Mụ quỷ
già dạo chơi trong rừng, gùi đứa con trên lưng trong một chiếc giỏ bằng vỏ cây.
Quỷ con trông thật thô kệch và xấu xí, tóc dựng đứng và cứng như lông lợn rừng,
răng nhọn hoắt và đầu ngón tay không có móng mà lại có vuốt. Song quỷ mẹ vẫn
thấy nó thật xinh xẻo.
Mụ đi
tới một quãng rừng thưa. Tại đây có một con đường bị rễ cây đâm lồi lõm, gồ ghề
chạy băng qua và trên đường, một nông dân đang cùng vợ cưỡi ngựa đi tới.
Sukhov còn lâu mới hết hạn tù - đông này qua đông khác, hè nọ
sang hè kia, nhưng những tấm thảm đó vẫn làm anh mệt óc không ít. Một công việc
thật thích hợp với anh, nếu như anh mang án và mất quyền công dân, chẳng đâu
người ta nhận, mà cũng không được phép về lại làng nữa. Khi ấy anh viết thư hỏi
vợ, liệu anh có thể trở thành thợ vẽ thảm được không, khi chẳng có lấy một tí
khiếu vẽ nào? Mà thảm ấy là loại gì mà xôm vậy, vẽ bằng gì và vẽ cái gì trên
đó? Vợ anh trả lời rằng chỉ có những thằng đần thối mới không vẽ được thôi: chỉ
việc đặt khuôn lên vải, rồi lấy bút lông chấm chấm sơn vào những cái lỗ nhỏ
trên đó. Thảm có ba loại. Loại thứ nhất là loại “Tam mã” - vẽ một cỗ xe đẹp ba ngựa kéo, cầm cương là một
sĩ quan kị mã. Loại thứ hai vẽ tranh con hươu. Loại ba - mô phỏng thảm Ba Tư.
Chả còn loại nào khác, nhưng thế cũng đủ làm thiên hạ lóa mắt, tranh cướp nhau,
làm không kịp bán. Là bởi vì thảm thật không phải năm mươi, mà hàng nghìn rúp.
Vào năm giờ sáng, như thường lệ,
hiệu lệnh báo thức vang lên - tiếng búa đánh vào thanh tà vẹt treo cạnh sở chỉ
huy. Tiếng kẻng rè ngắt quãng, yếu ớt vọng qua lớp kính băng đóng dầy đến hai
đốt ngón tay, chẳng bao lâu đã im bặt: trời rét nên viên giám thị cũng chẳng
buồn vung tay lâu làm gì.
Tôi có ông anh, năm hết tết đến
ổng làm một bài thơ thật hay. Trong bài gi gỉ gì gi gì cũng có. Nhưng có một
cái quan trọng (có thể là quan trọng nhất với đàn ông!) thì
không thấy ổng đề cập.