởng, nhưng nó lại đâm bổ ngay vào sườn tàu và rơi tõm xuống Thái Bình Dương rồi xịt ngóm. Tôi lấy hết sức bình sinh rồi thổi còi, gào thét, nhưng chẳng có tác dụng gì.
Con tàu cứ thế quạt nước lướt qua chúng tôi, máy nổ rầm rầm và chân vịt xoay như súng liên thanh nổ dưới nước, bỏ mặc chúng tôi bập bõm, dập dềnh trong đám bọt sóng nó để lại đằng sau. Sau bao nhiêu tuần chỉ nghe âm thanh thiên nhiên, những tiếng động cơ đó thật lạ lùng và đáng sợ đến nỗi tôi cứ đứng chết lặng tại chỗ.
Chưa đầy hai mươi phút sau, con tàu ba trăm ngàn tấn chỉ còn là một cái chấm ở chân trời. Khi tôi quay đi chỗ khác, Richard Parker vẫn còn nhìn theo hướng đó. Vài giây sau, nó cũng quay đi và mắt chúng tôi gặp nhau. Trong mắt tôi lúc ấy đầy rẫy mong mỏi, đau đớn, khổ não và cô đơn. Nó chỉ có thể biết rằng một điều gì đó rất buồn và lớn lao đã vừa xảy ra, một điều gì đó mà nó không thể hiểu được. Nó không thể thấy rằng chúng tôi đã vừa lỡ mất cơ hội được cứu sống. Nó chỉ thấy rằng con thú đầu đàn ở đây, cái con hổ lạ lùng và khó đoán biết này, đã vừa rất phấn khích. Nó đi ngủ. Cả một sự kiện như vậy, nó chỉ bình phẩm bằng một tiếng meo tỉnh bơ.
“Ta yêu mày biết bao!” Những lời ấy buột khỏi miệng tôi, tinh khiết, chân thành, vô biên. Cảm giác ấy tràn ngập lồng ngực tôi. “Thực là thế. Ta yêu mày biết bao, Richard Parker. Nếu không có mày lúc này, không biết ta sẽ làm gì đây. Chắc ta sẽ không sống nổi đâu. Đúng thế. Ta sẽ chết vì tuyệt vọng mất. Đừng bỏ cuộc. Richard Parker, đừng bỏ cuộc. Ta sẽ đưa mày về đất liền, ta thề như vậy đấy!”.
-----------
Chú thích:
(1) Độc giả để ý Pi tôn vinh vị thần của đạo Hindu và Hồi giáo, Allah là Thượng Đế của đạo Hồi, Brahman là Thượng Đế của đạo Hindu (ND)

Chương 85

Một trong những phương cách trốn chạy thực tại ưa thích của tôi là tự làm cho mình rơi vào tình trạng yếm khí nhẹ. Tôi dùng một mảnh vải cắt ra từ cái chăn đã rách tã. Tôi gọi nó là miếng giẻ mơ mộng. Tôi nhúng nó xuống biển cho ướt hết nhưng không quá sũng đến mức rỏ ròng ròng. Tôi nằm thật thoải mái lên mui bạt và đắp miếng giẻ ấy lên mặt, sao cho thật khít vào mắt, mũi mồm. Và tôi sẽ rơi vào một trạng thái đê mê. Điều này thực ra không khó đối với một người đã thường xuyên ở trạng thái lờ đờ mệt mỏi. Nhưng miếng giẻ mơ mộng rõ ràng đã cho trạng thái đê mê của tôi một phẩm chất đặc biệt. Có thể vì cách nó hạn chế lượng không khí tôi thở. Tôi sẽ chìm vào những giấc mơ khác thường, những mê đắm, ảo ảnh, ý nghĩ, cảm xúc và kí ức khác thường. Và thời gian sẽ qua rất nhanh. Khi một cử động hoặc một cái ngáp vì ngạt hơi làm tôi tỉnh giấc và miếng giẻ ấy tuột đi, tôi tỉnh táo và mừng rỡ thấy thời gian đã qua thật nhanh. Thật như vậy, vì miếng giẻ đã khô gần hết. Nhưng hay hơn nữa là cảm giác mọi thứ đã khác đi, rằng cái giây phút hiện nay khác với các giây phút trước đó.

Chương 86

Có một hôm chúng tôi gặp rác. Lúc đầu, nước biển lóng lánh lên vì những mảng dầu loang. Rồi sau đó là những rác thải công nghiệp và sinh hoạt: chủ yếu là các thứ bằng nhựa đủ mọi hình dạng và màu sắc, nhưng cũng có cả các mảnh gỗ, hộp bia, chai rượu, những mảnh vải, những đoạn dây, và xung quanh chính là những đám bọt vàng vọt. Chúng tôi trôi thẳng vào chúng. Tôi tìm xem có cái gì có thể dùng được chăng. Tôi nhặt một chai rượi vang đã cạn có nút chai. Cái xuồng đâm phải một cái tủ lạnh đã mất động cơ. Tôi với tay nắm cửa và kéo nó mở ra. Cái tủ lạnh phả ra một thứ mùi khẳn và kinh tởm nồng nặc đến mức không khí như biến hẳn màu. Lấy tay bịt mũi, tôi nhìn vào bên trong. Nhem nhuốc những vết bẩn, nước quả đã đen lại, một đống rau quả đã thối rữa hoàn toàn, sữa đã quánh hết và nhiễm khuẩn đến mức thành ra một thứ nhầy nhụa xanh lè, và cả một phần tư một con vật gì đó đã thối rữa đen đủi đến mức không thể nhận ra là thịt con gì. Với kích cỡ ấy thì chỉ có thể là thịt cừu. Bên trong cái tủ đóng kín và ẩm ướt ấy, cái mùi thối rữa kia đã có thời gian lên men, cay đắng và giận dữ. Nó xộc vào các giác quan của tôi như một cơn cuồng, bụng quặn đau và hai chân mềm nhũn ra. May sao, nước biển nhanh chóng tràn vào cái tủ và nhấn chìm nó. Rác rưởi khác lập tức tràn tới lấp kín chỗ trống ấy trên mặt nước.
Chúng tôi đã qua khỏi vùng ngập rác. Rất lâu về sau, khi có gió thổi từ phía đó lại, tôi vẫn còn ngửi thấy mùi hôi thối ấy. Phải mất một ngày, những vết dầu bám vào mạn xuồng mới được biển rửa sạch.
Tôi đút một bức thông điệp vào trong cái chai:
“Tàu chở hàng Tsimtsum của Nhật Bản, treo cờ Panama, đắm ngày 2 tháng 7 năm 1977 trên Thái Bình Dương, bốn ngày sau khi rời Manila. Tôi đang ở trên xuồng cứu nạn. Tên tôi là Pi Patel. Có một ít thức ăn và nước uống, nhưng vấn đề nghiêm trọng là hổ Bengal. Làm ơn báo tin cho gia đình ở Winnipeg, Canada. Xin cảm tạ nếu được giúp đỡ dưới bất kỳ hình thức nào. Cảm ơn.”
Tôi đóng cái nút chai, bọc thêm ra ngoài một mảnh vải nhựa. Tôi dùng dây nylon buộc túm chặt cái mảnh vải nhựa ấy vào cổ chai, rồi thả cái chai xuống biển.

Chương 87

Cái gì cũng gian nan hết. Cái gì cũng bị nắng chiếu đốt đến trắng nhợt và mưa gió vùi dập tả tơi. Chiếc xuồng, cái bè cho đến khi nó tan rã, tấm bạt mui xuồng, những cái máy cất nước, cái hứng mưa, những cái túi nhựa, những sợi dây, những cái chăn, cái lưới – tất cả đều sờn rách, hao mòn, căng nhão ra, chùng lỏng xuống, nứt vỡ, khô nẻ, mủn nát, tả tơi, bạc phếch. Cái gì nhẵn nhụi thì thành thô nhám. Cái gì sắc thì cùn đi. Lành lặn thì ra nát bấy. Tôi đã lấy da cá và mỡ rùa xoa xát lên chúng như thể bôi dầu trơn và bảo vệ, nhưgn chẳng ăn thua gì. Muối tiếp tục ăn mòn tất cả với hàng triệu triệu cái mõm tham lam của nó. Còn mặt trời thì nướng cháy tất cả mọi thứ. Nó phần nào khuất phục Richard Parker. Nó cạo sạch xương và đốt chúng đến trắng hếu. Nó đốt hết quần áo tôi và có thể đã đốt trụi da dẻ tôi rồi nếu như tôi không tự vệ bằng cách chui xuống chiếc chăn hoặc mai rùa. Khi nóng không chịu nổi, tôi lấy xô múc nước biển dội lên người. Có những lúc nước nóng đến mức cảm thấy nó đặc như siro. Mặt trời cũng tiêu diệt hết các thứ mùi. Tôi không nhớ được một thứ mùi gì. Hình như chỉ nhớ cái mùi của vỏ pháo sáng cầm tay. Chúng có mùi như mùi một thứ hạt cay làm gia vị, tôi đã nhắc đến chuyện này rồi. Đến Richard Parker mà tôi cũng chẳng nhớ được là nó có mùi gì nữa.
Chúng tôi chết dần chết mòn. Nó diễn ra chậm chạp, nên không phải lúc nào tôi cũng để ý thấy. Nhưng hễ đã để ý là tôi thấy ngay. Chúng tôi là hai con vật thuộc loài có vú gầy xác, khô cháy và đang chết đói. Lông Richard Parker đã mất vẻ bóng mượt, thậm chí đã trụi thùi lụi nhiều chỗ ở vai và mông. Nó sụt cân thảm hại, chỉ còn là bộ xương trong một cái túi da thùng thình bạc màu. Tôi cũng đã héo quắt mất rồi, khô kiệt mất rồi, và xương xẩu lòi ra thảm hại qua làn thịt mỏng dính còn lại trên người.
Tôi bắt đầu bắt chước Richard Parker ngủ thật nhiều. Nhưng đâu có ra ngủ, mà chỉ là một trạng thái nửa tỉnh nửa mê, mộng mị và thực tế gần như không thể phân biệt được. Tôi dùng đến miếng giẻ mơ mộng của mình rất nhiều.
Sau đây là những trang nhật ký cuối cùng của tôi:

Hôm nay thấy một con cá mập to hơn tất cả những con đã thấy từ trước đến nay. Một con quái vật cổ đại dài sáu thước. Có sọc. Một con cá mập hổ – rất nguy hiểm. Cứ bơi quanh mãi. Chỉ sợ nó tấn công. Đã sống sót với một con hổ rồi; chắc sẽ chết vì con hổ khác. Nó không tấn công. Bơi đi rồi. Trời nhiều mây, còn thì chẳng có gì.

Không mưa. Chỉ có sáng là sầm sì. Cá heo. Cố móc một con. Hoá ra mình không thể chịu đựng được khi thấy R.P. ốm và bẳn tính. Mình ốm quá. Nếu nó tấn công chắc sẽ không thể tự vệ được. Đến thổi còi thôi mà cũng không còn sức nữa.

Ngày lặng và nóng như thiêu. Nắng dã man. Thấy óc như sôi lên trong đầu. Thấy chán nản cực độ.

Cả thể xác và linh hồn đều quỵ rồi. Sắp chết. R.P. còn thở nhưng không động cựa. Cũng sẽ chết thôi. Sẽ không giết mình.

Cứu rỗi. Một tiếng liền mưa to, thật ngon, thật đẹp. Đổ nước đầy mồm, đầy các túi và hộp, uống đến khi không thể thêm một giọt nào vào người được nữa. Mặc kệ cho ướt sũng người để rửa sạch muối. Bò ra xem R.P. ra sao. Không phản ứng gì. Nằm cuộn tròn, đuôi duỗi thẳng. Da nổi cục vì ướt. Lúc ướt trông nó nhỏ hơn. Xương xẩu. Sờ vào người nó lần đầu tiên trong đời. Xem đã chết chưa. Chưa. Vẫn thấy ấm. Sờ nó lạ thật. Thảm hại như vậy rồi mà nó vẫn chắc, đầy cơ bắp, sống động. Chạm vào lập tức thấy da nó rung động, như thể mình là một con nhặng đốt vào nó. Mãi sau mới thấy đầu động đậy, vẫn ngập một nửa dưới nước. Thà uống nước còn hơn chết đuối. Dấu hiệu tốt: đuôi dựng lên. Ném một miếng thịt rùa vào trước mũi. Chẳng thấy gì. Mãi mới thấy nó nhỏm lên, uống nước. Uống mãi. Ăn. Không nhỏm hẳn dậy. Cả tiếng đồng hồ chỉ liếm láp khắp người. Lại ngủ.

Chẳng ích gì. Hôm nay ta chết.
Ta sẽ chết hôm nay.

Ta chết.

Đó là đoạn cuối cùng. Từ đó, tôi vẫn sống, chịu đựng, nhưng không biết là như vậy. Có những nét xoáy ốc bên lề trang giấy. Tôi cứ tưởng sẽ bị hết giấy. Nhưng lại hết mực.

Chương 88

Vừa hoa hoa tay trước mặt nó, tôi vừa nói: “Richard Parker, mày làm sao thế? Mày bị mù rồi ư?”
Một hai ngày vừa qua nó đã dụi mắt liên hồi và rên rẩm có vẻ rất khó chịu, nhưng tôi không để ý. Khẩu phần hàng ngày của chúng tôi chỉ có nhiều nhất là ê ẩm và đau đớn. Tôi đã bắt được một con dorado. Chúng tôi đã không ăn gì trong ba ngày rồi. Một con rùa đã đến gần xuồng hôm trước, nhưng tôi yếu quá không kéo nó lên được. Tôi đã cắt con cá làm đôi. Richard Parker đang nhìn về phía tôi. Tôi đã ném phần của nó sang. Cứ tưởng nó sẽ ngoạm ngay một cách khôn khéo. Nhưng miếng cá rơi toẹt ngay vào mặt nó. Nó cúi xuống. Sau khi ngửi trái, ngửi phải, nó tìm thấy miếng cá và bắt đầu ăn. Giờ thì chúng tôi đều ăn chậm cả.
Tôi nhìn vào mắt nó. Không thấy có gì khác mọi hôm. Có vẻ như có nhiều dử mắt hơn một chút ở khóe trong, nhưng chẳng có gì đáng giật mình, chắc chắn là chẳng có gì đáng giật mình hơn là bộ dạng chung của nó. Gian truân đã làm cho chúng tôi chỉ còn da bọc xương. Tôi nhận ra rằng nó đã trả lời tôi bằng chính cách nhìn của nó. Tôi đang soi mói thẳng vào mắt nó như một bác sĩ nhãn khoa, còn nó thì cứ trân trân nhìn lại tôi một cách trống rỗng. Chỉ có một con hổ mù mới không có phản ứng gì với một tia nhìn như của tôi.
Thương thay cho Richard Parker. Ngày tận số của cả nó và tôi sắp đến rồi.
Hôm sau, tôi bắt đầu thấy ngưa ngứa ở cả hai mắt. Tôi dụi lấy dụi để, nhưng không bớt ngứa chút nào. Ngược hẳn lại, càng thấy ngứa hơn, và không như Richard Parker, hai mắt tôi bắt đầu phát mủ. Rồi thì tối đen hết cả, mắt chớp như máy vậy. Lúc đầu nó ở ngay trước mắt tôi, một chấm đen ở giữa tất cả mọi vật. Nó lan thành một vết to bao trùm hết cả nhãn trường. Sáng hôm sau, mặt trời chỉ còn một vết sáng leo lét ở phía trên của mắt trái tôi, như một cái cửa sổ ở quá cao. Đến trưa thì mọi thứ đen ngòm hết.
Tôi bám chặt lấy sự sống. Tôi cuống cuồng một cách mỏi mệt. Trời nóng như trong lò lửa. Tôi yếu sức đến mức không thể đứng lên được nữa. Môi tôi khô cứng và nứt toác. Mồm miệng khô ran như phải ngậm đầy bột, lót bởi một thứ nước bọt đặc quánh như hồ và hôi hám kinh khủng. Da dẻ bỏng rộp. Cơ bắp quắt queo đau nhức. Tay chân, đặc biệt hai bàn chân, sưng vù và luôn luôn đau đớn. Tôi đói, và lại một lần nữa không có thức ăn gì. Còn nước thì Richard Parker đã uống nhiều đến mức tôi chỉ còn được năm thìa mỗi ngày. Nhưng cái đau đớn thể xác ấy chẳng là gì so với cuộc tra tấn tinh thần mà tôi sắp phải chịu đựng. Tôi sẽ đánh dấu cái ngày tôi bị mù ấy là khởi đầu của những đau khổ ghê gớm nhất của tôi. Tôi không thể chắc chuyện đó xảy ra lúc nào. Như tôi đã nói, thời gian đã không còn có liên hệ gì nữa. Chắc là vào quãng giữa ngày thứ một trăm và ngày thứ hai trăm gì đó. Lúc ấy tôi đã nghĩ mình sẽ không thể sống thêm được một ngày nào nữa.
Đến sáng hôm sau thì tôi không còn sợ chết một tí gì nữa và tôi quyết định chết.
Tôi đã đi đến một kết luận đáng buồn rằng tôi không thể chăm sóc Richard Parker được lâu hơn nữa. Tôi đã thất bại trong vai trò một người nuôi thú. Tôi lo cho cái chết sắp đến của nó còn hơn của tôi. Nhưng quả thật, kiệt quệ và suy sụp như tôi lúc bấy giờ, tôi chẳng thể làm gì hơn cho nó.
Thiên nhiên nhanh chóng chìm xuống. Tôi có thể cảm thấy cái chết đang bò dần lên. Để được chết một cách thoải mái hơn, tôi quyết định không chịu khát lâu hơn nữa. Tôi uống đã nước thì thôi. Giá mà tôi có một miếng gì đó để ăn lần cuối cùng trước khi ra đi. Nhưng có vẻ sẽ chẳng có gì để ăn cả. Tôi dựa vào chỗ mép cuộn lên của tấm bạt ở giữa xuồng. Tôi nhắm mắt lại và chờ cho hơi thở cuối cùng của mình rời khỏi thân thể. Tôi lẩm bẩm: “Vĩnh biệt nhé, Richard Parker. Xin lỗi vì phải bỏ mày mà đi. Ta đã cố hết sức rồi. Vĩnh biệt cha thân yêu, mẹ thân yêu, Ravi thân yêu. Con xin chào mọi người. Đứa con và đứa em trai yêu dấu đang đến với mọi người đây. Không có giờ phút nào trôi qua mà con không nghĩ đến mọi người. Gặp lại được mọi người sẽ là giờ phút hạnh phúc nhất của con. Còn bây giờ, con xin trao tất cả vào tay Thượng Đế, Ngài là Tình Yêu và là người con yêu dấu.”
Tôi nghe thấy tiếng người:
- Có ai ở đó không?
Đang một mình trong cõi tăm tối của tâm trạng hấp hối mà nghe thấy như vậy thì thật là hoảng hốt. Âm thanh vô hình và vô sắc nghe rất xa lạ. Nhưng khi mù thì người ta lại thính tai.
Tiếng nói ấy lại vang lên:
- Có ai ở đó không?
Tôi kết luận mình đã phát điên. Thảm nhưng mà thật thế rồi. Đau khổ cần có bạn đồng hành, và điên rồ liền chạy đến với nó.
- Có ai ở đó không? - Tiếng nói lại cất lên, khẩn khoản.
Sự mạch lạc trong cơn điên của tôi thật đáng kinh ngạc. Tiếng nói ấy có âm sắc riêng của nó, với một giọng điệu nặng nhọc và mệt mỏi. Đã vậy, tôi cứ chơi theo xem sao.
- Tất nhiên là có,- tôi đáp.- Lúc nào chả có ai đó ở ngoài kia. Nhưng ai mà lại hỏi như vậy nhỉ?
- Ta đang hi vọng sẽ có ai khác kia.
- Ngươi nói thế nghĩa là sao, có ai khác là thế nào? Ngươi có biết người đang ở đâu không? Nếu người không thích câu chuyện mơ mộng huyễn hoặc này của mình thì hãy chọn câu chuyện khác đi. Thiếu gì cách huyễn hoặc cơ chứ.
Hừm. Câu chuyện mơ mộng. Mơ-mộng. Giá mà có một quả mơ thì hay biết bao.
- Vậy là không có ai cả, có phải không?
- Im nào… ta đang ước có một quả mơ.
- Mơ à! Ngươi đang có mơ sao? Cho ta một quả được không? Hãy cho ta đi. Chỉ một quả nhỏ thôi. Ta đang thèm quá. (1)
- Không phải chỉ có một quả mơ! Ta có cả một chùm mơ mộng đấy!
- Cả một chùm mơ ư! Làm ơn hãy cho ta một quả thôi. Ta…
Giọng nói, hoặc chỉ là một huyễn hoặc do gió và sóng gây ra, bỗng nhỏ đi và biến mất.
- Mơ của ta mọng, tròn trịa và thơm biết bao,- tôi tiếp tục.- Cành lá của cây ấy trĩu xuống vì quả mới sai làm sao. Trên cây phải có đến ba trăm quả chứ không kém.
Im lặng.
Giọng nói lại cất lên.
- Mình nói chuyện ăn uống đi…
- Một ý kiến hay đấy.
- Ngươi sẽ ăn món gì nếu ngươi có tất cả mọi món ăn ngươi thích?
- Hỏi hay đấy. Ta sẽ có một bữa gồm nhiều món tự ta chọn. Ta sẽ bắt đầu bằng cơm trắng với bột sambar (2). Sẽ có cơm gạo lứt, cơm đậu phụ và…
- Còn ta thì…
- Ta đã nói xong đâu. Ta còn lấy thêm các món rau trộn có me chua tẩm ớt, món trộn với hành củ nhỏ, rồi…
- Rồi món gì nữa?
- Từ từ đã nào. Ta sẽ còn ăn đủ các món rau trộn khác có cà chua, có cải bắp, có thì là tẩm hạt tiêu, rồi thì…
- Ra thế.
- Gượm đã. Còn các món nem cuốn, nước sốt dừa, cơm thập cẩm, đậu phụ chiên chay và…
- Nghe rất là…
- Ta đã nhắc đến món nước sốt chua ngọt chưa nhỉ? Sốt dừa và sốt bạc hà trộn với muối giòn và dâu muối chua, ăn với bánh đa đủ loại, tất nhiên rồi.
- Nghe thật là…
- Các món salát chính hiệu nữa! Salát đậu phụ với xoài, salát đậu phụ ngâm và salát dưa chuột tươi để nguyên không muối tẩm gì hết. Còn tráng miệng thì có bánh hạnh nhân, bánh sữa, bánh tráng, kẹo lạc, kẹo dừa với kem vani ăn cùng với nước sôcôla thật nóng và thật đặc.
- Thế là hết đấy à?
- Ta sẽ kết thúc bữa ăn đó với mười lít nước thật lạnh, thật mát, thật trong lành, và một cốc cà phê.
- Nghe rất là ngon.
- Ngon qua đi chứ lại.
- Hãy nói cho ta hay, nước sốt dừa nấu ra sao ấy nhỉ?
- Đó thực sự là một món tuyệt ngon. Cần có khoai nước này, cùi dừa nạo này, hẹ tươi này, ớt bột này, hạt tiêu đen xay rồi này, các thứ hạt cay này, hạt cải nâu này, và một ít dầu dừa. Ta đảo cùi dừa trên chảo thật nóng cho đến lúc nó ngả thành màu nâu vàng…
- Ta góp ý một tí có được không?
- Cái gì cơ?
- Thay vì làm món sốt dừa ấy, sao lại không luộc một cái lưỡi bò với sốt mù-tạt?
- Cái đó không phải là món chay rồi.
- Tất nhiên. Xong rồi luộc cả cỗ lòng lên nữa.
- Trời đất! Ngươi đã chén cả lưỡi của con vật tội nghiệp rồi, bây giờ lại muốn ăn cả ruột gan nó nữa?
- Thì đã sao? Ta ước được ăn món lòng bò theo kiểu Caen, thật nóng, cùng với bánh ngọt.
- Bánh ngọt ư! Món đó nghe được hơn nhiều. Nhưng là bánh ngọt gì chứ?
- Bánh ngọt làm bằng lá lách bê!
- Lá lách!
- Đun lim rim với nước sốt nấm. Ngon tuyệt!
Những món kinh khủng và vô đạo ấy ở đâu ra? Chẳng nhẽ tôi đã sa đọa đến mức thèm ăn một con bò và đứa con nhỏ của nó hay sao? Tôi đã trúng phải thứ gió độc gì vậy? Cái xuồng đã trôi trở lại vào giữa đám rác rưởi kia hay sao?
- Món ăn mọi rợ tiếp theo sẽ là gì?
- Món ốc bê dầm trong nước sốt bơ!
- Quay lại cái đầu rồi phải không?
- Món óc rán nóng!
- Ta phát ốm lên rồi đây. Có cái gì nhà ngươi không ăn không nào?
- Ta sẽ không ăn cái có thể đổi được lấy món súp đuôi bò. Được món lợn con quay nhồi gạo, xúc xích, mơ và nho khô. Được món thận bê nấu bơ, mù-tạt và sốt rau thơm. Được món thỏ hầm với rượu vang. Được món xúc xích gan gà. Được món thịt lợn và patê gan ăn với thịt bê. Được món ếch. A, hãy cho ta món ếch. Cho ta món ếch.
- Ta không thể chịu được nữa.
Giọng nói lại chìm đi. Tôi run lên vì buồn nôn. Chứng điên trong đầu là một chuyện, nhưng để nó lan xuống bụng là không công bằng.
Thình lình, tôi chợt vỡ nhẽ.
- Ngươi sẽ ăn thịt bò sống còn rỏ máu chứ? - Tôi hỏi.
- Tất nhiên rồi! Ta ưa món bít-tết kiểu tác-ta.
- Ngươi sẽ ăn tiết đã đông của một con lợn chết chứ?
- Ngày nào cũng được, với nước sốt táo!
- Ngươi có thể chén bất kì cái gì của một con vật chứ? Những mảnh xác cuối cùng của nó chứ?
- Ta sẽ vét sạch! Ta sẽ có cả một mâm đầy!
- Thế ngươi có ăn thịt vẹt không? Ngươi có ăn một con chim vẹt còn tươi sống nguyên lành không?
Không nghe câu trả lời.
- Ngươi có nghe ta hỏi không? Ngươi sẽ ăn một con vẹt chứ?
- Ta nghe rồi. Nói thực, nếu được lựa chọn, ta sẽ không ăn món đó. Bụng ta không chịu thứ đồ ăn đó. Ta thấy nó rất kinh tởm.
Tôi cười ầm lên. Đã biết mà. Không phải tôi đang nghe thấy những tiếng nói tưởng tượng. Không phải tôi điên. Chính là Richard Parker đang nói chuyện với tôi. Thằng láu cá ăn thịt tôi chứ ai. Sống bên nhau bao nhiêu lâu mà nó đã chọn lúc cả hai cùng sắp chết mới lên tiếng tâm sự. Tôi thấy thật phấn khởi có thể trò chuyện với một con hổ. Ngay lập tức, lòng tôi tràn ngập cơn tò mò rẻ tiền, thứ bệnh mà những kẻ hâm mộ thường mắc phải đối với các minh tinh mà họ yêu thích.
- Nào hãy nói cho ta biết, ngươi đã giết người bao giờ chưa?
Tôi nghi ngờ chuyện đó. Thú vật ăn thịt người cũng hiếm như số những kẻ sát nhân trong nhân loại, và Richard Parker bị bắt lúc còn là một chú hổ con. Nhưng ai biết được mẹ nó, trước khi bị Khát bắt, có ăn thịt người nào hay không?
- Hỏi kiểu gì thế? - Richard Parker đáp lại.
- Chẳng nhẽ không có lí do để hỏi thế ư?
- Thế thì có lí hay sao?
- Phải.
- Tại sao?
- Ngươi có tiếng như vậy mà.
- Thật ư?
- Tất nhiên rồi. Chẳng nhẽ ngươi không biết điều đó?
- Ta không biết thật.”
- Thế đấy, để ta nói cho ngươi rõ quả thật là người không biết gì. Ngươi nổi tiếng là một kẻ ăn thịt người thật mà. Vậy, ngươi đã giết người bao giờ chưa?
Im lặng.
- Thế nào? Trả lời ta đi chứ.
- Rồi.
- Chao ôi! Ngươi làm ta lạnh hết sống lưng. Bao nhiêu người?
- Hai.
- Ngươi đã giết hai người đàn ông?
- Không. Một đàn ông và một đàn bà.
- Cùng một lúc à?
- Không. Đàn ông trước. Đàn bà sau.
- Đồ quỷ sứ! Cam đoan là người đã cho đấy là một trò đùa rất vui vẻ. Ngươi thấy những tiếng kêu khóc và giãy giụa của họ rất hay phải không?
- Cũng chẳng phải thế.
- Họ tốt chứ?
- Tốt là thế nào?
- Đừng có giả vờ nữa. Thịt họ ăn có ngon không?
- Không, thịt họ không ngon.
- Ta cũng nghĩ thế. Ta đã nghe nói thịt người phải ăn nhiều mới ngon. Vậy sao ngươi giết người ta?
- Cần phải vậy.
- Cần thiết quỷ sứ vậy à! Ngươi có ân hận gì không?
- Hoặc họ hoặc ta mà thôi.
- Thực là một khái niệm cần thiết với tất cả sự giản đơn vô đạo đức. Nhưng bây giờ ngươi có thấy ân hận một chút nào chăng?
- Đó là vì phải thế trong một giây phút mà thôi. Chỉ vì hoàn cảnh.
- Bản năng, đó gọi là bản năng. Dù sao, hãy trả lời câu hỏi của ta đi, ngươi có ân hận chút nào chăng?
- Ta không nghĩ đến chuyện đó.
- Đúng là súc vật. Ngươi chỉ là một con vật.
- Vậy còn ngươi?
- Con người, ta nói để ngươi biết vậy.
- Tự phụ đến thế kia ư?
- Đó là chân lí rõ ràng mà.
- Phải vậy sao? Tức là ngươi sẽ ném hòn đá đầu tiên, ra tay trước?
- Ngươi đã ăn món oothappam bao giờ chưa?
- Chưa. Nó là cái gì vậy, nói cho ta biết đi.
- Nó thật ngon.
- Nghe đã thấy thế rồi. Còn gì nữa?
- Oothappam thường được làm bằng chỗ bột làm bánh còn dư, nhưng ít khi sáng kiến tận dụng nguyên liệu trong nghệ thuật nấu ăn lại cho ra được một món đáng nhớ như vậy.
- Ta đã có thể nếm thấy nó rồi đấy.
Tôi chợt buồn ngủ. Hoặc giả đã rơi vào tình trạng mất cân bằng trước khi chết. Nhưng vẫn có cái gì đó khiến tôi bồn chồn. Không thể nói đó là cái gì. Nhưng gì thì gì, nó cũng đang quấy nhiễu sự chết của tôi.
Tôi tỉnh lại. Tôi đã biết đó là cái gì rồi.
- Này! Này!
- Cái gì thế? - giọng Richard Parker yếu ớt.
- Tại sao giọng ngươi cứ trẹo trọ thế?
- Ta có trẹo trọ gì đâu. Chính ngươi thì có.
- Không phải ta. Ngươi phát âm chữ đe thành ra zie.
- Ta nói zie là zie, đúng như nó phải thế. Ngươi nói năng như ngậm bi ve trong mồm. Ngươi nói trẹo trọ đặc kiểu Ấn Độ.
- Ngươi nói năng như thể lưỡi ngươi là một cái lưỡi cưa và các từ tiếng Anh cứ như làm bằng gỗ hết cả. Ngươi trẹo trọ đặc kiểu Pháp.
Thật là không đâu vào đâu cả. Richard Parker sinh ra ở Bangladesh và được nuôi dạy ở Tamil Nadu, làm sao nó có giọng Pháp được?
Công nhận là Pondicherry đã từng là thuộc địa của Pháp, nhưng không ai có thể làm tôi tin rằng đã có những con vật trong vườn thú được nuôi dạy tại Alliance Francais ở phố Dumas.
Thật là lẫn lộn quá. Tôi lại rơi vào tình trạng mù mịt.
Tôi tỉnh dậy, miệng há hốc. Có ai đó thật! Cái giọng nói vừa lọt vào tai tôi chắc chắn không phải là tiếng gió trẹo trọ hoặc một con vật nào đó líu lo. Rõ ràng là có ai đó! Tim tôi đập điên cuồng, gắng sức một lần cuối bơm được một ít máu lên qua cơ thể đã mòn mỏi của tôi. Đầu óc tôi cố sức lần cuối để tỉnh táo.
- Chỉ là một tiếng vọng mà thôi.
Tôi lại nghe thấy, rất nhỏ.
- Gượm đã, ta ở đây mà! - Tôi hét lên.
- Một tiếng vọng ngoài biển khơi…
- Không phải, chính là ta đây!
- Rồi chuyện này sẽ kết thúc!
- Bạn ta ơi!
- Ta đang tiêu tan…
- Hãy ở lại, ở lại!
Tôi không thể nghe rõ hắn nói nữa.
Tôi kêu ré lên.
Nó kêu ré trở lại.
Thật quá sức. Tôi sẽ phát điên mất.
Tôi nảy một ý tưởng.
- Tên tôi,- tôi gào vào không gian với những hơi thở cuối cùng của mình,- là Piscine Molitor Patel.
Làm sao một tiếng vọng có thể tạo ra một cái tên được?
- Có nghe tôi nói không? Tôi là Piscine Molitor Patel, mọi người đều gọi tôi là Pi Patel!
- Cái gì thế? Có ai ở đó không?
- Có. Có đây.
- Cái gì? Thật ư? Xin anh, anh có chút thức ăn nào không? Thức gì cũng được. Tôi không còn tí thức ăn nào. Tôi đã không ăn gì nhiều ngày rồi. Tôi phải ăn cái gì đó. Xin tạ ơn anh rất nhiều nếu anh chừa cho tôi một ít, cái gì cũng được. Tôi xin anh.
- Nhưng tôi cũng chẳng còn gì,- tôi đáp, lòng buồn thảm.- Bản thân tôi cũng không có gì ăn nhiều ngày rồi. Tôi đang hi vọng anh sẽ có thức ăn. Anh có nước uống không? Tôi còn rất ít.
- Không, tôi không có. Anh không có tí thức ăn nào thực sao?
- Không có gì hết.
Im lặng, một sự im lặng nặng nề.
- Anh ở đâu? - Tôi hỏi.
- Tôi ở đây. - Hắn đáp, giọng mệt mỏi.
- Đây tức là ở đâu? Tôi không thấy anh ở đâu cả.
- Sao lại thế?
- Tôi đã mù rồi.
- Cái gì kia? - Hắn kêu lên.
- Tôi bị mù. Mắt tôi chỉ thấy tối đen. Tôi chớp mắt nhưng có thấy gì đâu. Đã cách đây hai ngày rồi, nếu như da tôi vẫn cảm thấy được ánh sáng tối thì đúng là đã cách đây hai ngày rồi.
Tôi nghe một tiếng khóc rú lên thật thảm thiết.
- Sao thế? Có chuyện gì thế, hỡi người bạn của tôi? - Tôi hỏi.
Hắn tiếp tục khóc than.
- Nào, hãy trả lời đi. Có chuyện gì vậy? Tôi đã mù rồi và chúng ta chẳng còn đồ ăn thức uống gì, nhưng chúng ta vẫn còn có nhau. Thế cũng là đỡ hơn nhiều. Thế là quý lắm chứ. Vậy thì có chuyện gì thế nữa, hỡi bạn thân mến của tôi?
- Tôi cũng mù!
- Sao?
- Tôi cũng chớp mắt mà chẳng thấy gì, cũng như anh.
Hắn lại khóc rú lên. Tôi đờ người vì kinh ngạc. Tôi đã gặp một người nữa cũng mù và cũng trên một chiếc xuồng cứu nạn giữa Thái Bình Dương!
- Nhưng làm sao mà anh cũng bị mù? - Tôi lúng búng.
- Có lẽ cũng như anh thôi. Kết quả của tình trạng thiếu vệ sinh ở một cơ thể đang cạn kiệt đến hồi chung cục.
Cả hai chúng tôi đều bật khóc. Hắn rú lên còn tôi thì thổn thức. Thật là quá sức, không thể chịu đựng nổi nữa.
- Tôi có câu chuyện này.- tôi lên tiếng, sau một lúc lâu.
- Một câu chuyện ư?
- Phải.
- Một câu chuyện thì có ích gì? Tôi đang đói lắm mà.
- Một câu chuyện về thức ăn.
- Lời nói đâu có cho ta calo.
- Hãy kiếm thức ăn ở nơi có thức ăn.
- Đó là một ý hay.
Im lặng. Một sự im lặng chết chóc.
- Anh ở đâu? - Hắn hỏi.
- Ngay đây. Còn anh?
- Cũng ngay đây.
Tôi nghe tiếng vỗ nước như thể một mái chèo vừa được hạ xuống. Tôi vớ lấy một trong hai cái chèo tôi đã vớt được từ cái bè đã vỡ. Nó mới nặng làm sao. Hai tay lần mần mãi tôi mới rờ được cái vòng mắc chèo. Tôi thả mái chèo vào vòng. Tôi kéo chèo. Tôi mệt lử, nhưng vẫn cố hết sức chèo.
- Cho nghe câu chuyện của anh đi nào.- hắn nói thở dốc.
- Ngày xửa ngày xưa có một quả chuối và nó cứ to lên dần. Nó to lên, vừa chắc, vừa thơm và vàng rực. Thế rồi nó rụng xuống đất và có người đến nhặt lên ăn.
Hắn dừng chèo.
- Câu chuyện thật là đẹp!
- Cảm ơn.
- Tôi chảy cả nước mắt đây này.
- Vẫn còn một chi tiết nữa,- tôi nói.
- Cái gì vậy?
- Quả chuối rụng xuống đất, có người đến nhặt lên, ăn nó, và sau đó thì người ấy cảm thấy dễ chịu hơn.
- Hay quá, nghe mà phải nín thở! - Hắn kêu lên.
- Cảm ơn.
Một lúc im lặng.
- Nhưng anh không có quả chuối nào ư?
- Không. Một con tinh tinh đã làm cho tôi quên mất quả chuối.
- Một con gì cơ?
- Chuyện dài lắm.
- Có thuốc đánh răng không?
- Không.
- Cá ăn ngon tuyệt. Có điều thuốc lá nào không?
- Tôi ăn chúng mất rồi.
- Anh ăn chúng ư?
- Tôi vẫn còn những cái đầu lọc. Nếu anh thích thì tôi cho.
- Đầu lọc? Đầu lọc thì còn làm gì được nữa? Nhưng làm sao anh lại ăn được thuốc lá?
- Thì còn biết làm gì với chúng? Tôi có hút thuốc đâu.
- Đáng nhẽ anh nên giữ chúng để đổi chác.
- Đổi chác ư? Với ai mới được chứ?
- Với tôi.
- Người anh em, lúc tôi ăn chúng, tôi chỉ có một mình trên một chiếc xuồng ở giữa Thái Bình Dương.
- Vậy à?
- Cho nên, cơ hội gặp được ai đó giữa Thái Bình Dương để có thể đổi chác thuốc lá với họ không phải là một khả năng thực tế.
- Anh phải hoạch định xa mới được, anh bạn ngốc nghếch ạ. Bây giờ thì anh chẳng có gì để đổi chác cả.
- Nhưng nếu tôi có cái gì để đổi chác được với anh thì anh có gì nào? Anh có cái gì tôi có thể đổi được không?
- Tôi có một chiếc ủng.- hắn nói.
- Một chiếc ủng?
- Phải một chiếc ủng rất đẹp.
- Tôi sẽ làm gì với một chiếc ủng da giữa Thái Bình Dương? Anh tưởng tôi sẽ đi lang thang với nó trong những lúc rảnh rỗi chắc?
- Anh có thể ăn nó!
- Ăn một chiếc ủng! Quả là một ý tưởng.
- Anh ăn được cả thuốc lá, sao lại không ăn được một chiếc ủng?
- Cái ý tưởng của anh thật kinh quá. Nhưng mà chiếc ủng ấy của ai?
- Làm sao tôi biết được?
- Anh đang xui tôi ăn một chiếc ủng của một người lạ hoắc ư?
- Thế thì đã sao? Có gì khác đâu nào!
- Tôi thấy kinh lắm. Một chiếc ủng. Ngoài chuyện đó tôi là một người Hindu và người Hindu chúng tôi coi bò là thiêng liêng, ăn một cái ủng da làm tôi nghĩ đến phải ăn tất cả những hôi hám bẩn thỉu tiết ra từ cái bàn chân đã đi nó, và cả những cứt đái mà nó đã giẫm phải.
- Vậy là anh không thích đổi lấy ủng.
- Cho tôi xem nó cái đã.
- Không được.
- Cái gì? Anh tưởng tôi sẽ đổi chác với anh không cần xem hàng trước ư?
- Cả hai ta đều mù cả, tôi phải nhắc anh thế.
- Thì cứ tả cái ủng cho tôi nghe vậy! Anh bán hàng kiểu gì vậy? Anh đói khách là phải.
- Đúng thế. Tôi đói khách thật.
- Thế nào, cái ủng ra sao?
- Một cái ủng da.
- Kiểu gì chứ?
- Kiểu bình thường thôi.
- Nghĩa là sao?
- Một cái ủng có dây buộc, có lỗ xâu dây và một cái lưỡi gà. Bên trong có lót. Kiểu bình thường.
- Màu gì?
- Đen.
- Tình trạng ra sao?
- Mòn rồi. Da mềm và mịn, sờ rất thích tay.
- Có mùi mẽ gì không?”
- Mùi da thơm thơm âm ấm.
- Tôi phải thú thật, phải thú thật với anh, nghe thật hấp dẫn đấy!
- Anh hãy quên nó đi.
- Sao thế?
Im lặng.
- Người anh em, hãy trả lời tôi đi chứ.
- Không còn ủng đâu.
- Không có ủng ư?
- Đúng thế.
- Tôi buồn quá.
- Tôi đã ăn nó rồi.
- Anh đã ăn nó?
- Vâng.
- Ngon không?
- Không. Anh ăn thuốc lá có ngon không?
- Không. Tôi không thể ăn hết được.
- Tôi cũng không thể ăn hết chiếc ủng đó.
- Ngày xửa ngày xưa có một quả chuối và nó cứ mọc to ra. Nó mọc to ra và thành một quả chuối chắc nịch, thật to, vàng ươm và thơm phức. Rồi nó rụng xuống đất và có người đến nhặt nó lên ăn, sau đó người đó cảm thấy dễ chịu hơn.
- Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi về tất cả những gì tôi đã nói và làm. Tôi là một người vô tích sự.- hắn lại khóc oà lên.
- Anh nói gì vậy? Anh là một người tuyệt vời và quý báu nhất trên trái đất này. Người anh em của tôi, hãy lại đây, chúng ta hãy ở bên nhau và tận hưởng điều đó.
- Đúng như thế!
Thái Bình Dương không phải là nơi để chèo thuyền, nhất là khi ta mệt mỏi và mù loà, khi chiếc xuồng của ta vừa to vừa khó điều khiển, và khi gió không chịu theo ý ta một chút nào. Hắn ở ngay gần; hắn lại ở thật xa. Hắn ở phía bên trái tôi; lại ở phía bên phải tôi. Hắn ở trước; hắn ở sau. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng làm được. Xuồng chúng tôi chạm vào nhau với một tiếng động nghe còn ngọt ngào hơn cả khi có con rùa động vào xuồng tôi. Tôi dang tay ôm lấy hắn và hắn cũng ôm chầm lấy tôi. Mắt tôi rưng lệ mà tôi mỉm cười. Hắn ở ngay trước mặt tôi đây, một hiện diện sáng ngời lên qua màn mù loà của tôi.
- Người anh em ngọt ngào của tôi.- tôi thì thầm.
- Tôi đây.- hắn đáp.
Tôi nghe một tiếng gầm gừ thoảng qua.
- Người anh em, có điều này tôi quên chưa nhắc đến.
Hắn nặng nề nhào lên tôi. Chúng tôi cùng ngã, nửa xuống tấm bạt, nửa đè lên chiếc xuồng. Tay hắn vớ lấy cổ họng tôi.
- Người anh em,- tôi hổn hển trong vòng ôm quá trớn của hắn.- Trái tim tôi ở bên anh, nhưng tôi xin khẩn khoản đề xuất rằng chúng ta phải lập tức chuyển sang một địa điểm khác trên con tàu khiêm tốn này của tôi.
- Anh nói thật đúng trái tim anh đang ở bên tôi! - Hắn lên tiếng.- Và cả gan ruột, thịt anh nữa!
Tôi có thể cảm thấy hắn đang rời khỏi tấm bạt và trèo sang cái ghế giữa, rồi, số phận xui khiến, hắn đặt một chân xuống sàn xuồng.
- Không! Đừng làm thế! Người anh em! Đừng vào đó! Chúng ta không phải…
Tôi cố kéo hắn lại. Nhưng than ôi, không kịp nữa rồi. Trước khi tôi kịp nói hết câu rằng “chúng ta không phải chỉ có một mình”, thì tôi nghe tiếng móng sắc gõ xuống sàn xuồng cách một cái, chỉ như một cặp kính mắt rơi xuống, rồi ngay sau đó người anh em thân mến của tôi kêu thét lên vào mặt tôi như chưa từng có ai kêu thét lên như vậy. Hắn buông tôi ra.
Đó là cái giá khủng khiếp mà Richard Parker đòi phải trả. Nó cho tôi cuộc sống, chính cuộc sống của tôi, nhưng phải tiêu diệt một cuộc sống khác. Nó xé xác và nhai nát xương của người kia. Mùi máu xộc đầy mũi tôi. Một cái gì đó trong tôi đã chết vào giây phút đó và không bao giờ sống lại được nữa.
-------------
Chú thích:
(1) Nguyên văn tác giả chơi chữ figment (sự huyễn hoặc) và fig (quả chà là), chúng tôi dịch như trên để giữ được kiểu chơi chữ ấy, vốn rất có ý nghĩa trong đoạn mô tả tâm trạng tự huyễn hoặc này của Pi (ND)
(2) Nguyên văn là sambar, chúng tôi đoán là sambar podi, một loại gia vị truyền thống Ấn Độ, dùng để cho vào món cari.

Chương 89

Tôi trèo qua chiếc xuồng của người anh em tôi. Tôi lần mò thám thính nó. Hắn đã nói dối. Hắn có một ít thịt rùa, một cái đầu cá dorado, và thậm chí một ít vụn bánh quy – thật là đáng mặt một bữa tiệc. Hắn còn có cả nước uống. Tôi ăn sạch, uống sạch. Tôi quay về xuồng mình và thả chiếc xuồng của hắn đi.
Khóc đã làm tôi đỡ hơn. Vùng thị lực mắt trái của tôi nứt ra một khe cửa sổ. Tôi rửa mắt bằng nước biển. Mỗi lần rửa cái khe cửa sổ ấy lại mở thêm ra một ít. Hai ngày sau thì tôi lại nhìn thấy.
Cảnh tượng nhìn thấy làm cho tôi gần như muốn thà cứ bị mù như trước còn hơn. Xác hắn nằm trên sàn xuồng, nát bét, chân tay cụt hết cả. Richard Parker đã ngấu nghiến gần hết, kể cả phần mặt, khiến cho tôi không bao giờ biết được người anh em ấy là ai và ra sao. Phần ngực bị xé toang, những dẻ sườn gãy giương lên như bộ khung một con tàu, trông như một phiên bản thu nhỏ của chiếc xuồng, kể cả tình trạng đẫm máu và khủng khiếp của nó.
Tôi sẽ phải thú nhận rằng tôi đã lấy lao móc khều một cánh tay của hắn và dùng thịt ấy làm mồi câu. Tôi cũng phải thú nhận thêm rằng, do hoàn cảnh cực đoan của tôi bắt buộc, tôi đã ăn một ít thịt của hắn. Nghĩa là từng miếng nhỏ một, những rẻo thịt nhỏ mà cái lao móc của tôi róc ra được, khi phơi khô dưới nắng trông cũng như thịt thú bình thường. Những miếng thịt ấy trôi tuột vào miệng tôi mà không gây một sự chú ý nào. Phải hiểu rằng tôi vẫn tiếp tục phải chịu đựng khổ sở mà hắn thì đã chết rồi. Tôi ngừng ăn thịt hắn ngay sau khi tôi bắt được một con cá.
Tôi cầu nguyện cho linh hồn hắn hằng ngày.

Chương 90

Tôi đã có một phát kiến thực vật học đặc biệt. Nhiều người sẽ không tin đoạn sắp kể này. Nhưng tôi vẫn phải kể, vì nó là một phần của cả câu chuyện và nó đã thực sự xảy ra với tôi.
Tôi đã nằm nghiêng một bên. Lúc đó khoảng một hai giờ trưa gì đó vào một ngày im ắng, nắng và gió nhẹ. Tôi vừa ngủ một giấc ngắn, một giấc ngủ lãng toẹt chẳng yên mà cũng chẳng có mộng mị gì. Tôi xoay người đổi bên, gắng làm nhẹ nhàng để khỏi mất sức. Tôi mở mắt.
Tôi nhìn thấy cây cối ở gần. Tôi không phản ứng gì, tin chắc đó chỉ là ảo giác và chỉ vài cái chớp mắt nó sẽ tan đi.
Những cái cây vẫn còn đó. Và thực tế là chúng đã mọc lên thành cả một khu rừng. Chúng là một phần của một hòn đảo thấp trên mặt biển. Tôi nhỏm dậy, tiếp tục không tin vào mắt mình. Nhưng thật phấn khích khi có một ảo giác chất lượng như thế, những cái cây thật đẹp. Không giống bất kì thứ cây nào tôi đã từng thấy. Chúng có một thứ vỏ nhạt màu, những nhánh xoè đều đặn và cành lá thật xum xuê. Lá của chúng xanh biếc đến loá mắt, một màu xanh rực rỡ như ngọc đến nỗi cây cỏ nhiệt đới vào mùa ở bên cạnh chúng cũng chỉ thành màu ô lưu xỉn mà thôi.
Tôi nhìn xuống. Và vừa thoả mãn vừa bất mãn với những gì tôi thấy. Hòn đảo không có đất. Mà đám cây cũng không mọc trên mặt nước. Chúng mọc trên cái gì đó có vẻ như là một khối tảo mộc dày đặc, cũng xanh biếc như cành lá của chúng. Ai đã từng nghe chuyện đảo không có đất? Với cây cối mọc trên thảo mộc thuần túy? Tôi thấy thoả mãn vì hiện tượng địa lí ấy đã khẳng định tôi đúng, rằng hòn đảo chỉ là một huyễn hoặc, một trò đùa của trí khôn. Cũng chính hiện tượng đó làm tôi bất mãn bởi một hòn đảo, bất kì hòn đảo nào, dù lạ đến đâu, đáng nhẽ cũng phải cho người ta bước lên mới phải.
Vì đám cây vẫn sừng sững ở đó, nên tôi vẫn tiếp tục nhìn. Màu xanh của lá cây, toàn những xanh da trời và nước biển, giống như một thứ âm nhạc trong mắt tôi. Xanh lá cây là một màu đáng yêu. Đó là màu của đạo Hồi. Đó là màu tôi ưa thích nhất.
Nước ròng nhẹ nhàng đẩy chiếc xuồng vào gần ảo ảnh của tôi hơn. Bờ đảo không thể gọi là bờ được. Không cát, không sỏi, không có sóng vỗ dào dạt, vì những con sóng lan vào đó cứ thế tan biến đi trong cái xôm xốp của hòn đảo. Từ một đỉnh gò trong đảo cách mép nước chừng ba trăm thước, hòn đảo thoải dần xuống biển, và chừng bốn mươi thước dưới mặt nước,nó đột ngột hẫng xuống và biến mất vào những tầng sâu của Thái Bình Dương, chắc chắn là một thềm lục địa nhỏ nhất được con người biết đến.
Tôi đã đang quen dần với ảo giác. Để chúng khỏi biến đi, tôi tránh không làm cái gì căng thẳng. Khi chiếc xuồng chạm phải hòn đảo, tôi ngồi im không cử động, chỉ tiếp tục mơ. Chất tạo nên hòn đảo này có vẻ là một khối rong biển hình ống đan dệt chằng chịt rất chặt với nhau. Những cây rong chỉ to không quá hai ngón tay. Thật là kì diệu.
Mấy phút trôi qua, tôi bò lên mép xuồng. Cuốn cẩm nang đã viết: “Hãy tìm kiếm cây xanh”. Phải rồi, cây xanh đây chứ đâu. Quả thực, đó là một thiên đàng xanh biếc. Một thứ xanh lá cây chói lọi hơn cả các loại phẩm nhuộm thức ăn và đèn nêon. Một thứ xanh lá cây khiến người ta phát say lên được. Cẩm nang cũng viết: “Chỉ có đặt chân lên được rồi mới chắc rằng ta đã lên đất liền.” Phải làm theo mới được. Hòn đảo gần có thể đặt chân lên được rồi. Muốn biết chắc - để rồi thất vọng – hay không cần biết chắc, đó là vấn đề.
Tôi quyết định cần phải biết chắc. Tôi nhìn quanh xem có cá mập không. Không có. Tôi quay người nằm sấp, rồi bám chắc lấy tấm bạt, rồi từ từ thò một chân xuống. Bàn chân tôi thò xuống nước biển. Mát lạnh. Hòn đảo nằm sâu hơn chút nữa, sáng long lanh dưới nước. Tôi duỗi người. Tôi chờ đợi cái bong bóng ảo giác của mình sẽ vỡ tan bất kì lúc nào.
Nó không vỡ. Bàn chân tôi ngập xuống nước trong vắt và bị cản lại bởi cái gì đó vừa mềm dẻo vừa chắc chắn. Tôi đè người xuống tí nữa. Ảo giác vẫn không biến đi. Tôi đứng hẳn lên một cái chân đó. Mà vẫn không chìm. Mà tôi vẫn không tin.
Cuối cùng, tôi biết chắc mình đã ở trên đảo lại nhờ vào thính giác. Nó xộc vào mũi tôi, tràn đầy và tươi mát, choáng ngợp: mùi cây cỏ. Tôi há hốc mồm. Sau hàng tháng trời chỉ ngửi mùi của những thứ đã bị nước biển tẩy đến thếch thác, cái mùi cây cỏ hữu cơ nồng nàn làm tôi say ngất. Đó là lúc tôi tin mình đang đứng trên đảo, và thứ duy nhất bị chìm nghỉm là trí khôn của chính tôi; tôi không còn nghĩ ngợi mạch lạc được nữa. Chân tôi bắt đầu run lên.
“Lạy chúa! Lạy chúa!” Tôi rền rĩ.
Tôi ngã ra khỏi xuống.
Cú choáng kết hợp bởi đất rắn chắc dưới chân và nước biển mát lạnh đã cho tôi đủ sức đứng lên và bước vào trong hòn đảo. tôi líu lo những lời cảm tạ Thượng đế không đầu không đuôi và ngã vật xuống.
Nhưng tôi không thể nằm im. Lòng tôi quá hưng phấn. Tôi muốn đứng dậy. máu như chạy ào ra khỏi đầu tôi. Mặt đất lắc mạnh. Tôi quáng mắt đến chóng mặt. Tôi tưởng mình sắp ngất. Tôi trấn tĩnh lại. Chỉ còn đủ sức thở dốc. Thế mà tôi vẫn ngồi dậy được.
“Richard Parker! Đất liền! đất liền! đất liền! chúng ta sống rồi!” Tôi hét to.
Mùi cây cỏ nồng nặc khác thường. còn màu xanh, nó tươi mát và mượt mà đến mức mà sức khoẻ và cảm giác thư giãn như đang thực sự tràn vào cơ thể tôi qua hai con mắt.
Thứ rong biển tròn lạ lùng và đan nhau chằng chịt này là loại gì vậy? Nó có ăn được không? Nó có vẻ là một loại tảo biển, nhưng rất chắc, cứng hơn nhiều loại tảo thông thường. cảm giác về nó khi ở trên tay vừa ướt vừa có vẻ giòn giòn. Tôi kéo thử. Những sợi rong đó đứt ra không mấy khó khăn. Nhìn đoạn rong đứt rời, thấy nó cấu tạo bằng hai lớp vỏ tròn đồng tâm: lớp ngoài ướt và hơi nham nhám, xanh rực, còn lớp trong lơ lửng ở quãng giữa lớp ngoài và lõi. Cái ống trong màu trắng. cái ống ngoài có màu xanh lá cây giảm dần từ ngoài vào trong. Tôi đưa một sợi lên mũi. Ngoài hương vị thảo mộc, nó còn có một mùi trung tính. Tôi liếm. Tim tôi rộn lên. Sợi tảo sũng toàn nước ngọt.
Tôi ngoạm lấy nó. Răng miệng tôi phát choáng. Cái lõi mặn chát, nhưng lớp ống bên ngoài thì không những ăn được, mà còn ngon tuyệt trần. lưỡi tôi bắt đầu rung lên như thể nó là một ngón tay đang giở từng trang cuốn từ điển để tìm một từ đã bị quên lãng từ lâu. Nó đây rồi. Tôi nhắm nghiền mắt và khoái trá nghe thấy từ đó: ngọt ngào. Không phải theo nghĩa ngon lành mà thôi, mà còn theo nghĩa có chất đường thực sự. Rùa với cá là nhiều thứ, nhưng chúng không bao giờ có đường. Sợi tảo có một vị nhè nhẹ còn khoan khoái hơn cả vị siro làm từ nhựa cây thích ở Canada. Cái gần nhất tôi có thể so sánh với nó là vị ngọt của hạt dẻ nước.
Nước ngọt ứa ra ào ạt qua lần khô quánh trong miệng tôi. Khoan khoái quơ tay ầm ĩ, tôi dứt những bó tảo xung quanh mình. Lần lõi và lần vỏ của chúng tách ra được dễ dàng. Tôi bắt đầu tọng những đoạn vỏ ngoài vào mồm. Tôi tọng bằng cả hai tay, nhồi nhét và bắt cái miệng làm việc khoẻ và nhanh hơn rất nhiều so với suốt một thời gian dài. Tôi dứt tảo ăn cho đến lúc xung quanh tôi chỉ còn là một cái hào nước.
Một cái cây đứng đơn độc cách tôi chừng sáu mươi thước. nó là cái cây duy nhất mọc bên dưới rặng đồi trông có vẻ còn rất xa. Tôi nói là rặng đồi hoặc gò. Chữ đó có thể gây nhiều hiểu nhầm về độ dốc của đảo. Tôi đã nói rằng đây là hòn đảo thấp trên biển. Nó dốc thoai thoải từ biển lên, cho đến chỗ cao nhất khoảng mười lăm hai mươi thước gì đó. Nhưng trong tình trạng của tôi lúc bấy giờ, độ cao sừng sững như một quả núi. Cái cây kia như có vẻ mời chào tôi, tôi để ý đến khoảng bóng râm của nó. Tôi lại cố đứng dậy. Tôi loay hoay vào được một tư thế ngồi xổm, nhưng khi định đứng lên, đầu tôi quay cuồng và tôi không thể giữ được thăng bằng. Ngay cả nếu không ngã, thì hai chân tôi cũng chẳng còn tí sức lực nào. Nhưng tôi quyết chí phải tiến tới. Tôi bò, lê lết, lổm ngổm về phía cái cây.
Tôi biết mình sẽ không bao giờ biết được một niềm vui nào lớn lao hơn lúc tôi đã bò vào được chỗ bóng mát râm của cái cây và nghe thấy âm thanh khô giòn của gió trong đám lá xào xạc trên đầu. Cái cây không to và cao như những cái cây khác sâu hơn trong đảo, và có thể do phải chịu nhiều mưa gió hơn vì mọc ở phía bên này của rặng đồi, nó hơi tả tơi một chút và cành lá không được tròn trịa đầy đặn như chúng bạn. Nhưng nó là một cái cây và một cái cây là cái gì đó đầy ân điển để cho ta nhìn ngắm sau một thời gian dài lạc lõng cô đơn trên biển cả. tôi hát lời ngợi ca sự vinh hiển của cái cây, ngợi ca sự chắc chắn của nó, sự tinh khiết không vội vàng và vẻ đẹp từ tốn của nó. Chao ôi, giá mà tôi được như nó, bắt rễ xuống đất nhưng tất cả tay tôi lại dâng lên để ngợi ca Thượng đế! Tôi khóc.
Trong lúc lòng tôi vui mừng ngợi ca đức Allah, tâm trí tôi bắt đầu thu thập thông tin về những việc làm của Người. Cái cây đúng là mọc lên trực tiếp từ đám tảo, như tôi đã nhìn thấy thế từ lúc còn trên xuồng. Không có một dấu vết gì của đất. Hoặc giả có đất ở rất sâu bên dưới, nếu không thì loài cây này là một ví dụ kí sinh khác thường. Thân nó to ngang với thân người. vỏ có màu xanh lá cây xám, mỏng và mướt, mềm đến mức có thể lấy móng tay vạch vào nó dễ dàng. Những cái lá hình tim to và rộng bản, có một đầu nhọn. Ngọn cây có dạng tròn đều đáng yêu của một cây xoài, nhưng nó không phải xoài. Tôi nghĩ nó có mùi giống như sen, nhưng không phải sen. Cũng không phải chàm. Không phải bất kì một cây gì mà tôi đã thấy từ trước. Chỉ biết nó thật đẹp, thật xanh, thật xum xuê.
Nghe tiếng gầm gừ, tôi quay lại. Richard Parker đang quan sát tôi từ trên xuồng. Nó cũng đang nhìn hòn đảo. có vẻ như nó muốn lên bờ nhưng còn sợ. Cuối cùng, sau nhiều gầm gừ và đi đi lại lại, nó nhảy khỏi xuồng. Tôi đưa cái còi lên miệng nhưng nó không hề có ý định tấn công. Chỉ giữ thăng bằng thôi cũng đã khó rồi; nó loạng choạng chẳng khác gì tôi. Nó bò sát người xuống đất, tứ chi run rẩy, như một con hổ mới đẻ. Tránh tôi một quãng xa, nó đi lên gò và biến mất vào phía kia của hòn đảo.
Suốt cả ngày hôm đó tôi chỉ ăn, nghỉ, cố đứng dậy, và nói chung là tắm mình trong vui sướng. Tôi thấy buồn nôn mỗi khi cố sức nhiều quá. Và tôi vẫn cảm thấy mặt đất đang chuyển dịch dưới chân và như sắp ngã, ngay khi đứng im tại chỗ.
Đến cuối buổi chiều, tôi bắt đầu lo đến Richard Parker. Hoàn cảnh đã thay đổi, lãnh thổ đã thay đổi, không biết nó sẽ xử với tôi ra sao khi gặp lại.
Miễn cưỡng, và hoàn toàn là vì an toàn, tôi bò trở lại xuồng. Cho dù Richard Parker có chiếm lĩnh cả hòn đảo, thì phần mũi và mui xuồng vẫn là lãnh thổ của tôi. Tôi tìm cái gì có thể dùng để neo xuồng lại. Rõ ràng chỉ có đám tảo dày ở đảo, không có gì khác. Cuối cùng, tôi giải quyết việc neo xuồng bằng cách cắm sâu cán một cái trèo vào đám tảo rồi buộc dây xuồng vào cái chèo.
Tôi bò lên mui bạt. Kiệt sức. Cơ thể tôi rã rời vì phải tiếp nhận quá nhiều đồ ăn và vì căng thẳng thần kinh do đột ngột thay đổi hoàn cảnh. Đến cuối ngày, tôi lơ mơ nghe thấy tiếng Richard Parker gầm lên xa xa, rồi ngủ thiếp đi.
Tôi thức dậy trong đêm với một cảm giác khó chịu là lạ ở bụng dưới. Tôi nghĩ đó là chuột rút, hoặc giả đã bị ngộ độc tảo. Tôi nghe tiếng động và nhìn ra. Richard Parker đã ở trên xuồng. Nó đã về trong lúc tôi đang ngủ. Nó đang meo meo và liếm láp các bàn chân. Tôi không hiểu sao nó lại quay về, nhung cũng không nghĩ thêm về chuyện đó, cơn co thắt bụng bắt đầu khó chịu hẳn lên. Tôi đau quặn, gập người, run lẩy bẩy, rồi một quá trình tự nhiên nhưng đã bị quên lãng từ lâu, đột ngột và tự động diễn ra: Tôi phóng uế. Rất đau đớn. nhưng sau đó tôi chìm vào một giấc ngủ sâu và sảng khoái chưa từng có kể từ cái đêm trước khi tàu đắm.
Khi tỉnh dậy buổi sáng hôm sau, tôi thấy khoẻ hơn nhiều. Tôi hăng hái bò đến cái cây đơn độc. Mắt tôi lại một lần nữa ngấu nghiến nó, còn bụng thì ngấu nghiến các sợi tảo. Tôi chén một bữa điểm tâm no nê đến mức đào hẳn một lỗ tướng.
Một lần nữa, Richard Parker chần chừ hàng mấy tiếng đồng hồ trước khi nhảy ra khỏi xuồng. Đến lúc nó nhảy ra đã gần hết buổi sáng, thì vừa mới vào đến bờ nó lại nhảy trở lại, gần như ngã hẳn xuống nước và có vẻ rất căng thẳng. Nó thở phì phì và giương vuốt cao lên không. Lạ thật. Tôi không thể hiểu nó đang làm thế vì lí do gì. Rồi tình trạng bồn chồn ấy cũng qua đi, có vẻ tự tin hơn hôm trước, nó lại biến mất qua bên kia rặng đồi.
Hôm ấy, dựa vào cái cây, tôi đã đứng được lên. Tôi chóng mặt. Cách duy nhất làm cho mặt đất dưới chân tôi không chuyển động nữa là nhắm tịt hai mắt và bám chặt vào cái cây. Tôi chống tay đẩy người ra và thử bước đi, nhưng lập tức ngã xuống. Chưa nhấc được chân thì mặt đất đã như nhào vào tôi. Nhưng không sao. Hòn đảo được bao phủ bởi một tầng dày đặc cành rong đan dệt với nhau là một chỗ lí tưởng để tập đi. Ngã kiểu gì cũng không đau.
Ngày tiếp theo, sau một đêm ngủ yên trên xuồng – Richard Parker cũng quay về xuồng đêm đó – tôi đã có thể bước được. Ngã lên ngã xuống hàng chục lần, tôi vẫn bước tới được chỗ cái cây. Tôi cảm thấy sức lực mình tăng lên hàng giờ. Dùng cái lao móc, tôi khều xuống một cành cây và bứt một ít lá. Chúng mềm và không có sáp, nhưng có vị đắng, Richard Parker vẫn ở tịt trong ổ của nó trên xuồng – nó đã quen chỗ và vì thế vẫn trở về xuồng hằng đêm.
Tối hôm đó, khi mặt trời đang lặn thì tôi thấy nó quay về. Tôi đã buộc xuồng vào cọc chèo, và đang ở mũi xuồng, kiểm tra mối nối đó. Nó thình lình xuất hiện. Lúc đầu tôi không nhận ra. Con thú hoành tráng đang vọt ra từ rặng đồi và chạy hết tốc lực kia không thể là con hổ tơi tả và ù lì vẫn tháp tùng tôi trong suốt thời gian qua. Nhưng đúng là nó. Đúng là Richard Parker và nó đang lao về phía tôi. Trông nó đầy chủ ý. Cái cổ hùng mạnh của nó vươn lên, đầu chúi xuống. Những bắp thịt và cả bộ da của nó rung lên với mỗi bước chân. Nghe rõ tiếng tấm thân nặng trịch của nó chạy như gõ trống trên mặt đất.
Tôi đã đọc thấy có hai nỗi sợ mà ta không thể khắc phục được: Cái sợ đến thót người khi thình lình nghe thấy tiếng động lạ, là cái sợ của cảm giác chóng mặt lúc mọi thứ quay cuồng xung quanh. Tôi muốn thêm vào một nỗi sợ thứ ba: Phải đột ngột đối mặt với một kẻ sát nhân quen biết.
Tôi lục lọi cuống cuồng tìm cái còi. Khi nó chỉ còn cách xuồng khoảng chục thước, tôi lấy hết sức bình sinh thổi vào cái còi. Một âm thanh ré lên xuyên thủng không gian.
Nó đã có tác dụng như ý. Richard Parker khựng lại. Nhưng rõ ràng nó vẫn muốn tiếp tục tiến tới. Tôi thổi lần thứ hai. Nó bắt đầu quay cuồng và nhấp nhổm tại chỗ trong một điệu bộ rất giống một con hươu, gầm gào dữ dội. Tôi thổi hồi còi thứ ba, lông trên người nó dựng đứng cả lên. Móng vuốt nó giương ra hết cỡ. Nó đang hết sức kích động. Tôi đã sợ rằng bức tường phòng thủ của những tiếng còi sẽ sắp sụp đổ và nó sẽ tấn công tôi.
Nhưng Richard Parker lại làm một việc bất ngờ: nó nhảy ào xuống biển. Tôi kinh ngạc lặng người. Chính điều tôi nghĩ nó không bao giờ làm thì nó lại làm, và làm một cách quả quyết đầy sức mạnh. Nó hăng hái đập chân bơi về phía đuôi xuồng. Tôi định thổi còi nữa nhưng lại thôi, rồi mở nắp tủ lên ngồi xuống, rút về vị trí thánh địa trong lãnh thổ của mình.
Nó vươn người nhảy lên đuôi xuồng, nước từ người nó chảy xuống ào ào, và làm đuôi xuồng chìm hẳn xuống. Nó lấy thăng bằng đứng trên mạn xuồng và mặt ghế đuôi một lúc, dò xét tôi. Tim tôi xỉu đi. Tôi tưởng mình sẽ không đủ sức thổi thêm một hồi còi nữa. Tôi ngây người nhìn nó. Nó tuồn người như nước chảy xuống sàn xuồng và biến mất dưới tấm bạt. Tôi có thể nhìn thấy vài chỗ trên thân thể nó qua mép cái nắp tủ. Tôi nhảy ào lên trên nóc bạt, khuất mắt nó – nhưng ở ngay trên nó. Tôi cảm thấy một ước muốn mãnh liệt được mọc cánh và bay đi.
Tôi bình tĩnh lại. Cố tự nhắc mình rằng tôi đã ở cùng một con hổ sống ngay bên dưới mình một thời gian rất dài rồi.
Khi hơi thở chậm lại tôi ngủ thiếp đi
Có lúc trong đêm đó, tôi đã thức dậy và quên cả nỗi sợ hãi, nhìn xuống chỗ nó. Nó đang nằm mơ, run rẩy và gầm gừ trong giấc ngủ. Nó đã mơ ầm ĩ như vậy và làm tôi thức giấc.
Buổi sáng như thường lệ, nó lại đi lên rặng đồi.
Tôi quyết định ngay khi thấy khoẻ sẽ phải đi thám hiểm hòn đảo. Nó có vẻ khá rộng, nếu chỉ nhìn vào đường bờ biển của nó, trài dài sang hai phía trái phải, chỉ hơi vòng vòng một chút, chứng tỏ đảo có bề rộng khá lớn. Suốt ngày, tôi đi bộ – và ngã lên ngã xuống – từ bờ đến cái cây và ngược lại, với ý định tập cho chân khoẻ lại. Lần nào ngã tôi cũng tranh thủ ăn một bữa tảo no nê.
Khi Richard Parker quay về vào cuối ngày, hơi sớm hơn hôm trước một chút, tôi đã đang có ý chờ nó. Tôi ngồi im và không thổi còi. Nó đến mép nước, rồi bằng một cú nhảy rất khoẻ vọt lên thẳng mạn xuồng. Nó vào luôn chỗ của mình và không xâm phạm gì đến lãnh thổ của tôi, chỉ làm cho xuồng nghiêng hẳn sang một bên. Nó đã khoẻ mạnh trở lại một cách đáng sợ.
Sáng hôm sau, tôi đợi cho Richard Parker đi trước một lúc lâu rồi mới bắt đầu đi thám hiểm đảo. Tôi đi lên rặng đồi, đến đỉnh một cách dễ dàng, từng bước một chắc chắn, mặc dù vẫn còn ngượng nghịu. Nếu hai chân tôi yếu hơn, chắc chúng đã khuỵu xuống trước quang cảnh mà tôi nhìn thấy khi vừa lên tới đỉnh đồi.
Tôi sẽ nói các chi tiết trước. Tôi thấy toàn bộ hòn đảo được bao phủ dưới các lớp tảo chứ không phải chỉ ở mép đảo. Tôi thấy một bình nguyên rộng lớn xanh rì với một khu rừng lá biếc ở giữa. Tôi thấy khắp xung quanh rừng đó hàng trăm hồ nước nhỏ và những cây cối mọc đều đặn ở giữa chúng. Toàn bộ cảnh trí gây một ấn tượng không thể nhầm lẫn được rằng tất cả đều theo một thiết kế mạch lạc.
Nhưng ấn tượng mạnh mẽ nhất là những con chồn biển. Thoạt nhìn, tôi ước tính một cách khiêm tốn phải có đến hàng trăm nghìn con. Chúng phủ đầy mặt đất. Và khi tôi xuất hiện thì dường như tất cả chúng đều quay lại nhìn tôi, kinh ngạc, như bầy gà trong sân trại, và đứng hết cả lên.
Chúng tôi không có con chồn biển nào trong vườn thú. Nhưng tôi đã đọc hết về chúng. Chúng có trong sách vở và văn chương. Chồn biển là một động vật có vú nhỏ bé ở Nam Phi, có huyết thống với loài chồn mongoose ăn chuột, chim, và cả rắn hổ mang ở Ấn Độ. Nói cách khác, chồn biển là một loài động vật ăn thịt, dài ba mươi phân và nặng độ một kí lô khi trưởng thành, thon thả, với một cái mõm nhọn hoắt, cặp mắt phía trước mặt, chân ngắn, bàn chân có bốn ngón với những cái móng dài không rút vào được, và một cái đuôi dài hai mươi phân. Lông có màu nâu nhạt hoặc xám và có những dải đen màu nâu sẫm trên lưng, còn chóp đuôi, tai, và hai cái vòng tròn xung quanh mắt thì đen tuyền. Một con vật linh hoạt và rất tinh mắt, có thói quen sống bầy đàn và hoạt động vào ban ngày, săn mồi trong tầm địa phương của mình và ăn được cả bọ cạp. Khi nó quan sát, con chồn biển có đặc điểm đứng thẳng, kiễng trên đầu ngón của hai chân sau dùng chóp đuôi như một cái chân thứ ba để giữ thăng bằng như một kiểu cái chân máy ảnh. Thường một bầy chồn biển hay đứng chụm với nhau và cùng nhìn về một phía, như một đám người đang cùng chờ xe buýt. Vẻ mặt nghiêm trang và kiểu buông thõng hai chân trước ngực làm chúng trông giống một lũ trẻ đang cố tình làm dáng chụp ảnh, hoặc một nhóm bệnh nhân trong phòng khám đã cởi hết quần áo đang kín đáo cố che đậy bộ phận sinh dục của mình.
Đó là quang cảnh đập ngay lập tức vào mắt tôi khi tôi lên đến đỉnh đồi. Hàng trăm nghìn con chồn biển – hơn nữa, phải hàng triệu – cùng lúc đứng lên quay nhìn tôi như thể cùng đồng thanh, “Vâng, có chuyện gì vậy thưa ngài?”. Cũng phải nói ngay rằng loài chồn biển lúc đứng thẳng lên chỉ cao ba bốn mươi phân, nên cái làm tôi kinh ngạc không phải là chiều cao mà là số lượng bạt ngàn vô biên của chúng. Tôi đứng sững tại chỗ. Nếu tôi làm cho hàng triệu con chồn biển kia hoảng sợ, cảnh tượng sẽ hỗn loạn không thể tả được. Nhưng chúng chỉ chú ý đến tôi một lát mà thôi. Chỉ sau vài giây, chúng đã quay lại công việc mà chúng đang mải mê trước khi tôi xuất hiện, tức là gậm nhấm những sợi tảo hoặc nhìn chăm chăm xuống mặt nước hồ. Nhìn ngần ấy sinh linh cùng cúi xuống một lúc như thế khiến tôi nhớ lại cảnh cầu nguyện trong thánh đường Hồi giáo.
Những con vật này có vẻ không biết sợ. Khi tôi từ đỉnh đồi đi xuống, không con nào chạy trốn hoặc tỏ vẻ căng thẳng vì sự có mặt của tôi. Nếu muốn tôi đã có thể vuốt ve và bế một con lên. Nhưng tôi không làm gì chúng. Tôi chỉ cứ thế bước vào giữa đám chồn biển đông đúc nhất trên thế giới, một trong những trải nghiệm lạ lùng và kì diệu nhất trong đời tôi. Có một âm thanh không dứt tràn ngập trong không trung. Đó là tiếng chí chóe, chiêm chiếp, rin rít và cắn sủa nhặng xị của chúng.
Đông như vậy và kích động từng bầy lớn như vậy theo từng lúc làm cho âm thanh của chúng giống như tiếng động của một bầy chim, có những lúc rào rào ầm ĩ xung quanh tôi, rồi lại đột ngột im ắng, trong khi lại có một có đám khác ồn ĩ lên ở đằng xa.
Liệu có phải chúng không sợ tôi vì tôi phải sợ chúng không? Câu hỏi đó vụt lên trong óc tôi. Nhưng câu trả lời – rằng chúng vô hại – cũng lập tức rõ ràng. Để đi đến cái hồ mà chúng đứng dày đặc xung quanh, tôi phải lấy chân đẩy nhè nhẹ chúng ra hai bên để lấy lối đi. Chúng không lấy thế làm phiền mà ngoan ngoãn nhường đường cho tôi đi như một đám đông tốt bụng. Tôi nhìn xuống hồ, những bộ lông mềm mại và ấm áp cọ liên tục vào hai mắt cá chân của tôi.
Cái hồ nào cũng có hình tròn và gần như cùng một cỡ – xấp xỉ mười hai mét đường kính. Tôi tưởng chúng nông nhưng thấy nước trong và rất sâu, dường như vô đáy là khác. Và cho tới hết tầm mắt, tôi vẫn chỉ thấy các sợi tảo xanh sâu tít dưới khắp xung quanh bờ hồ. Rõ ràng lớp tảo bao phủ là rất dày.
Không thấy có gì có thể làm cho bọn chồn biển chăm chú xuống hồ đến thế, tôi đã định thôi không tìm hiểu nữa thì ỏ một cái hồ bên cạnh bỗng rộ lên tiếng sủa và kêu choe choé của chúng. Những con chồn biển đang nhảy choi choi trong một trạng thái như mê dại. Thình lình, hàng trăm con một lúc, chúng nhảy thẳng xuống hồ. Những con trên bờ chen chúc xô đẩy nhau để được ra mép nước. Một cơn điên tập thể. Ngay cả những con bé tí cũng chen ra mặt hồ, mặc kệ bố mẹ chúng cản lại. Tôi nhìn mà không thể tin vào mắt mình. Đây không phải loài chồn bình thường của sa mạc Kalahari. Chồn Kalahari không hành xử kiểu ếch nhái như thế này. Loài chồn biển này chắc chắn là một chi nhánh đặc biệt có lối sống khác hẳn.
Tôi bước ra gần hồ, chân đi chập chững, vừa đúng lúc những con chồn biển đang bơi – đúng là đang bơi thật – và mang vào bờ hàng chục con cá, mà không phải là cá nhỏ. Một số là dorado hẳn ngoi. Chúng to hơn hẳn khiến bọn chồn biển như một lũ tí hon. Không biết bọn chúng làm sao có thể bắt được những con cá lớn như thế.
Khi những con chồn biển kéo hẳn những con cá lên bờ, tôi nhận ra một điều lạ: con cá nào cũng đều đã chết, không con nào còn sống. Và vừa mới chết. Những con chồn đang bắt những con cá chết mà không phải chúng giết.
Tôi quỳ xuống ven hồ, đẩy nhiều con chồn biển đang nháo nhào và ướt nhoét sang hai bên, tôi nhúng tay xuống hồ, nước mát lạnh hơn tôi tưởng. Có một dòng chảy đưa nước lạnh từ dưới sâu lên mặt hồ. Tôi chụm tay múc nước và đưa lên miệng, tôi nhấp một ít.
Đó là nước ngọt. Thảo nào mà cá chết – vì lẽ tất nhiên là cá nước mặn sẽ chết khi rơi vào vùng nước ngọt. Nhưng bọn cá biển kia làm gì mà rơi vào những hồ nước ngọt này? Và bằng đường nào?
Tôi sang một cái hồ khác, chen chân qua đám chồn biển. Cũng là nước ngọt. Một cái hồ khác nữa. Cũng thế. Và cũng vậy ở một hồ nữa.
Tất cả chúng đều là hồ nước ngọt. Ngần ấy nước ngọt ở đâu ra? Rõ rồi: chỉ ở loài tảo này mà ra thôi. Chúng đã tự nhiên và liên tục khử muối trong nước biển, vì thế mà lõi chúng mặn và vỏ ngoài ứ đầy nước ngọt. Tôi không hỏi sao cây tảo làm thế, làm thế nào và muối kia biến đi đâu. Đầu óc tôi không thắc mắc những chuyện như vậy nữa. Tôi chỉ cười toáng lên và nhảy tùm xuống hồ. Nổi lên mặt hồ không dễ. Tôi vẫn còn rất yếu, và có quá ít mỡ trên người. Sau một thời gian dài như vậy ngoài biển khơi, da tôi đã như một tấm da bò và tóc tôi dài thượt, rối bù và bóng nhẫy như một túm giẻ đập ruồi. Linh hồn tôi cũng như thể đã bị muối ăn mòn. Cho nên, trước mặt hàng nghìn con chồn biển, tôi ngâm mình thật lâu, để cho nước ngọt làm tan đi mọi tinh thể muối đã đọng lại trên người.
Bọn chồn biển quay lại nhìn ra chỗ khác. Chúng làm động tác đó đều tăm tắp như thể chỉ có một con, tất cả chúng đều quay về một hướng trong cũng một thời điểm, rất chính xác. Tôi lên bờ xem có chuyện gì. Đó là Richard Parker. Nó khẳng định điều tôi đã nghĩ, rằng những con chồn biển này đã qua nhiều thế hệ không bị săn bắt ăn thịt nên chúng đã mất hết cả bản năng chạy trốn và không biết sợ hãi là gì. Richard Parker đi qua giữa trùng điệp chồn biển, đi đến đâu giết đến đấy, không thương tiếc mảy may, máu ròng ròng trên miệng, còn chúng, kề môi áp má với con hổ ấy, thì cứ nhảy chồm chồm lên tại chỗ như thể đang kêu, “Đến lượt tôi! Nào! Đến lượt tôi!”. Tôi sẽ còn thấy cảnh tượng ấy nhiều lần nữa. Không có gì có thể làm cho bọn chồn xao nhãng khỏi cuộc sống nhỏ bé của chúng với công việc rình ngó ven hồ và gặm nhấm tảo. Richard Parker có rướn người ngạo nghễ trước khi nhào xuống chúng với một tiếng gầm như sấm dậy hay nằm ngủ phục một cách bất cần ngay cạnh chúng, thì cũng thế mà thôi. Chúng chẳng bận tâm.
Richard Parker giết nhiều hơn cần thiết. Nó giết những con chồn biển mà nó không ăn. Trong thế giới động vật, nhu cầu giết nhiều hơn nhu cầu ăn. Sau bao nhiêu lâu không bắt mồi rồi đột nhiên có ngần ấy con mồi để bắt – bản năng săn mồi bị kiềm chế của nó đã trỗi dậy mãnh liệt để trả thù.
Nó còn ở xa tôi. Không có gì nguy hiểm, ít nhất là vào lúc này.
Sáng hôm sau, lúc nó đã đi, tôi dọn dẹp cái xuồng. Không thể để thế được nữa. Tôi sẽ không mô tả cảnh tượng hàng đống xương người và súc vật chất lẫn lộn hàng đống với xác cá và rùa trông ra sao. Tôi hất toàn bộ những đống thối tha và bẩn thỉu ấy xuống biển. Tôi không dám đặt chân xuống sàn xuồng vì sợ sẽ để lại dấu vết và Richard Parker sẽ phát hiện ra tôi là thủ phạm của sự thay đổi đó. Tôi dùng lao móc khều rác, đứng trên mui bạt, hoặc đứng dưới nước ở hai bên mạn xuồng. Không thể dùng móc để khều mùi và các vết bẩn, tôi rửa xuồng bằng cách dội từng xô nước vào nó.
Đêm đó, nó chui vào hang ổ mới sạch sẽ của nó không một lời bình luận. Mồm nó ngoạm cả một đám chồn biển, và nó nhai nuốt cả đêm.
Cả ngày hôm sau tôi chỉ ăn, uống, tắm, nhìn bọn chồn biển, đi bộ, chạy, nghỉ ngơi, và cảm thấy khoẻ hơn. Tôi chạy đã êm và không phải cố gắng, thật là sung sướng. Da dẻ tôi lành lại. Cơ thể không còn đau nhức. Nói một cách giản dị, tôi đã hồi sinh.
Tôi thám hiểm hòn đảo. Tôi cố đi vòng quanh nó. Tôi ước lượng có khoảng bốn năm cây số đường kính, tức là chu vi đảo dài chừng mười lăm cây số. Những gì tôi thấy có vẻ chỉ ra rằng đường bờ biển của đảo chỗ nào cũng giống nhau. Cùng một màu xanh biếc, cùng hướng lên một rặng đồi với một độ thoải như nhau, cùng có những cái cây đơn độc chỗ này chỗ kia để phá vỡ cái đơn điệu của phong cảnh. Khám phá bờ đảo cho tôi thấy một điều khác thường: Các đám tảo, tức chính là bản thân hòn đảo, thay đổi chiều cao và mật độ tùy theo thời tiết. Trong những ngày nóng, tảo đan bện vào nhau chặt hơn, dày hơn, và hòn đảo dâng cao hơn; trèo lên rặng đồi sẽ dốc hơn và đỉnh đồi cao hơn. Quá trình đó không diễn ra nhanh chóng. Chỉ có những đợt nắng nóng nhiều ngày mới gây ra hiện tượng ấy. Nhưng nó diễn ra rõ ràng, không thể nhầm được. Tôi nghĩ nó liên quan đến cơ chế bảo tồn nước của loài tảo này. Lúc trời nóng nắng chúng phải co cụm lại để hạn chế bề mặt bị phơi ra dưới ánh mặt trời.
Hiện tượng ngược lại – hòn đảo bị nới lỏng ra – diễn ra nhanh hơn, kịch tính hơn, và có lí do dễ thấy hơn. Những thời gian ấy, đỉnh đồi thấp hẳn xuống, thềm lục địa, là nói vậy, duỗi dài ra phía biển, và tảo ven đảo lỏng ra đến mức tôi thường bị mắc chân vào chúng. Hiện tượng lỏng đảo này xảy ra khi thời tiết âm u, và rất nhanh khi biển nổi sóng lớn.
Tôi đã qua một trận bão lớn trên đảo, và sau lần đó, tôi tin rằng có thể yên trí ở lại trên đảo ngay cả khi giông tố điên cuồng nhất. Thật đáng sợ khi ngồi trên một cái cây và nhìn những đợt sóng khổng lồ tràn vào đảo, tưởng chừng như sắp trào lên ngập hết ngọn đồi và tàn phá mọi thứ – để rồi tan đi như thể chúng đã tràn vào một vùng cát chảy. Về phương diện này thì hòn đảo là đệ tử của thánh Gandhi: Nó chống trả bằng cách không chống trả. Con sóng nào cũng tan biến đi khi tràn lên đảo, không một va chạm, không hề cả sủi bọt mọc tăm. Dấu hiệu duy nhất của con sóng tràn qua đảo chỉ là một rung động trên mặt đất và lăn tăn mặt nước hồ trong đảo. Mà quả thật những con sóng ấy tràn qua bên dưới đảo, và lại nổi lên ở phía bên kia và tiếp tục cuồn cuộn trên đại dương. Một cảnh tượng lạ lùng nhất: những con sóng từ bờ đảo ào ạt tiến ra khơi. Những trận bão như thế không hề làm phiền tí gì bọn chồn biển. Chúng cứ tiếp tục việc mình như chưa có chuyện gì xảy ra, như thể không có thế giới nào quanh chúng.
Khó hiểu hơn nữa là sự biệt lập hoàn toàn của hòn đảo. Chưa bao giờ tôi thấy một môi sinh cô đơn như thế. Không khí trên đảo không có ruồi, không bươm bướm, không ong, không có bất kì một thứ côn trùng nào. Cây không có chim, đất không có chuột, sâu bọ, rắn rết, bọ cạp; và cũng không mọc lên một thứ cây nào khác, không bụi bặm, không cỏ, không hoa. Hồ nước không có cá nước ngọt, bờ biển không rong rêu, cua cáy, không san hô, không sỏi cuội, không đá. Với một ngoại lệ duy nhất có thể thấy được là bọn chồn biển, đảo không có một ngoại vật nào khác, hữu cơ hay vô cơ cũng vậy. Nó chỉ mênh mang một loài tảo xanh biếc và một loài cây xanh biếc.
Những cái cây đó không phải kí sinh. Tôi phát hiện ra điều đó vào một ngày ăn quá nhiều tảo dưới một gốc cây và nhìn thấy bộ rễ của nó ở dưới nước. Rễ cây không mọc ra một cách độc lập từ đám tảo, mà có vẻ chính là đám tảo đó. Có nghĩa là những cái cây này sống cộng sinh với tảo, cùng nhường nhịn nhau để tồn tại, hoặc là, đơn giản hơn, chúng là một phần không thể tách rời của loài tảo. Tôi đoán có lẽ thế thì đúng hơn, vì cây không thấy ra hoa kết quả gì. Không có một sinh vật độc lập nào, cho dù cộng sinh gần gũi đến mấy với một sinh vật khác, lại nhường nhịn cả quyền sinh sản của riêng mình. Những cái lá thèm ánh sáng trời, như biểu lộ qua sự xum xuê và bản rất rộng của chúng, cũng giống như diệp lục xanh biếc, khiến tôi nghĩ rằng chúng có chức năng thu hút năng lượng cho loài tảo này. Nhưng đó chỉ là suy đoán mà thôi.
Tôi còn muốn nhắc đến một nhận xét nữa của tôi. Nó dựa vào linh tính hơn là có bằng chứng cụ thể. Là thế này: đảo ấy không phải là một hòn đảo theo nghĩa thông thường – tức là một khối đất dâng lên từ đáy đại dương – mà là một cơ thể sống trôi nổi trên mặt nước, một quả bóng nện bằng tảo với kích thước khổng lồ. Và tôi cũng đồ rằng những cái hồ kia có đáy mở liền với đại dương. Điều đó giải thích được tại sao những con dorado và những con cá biển khác đã có thể có mặt trong hồ.
Loài tảo đó xứng đáng được nghiên cứu nhiều, nhưng chẳng may búi tảo tôi đem theo mình về sau lại bị thất lạc.
Tôi đã hồi sinh, và Richard Parker cũng vậy. No nê thịt chồn biển, nó lại tăng cân, lông bắt đầu bóng mượt, và trông lại khoẻ mạnh như xưa. Nó vẫn giữ nếp quay về xuồng mỗi khi trời tối. Tôi luôn cẩn thận về trước, đánh dấu lãnh thổ của mình bằng nước giải để nó đừng quên ai là ai và cái gì là của ai. Nhưng cứ sáng mờ đất là nó đã rời xuồng và lang thang xa hơn tôi trên đảo. Hòn đảo có vẻ chỗ nào cũng giống nhau, nên tôi thường chỉ ở một chỗ. Tôi rất ít thấy nó ban ngày. Và ngày càng lo. Nó cào cấu thân cây, để lại những vết móng sâu hoắm. Tôi bắt đầu nghe tiếng gầm khàn khàn của nó, tiếng gầm trầm và giàu âm điệu như thể vàng ròng và mật ong, đồng thời buốt lạnh sống lưng như nỗi sợ sâu thẳm của tôi hoặc tiếng vỗ cánh của hàng ngàn con ong đang cuồng nộ. Việc nó động đực không làm tôi lo lắng bằng việc nó có thể cảm thấy tự tin và thoải mái trên đảo đến mức muốn đẻ con và hơn thể nữa, trong tâm lí ấy nó có thể không chịu nổi sự có mặt của một con đực khác trong lãnh thổ của mình, nhất là vào ban đêm, đặc biệt khi những tiếng gọi lứa đôi của nó không có ai trả lời.
Một hôm, tôi đang làm một cuộc tản bộ trong rừng. Tôi bước hăng hái, suy nghĩ miên man, tôi đi qua một cái cây – và gần như đâm sầm vào Richard Parker. Cả hai chúng tôi đều giật mình. Nó phì ra một hơi và chồm lên hai chân sau, ngất ngưởng ngay trên đầu tôi, những bàn chân trước to tướng của nó sẵn sàng vả xuống tôi. Tôi đứng chôn chân tại chỗ, choáng sợ đến tê liệt. Nó đứng xuống, bốn chân trên đất, rồi chạy đi. Chỉ được ba bốn bước nó đã quay phắt lại và chồm lên lần nữa, gầm gừ trong cổ họng. Tôi vẫn đứng im như tượng. Nó đi thêm ba bốn bước nữa rồi lặp lại động tác doạ nạt lần thứ ba. Khi đã yên trí tôi không có ý định làm hại nó, Richard Parker bỏ đi hẳn. Ngay lúc thở được và đã hết run, tôi ngậm cái còi và đuổi theo nó. Nó đã đi một quãng khá xa nhưng vẫn trong tầm mắt tôi. Tôi chạy thật khoẻ. Nó quay lại, thấy tôi, phủ phục xuống – rồi chạy vụt đi mất. Tôi hết sức thổi vào cái còi, mong nó vang đi thật xa như tiếng một con hổ lẻ loi.
Đêm đó khi nó nằm ngủ chỉ cách tôi sáu mươi phân ở bên dưới, tôi đã đi đến kết luận rằng mình lại phải bước vào sân khấu xiếc một lần nữa.
Khó khăn lớn nhất trong việc dạy thú là chúng chỉ biết làm theo bản năng hoặc thói quen. Không thể hi vọng chúng hiểu được những liên hệ mới bằng trí khôn, nếu những liên hệ đó không có tính bản năng. Vì vậy, việc nhồi một mối liên hệ nhân tạo vào đầu một con thú rằng nếu chúng làm một việc này, ví dụ như lăn một vòng dưới sàn, thì chúng sẽ được thưởng một cái gì đó chẳng hạn, sẽ chỉ đạt được kết quả bằng cách nhắc đi nhắc lại việc đó cho đến khi đầu óc mụ mị hết mà thôi. Đấy là một quá trình chậm chạp phụ thuộc vào may mắn cũng như công sức bỏ ra, và càng như vậy khi con thú đã lớn. Tôi đã thổi còi đến đau cả phổi. Tôi đã đấm ngực đến vếu váo tím bầm nhiều chỗ. Tôi đã hét “Ếp! Ếp! Ếp!” – ngôn ngữ của loài hổ nghĩa là “Làm đi!” – hàng ngàn lần. Tôi đã ném hàng trăm miếng thịt chồn biển cho nó mà lẽ ra tôi phải được ăn. Dạy hổ không phải dễ. Chúng ít linh động hơn so với các con thú khác thường được huấn luyện ở rạp xiếc hoặc vườn thú – sư tử biển hoặc khỉ chẳng hạn. Nhưng tôi không muốn kể công quá nhiều trong những công việc mà tôi đã làm được với Richard Parker. Cái phúc của tôi, cái phúc đã phù hộ cho tôi sống sót, là ở chỗ nó không những là một con thú còn non, mà còn là một con thú dễ uốn nắn, một con thú khiêm tốn. Tôi đang lo lắng điều kiện trên đảo có thể sẽ gây nguy hiểm cho tôi, vì với nhiều thức ăn, nước uống và không gian rộng rãi như vậy, nó sẽ trở nên thư giãn và tự tin, và ảnh hưởng của tôi với nó sẽ kém đi. Nhưng nó vẫn căng thẳng. Tôi đã hiểu nó đến mức có thể cảm thấy điều đó. Ban đêm trên xuồng, nó lục sục và ầm ĩ. Tôi nghĩ môi trường mới lạ trên đảo đã gây nên tâm trạng căng thẳng đó. Với một con thú, bất kì thay đổi nào, dù là tích cực cũng làm nó căng thẳng. Dù lí do gì đi nữa, tâm trạng căng thẳng ấy có nghĩa là nó sẽ tiếp tục sẵn sàng nghe lời, và hơn nữa, nó sẽ có nhu cầu nghe lời.
Tôi dạy nó nhảy qua một cái vòng mà tôi tự làm bằng các cành cây nhỏ. Một thủ tục đơn giản gồm bốn bước. Mỗi cú nhảy được thưởng hẳn một góc của con chồn biển. Khi nó khom người chạy lại, tôi thẳng cánh tay trái giơ cái vòng lên, cao cách mặt đất chừng chín mươi phân. Khi nó đã nhảy qua cái vòng và còn đang chạy tiếp, tôi đổi cái vòng sang tay phải, rồi vẫn quay lưng lại phía nó, tôi ra lệnh cho nó quay lại và nhảy qua vòng nữa. Đến cú nhảy thứ ba thì tôi quỳ xuống đất và giơ cái vòng lên trên đầu mình. Nhìn nó chạy thẳng vào mình lần này thật hãi hùng. Lần nào tôi cũng sợ nó sẽ không nhảy qua cái vòng nữa mà sẽ vồ lấy mình. Nhưng không hiểu sao lần nào nó cũng nhảy. Sau đó, tôi đứng dậy và tung cái vòng sao cho nó lăn như cái bánh xe. Richard Parker có nhiệm vụ chạy theo và chui vào cái vòng một lần cuối trước khi cái vòng đổ. Nó không bao giờ làm thật tốt được động tác này. Lúc thì do tôi tung cái vòng không được khéo. Lúc thì nó chạy đâm sầm vào cái vòng. Nhưng chí ít nó cũng chạy theo cái vòng, tức là chạy xa khỏi tôi. Lần nào nó cũng kinh ngạc nhìn cái vòng đổ kềnh xuống đất. Nó nhìn cái vòng rất chăm chú, như thể đó là một con dã thú chạy cùng với nó và thình lình bị ngã. Nó đứng cạnh hít ngửi cái vòng. Tôi sẽ ném cho nó phần thịt thưởng cuối cùng rồi đi chỗ khác.
Rồi thì tôi rời xuồng. Chẳng có lí do nào phải ngủ đêm chật chội như thế với một con thú ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, trong khi tôi có cả một hòn đảo. Tôi quyết định an toàn nhất là ngủ trên cây. Trong đầu tôi không bao giờ nghĩ Richard Parker sẽ luôn ngủ trên xuồng theo đúng luật định. Tôi chẳng dại gì ra khỏi lãnh địa của mình rồi ngủ trên đất, không có gì tự vệ, để rồi có lần nó sẽ tự nhiên hứng lên đi dạo một vòng ban đêm trên đảo.
Thế là một hôm tôi rời xuồng, mang theo cái lưới, một sợi dây và mấy cái chăn. Tôi tìm được một cái cây to đẹp ở ven rừng rồi quăng sợi dây qua một cái chạc thấp nhất. Tôi đã khoẻ đến mức đu được lên dây và trèo lên cây. Tôi tìm được hai cái cành chắc chắn nằm ngang và ngay cạnh nhau, tôi buộc cái lưới vào chúng. Tối hôm đó tôi quay lại cái cây.
Vừa mới gập xong mấy cái chăn để làm nệm thì tôi nghe tiếng bọn chồn biển lao xao. Tôi nhìn. Tôi rẽ cành lá để thấy rõ hơn. Tôi nhìn ra tứ phía và trông ra mãi đến tận chân trời. Tôi không thể nhìn lầm được. Bọn chồn biển đang chạy khỏi những cái hồ, không những thế, chúng chạy khỏi vùng bình nguyên và lao vào rừng. Toàn bộ dân số chồn biển đang di chuyển, lưng uốn cong và chân thoăn thoắt. Đang không biết những con vật này sẽ còn tiết lộ điều bí ẩn nào khác thì tôi giật mình nhìn thấy rằng bọn chồn biển từ cái hồ gần tôi nhất đang bu kín xung quanh và rào rào trèo lên cái cây của tôi. Thân cây biến mất dưới làn sóng chồn biển đang hăng hái xông lên. Tôi nghĩ chúng sẽ tấn công, và chợt hiểu tại sao Richard Parker đêm nào cũng quay về xuồng: Ban ngày bọn chồn biển hiền lành và vô hại, nhưng đêm đến, chúng kéo nhau thành một khối khổng lồ và có thể nghiền nát kẻ địch. Tôi vừa sợ vừa tức. Sống được lâu đến thế trên xuồng với một con hổ Bengal hàng hơn hai tạ để rồi chết trên cây bởi một lũ chồn biển chỉ nặng có một cân quả là một tấn bi kịch quá bất công và quá nực cười.
Nhưng chúng không hại gì tôi. Chúng trèo lên tôi, khắp xung quanh, và qua tôi. Chúng bu đầy các cành. Cái cây chĩu xuống. Chúng len vào giường tôi, và đâu đâu cũng là cảnh ấy. Chúng trèo lên kín tất cả cây rừng cho đến tận cùng tầm mắt của tôi. Khu rừng chuyển thành màu nâu, một mùa thu xuống trong vài phút. Tiếng động tập thể của chúng khi ào ạt chiếm lĩnh khu rừng còn ầm ĩ hơn cả một đàn voi chạy.
Trong khi đó thì vùng đất bằng trở thành trơ trọi hoàn toàn.
Từ một cái giường tầng chung với một con hổ đến một phòng ngủ chung với bọn chồn biển! Liệu có tin được không nhỉ? Cuộc sống có những đoạn bất ngờ như vậy đấy. Tôi phải chen vai thích cánh với lũ chồn biển mới giành được chỗ nằm. Chúng cứ chúi vào tôi. Không còn một centimet nào bị bỏ trống trên cây.
Chúng ổn định chỗ ngủ rồi không chí choé lao xao nữa. Cây cối im lặng dần. Chúng tôi cùng ngủ thiếp đi.
Tôi thức dậy lúc rạng ngày dưới một lớp chăn lông thú vẫn còn sống. Mấy chú chồn biển con đã phát hiện ra những chỗ ấm áp trên người tôi. Xung quanh cổ tôi là một vòng thật chặt râm rấp mồ hôi. Chắc chính là con chồn biển mẹ đang ngon lành ngủ sát bên đầu tôi. Và một con nữa đang chúi cả vào bẹn tôi.
Chúng bỏ đi nhanh chóng và chẳng có nghi thức gì, hệt như lúc chúng xâm lăng cái cây. Và cây nào cũng thế. Đất bằng lại đầy rẫy chồn biển, và tiếng động ban ngày lại tràn ngập không trung. Cây cối có vẻ trống rỗng hẳn. Và tôi cũng thấy trống rỗng, một chút thôi. Tôi đã thích cảm giác được ngủ bên cạnh chúng rồi.
Từ đó, đêm nào tôi cũng ngủ trên cây. Tôi đem những thứ hữu dụng ở xuồng ra và làm cho mình một cái phòng ngủ trên cây. Tôi quen dần với việc bị những con chồn biển cào xước một cách vô tình khi chúng trèo qua người tôi. Chỉ có một điều đáng phàn nàn, đó là những con ngủ phía trên thỉnh thoảng lại ỉa vào tôi.
Một đêm, bọn chồn biển làm tôi thức giấc. Chúng chí chóe và run cầm cập. Tôi ngồi dậy nhìn theo chúng. Trời không mây và trăng tròn. Đất không còn màu gì. Tất cả lung linh kì lạ trong những đậm nhạt khác nhau của đen, xám và trắng. Cái hồ là thủ phạm. Những hình trắng bạc đang di chuyển trên hồ, nổi lên từ dưới đáy và đập vỡ mặt nước đen ngòm.
Cá. Những con cá chết. Chúng nổi lên từ dưới sâu. Cái hồ – ta nhớ là nó rộng chứng mười hai mét đường kính – bị bao phủ dần bởi xác cá đủ loại cho đến khi mặt hồ không còn màu đen nữa mà óng ánh như bạc. Và cứ nhìn mặt hồ tiếp tục động cựa như thế thì biết rằng cá chết vẫn tiếp tục nổi lên.
Đến lúc xác một con cá mập nổi phềnh lên thì bọn chồn biển như phát rồ, tiếng kêu thất thanh của chúng nghe như tiếng của các loài chim nhiệt đới. Cơn rồi dại đó lan sang các cây xung quanh. Thật điếc tai. Tôi tưởng sắp được xem cảnh chúng lôi cá chết lên cây.
Nhưng không một con chồn biển nào rời khỏi cây để xuống hồ. Thậm chí không con nào rục rịch định trèo xuống. Chúng chỉ to mồm kêu la như vậy mà thôi.
Cảnh ấy có cái gì rất khó hiểu. Những con cá chết kia có cái gì đó làm cho ta cảm thấy bất ổn.
Tôi nằm xuống và cố ngủ lại trong tiếng ầm ĩ của bọn chồn biển. Vừa sáng ra tôi đã giật mình tỉnh dậy vì tiếng ầm ĩ khi chúng ào ạt kéo nhau đi. Vừa ngáp vừa vươn vai, tôi nhìn ngay xuống hồ, nguyên nhân của mọi chuyện náo loạn hôm qua.
Những con cá đã biến mất. Tôi ngạc nhiên quá. Hay là tôi nhìn nhầm cái hồ khác? Không phải, rõ ràng là cái hồ này. Chắc chắn không phải bọn chồn biển đã dọn sạch chỗ xác cá kia. Nhất là con cá mập. Chúng không thể có sức kéo con cá mập ấy lên bờ, chứ đừng nói gì đến chuyện cõng nó đi đâu. Hay là Richard Parker. Cũng có thể một phần. Nhưng không thể cả một cái hồ đầy nhóc như vậy trong một đêm!
Một bí ẩn hoàn toàn. Có nhìn mãi xuống hồ và mép nước sâu xanh thăm thẳm của nó đến bao lâu, tôi cũng không tìm thấy gì có thể giải thích được chuyện đã xảy ra với những con cá kia. Đêm hôm sau, tôi nhìn mãi, nhưng chẳng có con cá nào lọt vào hồ.
Điều bí ẩn ấy ít lâu sau tôi mới giải thích được, từ trong rừng sâu.
Cây cối to hơn ở giữa rừng, và mọc sít nhau hơn. Dưới gốc chúng quang quẻ hoàn toàn, không có một thứ bụi rậm nào, nhưng trên ngọn cây thì các tán lá của chúng dày đặc đến mức che hết cả trời, hoặc nói cách khác, chỉ còn một màn trời xanh lá cây đặc sịt. Cây mọc sát vào nhau đến mức cành lá chúng đan lẫn vào nhau, xoắn xuýt vào nhau, không còn ranh giới. Tôi để ý đến các thân cây đều nhẵn nhụi và sạch sẽ, không có một dấu vết bị cào xước nào. Tôi đoán ngay rằng bọn chồn biển kia toàn chạy trên các ngọn cây rậm rạp kia và không phải trèo lên đó từ dưới gốc. Bằng chứng tôi tìm được là những vết chân chồn biển cào nát thân cây khác mọc ở quanh khu vực giữa rừng. Rõ ràng đó là cổng ngõ để bọn chồn biển trèo lên cái thành phố trên ngọn cây với những chen chúc còn hơn cả ở Calcutta.
Cũng chính tại đó tôi tìm thấy được cái cây. Nó không phải là cái cây to nhất rừng, hoặc mọc chính giữa rừng, hoặc có một cái gì đặc biệt khác. Nó chỉ có những cành to khỏe phần nhiều mọc ngang thành những tán bằng phẳng. Chỉ có vậy. Nó là một chỗ tuyệt vời để nhìn trời hoặc quan sát cuộc sống ban đêm của bọn chồn biển.
Tôi có thể nói chính xác ngày nào tôi đã tìm ra cái cây ấy: một ngày trước khi tôi rời bỏ hòn đảo.
Tôi đã chú ý đến cái cây vì nó có vẻ có quả. Trong lúc tất cả tán rừng đều xanh mướt như nhau, những quả của cái cây này nổi bật lên, màu đen trên nền xanh của lá. Những cành có quả vặn vẹo một cách khác thường. Tôi nhìn chăm chú. Cả hòn đảo toàn những cây vô sinh, thế mà lại có một cây có quả. Mà cũng chỉ ra quả ở một chỗ nhỏ hẹp trên cây. Tôi tưởng mình đã gặp một cái cây có vai trò như một con ong chúa của khu rừng, và tự hỏi không biết loài tảo này còn có những điều kì lạ nào khác nữa.
Tôi muốn nếm thử quả. Do vậy tôi trở lại với một sợi dây. Tảo ăn ngon, không biết quả có mùi vị thế nào?
Tôi treo sợi dây xung quanh cành thấp nhất của cây, từng cành một, từng nhánh một đưa tôi đến với vườn quả nhỏ và quý giá đó.
Đến gần thì quả có màu xanh lá cây xỉn. Chúng to và có hình dáng như cam. Quả nào cũng nằm giữa một số cánh lá xoắn xuýt và cuộn tròn xung quanh, chắc là để bảo vệ nó. Đến gần hơn, tôi nhận ra một lí do nữa: chính những cành lá xoắn xuýt ấy nâng lấy quả. Mỗi quả có không phải chỉ một mà là rất nhiều cuống. Bề mặt quả chi chít những cuống nối nó vào các cành xung quanh. Quả này chắc hẳn rất nặng và nhiều nước đây, tôi nghĩ, và tôi trèo lên gần nữa.
Tôi với tay cầm một quả, và thất vọng thấy nó nhẹ bỗng. Hầu như không có tí trọng lượng nào. Tôi kéo tay bứt nó ra khỏi các cuống.
Tôi ngồi lại cho thoải mái trên một cành chắc chắn, dựa lưng vào thân cây. Trên đầu tôi là một mái lá xanh xao để lọt qua những tia nắng thẳng tắp. Khắp xung quanh, đến tận tít tắp, là những con đường xoắn xuýt của một thành phố treo lơ lửng trong không trung. Một làn gió nhẹ luồn qua các ngọn cây. Tôi tò mò lắm, và bắt đầu xem kĩ cái quả trong tay.
Chao ôi, ước gì giây phút ấy không bao giờ đến với tôi! Nếu không có nó thì có lẽ tôi đã sống hàng nhiều năm nữa – có khi còn đến hết cả đời – trên hòn đảo ấy. Không có gì, tôi nghĩ, có thể đẩy tôi về xuồng và trở lại những gian truân nhục nhã mà tôi đã từng phải chịu đựng trên đó – không có gì! Tôi có lí do gì để rời bỏ đảo? Các nhu cầu vật chất của tôi chẳng phải đã được đáp ứng chu toàn ở đây sao? Chẳng phải tôi đang có thể uống nước thả cửa cho đến hết đời sao? Có thừa thãi tảo ăn đấy sao? Nếu hòn đảo nổi thật và di chuyển thật, biết đâu nó chẳng trôi theo đúng hướng tôi mong ước? Biết đâu nó chẳng là con tàu cây cỏ đưa tôi vào đến đất liền? Trong khi ấy, chẳng phải tôi đã có bọn chồn biển làm bạn đó sao? Rồi chẳng phải Richard Parker vẫn còn cần phải cải thiện cú nhảy thứ tư ấy của nó hay sao? Từ hôm lên đảo, chưa bao giờ tôi thoáng nghĩ đến chuyện phải rời nó mà đi. Đã nhiều tuần lễ trôi qua – tôi không thể nói chắc bao nhiêu tuần – và sẽ còn kéo dài mãi mãi. Tôi biết chắc như vậy.
Tôi đã nhầm to.
Nếu quả đó có hạt thì đó là cái hạt ra đi của tôi.
Cái quả ấy không phải là quả. Nó là một túm là cây dày đặc gắn với nhau thành hình một quả bóng. Mỗi cái cuống ấy là một cái cuống lá. Bứt một cái cuống là tôi lôi ra một cái lá.
Sau mọt vài lớp thì vào đến những cái lá đã mất cuống và được dán sát vào trái bóng. Tôi dùng móng tay gậy rồi bóc chúng ra. Từng lớp lá bong ra, như vỏ hành. Đáng lẽ tôi chỉ việc xé toạc cái vỏ đó ra – tôi vẫn gọi là quả bởi chẳng có từ gì khác hay hơn – nhưng tôi muốn thoả mãn tính tò mò của mình theo từng liều nhỏ.
Nó nhỏ dần. Từ quả cam thành quả quýt. Những vỏ lá mỏng rơi đầy quanh tôi.
Bây giờ thì nó chỉ còn bằng một quả bồ quân.
Tôi vẫn còn lạnh xương sống khi nghĩ đến nó.
Chỉ còn bằng một quả anh đào.
Rồi nó hiện nguyên hình, một viên ngọc trai trong lòng một con sò xanh lá cây.
Một cái răng người.
Nói chính xác nó là một cái răng hàm trong. Lớp men răng đã sạm xanh và thủng lỗ chỗ.
Cảm giác kinh hoàng đến một cách từ từ. Tôi vẫn có thời gian hái một quả khác.
Quả nào cũng chứa một cái răng.
Một cái răng nanh.
Quả nữa có một cái hàm ngoài.
Đây thì là một cái răng cửa.
Rồi một cái hàm răng nữa.
Ba mươi hai cái răng. Đủ một bộ răng người. Không thiếu cái nào.
Tôi chợt hiểu ra.
Tôi không thét lên. Tôi nghĩ chỉ có trong phim rừng rợn thì sợ hãi mới to mồm mà thôi. Tôi chỉ rùng mình và rời bỏ cái cây ấy.
Cả ngày hôm ấy, đầu óc tôi quay cuồng, suy tính hết các phương án lựa chọn. Cái nào cũng tồi tệ cả.
Đên đó, nằm ở cái giường trên cây quen thuộc, tôi thử lại kết luận của mình xem có đúng không. Tôi tóm một con chồn biển và thả cho nó rơi xuống đất.
Nó kêu choe chóe trong khi rơi xuống. Và vừa mới rơi thịch xuống đấy nó đã lập tức trèo ngay lên cây.
Với điệu bộ ngây thơ điển hình, nó lại leo về chỗ bên cạnh tôi, rồi bắt đầu cuống quýt liếm các bàn chân. Có vẻ rất khó chịu, nó nặng nề thở dốc.
Đáng lẽ thế là đủ. Nhưng tôi muốn tự mình thử nghiệm. Tôi trèo xuống và nắm chắc một đầu dây. Tôi đã buộc nút từng đoạn để trèo cho dễ. Khi đã xuống đến gốc cây, tôi thò một chân xuống đất, bàn chân cách mặt đất chừng vài phân. Tôi do dự.
Rồi tôi đặt chân xuống đất.
Đầu tiên chẳng cảm thấy gì. Nhưng rồi thình lình tôi thấy đau nhói dữ dội xuyên lên từ dưới lòng bàn chân. Tôi rú lên, tưởng mình sẽ ngã lộn cổ. Nhưng tôi vẫn bám được vào sợi dây và kéo được mình lên khỏi mặt đất. Tôi cuống cuồng đạp lòng bàn chân và cọ xát chúng vào thân cây. Nó có đỡ nhưng không ăn thua. Tôi leo trở lại chỗ mình. Tôi nhúng chân vào xô nước để cạnh giường. Tôi lau chân bằng lá cây. Tôi lấy dao giết hai con chồn biển và thử làm dịu cơn đau bằng máu cùng lòng ruột của chúng. Nhưng hai bàn chân tôi vẫn cháy bỏng. Chúng đau rát suốt đêm đó. Tôi không thể ngủ nổi, vừa đau vừa sợ.
Đó là một hòn đảo ăn thịt. Chính vì thế mà những con cá chết biển mất trong hồ. Hòn đảo nhử các con cá biển vào các đường hầm ngầm của nó, bằng cách nào tôi không biết. Có thể là cá cũng thích ăn tảo như tôi. Và chúng mắc vào bẫy. Vì lạc đường chăng? Vì các lối thông với biển bị đóng lại chăng? Hay là độ mặn của nước thay đổi từ từ đến mức khi chúng biết mình đang bơi trong nước ngọt thì đã quá muộn rồi? Gì đi nữa, những con cá ấy đã mắc trong nước ngọt và chết. Một số dềnh lên mặt hồ. Những con cá nhỏ sẽ bị chồn biển ăn. Trong đêm, một quá trình hoá học nào đó sẽ diễn ra – nó không diễn ra dưới ánh sáng mặt trời – và loài tảo săn mồi ấy tiết ra một loại axít đậm đặc, khiến cho những hồ thành những hồ axít làm tiêu hết xác cá. Đó chính là lí do Richard Parker trở về xuồng hàng tối. Đó chính là lí do bọn chồn ngủ trên cây. Đó chính là lí do tôi không thấy loài gì khác trên đảo ngoài tảo.
Chuyện đó cũng giải thích được những cái răng người ở đâu mà ra. Trước tôi, đã có một kẻ khốn khổ nào đó dạt vào đảo, không biết anh ta – hay chị ta? – đã ở trên đảo bao lâu? Nhiều tuần? Nhiều tháng? Nhiều năm? Có bao nhiêu giờ phút cô đơn trên thành phố ngọn cây, chỉ có chồn biển là bạn? Bao nhiêu giấc mơ về một cuộc sống hạnh phúc đã tan vỡ? Bao nhiêu hi vọng đã tiêu tan? Bao nhiêu cuộc trò chuyện chưa nên lời đã im lặng? Bao nhiêu đơn côi đã phải chịu đựng? Bao nhiêu thất vọng đã phải chấp nhận? Và sau tất cả những cái đó là gì? Có cái gì còn lại.
Chẳng có gì cả, ngoài một chút men răng, như một đồng xu lẻ trong túi. Người ấy chắc hẳn đã chết trên cây. Vì ốm chăng? Vì bị thương chăng? Buồn nản quá chăng? Cần có bao lâu để một linh hồn tan nát giết chết một cơ thể có đầy đủ đồ ăn, thức uống và một chốn nương thân? Những cái cây cũng ăn thịt, nhưng ở một mức độ axít thấp hơn, vẫn an toàn qua đêm trong khi cả hòn đảo sôi lên sùng sục. Nhưng khi người ấy đã chết và chỉ còn là một cái xác bất động, cái cây đã từ từ bọc lấy cái xác ấy và tiêu hoá nó. Xương cốt bị bòn rút hết các chất dinh dưỡng cho tới khi chúng tan biến đi. Với thời gian, thì rồi tất cả những cái răng ấy cũng sẽ tan biến đi.
Tôi nhìn khắp xung quanh. Một nỗi đắng cay dâng lên trong lòng. Những hứa hẹn tưng bừng của nó lúc ban ngày biến mất, trong lòng tôi chỉ còn lại sự phản trắc của nó vào ban đêm.
Tôi thầm thì, “Chỉ còn lại răng! Những cái răng!”
Đến khi rạng sáng thì tôi đã quyết định xong. Tôi thà ra đi và mất mạng trong cuộc sống đồng loại còn hơn sống nửa đời nửa đoạn trong cuộc sống đầy đủ vật chất và chết chóc tinh thần trên hòn đảo giết người này. Tôi đổ đầy các bình nước dự trữ và uống như một con lạc đà. Tôi ăn tảo suốt cả ngày cho đến khi bụng không còn chứa được nữa. Tôi giết và lột da chồn biển cho đến lúc chất đầy tủ và đầy sàn xuồng. Tôi thu hoạch cá trên hồ. Với cái rìu, tôi chặt lấy một khối tảo lớn và luồn dây qua nó buộc vào xuồng.
Tôi không thể bỏ Richard Parker. Bỏ nó lại tức là giết chết nó. Nó sẽ không qua được ngay đêm đầu tiên. Còn một mình trên xuồng lúc mặt trời lặn, tôi sẽ biết rằng nó đang bị thiêu chết bằng axít. Hoặc giả sẽ phải nhảy xuống biển và rồi chết đuối. Tôi đợi nó về. Tôi biết nó sẽ không về muộn.
Khi nó đã ở trên xuồng, tôi đẩy xuồng ra khỏi đảo. Trong vài tiếng đồng hồ, nước ròng giữ chúng tôi quanh quẩn đảo. Tiếng động của biển khơi khiến tôi khó chịu. Tôi đã hết quen với những lắc lư của xuồng. Đêm đó qua đi chậm chạp.
Đến sáng thì không thấy hòn đảo nữa, và cả khối tảo tôi đã buộc vào ở sau xuồng. Khi đêm xuống, những sợi tảo đã ăn đứt sợi dây bằng chất axít của nó.
Trời lặng, biển xám.

Chương 91

Tôi đã phát mệt với hoàn cảnh của mình, nó vô nghĩa như thời tiết vậy. Nhưng cuộc sống không rời bỏ tôi. Phần còn lại của câu chuyện này chẳng có gì hết ngoài buồn khổ, đớn đau, và chịu đựng.
Cao gọi thấp và thấp gọi cao. Nếu trong hoàn cảnh bĩ cực của tôi, chắc ai cũng có những ý nghĩ cao cả. Càng xuống thấp thì tinh thần ta càng muốn bay bổng. Cũng là tự nhiên thôi, khi đau buồn và thất vọng như thế, và phải chịu đựng liên miên như thế, tôi đã hướng về Thượng đế.

Chương 92

Khi chúng tôi tới được đất liền, chính xác là vào tới Mexico, tôi đã kiệt sức đến nỗi không thể vui mừng được nữa. Chúng tôi cập bờ rất khó khăn. Chiếc xuồng tí nữa thì bị sóng lật úp. Tôi thả cho dây neo nổi – những gì còn lại của nó – dài hết cỡ để giữ cho xuồng vuông góc với sóng, rồi rút lại ngay khi chúng tôi trèo lên đỉnh sóng. Làm như vậy, hết thả lại rút dây neo, chúng tôi cưỡi sóng vào bờ. Nguy hiểm lắm. Nhưng chúng tôi đuổi kịp một con sóng ở đúng vị trí tốt nhất và nó đưa chúng tôi vào được một quãng xa, vượt qua được những bức tường nước cao ngất đang đổ xuống. Tôi rút dây một lần cuối và chúng tôi được sóng đánh dạt lên bờ. Cái xuồng kêu rít lên rồi khựng lại trên cát.
Tôi thả người xuống hai bên cạnh xuồng. Tôi sợ không dám buông tay khỏi xuồng, nghĩ rằng mình có thể chết đuối trong sáu mươi phân nước còn lại giữa tôi và cuộc sống ở ngay kia. Tôi nhìn xem mình sẽ phải đi bao xa. Cái nhìn ấy khiến tôi bắt gặp những hình ảnh cuối cùng của Richard Parker, bởi lẽ chính giây phút đó, nó nhảy vọt lên. Tôi thấy thân hình nó, đầy sức sống vô biên, duỗi căng ra trên đầu tôi như một luồng cầu vồng. Nó rơi xuống nước, hai chân sau dạng ra, đuôi vẫy cao, và từ đó, sau một vài đập chân và lóp ngóp bơi, nó vào đến bờ. Nó đi sang trái, bàn chân khoét lõm dưới cát ướt, nhưng lại đổi ý và quay vòng lại.
Nó đi sát qua trước mặt tôi về phía phải. Nó không nhìn tôi. Nó chạy khoảng một trăm mét gì đó dọc bờ biển rồi quay vào trong. Điệu bộ nó vụng về và thiếu phối hợp nhịp nhàng. Nó ngã nhiều lần, đến ven rừng thì nó đứng lại. Tôi chắc mẩm nó sẽ quay về phía mình. Nó sẽ nhìn tôi. Nó sẽ cụp tai. Nó sẽ gầm gừ. Kiểu gì cũng được, nó sẽ giã biệt tôi. Nhưng nó chẳng làm gì như thế. Nó chỉ nhìn vào khu rừng. Rồi Richard Parker, bạn đồng hành với nỗi khổ đau của tôi, con vật dữ tợn, đáng sợ, đã giữ cho tôi sống được đến bây giờ, cứ thế bước tiếp và mãi mãi biến mất khỏi cuộc sống của tôi.
Tôi gắng sức bước lên bờ và ngã xuống cát. Tôi nhìn quanh. Tôi chỉ có một mình, mồ côi cả gia đình và cả Richard Parker, và gần như cả với Thượng đế nữa, tôi nghĩ vậy. Tất nhiên, tôi không mồ côi. Bãi biển ấy thật mềm mại, rắn chắc và mênh mang, giống như một bên má của Thượng đế, và ở đâu đó, hai con mắt sáng long lanh vì sung sướng, với một cái miệng đang mỉm cười vì đã thấy có tôi ở đó.
Sau mấy tiếng đồng hồ, một thành viên đồng loại của tôi đã thấy tôi ở đó. Anh ta bỏ đi rồi quay lại với cả một nhóm. Sáu bảy người gì đấy. Họ đến gần tôi, tay bịt mũi bịt miệng. Tôi hoang mang không biết họ làm sao. Họ nói với tôi bằng một ngôn ngữ lạ. Họ kéo cái xuồng trên cát. Họ khiêng tôi đi. Miếng thịt rùa tôi đem từ xuồng lên bị họ giật ra khỏi tay rồi ném đi.
Tôi khóc như một đứa trẻ. Không phải vì đã qua cơn khổ nạn, mặc dù thế. Cũng không phải vì thấy lại các anh chị ấy, mặc dù điều này cũng thật cảm động. Tôi khóc là vì Richard Parker đã từ bỏ tôi không một cử chỉ nào cho phải phép. Thật khủng khiếp phải chia tay như thế. Tôi là người tin vào hình thức, vào sự hài hoà của trật tự. Khi có thể được, chúng ta nhất thiết phải tạo ra được dáng dấp có ý nghĩa cho mọi vật. Ví dụ – tôi nghĩ – liệu câu chuyện của tôi có thể viết lại với đúng một trăm chương thôi, không hơn, không kém? Phải nói rằng, có một thứ trong cái biệt hiệu Pi của tôi mà tôi rất ghét, ấy là con số đó dài vô tận. Cái quan trọng ở đời là kết thúc mọi thứ cho chỉn chu. Có thế ta mới yên tâm mà đi được. Nếu không thì lúc nào ta cũng đầy những lời muốn nói mà chẳng bao giờ nói, và lòng ta sẽ nặng trĩu ân hận. Cuộc giã biệt không phải phép ấy đến giờ vẫn làm tôi đau đớn. Ước gì tôi đã nhìn nó lần cuối lúc còn ở trên xuồng, đã kích động thế nào đó để hình ảnh tôi còn lưu lại trong đầu nó. Uớc gì tôi đã nói với nó lúc ấy – vâng, đúng thế, nói với một con hổ – ước gì tôi đã bảo nó “Richard Parker, xong rồi, chúng ta sống rồi. Mày có tin không? Tao không thể nói hết lòng tao biết ơn mày. Không có mày thì tao đã hỏng rồi. Tao muốn nói một cách chính thức rằng tao cảm ơn mày, Richard Parker ạ. Cảm ơn mày vì đã cứu mạng tao. Và bây giờ mày hãy đi đến một nơi mày phải đến. Mày đã biết đến cái tự do trong khuôn khổ một vườn thú gần hết cả cuộc đời; giờ đây, mày sẽ biết cái khuôn khổ tự do của một khu rừng. Tao chúc mày may mắn. Hãy đề phòng con người. Nó không phải bạn mày. Nhưng tao hi vọng mày sẽ nhớ đến tao như một người bạn. Tao sẽ không bao giờ quên mày, đó là điều chắc chắn. Mày sẽ luôn ở bên tao, trong trái tim tao. Có tiếng gì thế? A, xuồng chúng ta cập bờ rồi. Thôi, xin giã biệt Richard Parker, xin giã biệt. Cầu xin Thượng đế luôn ở bên mày.”
Những người tìm thấy tôi đem tôi về làng họ, và ở đó, mấy người đàn bà đã tắm, kì cọ tôi mạnh đến nỗi tôi sợ có thể họ nghĩ tôi là một thằng bé da trắng bẩn thỉu chứ không phải là một đứa da nâu. Tôi cố giải thích điều ấy. Họ gật đầu, mỉm cười, rồi lại tiếp tục kì cọ tôi như thể tôi là một cái sàn tàu.
Tôi tưởng họ sắp lột sống da tôi. Nhưng họ cho tôi ăn. Ngon lắm. Khi đã bắt đầu ăn, tôi không thể ngừng lại được. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ hết đói.
Hôm sau có một cái xe cảnh sát đến và mang tôi vào một bệnh viện, và câu chuyện của tôi chấm dứt ở đấy.
Tôi cảm kích vô cùng vì sự hào phóng của những người đã cứu tôi. Người nghèo cho tôi quần áo và thức ăn. Các bác sĩ và hộ lí chăm sóc tôi như thể tôi mãi mãi là một đứa hài nhi.
Các quan chức Mexico và Canada tất cả đều mở rộng cửa cho tôi, đến nỗi từ bờ biển Mexico ấy đến gia đình mẹ nuôi tôi, rồi đến những lớp học trong đại học Toronto, tất cả là một hành lang rộng rãi và dễ dàng mà tôi chỉ việc đi theo. Tôi xin được gửi đến tất cả họ những lời cảm tạ chân thành của tôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét